NGỌC NHƯỢN THANH 1906-1985 Quang Minh biên soạn |
- LAI LỊCH NGÀI NGỌC ĐẦU SƯ NGỌC NHƯỢN THANH
- GIAI ĐOẠN SAU 30-4-1975
- ĐIẾU THI
- THI CỦA NGÀI NGỌC NHƯỢN THANH SÁNG TÁC
- VÀI CÔNG VĂN CỦA NGÀI ĐẦU SƯ NGỌC NHƯỢN THANH
CHƯƠNG I
LAI LỊCH NGÀI NGỌC ĐẦU SƯ NGỌC NHƯỢN THANH
Có thể phân tích tiểu sử Ngài Ngọc Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh ra 3 giai đoạn:
I. GIAI ĐOẠN THỨ I:
a. Buổi thiếu thời: Sanh trưởng trong gia đình Nho Phong, Ông Bùi Đắc Nhượn chào đời hồi 10 giờ đêm mùng 10-5 Bính Ngọ (1906) tại làng An Hòa, Tổng Ninh Hạ, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, con thứ của cụ Bùi Đắc Vị và cụ Bà Nguyễn Thị Bích.
Cụ Ông là một Nho học uyên thâm, lúc sinh thời mở trường dạy chữ Nho, lại cũng là danh y trong nghề thuốc Bắc.
Các cụ thân sinh của cụ Ông cũng như cụ Bà đều là những bực chân tu, đồng được thọ phong chức LÃO SƯ, một phẩm Chức Sắc tối cao của Đạo Minh Sư, vì nghĩa bạn thâm giao và nâng tình đồng Đạo nên hai cụ Lão Sư mới kết nghĩa thông gia. Do đó cụ Ông và cụ Bà cũng qui y theo cha mẹ, thuộc gia đình Phật Giáo Minh Sư.
Cụ Ông và cụ Bà chung sống với nhau hạ sanh được 10 người con: 9 trai và một gái.
Vừa lúc con khôn lớn, Cụ Ông cho các con theo học truờng Khổng Mạnh. Khi Âu học thịnh hành, chánh phủ Pháp cấm và cho đóng cửa trường dạy chữ Nho của Cụ Ông nên Cụ Ông mới cho con theo đời Âu học.
Năm 1918, ông Bùi Đắc Nhượn là con thứ sáu của gia đình mới ra tùng học vỡ lòng tại trường Trảng Bàn cho đến năm 1922 thì đậu vào trường tỉnh Tây Ninh.
Cuối năm 1922, cụ thân sinh qua đời.
Cách một tháng sau, bà ngoại Tổ liễu Đạo.
Qua năm 1924, bà thân mẫu thất lộc.
Sớm mồ côi cha mẹ, nhờ người anh cả châm nom cho tiếp tục ăn học cho đến thành tài (anh cả là ông Phối Sư Thượng Tước Thanh).
Năm 1925 thì đổ văn bằng Sơ Học và đậu học bổng vào trường bổn quốc “Chasseloup Laubat” Saigon. Nha học chánh gởi học bổng nội trú nơi trường trung học Cần Thơ trong lúc còn thọ 3 cái tang của Bà Ngoại và cha mẹ. Thật là đau buồn cho thân phận sớm mồ côi, trước khi nên danh phận để được đáp đền công dưỡng dục sanh thành.
Với thiên tư sẵn có và chí công theo dõi sách đèn nên năm 1930 thì đổ văn bằng Thành Chung (Diplome d’Etudes Supériense Franco-Insigènes: DEPSI) kế thi tuyển đậu vào trường Đại Học Công Chánh Hà Nội.
Nhưng chưa kịp đi Hà Nội nhập học thì gặp kinh tế khủng hoảng, chánh phủ đóng cửa hết các trường đại học trong nước, nên việc nhập học bị đình chỉ. Thấy việc học nữa không được, anh Cả lo lập gia đình, kết bạn với cô Võ Thị Nam con út của Cụ Võ Thiện Giáo và Bà Nguyễn Thị Lắm. Cụ giáo là Chánh Cai Tổng ở làng Mỹ Bình, Tổng An Hạ quận Thủ Thừa, tỉnh Tân An.
b. Bước vào trường đời:
Ông Bà sanh đặng 10 con: 6 trai, 4 gái. Vì chạy loạn lúc cách mạng 1945 nên bỏ hết 3 trai, 3 gái và hiện còn 3 trai 1 gái:
1.Trưởng Nam Bùi Đắc Sử: Đậu Tú Tài tòan phần, thọ phẩm Giáo Hữu Phái Thượng.
2.Thứ Nữ Bùi Thị Ký: Giáo Sư Trung Học Tư Thục Đức Trí Tây Ninh.
3.Thứ Nam Bùi Đắc Chương: Tốt nghiệp trường Sư Phạm Quốc Gia Sài gòn, biệt phái đảm nhiệm Trưởng Ty Xã Hội Tây Ninh.
4.Thứ Nữ Bùi Ngọc Yến: Tốt nghiệp Cữ Nhân Văn Khoa, Giáo Sư trường Nữ Trung Học Công Lập Tây Ninh.
Lập gia thất thì phải lo phần sanh kế nên năm 1932 đến 1934 ông Nhượn dạy trường Trung Học Tư Thục Hoàng Tỷ, đại lộ Kítchener Saigon.
Năm 1934-1936 dạy Trung Học Tư Thục Chấn Thanh của ông Phan Bá Lân, dòng dõi của nhà cách mạng Phan Đình Phùng tại đại lộ Marchaise Saigon.
Năm 1937-1939 làm quản lý Depot rượu của Hảng Đông Pháp Công Ty, đại lộ Paris (Chợ Lớn).
Năm 1940, thôi làm việc trở về làng làm nghề nông và làm nhà máy xay lúa.
II. GIAI ĐOẠN THỨ HAI:
a. Bước vào đường Đạo:
Khi Đức Chí Tôn khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại chùa Gò Kén Tây Ninh, tòan thể anh em trong gia quyến đều nhập môn làm đệ tử Thầy và tự nguyện phế đời hành Đạo.
1. Anh thứ hai Bùi Tấn Tước (Thượng Tước Thanh) đắc phẩm Chánh Phối Sư Phái Thượng.
2. Anh thứ ba Bùi Văn Tứ ( Ngọc Tứ Thanh) đắc phẩm Phối Sư Phái Ngọc. Ông cũng là thân sinh của Giám Đạo Bùi Quang Cao.
3. Anh thứ tư Bùi Văn Tác đắc phẩm Phối Sư Phái Thái.
4. Anh thứ năm là Bùi Quang Chiếu đắc phẩm Phối Sư Phái Ngọc.
5. Thứ sáu Bùi Đắc Nhượn đắc phẩm Đầu Sư Phái Ngọc.
6. Thứ bảy Bùi Văn Khãm qui vị lúc 23 tuổi.
7. Em thứ tám Bùi Đắc Hùng, thọ chức Hiền Tài Ban Thế Đạo.
8. Em thứ chín Bùi Đắc Cấn , thọ chức Thông Sự.
9. Em thứ mười tên Bùi Hương Nhường, thọ phẩm Giáo Hữu.
10. Em út Bùi Cung Kỉnh, thọ phẩm Luật Sự Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài, qui vị năm 1944, được truy thăng Truyền Trạng, là Nghĩa Tế của Đức Hộ Pháp (chồng Cô Ba Phạm Hồ Cầm).
Ông Nhượn nhập môn ngày rằm tháng giêng năm Đinh Mão (1927) tại chùa bà Quan, làng Lộc Giang, tỉnh Chợ Lớn, lúc còn là học sinh nội trú làng Trung Học Công Lập Cần Thơ.
Năm 1944, đắc cử Chánh Trị Sự Phổ Tế, Tộc Đạo Thủ Thừa, Châu Đạo Tân An, bắt đầu tham gia hiệp tác hãng tàu Nitinan do Đại Biểu Trần Quang Vinh lãnh Đạo.
Tháng 5 năm Bính Tuất (1946) nạp lai lịch xin dự sổ cầu phong Lễ Sanh.
b. Từ chối quyền đời:
Đến tháng 7 năm Bính Tuất được Việt Minh mời họp tại làng Nhơn Thanh Trung, tỉnh Tân An; đại diện các đòan thể và tôn giáo bỏ thăm bầu làm Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Chánh Tỉnh Tân An. Ông tự xét mình đã nạp hồ sơn cầu phong tức là đã trọn hiến thân phế đời hành Đạo rồi, không thể bỏ đường lối tu hành giáo dân qui thiện để ra lãnh Đạo quốc dân trong tỉnh, nên từ chối không dám lảnh chức Chủ Tịch. Do đó bị Việt Minh bắt giữ 2 ngày, may mắn thoát thân ra được rồi về luôn Tòa Thánh làm công quả ở Lại Viện để chờ đợi Đại Hội Nhơn Sanh.
III.GIAI ĐOẠN THỨ BA:
a.Phế đời hành Đạo:
Tháng 11 năm Bính Tuất (1946) ông Nhượn được Hội Nhơn Sanh công nhận vào hàng phẩm Lễ Sanh.
Ngày 30 tháng chạp Bính Tuất được phép Hội Thánh cho về hưởng xuân ở gia đình. Qua ngày mùng 6 tháng giêng Đinh Hợi trở lại Tòa Thánh làm công quả; khi đến Gò Dầu Hạ bị nhà binh Pháp tình nghi bắt giam với 98 người Đạo gồm có Chức Việc và phần đông đều là thanh niên về Tòa Thánh làm công quả để chờ dự Đại Hội Nhơn Sanh.
Sau cuộc điều tra lý lịch xong, nhà chức trách mới cho ông Chánh Trị Sự Gò Dầu Hạ lảnh về Thánh Thất. Hôm sau ngày mùng 7 đáp xe về Tòa Thánh. Đến Bầu Nâu bị quân đội Việt Minh của Hoàng Thọ bắt đem vô rừng điều tra, tới chiều mới được thả.
