GÓP NHẶT CHUYỆN ĐẠO

QUYỂN XV

Viết xong ngày 3-8-Quí Hợi (1983)

QUANG MINH

 

  MỤC LỤC:

  1.NGHIÊU, THUẤN, KIỆT, TRỤ CHẾT RỒI CŨNG NHƯ NHAU

2. KẺ DỐT HAY GÂY

3.CÁCH THUYẾT ĐẠO (Lời giảng của Đức Hộ Pháp tại Hiệp Thiên Đài 10-10 Đinh Hợi)

4. BI THU VẤN NGUYỆT

5. LONG HOA HỘI

6. LÊ VĂN DUYỆT GIÁNG CƠ (Năm Ất Dậu (1945) 12 giờ khuya)

7.TUYỆT-HỌC

8. NĂNG LỰC CỦA TINH THẦN ĐẠO ĐỨC (Đức Hộ Pháp thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 9-11 Mậu Tư)

9. BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP VỀ CÀN KHÔN VŨ TRỤ

 

 

10.NGÀI BẢO PHÁP DẠY  - TỬU, SẮC, TÀI, KHÍ

11. SỐ 3 HUYỀN BÍ

12.PHƯƠNG CỨU RỖI CÁC TỘI HỒN (Từ Nhị Kỳ đến Tam Kỳ)

13.CUỘC HÀNH TR̀NH CỦA ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC SANG ĐÀI LOAN VÀ NHẬT BỔN

14. ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM GIÁNG CƠ GIẢI NGHĨA “TẠI SAO ĐỨC CHÍ TÔN PHẢI THỜ NƠI BÁT QUÁI ĐÀI”.

15. ĐĂNG SƠN TỨC CẢNH

16. ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM GIẢNG VỀ BÁT HỒN

17. T̀NH MẸ

18. NĂM ĐIỀU CHÍNH YẾU CỦA HỒI GIÁO

19. ĐỨC TÁNH TRUNG, HIẾU, NGHĨA

20. TRẤN TÂM CHI BỬU

 

 

1.NGHIÊU, THUẤN, KIỆT, TRỤ CHẾT RỒI CŨNG NHƯ NHAU

 

Dương Chu bảo: “Mọi tiếng tốt trong thiên hạ dồn cả cho vua Thuấn, vua Vũ, Chu Công, Khổng Tử, c̣n mọi tiếng xấu qui cả cho Kiệt và Trụ”. Vua Thuấn cày ruộng ở Hà Dương, làm đồ gốm ở Lôi Trạch, chân tay không lúc nào được nghỉ, miệng không được ăn thức ngon; không được cha mẹ yêu, anh em chị quí, 30 tuổi cưới vợ mà không thưa với cha mạ, tới khi vua Nghiêu truyền ngôi cho th́ tuổi đă cao, trí đă suy. Con trai ông ta là Thương Quân bất tài, ông ta phải nhường ngôi cho ông Vũ, rồi rầu rỉ tới chết. Ông ta là con người khốn khổ cô độc nhứt đời.

Ông Cổn cha của ông Vũ, được giao phó cho việc đắp đập đào kinh mà không thành công, bị xử tử ở núi Vũ Sơn. Ông Vũ phải tiếp tục công việc của cha, như vậy là phải thờ kẻ thù của ḿnh đem hết sức ra khai hoang, có con mà không âu yếm săn sóc con; đi qua nhà mà không vô, thân thể khô đét, tay chân chay cộm. Đến khi được vua Thuấn truyền ngôi cho, sống trong cung thất tồi tàn, đeo dây thao, đội mũ miện đẹp, mà rầu rĩ tới chết. Ông ta là con người lo lắng, lao khổ nhứt đời.

Vua Vũ (nhà Chu) khi mất, con là Thành Vương c̣n nhỏ, ông Chu Công (1) nhíp chính, ông Thiện Công không vui, khắp bốn phương đâu đâu cũng nổi lên lời chê, nên phải ra phía Đông ba năm, giết anh bỏ tù em để tự cứu ḿnh, sau sống rầu rĩ tới chết. Ông ta là người khốn đốn lo sợ nhứt đời.

Khổng Tử hiểu rơ cái Đạo Đế Vương, hễ vua nào mới th́ sẵn sàng tới giúp, là khi ở nước Tống, có lần người ta chặt cây tính hại ông, có hồi phải lẫn trốn ra khỏi nước Vệ, có hồi bị cùng khốn ở Thương, Chu (Tống và Lỗ), bị vây ở Trần Thái, bị Qúi Thị xúc phạm, bị Dương Hồ làm nhục, sau rầu rĩ cho tới chết. Ông là người long đong bị vua đuổi nhứt đời.

Bốn ông Thánh đó sống không được một ngày vui, mà chết đi để lưu danh lại vạn đời. Danh vốn không phải là thực mà bảo có thể hiểu được, tuy được người ta khen thưởng th́ cũng không biết, trơ trơ khác chi khúc cây cục đất.

Kiệt được hưởng kho tàn mấy đời tích lũy, quay mặt về phương Nam mà giữ ngôi chí tôn, trí đủ để khiến bọn bề tôi không dám nhờn, uy đủ để khắp nước rung sợ, tha hồ hưởng cái vui thanh sắc, muốn làm ǵ th́ làm mà sống vui vẻ cho tới chết. Ông ta là người phóng đảng nhất thiên hạ.

Trụ cũng được hưởng kho tàn mấy đời tích lũy, cũng quai mặt về phương Nam mà giữ ngôi chí tôn, uy lan ra khắp nơi, muốn làm ǵ th́ làm, phóng túng trong khuynh cung, dâm đảng trong cảnh “trường dạ”, không tự làm khổ ḿnh bằng lễ nghĩa, vui vẻ sống cho tới khi bị (vua Chu Vũ Vương) giết. Ông ta là người phóng túng nhứt thiên hạ.

Hai con người hung tàn đó, sống th́ hưởng lạc cho thỏa ḷng, chết mang cái tên xấu là ngu bạo. Thực vốn không phải là cái danh có thể tặng được, tuy bị người đời chê hay khen th́ cũng không biết, trơ trơ khác chi khúc cây cục đất.

Bốn ông Thánh kia tuy được dồn cho mọi tiếng tốt, nhưng chịu khổ cho đến chết, rồi cũng chết như mọi người vậy.

Hai kẻ dung bạo kia phải chịu mọi tiếng xấu, nhưng được vui cho đến hết đời, rồi cũng chết như mọi người vậy.

(Trích trang 271-277 Liệt Tử và Dương Tử của Nguyễn Hiến Lê)

(1)                       Chu Công là con Văn Vương, em vua Vũ Vương, chú của Thành Vương (-1115-1077) đặt ra lễ nhạc.

 

 

 

 

2. KẺ DỐT HAY GÂY

Ta có nghe như vầy:

Lúc ấy Phật ngủ trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, gần thành Xá Vệ. Gần đến giờ ăn, mấy sư ôm bát đi vào thành Xá Vệ mà xin cơm.

Trời chưa đúng ngọ mấy sư mới nói với nhau rằng: “Bây giờ c̣n sớm, ta khoan vào thành, tốt hơn là ta nên vào nghỉ trong pḥng giảng thuyết của bọn Bà La Môn ngoại Đạo kia”. Ai nấy đều đồng ư, đồng kéo vào, chào hỏi mấy sư Bà La Môn xong, cùng nhau mới dựa ghế và ngồi nghe. Lúc ấy mấy sư Bà La Môn đang cải với nhau về Đạo lư trong kinh. Đến một lúc không ai vừa ư, thành ra rối mèm. Rồi cùng nhau càng oán trách, càng giận dữ thêm, mạnh ai nấy thốt rằng: “Ta nói nhằm Đạo lư mà ta đă thấu, c̣n ngươi nói là trúng Đạo lư sao? -Ta nói là ta theo Đạo đức, c̣n ngươi nói là do theo Đạo đức sao?-Tư tưởng ta đáng thi hành, c̣n tư tưởng ngươi không đáng thi hành.-Việc phải nói trước ngươi lại nói sau, c̣n việc phải nói sau ngươi lạ nói trước.-Theo Đạo đức triết lư, th́ ngươi nói rất sai lầm. Ngươi cải xước mà không hiểu nghĩa th́ c̣n cải mà làm ǵ?-Đă yếu mà đ̣i vác nặng, thật lếu dữ a!-Việc học hỏi của ngươi không ra ǵ mà ngươi dốt nát vô cùng. Ngươi làm bộ hốt tốp chúng hỏi nào tới th́ ngươi tính liệu sao?”. Cả bọn đều gây ra một trận chiến đấu rất kịch liệt. Họ lấy gươm bằng lưỡi mà đâm chém nhau; càng bị đâm chém họ càng làm dữ thêm.

Mấy sư Đạo Phật nghe hai bên thề thốt nặng lời, không nhận bên nào là nói có lư, bên nào là nói vô lư, bèn đứng dậy đi ra và vào thành xin cơm. Cơm đă đỗ vào bát và chén đă sắp lại có thứ tự đặng trả cho thí chủ, cùng nhau trở vào thành Tịnh Xá. Mấy Sư chào Phật xong bèn ngồi ngay hàn mới đem chuyện khi nảy thuật lại và hỏi rằng: “Chúng con thấy mấy người Bà La Môn ấy cố gắn học hỏi nhưng không hiểu chừng nào họ sẽ tầm được chân lư, nhờ Đức Thế Tôn dạy cho”.

Phật mới dạy rằng: “Chẳng những bọn đó ngu dốt tối tâm ở đời nầy thôi đâu. Thuở xưa cách nay lâu lắm, trên cơi Ta Bà có một v́ vua rất mộ Đạo từ bi của Phật. Vua hiểu Đạo rất nhiều, nhiều như cá dưới băi sông Hằng Hà (Gange). C̣n đ́nh thần và dân chúng phần đông đều không thông Đạo lư. Họ nào có đọc kinh, họ chỉ có coi qua mấy trượng sách nhỏ nhí hẹp ḥi thôi. Họ tưởng đâu đâu là sáng chớ nào họ có cho mặt Nhật, mặt Nguyệt là sáng hơn. Vua muốn cho họ bỏ ao nhỏ mà ra biển cả, nên định dùng kẻ mù mà làm một kế rất hay. Vua truyền lịnh cho quân đi khắp trong nước kiếm những người mù tự nhiên hồi mới lọt ḷng mà dẫn vào thành.

Quan vân lịnh ra đi gom hết thảy các người mù mà đem về thành rồi mới vào báo rằng đă dắt lại đủ người mù, họ c̣n đợi dưới đền. Vua phán: “Đem voi ra mà hỏi họ”. Quan vân lịnh vua nắm tay họ dắt lại gần voi lấy tay mà chỉ voi cho họ.

Trong đám mù, kẻ th́ nắm lấy gị, kẻ chụp lấy chùm đuôi, người sờ trúng ṿi, người sờ trúng bụng, người sờ lưng, kẻ sờ tai voi, kẻ sờ ngà voi…

Bọn mù đứng chung quanh con voi, mới cải lẫy với nhau om ṣm, ai cũng cho ḿnh là đúng, c̣n người ta nói bậy hết.

Quan dắt họ lại cho vua. Vua hỏi: “Sao mấy người có thấy voi chăng?”

Cả đám đều tâu rằng: “Chúng con đều có thấy hết”.

Vua hỏi tiếp: “Voi giống cái ǵ?”

Kẻ ôm trúng gị th́ nói: “Tâu bệ hạ, voi giống cái ống bằng cây sơn, Người nắm chùm đuôi nói voi như cây chổi. Người rờ bụng nói nó giống cái trống chầu. người rờ trúng hông nói nó như tấm vách tường. Người sờ lưng nói nó như cái bàn cao. Người xách vành lỗ tai nói nó như cái rổ. Người rờ đầu nói nó như cái ché. Người nắm ngà nói nó như cái c̣i. C̣n người rờ ṿi th́ nói rằng: Tâu Bệ Hạ con voi giống sợi đỏi”.

Rồi đó cả bọn mù cải rân lên trước mặt vua , người nào cũng giành nói con voi giống thật theo lời ḿnh. Vua cười lên ha hả và phán rằng: “Các quan trong triều đều giống như mọi người nầy v́ bởi chưa ai coi đến kinh phật”.

Vua bèn ngâm bài kệ rằng:

 

Trào thần đă hẳn các ngươi mù,

Chẳng hiểu mà khoe thật quá ngu.

Biết một ngỡ là ḿnh biết hết,

Chỉ v́ chút tượng lại sanh thù.

Vua mới phán tiếp thêm rằng: “Những kẻ chỉ học theo sách hẹp ḥi chớ chưa từng biết kinh điển cao xa thăm thúy giải chơn lư đành rành và bao la, những kẻ ấy có khác nào kẻ đui mù chẳng thấy đường”. Vua phán xong bèn tụng kinh Phật với các quan lớn nhỏ trong triều.

Phật phán với chư vị Tỳ Kheo rằng: “Ông vua ấy chính là ta. Những kẻ đui mù thuở đó chính là bọn Bà La Môn trong pḥng giản kinh khi nảy. Họ dốt nát, v́ dốt mới gây gỗ om ṣm. Mà họ càng gây gỗ th́ lại c̣n dốt nát măi thôi. V́ gây gỗ ghét ganh nên họ chẳng tấn bộ chút nào”.

 (Trích trang 58-61 Chuyện Phật Đời Xưa của Đoàn Trung C̣n)

 

 

 

3.CÁCH THUYẾT ĐẠO

(Lời giảng của Đức Hộ Pháp tại Hiệp Thiên Đài 10-10 Đinh Hợi)

 

Bài học văn chương của Chí Tôn rất giản dị. Hành tàng Pháp hay Nam cũng chẳng khác nhau, nói hay viết cũng như một bài thi. Các hành văn (tenue) chia ra từng đoạn.

