GÓP NHẶT CHUYỆN ĐẠO

QUYỂN XVIII

Viết xong ngày 14-03-Giáp Tư (1984)

QUANG MINH

 

MỤC LỤC:

1.LƯỢC THUẬT CĂN NGUYÊN ĐẠO CAO ĐÀI

2. HUẤN TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI

3. HOANG MỒ TRÊN ĐẢO MADAGASCAR

4. CHÓ GIỮ CỦA

5. BÀI THI “THÂN TẶNG ANH EM” Của Thừa Sử Phan Hữu Phước

6. ĐỨC LƯ TIÊN TRI NGÀY CƠ ĐẠO BỊ KHẢO

7.  NÊN TH̀ ĐỂ, HƯ TH̀ BỎ



 

8. T̀M HIỂU CƠ QUAN “PHỔ TẾ”

9. ĐỨC CHÍ TÔN KHUYÊN TU

10. BỐN ANH EM TRANH GIA TÀI

11. BÀI THI THỌ KHỔ của Đức Cao Thượng Phẩm

12. ĐẠO LÀ G̀?

13. QUYỀN CỦA HIỆP THIÊN ĐÀI

14. THÁNH GIÁO TIẾT LỘ CĂN KIẾP CỦA CÁC VỊ CHỨC SẮC HTĐ

15. PHƯƠNG DIỆN CHÁNH THỂ CỦA ĐẠO

 

 

1.LƯỢC THUẬT CĂN NGUYÊN ĐẠO CAO ĐÀI

 

THƯỢNG ĐẾ THÂU PHỤC VỊ ĐỆ TỬ ĐẦU TIÊN

Vào năm 1920, ông Ngô Văn Chiêu một công chức, nhưng v́ có tiền căn nên thường hay hầu đàn thỉnh Tiên. Một hôm có một Đấng vô h́nh giáng cơ xưng là “Cao Đài Tiên Ông”, tất cả những người hầu đàn vẫn không biết ông Cao Đài là ai, riêng ông nghĩ chắc có lẻ rằng đó là ông Trời. Khi ra trấn thủ quận đảo Phú Quốc, ông cũng thường lập đàn thỉnh Tiên. Một hôm Tiên ông gián cơ chẳng chịu xưng danh mà biểu ông chịu nhận là đệ tử th́ sẽ dạy đạo. Một bửa nọ Tiên Ông gián cơ biểu ông ăn chay thêm cho được 10 ngày (v́ từ trước ông chỉ ăn chay mỗi tháng 2 ngày) và ráng lo tu hành.

Rồi kế đó ông được ơn trên dùng huyền diệu để cảm hóa như: cho thấy “Thiên Nhăn” để vẽ mà thờ và cho thấy được cơi “Bồng Lai Tiên Cảnh”.

Khi ông Chiêu đă trọn đức tin nơi Đức Cao Đài Thượng Đế rồi ông mới tỏ cho một ít người thân biết mà tu theo cùng ông, nhưng với tánh người rất dè dặt nên mối đạo lúc đầu ít người được biết đến.

THƯỢNG ĐẾ THÂU PHỤC MẤY VỊ PH̉ LOAN

Vào năm 1925 tại Sài G̣n có một nhóm công tư chức thường hay tổ chức xây bàn, cầu những vong linh quá văng về làm thi giải khuây trong những giờ nhàn rỗi. Trong những vị ấy có quí ông: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài San và Cao Quỳnh Diêu v.v…

Vào đêm 6-6-1925, có vong linh của cụ Cao Quỳnh Tuân (thân sinh ông Cao Quỳnh Cư) về đàn cho một bài thi như sau:

Ly trần tuổi đă quá năm mươi,

Mi mới vừa lên ước đặng mười (mi là ông Cư)

Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,

T́nh thương căn dặn gắn tâm đời.

Bên màn đôi lúc trêu hồn phách,

Cơi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.

Xót nổi vợ hiền c̣n lụm cụm,

Gặp nhau nhắn nhũ một đôi lời.

Thấy việc làm có kết quả, nên từ đó hằng đêm ba ông Cư, Tắc, Sang thường họp nhau để xây bàn th́ vào đêm mùng mười có một vong linh về xưng là Đoàn Ngọc Quế và cho một bài thi tự thuật:

Nổi ḿnh tâm sự tỏ cùng ai?

Mạng bạc c̣n xuân uổng sắc tài.

Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,

Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.

Dưỡng sinh cam lỗi t́nh sông núi,

Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.

Dồn dập tâm tư oằng một gánh,

Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai?...

SỐ NGƯỜI CHƠI XÂY BÀN CÀNG TĂNG THÊM

Đến sau quí ông rơ ra Bà Đoàn Ngọc Quế là Thất Nương Nữ Phật nơi Cung Diêu Tŕ.

Lần lần có nhiều vị Thiêng Liêng khác nhập bàn, mỗi lần đều có xướng họa thi chương, chỉ cách làm văn và dạy dỗ về đường đạo đức. Một hôm nọ vào hạ tuần tháng 7-1925 có một vị Thiêng Liêng nhập bàn và xưng danh là “A à ”. Trước hết Ngài phán rằng: “Muốn cho ta đến thường, xin chư vị nạp những lời yêu cầu của ta như sau:

“Một là đừng kiếm mà biết ta là ai?

“Hai là đừng hỏi đến quốc sự

“Ba là đừng hỏi đến thiên cơ.

Tất cả đều hứa giữ đúng theo lời ấy; từ đấy đêm đêm sự giao thiệp của kẻ dương thế và đấng vô h́nh càng thêm mật thiết.

Từ đây quí vị xây bàn lấy làm đắc chí, v́ hễ cầu thỉnh vị Tiên Thánh nào th́ được nấy. Ấy là cách Thượng Đế sắp đặt để thâu phục mấy vị pḥ loan (đồng tử) hầu ngày sau chấp cơ truyền đạo.

Qua lối trung tuần tháng 8, quí vị tiếp đặng lời dạy của Thất Nương về Diêu Tŕ Cung:

Trên có Cửu Nương cai quản.

Dưới có chín vị Tiên cô.

Sau khi được biết, quí ông xin Thất Nương dạy cách cầu lịnh Thiên Mẫu.

Thất Nương biểu ba ông phải trai giới ba ngày và t́m ngọc cơ mới cầu lịnh Kim Mẫu đặng.

T́m được Ngọc Cơ, qua đến ngày thứ ba nhằm tiết Trung Thu năm Ất Sửu đúng vào đêm 14 rạng rằm tại nhà ông Cư ở đường Bourdairs chưng dọn trang hoàng. Trên mặt chiếc bàn dài được trải thảm trắng mới tinh được rải bông lá khắp cả, có để chín tách trên chín cái dĩa, giữa bàn có một b́nh trà, xung  quanh bàn có để chín cái ghế. Đâu đấy xong xuôi, ba ông ngồi lại đặng cầu Đức Kim Mẫu. Quả thật có Ngài và Cửu Vị Tiên Nương đến. Thất Nương dạy ba vị đờn và mỗi vị ngâm một bài thơ của ḿnh làm sẵn hiến lễ và sau đó dạy ba ông ngồi chung vào dự tiệc cho vui.

Sợ thất lễ, nhưng liệu khó từ chối, ba vị kéo ghế xá rồi ngồi sau 9 ghế kia. Cuộc cúng nầy được gọi là “Hội Yến Diêu Tŕ” (từ đó hằng năm tổ chức rất trọng thể vào ngày rằm tháng tám tại Ṭa Thánh Tây Ninh).

Cách nữa giờ sau, quí ông tái cầu. Lịnh Nương Nương và Cửu vị Tiên Cô để lời cảm tạ lại hứa rằng: “Từ đây đă có ngọc cơ rồi, th́ tiện cho Diêu Tŕ Cung Cửu Vị Tiên Cô đến mà dạy việc”.

Thế là từ đó, mỗi đêm đều có Thần Tiên giáng cơ dạy đạo. Khi ấy Đức A, Ă, Â mới phân với quí ông Cư, Tắc, Sang rằng: “Muốn cho tận tâm truyền đạo, phải kêu ta bằng THẦY cho tiện bề đối đăi”. Ba vị vui ḷng vâng chịu, từ đấy giữ nghĩa Thầy tṛ, t́nh giao thiệp càng thêm mật thiết.

Măi đến đêm Noel (24-12-1925), Thất Nương giáng cơ truyền phải chỉnh đàn cho nghiêm trang hầu tiếp giá. Nghe vậy, quí ông Cư, Tắc, Sang nửa mừng nửa sợ, mừng v́ gặp đặng chơn sư, sợ v́ không biết từ trước có làm điều chi thất lễ không. Lật đật sắm đủ hương  đăng trà quả, chỉnh đàn cho có nghi tiết, đoạn hai ông Cư, Tắc mới ngồi lại chấp cơ. Cơ gián như vầy:

Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài giáo Đạo Nam Phương

Thi:

Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,

Vui ḷng tu niệm hưởng ân Thiên.

Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,

Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

“Đêm nay phải vui mừng v́ là ngày Ta xuống trần dạy đạo bên Thái Tây (Europe). Ta rất vui ḷng mà đặng thấy chư đệ tử kính mến Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến ta hơn nữa”.

Đức Cao Đài lại phán rằng:

“Bấy lâu Thầy vẫn tá danh A, Ă, Â là cốt để d́u dắt các con vào đường đạo đức, hầu chẳng bao lâu đây các con phải giúp Thầy mà khai đạo. Các con có thấy Thầy khiêm nhượng là dường nào chưa? Các con nên bắt chước Thầy trong mảy mún th́ mới xứng đáng là người đạo đức”.

Đến ngày mùn 5 tháng chạp năm Ất Sửu (18-1-1926), ở Sài G̣n Đức Thượng Đế gián cơ dạy hai ông Cư, Tắc, đem Ngọc cơ vào nhà ông Lê Văn Trung cho Ngài dạy việc. Ngài cũng cho biết từ lâu Ngài đă cho Lư Thái Bạch độ ông Trung rồi. Hỏi thăm đến nhà ông Trung, hai ông Cư, Tắc thuật cho ông Trung biết Thiên ư. Ḷng ông Trung rất hoan nghinh, lật đật sắm sửa thiết đàn cầu Đức Thượng Đế.

Độ ông Trung xong, lần lần Thượng Đế c̣n thâu phục nhiều vị khác nữa như : Ông Nguyễn Trung Hậu, Ô. Trương Hữu Đức, Ô. Trương Văn Tràng, Ô. Nguyễn Ngọc Thơ, Ô. Trần Duy Nghĩa, Ô. Nguyễn Ngọc Tương, Ô. Lê Bá Trang, Ô. Nguyễn Văn Ca. Về phái Nữ th́ có bà Nguyễn Thị Hiếu (bạn của ông Cư), bà Lâm Ngọc Thanh và một số đông nam nữ khác.

Ngày 23 tháng 8 Bính Dần (29-9-1926) ông Lê Văn Trung vâng Thánh ư, hiệp với chư Đạo Hữu hết thảy là 247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào tịch đạo để khai đạo nơi chánh phủ.

Tờ khai đạo đến ngày mùng 1 tháng 9 năm Bính Dần (17-10-1926), mới gởi lên chánh phủ cho Nguyên Soái Nam Kỳ là ông LE FOL. Trong tờ ấy có 24 vị đứng tên trong tịch đạo, nguyên văn làm bằng chữ Pháp được phiên dịch ra Việt văn như sau:

Sài G̣n, ngày 17 tháng 10 năm 1926

Kính cùng Quan Thống Đốc Nam Kỳ

-SAIGON-

Chúng tôi đồng kư tên dưới đây kính cho quan lớn rơ:

Vốn từ trước, tại cơi Đông Pháp có ba nền tôn giáo là: Thích giáo, Lăo giáo và Khổng giáo. Tiền Nhơn chúng tôi sùng bái cả ba đạo ấy, lại nhờ do theo tôn chỉ quí báu của các Chưởng giáo truyền lại mới được an cư lạc nghiệp. Trong sử c̣n ghi câu: “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di”, chỉ có nghĩa là con người thuở ấy an nhàn, cho đến đổi ban đêm ngủ không cần đóng cửa nhà, c̣n ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm.