Đến tháng 3 Đinh Hợi (1947) Việt Minh khủng bố Đạo, gia đình ông Nhượn được phép Hội Thánh cho tản cư ra châu thành Tân An lánh nạn. Vừa ổn định xong nơi cư ngụ cho gia đình, sống vất vã dưới mái hiên của nhà Phật thì bị quan Giám Binh Pháp khu vực Tân An bắt và buộc ra lãnh chức Quận Trưởng Quận Bình Tịnh (Long An).
Ông tự xét mình danh không màn, lợi đã chán nên mới dấn thân vào cửa Đạo tu hành, thì há để lợi danh thế tình câu nhữ lôi cuốn, cám dỗ hay sao nên kiếm lời từ chối khéo léo rồi thoát ly gia đình trốn về Tòa Thánh làm công quả.
Ngày 25-7 Đinh Hợi (1947) Hội Thánh bổ làm Đầu Phòng Văn và Thông Ngôn cho Khâm Châu Đạo Long An để giao thiệp với nhà cầm quyền Pháp về Đạo sự do tờ tạm bổ số 34/LV.
Ngày 16-10 Đinh Hợi (1947) Hội Thánh công nhận vào hàng Lễ Sanh rồi bổ dụng vào làm Đầu Tộc Tân An do Thánh Lịnh số 30 đề ngày 18-1 Mậu Tý (27-2-1948) thay thế cho ông Lễ Sanh Thượng Lầu Thanh trở về Phước Thiện.
b. Công nghiệp hành đạo:
1. Đắc phong Lễ Sanh Phái Ngọc.
Do quyền Vạn Linh năm Bính Tuất, Đức Hộ Pháp chấp bút tại Hộ Pháp Đường, Đức Lý Giáo Tông chấm phái vào hàng Lễ Sanh Phái Ngọc do Thánh Lịnh số 177 đề ngày 7-4 Mậu Tý (15-5-1948).
Thánh Lịnh số 106 ngày 23-8 Qúi Tỵ (30-9-1953) thuyên bổ Đầu Tộc Đạo Châu Thành Tân An (Long An).
Năm 1948 thành lập 3 căn cứ: Lợi Thành Nhơn, Mỹ An Phú và Rạch Chanh để bảo vệ 5.000 Đạo Hữu lánh nạn và sinh sống.
Tờ kiết chứng số 52/HCHĐ đề ngày 12-4 Mậu Tý (1948) chứng học khóa Cao Đẳng Hạnh Đường 3 tháng ở Tòa Thánh.
Để giúp cho trẻ em tản cư khỏi nạn thất học, năm 1948 Ông sáng lập Đạo Đức Học Đường tại căn cứ Tân An được Tỉnh Trưởng cho đứng làm Hiệu Trưởng, do giấy phép số 868/AG đề ngày 3-9-1948 và Hội Thánh cho hợp thức hóa ngôi trường và làm Giám Đốc đứng điều khiển. Hội Thánh có tờ ban khen ngày 26-11 Canh Dần (3-1-1951) hữu công với học vụ do sự sáng lập Đạo Đức Học Đường Tân An.
Ông được sự tín nhiệm của nhà cầm quyền Pháp và Việt Nam, đã đem cho Đạo nhiều thắng lợi trên đường ngoại giao cứu rất nhiều bổn Đạo và đồng bào đời bị bắt giam cầm ra khỏi vòng tù tội. Còn giúp cho Quân Đội Cao Đài và Hành Chánh Đạo được vững vàng, bảo hộ bổn Đạo yên thân lánh nạn trong buổi loạn ly, vì vậy mà có 12 Bàn Trị Sự Tộc Đạo Châu Thành Tân An gồm 67 vị Chức Việc Nam Nữ ký tên dâng tờ về Hội Thánh để hoan nghinh công nghiệp “Làm việc đắc lực” Tờ đề ngày 24-2 Tân Mão (31-3-1951).
Ông còn lo tạo tác Thánh Thất và Tây Lang của Châu Thành Tân An, hoàn thành năm 1951.
Ngày 30-8 Tân Mão (1951) ông về Tòa Thánh dự Hội Nghị Nhơn Sanh được đắc cử Nghị Trưởng Hội Thánh Phái Ngọc.
Ngày 20-9 Tân Mão (20-10-1951) được Hội Nhơn Sanh công nhận thăng phẩm Giáo Hữu.
2. Đắc phong Giáo Hữu:
Thánh Lịnh số 522/VPHP đề ngày 2-12 Qúi Tỵ (6-1-1954) thăng Phẩm Giáo Hữu.
Huấn Lịnh số 99 đề ngày 13-6 Giáp Ngọ (1954) Hội Thánh bổ “Qủan Văn Phòng Thượng Chánh Phối Sư, kiêm Giám Đốc Học Đường Tân An”.
Sắc Huấn số 19/PC đề ngày 23-2 Ất Mùi (16-3-1955) Ngài Tiếp Pháp Chưởng Qủan Bộ Pháp Chánh ban cho quyền Biện Hộ Tòa Pháp Chánh Tư Quyền Cữu Trùng Đài và Nghị Án Tòa Pháp Chánh Trị An.
Thánh Lịnh số 69/Thiêng Liêng đề ngày 9-5 Ất Mùi (28-6-1955) Đức Hộ Pháp thuyên bổ Giám Khảo Đầu Phòng Văn Khoa Mục khóa 15-5 Ất Mùi (1955) tại Hạnh Đường Tòa Thánh.
Được bằng cấp danh dự đề ngày 15-8 Ất Mùi (30-9-1955) Hội Thánh ban khen làm việc đắc lực trong nhiệm vụ Tổng Thư Ký Ban Tổ Chức Hội Yến Diêu Trì và Khánh Thành Báo Quốc Từ.
Huấn Lịnh số 236/LV ngày 16-6 Đinh Dậu (13-7-1957) Hội Thánh Hiệp Thiên Đài bổ Giảng Viên lớp Công Truyền tại Hạnh Đường về khoa xã giao.
Huấn lịnh số 25/HL ngày 1-6 Mậu Tuất (17-7-1958) bổ Giám Khảo khoa thi Bằng Năng Lực lớp huấn luyện Lễ Sanh của Đại Đạo Học Đường.
Tờ bổ số 87/BĐ ngày 30-2 Kỷ Hợi (7-4-1959) của Lại Viện bổ vào Ban Lập Điếu Văn đọc giữa phần mộ khu Chức Sắc phẩm Giáo Hữu qui vị.
Huấn thị số 50/HT. ngày 10-5 Canh Tý (3-6-1960) của Hội Thánh bổ giảng viên khóa Huấn Luyện Lễ Sanh Nam Nữ tại Đại Học Đường niên Canh Tý (1960).
Đạo lịnh số 20/ĐL ngày 11-6 Canh Tý (1960) bổ Giám Khảo Khoa Thi Đầu Phòng khoa mục Khoa Canh Tý (11-7-1960).
3.Đắc Phong Giáo Sư:
Đạo Lịnh số 10/ĐL đề ngày 6-10 Tân Sửu (11-1-1962) của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài thăng phẩm Giáo Sư kể từ ngày 4-12 Tân Sửu (9-1-1962).
Lịnh số 77/TS đề ngày 19-5 Nhâm Dần (20-6-1962) Đức Thượng Sanh bổ “Xử Lý Thường Vụ Văn Phòng Thượng Chánh Phối Sư”.
Huấn Lịnh số 77/HL đề ngày 21-8 Nhâm Dần (19-9-1962) bổ Tổng Quản Văn Phòng Thái Chánh Phối Sư.
Huấn Lịnh số 4/HL đề ngày 17-11 Nhâm Dần (13-12-1962) bổ Khâm Thành Thánh Địa.
4.Đắc Phong Phối Sư:
Thánh Giáo đêm 15-4 Gíap Thìn (26-5-1964) tại Cung Đạo, Đức Lý Đại Tiên phong Phối Sư và lãnh quyền Ngọc Chánh Phối Sư.
Văn thư số 59/TTĐS đề ngày 13-12 Gíap Thìn (15-1-1965) bổ Q.Thái Chánh Phối Sư hành sự gần một năm.
Lời phê của Ngài Bảo Thế Q.Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài số 198/QCQ đề ngày 3-2 Ất Tý (5-3-1965) cho Ngọc Chánh Phối Sư Kiêm Nhiệm Thượng Chánh Phối Sư trong lúc ông nầy nghỉ dưỡng bịnh.
5.Đắc Phong Ngọc Chánh Phối Sư Chánh Vị:
Thánh Giáo Đức Lý tại Cung Đạo ngày 11-12 Bính Ngọ (21-1-1967) Phong Chánh Vị Ngọc Chánh Phối Sư.
6.Đắc Phong Đầu Sư Chánh Vị:
Tại Cung Đạo Đền Thánh, Đức Lý giáng phong Đầu Sư Chánh Vị, nhưng cũng giữ Thánh Danh cũ (Ngọc Nhượn Thanh) Kiêm Nhiệm Chức Chánh Phối Sư Phái Ngọc cho đến ngày có người thay thế; Đàn Cơ ngày mùng 1 tháng Chạp Nhâm Tý (4-1-1973).
Ngài Hiến Pháp Q.Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài ra Thánh Lịnh số 25/TL ngày 8-12 Nhâm Tý (11-1-1973) ban quyền cho Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh lên phẩm Đầu Sư và Kiêm Nhiệm Chánh Phối Sư Phái Ngọc cho đến khi có người thay thế.
Khi Phối Sư Ngọc Triệu Thanh lãnh phẩm Ngọc Chánh Phối Sư tức một năm rưỡi sau thì quyền Đầu Sư của Ngọc Nhượn Thanh mới trọn vẹn, không còn kiêm nhiệm 2 phận sự nữa, do Thánh Lịnh số 28/ĐS/Thiêng Liêng đề ngày 13-6 Giáp Dần (31-7-1974).