Sujet đối với phá thừa

Développement  đối với trang luận

dénouement đối với thúc

Conclusion đối với kết

Diễn văn phải giữ chặt niêm luật có mực thước như một bài viết, phải khép vào một khuôn luật nhứt định, nếu không nghẹt lời, không ngỏ ra, trong các nền tôn giáo, đó là sự rất trọng hệ. Như Đạo Gia Tô ngày xưa mở ra, 12 vị Thánh Tông Đồ học ở trong nhà Sainte Masca nhờ có chơn linh gián hạ giúp sức, ngày kia Đức Chúa Jesu nói: “Miệng các ngươi là miệng ta, lời Đạo đức các ngươi thốt ra là lời ta, các ngươi phải đi truyền tân ước (nouveau testament)”. 12 vị Thánh Tông Đồ đều dốt, nhờ chơn linh giáng hạ nhập thể nên phát huệ ra.

Lúc chưa biết Đạo, tôi cũng không tin điều ấy, đến lúc ở chùa G̣ Kén, trước mấy ngàn người, tôi đứng lên giảng đài đi qua lại đến 19 ṿng, mà hễ ngước mặt lên thấy đều người lố nhố, không thuyết được. Kế phát sực sờ như say rượu không thấy ai hết, say đáo để, nói mà không biết nói những ǵ, chừng xuống đài thiên hạ khen mới biết. May mà trước tập nhiều rồi đó. Chí Tôn dạy tôi và anh Cao Thượng Phẩm, hễ người nầy thuyết th́ người kia nghe, nhờ vậy nhứt là nhờ anh Cao Thượng Phẩm kêu ngạo nên phải cố gắn, vậy mà lên đài c̣n quán mắt. Tôi buộc mấy anh em chị em tập cho quen dạng; Đạo sau nầy muốn truyền bá ra thiên hạ nên cần phải thuyết Đạo là vô tự kinh, viết sách truyền bá không bằng thuyết giảng cần có niêm luật. Với ai th́ sợ chớ với ṇi giống Việt Nam ḿnh đă sẵn văn hiến 4000 năm.

Có 3 mô giới: Phú, Tả, Hứng

Phú là đọc thông sách vỡ đem nguyên văn ra giản giải cho rơ nghĩa.

Tả là lấy cổ soi kim, dùng tích xưa giải hiện tại.

Hứng là đứng lên rồi phát hứng chí mà nói. Hậu thuận cho ba mô giới là Kinh, Điển, Luật. Muốn phú được phải thuộc kinh. Tả là phải lấy điển tích làm th́ dụ đặng so sánh.

Hứng không được ngoài khuôn luật, ngoài sự thật, không được nói bậy. Nhớ 3 chơn tướng trước, 3 hậu thuẩn sau. Một bài thi đủ cho ḿnh thuyết giáo rồi. Với Chí Tôn không khó như:

“Yến Tử Hà xưa lúc vận cùn,

“C̣n mang dép rách đến Quan Trung,

“Nay ta chưa rơ thông đường Đạo,

“Cứ nói theo chơn Lăo tháp tùng.”

Ngài ngụ điển rồi mới lấy tích. Như 2 câu đầu, hỏi tại sao Yến Tử Hà lại mang dép rách đến Quang Trung. Yến Tử Hà là tôi của nước Hàng, nước Hàng mất đi cầu cứu xin rửa nhục cho ḿnh. Sở Bá Vương chê người Hàng không dùng, nên Yến phải lận đận, nghèo khổ, phải mang dép rách đến Quang Trung t́m Hớn Bái Công. Hai câu sau: Các con cứ theo Thầy coi để bước của con lên dấu chân của Thầy th́ không bao giờ lạc. Yến bị bạc đăi, nước Hàng bị chiếm (Trương Tử Pḥng là người Hàng cũng trong thời đó). Hỏi vậy Chí Tôn lấy tích ǵ?-Nước ḿnh cũng mất như nước Hàng. Yến đi làm tôi cho Hớn đặng báo thù cho Hàng. Chí Tôn muốn nói các con muốn báu thù nước th́ làm như Yến vào Quang Trung, muốn nước các con c̣n th́ theo Thầy.

Thôi thí nghiệm thử xem mấy anh em cho tôi một cái đề để tôi thuyết. Như bài thi:

“Phong Thần đừng tưởng việc mờ hồ,

“Giữa biển ai từng gặp Lăo Tô.

Chuyện Phong Thần đừng tưởng viết ra là bịa đặt. Lăo Tô là Tô Đông Pha ông tổ của ṇi giống Phù Tang. Ai dè ngoài biển có Tô Đông Pha nghĩa là có sắc dân Phù Tang, ai từng gặp mà gặp là khó đa.

“Mượn thế đặng toan phương cứu thế,

Mượn thế bây tàn ác, vô Đạo đức đặng thức tỉnh bây.

“Cũng như nương bút của chàng Hồ.”

Ông Đổng Hồ lănh cầm cây viết, viết sử của Vương Kiệt là đắc thắng. Thấy Vương Kiệt bị hại mà không sợ vào đó lănh. Cũng như Thầy hiện giờ đến đây gặp nhơn loại đương tàn ác, mượn cái tàn ác đó đặng thức tỉnh chúng sanh, như Đổng Hồ đă không sợ chết th́ Thầy sẽ thắng như Đổng Hồ vậy, đặng lặp cho các con thành tựu. Hồi đời đó có một người tướng tài của nhà Tần mà ngồi không, không chịu kháng chiến, Đổng Hồ ghi: Tội thất quốc nầy là của anh. Hỏi tại sao? –Tại anh ngồi không, làm liệt bại tinh thần tranh đấu nên tội ấy của anh đó.

Bài nầy đầy đủ trang khuôn luật.

 

 

 4. BI THU VẤN NGUYỆT

(Rằm tháng 8 năm Nhâm Thân)

Thử hỏi thu nồng đă thoát qua,

Thu sang thu trở đến thu tà.

Đường thu Cung Quản bao nhiêu trải,

T́nh thế Hằng Nga chẳng thấy già.

Gương đă làu soi bầu thế giới,

Nguyệt sao ảm đạm nẻo quang hà.

Đạo tràn ngẩn lối trông tin nguyệt,

Nguyệt vẫn lu lờ lánh dạng xa.

Văn Pháp

Bát Nương DTC Họa Vận

Thu về thắm thoát kế thu qua,

Thu hỏi chừng bao định chánh tà.

Thu đạm non âu vừng ác xế,

Thu treo đảnh Việt bóng trăng già.

Thu c̣n nung nấu ḷng binh lửa,

Thu đă đ́u hiu dậm hải hà.

Thu trước thu nầy bao kẻ biệt,

Thu rầu gượng nhắn khách đường xa.

 

 

 

5. LONG HOA HỘI

Pḥ loan: Hộ Pháp, Tiếp Đạo.

Tám năm cửu thập động ḷng ôi! (1985)

Thập nhứt mười hai khó đứng ngồi (11-12)

Bền chí theo Thầy sau hưởng cảnh,

Đừng mê phàm tục ắc mồ côi.

 

Mồ côi phải đọa chốn A Tỳ,

Đại Hội Long Hoa đoán quyết y.

Lăo gẫm vật chi trong cơi thế,

Chết rồi để lại chẳng c̣n chi.

 

Khổ lắm con ôi! Khổ lắm con,

Cuộc đời khác thể vượn ĺa non.

Mây bay tứ phái trời mờ mịch,

Gió thổi tứ phương nước chảy tràn.

Chinh lở núi non nào xiết kể,

Lắp bằng sông biển dễ chi c̣n.

Rồi đây rơ biết cồn dâu bể,

Khó lắm con ôi, khó lắm con.

 

Ngọc trổ non Nam xuất Thánh Hiền,

Lo cơ phục nghiệp có Thần Tiên.

Dắt dê qua ải Trời xây bóng,

Thả cọp về non Phật đón chiền. (năm Dần)

Lấy ấn giếng sâu vui chẳng mẻ,

Thân thành xứ dữ phước c̣n nguyên.

Cơ đời đổi vẻ nhơn sanh phỉ,

Ḷng vọng Trời cho thấy nhăn tiền.

 

 

 

6. LÊ VĂN DUYỆT GIÁNG CƠ (Năm Ất Dậu (1945) 12 giờ khuya)

Pḥ Loan: Tiếp Đạo, Thượng Sanh

Sấm dậy năm châu máu chảy tràng,

Vùng Nam luống chạnh buổi lầm than.

Rừng hồn khóc nước sầu hơi quốc,

Trời thảm trông tin bậc tiếng nhàn.

Bụi gió pha lừng đời gió bụi,

Tan thương vẽ đậm nét thương tan.

Dặn ḷng nhắn gửi non sông cũ,

Vay trả chờ xong nước khải hoàn.

Nam Triều Tả Quân Lê Văn Duyệt

 

 

7.TUYỆT-HỌC

Ông Nguyễn Hữu Lương có sáng tác một bài nhắc lại công nghiệp vĩ đại của Lăo Tử và tất nhiên có chủ đích tán dương một Tuyệt-Học mà chỉ có ông Tổ Triết của dân tộc Bách Việt mới có. Đặc điểm của bài thơ nầy là những chữ, những câu được dùng để sáng tác đều dùng lấy của Đạo gia nhứt là trong hai tác phẩm : “Đạo Đức Kinh của Lăo Tử và Nam Hoa Kinh của Trang Tử”. Đó là cái điểm khác biệt của bài thơ thường thấy do đó rất khó làm và khó hiểu.

Ngự kim chấp cổ chấn Nam Hoa,

Đạo Đức Âm Dương bảo phụ ḥa.

Cốt nhược ôn nhu nhi ốc cổ,

Vô vi tự hóa xử vô hà.

Công thành bất hữu kim dao tụng,

Tuyệt học vô ưu chí lạc ca.

Thiên địa tịnh sinh lai hựu vảng,

Côn bằng vạn lư Bắc Minh ba.

 

Tác giả dịch luôn:

TUYỆT-HỌC

Lo kim liệu cổ nức Nam Hoa,

Đạo đức Âm Dương quyết giữ ḥa.

Gân yếu xương mềm mà nắm vững,

Không làm vẫn hóa cơi vô hà.

Công thành chẳng thiết, thong dong vịnh.

Tuyệt học không lo hứng thú ca.

Trời đất cùng sinh qua lại lại,

Côn bằng muôn dặm Bắc Minh ba.

Nguyễn Hữu Lương

(Trích trang 549-550 Kinh Dịch Với Vũ Trụ Quan Đông Phương của Nguyễn Hữu Lương)

 

 

8. NĂNG LỰC CỦA TINH THẦN ĐẠO ĐỨC

(Đức Hộ Pháp thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 9-11 Mậu Tư)

 

Có một vấn đề trọng yếu do nơi trường ngôn luận tại Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, cho nên ngày nay Bần Đạo thuyết về Năng Lực Của Tinh Thần Đạo Đức.

Cái sở năng của ḿnh cũng như cái huyền bí vô cùng tận của vũ trụ. Bời v́ nó sản xuất do tánh đức di truyền của chơn linh, của mỗi người chúng ta. Cho nên con đường Đạo tấn trí thức của toàn nhơn loại trong càn khôn vũ trụ với cơ quan hữu h́nh tức là xác thịt họ đối lại phần vô vi tức là Nguơn linh trong càn khôn vũ trụ chưa có mức hữu định, c̣n dục tấn măi. Sự dục tấn ấy Thiêng Liêng đă định phận như ghi một cái mức cho bước đi mỗi người. Mức dục tấn ấy là mức Thần Thánh Tiên Phật rồi đến Trời là cuối cùng. Cái năng lực đó đă để một trường ngôn luận kịch liệt tại cung Hiệp Thiên Hành Hóa.

Sở năng của mỗi người không đồng nhau, địa điểm của các chơn linh không đồng phẩm, mà không đồng phẩm tức là không đồng vị, mà không đồng vị tức là khác tánh chất. Cho nên không người nào giống tánh chất người nào, mỗi chơn linh có địa vị riêng tư của ḿnh, địa vị ấy tạo thành phương tu của mỗi người đoạt đặng. Bởi không giống nhau như thế mới nảy sinh một trường hổn loạn. Nếu cả nhơn loại trên địa cầu nầy biết được đặc điểm của địa vị ḿnh, th́ không hề có trường tranh đấu vĩ đại như ta đang thấy ngày nay. Nếu Staline biết địa điểm của ḿnh th́ không cần chiến đấu với Narchrl với Truman. Cầm chắc nếu Hitler biết đặc điểm địa vị chơn linh của ḿnh thật đứng nơi nào, chưa hề nghịch với Churchill, Reynaud đến nổi có trận giặc thế giới chiến tranh thứ nh́.

Hay biết chăng chỉ có bật tự giác ḱa, biết ḿnh biết người, tự giác ḿnh đặng tức hiểu địa vị của ḿnh đến đặc điểm nào mới an phận thủ thường, mới xử vẹn đời sống của ḿnh đặng. Người đă biết đặc điểm địa vị chơn linh của ḿnh đứng vào phẩm vị nào th́ thủ thường tự an tự lạc, dầu cuộc sống có đảo lộn thế nào đi nữa, đă chủ định tinh thần ḿnh không ai làm cho ngă nổi. Ấy là các chơn linh biết tự chủ một cách đặc sắc vậy.

Nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa có nhiều chơn linh ấy về đặng thật, không có chơn linh nào dưới thế gian nầy mà không muốn tu, ngặt v́ không phương tu. Có kẻ đổ thừa tại đời sống đa đoan. Nào vợ nào con, nào của cải, nào tiền bạc ruộng nương, đổ thừa thôi đủ thứ, cả đến chức tước quyền hành. Muốn tu ngặt không có bề thế tu được. Sự thật cũng có nhiều chơn linh muốn tu, thật tâm muốn mà không làm được. Cũng có kẻ không thể rời cái nhà của ḿnh, thậm chí đến không rời bà vợ của ḿnh ra được, rồi đến ngày về Cung Hiệp Thiên Hành Hóa khóc lóc thảm thiết, bào chữa lấy ḿnh nói: Tôi muốn tu lắm song t́nh đời c̣n dính dấp, hỏi các Đấng trọn lành nơi cung ấy có cảm xúc chăng?