Nhưng buồn thay! Đời thái b́nh phải mất v́ các duyên cớ sau đây:

1.-Những người hành đạo đều chia ra nhiều phe, nhiều phái mà kích bát lẫn nhau, chớ tôn chỉ của tôn giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ đấng Tạo Hóa.

2.-Lại cảnh mối chánh truyền của đạo ấy làm cho thất chơn truyền.

3.-Những dư luận phản đối nhau về tôn giáo, mà ta thấy rằng cũng tại bả vinh hoa và ḷng tham lam của nhơn loại mà ra, nên chi người An Nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện, tận mỹ ngày xưa.

Thấy t́nh thế như vậy mà đau ḷng, cho nên nhiều người An Nam v́ căn bổn, v́ tôn giáo đă t́m phương thế hiệp tôn giáo lại làm một (qui nguyên phục nhứt) gọi là đạo Cao Đài hay Đại Đạo.

May mắn thay cho chúng sanh! Thiên tùng nhơn nguyện. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế hằng giáng đàn dạy Đạo và hiệp tam giáo lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại cơi Nam nầy.

“Tam Kỳ Phổ Độ” nghĩa là: Đại ân xá kỳ ba, những lời của Ngọc Hoàng Thượng Đế gián cơ dạy chúng tôi đều cốt để truyền bá tôn chỉ Tam giáo.

Đạo Cao Đài dạy cho biết:

1)-Luân lư cao thượng của Đức Khổng Phu Tử.

2)-Đạo đức của Phật giáo và Tiên giáo là làm lành, lánh dữ, thương yêu nhân loại, cư xử thuận ḥa mà tránh cuộc loạn ly giặc giă.

Chúng tôi gửi theo đây cho quan lớn nghiệm xét:

1)-Một bổn sao Thánh Ngôn của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.

2)-Một bổn phiên dịch Thánh Kinh.

Chủ ư của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn loại được cộng hưởng cuộc ḥa b́nh như buổi trước. Được như vậy chúng sanh sẽ thấy đặng thời kỳ mát mẻ, cực kỳ hạnh phúc không thể nào tả đặng.

Chúng tôi thay mặt cho người An Nam mà đă nh́n nhận sở hành của chúng tôi và đă kư tên vào tờ Đạo Tịch ghim theo đây, đến khai cho quan lớn biết rằng, kể từ ngày nay chúng tôi đi phổ thông Đại Đạo khắp cả hoàn cầu.

Chúng tôi xin quan lớn công nhận tờ khai Đạo của chúng tôi.

Các nhân vật đồng kư tên tờ xin khai Đạo:

Mme Lâm Ngọc Thanh, Nghiệp chủ Vũng Liêm.

Mr Lê Văn Trung, cựu Thượng nghị viện, thưởng thọ ngũ đẳng Bội Tinh Cholon.

Mr Lê Văn Lịch, Thầy tu làng Long An, Cholon.

-Trần Đạo Quang, thầy tu làng Hạnh Thông Tây, Gia Định.

Mr Nguyễn Ngọc Tương Tri Phủ, Chủ quận Cần Giuộc.

-Nguyễn Ngọc Thơ, nghiệp chủ Sài G̣n.

-Lê Bá Trang, Đốc phủ  Cholon.

-Vương Quang Kỳ, Tri Phủ sở thuế thân Sài G̣n.

-Nguyễn Văn Kinh, Thầy tu B́nh Lư Thôn, Gia Định.

-Ngô Tường Vân, Thông Phán sở Tạo Tác, Saigon.

-Nguyễn Văn Đạt, nghiệp chủ Saigon.

-Ngô Văn Kim, Điền Chủ, Đại Hương Cả, Cần Giuộc.

Mr Đoàn Văn Bản, Đốc học trường Cầu Kho.

-Lê Văn Giảng, Thơ Toán hăng Ippolito Saigon.

-Huỳnh Văn Giỏi, Thông Phán sở Tạo Tác Saigon.

-Nguyễn Văn Tường, Thông ngôn Sở Tuần Cảnh, Saigon.

-Cao Quỳnh Cư, thơ kư Hỏa xa Saigon.

-Phạm Công Tắc, Thơ Kư Sở Thương Chánh Saigon.

-Cao Hoài Sang,

-Nguyễn Trung Hậu, Đốc học trường tư thục Dakao.

-Trương Hữu Đức, Thơ Kư sở Hỏa Xa Saigon.

-Huỳnh Trung Tuất, nghiệp chủ Chợ Đủi Saigon.

-Nguyễn Văn Chức, Cai Tổng Cholon.

-Lại Văn Hành, Hương Cả Cholon.

-Nguyễn Văn Tṛ, Giáo Viên Saigon.

-NguyễnVăn Hương, Giáo Viên Dakao.

-Vơ Văn Kỉnh, giáo tập Cần Giuộc.

-Phạm Văn Tỷ, Giáo Tập Cần Giuộc.

Gửi tờ Khai Đạo xong rồi, quí ông mới chia làm nhiều đoàn đi phổ độ khắp miền lục tỉnh. Đi đến đâu cũng được hoan nghinh nhiệt liệt, v́ thế số người nhập môn cầu Đạo không mấy lúc đă lên đến mấy trăm ngàn người.

Vâng theo Thánh ư, ngày mùng 10 tháng 10 năm Bính Dần là ngày tạm ngưng việc phổ độ, để lo sắp đặt  làm lễ khánh thành Thánh Thất nhằm ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần tại chùa G̣ Kén, tức là Từ Lâm Tự, trước kia là ngôi chùa Phật. (Đến nay Đạo Cao Đài vẫn lấy ngày nầy làm ngày lễ khai Đạo).

Sau ngày làm lễ khánh thành, vâng theo lịnh ơn trên, Hội Thánh đầu tiên được thành h́nh để tổ chức công việc phổ độ và các cơ cấu hành chánh Đạo. Hội Thánh mua một sở rừng 146 mẫu với giá 25.000$ tọa lạc tại làng Long Thành (Tây Ninh), tiền mua đất do Đạo Hữu chung đậu, đoạn khai phá được chừng 10 mẫu rồi mới cất Đền Thánh tạm nơi đó, kể từ tháng 2 năm Đinh Măo 1927. Vào năm 1928 ông Cao Quỳnh Cư được Hội Thánh cử dẫn công quả phá rừng đào móng cất Đền Thánh Tổ Đ́nh.

Những chức sắc Thiên Phong trước và sau ngày khai Đạo như sau:

 

HIỆP THIÊN ĐÀI

HỘ PHÁP, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, Ngài Phạm Công Tắc.

THƯỢNG PHẨM, lo về phần Đạo, Ngài Cao Quỳnh Cư.

THƯỢNG SANH, lo về phần Đời, Ngài Cao Hoài Sang.

THẬP NHỊ THỜI QUÂN

a.-Chi Pháp

Bảo Pháp, Ngài Nguyễn Trung Hậu

Hiến Pháp, Ngài Trương Hữu Đức

Khai Pháp, Ngài Trần Duy Nghĩa

Tiếp Pháp, Ngài Trương Văn Tràng.

b.-Chi Đạo

Bảo Đạo, Ngài Ca Minh Chương

Hiến Đạo, Ngài Phạm Văn Tươi

Khai Đạo, Ngài Phạm Tấn Đăi

Tiếp Đạo, Ngài Cao Đức Trọng.

c.-Chi Thế:

Bảo Thế, Ngài Lê Thiện Phước

Hiến Thế, Ngài Nguyễn Văn Mạnh

Khai Thế, Ngài Thái Văn Thâu

Tiếp Thế, Ngài Lê Thế Vĩnh.

 

Hàn Lâm Viện (Thập Nhị Bảo Quân)

Bảo Văn Pháp Quân, Ngài Cao Quỳnh Diêu

Bảo Sanh Quân, Ngài Lê Văn Hoạch

Bảo Cơ Quân, Ngài Dương Văn Giáo.

 

CỬU TRÙNG ĐÀI

Giáo Tông:

Đức Thượng Đế đă phong cho Ngài Ngô Văn Chiêu, nhưng v́ quan niệm tu đơn, chuyên phần tịnh luyện. Tự thấy ḿnh không kham nổi chức vụ phổ độ chúng sanh, nên Ngài xin từ và về tu tại gia mà thôi. V́ vậy Đức Lư Đại Tiên phải kiêm nhiệm, nhưng về vô vi, trong khi chờ người kế vị.

 Chưởng Pháp:

-Thái Chưởng Pháp, Ḥa Thượng Như Nhăn, Tây Ninh (trụ tŕ chùa G̣ Kén).

-Thượng Chưởng Pháp, Thái Lăo Sư Nguyễn Văn Tương, Mỹ Tho.

-Ngọc Chưởng Pháp, Thái Lăo Sư Trần Văn Thu, Cholon.

Đầu Sư:

-Thái Nương Tinh, Tri Huyện Saigon.

-Thượng Trung Nhựt, Thượng Nghị Viện Saigon (về sau chấp chưởng Quyền Giáo Tông.

-Ngọc Lịch Nguyệt, Pháp Sư Minh Sư Cholon.

Chánh Phối Sư:

-Thái Thơ Thanh, Nguyễn Ngọc Thơ Tri Huyện Saigon.

-Thượng Tương Thanh, Nguyễn Ngọc Tương Tri Phủ Bến Tre.

-Ngọc Trang Thanh, Lê Bá Trang Đốc Phủ Sứ Sadec.

Phối Sư:

-Thái Ca Thanh, Nguyễn Văn Ca Đốc Phủ Sứ Mỹ Tho.

-Lê Văn Ḥa Tri Phủ Saigon.

- Lâm Văn Bính Tri Phủ Rạch Giá.

-Thượng Tông Thanh (người Hoa kiều).

Chức Sắc Giáo Sư và Giáo Hữu:

-Ngọc Kinh Thanh.

-Thượng Bảng Thanh.

-Thượng Latapie Thanh (người Âu)

Và có rất nhiều vị khác nữa.

Nữ Phái:

-Lâm Hương Thanh, Chánh Phối Sư, Nghiệp chủ Vũng Liêm (về sau lên Đầu Sư Chưởng Quản Nữ Phái).

-Hương Thị, Phối Sư.

-Hương An, Giáo Sư.

-Hương Phụng, Giáo Sư

-Hương Lự, Giáo Sư

-Hương Hiếu, Giáo Sư

Giáo Hữu và Lễ Sanh nam nữ rất đông.

Cũng chịu cảnh phân hóa như phần đông các tôn giáo khác, nên sau ngày khai Đạo ít năm th́ trong cấp lănh Đạo có nhiều vị tách ra lập nhiều vùng nhiều vùng ảnh hưởng chi phái khác nhau không tùng luật pháp cũng như không liên hệ với Ṭa Thánh Tây Ninh nữa như:

-Chi Cao Đài Minh Chơn Đạo của ông Trần Đạo Quang, Bạc Liêu Hậu Giang.

-Chi Cao Đài Minh Chơn Lư của ông Nguyễn Văn Ca, nguyễn Văn Kiên, Hồ Văn Tú  v.v…

-Chi Cao Đài Tiên Thiên của quí ông Giáo Hữu Chính, Ông Nguyễn Bửu Tài và ông Nguyễn Thế Hiển.

-Cao Đài Bang Chỉnh Đạo của quí ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang.

Và c̣n nhiều vị khác nữa.