Biết bao giai đoạn đối ngoại với Pháp, với Chánh Phủ Cộng Hòa Miền Nam, ông đều làm tròn trách nhiệm
CHƯƠNG II
GIAI ĐOẠN SAU 30-4-1975
Sau đây là trích lục bản nghị quyết 124/NQ mà chánh quyền XHCN đã ban hành:
NGHỊ QUYẾT 124/NQ
Chánh quyền XHCN ra nghị quyêt 124 có nhiều khỏan nhưng quan trọng nhất là:
1.Giải thể tất cả các Hội Thánh, gom làm sự chỉ huy thống nhất của Hội Đồng Chưởng Quản.
2.Trưng thâu 42 cơ sở của Đạo và Nội ô chỉ còn Đền Thánh, Đền Thờ Phật Mẫu, Giáo Tông Đường và Hộ Pháp Đường và Nam Nữ Đầu Sư Đường.
3.Cấm cầu cơ chấp bút, tức Cơ Phong Thánh không còn nữa.
Thành phần Hội Đồng Chưởng Quản:
1.Chưởng Quản : Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa
2.Phó Chưởng Quản : Ngọc Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh
3.Chánh Từ Hàn: Giáo Sư Thái Phát Thanh
4.Phó Từ Hàn: Cải Trạng Lê Minh Khuyên
5.Hội Viên: Quyền Thái Chánh Phối Sư Thái Hiểu Thanh
Quyền Thái Chánh Phối Sư Thượng Trọng Thanh
Quyền Nữ Chánh Phối Sư Hương Tiếu
Chơn Nhơn Đặng Văn Chưởng
Chơn Nhơn Nguyễn Thị Khéo
Quyền Tiếp Lễ Nhạc Quân Võ Thành Tươi.
Ngài Bảo Đạo và Ngài Ngọc Đầu Sư lắm điều vất vã, đứng mũi chịu sào đối phó, nào phải ra Thông Tri số 1, Đạo Sự số 1, nào vụ Đinh Văn Kíp bạo động ở Giáo Tông Đường, nào vụ Tám Ngoài chứa phản động có súng lục, nào Phạm Ngọc Trãng lập Thanh Niên chí nguyện đoàn …
Hai ông già bị Năm Anh, Tư Tịnh vật bèo nhèo, buộc phải chịu trách nhiệm về hành động của tín đồ mình.
Rồi đến Thiên Khai Huỳnh Đạo, Hội Thánh Tân Trào, Uỷ Ban Hòa Giải Quốc Tế.v.v…Ngài Ngọc Đầu Sư cũng phải bị mời hạch vấn, giải đáp những câu hỏi hóc búa của chánh quyền; những việc tế nhị, rắc rối, khó xử phải đem hết tâm trí đối phó với hoàn cảnh khó khăn.
BỊ CHO VỀ NHÀ AN TRÍ
Trong lúc chánh quyền thấy rằng Thông Tri Đạo Lịnh chỉ thi hành trong tỉnh Tây Ninh mà không thi hành được ở các tỉnh khác thì họ thấy bị hai ông già kinh nghiệm cao trí thắng cuộc. Họ lấy lý là hai ông già bịnh hoạn luôn không thể tiếp tục phận sự Chưởng Quản và Phó Chưởng Quản Hội Đồng Chưởng Quản nên họ bức bách ông Thái Hiểu Thanh ra lịnh cho 2 ông nghỉ dưỡng bịnh, còn phận sự Chưởng Quản ông Thái Hiểu Thanh đảm nhận, Phó Chưởng Quản là Cải Trạng Lê Minh Khuyên phụ trách.
Từ đó ông Ngọc Đầu Sư về tư gia buồn vì mình không còn quyền gì dẫn Đạo nhơn sanh nên sanh bịnh. Bịnh tình dây dưa, đến lúc kể như hết hy vọng. Ông liền kêu con cái lại trối trăng và từ giã mọi người.
Ngài Bảo Đạo hay đến thăm, Ngài nói: “Buổi nầy hai anh em ta gánh vác trọng trách của Hội Thánh giao phó, anh nở lòng nào đi về Chí Tôn an phận để một mình tôi gánh chịu hay sao? Tôi đề nghị anh cầu nguyện Chí Tôn cho anh sống một thời gian nữa, chừng nào cơ khảo dứt thì anh về Thầy cũng không muộn”.
Ngài Ngọc Đầu Sư hứa với Ngài Bảo Đạo sẽ cầu nguyện điều ấy.
Linh nghiệm thay, từ đó Ngài từ từ bình phục. Tuy ở tư gia nhưng Chức Sắc tới lui đàm Đạo việc nên, việc hư, làm như vị cố vấn của Hội Thánh.
GIỜ ĐĂNG TIÊN
Sau hai năm hồi sinh đến đêm 12-9 Ất Sửu (25-10-1985) lúc 12giờ 30, Nhơn Sanh Thánh Địa nghe đánh 5 hồi chuông trống; ai ai cũng nghi là Ngài Ngọc Nhượn Thanh đã qui Tiên.
Sáng ngày cả Thánh Địa đều xúc động.
Hội Đồng Quản Lý đem Ngài vào Giáo Tông Đường liệm ngồi, mặc Đạo Phục Đầu Sư, đội mão, mang kiến trắng để căn giữa; 2 bên 2 hàng lễ bộ, lộng tàng để nhơn sanh đảnh lễ.
Chương trình hành lễ như sau:
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Lục thập niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH Hội-Đồng Quản Lý Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh
CHƯƠNG TRÌNH
Hành lễ Đạo Táng Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh (Bùi Đắc Nhượn)
Qui Tiên ngày 12 tháng 9 Ất Sửu (DL.25/10/1985)
14 giờ. -Hành lễ nhập Liên Đài, thành phục phát tang cho tang quyến tại Giáo Tông Đường (có Nhạc, Lễ và Đồng Nhi) Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu Nam, Nữ tuần tự đến bái lễ trước Liên Đài.
20 giờ. -Hòa Nhạc trước Liên Đài (Ban Nhạc đảm nhiệm).
Ngày 13 tháng 9 Ất Sữu (DL.26.10.1985)
8 giờ. -Hành lễ châm chước, cung nghinh Liên Đài kỵ Long Mã và múa Long Mã đến Báo Ân Từ, có Nhạc Tang đi đường. Hội Đồng Quản Lý và Chức Sắc Nam, Nữ tế điện.
15 giờ. -Tang quyến thân bằng cố hữu và quí khách cúng tế.
20 giờ. -Hòa Nhạc hiến lễ trước Liên Đài (do Ban Nhạc đảm nhiệm), Chức Sắc, Chức Việc, Đạo Hữu thay phiên tụng Di Lạc Chơn Kinh.
Ngày 14 tháng 9 Ất Sữu (DL.27-10-1985)
8 giờ. -Hành lễ châm chước cung nghinh Liên Đài kỵ Long Mã và múa Long Mã đến Đền Thánh an vị. (Có lọng, tàng, bàn linh và nhạc tang đi đường giàn Nam, giàn Bắc).
-Hội Đồng Quản Lý Cao Đài Tây Ninh tuyên dương công nghiệp Ngọc Đầu Sư trên Giảng Đài.
-Hội Thánh, Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu nam, nữ lễ bái Đức Chí Tôn cầu nguyện cho chơn linh Ngọc Đầu Sư được cao thăng Thiên Vị, Đồng Nhi luân phiên tụng Di Lạc Chơn Kinh.
Ngày 15 tháng 9 Ất Sữu (DL.28-10-1985)
8 giờ. -Hành lễ châm chước cung nghinh Liên Đài kỵ Long Mã và múa Long Mã có Nhạc Tang đi đường, theo lộ trình ra phía Tây Khán Đài đến lộ Cao Thượng Phẩm, xuống lộ Oai Linh Tiên đến Phật Mẫu, đến đại lộ Phạm Hộ Pháp, ngang Đền Thánh thẳng Bữu Tháp.
-Trước khi hành lễ, Liên Đài nhập Bữu Tháp, Đại diện Chức Sắc đọc điếu văn. Hành lễ Liên Đài nhập Bữu Tháp.
Mãn Lễ
TM. Hội Đồng Quản Lý Cao Đài Tây Ninh
P.Hội Trưởng
Lê Minh Khuyên
TM.UBMTTQ Huyện Hòa Thành
P.Chủ Tịch
Phan Thiện Tâm
CHƯƠNG III
ĐIẾU THI
ĐIẾU VĂN CỦA VẠN NĂNG
(Bùi Quang Hòa)
Hoài Ân Thúc Phụ
Thập thủ liên hườn
Vắng bóng từ đây thúc phụ ôi !
Không cha níu Chú tưởng yên rồi.
Trúc Lâm gió tạc tre lìa cội,
Thánh Điện sương che trống điểm hồi.
Nổi hiến con buồn cha mất dạng,
Mảnh tình Thiếm tủi phận đơn côi.
Nhớ lời giáo huấn còn ghi mãi,
Ôn lại hình dung lúc đứng ngồi.
Ngồi đứng xem qua chốn hí trường,
Nghe đồn tạo hóa trổi cung thương.
Đài liên rạng rỡ sen năm cánh,
Cửa khuyết vẫy vui bạn một trường.
Văn hóa đấp xây nền thổ võ,
Tạo dàn rèn luyện nét thu hương.
Cao Đài Tòa Thánh Đầu Sư vắng,
Sử Đạo hằng nêu bậc dị thường.
Thường năm Tông Tộc giỗ gia Tiên,
Lời dạy nêu gương bậc triết hiền.
Đạo đức dồi trao thần mẫn huệ,
Nghĩa nhân vẹn giữ chí cầu chuyên.
Kẻ còn dương thế đang buồn tủi,
Người đến Bồng Lai khỏi rộn phiền.