Họ cười: “Do ai đă đào tạo cho bạn, ai đă buộc ràng cho bạn trong khuôn khổ ấy, chẳng qua do tiền căng báo hậu, bạn đă làm bạn phải gánh lấy. Không lẻ như bạn mượn lúa của người ta ăn mùa trước rồi mùa sau không trả, nói rằng không thiếu nợ. Bạn muốn tu mà không tu được, tại kiếp nầy xác thịt đă bị lên án tử h́nh hữu định. Tu không được nguyên do tại bạn đă làm phải chịu không c̣n cương lư ǵ nữa, ấy là cái nợ của buổi sanh tiền. Nếu ḿnh nói “tôi không biết nguyên căn mối nợ mà tôi mắc v́ không biết nên trong kiếp sanh tôi không nh́n nó”, th́ các Đấng ấy không ngần ngại ǵ cả, giở thiên thơ cho ḿnh được thấy quả kiếp do ḿnh đào tạo. Lại chối nữa “con vợ tôi tại sao nó khó ḷng quá, bước ra một bước đường là nó ghen, không cho tôi tu hành ǵ hết”. Tới chừng giở thiên thơ ra th́ đây: Kiếp trước chú mầy làm vợ, c̣n vợ chú mầy làm chồng, tấn tuồng vai trả mà thôi. Không tu được là do quả kiếp lôi kéo không cho chú mầy tu, tại nghiệp chướng của chú mầy, tu rồi ai trả oán cho chú mầy đă tạo trước đây.

Trong thiên thơ nợ cựu nợ tân lúc đầu, mà cửa hư linh tức cửa Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, các Đấng trọn lành chưa hề mở miệng chối tội là nhờ ở năng lực tinh thần của họ.

Nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có th́ Chí Tôn ngày nay chưa đến mặt thế nầy đặng tuyển chọn cả lương sanh tức là các chơn linh hữu căn hữu kiếp đặng tạo h́nh thể của Ngài. Nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có th́ Đạo Cao Đài ngày nay không nên lặp ra.

Ta thấy có một hạng đại giác, mà giống bên lành hay giống bên dữ, bên thiên lương hay bên quỉ quyền cũng vậy đều có một năng lực tinh thần đặc sắc của họ. Bằng cớ hiển nhiên trước mắt: Làm đảo lộn toàn cầu khiến cho nhơn loại phải điên đảo tàn diệt do đầu óc của một người là Hitler. Rồi chúng ta c̣n thấy một bằng cớ nữa quá sức tưởng tượng là năng lực Cộng Sản đang tàn hại cả mặt đời buổi nầy làm đảo lộn cả tinh thần của con người. Hitler đảo lộn toàn nhơn loại nhờ nương mănh lực của ngọn gươm mũi súng. Cộng Sản đảo lộn tinh thần nhơn loại với lư thuyết Cộng Sản của nó. Người đào tạo ra thuyết ấy là Karl-marx, chỉ có một người mà thôi. Cái năng lực tinh thần của một người có thể làm cho nhơn loại an toàn hạnh phúc hay tự diệt lấy ḿnh đặng, huống hồ chi Thánh Thể của Đức Chí Tôn do tự Ngài đến chọn. Bần Đạo dám chắc nếu ngày nào các bạn đến Cung Hiệp Thiên Hành Hóa các đấng trọn lành hỏi các bạn đủ năng lực và xứng phận chăng, chắc các bạn không bào giờ dám nói không. V́ nếu không th́ ra sự lựa chọn của Chí Tôn lầm lạc sao. Quả quyết Chí Tôn không hề lầm bao giờ

Bần Đạo đă nói, năng lực một chơn linh đại giác c̣n có thể làm cho toàn cầu đảo ngược. Th́ năng lực của tinh thần thánh thể của Đức Chí Tôn, nếu nói năng lực đó là của toàn con cái của Ngài hiệp lại tất đoạt được quyền năng mănh liệt  huyền diệu ấy th́ lo ǵ thánh thể của Ngài không tận độ thiên hạ đặng, hoặc lâu hay mau, hoặc chầy hay kíp. Thánh thể của Ngài tức là Hội Thánh sẽ làm chủ tinh thần thiên hạ.

 

 

 

9. BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP VỀ CÀN KHÔN VŨ TRỤ

 

Kể từ khi Thái Cực, Lưỡng Nghi, 36 từng Trời, 9 từng Cửu Thiên Khai Hóa, Nhựt mạch đẳng tinh vi, thập phương chư Phật, vạn chưởng thế giái, Đại Thiên thế giái, Tam Thiên thế giái, Tứ Đại Bộ Châu, Thất Thập Nhị Địa và chư động phủ Phật, Thánh, Tiên cư ngụ trụ.

Thưa chư Hiền Huynh, Hiền Tỷ, tôi xin nhắc ngày giờ mới khai đàn tại Cần Thơ có mấy vị Đồ Nho hầu đàn xin bạch Thầy như vầy:

“Xin Thầy từ bi giải cho chúng con rơ h́nh thức của càn khôn vũ trụ ra sao mà con thường nghe mấy vị Đồ Nho bàn căi với nhau mỗi mỗi không in một lư. Người th́ nói Trời lớn, người th́ nói Phật lớn. C̣n trong sách “Tam Tự Kinh chú giải” th́ Đức Thánh nói: “Tam thập tam thiên”; c̣n trong kinh Thầy nói: “Thượng Chưởng tam thập lục thiên” nên phần nhiều b́nh luận phân phân bất nhứt. Con không rơ thế nào là đúng xin Thầy từ bi xá lỗi”.

Thầy đáp: 

"Các con có học rộng, nhưng cái rộng c̣n khuyết điểm muôn phần. Nơi thế gian hữu h́nh hiện tượng trước mắt mà c̣n chưa hiểu đặng huống ǵ thấu đáo sự vô h́nh, v́ huyền diệu Thiêng Liêng mà người không học Đạo dễ ǵ hiểu đặng. Những bực Thánh trước Hiền xưa ra công sưu khảo cùn đời mạc kiếp c̣n chưa vén nổi cái màn bí mật của Đấng Tạo Hóa đón ngăn, huống chi người thường nhơn luận bàn sao cho suốt lư!

Kể từ khi Thầy sai Bàn Cổ xuống thế mở mang địa cầu nầy, nhơn loại thuở đó c̣n h́nh tượng Thiêng Liêng chưa biết mặc áo quần, c̣n ở nơi hang hố, chưa có nhà cửa văn tự. Từ đó về sau cách mấy mươi năm đến đời Ngũ Đế, họ Phục Hy, họ thường hết tâm theo quái điểu tích (tầm dấu chơn chim) chế ra văn tự đề mà ghi nhớ. Từ đó về sau mới có lịch sử, nên sách Nho có câu: “Cái cái thiên nhị chi dân sào cự huyệt sử nhụ mạo ẩm huyết, Đổng nhi các vỉ kỳ hàng, ẩn cư vỉ thi kỳ thử”. Nên lúc có văn tự, bất quá nghe truyền, nghe độ chừng rồi chép bướng, hỏi vậy lấy đâu làm bằng cớ.

Ấy là nói sự tích ở thế gian nầy c̣n chưa rơ c̣n luận qua thế giới khác như nhắm mắt ṃ kim nơi đáy biển, hay bầy kiến t́m đường lên núi Tu Di, th́ sự học khuyết của người như mài kiếm dưới ḅng trăng, ếch nằm đáy giếng. Cũng có lắm người gọi ḿnh là hay giỏi, dẫn người lạc bước sai đường, thân ḿnh mù quáng mà chưa hay c̣n tài khôn dắt thêm kẻ tối đui th́ làm sao khỏi lọt vào đám gai chông cùng sa hầm hố. Cười … Nếu người nào muốn học hỏi th́ Thầy rộng ḷng giảng dạy, c̣n kẻ nào không chịu học sau đừng đỗ cho Phật giả vô ngôn.

Vậy trước khi chưa phân Trời Đất, khí hư vô bao quát càn khôn, sáng soi đầy vũ trụ. Đó là một cái trung tâm điểm tức là Đạo, rồi Đạo ấy mới sanh ra Thái Cực. Hồng mông sơ khởi huyền huyền hạo hạo, khối lại thành ngôi Thái Cực, rất đầm ấm lưng chừng trong đó toàn là một khối đúng mấy muôn năm bùng nổ ra tiếng dường như thiên khuynh địa khúc th́ đă có Thầy ngự trong ngôi Thái Cực. Rồi có một tầng âm và một tầng dương gát chồng nhau h́nh chữ thập, ló ra bốn cánh gọi là lưỡng nghi sanh tứ tượng. Chữ thập mới dần dần quay lộn chạy lằn tṛn như chong chóng lan tỏa ra muôn ngàn quả tinh cầu thế giới. Chữ thập ấy dưới có 4 cánh bông kêu là tứ âm, tứ dương tách thành Bát Quái là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Bát Quái mới biến hóa vô cùng, phân định ngũ hành, càn khôn muôn vật.

Thái Cực sanh Lưỡng Nghi tức là Tam Thiên Vị (Ba ngôi Trời). Dưới ba ngôi ấy là Tam Thập Tam Thiên (ba mươi ba từng Trời) cộng với 3 ngôi trên là 36 từng nên gọi là Tam Thập Lục Thiên.

Trong mỗi từng, Thầy chiết chơn linh có một vị Đại La Thiên Đế Chưởng Quản. Chỗ Thầy là Bạch Ngọc Kinh, là Kinh toàn ngọc trắng rộng cao ṿi vọi, ngoài có Huỳnh Kim Khuyết là cửa ngơ bằng vàng cực kỳ mỹ lệ.

Dưới 36 từng Trời c̣n có một từng nữa kể là nhứt mạch đẳng tinh vị gọi là cảnh Niết Bàn, chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa tức là 9 phương Trời, cộng với Niết Bàn là Thập Phương Chư Phật. Gọi 9 phương Trời, 10 phương Phật là do đó.

Cơi Niết Bàn là chư Phật ngự. Phật Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan Âm ngự nơi hướng Nam. Mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng hà sa số Phật.

C̣n 2 chữ Như Lai là cảnh Phật chớ không phải là danh Phật, nên trong kinh có câu: “Bổn giác vị như kim giác Như Lai”.

Bồ Đề là nơi chỗ Phật ngự, Phạm Môn là cửa Phật, Bỉ Ngạn là đất Phật. Huỳnh Kim bố địa là vàng rồng đầy đất. C̣n chỗ Nam Hải Ngạn Thượng là Quan Âm ngự gần bờ biển nơi hướng Nam cảnh Phật chớ không phải hướng Nam nơi cảnh phàm.

Đó là c̣n ở thượng tầng không khí hay là chi khí. Rồi kế đó là Đại Thiên Thế Giới và Thượng Phương Thế Giới là chỗ Đức Tây Vương ngự nơi cung Diêu Tŕ. Gần đó có Vườn Ngạn Uyển Bàn Đào, Ngũ nhạc Bồng Lai nhược thủy.

Các Đấng Thiêng Liêng nam nữ hằng hà sa số lâu đài cung điện toàn bằng ngọc ngà châu báu, hổ phách, san hô như Lục Thiên Ngân Cung, Tử Phủ Thanh Đô, Điện Đài Lănh Phóng trong cảnh nhị châu chơn vơ.

Nơi Linh Tiêu Điện là chỗ chư Tiên nhóm hội, có Ngọc Vệ Kim Nương, giao lê quả táo, toàn là tiên dược nhẹ nhàng cũng như kim đơn đế, hồ huỳnh tương, trường sanh chi tửu, là rượu trường sanh dùng đặng sống hoài không chết.

Kế đó là Trung Phương Thế Giới là nơi cung điện của Thần Tiên, Nhơn Tiên, Quỉ Tiên, các bậc Quần Tiên.

Rồi đến Hạ Từng Thế Giới, Tam Thiên Thế Giới, 3000 quả tinh cầu, phân làm Tứ Đại Bộ Châu, rồi nối theo Thất Thập Nhị Địa tức là đệ nhứt càn khôn cho đến địa cầu các con ở là địa cầu 68. Từ hồi có địa cầu nầy cho đến nay là 12 muôn 9.600 năm.

Dưới các con c̣n có 4 địa cầu nữa. C̣n U Minh, kêu là U Minh giới chưa có loài người.

Thế giới địa cầu khác nhau là do không khí nặng nhẹ khác nhau, tùy theo công quả của mỗi tinh cầu cách nhau từ 1 đến 10 muôn dặm, luôn luôn xoay tṛn giáp một ṿng là 360 ngày gọi là một năm. Nơi địa cầu cũng có sơn xuyên hà hải như Thái B́nh Dương, Đại Tây Dương, Bắc Hải, Hắc Hải, chỗ trắng, chỗ đen, chỗ xanh, chỗ đỏ; bề sâu có chỗ tới 8.000m, chỗ 3.000m, chỗ 2.000m…không đều nhau. C̣n núi Tu Di cao phỏng độ 8.000m, núi nhiều nên chỗ thấp chỗ cao không đồng, phong thủy, mùa tiết nóng nực không đồng; mùa nắng chỗ nầy, chỗ khác lại mưa; xứ nóng nực, xứ lạnh lùng, ngày đêm trong cực địa 24 giờ, c̣n ở Bắc Băng Dương 6 tháng trời tối, 6 tháng trời sáng, quanh năm nước đặc như giá; chỗ chua chỗ mặn, chỗ ngọt không đều.

Màu da của người nào là da trắng, da đen, da vàng, da đỏ. Người th́ lớn cao đồ sộ, người th́ lùn thấp nhỏ con. Dân số trên toàn cầu phỏng định khoảng 2.300 triệu, sanh sanh, tử tử không ngừng.

Loài điểu thú côn trùng cũng đều khác lạ, như chim đại bàng rất lớn, lần lần nhỏ như chim sắc, chim sâu. Loài cá như cá ông, cá mập cá xà rồi nhỏ dần bạc má, cá trắng. Loài thú như tượng voi, rồi tới những loài nhím, chuột bọ tới loài cỏ cây, cầm thú suốt đời ta c̣n chưa biết hết lựa là đến việc cao siêu. Nếu ta không học hỏi các Đấng vô h́nh th́ ta phải chịu tối tăm mù mịt mong v́ đoạt thấu huyền vi mà siêu phàm như Thánh. Hễ học nhiều chừng nào ta sẽ thấy dốt nhiều chừng nấy".