Nền Đại Đạo sau một thời gian xao xuyến, được Đức Hộ Pháp chấn chỉnh lại và sau khi Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt Qui Tiên trên một tháng th́ Hội Nhơn Sanh nhóm họp liên tiếp 3 ngày đồng thỉnh cầu Đức Hộ Pháp Chưởng Quản nhị hữu h́nh Đài (Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài).

Để cho công việc phổ độ nhơn sanh có hiệu lực, Đức Hộ Pháp hội chư Thánh tổ chức cơ cấu chánh trị Đạo như sau:

1.Hành Chánh

2.Phước Thiện

3.Ṭa Đạo

4.Phổ Tế

Hành Chánh th́ thi hành các luật lịnh của Hội Thánh về mặt phổ độ và giáo hóa.

Phước Thiện th́ bảo tồn sanh chúng, nuôi nấng những kẻ yếu tha già thảy cô thế tật nguyền, chia cơm xẻ áo cùng nhau, đó là cơ quan cứu khổ.

Ṭa Đạo th́ lo giản ḥa, binh vực những người cô thế, giữ ǵn luật pháp.

Phổ Tế th́ cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm.

Nhờ sự tổ chức qui luật mà từ nay cơ phổ độ chúng sanh được lan tràn khắp han  cùng ngơ hẻm, trong nội bộ rất mật thiết, dưới tuân trên, trên thương yêu dưới, ngoài th́ được dân chúng hoan nghinh và nhập môn cầu Đạo mỗi lúc một nhiều. Đến cuối năm 1939, Bộ Đạo được tăng lên gần 2 triệu người đủ mọi giới trong xă hội.

ĐẠO BỊ KHẢO ĐẢO, T̉A THÁNH BỊ CHIẾM ĐÓNG

V́ sự bành trướng của Đạo Cao Đài quá mănh liệt và nhanh chóng khiến cho nhà cầm quyền thuộc địa thời bấy giờ phải để ư, thêm vào đó c̣n có một số người không ưa Đạo nên họ chú giải những pháp luật của Đạo như: Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Đạo Nghị Định, Hội Thánh, Hội Nhơn Sanh, Ṭa Tam Giáo, Cửu Viện v.v…ra là: Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện, Cửu Bộ Đài Quan, Ṭa Án, Ṭa Bố v.v…rồi vu cáo Đạo Cao Đài có âm mưu định bá đồ vương, lập một nước nhỏ trong một nước lớn và chủ trương Quân Chủ Lập Hiến.

Thế nên ngày 23-7 năm Canh Th́n (1940), Quân Đội Pháp vào châu vi Thánh Địa, xét giấy tờ Đạo Hữu và đóng cửa Báo Ân Từ (Đền thờ tạm Đức Thượng Đế).

Ngày 25-5 Tân Tỵ (1941), chánh phủ Pháp ra lịnh cấm nhơn công tạo tác Ṭa Thánh.

Ngày mùng 9 tháng 7 năm Tân Tỵ (1941), chủ quận cho một số đông c̣ bót và lính vào châu vi Thánh Địa xét giấy thuế thân bổ Đạo và ra lịnh đuổi tất cả về lục tỉnh.

Ngày mùng 7 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1942), quân đội Pháp xung công trường học, kho sách.

Ngày 20 tháng 3 Nhâm Ngọ, quân đội Pháp chủ quận xung công tất cả văn pḥng và chiếm đóng bao trùm châu vi Ṭa Thánh.

Trong số người hung bạo khủng bố tín đồ Đại Đạo tại Ṭa Thánh th́ chúng đưa đày Đức Hộ Pháp sang hải đảo Madagascar, dưới chiếc tàu Compiege vào ngày 27-7-1941 cùng 5 vị chức sắc Thiên phong khác.

ĐỨC HỘ PHÁP BỊ LƯU ĐÀY

Sau khi Đức Hộ Pháp bị lưu đày nơi Hải Đảo, Ṭa Thánh bị phong tỏa, tất cả Đạo Hữu bị bắt buộc phải trở về Lục Tỉnh, Hội Thánh phải phân tán ra để tránh những sự bắt bớ hoặc khủng bố.

Lúc ấy có một số chức sắc bí mật liên lạc với người Nhựt (quân đội Nhựt mới sang Đông Dương để t́m phương thế giải ách đô hộ của người Pháp cho dân tộc và cũng để bảo vệ tín ngưỡng cho tôn giáo ḿnh).

Vào đêm 9-3-1945, số tín đồ Đạo Cao Đài, dưới danh nghĩa “Đoàn Nội Ứng Nghĩa Binh” được sự hổ trợ của quân đội Thiên Hoàng đảo chánh thực dân Pháp tại Sài G̣n. Ḿnh mặc quần áo short trắng, đầu đội ca lô trắng, tay cầm tầm vong vạt nhọn với một cuộn dây. Đoàn Nội Ứng Nghĩa Binh đă hiên ngan làm tṛn sứ mệnh, đem vinh quan về cho đất nước, mở trang sử mới cho dân tộc Việt Nam.

Không phải là những con người của chánh trị, mà chính người tín đồ Cao Đài muốn bảo vệ tự do tín ngưỡng, nên sau ngày đảo chánh họ trao quyền tự trị lại cho nhân dân, đang lúc cao trào cách mạng dâng cao.

Nhưng rối cuộc cách mạng nhân dân đă bị một số người lợi dụng, rồi đến quân đội Nhựt thất trận đầu hàng, người Pháp núp dưới bóng quân đội Đồng Minh trở lại Đông Dương. Thế là biết bao cuộc giết chóc trả thù dă mang mà họ dành sẵn cho lương dân vô tội và nhất là giới tín hữu Cao Đài.

Không thể đứng trước cảnh mạng sống đồng bào và của riêng ḿnh bị đe dọa, giới lănh Đạo biến đoàn Nội Ứng Nghĩa Binh thành ra 2 chi đội 7 và 8 rút vào khu kháng Pháp.

Thế chiến mỗi ngày một ác liệt thêm, trước cuộc đấu tranh của toàn dân, người Pháp liệu bề khó thắng nên họ day sang thế chánh trị. Một mặt họ t́m cách liên lạc với cấp lănh Đạo Cao Đài, một mặt họ cho tàn sát tín hữu Cao Đài và sau cùng họ phải đưa trả Đức Hộ Pháp về Việt Nam để trấn an giới tín hữu Cao Đài.

ĐỨC HỘ PHÁP ĐƯỢC TRẢ TỰ DO

Đức Hộ Pháp được đưa về Việt Nam ngày mùng 1 tháng 10 năm 1946, thế là Đức Ngài đă phải biệt xứ xa bổn Đạo trong khoảng thời gian 5 năm, 2 tháng, 3 ngày.

Để tránh cho bổn Đạo khỏi cảnh giết chóc do người Pháp gây ra, 2 chi đội 7 và 8 phải về thành để đấu tranh trong tư thế khác mà bảo quốc an dân. Vào năm 1949, Đức Hộ Pháp giải tán quân đội Cao Đài ra khỏi nội ô Ṭa Thánh.

Nhận thấy trong thời quá hổn độn không thể giải giới tín đồ Đạo được, Đức Hộ Pháp bèn dạy sửa đổi tên Bộ Đội lại Quân Đội Cao Đài: “Bảo sanh, Nhơn nghĩa, Đại đồng” v́ Đức Ngài muốn quân đội nầy sẽ là một đoàn quân Bảo Quốc, an dân gương mẫu. V́ thế quân đội Cao Đài rất có qui củ, quân luật nghiêm minh, nhờ đó mà nhiều vùng trước kia thường xảy ra giết chóc, được biến thành những khu trù phú, yên ổn vô cùng.

NHỮNG VỊ LĂNH ĐẠO TRONG QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI

Lúc ấy có Trung Tướng Trần Quang Vinh, sau nầy giữ chức Tổng Trưởng Quốc Pḥng, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thành, Đại Tá Nguyễn Thành Phương, Đại Tá Nguyễn Văn Bá, Trung Tá Tŕnh Minh Thế, Trung Tá Lê Hoàng Cưu và c̣n nhiều vị khác nữa.

Mặc dầu miễn cưỡng chấp nhận thành lập quân đội Cao Đài, nhưng lúc nào Đức Hộ Pháp cũng t́m cách biến quân đội ấy thành quân đội quốc gia, v́ lúc nào Đức Ngài cũng luôn lo cho danh dự Đạo và cứu cánh của Đạo là độ rỗi nhơn sanh để tránh khỏi luân hồi mà Đức Ngài đă thọ lịnh nơi Đức Chí Tôn. Sau lần hội kiến với Cựu Hoàng Bảo Đại, Đức Hộ Pháp đă thảo luận với chánh quyền quốc gia vào năm 1948, mà thành lập tiểu đoàn 1 quân đội quốc gia Việt Nam dưới sự điều khiển của vị thiếu tá quân đội Cao Đài Trương Văn Xương. Tiểu đoàn ấy gồm có: 1 đại đội Cao Đài, 1 đại đội Ḥa Hảo, 1 đại đội B́nh Xuyên, 1 đại đội Thiên Chúa Giáo (của ông Le Roy).

Về mặt Đạo, Đức Hộ Pháp cho triệu tập Hội Nhơn Sanh, trong bài diễn văn ứng khẩu khai mạc hội nhơn sanh có đoạn Ngài nói:

“…Về tổ quốc sau khi đă chịu đủ hương vị thảm sầu, tưởng đă đặng đủ cớ phô bày cho chúng sanh thấy đặng rơ ràng chơn tướng của Đạo; đă nung chuốt với sự thảm khổ vô hạn của ḿnh đặng vẻ vơi giọt huyết lệ  thành hai chữ “Nhơn nghĩa” cho đời; nào dè trái lại thấy chan chán trước mắt một tấn tuồng bi thảm: nước mất nhà tan, xương chồng máu đổ, một trùm sát khi bao trùm toàn quốc, gươm tử thần vùn vụt khắp nơi, làm cho con cái không cha, tớ không Thầy, vợ không chồng, cốt nhục tương tàn, nhân dân đồ thán….

“Ôi! Cái khổ ái sanh của Chí Tôn đă xiêu lạc nơi nào mà để hai sắc con yêu ái của Người phải chịu nạn tương tàn như thế.”

Xem như vậy đủ biết, dầu hoàn cảnh nào, ở nơi đâu, Đức Ngài cũng luôn luôn lo cho nền Đạo, lo cho nhơn sanh.

Sau ngày hội Nhơn Sanh, Đức Hộ Pháp sắp đặt lại cơ cấu truyền giáo theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền Đại Đạo:

Cửu Trùng Đài (cơ quan Phổ độ) có Tam phái: Thái, Thượng, Ngọc.

Làm đầu mỗi phái là vị Chánh Phối Sư.

Mỗi phái được chia làm 3 viện, mỗi viện có một Thượng Thống và một Phụ Thống làm đầu.

Phái Thái có: Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện.

Phái Thượng có: Học Viện, Y Viện, Nông Viện.

Phái Ngọc: Ḥa Viện, Lại Viện, Lễ Viện.

Hiệp Thiên Đài: Cơ quan Lập Pháp và giữ ǵn luật pháp của Đạo.

Ngoài quí vị Thập Nhị Thời Quân số chức sắc thứ hạng của Hiệp Thiên Đài được giúp việc vào cơ quan Ṭa Đạo, tức là Bộ Pháp Chánh. Nhờ cơ quan nầy mà bước tiến về cơ phổ độ được nhanh chóng, và tránh được những điều không hay xảy ra trong Đạo.

Đức Hộ Pháp cho tổ chức lại cơ quan Phước Thiện, điều khiển cơ quan nầy là một Thời Quân Chi Đạo.

Cơ quan Phước Thiện có nhiệm vụ giúp kẻ cô đơn, người khốn khổ, cơ quan nầy lại cho tổ chức mọi việc về kinh tế tự túc để giúp đỡ cho chức sắc phương tiện hành Đạo.