U hiển tiện phàm trong thỏa nguyện,
Nhưng làm sao tránh nổi buồn riêng.
Riêng thương Chức Sắc Cửu Trùng Đài,
Ba phẩm Đầu Sư chẳng có ai.
Mối Đạo nghìn năm còn mãi mãi,
Mà người trăm tuổi khó lâu dài.
Thể thiên sẳn có gương tiền bối,
Hành hóa chờ xem nhóm hậu lai.
Gẫm kiếp sống thừa trên cõi tạm,
Cũng trong ba vạn sáu nghìn ngày.
Ngày tháng lại qua tuổi đã già,
Giải sầu nhớ gội nước Ma Ha.
Đường Tiên Chú đến chầu Kim Khuyết,
Cõi thế con tìm cõi Thích Ca.
Quạt gió đèn trăng vui đó tá!
Trời nghiên đất thuận phải đây mà!
Trong vòng tứ khổ lai hoai mãi,
Chỉ biết tu hành có lối ra.
Có lối ra cho chúng Đạo đồ,
Nghìn thu chú ngự cõi hư vô.
Hồn Thiêng tách dậm nương Long Mã,
Tháp báu hoàn thân thế nắm mồ.
Ngắm cảnh thiên thai dòng phó hiện,
Nhìn thuyền cứu khổ cánh buồm nhô.
Từ đây khúc chiếc cùng ai tỏ,
Chỉ có gặp trong mộng điệp hồ.
Hồ keo rời rã bởi đâu đâu,
Lệ chén dầm chan gội mạch sầu.
Thấy cảnh họp tan trời đất ủ,
Chạnh tình con cháu mặt mài châu.
Bàn Đào Mẹ thượng Huỳnh Hoa Tửu,
Kim Khuyết Thầy ban Ngọc Bích Câu.
Nhựt nguyệt đôi vầng soi rạng rỡ,
Lệ lòng làm mực khắc tình sâu.
Tình sâu ai điếu cháu hoài ân,
Đổi thảm làm khuây viết mấy vần.
Đài Cảnh rạng soi gương bạch nghiệp,
Trường công ngầu chói bước Thanh Vân.
Canh chầy ôn lại câu Thi Thánh,
Ngày muộn xem qua nét bút Thần.
Say tỉnh mơ màng chưa ngã lẻ,
Cửa từ vang vội tiếng chuông ngân.
Ngân hà một dải rộng thênh thênh,
Nhớ cuộc chia ly bất động tình.
Ngắm bức dư đồ trời lộng lộng,
Trong lời giáo huấn nét xinh xinh.
Chín tầng rộn rã Thần Tiên rước,
Một kiếp nhàn thơi Đạo đức gìn.
Quả mãn nay về ngôi vị cũ,
Sử còn bia tạc bực tài danh.
Danh nghĩa còn lưu lại cõi đời,
Ân thâm càng nhớ lệ càng rơi.
Ngùi trong cảnh cũ chim quên hót,
Chạnh ngắm trường xưa trống liếng hồi.
Nhạn lẻ loi sầu chiu chít nổi,
Sông biền biệt chảy lửng lờ trôi.
Nghìn thu rỡ rỡ gương còn đó,
Vắng bóng từ nay Thúc Phụ ôi!
Tòa Thánh ngày 19-9 Ất Sửu
VẠN NĂNG
(Bùi Quang Hòa)
Thi Điếu Của Cải Trạng Nguyễn Thành Tất
Ngọc Đầu Sư khuất bóng non Tây,
Quả mãn công viên bái mạng Thầy.
Để thảm Đệ Huynh cơn nắng lửa,
Rời thuyền tế độ lúc mưa mây.
Công lao tiêu tứ công vun quén,
Nghĩa cả lưu tồn nghĩa đấp xây.
Thất ức dư niên danh đã tạc,
Ngọc Đầu Sư khuất bóng non Tây.
12-9 Ất Sửu.
Thi Điếu Của Văn Lang
(Em ruột của Văn Tấn Bảo)
Ngài Ngọc Đầu Sư đến cảnh Tiên,
Cửu Trùng tiếc mất một anh hiền.
Bao phen khảo đảo tròn tâm đức,
Lắm lúc gay go nắm Đạo quyền.
Thể xác tháp gìn nuôi xã hội,
Chơn thần trói gởi tạc đài liên.
Đoái thương Chức Sắc xin phò hộ,
Xứng phận đàn anh bực thể Thiên.
15-9 Ất Sửu.
Thi Điếu Của Huệ Phong
Ngài Ngọc Đầu Sư cổi xác trần,
Đăng Tiên hưởng trọn giọt hồng ân.
Đoạt căn Long Mã phò linh thể,
Phân bổn liên đài tượng pháp thân.
Niệm cốt thiên phong hườn xá lợi,
Hành kinh thế Đạo phục nguyên nhân.
Khai cô dục tấn miền vô thượng,
Thắng khổ về Thầy bước nhẹ lân.
15-9 Ất Sửu
(28-10-1985)
Thi Điếu Của Giáo Hữu Ngọc Chữ Thanh
Năm hồi chuông trống vẳng bên tai,
Báo tín Đầu Sư cổi xác hài.
Sắc lịnh Chí Tôn hồi cựu vị,
Vâng lời Phật Mẫu đến Bồng Lai.
Bàn Đào dự hội nhờ công quả,
Tiên tửu yên ban hưởng đức dài.
Chức Sắc Thiên Phong đồng bái tế,
Nguyện cầu Ngài đặng ngự văn đài.
Đài văn an ngự phản hồi Thiên,
Tám chục năm qua một dạ hiền.
Giáo hóa nhơn sanh gìn tánh đức,
Nhũ khuyên con cháu giữ căn duyên.
Tam Kỳ Thượng Đế khai trường hạnh,
Phổ độ quần linh Đại Đạo truyền.
Quả mãn công dầy hườn cựu vị,
Đài văn an ngự phản hồi Thiên.
15-9 Ất Sửu
THI ĐIẾU CỦA GIÁO SƯ
NGỌC TÔNG THANH
Tiếng trống báo tin động cửa Thiên,
Đầu Sư phái Ngọc vội đăng Tiên.
Tín đồ cảm nhớ lời hoài bảo,
Chức Sắc không quên tiếng dạy khuyên.
Thánh Thể niêm phong nơi nơi Bửu Tháp,
Linh Hồn thoát hóa khỏi Thanh Thiên.
Tục Tiên đôi nẻo muôn nghìn dặm,
Đốt một nén hương dạ khấn nguyền.
14-9 Ất Sữu
Thanh Tòng
THI ĐIẾU CỦA SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
Năm hồi chuông trống giục canh thâu,
Như xé tâm cang vạn kẻ sầu.
Sư Trưởng Cửu Trùng tung cánh Hạc,
Đại Huynh cửa Hiệp cấm sào câu.
Đức linh vốn thiếu người chung chí,
Đàm luận hết mong kẻ hợp đầu.
Long Mã gồng lưng nâng Thánh chất,
Kỳ Lân há miệng hứng Minh Châu.
Quang Minh
THI ĐIẾU CỦA HỮU PHAN QUÂN
LÊ VĂN THOẠI
Thoát vòng cương tỏa ngỏ chơn truyền,
Nương bóng Cao Đài lúc tráng niên.
Đạo nghiệp đôi phen công hạnh đức,
Đầu Sư lắm lúc nhẫn, hòa, kiên.
Hư vô định vị do công nghiệp,
Bát Quái đọa thăng bởi quả duyên.
Bạch Ngọc Thiên ân cao phẩm vị,
Mẫu Từ tứ phước đoạt ngôi Tiên.
VĂN TẾ CỐ ĐẦU SƯ NGỌC NHƯỢN THANH CỦA HUỆ NGÀN
Hởi ôi! Chuông Bạch Ngọc năm hồi vang, ai tín chuyền khắp Phẩm Đầu Sư đã mất vị niên cao.
Vùng Cao Đài một phút lọt vào tai, mặc niệm quay về hàng tín hữu đồng thương người quá cố.
Dấu thơm buổi trước tạc khuôn vàng,
Công nghiệp thời qua lưu nét đổ.
Nhớ linh xưa!
Nhập ái rèn tâm.
Khoan hòa giữ độ.
Tu hành tinh tấn, qui điều giới luật vẹn tuân hành.
Đạo họ uyên thâm, Thánh Giáo chơn truyền luôn cẩn thủ. Trường tế chúng bao phen cam khổ hạnh, gặp lúc nền nhơn thành tựu để góp phần tiếp tục nghiệp Tiên khai.
Bước dìu nhân lắm lúc phải chồn chân, trải qua buổi Đạo thăng trầm, luôn gắng sức bảo tồn cơ Phổ Độ.
Sắc không phải lẽ, tinh thần giữ phận chơn tu.
Nhân nghĩa quên niềm, chung thủy bền tâm cứu khổ. Thang lập đức đã thăng gần tột nấc, theo chân người trước, công tài bồi sáng tỏ dấu tiền quang, đuốc hoằng nhân tần nối được thông đường chỉ nẽo lắp sau, mối thừa kế rộng vành dành khuôn hậu dủ.
Chánh kỹ hóa nhân tròn bước Đạo công viên quả mãn, buông tay nằm chiếm bậc thâm niên.
Trì trai thủ giới vẹn đường tu, đức thiện, niên cao, trúc hơi thở đã lên hàng thượng thọ.
Từ nay:
Nương bánh vân xa
Về chầu Từ Phụ.
Kinh Bạch Ngọc Quần Tiên khai Đại Hội, vòng hoa Tiên trao tặng, Cửu Trùng Đài mừng gặp Đệ Huynh xưa.
Cửa Huỳnh Kim chư Thánh xét kỳ công, tuần rượu Thánh thưởng ban, Linh Tiêu Điện vui kề ngôi vị cũ.
Đường siêu thoát Non Bồng nước nhược, ngọt ngào hoa cỏ tiên gia khánh tiết tữu diên vầy.