KẾT LUẬN CỦA ĐỨC HỘ PHÁP

Vậy chư Hiền Huynh, Hiền Tỷ phải gia tâm sưu tầm cho đoạt bát. Nếu ỷ lại sự biết của ḿnh gọi là đủ th́ dạ thảo bích châu, đường muôn dặm xế chiều, không ráng bước ắt phải trễ.

Có một ngày kia Tệ Đệ hỏi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn rằng: Phàm hễ làm cha c̣n làm Thầy, chớ sao Đại Từ Phụ xưng là Thầy rất khó hiểu. Ngài trả lời như vầy (Dịch Pháp Văn):

Người cũng vẫn Cha, Thầy luôn một,
Cả chơn linh hài cốt tay người.
Nuôi ḿnh dùng vật thanh tươi,
Tạo hồn lấy phép tạo đời Chí Linh.
Nơi người vốn văn minh cách trí,
Tấn hóa hồn phép quí không ngưng.
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn người lại dành phần Phật Tiên.
Luật: thương yêu, quyền là ngay chánh ,
Gần thiện căn xa lánh phàm tâm.
Làm Cha nuôi nấng âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Thiên.

 

 

 

10. NGÀI BẢO PHÁP DẠY TỬU, SẮC, TÀI, KHÍ

 

Kể từ thuở mở mang trời đất,

Nguồn nhơn sanh tánh chất thật thà,

V́ chân trần tục đấm sa,

Một ngày một nhiễm một xa cội nguồn.

Người th́ măi pha tuông biến SẮC,

Kẻ t́m nơi đổ Sắc chen vào,

Lại ham rừng thịt RƯỢU ao,

Măi quen tánh KHÍ bào hao lẫy lừng.

Thế mà phải tinh thần suy kém,

Uổng ngôi xưa một điểm linh quang,

Ăn năng ví chẳng sớm toan,

Sợi dây oan nghiệt buộc ràn bên chân.

RƯỢU là giống muôn phần ác độc,

Làm cho người h́nh vóc héo von,

Kể ra hại chất bằng non,

Đốt tiêu phế phủ xoi ṃn tâm can.

Khi quá chén tào khang chẳng kể,

Lúc lở say nào nể xóm giềng,

Mẹ cha thảm, vợ con phiền,

Nhuốc nhơ danh giá đảo điên Đạo nhà.

Ví biết trọng tề gia chi bửu,

Đừng lân la quán rượu lầu cao,

Ham mê bầu ngọc chén đào,

Đă suy trí lực lại hao tinh thần.

Chừa mấy chốn lầu Tần quán Sở,

Thói trăng hoa dầu lỡ đấm sa,

Ăn năng sớm tháo chơn ra,

Khỏi ṿng lục đục mới là người khôn.

Con sóng SẮC dập dồn bể ái,

Mănh hồng nhan là cái gươm đao,

Xưa nay mấy mặt anh hào,

Giang sơn sự nghiệp chôn vào t́nh suy.

Trai xấu tiếng cũng v́ SẮC hại,

Gái mất trinh cũng tại gian DÂM,

Loạn luân đức Bốn thường Năm,

Phong thương tục bại tội dâm muôn đời.

Trường Đỗ Bác là nơi gieo nạn,

Hại nhiều tay bại sản khuynh gia,

Chơi bời nào kể trẻ già,

Xô bồ quí tiện cũng là đồng vai.

Khi vận đỏ hiếm tay niềm nở,

Thói a dua tiếng bợ lời tưng,

Rủi thua vương lấy nợ nần,

Người xa gièm siểm kẻ gần khinh khi.

Cơn túng ngặt kể chi tội phước,

Ḷng a dua t́m chước rấp ranh,

Việc chi hễ lợi th́ làm,

Công danh dầu trọng cũng đem chôn vùi.

Nên nhẫn nhịn tính xuôi muôn sự,

Mặc t́nh ai làm dữ nấy lo,

Lửa ḷng nóng quá lửa ḷ,

Biết không dằn xuống khỏi lo tụng đ́nh.

Giận một lúc mà sinh hại cả,

Dầu ăn năng cũng đă muộn rồi,

Chi bằng giả điếc làm đui,

Thị phi ừ hử cho xuôi mọi bề,

Nôn na một bổn giấc mê…

 

 

 

11. SỐ 3 HUYỀN BÍ

 

Từ hổn độn sơ khai th́ Trời Đất chưa phân chỉ có một ngôi Thái Cực. Khi có 1 tiếng nổ “ùm” tức thái cực sanh lưỡng nghi là âm dương. Nếu khởi thủy chỉ có số  1, rồi 1 cộng với 2 là 3.

Chúng ta để ư tất cả vạn vật trong vũ trụ đều bắt nguồn từ số 1 và số 3 mà biến hóa ra gấp đôi, gấp ba, gấp sáu, gấp chín…lần lớn hơn.

Trong Ngọc Hoàng Kinh có câu:

“Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Thất Thập Nhị Địa”.

Tức 36 tầng Trời nghĩa là 12 lần 3.

3000 thế giới nghĩa là 1000 lần 3.

72 địa cầu nghĩa là 24 lần 3.

V́ thế nên trên Quả Càn Khôn Chí Tôn bảo chúng ta phải gắn cho đủ 3.072 ngôi sao tức là 1.024 lần 3.

Bây giờ chúng ta luận về ba Đài trong nền Đại Đạo coi số 3 nó quan trọng thế nào?

1.-Bát Quái Đài: Chí Tôn lập Đạo có Tam Trấn:

a) Nhứt Trấn là Đức Lư Giáo Tông.

b) Nhị Trấn là Quan Thế Âm Bồ Tát.

c) Tam Trấn là Đức Quan Thánh Đế Quân.

Đây là số 3 rất rơ rệt.

2.-Hiệp Thiên Đài: Ngài phân ba chi: Pháp, Đạo, Thế tức Đức Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh.

Dưới 3 chi có Thập Nhị Thời Quân tức 12 vị là 4 lần 3=12.

Phụ vào phận sự Hiệp Thiên Đài có Thập Nhị Thời Bảo cũng là 4 lần 3.

3.-Cửu Trùng Đài: Chí Tôn định:

1 Giáo Tông

3 vị Chưởng Pháp

3 vị Đầu Sư

36 vị Phối Sư tức 12 lần 3, trong 36 vị Phối Sư có 3 vị Chánh Phối Sư, cũng là 1 lần 3.

72 vị Giáo Sư tức 24 lần 3.

3.000 vị Giáo Hữu tức 1.000 lần 3.

4.-Năm Mậu Dần (1938) có Hội Thánh Phước Thiện do Đạo Nghị Định số 48/ĐNĐ của Đức Lư Giáo Tông và Đức Hộ Pháp lập thành có Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng từ Minh Đức đến Phật Tử cũng là con số 12 tức là 4 lần 3.

Trên nóc Bát Quái Đài chúng ta thấy có Brahma Phật, Christna Phật, Civa Phật tức Tam Thế Tôn cũng ở trong số 3.

Chung quanh Đền Thánh có 24 khuôn Thiên Nhăn tức là 8 lần 3.

Cột rồng Đền Thánh có 2 hàng, mỗi bên 9 cột, hai bên 18 cột tức là 6 lần 3.

Trên nóc plafond dù mỗi căn có 6 rồng, 9 căn có 54 rồng tức là 18 lần 3.

Bề ngan Đền Thánh có 27 thước tức là 9 lần 3.

Bề dài Đền Thánh có 81 thước tức 27 lần 3.

Bề cao Hiệp Thiên Đài có 36 thước tức 12 lần 3.

Nơi Đền Thờ Phật Mẫu có Cửu Vị Nữ Phật tức là 3 lần 3.

Bên Phật Giáo thường nói: Tam Huê Tụ Đảnh, Cửu Khúc Minh Châu, Thập Bát La Hán.

Các nhà chánh trị thường nói đến Lục Thao, Tam Lược.

Cờ Đạo có Tam Thanh.

Suy ra chữ tam rất nhiều như: Tam Qui, Tam Giáo, Tam Kỳ, Tam Bửu, Tam Thể, Tam Tài, Tam Lập, tam sao thất bổn, tam tai…

Số 6 có Lục Long pḥ ấn, lục trần, lục súc, lục độ, lục căn.

Số 9 có: Cửu Lưu, Cửu Tiêu, Cửu Phẩm Thần Tiên, Cửu Tuyền, chín tầng Trời Đất, Cửu Long Gian, Cửu Huyền.

Số 12 có: Thập Nhị Huyền Công, Thập Nhị Địa Chi.

Như vậy số 3 là một số “Thầy gác số” quan trọng của chúng ta thường dùng và cũng là một số huyền bí của Chí Tôn sử dụng như trên cơi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Q.M

 

 

 

12.PHƯƠNG CỨU RỖI CÁC TỘI HỒN

 (Từ Nhị Kỳ đến Tam Kỳ)

 

Hoan Hỉ Hội là ngày đẹp nhất,

Được lời khen Đức Phật Thế Tôn.

Trung Nguơn, lễ Vu Lan Bồn,

Mục Liên xưa đă độ hồn mẫu thân.

 

Gậy Kim Tích vẹn phần Đạo hiếu,

Bổn nguyện kinh danh chiếu hư linh.

Ngài làm Giáo Chủ U Minh,

Cứu rỗi hồn lánh ngục h́nh Phong Đô.

 

Tứ chúng niệm Nam Mô Địa Tạng,

Cầu Cửu Huyền trực văng Tây Phương.

Mừng ngày tự tử cúng dường,

Trong kinh Địa Tạng chữ đường lành thay.

 

Khuyên tội hồn đợi ngày giải thoát,

Buổi hạ Nguơn Di Lạc ra đời.

Chí Tôn mở rộng cửa Trời,

Phong Đô đóng chặt quả thời đă xong.

 

Cơ tuyển thăng Khai Long Hoa Hội,

Cho các hồn sạch tội tiền khiên.

Tam Kỳ chung hội ân thiên,

Lễ cầu siêu độ, tháng giêng ngày rằm.

 

Thất Nương nói: Ba trăm năm nữa,

Cơi Âm Quang hết chứa tội hồn.

Nhờ Cô xin Đức Chí Tôn,

Nguyện ở giáo hóa bảo tồn chư linh.

 

Khuyên cải hối tái sinh theo Đạo,

Công đức nầy quí báo xiết chi…

Thất Nương Nữ Phật Diêu Tŕ,

Danh truyền Đại Đạo Tam Kỳ Nam Mô.

Huệ Phong

 

 

 

13.CUỘC HÀNH TR̀NH CỦA ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC SANG ĐÀI LOAN VÀ NHẬT BỔN

 

“Theo chúng tôi, nếu Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm không khắc phục t́nh thế hiện tại th́ không một nhân vật Việt Nam nào làm nổi việc đó, ngay cả Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, nếu Ngài cầm đầu một chánh phủ mới (Lời tuyên bố của Giáo Chủ trước khi lên đường)”.

Sài G̣n ngày 29-8-1954. Sáng hôm nay hồi 10 giờ 30, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Giáo Chủ Đạo Cao Đài đă đáp một chiếc phi cơ của hảng C.A.T do các nhà đương cuộc Trung Hoa Quốc Gia dành riêng cho Giáo Chủ sử dụng đi Đài Loan và Nhựt Bổn.

Đi theo Giáo Chủ có một đoàn tùy tùng gồm có 10 vị: Các Bà Phạm Thị Tranh và Nguyễn Thị Ngữ, ông Ngô Khai Minh, đại diện riêng của Đức Hộ Pháp tại Ba Lê, các ông Vũ Gia Lâm, ông Định, Trương Lê Đông, Lê Trọng Thanh, Sĩ Tải Bùi Quang Cao, Lư Ngọc Trôi, Hứa Văn Hiệp đều là những chức sắc quốc tịch Trung Hoa trong Đạo Cao Đài.

Ra tiễn hành Đức Hộ Pháp có các ông Tong Fong Tso, Tổng Lănh Sự Trung Hoa Quốc Gia tại Sài G̣n, Tchen phó Lănh Sự, Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương, các Đại Tá Huệ, Kiết, Danh, Thế và những vị Chức Sắc: Phối Sư Khị, Phạm Trung Hiếu, Thanh Tra Chánh Trị Vụ tại Thánh Thất Trịnh Phong Cương, Phạm Văn Út, Trần Thạnh Mậu.

 

***

NHỮNG MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC HÀNH TR̀NH SANG ĐÀI LOAN VÀ NHỰT BỔN

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc tuyên bố:

“Trước hết tôi sang thăm Đài Loan, tôi đi với tư cách riêng, nhưng thỏa thuận cùng các nhà chức trách quốc gia Trung Hoa; họ có nhă ư cho tôi sử dụng  một chiếc phi cơ của hăng C.A.T. Tôi chưa biết được thời gian tôi sẽ lưu trú tại Đài Loan. Việc đó sẽ tùy thuộc chương tŕnh, những cuộc tiếp đón chỉ sẽ được biết sau khi tôi đă đến Đài Bắc.

“Tôi có ư muốn đặt những cơ sở của Đạo Cao Đài tại Đài Loan cũng như tôi đă làm việc đó tại Pháp trong cuộc hành tŕnh vừa qua của tôi sang Âu Châu.

“Thăm Đài Loan xong tôi sẽ qua Nhựt Bổn và sẽ lưu lại đó chừng 3 hay 4 ngày để rước hài cốt của Hoàng Thân Cường Để về nước. Riêng tôi, tôi chưa được quen biết Hoàng Thân nhưng nhà ái quốc Việt Nam đối với tôi, khi tôi c̣n là một chiến sĩ cách mạng, đă là biểu tượng cho cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc.

“Hơn nữa, dầu rằng không phải là một giáo đồ Cao Đài Hoàng Thân Cường Để đă là người thứ nhất đă bảo kê cho Đạo của chúng tôi. Trước khi mất, người đă ban cho Đạo Cao Đài hài cốt và tài sản của Người. Nay tôi qua Nhựt chính là để thi hành lời trối trăng của Người và rước hài cốt của Người về nước.”