Cơ quan Phổ Tế, để giao dịch với mọi tầng lớp nhơn sanh khuyến khích trên đường Đạo hạnh.

Tóm lại nhờ chỉnh đốn lại cho có qui củ mà công việc phổ giáo cũng như truyền giáo được hồi phát triển mạnh. Bộ Đạo lúc bấy giờ lên đến hai triệu người.

Đồng thời với công việc chỉnh đốn các cơ cấu hành chánh Đạo, Đức Hộ Pháp c̣n cho tiếp tục sửa sang và trang hoàng thêm cho ngôi Đền Thánh Tổ Đ́nh được rực rỡ.

Từ đây con cái Đức Chí Tôn được một đền thờ vị “Cha Chung Chúng Sanh” tráng lệ, nguy nga khiến cho du khách trong và ngoài nước đều phải nh́n nhận rằng: “Đây là một kỳ quan của thế kỷ 20 vậy”.

Ngôi Đền Thánh được kiến trúc do sự gián tiếp chỉ dẫn tỉ mỉ về kiểu mẫu cũng như vể xây dựng của Đức Lư Giáo Tông qua Đức Hộ Pháp.

Nền móng được bắt đầu vào năm 1933, đến năm 1936 mới khởi công xây lên và cất xong vào năm 1941, Đức Hộ Pháp bị lưu đày, quân đội Pháp xung công dùng làm chỗ nghỉ quân, họ phá phách hư hao rất nhiều. Đến khi về nước, 1946 Đức Hộ Pháp mới cho sửa chửa lại và trang hoàng thêm, măi đến năm 1951 mới hoàn thành và được khánh thành vào thượng tuần tháng giêng năm Ất Mùi (1955).

Sự thực hiện kiến tạo ngôi Đền Thánh chỉ bằng công quả của bổn Đạo thập phương trong những phương tiện rất eo hẹp. Có một đặc điểm là: Những vị làm công quả trong thời kỳ xây dựng Đền Thánh, Nam cũng như Nữ đều phải “thủ trinh”, để gây dựng một bầu không khí trong sạch Thiêng Liêng.

DIỆN TÍCH ĐỀN THÁNH

Chiều dài 140m, rộng 40m, cao 36m về phía Hiệp Thiên Đài (2 lầu chuông, trống) 25 thước Cửu Trùng Đài và 30 thước Bát Quái Đài. Day mặt về hướng Tây, trang hoàng rất mỹ thuật bằng tất cả những biểu hiện của Tam giáo, Ngũ chi, cũng c̣n tập trung được những tinh hoa văn minh Âu, Á và Phi.

Song song với công việc tu bổ Đền Thánh, Đức Hộ Pháp c̣n cho kiến tạo ngôi Báo Ân Từ, nơi thờ tạm Đức Phật Mẫu, mẹ linh hồn của chúng sanh, cùng với những vị hữu công với nền Đại Đạo.

Báo Ân Từ được khởi công vào năm 1951, sửa chửa lại chỗ nền cũ, lối kiến trúc cũng không kém đồ sộ nguy nga, với một kiểu mẫu riêng biệt, từ xưa nay chưa từng thấy. Bên trong, ngay chính giữa Bửu Điện, trên tường có tượng h́nh Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương cỡi chim Loan để thờ. Hai bên là bàn thờ chư chức sắc hữu công cùng Đạo.

Ngoài ra Đức Hộ Pháp c̣n cho lập thêm 3 tu viện cho tín hữu có nơi tụ tập, sau khi hành tṛn công công quả để tránh khỏi kiếp luân hồi.

Đó là:

Trí Giác Cung: cách Ṭa Thánh độ 3 cây số.

Trí Huệ Cung: cách Ṭa Thánh độ 6 cây số.

Vạn Phá Cung: phái nam chơn núi Bà Đen.

Đức Ngài c̣n để tâm lo nơi ăn chốn ở cho hàn vạn tín hữu về ngụ quanh vùng Ṭa Thánh. Đức Ngài dạy phá rừng, cắt đất chia lô cất nhà, đắp đường rất có qui củ, khiến cho sự sanh hoạt nơi đây ngày càng náo nhiệt.

Ngôi chợ Long Hoa cũng được Đức Ngài đích thân đứng ra chỉ bảo anh em công quả khởi công xây cất vào năm 1955, với một kiểu tối tân, đẹp đẽ. Trong tương lai chợ Long Hoa chỉ toàn bán thức ăn chay trong những ngày chay lạt.

 

KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO CAO ĐÀI

CHÁNH THỂ ĐẠO CAO ĐÀI

-Bát Quái Đài

-Hiệp Thiên Đài

-Cửu Trùng Đài

1)-Bát Quái Đài ṭa ngự của Đức Thượng Đế và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật gián tiếp điều khiển Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài về việc phổ độ chúng sanh.

2)-Hiệp Thiên Đài cơ quan lập pháp và giữ ǵn luật pháp của Đạo, đây cũng là nơi môi giới của Cửu Trùng Đài đến thông công cùng các Đấng vô h́nh.

3)-Cửu Trùng Đài, cơ quan hành pháp của Đạo tức là cơ quan giáo truyền. Giáo Tông là “Anh Cả” của chư tín hữu.

CHỦ NGHĨA ĐẠO CAO ĐÀI:

Đạo Cao Đài chẳng những có mục đích điều ḥa tất cả những tín ngưỡng, mà lại c̣n thích hợp với mọi tŕnh độ tiến triển của tinh thần.

I.-Về phương diện luân lư:

Đạo Cao Đài dạy người đời bổn phận đối với ḿnh, đối với gia đ́nh, đối với xă hội là một gia đ́nh lớn hơn, đối với nhân loại là một gia đ́nh đại đồng.

 

II.-Về phương diện triết lư:

Đạo Cao Đài khuyên nên khinh rẻ danh lợi, quyền tước, những sự xa hoa phù phiếm; tóm lại là giải thoát những sự buộc ràng của xác thịt để tầm sự hạnh phúc hoàn toàn của linh hồn trong cơi hư linh.

 

III.-Về phương diện chi tiết:

Đạo Cao Đài dạy thờ Tam giáo ngũ chi các Đấng Thiêng Liêng cùng tổ tiên, nhưng cấm cúng thực phẩm huyết nhục và đốt giấy tiền bạc cùng giấy văng sanh.

 

IV.-Về phương diện Thần Học:

Đạo Cao Đài đồng ư với các tôn giáo khác công nhận là có  linh hồn và vẫn sống măi măi  sau khi xác phàm tiêu diệt, nó tiến triển cũng nhờ sự luân hồi chuyển kiếp và kết quả về những hành vi của con người đời sau do luật nghiệp báo.

 

V.-Về phương tiện truyền giáo:

Đạo Cao Đài dạy cho tất cả bổn Đạo từ hàn tín đồ cho đến chức sắc phải tùy địa vị ḿnh mà phổ độ chúng sanh, đặng lập công quả, là nấc thang bước lên phẩm vị Thiêng Liêng , và phải tuân theo luật pháp Đạo mà trao giồi đức hạnh, thủ giới tŕ trai, hàm dưỡng tinh thần tu tâm luyện tánh.

 

VI.-Về phương diện lư thuyết:

Ngoài những lư thuyết riêng, Đạo Cao Đài c̣n dung ḥa lư thuyết của các tôn giáo mà ai ai cũng công nhận là “chơn lư trường cửu”. Nhưng chỗ nào mà một ít lư thuyết bị người ta hiểu lầm hoặc giản giải sai biệt th́ Đạo Cao Đài lại có trách nhiệm đem các lư thuyết ấy trở về nguyên lư.

 

BÁO QUỐC TỪ

Dân tộc Việt Nam lâu nay vẫn hằng có tiếng là dân tộc văn hiến. Là dân một nước trọng văn hóa, sùng phụng thuần phong mỹ tục, uống nước chẳng quên nguồn, cho nên khắp nơi trên lănh thổ, vẫn hằng có chùa chiền mang danh “Báo Quốc”. Ấy là một cách để biểu dương tinh thần dân tộc để rèn đúc ư chí dân nước không vong bổn.

Tây Ninh cũng có “Báo Quốc Từ” là lẽ cố nhiên. V́ Tây Ninh từng là băi chiến trường của những đứa con đất nước, hiến thân đền nợ quốc gia. Huống chi Tây Ninh c̣n là đất Đạo Thiêng Liêng, nghiễm nhiên là Thánh Địa của nền Đạo tập hợp cả nguồn Đạo lớn trên thế gian, th́ sự hiện diện của ngôi Báo Quốc Từ là điều hiển nhiên phải có, và dân nước nói chung, đồng bào Tây Ninh nói riêng, vẫn phải hằng lưu tâm nhắc đến.

“Báo Quốc Từ” ở Tây Ninh là một ngôi đền thờ các vị anh hùng vị quốc vong thân, tọa lạc phía trên chợ Long Hoa.

Ngôi đền nầy chính do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc xây dựng , chư Đạo hữu góp công h́nh thành. Đền xây h́nh bát quái, trông dán hùng vĩ cổ kính, Đạo mạo uy nghiêm. Bên trong trang trí thật tao nhă uy nghi. Khói hương sùng kính xem ra không lúc nào là chẳng bát ngát lan tỏa, gợi ḷng du khác và đồng bào Tây Ninh ghi đâm ấn tượng hoài niệm tiền nhân đă xă thân báo quốc.

Đặc biệt trong Báo Quốc Từ có 4 linh vị của các bậc vĩ nhân vua chúa thờ tại đây:

1.-Linh vị vua Hàm Nghi.

2.-Linh vị vua Thành Thái.

3.-Linh vị và tro Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.

4.-Linh vị vua Duy Tân.

Ngoài ra, cố nhiên là c̣n nhiều linh vị của những bậc tiết nghĩa đă dốc đem tấm trung can báo đền ơn Tổ Quốc. Nhớ đến công nghiệp các vị vua có tinh thần cách mạng, cũng như lắm vị anh hùng dân tộc phơi gan trải mật chống xăm lăng, đuổi giặc giữ nước, cho nên Đức Hộ Pháp cho thiết linh vị thờ trong ngôi Báo Ân Từ.

Thật là một việc làm tốt đẹp, có tác dụng bồi dưỡng tâm chí đồng bào sinh ḷng yêu nước thương ṇi. Bao giờ đất nước vinh quan, Tây Ninh hiển trứ, th́ ngôi đền Báo Quốc Từ tại Tây Ninh sẽ là một di tích đáng được đề cao và chiêm ngưỡng hơn cả.

Nhất là công đức của Ngài Hộ Pháp. Bao giờ “Báo Quốc Từ” c̣n được nhắc nhở, th́ tên tuổi của Ngài Hộ Pháp cũng c̣n được dân nước cảm mến. V́ chắc không ai c̣n lạ ǵ, ngoài việc hy sinh cho Đạo Cao Đài, Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc vẫn c̣n là một nhà ái quốc.

Một ngôi Báo Quốc Từ, đủ nói lên tinh thần cao đẹp của đồng bào Tây Ninh, ḷng chan chứa cảm hoài với bao di tích đáng ca ngợi, thiết tưởng du khách không thể không đến dâng hương đảnh lễ trước linh vị các bậc trung liệt nơi ngôi đền Báo Quốc. Nhà thơ Thảo Anh trong nhóm “Đất Lành Tây Ninh” có bài Báo Quốc Từ hoài cảm” khá thâm trầm:

Báo Quốc ngôi đền dáng đẹp thay,

Nhớ công Hộ Pháp đă bao ngày,

Đáp t́nh liệt Thánh trên dương thế,

Trọn nghĩa tiên vương dưới dạ đài.

Nhắc thuở Đông Du từng nếm mật,

Tưởng về Nam địa phải nằm gai.

Ḷng son đến thác c̣n lưu dấu,

Khiến khách nh́n đây dạ cảm hoài.