Cảnh tiêu diêu mây ngắm trăng ngà, nhẹ nhổm hồn thơ, thượng giới Tao Đàn thi hữu đủ.
Dạo vườn Ngạn Uyển gót lê dừng.
Ngắm cảnh Diêu Trì trăng ẩn, lố.
Hôm nay chúng tôi:
Theo lẽ Đạo nên mừng khi duyên mãn, vọng bàn hương tưởng niệm bậc siêu thăng.
Nhưng tình riêng chạnh mối biệt ly nhìn lệ nên xót thương người thiên cổ.
Đức nghiệp vẹn toàn mừng vị khuất, trường tu vững bước, thời hậu lai lưu xét sử trường tồn.
Đạo trường tiếp tục phận người còn, chánh niệm bền trau, dấu tiền bối cố noi gương bất hủ.
Vái dư huy tha thiết sự chiêm hoài, ngước Lịnh Văn xiết bao lòng quyết chú.
Hỡi ôi! Thương thay!
Hiền linh xin chứng.
Huệ Ngàn Kính Bái
THẢO ANH KÍNH ĐIẾU
Thập thủ liên hườn
Năm hồi trống đổ lúc tam canh,
Báu hiệu Đầu Sư quả vị thành.
Cỡi hạc nương phan hồi thế tục,
Theo mây biết gió hướng thiên thanh.
Cửu Trùng vắng bóng trang hiền Đạo ,
Bát Quái rỡ ngôi bậc hiển danh.
Để lại tấm gương lưu hậu bối,
Muôn thu chói rạng đức tài lành.
Tài lành khắc kỹ buổi chinh nghiêng,
Dắt nẽo nhơn sanh lánh não phiền.
Biển ái dìu đời gian khổ hạnh,
Đò nhân độ chúng lắm truân chuyên.
Trải thân hành Đạo dầy công quả,
Đưa khách hoàn lương đổ bến thiền.
Chí Thánh khó câu mồi phú quí,
Nguyện lòng theo gót bậc tiền hiền.
Hiền sĩ từ ngày ngộ Đạo Cao,
Thiên phong phẩm thấp chí không nao.
Ven trời hiệp chúng gầy nhơn nghĩa,
Góc biển hòa mình nếm khổ đau.
Mấy cuộc bể dâu tuông bảo tố,
Bao phen lèo lái vượt ba đào.
Thuyền từ nhẹ tách nhiều nguy hiểm,
Giữ vẹn lòng son vẫn một màu.
Một màu tinh tấn sắc trong ngần,
Xứng phẩm môn đồ động Bạch Vân.
Sáu bảy Đầu Sư quyền Chưởng Quản,
Tám mươi viên tịch trụ tinh thần.
Người đi an lạc miền Tiên cảnh,
Kẻ ở thương sầu kiếp thế nhân.
Kính điếu Đại Huynh thơ mấy vận,
Hồn về Bạch Ngọc đắc thiên ân.
Ân dài con cháu lệ thảm lau,
Nhớ nghĩa cù lao khó diệt sầu.
Chiếc gậy lưu truyền công quá nặng,
Đôi giày kỷ niệm đức càng sâu.
Tiên y ngẩn chạnh hình dung đó,
Đạo cấp ngùi trông bóng dáng đâu?
Mây trắng buồn vương che núi hộ,
Môi run, nghèn nghẹn suốt đêm thâu.
Đêm thâu chộp mắt lại buồn ngồi,
Nghe nhạc sành than, luống hỡi ôi!
Tiếng mõ gieo thương đàn cháu dại,
Câu kinh gợi nhớ đám con côi.
Nhắc mưa khôn thấy mưa tuôn đổ,
Gởi gió nào nghe gió trở hồi.
Trời thẩm, đất dày ai có biết,
Mạch sầu chảy mãi cạn rồi thôi.
Thôi rồi khó mõi chỉ còn mơ,
Xác liệm muôn thu hết đợi chờ.
Gió xoáy rừng thiên cây ủ rũ,
Nắng chan Thánh Địa cỏ sơ rơ.
Sông Vàm cá thảm, sông vò vỏ,
Núi Điện châm sầu, núi ngẩn ngơ.
Con cháu náy lòng cơn tử biệt,
Người buồn cảnh thấy cũng bơ vơ.
Bơ vơ hiếu tử tủi sầu thương,
Trên án đèn mờ quyện khói hương.
Thơ thẩn ngày buồn đà táp nắng,
Sụt sùi đêm nhớ tóc đeo sương.
Âm thầm khó trả công sanh dưỡng,
Đức trọng vừa qua cảnh đoạn trường.
Điện Thánh rằm ngươn trông mõi mắt,
Tìm đâu hình bóng dáng thuy đường.
Đường trần mang mãi mối thương sầu,
Máy tạo xây vần mấy bể dâu.
Có mẹ, anh em trưa tối viếng,
Còn cha con cháu sớm hôm hầu.
Thu sang đủ mặt tình thân thiết,
Xuân đến đầy nhà nghĩa đậm sâu.
Nay vắng thuy đường tan nát dạ,
Đầm đìa sóng mắt cạn dòng châu.
Châu rơi ngọc nát cõi lòng đau,
Bối rối tơ vò héo ruột gan.
Tử biệt hết mong hình dóc dáng,
Sinh ly còn để mảnh khăn tang.
Dù rằng quả vị siêu Bồng Đảo,
Hay được chơn linh ngự Niết Bàn.
Tưởng cũng khó nguôi niềm luyến tiếc,
Khuyên chung hiếu quyến bớt sầu than.
Kính bái
Thảo Anh
VĂN TẾ CỦA CẢI TRẠNG NGUYỄN THÀNH TẤT
(Có sự cộng tác của Nguyễn Hữu Lương, Bùi Quang Hòa)
Than ôi!
Tòa Thánh Điện mây tuông,
Rừng Thiên Nhiên lá đổ.
Chuông Bạch Ngọc còn vang tai phổ độ,
Trống Lôi Âm giục trở gót thuyền từ.
Trước đã buồn vắng bóng Ân Sư,
Nay thêm thảm mất người Huynh Trưởng.
Nền Đại Đạo đang hồi ra Thiên tướng,
Cửa Cao Đài bổng chốc khuyết tài danh.
Ngọc Đầu Sư xứng phận Đại Huynh,
Thiên Liêng vị về chầu Kim Khuyết.
Nhớ Đại Huynh xưa,
Nào danh lợi không màn.
Đường tu hành chí quyết.
Ôm hoài bảo non sông nòi giống Việt,
Giữ tinh trung tâm huyết cháu con Hồng.
Thuở thiếu thời nặng nợ non sông,
Khi niên trưởng bền lòng tâm Đạo .
Chiếc thuyền Đạo nhiều cơn giông bảo,
Sóng to cũng cố chống cố chèo.
Cánh buồm từ lắm nẻo chinh nghiên,
Dầu gió mạnh vẫn vững lèo, vững lái.
Người chánh trực công bình bác ái,
Nguyện vì đời dầu phải tiếng oan ưng.
Lòng từ bi nhẫn nại vị tha,
Quyết lo Đạo không màn lời chê trách.
Đường lao lý từng nếm mùi chua chát,
Lửa gian nan đem thử dạ trung thành.
Bước công danh thường gặp cảnh sang giàu,
Gió phú quí không lay lòng Đạo đức.
Nhà mô Phạm lại là trang trí thức,
Chợ đời một mực độ nhơn.
Đại Thiên đáng bực tu chơn,
Cửa Đạo hết lòng tế chủng.
Mở trường học luyện rèn con cháu,
Thành tài bao kẻ ghi ơn.
Giảng Hạnh Đường hướng dẫn Đệ Huynh,
Hành Đạo nhiều người cảm nghĩa.
Từ Đạo Hữu tăng lên từng cấp,
Bốn sáu (46) năm đến phẩm Đầu Sư.
Đài Cửu Trùng thuyên bổ nhiều nơi,
Tròn một giáp nắm quyền Chưởng Quản.
Đức khiêm tốn, nhơn sanh mến cảm,
Mối ân tình lớn nhỏ thảy ghi lòng.
Tánh công bình Đạo Hữu yêu thương,
Người cương trực trẻ già đều nhớ bóng.
Khi tổ quốc hoàn toàn giải phóng,
Nếp cựu tân hoạt động khéo dung hòa.
Khắp nhân dân cải tạo tinh thần,
Đường sau trước chấp hành cùng tiến bộ.
Thuyền Đại Đạo qua cơn giông tố,
Đuốc soi đường đã lộ ánh bình minh.
Bịnh Trường Huynh trở chứng thình lình,
Trăng gát mí ngờ đâu người khuất bóng.
Tin sét đánh bao cõi lòng súc động,
Trường Huynh ôi! Thiên số đã an bài.
Ngọn gió đưa, làn hương khói nhẹ bay,
Đạo nghiệp đó Trưởng Huynh về hộ độ.
Nhớ tình nghĩa nghẹn ngào dòng lụy đổ,
Thương Trưởng Huynh tiếc bực Đạo Thiên Phong.
Tường công ân, không lấp mạch sầu dâng,
Mến nghĩa cả chung tay phò đại Đạo.
Kỵ Long Mã, nương mây về Bồng Đảo,
Chúng Đệ buồn cửa Đạo vắn Anh Hiền.
Tọa Liên Đài đoạt vị đến Tây Thiên,
Quần Tiên Hội Cõi Trời thêm bạn mới.
Hỡi ôi!
Một phút ra đi, ngàn năm hết đợi.
Kiếp hồng trần ngắn ngũi,
Cơ Nghiệp Đạo còn dài.
Điếu Ngài Đầu Sư kỉnh lễ văn bài,
Cầu huynh trưởng cao thăng Thiên vị.
THI HOÀI CẢM
Vội lách trần ai đến cảnh Tiên,
Ngọc Đầu Sư kỵ Hạc triều Thiên.