 

T̀NH H̀NH CHÁNH TRỊ TẠI VIỆT NAM

Về t́nh h́nh chánh trị tại Việt Nam Đức Hộ Pháp nói:

“Theo ư tôi nếu Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm không thành công trong cơ hội hiện thời th́ không c̣n một nhân vật Việt Nam nào có khả năng làm nổi điều đó, dù Đức Quốc Trưởng Bảo Đại đích thân đứng đầu chánh phủ đi chăng nữa .

“Vào trường hợp khủng hoảng, chỉ riêng một chủ tịch đoàn cử ra do Mật Trận Thống Nhứt Quốc Gia bao gồm hết thảy các môn phái tôn giáo và hết thải các đoàn thể chánh trị mới có thể đủ uy tín mới có thể điều hành vận mạng đất nước và chánh sách chấn hưng về chánh trị cũng như về kinh tế của nước Việt Nam.”

 

NƯỚC PHÁP VÀ NỀN ĐỘC LẬP CỦA VIỆT NAM

“Lúc nào tôi cũng chủ trương, và điều nầy tôi đă nói tại Genever rằng nước Pháp quyết định có một thái độ chánh trị rơ rệt đối với Việt Nam, chỉ có hai giải pháp.

“Nếu Pháp không muốn biến Việt Nam thành một thuộc địa th́ Pháp nên nói thật cho thế giới rơ, để cho người Việt Nam sẽ tự liệu.

“Nếu Pháp thành thật muốn cho nước chúng tôi được độc lập th́ Pháp không nên chù chừ trong việc làm cho nền độc lập đó hoàn toàn. V́ không có thể trong một nước độc lập ở sát nhau, hai quân đội khác nhau, Pháp và Việt Nam cùng hai quyền hành chánh trường tương phản.

“Quân đội Pháp phải quyết định tập trung lại trong những vùng đă được qui định rơ rệt trong khi chờ ngày hồi hương. Nếu Việt Nam có đủ sức để giải quyết những công việc nội bộ bằng những phương pháp chánh của Việt Nam. V́ rằng những sự bất ḥa giữa chúng tôi với Việt Minh (thật sự đều là người Việt Nam như chúng tôi cả) không phải là nang giải”.

VẤN ĐỀ BÀNH TRƯỚNG CỦA CÔNG SẢN

“Theo tôi, vấn đề bành trướng của Cộng Sản không phải là vấn đề khó giải quyết. Việt Minh chỉ có một quân đội hùng mạnh và một tổ chức tuyên truyền toàn hảo.

“Hiện giờ các nhà quốc gia bị coi như là những kẻ chiến bại trong cuộc xung đột chấm dứt. Tháng vừa rồi chúng ta phải cố gắn thành lập một quân đội vững chắc, luyện cho quân đội có một tinh thần cứng rắn, quyết tâm phụng sự quốc gia. Bao giờ chúng ta có được hai yếu tố đó là chúng ta sẽ giải quyết được vấn đề đột nhập của Cộng Sản. Phải tiểu trừ họ bằng chính lợi khí của họ, tức là bằng sự tuyên truyền và một tổ chức xă hội công bằng.”

TIỀN ĐỒ NƯỚC VIỆT NAM

Nh́n các đồng bào tản cư từ trên phi cơ bước xuống, Đức Hộ Pháp nói tiếp:

“Tôi khâm phục ḷng can đảm của những người tản cư đó, v́ họ đă ĺa bỏ tất cả để lánh ách cộng sản.

“Giúp cho họ an cư lạc nghiệp là trách vụ cực kỳ lớn lao, nặng nề của chánh phủ lại c̣n cần phải giúp họ t́m sanh kế để cho họ có thể có một đời sống đàn hoàn.

“Cần phải hoạch định một chương tŕnh phục hưng kinh tế với viện trợ về tài chánh của Pháp và Hoa Kỳ mà hai ông: Mends Trance và Forter Duller hứa với nước ta.”

Sao y nguyên văn báo Ánh Sáng số 1.940-Thứ 3-31-8-1954

Giáo Hữu Thượng Buội Thanh

 

 

14. ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM GIÁNG CƠ GIẢI NGHĨA

“TẠI SAO ĐỨC CHÍ TÔN PHẢI THỜ NƠI BÁT QUÁI ĐÀI”.

 

Đêm mùng 7-11-Tân Măo (dl 5-12-1951)

Pḥ loan: Thừa Sử Hợi, Luật Sự Nhung

Cao Thượng Phẩm

Bần Đạo chào mấy em.

Đă lâu mấy em vắng pḥ loan nên đường học Đạo của mấy em cũng có phần chậm trễ.

Đêm nay, Bần Đạo nhận thấy mấy em có điều muốn hỏi th́ phải.

Phước bạch:-Mấy em cầu xin Đức Ngài vui ḷng chỉ giáo những điều mà mấy em chưa rơ.

-Mấy em cứ hỏi, Bần Đạo sẵn ḷng chỉ giáo.

-Bạch Đức Ngài, Thập Nhị Thời Thần là con số của Thầy, vậy theo lẽ nơi thờ Thầy phải là Thập Nhị Chi Đài mới phải, nhưng lại thờ Thầy nơi Bát Quái Đài là sao?

-Thập Nhị Thời Thần tức là Thập Nhị Thiên Chi cùng với Thập Thiên Can đều do nơi Bát Quái Đài mà có, v́ cớ Đức Chí Tôn phải ngự trên Bát Quái Đài.

Phước bạch:-Có phải Ngọc Hư Cung là nơi bảo thủ luật pháp của Bát Quái Đài chăng?

- Bát Quái Đài là nơi của Đức Chí Tôn ngự đặng bang bố quyền năng, c̣n Ngọc Hư Cung là nơi của Đức Chí Tôn nắm chủ quyền cả càn khôn vũ trụ. Vậy th́ Bát Quái Đài là một tượng trưng của Bạch Ngọc Kinh để Đức Chí Tôn chuyển quyền năng mà trị thế.

Phước bạch: -Luật của Bát Quái Đài, của Thập Thiên Can, mặt luật nào áp dụng với chơn linh và mặt luật nào áp dụng với chơn thần?

-Luật của Bát Quái Đài chỉ áp dụng đối với nguyên linh, c̣n chơn thần do Thập Thiên Can bao hàm mà chuyển ra chơn khí đặng biến thể thành chơn linh. Khi Chí Tôn và Phật Mẫu đă gián tinh th́ giao cho Thập Nhị Thiên Chi điều dẫn.

Phước bạch: -Thưa Đức Ngài c̣n Thập Nhị Thời Thần áp dụng vào con người ở nơi con người có tuổi hoặc Tư, Sửu, Dần…có phải?

-Phải.

Phước bạch: -Xin Đức Ngài giảng cho mấy em về Bát Quái.

-Ở trong Bát Quái có 4 cung chánh và 4 cung phụ. Mỗi cung chánh có một Chi, mỗi cung phụ có hai Chi.

Như cung LY thuộc về hướng Nam th́ có Chi NGỌ, cung KHẢM thuộc về hướng Bắc th́ có chi Tư, cung CHẤN là hướng Đông th́ có Chi MĂO, cung ĐOÀI th́ có Chi DẬU thuộc về hướng Tây.

C̣n như cung CÀN thuộc hướng Tây Bắc th́ có hai Chi Tuất và Hợi, cung KHÔN thuộc hướng Tây Nam th́ có hai Chi MÙI và THÂN, cung CẤN thuộc về hướng Đông Bắc th́ có hai Chi SỬU và DẦN, cung TỐN thuộc Đông Nam th́ có TH̀N và TỴ.

Phước bạch: -Từ vật chất đến thú cầm và loài người, từ loài nào không có cảm giác, từ loài nào có cảm giác và từ loài nào có lư trí?

-Nói về cảm giác th́ vật chất chưa có, c̣n từ thảo mộc đến loài người th́ tùy theo tŕnh độ tiến hóa mà có nhiều hay ít.

Loài thú cầm có lương tri nhưng không có lương năng, lên đến loài người th́ có đủ lương tri lương năng, nhưng chưa có lư trí. Tiếng Pháp, lư trí là Pre1sense d’esprit. Khi nào người đă đoạt phẩm Người mới có nó, bằng không th́ phải chịu u tối cho đế khi chuyển qua kiếp khác. Lư trí là sự minh mẫn của điểm linh quang.

Phước bạch: -Chơn Thần do Đức Phật Mẫu ban cho và chơn linh do Đức Chí Tôn ban cho, cái nào linh, cái nào có quang?

-Chơn thần chỉ có cái linh chớ không có quang, c̣n Chí Tôn ban cho chơn linh, chơn linh ấy mới có đủ linh quang. Trong khi đắc pháp th́ nhờ sự linh quang nầy mà thấu triệt được sự hư thiệt của càn khôn vũ trụ.

Phật Mẫu là người đă chuyển Thập Thiên Can mà tạo thành mọi h́nh thể của cơ hữu vi, tức là mẹ sanh của vạn vật. C̣n chơn thần tức là ánh hào quang do chơn khí trong sạch mới có.

Phước bạch: -Xin Đức Ngài giải cho mấy em tại sao Thượng Chưởng Pháp lại mắc sắc phục trắng?

-Đó là bí pháp riêng biệt của Đức Chí Tôn dùng trong cơ chuyển thế, chọn người thay thế h́nh thể cầm đầu cả nhơn loại. Về việc ấy giải rơ là loài người phải đi từ không trở về sắc tướng đặng tạo thêm nghiệp vị, rồi trở lại hư vô.

Phái Tiên Đạo là phái giữ phần lập trường thi công quả của sắc tướng.

Phước bạch: -Hôm nay, Đức Ngài dạy đă nhiều, để mấy em học lại đôi ba ngày, nếu có điều chưa hiểu, xin Đức Ngài chỉ dạy thêm.

-Thôi, để bữa khác Bần Đạo tiếp dạy thêm, bây giờ cặp loan đă mỏi thần rồi.

Bần Đạo kiếu.

Thăng

 

 

 

15. ĐĂNG SƠN TỨC CẢNH

I.

Nhớ thuở lên non gặp mắt mèo, (loại dây)

Đầy đường lễnh nghễnh lớp ḅ leo.

Dở chơn, chơn ngán, chơn không bước,

Nh́n dốc, dốc cao, dốc khó trèo.

Dốc bước ruồng đường người trước dẫn,

Lần hồi nối gót kẻ sau theo.

Cùng nhau rửa bợn qua lằn suối,

Vào cảnh tiêu diêu khỏi gặp đèo.

 

II.

Lên non gặp cọp tưởng là mèo,

Chừng biết ổng rồi dớn dác leo.

Tục gọi thấy voi t́m hố tuột,

Cổ truyền gặp cọp cứ dương trèo.

Tuột trèo mỏn sức co ḍ nhảy,

Mệt mỏi dừng chơn sợ ổng theo.

Chẳng kể rừng sâu đâu nệ suối,

Vừa trông khỏi dốc bóc qua đèo.

 

III.

Quốc vận phải cơn xáo lộn mèo,

Đảnh thần trông đến bước cheo leo.

Bên tai nhạc thúc đàn quyên dỗ,

Trước mắt xôn xao lũ khỉ trèo.

Mong cảnh Thuấn Nghiêu xưa tái vảng,

Dọn đường Hồng Lạc sớm noi theo.

Tầm chơn định chước an thiên hạ,

Cất bước lên non há sợ đèo.

Ngày 4-12-Gi áp Ngọ (28-12-1954)

Cao Liêng Tử

 

 

 

16. ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM GIẢNG VỀ BÁT HỒN

*Đêm 10 tháng giêng Nhâm Th́n (dl 5-2-1952)

Pḥ loan:Thừa Sử Phước, Luật Sự Nhung.

Hầu đàn: các Luật Sự: Ảnh, Hợi, Tiếp, Tú, Hưởng, Cao, Trường, Khoe

 

CAO THƯỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em.

Đêm nay Bần Đạo giảng về Bát Hồn.

Trong càn khôn vũ trụ có 8 đẳng chơn hồn là:

-Kim thạch hồn,

-Thảo mộc hồn,

-Thú cầm hồn,

-Nhơn hồn,

-Thần hồn,

-Thánh hồn,

-Tiên hồn,

-Phật hồn.

Từ lúc hổn độn sơ khai, âm dương tiến hóa th́ trong khí hư vô đă có sẵn các tế bào.

Sau tiếng nổ, Âm Dương phân tách, khí Dương quang là khí nhẹ nhàng bay lên trên, c̣n khí Âm quang là khí chất chứa các tế bào nên lóng xuống dưới.

Sau một chuyển, các khí chất trên liên đới với tế bào mà tụ lại thành chất khí và biến thành vạn vật.

Khi chưa thành h́nh thể hữu vi, th́ chất khí vẫn là một khối lửa do khí Dương quang đốt cháy.

Sau đó, nơi Diêu Tŕ Cung thâu thập nhị Địa Chi mà biến khí Dương quang và chất khí làm Ngũ Hành. Vậy cho nên, đất, nước, sắt, đá và lửa được nảy sanh trước hết. Đó là kim thạch hồn.

Sau một chuyển nữa, nước, đất, đá, lửa và sắt mới tiết ra một chất khí và liên đới với các tế bào lại mà tạo nên cây cỏ. Đó là Thảo mộc hồn.

Sau một chuyển nữa, các cây cỏ chia tế bào mà liên đới với Ngũ Hành tạo nên bách thú, trong đó có phần khô gọi là điểu thú, c̣n phần nước gọi là ngư thú. Đó là Thú cầm hồn.

Sau một chuyển nữa, Ngũ Hành hiệp với Thảo mộc nuôi Thú cầm. Trong Thú cầm, chơn hồn đă bước vào cơ tấn hóa, do đó tạo nên thủy tổ loài người là La Hầu, tức là người khỉ đó.

La Hầu dần dần sanh hóa và nhờ điểm Linh quang của Chí Tôn mà dần đến loài người như hiện giờ. Đó là Nhơn hồn.