 

 KẾT LUẬN

Đă tŕnh bày qua phần tóm lược căn nguyên Đạo Cao Đài tại Tây Ninh, đến nay trên 40 năm, trải qua lắm giai đoạn thăng trầm bi đát, nội bộ chia rẽ tách ra nhiều chi phái. Con thuyền Đại Đạo lướt qua những con sóng to gió lớn, nhưng nhờ Thiêng Liêng gia hộ mọi sự việc đều trôi qua, đó là những trận thử ḷng cho những ai đủ đức tin giữ vững lập trường vượt qua những cơn khảo đảo.

Từ xưa tới nay, Quốc gia có thạnh có suy. Đạo, đời cũng thế, không sao tránh khỏi cảnh giông tố của đời mạt hạ.

Từ ngày Tây Ninh khai mở Đạo Cao Đài, nơi vùng Thánh Địa nầy có biết bao phái đoàn tôn giáo, chính khách trong nước cũng như ngoài nước đến thăm viếng chiêm ngưỡng.

Nơi đây từng thâu nhận nhiều bật hiền tài trí thức để tiếp tay phụng sự cho cơ Đạo. Các vị nầy ở rải rác khắp mọi nơi…

Số tín đồ ngày nay v́ chiến cuộc không ở nơi chôn nhau cắt rún của ḿnh, bán tài sản lên cư ngụ ngoài ngoại ô đất Đạo, mỗi tín đồ được cấp một khoảng đất nhỏ bề ngan 25m, bề dài 30m, họ về đây tránh cảnh bom cày đạn xới, chiến tranh chết chóc, nương dưới bóng lành đất Đạo che chở họ như cây cổ thụ, số tín đồ ở đây lên tới trên 100 ngàn người. Về đời sống sanh hoạt mỗi nhà đều có công ăn việc là bằng sức lao động, mua bán, một số hiến ḿnh đến làm công quả trong Ṭa Thánh mỗi ngày hai buổi. Cuộc sống của người Đạo ở đây rất an lành thung dung tự tại, có thể so sánh với các nơi lục tỉnh th́ vùng nầy được an ninh hơn đâu cả.

Số Đạo ở trong nội ô cũng như ngoại ô vùng Thánh Địa là phần nhiều dân tứ xứ đến cư ngụ.

Đó là những nhận xét của chúng tôi qua bài tóm lược Căn Nguyên Đạo Cao Đài như trên.

(Trích Tây Ninh Xưa và Nay của Huỳnh Minh từ trang 256 đến 284)

 

 

 

2.HUẤN TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI

trong dịp lễ khánh thành Thuyền Bát Nhă  của Đệ Nhị Phận Đạo Hành Chánh &

Phước Thiện Châu Thành Thánh Địa ngày 10-10 Gi áp Th́n (13-11-1964 DL).

 

Kính Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Phước Thiện và chư Chức Việt cùng Đạo Hữu Nam Nữ.

Trong thiên hạ, việc quan hôn tang tế là việc hệ trọng nhứt trong đời người. Thể theo thuần phong mỹ tục của những dân tộc c̣n tôn sùng lễ giáo, lễ hôn phối là cả một vấn đề có ảnh hưởng sâu đậm vào tương lai của một gia đ́nh từ son trẻ thanh mi tới lăo thành bạch phát.

Việc hôn nhơn đă yên rồi lần hồi đi theo thời gian đến lúc bóng xế ác tà, việc phải đến sẽ đến, ấy là tang tế sự.

Lời tục rằng: Sống cái nhà, thác cái mồ, không phải là lời vô vị.

Thử nghĩ, con thú c̣n biết đào hang, con chim c̣n biết lót ổ, hà tất ǵ con người có trí phấn đấu, có óc canh tân lại không nao ḷng sao được. Thế th́ việc trù liệu đầu tiên cho kiếp sống là người ta phải lập kế sanh nhai cho có cơm ăn áo mặc, và gầy dựng nhà cửa để che nắng đỡ mưa. Nặng sanh phong trần phải chịu phong trần, dầu cực khổ bao nhiêu cũng phải vùi thân trong cái khổ đặng phần nào giải khổ mới mong lạc nghiệp an cư. Thoảng có kẻ phiêu lưu rày đây mai đó, nhà cửa vốn không thân bằng cố hữu vẫn bặt, rủi mạng chung gặp một xă hội có chút thương t́nh th́ vùi thây dưới ba tất đất là cùng tột, chớ trong đó có vài nén hương chứng ḷng. Đối với người lâm cảnh đáng thương tâm như trên, người ta trách: “Cục đá lăn hoài không khi nào đóng rong”.

Về cái chết, Đời thường cho chết là hết. Ấy là lầm.

Cái lầm thứ nhứt là trước mặt nhơn gian, nấm mồ tượng trưng cái chết, c̣n thờ phượng trong gia đ́nh tượng trưng cái c̣n. Cái c̣n đây là con cháu c̣n luyến tiếc lời ăn tiếng nói, c̣n nhớ nhung cử chỉ  động hành của người quá văng. Hễ nói c̣n th́ chưa đoạn dứt, mà cưa dứt đoạn tức chưa hết vậy.

Cái lầm thứ nh́ là xác người chết th́ tiêu tan c̣n linh hồn của người th́ tồn tại măi măi.

Luận về linh hồn, tôn giáo nào cũng nh́n nhận là điểm linh quang, chiếc trong cái khối đại linh quang của Đức Thượng Đế ban cho loài người nhờ đó mà có đầy đủ trí khôn làm chủ muôn loài vạn vật. Một khi con người ĺa trần th́ điểm linh quang ấy xuất khỏi xác thân  phi thăng về nguồn cội hằng sống đăi lịnh Ngọc Hư hoặc khép ḿnh vào khuôn luật định vị hay khuôn luật định h́nh tùy hành tàng nên hư giữa cơi phàm của kiếp quá khứ.

Để tượng trưng của sự di chuyển linh hồn từ hạ giới về thượng giới hay từ cơi mê qua cơi giác, người ta mới bày ra nghi tiết và đồ vật tiễn đưa có tánh cách vừa mến tiếc kẻ bỏ xác vừa cầu nguyện cho linh hồn kẻ ấy được siêu thăng hơn là giáng đọa.

Như nhà giàu th́ đưa xác và hồn bằng Đại Linh Xa, có Tiểu Linh Xa nhà Minh Khí, v.v…nhà khá giả th́ dùng Đại Linh Xa và miễn dùng đồ âm công khác cho nhẹ tốn phí. C̣n nhà thật nghèo th́ đi Ngọc Lộ.

Trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, con Thuyền Bát Nhă tượng trưng thuyền từ vượt đại hải trùng dương cũng gọi là lướt qua biển khổ của trần thế để đưa hồn qua bỉ ngạn.

Hiện giờ huyền bí của sự đưa hồn chưa ai có Thần nhăn khám phá được, nhưng một ngày kia người tu cao sẽ đắc pháp cao sẽ minh chứng việc nầy cho đời rơ.

Thiết tưởng dầu với h́nh thức nào với nghi tiết ǵ và vật dụng tống chung có khác nhau giữa đời với Đạo tựu trung sự đưa linh hồn lên cơi Thiêng Liêng Hằng Sống là đức tin trụ vào quan niệm của kẻ ở với người đi, một được hưởng hạnh phúc sống sót với xác thịt và một đàng cũng hưởng hạnh phúc sống với linh hồn th́ đôi đàn đều măn nguyện.

Nay con cái Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu thuộc Đệ Nhị Phận Đạo Châu Thành Thánh Địa, kẻ công người của hiệp sức tạo thành chiếc thuyền từ tốt đẹp như thế nầy chúng tôi định cho đó là một âm chất khả ghi một chấm son vào sổ công nghiệp chung của bổn đạo sở tại Nam Nữ. Lạ một điều là chiếc thuyền không đáy, mà chở bao nhiêu người thiện căn dầu khẩm đến mấy cũng không ch́m, c̣n rủi chở một người vô phần th́ người và ghe đều bị đấm cả. Tuy sách rằng: “Hành thuyền, kỵ mă tam phân mạng”, nhưng đây nói về huyền diệu hành thuyền trong cửa đạo, một măi tội lỗi đủ rơi xuống ḍng nước bạc, vô phương cập bến giác.

Vă chăng công b́nh Thiêng Liêng th́ không bao giờ chích được đ̣n cân và nếu đ̣n cân chích được th́ chẳng phải là cân nữa. Bởi vậy cho nên sau khi qua lời giản giải trên đây, các bạn nên ư thức rằng cho đặng thành người vô tội mượn thuyền từ về Chí Tôn và Phật Mẫu th́ cần nhớ đôi liễn trước cửa thuyền là:

VẠN SỰ VIẾT VÔ, NHỤC THỂ THỔ SANH HƯỜN TẠI THỔ,

THIÊN NIÊN TỰ HỮU, LINH HỒN THIÊN TỨ PHẢN HỒI THIÊN.

Trời thọ điểm linh hồn th́ cần giữ ǵn  cho tinh anh sáng rỡ như khi c̣n ở cơi Thiên. Nếu để lu mờ v́ nhiễm trượt của ngoại cảnh th́ khó mong phản hồi quê xưa bến cũ, rất uổng công tu luyện từ ngày nhập môn cầu đạo.

Mượn thuyền Bát Nhă làm phép độ duyên, tôi ước nguyện trong vùng Đệ Nhị Phận Đạo nầy, các bạn Nam Nữ hăy nêu gương mănh liệt đem thương yêu hàn gắn chỗ thiếu thương yêu, đem nhơn nghĩa bố thí cho nơi nào c̣n đau đớn rên than mất nhơn mất nghĩa.

Được vậy chiếc thuyền Bát Nhă mới  thiết là thuyền Bát Nhă.

Nay kính

Nam Mô Di Lạc Vương Bồ Tát

Bảo Thế

LÊ THIỆN PHƯỚC

Ấn Kư

 

 

 

3. HOANG MỒ TRÊN ĐẢO MADAGASCAR

 

Mặt trời vừa nh́n xuống biển, sương mờ vội bao phủ hoang đảo Madagascar. Vũ trụ âm u rợn người, lạc lỏng trong màn sương vài tiếng chim ai oán. Vẳng xa đưa, tiếng ác thú gầm vang, làm tăng thêm nét bi thảm của núi rừng tịch mịch. Vây quanh biển cả vương oai, hâm dọa kẻ tù đày.

Ngồi chờ xe trở về trại giam sau một ngày tập dịch, lơ đễnh nh́n xuống chân đồi, tầm mắt tôi bắt gặp đống đá to như ngôi mộ, tôi hỏi Manchaged.

-H́nh như có mộ ai kia?

-Mộ Thánh Gấm!

Đáp lời tôi, Machaged trầm ngâm nh́n ngôi mộ, cảm súc anh đứng lên, tiến đến bên mộ, đạp cỏ xung quanh rạp xuống, kính cẩn và triều mến bê từng ḥn đá đặt lên mồ. Tôi đến bên anh hỏi:

-Thánh Gấm là ai?

-Là tù nhân bị lưu đày như tôi và anh.

Ha giọng Manchaged kể lể:

-Thánh Gấm là thiên sứ của Thượng Đế.

Tôi ngạc nhiên cực điểm, Manhchaged một tên tù khổ sai chung thân v́ tội cướp của giết người, khắp ḿnh xăm đầy h́nh ảnh tục tằn, mà nay cái miệng không kiên Thần Thánh kia lại nói lên những tiếng Thiên Sứ và Thượng Đế. Machaged trầm ngâm tiếp:

-Lần đầu gặp Thánh Gấm, nghe đồn ông là tu sĩ mà giết người, tôi phát cáu, nặng lời gọi ông là nhà tu hổ mang.