Thung dung chín cõi thần đảm định,
Tự toại muôn thu Phật tánh thiền.
Đưa tiễn anh linh cầu thoát hóa,
Nguyện chầu Kim Khuyết đặng siêu nhiên.
Độ hồn gian khổ bao tang hải,
Sử Đạo ghi công, đức, hạnh truyền.
Hởi ôi! Thương thay! Tiếc thay!
Hiển linh xin chứng
Ngày 15-9 Ất Sửu (28-10-1985)
VÀI CẢM TƯỞNG VỀ SỰ ĐĂNG TIÊN
CỦA NGÀI NGỌC ĐẦU SƯ
Trong 10 năm bị khảo đảo, nền Đại Đạo nhờ dịp đám tang của Ngài Ngọc Đầu Sư mà sống lại một cách phi thường.
Bấy lâu nay không có múa Long Mã, không có Nhạc Tần, lễ lộc bị hạng chế điều nầy lẽ nọ mà nay thì: Liên Đài được Kỵ Long Mã, múa Ngọc Kỳ Lân, múa Nhạc Tần, hòa tấu đủ ban bộ, thêm ban cổ nhạc giúp sự ấm cúng trong lúc canh vắng đêm tàn.
Phần chánh quyền có tràng hoa các cấp Uỷ Ban Nhân Dân và Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh, huyện Hòa Thành và các xã của huyện.
Mâm tế các cơ quan Đạo và đời có lối 50 mâm, giảng lý treo đầy Báo Ân Từ.
Đạo Hữu, Chức Việc, Chức Sắc ra vào tấp nập không kém lễ đăng Tiên của Đức Thượng Sanh.
Một điều nhiều thức giả đề cập đến điều nầy: Lúc sanh tiền Ngài Ngọc Đầu Sư thường bị áp lực khảo hạch đủ điều, nhưng hôm nay lại được tự do hành lễ một cách thoải mái. Ngày mùng 3-9 Ất Sữu, đại diện các cấp Tỉnh, Huyện, Xã lúc 4 giờ chiều có mặt trước linh sàng lối 30 người nghiêm trang kĩnh lễ, mỗi người cầm hương đưa lên tráng cầu nguyện, xem dường Đạo đã tương đắc sau 10 năm phân hóa.
Không có điều gì đáng tiếc xảy ra trong suốt 4 ngày lễ lộc chỉ thiếu Cửu Trùng Thiên đúng theo lệ thường như các Ngài Thượng và Thái Đầu Sư mà thôi.
Như vậy Hội Đồng Quản Lý và toàn Đạo vùng Thánh Địa rất hài lòng về cách đối xử của mặt đời trong dịp Ngài Ngọc Đầu Sư tạ thế.
Có người thắc mắc hỏi: “Tại sao không có mặt Ngài Bảo Đạo đến chia buồn hoặc tiễn đưa người bạn đồng hành của mình?” Thì trong nhơn sanh cũng có kẻ trả lời: “Ông Bảo Đạo bị quản chế tại gia 3 năm, ông đâu có quyền rời khỏi gia đình để làm phận sự tiễn đưa bạn đồng thuyền?”
Dầu sao phút âm dương đôi nẻo, chúng ta không khỏi buồn cho sự vắng bóng người anh đáng kính, nhưng về mặt tâm linh chúng ta mừng cho Ngài được trọn phận, không phút nào không giữ lập trường chung thủy với Hội Thánh, bảo vệ quyền lợi của nền chánh giáo được phần nào hay phần nấy.
Đó là điểm son mà nhơn sanh ghi nhận, dầu khổ tâm thế nào, Ngài quyết một dạ trung thành, không phản tỉnh.
Nhìn lẽ Đạo êm đẹp, quyền đời dễ dải, ta đoán được Ngài đắc nhơn tâm. Mà thuận nhơn tâm ắc thuận Trời. Như vậy Ngài đã làm tròn bổn phận trên trường “THI TIÊN”. Có triển vọng đoạt Phật Vị, chúng tôi cầu nguyện như thế, như câu kinh Phật Mẫu đã cho: “Khoa môn Tiên vị đoạt kỳ Phật duyên”.
Viết xong tại Tòa Thánh ngày mùng 2 tháng 11 Ất Sửu (1985)
Soạn giả
Quang Minh
CHƯƠNG IV
THI CỦA NGÀI NGỌC NHƯỢN THANH SÁNG TÁC
Sau đây chúng tôi xin sao lục một số bài thi của Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh sáng tác, hoặc họa thi của chư Chức Sắc, hoặc điếu những vị qui Thiên, hoặc tả cảnh tả tình…
Rất tiếc bản chánh không có đề ngày nên chúng tôi thấy cần bổ cứu chổ khuyết điểm ấy.
Ngài làm thi từ lúc thọ phong Giáo Hữu đến lên Giáo Sư, lên Phối Sư, đến lên Đầu Sư.
Tài liệu tập thơ nầy do Giáo Hữu Thượng Sử Thanh, con trai trưởng nam của Ngài Ngọc Đầu Sư cung cấp, chúng tôi xin chân thành cảm tạ bạn Sử.
Tự Thán
Nghĩ nổi gần xa đổ lệ thầm,
Dìu đời trọng trách, giả làm câm.
Hàm oan cam chịu lời xuyên tạc,
Thử thách dành mai việc chẳng làm.
Nhường nhịn gắn qua cơn khảo đảo,
Thị phi không thẹn với lương tâm.
Đòn cân pháp lý mà chênh lệch,
Quyền lực Thiêng Liêng há dễ lầm.
Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh
BAN LIÊN LẠC
Thuyền thơ gió ngược khá nương voi,
Liên lạc khai màng đã thấy mòi.
Tấn thoái tùy cơ hòa dị biệt,
Trở đương xoay hướng lóng hơi còi.
Ưu hương gắng chặc Tiền nhân nối,
Ái chúng lưu truyền hậu thế roi.
Thánh đức đấp xây vun tổ nghiệp,
Hiệp đồng đời Đạo hóa vàng thoi.
Ngọc Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh
KỶ NIỆM ĐỨC HỘ PHÁP
Kỷ niệm ân Thầy nghĩa núi sông,
Môn sinh khẩn bái nén hương lòng.
Nhớ ơn cứu thế nương hồn nước,
Cảm đức khai cơ mở Đạo Tông.
Thoát xác đã nêu gương ái chủng,
Qui Tiên còn rạng tiết Nho phong.
Thìn lòng đệ tử đồng tâm nguyện,
Nối chí Tôn Sư Thuyết Đại Đồng.
Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh
HỌA THI CỦA PHỐI SƯ
THƯỢNG PHÉP THANH
Nhìn cảnh hôm nay cảm vẻ buồn,
Nổi buồn đưa đến cuộn mây tuôn.
Đổi thay nhiệm vụ âu thường sự,
Trọng trách dìu nhân vẹn Đạo nguồn.
Cửa Thánh lướt xong vui phận mới,
Đường Tiên há đợi tiếng khua chuông.
Vầy nhau phó mặc hồi xuôi ngược,
Độ dẫn đoàn chiên hợp một chuồng.
Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh
TỰ THÁN
BÀI THÀI NGỌC ĐẦU SƯ LÚC ĐĂNG TIÊN
Ngày-9 Ất Sửu (1985)
Từ thuở chung vai gánh Đạo quyền,
Đầu Sư Phái Ngọc thọ ân Thiên.
Xả thân hành hóa gìn chung thủy,
Bủa đức dìu nhân vẹn chí nguyền.
Khổ hạnh từng cam cơn gió ngược,
Gian lao lắm chịu buổi chinh nghiêng.
Qua bao thử thách lòng không nản,
Xong lướt sông mê vững lái thuyền.
Ngọc Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh
ĐIẾU NGÀI TIẾP ĐẠO ĐĂNG TIÊN
Qui vị ngày 23-5 Mậu Tuất (1958)
Đại Huynh Cao Tiếp Đạo đăng Tiên,
Mất một tài hoa của Hiệp Thiên.
Bác lảm văn chương thêu sắc gấm,
Lảu thông chơn lý dệt màu thiền.
Ngàn thu vắng bóng gươn hiền tạc,
Muôn thuở lưu danh thuở Đạo truyền.
Cực Lạc hy sinh trong kiếp tạm
Miên trường sanh trưởng chốn đài liên.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
ĐIẾU NGÀI ĐẦU SƯ THÁI THƠ THANH
(Trong dịp thiêu xác tại Tòa Thánh năm 1976)
Ác xế đầu non bóng đã tà,
Thái Đầu Sư tịch mấy thu qua.
Chánh lòng tưởng niệm ân tiền bối,
Cảm đức gầy nên mối Đạo nhà.
Những tưởng độ sanh tròn nghĩa vụ,
Nào dè qui vị lúc phong ba.
Tử sanh vốn sẳn cơ Thiên Định,
Thất ức dư niên tích vẫn hòa.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
VỊNH NÚI ĐIỆN BÀ
Kỳ quan đất Việt ấy “Linh Sơn”,
Sừng sựng hình cung đá chập chồng.
Rồng bọc non xanh che lá thắm,
Ác soi đảnh bậc dợn mây hồng.
Bể dâu mấy độ tươi như vẽ,
Mưa nắng ngàn thơ vững tợ trồng.
Thử hỏi khách du khi ngoạn cảnh,
Nổi lòng có mến nước non không?
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
MỪNG NGÀY KỶ NIỆM ĐỨC
CAO THƯỢNG PHẨM
Mừng ngày kỷ niệm Đấng tài hoa,
Thượng Phẩm về Tiên tiết mãi lòa.
Khai Đạo danh nêu làu nhựt nguyệt,
Độ đời đức rạng chiếu san hà.
Tinh thần vần tạc trang thiên sử,
Công nghiệp còn bia cửa Thánh Tòa.
Nợ thế trả xong cho thế sự.