Trong Nhơn hồn lại chia ra: Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn. Nếu đoạt được Thể Pháp tức là Thần hồn; tạo được phẩm người gọi là Thánh hồn. Trả xong Nhơn Đạo, tạo nên Bí Pháp gọi là Tiên hồn. Đoạt được Bí pháp tức là Phật hồn đó vậy.

Kỳ tới, Bần Đạo sẽ phân tích mỗi đẳng chơn hồn cho mấy em dễ hiểu hơn.

Bần Đạo kiếu.

 

a. KIM THẠCH HỒN

*Đêm 13 tháng giêng Nhâm Th́n (dl 8-2-1952)

Pḥ loan:Thừa Sử Hợi, Luật Sự Nhung.

Hầu đàn:Thừa Sử Phước, các Luật Sự: Hợi, Tiếp, Tú, Hưởng, Đúng, Đôi, Khen, Khỏe, Thơ Kư Minh.

 

CAO THƯỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em.

Đêm nay Bần Đạo giải về Kim thạch hồn.

Trong âm khí có sẵn tế bào, do đó Phật Mẫu đem Âm quang hiệp với Dương quang mà liên đới tế bào lại thành h́nh chất hữu vi. Sở dĩ các h́nh chất được thấy rơ là do nơi sự liên đới ấy.

Khi mới thành h́nh thể nó là một cục lửa, tức nhiên là một cực độ của Dương quang trụ lại mà thôi. Lần lần khối lửa ấy bị Âm quang rưới hơi lạnh mà nguội dần. Trong khi ấy mới phân tách Ngụ Hành riêng biệt.

Như Đất th́ tế bào là một tiểu Dương bao bọc bởi  72 điển tử Âm.

Loại kim khí th́ một Dương với 92 Âm.

Các loại kim khác nhau là do: thứ th́ có lẫn lộn tế bào của thảo mộc; thứ th́ lẫn lộn tế bào của nước; thứ th́ lẫn lộn nhiều thứ tế bào.

NƯỚC th́ tế bào có 1 Dương với 67 Âm.

LỬA là tế bào của Dương quang, chỉ có điển tử Dương mà thôi, hiệp với tế bào của loại kim mà có.

CÂY CỎ th́ tế bào là 1 Dương và 36 Âm.

Sự mềm cứng của nó là sự lẫn lộn chất nước cùng không. Những màu sắc do khí Dương quang rọi vào, khí tiết ra của các tế bào mà có.

Những tế bào của đất, ngày ngày biến chuyển theo thời gian mà thay đổi h́nh tướng thành: sắt, đá, cây cỏ. V́ thế mà sự biến chuyển ấy là cơ tấn hóa của Kim thạch hồn. Trong Kim thạch hồn có sự biến chuyển của toàn thể cơ hữu vi lẫn lộn, nên theo Đạo pháp từ xưa vẫn gọi là: sắc biến không, không thành sắt vậy. Cơ tạo đoan nhờ Kim thạch mà lập nên mọi biến chuyển trong phường thế tục và lập nên trường thi công quả cho các nguyên nhân.

Từ thử đến giờ, mấy em vẫn hằng thấy muôn vật đều qui thổ, dầu sắt đá cũng vậy. Hôm trước, mấy em có nói: có thứ không thấy tan ra như đồ sứ, đồ chai…Cười…Thử hỏi chất hóa học ngày kia sẽ tựu về đâu hay cũng theo thời gian mà tiêu hủy. Bằng chứng cụ thể là mấy em có thế ǵ kiếm đặng các vật ấy của thời gian trên 2.000 năm về trước. Nếu có kiếm được th́ các Viện Bảo Tàng chứa đâu cho hết cà!

Mấy em đă hiểu rơ Kim hồn chưa? Gọi rằng hồn v́ nó cũng có lẻ sống của nó vậy.

Thôi đêm khác sẽ giải về Thảo mộc hồn.

Bần Đạo kiếu.

Thăng

Trong một đàn cơ khác Đức Cao Thượng Phẩm cũng đă giảng về Vật chất hồn:

*Đêm 24-10 Canh Dần (dl 3-12-1950)

Pḥ loan: Thừa Sử Hợi, Luật Sự Nhung.

Hầu đàn: Thừa Sử Hải, Truyền Trạng Phước, các Luật Sự: Ngời, Trân, Khỏe, Đôi, Khen, Hưởng, Giáo Hữu Thượng  Giác Thanh, ông bà Nguyễn Hữu Lương.

 

CAO THƯỢNG PHẨM

Đêm nay, Bần Đạo nói về Vật chất hồn.

Nguyên thủy của nó cũng là tế bào, nó ở chung lộn cùng nhau, chẳng phân tách riêng một thứ ǵ.

Sau một thời gian biến chuyển, chịu dưới sự điều động của khí Âm Dương mà biến nên h́nh tướng, đặng tạo thành Ngũ khí. Nó tuy không cử động, không tri giác, nhưng thật sự nó biến đổi h́nh dạng. Đó là hồn của nó vậy.

Cái hồn ấy chịu sự trao giồi mà biến làm vật hy sinh đặng nuôi thảo mộc, thú cầm cùng nhơn loại mà được tiến hóa từ chỗ vật chất nó tạo thành Ngũ Khí và các vi tố đặng nuôi dưỡng mà biến lần thành h́nh thảo mộc.

Đó, các em đă hiểu Vật chất hồn và sự tiến hóa của nó chưa? Có ǵ không hiểu th́ hỏi.

Bạch:-Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát là thế nào?

-Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị Phật chưởng quản cơ biến chuyển vạn vật, bởi v́ mỗi vật muốn biến lên h́nh khác đều phải qui thổ, do đó mới kêu là Địa Tạng.

-Linh hay không tùy theo sự ứng nghiệm cùng không. Hồn của nó tuy phải chịu thấp hèn nhưng lúc làm xong phận sự cũng được cao thăng mà chuyển kiếp. Vậy th́ sự linh cũng do hồn ấy.

Đề Bần Đạo cho một bài thi:

Thi:

Căn xưa vẫn tại một không hai,

Lănh lịnh đi thi phải đổi hài.

Tái kiếp làm đồ cho chúng đạp,

Trở ngôi phải mặt để người sai.

Lần hồi luân chuyển lên cây cỏ,

Thong thả châu lưu đến mạng loài.

Học hỏi một thời cơm khổ hạnh,

Ngày sau đoạt vị có ai hay.

 

Các em coi bài thi mà hiểu ư.

Bần Đạo kiếu.

Thăng

 

b.THẢO MỘC HỒN

 *Đêm 16 tháng giêng, Nhâm Th́n (dl 11-2-1952)

Pḥ loan: Thừa Sử Trấn-Luật Sự Nhung.

Hầu đàn: Chư vị Thừa Sử, Luật Sự và Thơ kư Minh.

 

CAO THƯỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em.

Đêm nay, Bần Đạo giải về thảo mộc hồn.

Từ Kim thạch hồn, các tế bào thâu khí Âm Dương mà liên đới lại, tạo nên Thảo mộc.

Các Thảo mộc đều chung một tế bào, song tùy theo giống, có thứ th́ ḿnh nước như loại Thảo, có thứ ḿnh cứng có 3 phần tế bào Thảo mộc và một phần nước là cây tạp, c̣n thứ chỉ có 1/8 nước là gỗ quí.

Trong các thứ cây đều có tế bào của Kim thạch, tùy theo mỗi giống. Do đó mà có những tánh chất khác nhau, chất ngọt do đạm khí và lân chất, chất đắng do kim khí, chất mặn do kim và thạch khí lộn với đạm khí và lân khí, chất chua do thạch khí và thổ khí lộn với thủy khí. C̣n các sắc màu của hoa lá là do nơi khí dương quang chiếu vào chất khí của nó tiết ra mà có.

Các tế bào đến Thảo mộc hồn là bước lên trường thi công quả rồi đó. Bởi do nơi Thảo mộc đă đă tự thâu các tế bào và Âm Dương khí làm món thực dụng cho thú cầm và nhân loại.

Về thảo mộc hồn chỉ có bấy nhiêu thôi.

Thừa Sử Phước bạch:-…………

-Bởi trong khi Ngũ Hành thâu nơi Thảo mộc đă có hoặc nhiều Dương khí, hoặc nhiều Âm khí, v́ khí mà có thứ mát quá, có thứ nóng quá, có thứ mà tự ḿnh có phản khắc Âm Dương, nếu trúng thứ ấy th́ là bị ngộ độc khí.

Thôi để bửa khác tiếp thêm về Thú cầm hồn.

Bần Đạo kiếu.

Thăng

 

c. THÚ CẦM HỒN

*Đêm 19 tháng giêng, Nhâm Th́n (dl 14-2-1952)

Pḥ loan: Thừa Sử Phước-Luật Sự Nhung.

Hầu đàn: Các Luật Sự: Cao, Tiếp, Cẩm, Hợi, Đúng, Hưởng

 

CAO THƯỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em.

Đêm nay Bần Đạo giảng về Thú cầm hồn.

Từ Thảo mộc hồn, các tế bào đă liên đới mà tạo thành sanh khí đặng dưỡng nuôi Thú cầm và Nhơn loại. Bởi cớ, lẽ sống của Đệ nhị xác thân đă có bởi khí tiết của Thảo mộc hồn. Do đó mà sau một thời gian biến chuyển, các tế bảo của Thảo mộc liên đới với tế bào của Kim thạch mà biến ra thú cầm.

Lúc mới phát sinh th́ giống Ngư thú được nảy sinh ra trước.

Đến lúc có cuộc tan thương biến đổi, những loại có chân ḅ lên sống trên mặt đất và lần lần thành ra thú vật. Trong Thú vật lại có sự thay đổi mà biến hóa thành Điểu thú.

Những tế bào tạo nên loài thú là do những hội nguyên tử : 1 điển tử Dương và 36 điển tử Âm.

Sau khi phân tách các loài thú v́ mỗi thứ dùng một vật thực khác nhau và những tánh cách liên hợp tế bào khác nhau mà biến nên h́nh tướng  và thể chất riêng biệt.

Khi đă thành Thú cầm hồn rồi th́ các linh đă bước vào con đường tiến hóa v́ nó được hưởng chút ít ân huệ của Phật Mẫu ban cho là Chơn thần hay là Giác hồn đó vậy.

Nhờ nơi đặc tánh của Thú cầm hồn mà Chí Tôn tạo nên loài người bằng phương cho thêm Đệ tam xác thân đặng khai đường tấn hóa cho các hồn thuộc hạ đẳng hồn.

Trong Thú cầm hồn, những vật đă đủ tánh linh tức là những vật đă đi được trên đường tấn hóa đó vậy.

Về Thú cầm hồn có bấy nhiêu, mấy em coi lại bài đă dạy kỳ trước sẽ rơ nhiều.

-Lúc mới sinh Thú cầm th́ các h́nh thể đều đă phân biệt bởi sự liên đới tế bào. Đó là cơ huyền vi của Đấng Tạo hóa. Từ ấy về sau, các giống vật đă sẵn mầm sống mà sanh sảng thêm ra, quyền Tạo hóa chỉ c̣n thổi sanh quang vào đặng tạo nên sự sống hữu vi nữa mà thôi.

-Thú cầm hồn biến hóa do Thảo mộc hồn th́ lúc ban sơ, loại Ngư phải là loài của Thảo mộc. Đến chừng biến chất th́ tế bào lại tăng hay là giảm bớt điển tử Âm do nơi kết hợp h́nh thể để tạo nên xương thịt, máu huyết của nó.

-Côn trùng thuộc về Thảo mộc biến hóa, nên nó đứng giữa Thảo mộc hồn và Thú cầm hồn. Trong Bát hồn, chỉ có công trùng là loài biến hóa mà thôi.

Đêm nay như vậy là đủ, Bần Đạo kiếu.

Thăng

 

d. NHƠN HỒN

*Bộ Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài,

Đêm 22 tháng giêng Nhâm Th́n (dl 17-2-1952)

Pḥ loan: Thừa Sử Phước, Luật Sự Nhung

Hầu đàn: Thừa Sử Hợi, Trấn, Tả Phan Quân, các Luật Sự: Cao, Đúng, Tất, Tiếp, Du, Tỷ, Cẩm, Tú, Hưởng.

 

CAO THƯỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em.

Trong Bát hồn, mấy em đă được giải từ Kim thạch cho đến Thú cầm, tức là qua lớp học biến chuyển tạo nên vũ trụ trong buổi lập Địa, tức là Sửu thời Địa tịch. Bây giờ qua Nhơn sanh Dần chi.

Khi các Thú cầm đă hóa sanh đầy đủ, các Sanh hồn và các Giác hồn đă đến lúc huệ khai, th́ Chí Tôn rưới linh quang ban cho một thể thứ ba là Chơn linh.

Giống Hầu (khỉ vượn) đă được tấn hóa hơn, nên La Hầu được Chơn linh điểm trí mà tạo nên Thỉ Tổ loài người.

Như trong Đệ nhứt xác thân mà mấy em đă học, th́ loài người được thông minh sáng suốt nhờ Đệ tam xác thân điều khiển và Đệ nhứt xác thân tinh túy. Đó là Nhơn hồn. Từ tạo ra Nhơn hồn cho đến được sự uy linh của nó, phải trải qua 2 chuyển.

Đến cuối Nhị Chuyển, các chơn linh, tức là nguyên nhân mới bước vào Trường thi công quả và mở Thượng Nguơn Tam Chuyển.

Từ ấy đến nay, đă đến Thượng Nguơn Tứ Chuyển, Nhơn hồn c̣n thêm phần tấn hóa thêm nữa.

-Từ Thượng Nguơn, Trung Nguơn, Hạ Nguơn đều ở trong Tam Chuyển.

Trong Nhơn hồn, từ buổi Tam Chuyển được tấn hóa thêm 4 phẩm nữa là: Thần, Thánh, Tiên, Phật hồn.

*Nhơn hồn nào được trọn trung, ấy là vào Thần vị.

*Biết được nghĩa chánh, bồi bổ Đạo nhơn luân tức là Thánh vị.

Đến Thánh hồn th́ lẽ tự nhiên phải thông suốt phần Thế Đạo đó vậy.