Ông là chức sắc Đạo Cao Đài ở Tây Ninh, một tỉnh nhỏ thuộc miền Nam nước Việt Nam đang bị Pháp đô hộ, Pháp nghi Đạo Cao Đài là tổ chức yêu nước, mưu toan cởi xiềng nô lệ cho dâng tộc, nên bắt chức sắc Đạo Cao Đài giam cầm lưu đày ở nhiều nơi. Thánh Gấm, vài vị chức sắc khác và Đức Hộ Pháp bị đày đến hoang đảo Madagascar nầy. Đức Hộ Pháp người lănh Đạo Đạo Cao Đài bị giữ riêng ở một khu biệt lập, không được ra ngoài. Thánh Gấm và mấy vị chức sắc kia phải đi tập dịch ở nhiều nơi khác nhau, Thánh Gấm cũng phải lên rừng đốn cây, lăng đá như những tù nhân khác, ông làm việc chẳng bao giờ than van, luôn luôn làm xong trước phần việc nhọc nhằn của ḿnh, rồi ông phụ giúp những người yếu đuối khác, ông được mọi người quí mến, và được chọn làm điều dưỡng viên phụ tá cho viên y tá của trại giam, ông tận tâm săn sóc mọi người tất cả đều thương mến ông, cho đến viên gác dan cũng kính nể ông.

Bỗng một buổi sáng, người ta phát giác viên y tá chết sóng sượt trên mặt đất, theo dấu chân trên cát, xác nhận: thủ phạm đi từ pḥng của Thánh Gấm đến hạ sát xong viên y tá rồi quay về pḥng Thánh Gấm, người ta lại t́m thấy cái áo bà ba đặc biệt của Thánh Gấm dính máu chôn gần đấy. Được biết: ban đêm ai gọi cửa viên y tá cũng không mở, chỉ trừ Thánh Gấm v́ viên y tá rất kính nể ông.

Bị buộc tội giết người, Thánh Gấm b́nh tỉnh:

-Trước Thượng Đế và lương tâm, tôi là người vô tội.

Người ta đưa Thánh Gấm đến trại giam những tù nhân bất trị, cỏi địa ngục ở trần gian śnh lầy, nước độc, rừng thiêng, chướng khí, tội nhân phải đứng trong bùn lút tới lưng, làm việc dưới đám muỗi đen nghịt bu đen hút máu. Mọi người đều bị bịnh sốt rét rừng.

Một hôm người ta bắt lại được tên tù vượt ngục đang mê mang v́ đói khát sau gần tám ngày nổi trên mặt biển.

Với tấm ḷng tràn ngập t́nh thương, Thánh Gấm nấu nước cháo đổ cho hắn, khi tỉnh lại, hắn hốt hoảng nh́n ông đầy sợ hải. Ông dịu dàng bảo:

-Anh ráng uống nước cháo cho khỏe!

-Không! Không phải ông giết người, chính tôi giết người.

Thánh Gấm nh́n hắn với ánh mắt hiền từ, thương cảm và tha thứ.

-Grascoloo! Tội nghiệp! Thượng Đế phạt anh quá nặng!

Hắn Grascoloo thều thào nói với mọi người:

-Gọi viên cai ngục để tôi thú tội, không phải ông Gấm giết tên y tá! Ông chịu tội oan. Lúc đó tôi bị bệnh sốt rét, lại bị phạt truất phần thuốc kư ninh trong một tháng, không có thuốc tôi chết mất, đêm ấy, tôi đến pḥng ông Gấm, nhờ ông cạo gió rồi nằm luôn ở đó không về, tối đến, tôi lén lấy cái áo bà ba của ông mặc vào đến kêu cửa pḥng y tá, để van xin hắn cho ít thuốc. Giận v́ bị lừa, đă không cho hắn c̣n toan la lên. Hốt hoảng tôi bóp cổ hắn, tôi bóp mạnh quá! Hắn hết vun vẩy, máu miệng trào ra, sợ quá tôi bỏ chạy về pḥng ông Gấm, cái áo bà ba dính máu tôi đem chôn. Thấy tôi run rẫy sợ sệt, ông Gấm an ủi, dùng Đạo đức cải hóa tôi, tôi hối hận định hôm sau sẽ nộp ḿnh. Nhưng tôi khiếp nhược quá, hèn hạ quá, để ông Gấm chịu tội oan. Ông đă giữ lời hứa: Không tố cáo tôi, chịu tội thay tôi, ôi c̣n ǵ cao quí hơn!

Thánh Gấm hiền ḥa bảo:

-Anh biết ăn năn, đáng mến lắm! hăy cầu xin Thượng Đế tha tội, c̣n tôi, người tín hữu Cao Đài luôn luôn thương yêu tất cả chúng sanh, tha thứ tội lỗi mọi người và quên ḿnh giúp đỡ kẻ khác. Tôi hành động theo lệnh của Thượng Đế.

Thánh Gấm được minh oan không bao lâu th́ từ giả cỏi trần v́ bịnh sốt rét rừng ác liệt.

Thánh Gấm chết đi để lại cho tù nhân ở hoang đảo Madagascar một gương sáng muôn đời: ḷng bác ái vô biên, đức vị tha cao cả và hạnh quên ḿnh giúp người.

Tất tả, tất tả đều mến tiếc ông, tất cả đều sùng kính ông, họ thành kính khiên đá xây mồ ông.

Yên lặng nghe câu chuyện thương tâm cao quí tôi miên man suy ngẫm việc làm của Thánh Gấm  một v́ sao sáng của nhân loại.

Nấm hoang mồ trên đảo Madagascar sáng chói muôn đời./.

 

Thoát dịch nhật kư của tù nhân Réné Bellenoit

Đơn Côi Tử

(Trích trong quyển Đặc San Hội Yến Diêu Tŕ ngày 22-5 Canh Tuất (24-7-1970)

 

 

4. CHÓ GIỮ CỦA

Thuở trước, có hồi Phật đi từng nhà để hóa trai. Một hôm Ngài ngự lại nhà Bồ Đề. Nhằm lúc chủ không có nhà. Trên ván, một con chó đang ăn một dĩa đồ, thấy Phật bước vào, nó liền nhảy xuống đất và sủa rân lên. Phật mới quở : “Đồ hạ tiện, đă bị sa sụp mà c̣n chưa tởn”. Con chó bèn riu ríu đi lại nằm trong xó, lấy làm rầu tủi lắm. Bồ Đề về thấy chó không vui như mọi bữa, mới hỏi coi ai làm cho nó buồn.

Bọn ở thưa rằng: “Tại Phật”.

Bồ Đề giận lắm quyết đi t́m kiếm Phật mà hỏi, Phật đáp: “Ta chỉ nói thật với con chó thôi. Đời trước nó là cha của ngươi, hồi đó cha ngươi hà tiện lắm. Bởi giàu mà bón rít nên mắc quả; khi thác đầu thai làm chó, vậy mà c̣n khư khư giữ của. Ngươi hăy về bảo nó chỉ chỗ chôn vàng cho, nó đă dấu bấy lâu”.

Bồ Đề ra về, nói với chó rằng: “Đời trước ngươi là cha ta, ta là con trong nhà có quyền hưởng gia tài nầy, vậy chỉ chỗ chôn vàng cho ta”.

Con chó chung xuống giường và lấy cẳng mà cào đất. Bồ Đề lấy đồ đào đất chỗ ấy lên đem ra được rất nhiều vàng bạc.

Liền đó người tin theo Phật, qui y thọ pháp nhờ Phật truyền dạy Đạo lư cho.

Đức Phật thuyết rằng: “Ai giết hại sanh linh th́ bị giảm kỷ, ai không giết hại sanh linh th́ được sống lâu. Ai sinh ra nghèo hèn là bởi phạm tội bỏn xẻn và trộm cướp. Giàu th́ nên bố thí. Phải tránh kẻ dữ mà theo người hiền. Có làm ra th́ có quả vào. Ai được giàu có và sống lâu là nhờ những đời trước đă làm việc hiền lành. Mỗi người đều hưởng quả và chịu quả của ḿnh. Ư muốn sanh ra việc làm, làm rồi th́ có quả. Làm lành hưởng phước, làm ác mang họa”.

(Trích trang 73 Chuyện Phật Đời Xưa của Đoàn Trung C̣n)

 

 

5. BÀI THI “THÂN TẶNG ANH EM”

 

Tôi biết anh em đă khổ nhiều,

Xuân trường khi đă bóng về chiều.

Mây tầng tựa cửa trông thăm thẳm,

Vợ yếu con thơ phận hẩm hiu.

 

Tôi biết anh em đă khổ đau,

Nhưng ḷng thiết thạch chẳng hề nao.

Bá ṭng chi nại cơn sương tuyết,

Cành lá xanh xanh vẫn một màu.

 

Tôi biết anh em lắm bận lo,

Quyết sao cho trọn nghĩa Thầy Tṛ.

Tao phùng ngày ấy gần rồi đấy,

Kim Bản đề danh nghĩ xứng cho.

 

Tôi biết anh em lắm bận ḷng,

Lo sao đại nghiệp phải thành công.

Ḥa B́nh Chung Sống nên đường lối,

Thống nhứt non sông cứu giống ḍng.

 

Tôi biết anh em đă khổ đau,

Nhưng xem thường cảnh sống tù lao.

V́ Thầy, v́ Đạo v́ dân tộc,

Đạo đức đề cao dựng Việt trào.

 

Nhận thấy anh em khổ lắm đường,

Thành tâm chia sớt nổi đau thương.

Vui đi để kính Thầy ta đó!

Giữ vẹn t́nh trung, vẹn Đạo thường.

 

          Trung Tâm Cải Huấn Thủ Đức 10-4-1957 (11-3 Đinh Dậu )

                                 Phan Hữu Phước

 

 

Ông Thừa Sử viết xong mấy bài thơ tặng cho anh em th́ ông bắt đầu ngọ bịnh nặng đến ngày 6-5 Đinh Dậu Ban Quản Đốc cho xe chở ông đi Dưỡng Đường Chợ Quán điều trị nhưng ông thoát xác ở dọc đường nên xe chở xác ông luôn vô nhà xác  Chí Ḥa, về trung tâm Cải Huấn Thủ Đức hỏi anh em địa chỉ để đánh điện về Ṭa Thánh cho gia đ́nh hay để xuống lănh xác về an táng.

Đây là điều báo trước ông sắp về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống nên ông làm 6 bài thơ tứ tuyệt để an ủi anh em kiên gan bền chí chịu khổ hạnh nơi chốn ngục tù sẽ được Kim Bản đề danh.

Anh em nhận được 6 bài thơ trên đây rất vui mừng là nguồn an ủi lớn lao, nhưng không ngờ ông sớm về chầu Kim Khuyết. (Sĩ Tải Nguyên tặng ngày 7-6 Quí Hợi -1983).

 

 

6. ĐỨC LƯ TIÊN TRI NGÀY CƠ ĐẠO BỊ KHẢO

*Ngày 13-10- Đinh Mùi (dl 14-11-1967)

LƯ THÁI BẠCH

Cơ Đạo ngày nay sắp đến ngày quyết liệt, cả thảy nam nữ phải để tâm cho lắm!

Cầu nguyện Thầy và các Đấng ban ơn cho mới giữ vững đức tin trong kỳ đại khảo nầy.

Chư Đạo hữu phải giữ trai giới cho được từ 10 ngày đổ lên, y theo Tân Luật th́ mới sống sót.

Trận đại họa nầy không riêng cho Thánh Địa Đại Nam Việt Quốc mà chung cho cả địa cầu. Thảm, Thảm, Thảm!

Hạ nguơn là nguơn mạt kiếp, nguơn điêu tàn, phải hiểu lư Đạo ẩn tàn trong hai chữ: Hạ Nguơn.