Thảnh thơi đảnh túy bước ta bà.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
ĐIẾU NGÀI TRẦN KHAI PHÁP CHƠN QUÂN
Lễ kỷ niệm ngày 22-1-Kỷ Hợi (1959)
Trước đỉnh trầm hương chạnh nghĩa sâu,
Xót tình Khai Pháp khuất ngàn dâu.
Nhớ công mở lối nền chơn giáo,
Cảm nghĩa gầy nên bước Đạo đầu.
Khổ hạnh từng cam nơi đất Việt,
Gian lao lắm chịu chốn trời Âu.
Ngậm ngùi tưởng niệm ơn Tiền Bối,
Thành kỉnh đàn em lễ hiến chầu.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
VỊNH ÔNG TIỀU
Danh lợi ngoài vòng được thảnh thơi,
Tiều phu tự chủ thú trong đời.
Đun cơm Động Bích khai rừng thẩm,
Đốn củi Non Kỳ đợi chợ mơi.
Tựa đá Mãi Thần ngờ thế sự,
Gối tay Nhan Tử thách cơ Trời.
Sống nghèo Võ Kiết nghèo thanh bạch,
Bừng mắt cười khan thế vốn lời.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
ĐIẾU ĐỨC HỘ PHÁP
Mấy triệu môn sinh đổ lệ phiền,
Nhớ ơn Sư Phụ đã triều Thiên.
Dựng đời mạt pháp qui chơn giáo,
Chấp bút khai Ngươn lập Chánh Truyền.
Máy tạo cầm xoay chưa toại chí,
Cơ mầu xét lại cũng tròn duyên.
Đức lòa Nhựt Nguyệt càn khôn tận,
Bát Bộ Tam Châu chuyển Đạo quyền.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
(Có lẻ năm 1959)
HỌA VẬN THI CỦA ĐỨC THƯỢNG SANH
Đào nguyên chưa mãn cuộc chung vui,
Ai dễ gây nên cảnh đổi đời.
Xa vắng đàn em lòng ngóng đợi,
Mong chờ Huynh Trưởng dạ mau nguôi.
Sóng xao biển rộng bao nhiêu thuở,
Gió lộng trăng thanh có mấy hồi.
Ngừng vọng ơn trên ban bố trí,
Nhơn hòa, đại lợi phép Trời xui.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
HỌA VẬN THI CỦA NGÀI BẢO PHÁP
Giông tố đôi phen tiết khí còn,
Hạc về vừng cũ vẹn lòng son.
Đạo mầu phổ hóa gầy dân mới,
Giáo lý thông truyền dựng nước non.
Cánh hạc đã quen chìu gió lớn,
Thuyền từ há nệ sứ buồm con.
Sử sanh sáng tỏ danh Thiên Sứ,
Tạo khách chi nao tiếng méo tròn.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
HỌA VẬN THI CỦA ĐỨC THƯỢNG SANH
Hớn hở mừng xuân Tân Sửu sang,
Dập dìu cảnh vật rạng trên đàng.
Tưng bừng hoa nở màu tươi đẹp,
Lòe loẹt người dùng sắc điểm trang.
Tiền bạc kẻ giàu sang vật chất,
Nợ nần hạng khó tủi gia cang.
Ôi! Đời còn lắm trò cay đắng,
Một độ xuân riêng chạnh lệ tràng.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
HỌA VẬN THI CỦA ĐỨC THƯỢNG SANH
Rực rỡ non sông ngút dậm ngàn,
Oanh chào mai nở tiết xuân sang.
Thong dong én liệng từng mây bạc,
Hớn hở hoa chen ánh nắng vàng.
Bần ái đầy chan Trời bủa đức,
Nền nhân rộng mở gấm phô màn.
Đạo đời tương đắc hòa thiên hạ,
Đảnh Việt lừng danh vội tiếng vang.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
HỌA VẬN THI CỦA NGÀI BẢO PHÁP
Mai vàng chúm chím nụ cười xuân,
Bát ngát hương phai nét khổ trần.
Nô nức đề câu Lời Tống Cựu,
Ung dung chuốc chén Lễ Nghinh Tân.
Cầm kỳ vui hứng tình tri kỷ,
Thi tửu nhàn sai Đạo Thánh Nhân.
Năm mới cảnh đời, Trời đổi mới,
Thanh phong thổi sạch nét hung thần.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
HỌA VẬN CỦA NGÀI BẢO PHÁP
Thanh phong thổi sạch nét Phong Thần,
Mong Đấng Từ Bi bủa huệ ân.
Mong mối Đạo mầu công đức rạng,
Mong nền xã tắc gió mưa nhuần.
Mong cho dân khí nung hồn nước,
Mong thấy dư đồ xuất bóng lân.
Mong nghĩa đệ huynh vầy mộ khối,
Mong nòi Hồng Lạc sớm dung gần.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
CHÚA GIÁNG SINH
Phổ độ kỳ hai Chúa giáng sinh,
Thái Tây tháng chạp sử ghi rành.
Thọ hình “Thập Tự” trồng cây Ái,
Chực tội “Quần Linh” hưởng trái lành.
Trần thế cảm hoài ân cứu thế,
Nhơn sanh tưởng vọng đức hy sinh.
Trên ngàn thu lẻ đời triêm ngưởng,
Kỷ niệm Noel rạng Thánh danh.
Giáo Hữu Ngọc Nhượn Thanh
ĐIẾU ĐỨC THƯỢNG SANH
Đăng Tiên ngày 27-3 Tân Hợi (22-4-1971)
Đức Thượng Sanh Cung Ngọc sớm chầu,
Ôi thôi! trang lãnh đạo còn đâu?
Ngôi Tiên án ngự xong Thiên Mạng,
Bến tục còn bao cuộc bể dâu.
Sớm ngấm rừng thiền mờ tưởng bóng,
Chiều trông cửa Thánh sục sùi châu.
Anh linh khẩn nguyện xin phò trợ,
Giúp độ đàn em vững Đạo mầu.
Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh
MỪNG NGÀI HIẾN PHÁP
LÃNH CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Mừng Ngài Hiến Pháp đắc kỳ duyên,
Chưởng Quản Hiệp Thiên lãnh Đạo quyền.
Giáo Đạo dìu đời an phúc trạch,
Cứu đời truyền Đạo phỉ tâm nguyền.
Rung chuông tỉnh thế hòa sanh chúng,
Nương bóng thuyền linh sửng nhã thuyền.
Đời Đạo tương liên vun cội ái,
Đại đồng chung hưởng cảnh Thần Tiên.
Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh
ĐIẾU BÀ ĐẦU SƯ NGUYỄN HƯƠNG HIẾU
Nữ Đầu Sư Đạo Tỷ đăng Tiên,
Hoài cảm tiền nhân bậc đức Hiền.
Bốn chục năm dư vun nghiệp Đạo,
Tám mươi lăm tuổi ngụ Đài Liên.
Độ sanh mộ kiếp lòng chung thủy,
Thoát xác ngàn thu sử tạc biên.
Ngưỡng vọng Chí Tôn ban phúc huệ,
Chơn thần vinh hiển cõi Thiêng Liêng.
Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh
ĐIẾU BÀ NỮ ĐẦU SƯ HỒ HƯƠNG LỰ
Đăng tiên ngày 22-11 Nhâm Tý (27-12-1972)
Nữ Đầu Sư Đại Tỷ đăng Tiên,
HƯƠNG LỰ nêu danh bậc chí hiền.
Bốn bảy năm qua vun Đạo nghiệp,
Chín mươi lăm tuổi ngự Đài Liên.
Ngàn thu công trạng đời ghi tạc,
Muôn thuở hương thơm Đạo loán truyền.
Hồng phận xứng trang gương thánh đức,
Tiêu diêu Cung Nguyệt hưởng ân Thiên.
Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh
TỰ THUẬT
Bính Tuất niên (1946) xa lánh thi thiền,
Đường Tiên thẳng tới gặp Cao Thiên.
Cân đai phủi sạch đời danh lợi,
Đạo đức bền trao chí Thánh Hiền.
Giặc thế trải bao cơn khổ hạnh,
Độ đời đâu nại bước truân chuyên.
Chuyển xây nhân sự tùng Nghiêu Thuấn,
Nâng gánh xa thơ giữ mối giềng.
Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh
TỰ THUẬT
Tội lỗi gì đây việc chẳng làm,
Chuyện đâu vu khống phải đành cam.
Thị phi riêng chịu mình đau khổ,
Hơn thiệt tranh chi kẻ hiểu lầm.
Hắc bạch phú cho quyền tạo hóa,
Ưng oan tùy phán xét nhơn tâm.
Buồn trông cửa Đạo mây mờ mịt,
Nghĩ nổi gần xa đổ lệ thầm
Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh
CHƯƠNG V
VÀI CÔNG VĂN CỦA NGÀI ĐẦU SƯ NGỌC NHƯỢN THANH
Huấn Dụ Của Ngài Ngọc Đầu Sư Nhân Lễ Khánh Thành Cơ Quan Bảo Thể Ngài 30-5-1975.
Kính thưa: Ngài Hiến Pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
Ngài Đầu Sư, Chưởng Quản Cữu Trùng Đài Nam Phái.
Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện.
Đại Tá Tỉnh Trưởng Tây Ninh.
Qúi quan khách, Giáo Hữu, Thủ Lảnh Bảo Thể Quân.
Chức Sắc và nhân viên cơ quan Bảo Thế.
Tôi rất hân hạnh được thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Đài để lời trong lễ khánh thành cơ quan Bảo Thể long trọng đặt dưới quyền đồng chủ tọa danh dự của Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài và Ngài Đầu Sư Chưởng Quản Cửu Trùng Đài Nam Phái dưới sự hiện diện đông đảo của các Đại Tá Tỉnh Trưởng Tây Ninh, quí quan khách, quí Chức Sắc Thiên Phong và Chức Việc Đạo Hữu nam, nữ hành Chánh, Phước Thiện, nói lên cái thâm tình của quí Ngài và chư Huynh Đệ đối với cơ quan công quyền của Đạo.