*Trong phần Thế Đạo mà tạo được Bí Pháp đặng bước qua mặt Thể Pháp Thiên Đạo tức là Tiên vị.

*Đă lập được Thể Pháp Thiên Đạo mà tầm nên Bí Pháp Thiên Đạo, tức gọi là đắc Pháp, ấy là Phật vị.

Bát hồn đến đây là chấm dứt.

Kỳ tới, Bần Đạo sẽ giải về Thế Đạo và Thiên Đạo. Bần Đạo kiếu.

Thăng

 

 

  17. T̀NH MẸ

 

Các nhà thơ hôm nay đă nh́n thời cuộc qua bài thơ T́nh Mẹ của Trụ Vũ, đă xót xa nức nở khi tả cảnh một bà mẹ già Việt Nam khóc cho lũ con giữa một chiều hoàng hôn lên cơn buồn tim tím. T́nh thương bao la của bà mẹ Việt Nam, mănh ḷng xé nữa…lệ t́nh yêu như một tấm mùng che kín, bà không nh́n rơ cái đỏ cái xanh của màu sắc chánh trị, xin quí vị cùng tôi đi vào tâm tư của Trụ Vũ.

T́nh Mẹ

Thương đời mẹ già như đời dân tộc,

H́nh hài gầy đét Việt Nam.

Đôi mắt nhỏ màu nâu long lanh hạt ngọc,

Trần ai cày luống đất khai hoang.

 

Thương bà mẹ già mảnh ḷng xé nữa,

Nữa gửi thằng Hai, nữa gửi thằng Ba.

Bà đâu biết đứa con nào Cộng Sản,

Bà đâu biết đứa con nào Quốc Gia.

 

Lệ t́nh yêu giăng màu che kín,

Bà không nh́n thấy màu đỏ, màu xanh.

Bà chỉ biết buổi chiều bà rất tím,

Và máu thằng em cũng đỏ như máu thằng anh.

(Trích Hoàng Hương 1965 Trụ Vũ)

 

Cũng một từ đó, Thi Sĩ Hải Âu Từ có bài đường thi tả t́nh chia cách của Nam Bắc đôi ḷng, tựa là:

Xa Xa nói với Xanh Xanh

Gỡ rối tơ ḷng hỡi Hóa Công,

Bí huyền giải hộ, hận non sông.

Cỏ hoa một khóm vườn Nam Bắc,

Mưa gió đôi phương cảnh dị đồng.

Ngoài nọ tiêu điều hơn quán vắng,

Trong ni chen chúc tựa đ̣ đông.

Đôi bờ Bến Hải, bao xa cách,

Một nhịp Hiền Lương măi chữa thông.

 

***

Chúng tôi xin hùn vốn với bài sau đây để nói cảnh dưới búa trên đe của dân Việt.

Mạng sống nhơn sanh rất khó cầu,

Cũng giồng Hồng Lạc giết chi nhau.

Theo Nga, Quốc định rằng vong bổn,

Thân Mỹ, Cộng cho rước giặc vào.

Mang tiếng Việt Gian nhiều uổng tử,

Chín danh bán nước lắm hàm oan.

Hai đầu sưu thế dân đành gánh,

Dưới búa trên đe sống được nào?

Q.M

 

 

18. NĂM ĐIỀU CHÍNH YẾU CỦA HỒI GIÁO

 

Là tôn giáo cuối cùng trong 5 tôn giáo lớn của nhơn loại, Hồi Giáo là một tôn giáo giản dị nhứt, b́nh dân nhứt. Đạo Hồi có 5 điều chính yếu sau đây làm nền tảng:

1.-Tín đồ Hồi Giáo chỉ nh́n nhận có 1 Thượng Đế duy nhất là Allah và vị Khâm mạng của Allah để đem truyền Đạo ra nhơn loại là Đức Mohammed. Mỗi tín đồ tôn giáo đều phải nằm ḷng câu  Kalima Shahadat sau đây: “La ilaha illallah Muhammad Rasoul Allah” có nghĩa “Chỉ có một Đấng tối cao duy nhứt là Allah và Mohammed là vị khâm mạng của Người để truyền bá Đạo Islam”.

2.-Mỗi ngày tín đồ Hồi Giáo phải cầu nguyện 5 lần (salât) hướng về phía Mecca theo những giờ giấc nhất định: sáng, trưa và tối.

Trước những lần cầu nguyện các tín đồ phải nằm ngửa cho thể xác được sạch sẽ, xong c̣n phải làm lễ rửa tẩy vừa đọc kinh cầu nguyện trước khi qú lạy Allah.

3.-Suốt tháng Ramadan, người Hồi Giáo phải ăn uống theo lối ép xác, cho nên bảo ăn chay là không đúng mà phải nói là nhịn ăn trong tháng Ramadan. Nếu nói ăn chay, ta có thể ngộ nhận là người Hồi Giáo ăn chay như Phật Giáo, Cao Đài Giáo hay Thiên Chuá Giáo v́ trong tháng Ramadan người Hồi Giáo không ăn lạt hay kiêng cử thịt cá chi hết.

Thực ra lối ép xác nầy đem lại nhiều lợi ích cho cả tinh thần và thể xác.

a.Vế tinh thần, suốt tháng khắc khổ nầy, người tín đồ Hồi Giáo mới học được một kinh nghiệm thực tế về sự đói khát, mới thấu đáo những nổi thống khổ của kẻ nghèo khó bữa đói, bữa no, do đó mới biết rũ ḷng thương những kẻ xấu số.

b. Về thể xác: lối ép xác nầy sau 1 tháng chịu đựng sẽ làm cho bộ tiêu hóa con người đổi mới. Ăn ép xác là một dịp tẩy đi những chất mỡ ứ đọng lại trong cơ thể ta do đồ ăn tiêu hóa không hết biến ra. Sau một tháng khắc khổ như thế khi được ăn lại theo thường lệ, ta nhận thấy  ngon miệng hơn, do đó năng lực gia tăng, ta cảm thấy thích thú phấn khởi hơn trong mọi sinh hoạt. Tóm lại nhịn ăn như thế trong một tháng đă không hại ǵ mà c̣n mang lại nhiều ích lợi cho tinh thần và thể xác.

Trong tháng ép xác , người Hồi Giáo thức dậy ăn vào lúc 4 giờ sáng. Muốn ăn uống và hút bao nhiêu tùy ư và món ăn cũng gồm đủ thịt, cá như thường ngày, không có ǵ hạn chế cả. Nhưng sau bửa ăn đó lúc gần hừng đông là bắt đầu nhịn tất, nhịn tuyệt đối cho đến chiều tối lúc mặt trời khuất hẳn, ngày nhịn ăn mới chấm dứt.

Lúc ấy mọi người mới được ăn qua loa bánh trái hoặc uống trà, uống sửa để rồi cầu nguyện trước khi dùng cơm. Trọn tháng nhịn ăn nầy tín đồ Hồi Giáo thường ch́m lặng trong suy tư để thời giờ đọc kinh Koran, gội rửa tinh thần và sám hối. Tuy nhiên những trẻ em dưới 15 tuổi, những người già nua tuổi tác, những kẻ đau ốm, những người đàn bà cần cho con bú hoặc đang có kinh nguyệt, những người làm việc lao động quá mệt mỏi, không bị bắt buộc phải nhịn ăn trong tháng Ramadan.

4.-Điều thứ tư trong năm điều giáo lư căn bản của Hồi Giáo là phải bố thí tiền bạc cho những kẻ nghèo khó. Tiền bố thí nầy, tiền Jakat, mọi người Hồi Giáo đều phải cố gắng nhiều hay ít, giúp đỡ những người thiếu thốn hơn ḿnh.

5.-Và cuối cùng, nếu có đầy đủ phương tiện, người tín đồ Hồi Giáo phải hành hương tại Mecca ít nhất một lần trong đời ḿnh. Người đến hành hương tại Macca được gọi là Hadji.

Trong 5 điều chính yếu kể trên đều quan trọng nhứt để trở nên một tính đồ Hồi Giáo là phải tinh tưởng chỉ có một Thượng Đế duy nhứt là Allah và Đức Rasoul Mohammed đă lănh sứ mạng của người để truyền bá Đạo. Về bốn điều khoản kia th́ v́ một lư do chánh đáng nào đó mà một tín đồ phải chịu sơ xuất, thời cũng hưởng được sự dung thứ của Thượng Đế. Đứ Rasoul Mohammed đă dạy:

a.Nếu không cầu kinh được, phải biết hối hận.

b.Nếu không ăn ép xác được trong tháng Ramadam, phải biết bố thí.

c.Nếu không giúp đỡ được một kẻ khốn cùng, một người đồng Đạo, hăy rĩ vào tai kẻ ấy một lời nói chân thành, một câu khuyên lơn an ủi.

d.Nếu không đủ phương tiện để hành hương tại Thánh Địa Mecca, hăy thành tâm cầu nguyện cho kẻ khác đi được.

(Trích trang 11-15 Hồi Giáo Lược Khảo của Phan Thế Châu)

 

 

 

19. ĐỨC TÁNH TRUNG, HIẾU, NGHĨA

 (Đức Hộ Pháp thuyết Đạo tại Đền Thánh thời Tư mồng 6 tháng 7 năm Mậu Tư (9-8-1948)

 

Đêm nay Bần Đạo giảng ba chữ Trung Hiếu Nghĩa, bởi v́ Trung, Hiếu, Nghĩa biểu hiện một chơn tánh của linh hồn cao trọng.

Nhà Nho nói: “Tánh tự tâm sanh”. Đó là lư thuyết của Đạo Nho, chỉ tiết có một điều là ta quan sát có thể thấy hiện tượng mà tả trạng h́nh được, v́ Đạo Nho chưa phải là một Tôn giáo huyền bí. C̣n Đức Chí Tôn đến dạy ta biết rằng tánh là chơn tướng của Chơn thần, c̣n tâm là chơn tướng của chơn linh.

 Chí Tôn dạy: Tánh của mỗi chúng ta là h́nh thể thứ nh́ của ta. H́nh thể thứ nhứt là tâm tức là chơn linh, thứ nh́ là tánh tức là chơn thần, thứ ba là xác phàm thú chất nầy.

Chí Tôn hỏi: Tại sao từ trước đến giờ theo triết lư Đạo Nho lấy nghĩa “Tánh tự tâm sanh” mà tả ra? Bởi v́ nó có liên quan mật thiết cùng nhau. Trong tâm ḿnh như thế nào xuất tánh ra y như vậy. Nhà Nho lấy hiện tượng mà đặt tên c̣n Chí Tôn chỉ rơ cho biết: Chơn thần cũng tấn bộ như chơn linh. Mỗi cá nhân đều có hai năng lực ấy, có đủ quyền năng đào tạo ra h́nh hài xác thịt của ta. Một chơn linh cao trọng tự nhiên có một chơn thần cao trọng, bởi cả hai cùng đi đôi đồng đường với nhau, cùng tấn triển trong con đường thánh đức của Chí Tôn, cả hai có liên quan mật thiết, nên hễ chừng nào đạt Pháp đặng có đủ quyền năng định vận mạng, nghĩa là nó đă tấn tới đúng mức rồi, dầu quyền của Ngọc Hư Cung cũng không c̣n lănh hội nó nữa, quyền tự chủ đă đạt đặng như các cơ quan hiển vi tấn triển tới mục đích tới giới định hiển nhiên ta thấy nơi mặt thế đây vậy.

Trong Đạo giáo của Đức Chí Tôn trích ra một hạng Tiên, không c̣n chịu quyền của Ngọc Hư Cung định luật họ tự làm chủ họ, tự dùng quyền năng đặng đào tạo xác thân của họ, tạo y khuôn khổ họ đă muốn. Họ tự vi chủ mà tạo h́nh thể ấy, bằng chẳng vậy th́ con thú là xác phàm của họ, sẽ lôi kéo ràng buộc, phản lại họ, làm cho họ phải đọa lạc. C̣n như con thú ấy không c̣n quyền lôi kéo họ được th́ họ mới đủ quyền năng vi chủ nó mà dục tấn trên con đường tận thiện tận mỹ, toàn tri toàn năng mà họ đă định đạt đến cùng tận sở hướng.

Chơn thần là đệ nhị xác thân tạo h́nh bằng Nguơn khí của bảy từng thiên. Bỏ Tạo Hóa Thiên là từng thứ 9, linh hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết định đến thế gian nầy làm việc ǵ, kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách, Đạo Giáo nói là 7 cái thi hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây. 7 từng có liên quan lạ lùng với thất t́nh, từng thứ 7, 6, 5 là 3 t́nh: Ái, Hỉ, Lạc; từng thứ 4 là Dục; từng thứ 3 là Ái; từng thứ nh́ là Ố; từng thứ nhứt là Nộ; tới từng chót nầy th́ xác thịt là hiện tượng của Nộ giác.

Ấy vậy, Bần Đạo chỉ rơ rằng ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa do ở t́nh ái, phát hiện đó là cái t́nh độc nhứt có liên quan đến chơn linh. Ta thấy con nít sơ sinh, thi hài chưa biết vi chủ, nó chỉ sống với chơn linh mà thôi. Khởi đoan nó chỉ biết thương mến những kẻ gần gũi như cha mẹ, c̣n Chơn Thần để ǵn giữ nó, cho nó biết t́m cái sống, bảo tồn sanh mạng. Thật ra theo Đạo Pháp, con nít từ 12 tuổi mới bị chịu ảnh hưởng của xác thịt, c̣n dưới 12 tuổi xác thịt chưa có quyền. Ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa thuộc quyền năng của ái t́nh mà ra nên gần gũi với chơn linh lắm, đến đổi ta thấy t́nh trạng nó như kẻ sơ sinh kia vậy; Bần Đạo vừa nói Trung, Hiếu, Nghĩa do nơi t́nh ái xuất hiện ra tướng diện, nên nó gần Thánh, một khi giải thể rồi lên từng thứ 7 là chắc chắn được giải thoát, đạt vị, bởi nó gần với Thánh.