Hạ là dưới thấp, sau cùng, chữ Hạ gồm ư nghĩa: tệ, suy, tàn, hoại, là diệt đó. Hạ Nguơn là nguơn tiêu diệt. Vậy chư Đạo hữu cố tâm t́m hiểu những lời dạy dỗ tiên tri của Thầy và Lăo cùng các Đấng đă giáng dạy từ ngày khai Đạo đến giờ, những lời tiên tri đó ngày giờ tới sẽ ứng hiện từ từ, nạn tiêu diệt đă tới…Họa…Thảm!

Cả thế giới ngày nay c̣n trong ṿng mê mệt, bả vinh hoa phù phiếm, trong Đạo trở lại chuộng hư danh, lấy thế sự làm cứu cánh nên mới bày ra tṛ mị sanh chúng, ôi!

Tu thành không là nhờ tâm Đạo. Chơn tâm, chơn tánh do Thầy ban cho không lo trau luyện, lại ham lợi chác quyền, mến phẩm tước đến đỗi làm nhẹ thể Thánh danh Thầy.

Nạn cân đai áo măo! Đời cũng như Đạo đang là trường mộng ảo gạt người xa lần cội phước.

Thầy hằng thương con dại nên mới mở Đạo Kỳ Ba nầy mà cứu vớt chúng sanh. Hại Thay! Thảm thay! Đám sanh linh vẫn ngơ ngơ ngạnh ngạnh, dám đem tên tuổi Đạo Thầy mà đổi chác lợi quyền. Họa…Họa…Thảm…Thảm…

Ôi! Lăo v́ ḷng từ bi giáng dạy khuyên răn đủ lẽ, mà chúng sanh vẫn c̣n mê muội, theo Đạo chẳng tầm lư Đạo, lại chuộng hư danh, nền Đạo Thầy mới ra nông nỗi.

Ngày giờ nhặt thúc, buổi Hạ Nguơn cận kề cái chết, tâm thần mê mệt th́ làm sao khai khiếu linh quang được mà mong sống sót.

Ôi! Đời Đạo phải chịu nạn tai! Khổ! Khổ!

Nhơn sanh nào hay biết, cả một đám lố nhố lao nhao, ham vui thích lạ, nào đâu hay họa sầu đeo đẳng bên lưng, bước Đạo đă ngập ngừng, cánh hồng toan trở bước. Đại khảo! Đại khảo!

THĂNG

 

 

7. NÊN TH̀ ĐỂ, HƯ TH̀ BỎ

 

*Giáo Tông Đường, đêm 29-7-Đinh Tỵ (dl 12-09-1977)

(Lễ Trấn Thần tượng Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang)

HỘ PHÁP

Chào chư Thiên phong nam nữ. B́nh Thân.

Hôm nay Bần Đạo đến đây để Trấn Thần.

Chư Thiên Phong Chức Sắc và Đạo hữu lưỡng phái, mời b́nh thân cả thảy. Đại tịnh, Bần Đạo ban phép lành.

Cơ Đạo đang hồi biến chuyển, chư Thiên phong nam nữ Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện và các tư kỳ phận, phải ǵn giữ nghiêm nhặt, diệt tà ư, nuôi dưỡng Thánh tâm, hiệp đồng chư môn đệ của Đại Từ Phụ mà bảo thủ chơn truyền của Đại Từ Phụ nghe.

Bần Đạo không vị nể, nên th́ để, hư th́ bỏ.

Đức Lư Giáo Tông phàn nàn Đạo tâm của nhiều vị Đạo Hữu và Thiên Phong…

Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt không an ḷng về hành vi tư cách của một số Chức Sắc Cửu Trùng Đài, người cậy quyền các Thánh Tử Đạo mà sửa trị.

Bần Đạo xin khuyên tất cả nên lưu ư.

Thăng

 

 

Tái cầu:

QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT

Chào các em,

V́ ḷng ngưỡng vọng khẩn cầu của các em làm cho Qua và Hộ Pháp phải nôn nóng t́m phương gián ngự nơi chơn thần dẫn lối cho các em. Các em hết phương bảo vệ nền tôn giáo của Đại Từ Phụ…

Cười…Người ta đă thắng th́ ḿnh phải thua, người ta khảo th́ ḿnh phải chịu, người ta tấn th́ ḿnh cũng…cười…

Việc Đạo là thất ức niên, đời người chẳng qua trăm tuổi, xá chi mảnh phàm thân nơi cơi tục mà pḥng lo ngại. Cứ để máy tạo xoay vần, Thiên thơ biến chuyển, thương hải biến tan điền…

Cười…cuộc cờ nơi cơi thế nầy rồi đây sẽ ra mặt: ai giữ tṛn Thánh chất, ai bỏ Đạo tâm, ai mua danh chác lợi, ai lăng xăng theo thói thường t́nh, chác nẻo quanh co để qua mặt lưới Thiên điều bủa vây khắp nẻo…

Hộ Pháp để lời tiên tri rằng Người đă gặp Kim Quan Sứ hổn chiến cùng Lư Ngưng Dương nơi cơi Thiêng Liêng, trận ấy như là giấc mộng đối với các em, nhưng giấc mộng ấy có thật các em à!

Người đă quyết định cuộc cờ thế nào các em đă biết rơ. Qua đau ḷng, thân thế ḿnh coi cúc,…Buồn buồn, tủi tủi…

Ngảnh mặt lại đau ḷng, chớ cho kiếp hữu h́nh có Qua và Hộ Pháp để chia xẻ cùng các em những hồi vinh nhục…

Hôm nay Qua về Thiêng Liêng vị, Hộ Pháp cũng an ngôi, chỉ có gián điển trên mỗi chơn thần của chư Đạo hữu mà hóa ra ngàn trùng Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp, để cùng các chơn linh đỡ nâng cơ Đạo.

Từ ngày vắn bóng nơi Ṭa Thánh Tây Ninh, Đạo quyền bị chinh nghiên, tà mưu trí xảo cũng nhập vào Thánh thể mà lung lay khối Thánh đức nơi ḷng chư Đạo hữu. Cái quả kiếp ấy đâu có tránh khỏi trả vai.

Ô! Nói rằng nạng thất Đạo, đương nhiên của một số Đạo hữu hiện thời th́ trách nhiệm nầy, Qua cũng cam chịu trước Ngọc Hư Cung, chỉ cậy mấy em một điều là nơi cơi thế phải biết chung lưng đâu cật, diệt tâm phàm, vun bồi Đạo hạnh, mới mong hội hiệp cùng Đại Từ Phụ.

Chào các em.

Thăng

 

 

8.T̀M HIỂU CƠ QUAN “PHỔ TẾ”

 

Điều thứ mười bốn.-Phương cách đối phó cùng các chi phái phản Đạo.

LUẬT

Chiếu theo Thánh Giáo của Đức Chí Tôn và Đạo Nghị Định số 8 của Đức Lư Giáo Tông, th́ toàn cả chúng sanh nhất định không nh́n nhận các chi phái phản Đạo và phải định quyết là Bàn Môn Tả Đạo.

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

1.-Phần đông con cái Đức Chí Tôn có một hạng biết rơ mối Đạo là một cơ bí mật của Trời sáng tạo, đặng cứu vớt sanh linh khỏi trầm luân khổ hải, song v́ c̣n yếu ớt đức tin nên hăy c̣n đứng ngoài ṿng để mắt xem chừng vào cửa Đạo, c̣n một hạng nữa th́ lại đang mê mẫn trong ṿng vật chất, lầm tưởng cho nền Đạo là một cơ quan xảo kế của phàm nhơn sáng tạo để mê hoặc tâm lư của người đời mà xem dường như rẻ rúng; thành thử con cái của Đức Chí Tôn vẫn c̣n mịt mờ trong màn hắc ám. Vậy phương diện Phổ Tế nhơn sanh là một hành vi cần cấp để dẫn dắt người đời vào trường học Đạo của Trời cho mau chóng, đặng sớm tầm con đường siêu rỗi tội t́nh cho nhân loại.

2.-Hội Thánh phải tuyển chọn những Chức Sắc Thiên Phong đủ tài đủ đức đặng thuyên bổ qua cơ quan Phổ Tế.

3.-Chư vị Chức Sắc lănh phần Phổ Tế phải kể ḿnh như các vị Quan Phương Bá nhà Châu buổi nọ, nghĩa là mănh thân gánh nặng nghĩa vụ nơi vai, th́ phải châu lưu cùng khắp trong chốn thôn quê sằn dă, vào tận nơi nào có lấp loáng bóng người đặng đem chơn lư Đạo mầu thức tỉnh cho thế gian hồi tâm giác ngộ, kẻo một ngày trể là một ngày hại cho nhơn sanh chưa biết Đạo.

4.-Đối với các chi phái do Đạo lập thành mà phản loạn chơn truyền, ngày nay đă lỗi thệ cùng Thầy, th́ xin Hội Thánh thể ḷng đại từ đại bi của Chí Tôn, mở kỳ ân xá cho họ đặng nhập môn tái thệ y theo châu tri số 31 đề ngày 18 tháng 9 năm Bính Tư, duy trong châu thành Ṭa Thánh, những kẻ phản Đạo không đặng nhập môn trở lại mà thôi.

5.-Hiện thời đương lo tạo tác Ṭa Thánh, cấm nhặt các chi phái vào Thánh Địa toan mưu khuấy rối. Chừng nào Ṭa Thánh lập xong, dầu Chức Sắc các chi phái muốn nhập môn làm tín đồ đi nữa, th́ cũng phải có Quyền Vạn Linh và Quyền Chí Tôn công nhận mới đặng.

6.-Ngoài các vị Phổ Tế nếu có Chức Việc hoặc Đạo hữu nào độ đặng 500 đến 1.000 ngoại Đạo nhập môn, th́ vị ấy sẽ đặng Hội Thánh đem ra Quyền Vạn Linh cầu xin phong thưởng vào phẩm Lễ Sanh; độ đặng từ 1.000 đến 3.000 người th́ đặng vào phẩm Giáo Hữu, độ đặng từ 3.000 tới 10.000 người th́ đặng vào phẩm Giáo Sư.

7.-Những Thánh Thất thuộc về các chi phái mà muốn hiến về cho Hội Thánh th́ phải làm giấy tờ rành rẽ giao cho vị Phổ Tế đem về thương lượng với Hội Thánh.

8.-Chức Sắc Phổ Tế khi gặp đặng những điều bất hợp pháp cùng việc bất ḥa xảy ra giữa các cơ quan có đủ bằng cớ, hoặc bên Quyền Hành Chánh, bên Phước Thiện, bên Ṭa Đạo, th́ đặng quyền dâng sớ kêu ca ngay cho mỗi vị Chưởng Quản 3 cơ quan ấy.

 

 

 

9. ĐỨC CHÍ TÔN KHUYÊN TU

 

*(Lundl, 4 Octobre 1926).-27 tháng 8 Bính Dần

THẦY

Chúng Nam nghe:

Thầy Khổng Tử trước có tam thiên đồ đệ truyền lại c̣n thất thập nhị hiền.

Thầy Lảo Tử trước đặng một tṛ là Ngươn Thỉ.

Thầy Giê Su trước đặng mười hai người, chừng bị bắt c̣n lại một là Piere mà thôi.

Thầy Thích Ca đặng 4 người; ba bỏ Thầy c̣n lại một.

C̣n nay Thầy gián thế th́ chọn đến:

Nhứt Phật

Tam Tiên

Tam thập lục Thánh

Thất thập nhị Hiền

Tam Thiên đồ đệ.

Các con coi đó mà hiểu rằng: từ Đạo thế đến chừ chưa hề có chăng?

Nơi Bạch Ngọc Kinh hơn sáu chục năm trước chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ Thầy, nên ra t́nh nguyện hạ thế cứu đời.

Thầy coi bọn ấy lại c̣n làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy v́ cớ chi các con biết chăng? Các con có cả ba chánh Đạo là Tam giáo các con biết tôn trọng; ngày nay lại thêm chánh Đạo nữa, các con biết ít nước nào đặng vậy?