Kính thưa quí Ngài và chư Huynh Đệ.
Cơ quan Bảo Thể Quân được Đức Hộ Pháp và Hội Thánh thành lập từ buổi Khai Đạo nhầm bảo trọng Thánh Thể Đức Chí Tôn, gìn giữ an ninh trật tự tại Đền Thánh và dinh thự các cơ quan công quyền của Đạo. Dù là một cơ quan không có tầm quan trọng về phương diện hành chánh Đạo, nhưng đã hữu công, đồng chung chịu khổ hạnh trong tất cả mọi biến thiên của nền Đại Đạo từ 48 năm nay. Trải qua những cơn thử thách, những bước thăng trầm của Đạo, các em Bảo Thể Quân biểu dương lòng trung kiên, ý chí hy sinh, thể hiện bằng hành động cang trực để bảo vệ Thánh Thể Đức Chí Tôn giữ gìn Tổ Đình và sản nghiệp của Đạo mà các bậc Tiền Bối đã dầy công xây dựng. Sở hành của các em quả xứng đáng với danh nghĩa của nó, phản ảnh tấm lòng hiếu hạnh trung thành đối với Chí Tôn và Hội Thánh.
Đức Chí Tôn hoằng khai Đại Đạo với mục đích mở trường thi công quả cho con cái của Ngài lập công đoạt vị cho nên Đức Hộ Pháp giảng dạy: Muốn đoạt Đạo phải thực thi chủ thuyết Tam Lập: “Lập công, lập đức, lập ngôn”.
Ý thức được yếu lý đó, mấy em trong cơ quan Bảo Thể đã cam thủ phận nếp sống an bần, một mặt lo phần nhơn Đạo manh áo chén cơm để bảo vệ gia đình cha mẹ già, vợ con thơ, một mặt xã thân phụng sự cho Đạo, biết dùng sức lao động mồ hôi của mình để lập công và đồng tiền tiết kiệm lập âm chất.
Về phương diện lập công, hồi tường lại những năm chiến nạn vừa qua, những năm gây nhiều biến cố đau thương tan tóc cho đồng bào, cho đồng Đạo. Nội ô Thánh Địa là nơi tỵ nạn che chở cho hàng chục con cái Chí Tôn, các em Bảo Thể Quân đã có công phối hợp cùng cơ Thánh Vệ tích cưc ngày đêm lo lắng, không màng sương tuyết gió mưa để đảm bảo trật tự an ninh, nơi ăn chốn ở cho toàn chư tín hữu. Trong khi thừa hành chức vụ các em cũng gặp lắm điều trở ngại, khó khăn phiền phức, nhưng với đức tánh ôn nhu và tinh thần Đạo đức sẳn có, các em biết tận tụy với bổn phận, nhẫn nhục dung hòa tâm lý các đồng Đạo khó tính, giữ được lễ độ trong mọi cử chỉ và hành động để xoa dịu phần nào những tâm hồn đau khổ của bạn đồng sanh gặp cơn hoạn nạn.
Hôm nay Hội Thánh lưỡng đài đến chứng dự hành lễ khánh thành văn phòng cơ quan Bảo Thể, một biệt thự lầu đồ sộ nguy nga, với nét kiến trúc tân thời xinh lịch, đầy tủ tiện nghi bàn ghế, tủ đóng bằng canh danh mộc do sáng kiến tổ chức và sự điều khiển ngoan khéo của Giáo Sư Thượng Lũy Thanh Thủ Lảnh Bảo Thể Quân cùng chư Chức Sắc trực thuộc.
Nhìn qua công trình vĩ đại của cơ quan nầy, mặc dù Hội Thánh không hổ trợ tài chánh, nhưng nhờ Ban Kiến Trúc giúp công quả Thợ Hồ, một phần ít nhà Đạo tâm giúp thêm vật liệu mà cơ quan Bảo Thế chỉ có lối 300 em tự túc đã hoàn thành được công nghiệp phi thường trong thời gian ngắn, đó là do sự đoàn kết, nhứt trí hòa tâm, đồng lao cộng tác, trăm người cũng như một của anh em, biết thực thi đức tin và áp dụng thuật bắt gió nắn hình là kế hoạch sáng tạo của Đức Hộ Pháp lưu lại nên thành công rất vẽ vang, đáng cho Hội Thánh ghi nhận và đặc biệt ban khen đại công về cơ quan lưu niệm.
Kính thưa huynh đệ trong cơ quan Bảo Thể “Hữu Chí Cánh Thành” lòng sở nguyện hành Đạo bất vụ lợi của anh em con yêu dấu hiếu hạnh Đức Chí Tôn đã được quyền Thiêng Liêng ám trợ, để tâm lo ích lợi chung, vì Thầy, vì Đạo, không quản nắng mưa, chẳng nài gian khổ, quyết tâm tô điểm vun bồi Đạo nghiệp, quên mình vì đại nghĩa, tôn trọng danh thể của Hội Thánh và hạnh phúc của nhơn sanh, đó là chí hướng và hoài bảo của những kẻ chơn tu giàu lòng Đạo đức.
Đức Chí Tôn dạy: “Muốn cho đắc Đạo phải có công quả”. Công quả ấy đặt trên nền tảng Đạo đức, nghĩa nhân và lòng chí thành. Trên phương diện tu hành, tùy theo hoàn cảnh, cương vị và phương tiện của mình mà lập công. Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần, công ấy nhiều hay ít, ngày chung cuộc sẽ được công bình Thiêng Liêng điểm công định vị.
Thấm nhuần được triết lý đó, biết bao tín đồ trung thành của Đạo lập công và không cần phô trương bằng hình thức, miệt mài tận tụy với nhiệm vụ nên nhiều vị đã đắc quả một cách vẻ vang như nhị vị Phối Thánh Phạm Văn Màng và Bùi Ái Thoại buổi trước. Nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống có hằng hà sa số các Đấng cao trọng mà có sử sách nào ở thế gian ghi chép được công nghiệp của các Đấng bao giờ. Cho nên hành Đạo mà tự tâm hành như bài Thánh Kinh Niệm Hương đã dạy: “Đạo gốc bởi lòng thành tính hiệp”.
Có thành, có tín mới nên Đạo, tạo được âm chất vô vi là một thành quả quan trọng để đoạt phẩm vị Thiêng Liêng.
Đức Chí Tôn khuyên chúng ta ráng lập công hành Đạo, vì mọi khó khăn trắc trở đều ở buổi sơ khai, đợi đến khi Đạo thành, sóng lặn, gió êm, thuyền Đạo vững lái thì còn đâu là công nghiệp phi thường để lập vị xứng đáng. Vì thế toàn thể con cái Đức Chí Tôn từ buổi khai Đạo đã đua nhau lập công, bồi đức, nhứt là tại Tổ Đình Tòa Thánh nầy là cội nguồn của nền Đại Đạo.
Trước kia nơi đây là rừng thiên nước độc, giang sơn của loài ác thú, mà ngày nay đã trở thành một thị xã phồn thịnh, dân cư đông đúc, Đền Thánh rực rỡ uy nghi được liệt vào kỳ quan của đất Việt, với biết bao dinh thự, lầu đài khang trang mỹ lệ. Đó chính là nhờ các bậc Tiền Bối của chúng ta đã dày công khai đường mở nẻo, tạo dựng với thiên nhiên nước mắt, mồ hôi, lưu lại một sự nghiệp tinh thần cũng như vật chất cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn đến thất ức niên.
Ngày nay thừa hưởng di sản quí báu của tiền nhân lưu lại, chúng ta nối tiếp bước Đạo hành, có bổn phận phải gìn giữ, điểm tô vun bồi cho mỗi ngày thêm vững vàng tiến triển, dụng phương châm lấy “Thể Pháp” mà thực hành “Bí Pháp” hầu đem Đạo độ đời dìu dắt nhơn sanh thoát khỏi bến mê, lần về bờ giác.
Đời sống của người tu sĩ Cao Đài là một đời sống tinh thần, xem thường danh lợi, lấy tình thương làm chủ nghĩa, lấy công bình làm nấc thang để lập vị Thiêng Liêng, vượt lên hết mọi khát vọng thấp hèn của phàm tục, với kiếp phù sanh ngắn ngũi chúng ta cố gắng bương bả cho kịp thì, dâng trọn thể xác và linh hồn làm con tế vật cho Đức Chí Tôn phụng sự quần linh hầu đền đáp ân trọng muôn một cho Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu.
Kính thưa Hội Thánh.
Các em Bảo Thể Quân đã noi gương sáng của các bậc đàn anh tiền bối, một lòng cúc cung tận tụy phục vụ đắc lực và hữu hiệu cho Hội Thánh, cho nhơn sanh và phát huy Đạo pháp bằng tất cả khả năng trí lực của mình, quả không thẹn là những tín đồ trung kiên của nền Cao Đài Đại Đạo.
Vậy nhơn danh Ngọc Chánh Phối Sư, thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Đài tôi chân thành khen ngợi Giáo Hữu Thủ Lảnh Bảo Thể Quân và cầu nguyện ơn trên Đức Chí Tôn ban ân lành cho cơ quan mỗi ngày một lớn mạnh để hoàn thành sứ mạng Thiêng Liêng của Hội Thánh giao phó.
Trước khi dứt lời tôi xin thành kính tri ân Ngài Hiến Pháp, Ngài Đầu Sư, Qúi Chức Sắc Thiên Phong, quí Quan khách và toàn Đạo hiện diện đông đảo hôm nay làm cho cuộc lễ được tăng phần trang nghiêm trọng thể.
Đó là một ân huệ và một khích lệ lớn lao quí báu nhứt đối với cơ quan Bảo Thể.
Trân trọng kính chào Hội Thánh và toàn thể chư huynh đệ.
Nay kính
Ngọc Chánh Phối Sư
Ngọc Nhượn Thanh