Tại sao Trung? Tại t́nh ái cao thượng dồi dào đối với quốc dân nồi giống lên đến nhiệt độ, nó quá vĩ đại. Nếu ta thấy một vị công thần liều mạng sống để bảo vệ cho quốc dân, trung ấy chưa phải là trung với Vua, mà trung với nước chớ! Có điều Vua là tượng trưng cho nước, nên trung với Vua tức là trung với nước.. Mà có trung đặng là v́ quyền năng ái chủng, ái quốc, nuôi trong tinh thần nhiệt liệt, nên t́nh ái ấy vi chủ tinh thần, cho nên ta thấy có kẻ v́ trung dám hy sinh tánh mạng được là v́ vậy.

Tới Hiếu. Tại sao có Hiếu? bởi các chơn hồn sáng suốt cao siêu đă có sẵn hai điều hiếu:

1.-Hiếu với đấng Tạo Đoan chơn linh.

2.-Hiếu với Đấng Tạo Đoan chơn thần.

Bởi có hiếu trước với hai Đấng ấy, biết trọng hai quyền năng tạo hóa Chơn Linh và Chơn Thần th́ tự nhiên phải biết nh́n Đấng Tạo Hóa h́nh hài của ḿnh đồng thể chớ. Tâm hiếu tự nhiên mà xuất hiện v́ nó có sẵn, mà hễ có sẵn tâm hiếu tức nhiên phải là chơn linh cao trọng thấu đáo được nguyên do đâu ḿnh đến và là con của ai? Đă hiểu rằng ḿnh có hiếu với Đấng Tạo sanh Chơn linh và Chơn thần như thế nào rồi, th́ đến hiếu với Đấng tạo sinh h́nh hài đă sẵn có rồi vậy. Nên, hiếu không thể dạy được, hoặc có hiếu, hoặc không có hiếu mà thôi.

Bây giờ tới Nghĩa. Tại sao ta có Nghĩa? Tại sao Nghĩa là hiện tưởng trên tánh đức của một chơn linh cao trọng? nơi cơi hư linh mỗi người có một gia tộc, một đại nghiệp, anh em đông biết bao nhiêu. Bần Đạo xin nhắc lại câu nầy cho toàn cả hiểu điều yếu trọng: Chẳng phải v́ sự t́nh cờ  mà chúng ta được chung đứng trong ḷng của Đức Chí Tôn ngày nay đây. Biết đâu trong 24 chuyến thuyền Bát Nhă chở các nguyên nhân hạ trần đặng làm bạn và độ rỗi các hóa nhân và quỉ nhân, lại không có chúng ta ngồi chung trong đó. Đă từng chia đau sớt khổ cùng nhau chẳng những trong thế giới nầy mà trong các thế giới khác nữa. Đă từng chung sống cùng nhau, cái thâm t́nh vĩ đại đă nhiều. Nếu cả thảy không nhớ lời nầy của Bần Đạo, đến khi linh hồn xuất ngoại rồi, sẽ ân hận biết bao nhiêu, mà chừng ấy đừng trách Bần Đạo không chỉ trước. Không thương yêu nhau cho trọn nghĩa là lỗi tại mấy người đa, chớ không phải Bần Đạo không nói. Ban sơ nơi cơi hư linh, thọ nhứt điển linh đến thế nầy tạo ngôi vị , làm bạn với biết bao chơn linh khác, dầu nguyên do của ḿnh là thảo mộc hay thú cầm cũng phải có nhiều bạn, chừng nào đạt đến địa vị mới biết bạn nhiều. Người nghĩa ta có nhiều ở mặt thế nầy lo t́m người nghĩa đặng tương liên cấu hiệp tâm t́nh trong cảnh khổ năo, truân chuyên chịu h́nh thử thách nầy.

T́m mà vẫn lo ngại sợ lầm, bất kỳ gặp ai, dầu là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa, nếu rủi có bất nghĩa cùng nhau, về cơi Thiêng Liêng sẽ hổ thẹn hối hận muôn phần. Đối với nhơn loại ta đă sẵn có cái đại nghĩa đó, đi t́m nghĩa tức là đi t́m bạn, dầu nơi cơi hư linh hay tại thế, đại nghĩa vẫn c̣n lưu lại, ta không từ chối được, cho nên hễ đi t́m nghĩa th́ không c̣n phân biệt ai là người nghĩa, ai là người thù. Hỏi ta t́m nghĩa ở đâu? Trước nhứt t́m thân tộc anh em sau mới ra toàn thiên hạ được.

Bần Đạo kết luận: Trung, Hiếu, Nghĩa là ba tánh chất của một vị Thánh, v́ cớ nên Tiên Nho buổi trước tầm hiền th́ duy lựa trong ba tánh đức đó mà t́m th́ ắt t́m đặng không lầm. Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết đoán chắc hẳn là chơn linh cao trọng, chớ không phải người hèn hạ phàm phu, trái lại hễ kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú h́nh và thú tính mà chớ.

******

Trong một lần thuyết Đạo khác, Đức Hộ Pháp có giảng về chữ Hiếu như sau:

Lạ chi đối với nồi giống của chúng ta thường nghe mọi người nói: “Phu có từ, tử mới hiếu” mà Bần Đạo đă nói rằng cả tánh đức con người đứng đầu trên hết là hiếu. Bần Đạo cũng đă giảng, đời thượng cổ người ta đi tầm hiếu chỉ do nơi hiếu, nên vua Nghiêu chọn ông Thuấn kế vị cho Ngài là v́ ông Thuấn là bậc chí hiếu, tánh đức hiếu ấy là cái năng lực căn bản của các tánh đức khác, nó là tánh đức của Đạo đức tinh thần và nó đi gần tánh chất của loài người. Con người đă có hiếu th́ các tánh tốt đẹp khác đều là phụ thuộc, bởi v́ khởi đoan của tâm hiếu, không phải biến sanh một ngày một bữa ǵ mà kể từ giọt sữa mẹ mà hiện ra làm căn bản môi giới cho các tánh đức khác nảy nở, mà ta đă thấy và định quyết rằng người đă làm được con hiếu th́ thế nào cũng sẽ là cha từ. Mà hạng phụ tử rất tối cần, tối trọng trong xă hội vậy.

 

 

 

20. TRẤN TÂM CHI BỬU

 

Đời Tiền Lê có ông Thừa Tướng đầu triều không có con, hai ông bà thường đến chùa nầy miễu kia để cầu tự “Nhơn hữu thiện niệm, thiên tất tùng chi”, nên bà vợ sanh được một đứa con trai. Quang Thừa Tướng đă niên cao kỷ trưởng mà có một đứa con trai th́ nổi mừng vui đó không thể luận được. Người Nam ḿnh hay ví trứng mỏng cũng không ví bằng vị công tử đó nữa. Từ khi nhỏ đến lớn, trong gia đ́nh đối với cậu th́ ai cũng là tôi đ̣i nô lệ hết. Hai ông bà cưng đáo để, lớn lên rồi hễ thấy cưng lại thêm nhỏng nhẽo, rồi du côn, rồi hoang đàn chi địa vô giáo dục. Tấn tuồng xảy ra như vậy mà Quan Thừa Tướng và phu nhân cũng không dám động tới, v́ quá cưng th́ c̣n ai dám động tới nữa đâu, cậu muốn lên trời hay xuống đất ǵ cũng được.

Đến tuổi đi học, cho vào trường th́ không ai chịu nổi, con các quan bị cậu đánh luôn, ngày nào cũng có mắn vốn, thấy t́nh trạng như vậy, biết con ḿnh bị cưng quá không ai động tới được. Đến khi trưởng thành 17, 18 tuổi, ôi thôi  thanh lâu tửu quán, trà đ́nh cờ bạc, không món nào mà cậu không có, ngoài ra c̣n du côn du đảng, ai thấy gia đ́nh ấy mà không nói rằng do căn trước tạo nhiều quả nên nay phải thống khổ tinh thần như vậy. Nhưng ông bà cũng vẫn cưng không động ǵ tới cậu công tử cả, ông chỉ buồn than nói với ông bạn là ông H́nh Bộ Thượng Thư rằng: Tôi có một đứa con mà là con cầu con khẩn nên nay mới ra cớ nổi, th́ ông bạn nói: “Thưa Quan Thừa Tướng, nếu Ngài giao quyền trọn vẹn cho tôi đem lịnh lang về ở với tôi đặng tôi giáo hóa thử coi”.

Quan Thừa Tướng đă hết phương rồi nên giao cho ông bạn dạy dỗ cũng không được ǵ hết, cậu công tử vẫn c̣n buôn lung điếm đàng hơn nữa, nên ông định dùng oai quyền mà trị, mới cho Quan Thừa Tướng hay: Tôi phải dụng quyền đối với lịnh lang mà đối với Ngài nữa, việc làm của tôi thế mà nhẹ thể Ngài, nếu Ngài vui ḷng như vậy, tôi mới sửa lịnh lang đặng.

Quan Thừa Tướng chịu: Bạn làm sao giúp tôi được th́ làm, v́ tôi cùng đường hết kế rồi.

Quan H́nh Bộ Thượng Thư thả cho cậu công tử ra ngoài đánh lộn, giựt của, làm đủ thứ, rồi bắt bỏ tù, lên án như các tội nhơn khác vậy. Vô khám bị đánh khảo tra tấn chịu không thấu, thông tin về nhà cho Thừa Tướng hay. Ngài làm như tuồng cha đau ḷng v́ con, ra chịu tội trước triều đ́nh, rồi Ngài và quan H́nh Bộ Thượng Thư đến người nầy người nọ xin tha thứ, đi tới đâu dắt công tử đi tới đó, cậu thấy khổ trạng như vậy nên lương tâm tự hối, biết tội ḿnh làm để lụy đến cha dường ấy.

Về nhà ông rước Thầy cho đi học thêm nữa v́ cậu đă biết ăn năn, sợ cha mẹ và chịu ở nhà không dám phóng túng chơi bời nữa. Nhưng trong gia đ́nh cũng không chiều được cậu chỉ kiên có cha mẹ mà thôi, ngoài ra không kể ai cả, nổi giận là cậu đánh đập liền. Ông mới tính một phương thế, lấy cớ là con nhà trâm anh, bắt cậu để móng tay, từ đó cậu ít ra ngoài chơi bời, mà cũng hết đánh thiên hạ nữa, là v́ cậu bị lật móng tay hai ba lần v́ đó, nên hoảng mà thuần nết lại.

Đến khi triều đ́nh mở khoa mục, cậu nhờ trí thông minh sáng suốt lạ thường lại học giỏi nên được chấm đậu Trạng Nguyên. Nhà vua và tất cả mọi người biết tánh đức của cậu trước như vậy mà nay được như vầy th́ ai cũng mừng, trong gia đ́nh c̣n mừng hơn nữa.

Thiết lễ tân quan, khi vị tân quan vào bái lễ từ đường, rồi trở lại hội yến với các quan, quan Thừa Tướng mới kêu con lại nói: “Ngày nay con đă vinh hiển rồi sẽ ra làm quan th́ móng tay con không để làm chi nữa, con đưa đây cho cha”. Ông cắt tử tế, đem vào bàn thờ từ đường, lấy giấy đỏ gói lại, bao ở ngoài một lớp hàng đỏ nữa, đề bốn chữ “Trấn tâm chi bửu” nghĩa là của báu để trấn tâm, ông đưa lại cho con và dạy rằng: “Từ đây trở đi hoặc sau nầy con có kế chí cha làm đến đầu triều, vật trấn tâm chi bửu nầy cũng không nên rời con”. Th́ y như vậy, từ đó về sau, cậu con trai thăng quan tiến chức, kế được chí cha làm đến đầu triều, mà cái gói “trấn tam chi bửu” tức là móng tay đó vẫn c̣n luôn.

Bần Đạo dám cả gan nói rằng: Nhờ cái phụ giáo như vậy mà triều chánh Việt Nam ta mới bền bỉ và chắc chắn rằng người đó là kẻ đem viên đá đầu tiên xây nền độc lập từ trước đến giờ, nhờ cái tinh thần đó mà chúng ta đạt được tinh thần độc lập ngày nay.

(Trích trong Lời Thuyết Đạo Của Đức Hộ Pháp mục Phong Hóa Việt Nam Đối Với Phong Hóa Các Dân Tộc Vạn Quốc từ trang 61 đến trang 63)

 

  Viết xong ngày 3-8-Quí Hợi (1983)

QUANG MINH

(Xin xem tiếp Quyển XVI)

  

MỤC LỤC:

1.NGHIÊU, THUẤN, KIỆT, TRỤ CHẾT RỒI CŨNG NHƯ NHAU

2. KẺ DỐT HAY GÂY

3.CÁCH THUYẾT ĐẠO

(Lời giảng của Đức Hộ Pháp tại Hiệp Thiên Đài 10-10 Đinh Hợi)

4. BI THU VẤN NGUYỆT

5. LONG HOA HỘI

6. LÊ VĂN DUYỆT GIÁNG CƠ (Năm Ất Dậu (1945) 12 giờ khuya)

7.TUYỆT-HỌC

8. NĂNG LỰC CỦA TINH THẦN ĐẠO ĐỨC (Đức Hộ Pháp thuyết Đạo tại Đền Thánh đêm 9-11 Mậu Tư)

9. BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP VỀ CÀN KHÔN VŨ TRỤ

10.NGÀI BẢO PHÁP DẠY TỬU, SẮC, TÀI, KHÍ

11. SỐ 3 HUYỀN BÍ

12.PHƯƠNG CỨU RỖI CÁC TỘI HỒN (Từ Nhị Kỳ đến Tam Kỳ)

13.CUỘC HÀNH TR̀NH CỦA ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC SANG ĐÀI LOAN VÀ NHẬT BỔN

14. ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM GIÁNG CƠ GIẢI NGHĨA “TẠI SAO ĐỨC CHÍ TÔN PHẢI THỜ NƠI BÁT QUÁI ĐÀI”.

15. ĐĂNG SƠN TỨC CẢNH

16. ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM GIẢNG VỀ BÁT HỒN

 17. T̀NH MẸ

18. NĂM ĐIỀU CHÍNH YẾU CỦA HỒI GIÁO

19. ĐỨC TÁNH TRUNG, HIẾU, NGHĨA

20. TRẤN TÂM CHI BỬU

 

Top of Page

      HOME