Bị hàng phẩm nhơn tước phải phù hợp với hàng phẩm Thiên Tước. Đáng lẻ Thầy cũng nên cho các con phải chịu số phận bần hàn, mà không nở, nên ngày nay mới có kẻ như vậy.

Thầy nói cho các con biết:

Dầu một vị Đại La Thiên Đế xuống phàm mà không  tu, cũng khó trở lại địa vị đặng.

Các con nghe à.

 

*(Dimanche,19 Decembre 1926). Rầm tháng 11 (B.D.)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG

Các con nghe: một sự các con chưa hề biết đến đặng hiểu Đạo là quí trọng dường nào, lo tu tâm dưỡng tánh.

Các con đă sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ năo tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy. Thầy hỏi: các con chết rồi, các con ra thế nào?

Các con đi đâu?

Chẳng một đứa hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy. Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp  ngàn ngàn, muôn muôn lần, mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế nầy lại c̣n chia ra phẩm giá mỗi hạng. Đứng bậc Đế vương nơi trái địa cầu nầy, chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới “Đệ nhứt cầu”, “Tam Thiên Thế Giái”; qua khỏi “Tam Thiên Thế Giái” mới đến “Tứ Đại Bộ Châu” qua “Tứ Đại Bộ Châu” mới vào đặng “Tam Thập Lục Thiên” : vào “Tam Thập Lục Thiên” rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc Kinh, là nơi Đạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy.

Các con coi đó th́ đủ hiểu các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên Vị.

C̣n phẩm trật Quỉ vị cũng như thế ấy; nó cũng noi chước Thiên cung mà lập thành Quỉ vị, cũng đủ các phẩm đặng đày đọa các con, xử trị các con. Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con, mà làm tay chơn bộ hạ trong ṿng tôi tớ nó.

Thầy đă thường nói: hai đầu cân không song bằng th́ tiếng cân chưa đúng lư. Luật công b́nh Thiêng Liêng phải vậy. Thầy lắm phen phải bị mất bị giựt con cái của Thầy v́ chúng nó.

Thầy đă chỉ rơ hai nẻo tà chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi cho khỏi lầm lạc. Các con hiểu rằng: Trong “Tam Thiên Thế Giái” c̣n có Quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là “Thất Thập Nhị Địa” nầy sao không có cho đặng?

Hại thay! Lũ quỉ lại là phần nhiều; nó bày bố ra mỗi nơi một giả cuộc mà dỗ dành các con.

V́ vậy Thầy đă nói tiên tri rằng:

Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hằng ngày xúi biểu nó cắn xé các con, song Thầy cho các con một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng, là Đạo đức các con.

Ấy vậy Đạo đức các con là phương phép khử trừ quỉ mị lại cũng là phương d́u dắt các con trở lại cùng Thầy. Các con không Đạo th́ là tôi tớ quỉ mị. Thầy đă nói Đạo đức cũng như một cái thang vô ngần, bắt cho các con leo đến phẩm vị tối cao, tối trọng, là ngan bực cùng Thầy, hay là Thầy c̣n hạ ḿnh cho các con cao hơn nữa.

Vậy Thầy lại dặn các con: nếu kẻ không tu, làm đủ phận người, công b́nh, chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác th́ cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, th́ biết chừng nào đặng hiệp hội cùng Thầy; nên Thầy cho một quyền rộng rải, cho cả nhơn loại càn khôn thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng; mà …hại thay;…mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc thấy đặng kẻ ấy.

Vậy Thầy dặn: Đạo là nơi các con nên quí trọng đó vậy.

 

(Trích trong Thánh Ngôn Quyển I)

 

 

 

10. BỐN ANH EM TRANH GIA TÀI

 

Một hôm Phật ngự trong vườn tre, gần thành Vương Xá, có 4 anh em con nhà quí phí, sớm mất cha mẹ cùng nhu tranh gia tài. Họ gặp trưởng lăo Xá Ly Phất lấy làm mừng bèn bạch rằng: “Anh em tôi xin đại đức phân giải dùm, rồi anh em tôi sẽ nghe theo mà không tranh giành nữa. Trưởng Lăo mới đáp rằng: “Được, tôi c̣n có Thầy là Phật, đức lớn hơn hết trong tam giái. Mấy ông hăy theo tôi, lại đó tôi sẽ tŕnh lên Phật, thế nào mấy ông cũng được thỏa ḷng”.

Bốn anh em theo Xá Ly Phất vào vườn tre. Phật thấy mấy người c̣n ở đằng xa th́ cười lớn lên, hào quan tủa ra năm sắc. Bốn anh em lạy chào Phật và bạch rằng: “Chúng con khờ khạo quá, tính không ra manh mối, nhờ Phật ban cho một lời để anh em chúng tôi thôi tranh với nhau”.

Phật mới phán rằng: “Thuở xưa có một nhà vua tên là Qui Liên. Vua đau bịnh nặng. Ngự Y đến xem bịnh bảo rằng, nếu được sửa sư tử cái ḥa với thuốc cho vua uống th́ hết tức th́. Vua liền truyền lịnh rao trong dân gian, hễ ai kiếm được sửa sư tử cái đem tới, vua sẽ chia phân nữa gian san và gă con gái út cho.

Có một người kia tự xưng rằng ḿnh có thể làm, bèn phụng mạng ra đi. Vua chịu giao việc đó và chỉ chỗ sư tử thường hay về nghỉ. Người đó mới giết một con trừu, đem vài ché rượu nho vào núi. Người ŕnh biết sư tử đă đi bèn vào trong hang mà để trừu với rượu. Sư tử về thấy thịt béo rượu ngon mới ăn uống no say và bật ra mà ngủ li b́. Người nọ liền chạy vào nặng sửa và ra về vui vẻ.

Nhưng đến chiều tối, đường về c̣n xa, người bèn ghé lại một làng kia mà nghỉ đêm. Lúc ấy có một vị La Hán cũng ngừng trong làng đó cũng nghỉ nằm gần với người. V́ theo sư tử mấy ngày liền mệt mỏi lắm, đặt lưng xuống là ngủ mê say. Vị La Hán thấy người đương ngáy mà chư thần ngũ quan đều tranh công, mạnh ai nấy giành phần lớn về ḿnh:

“Chưng nói trước rằng: Nhờ ta vào núi mà lấy được sửa sư tử.

“Tay chận lại rằng: Không có ta làm sao mà nặng được sửa? ấy chẳng phải công lớn về ta sao?

“Mắt nói: Có ta mới thấy được sư tử, công ta đáng hơn hết.

“Lỗ tai nói: À này, không có ta th́ ai mà nghe được lịnh vua để đi lấy sửa đây, quả là đầu công về ta đó.

“Lưỡi th́ nói: các anh cứ khoe tài mà đoạt công tôi đi. Thôi để mai các anh sẽ coi tôi chết sống do ai th́ biết.”

Hôm sau anh chàng đem sửa về, vào tâu vua rằng: “Tôi đă nặng được sửa sư tử rồi, c̣n để ngoài thành chờ lịnh bệ hạ”.

Vua phán: “Đâu đem trẫm xem coi quả vậy chăng? Vua vừa nếm sửa th́ Thần Lưỡi hô lên rằng: “Cái nầy không phải sửa sư tử mà là sửa lừa”.

Vua nổi trận lôi đ́nh hét rằng: “Ta sai ngươi đi lấy sửa sư tử, sao ngươi dám đem sửa lừa mà tráo ta?”

Đó rồi vua muốn truyền lịnh giết người. Nhưng lúc đó vị La Háng ngủ gần với người khi hôm, dùng phép thần thông mà bay lại trước vua. Ngài tâu rằng: “Cái nầy hẳn thật là sửa tử, Bần Tăng hồi hôm có ngủ gần người nầy, lúc người lấy được sửa rồi. Bần Tăng có nghe ngũ quan của người tranh công vớ nhau, ai cũng giành là phần ḿnh. Sau rốt bàn tay nghe lưỡi giận thốt rằng: “Thôi các anh sẽ coi tôi”. Bởi vậy cho nên bây giờ cái lưỡi nó giữ lời hờn. Bệ hạ cứ đem sửa mà pha với thuốc uống hết bệnh tức là sửa sư tử”.

Vua tin theo lời vị La Hán bèn lấy sửa mà làm thuốc và được nhẹ bệnh. Vua giữ lời hứa mới gả công chúa út cho người ấy và chia cho người phân nữa gian san. Vị La Hán tâu với vua rằng: “Trong ḿnh của người mà ngũ quan c̣n tranh công cướp việc thay huống ǵ cả ngàn, cả muôn người ai cũng muốn đoạt phần cả về ḿnh th́ nguy khổ biết bao?”.

Liền đó người kia xin vị La Hán cho ḿnh vào cửa từ bi. Nhờ thông minh, biết giải thoát khỏi dục vọng nên người hiểu nhiều Đạo lư mà thành một vị La Hán. Nhà vua cũng lấy làm vui mà lánh trần tầm Phật, giữ theo giới cấm và được thành công đắc quả.

Bốn anh em nghe Phật thuật xong, mới tỉnh ngộ, họ xin Phật cho họ làm đệ tử xuất gia. Phật không nói ǵ hết, Ngài lấy tay mà rờ đầu họ, tức th́ tóc rụng như cạo và có một bộ cà sa đắp lên ḿnh họ. Ḷng mê trần đă dứt, họ được bỏ nẻo tà mà theo đường chánh.

Đại Đức A Na Đà mới hỏi Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, 4 người ấy có được phẩm phược ǵ mà mới nhập hàng Tỳ Kheo lại được nghe kinh, được hiểu Đạo và được thành La Hán.

Phật đáp: Thuở ấy, Xá Ly Phất làm một nhà sư th́ họ là 4 người thương gia  cùng nhau có mua một bộ áo mà cúng dường cho, th́ Xá Ly Phất có nguyện độ cho họ được giải thoát.

Nghe Phật thuật xong, A Na Đà và chư Tỳ Kheo đều lấy làm vui mừng , hoan lạc.

(Trích trang 62-63 Chuyện Phật Đời Xưa của Đoàn Trung C̣n)

 

 

11. BÀI THI THỌ KHỔ của Đức Cao Thượng Phẩm

 

*Đêm mùng 1-3-Đinh Hợi (dl21-4-1947)

Phép thọ khổ thiệt là rất khó,

Đấng Thiêng Liêng chỉ rơ phân rành.

Phật Tiên đoạt phẩm trọn lành,

Trước cam thọ khổ, sau thành ngôi cao.

 

Có khổ hạnh đặng vào Chí Thánh,

Đức khổ tâm là tánh phong trần.

Ngày nào giải khổ xác thân,

Là ngày dứt nợ phong trần đăng Tiên.

 

Gặp cảnh khổ phải kiên, phải nhẫn,

Gặp cảnh sầu gượng lẫn làm vui.

Ḷn thân dưới phép quen mùi,

Thương đời thọ khổ, đắp bồi Thánh tâm.

 

Cứ lánh khổ làm sao đoạt vị,

Muốn lưu danh th́ phải xét suy.

Khổ là phép hưởng từ bi,

Khổ là đề mục trường thi linh hồn.

 

Có khổ tâm mới tồn danh Đạo,

Khổ hạnh nhiều là tạo Thiên đường.

Xưa kia các Đấng hiền lương,

Cũng là đắc Đạo trong trường khó khăn.

                                      Cao Thượng Phẩm

 

 

 

12. ĐẠO LÀ G̀?

 

Có lẻ Lăo Tử là người đầu tiên trong các triết gia Trung Quốc đă dùng chữ Đạo để chỉ cái nguyên lư tuyệt đối của vũ trụ đă có từ trước khi khai thiên lập địa, không sinh, không diệt, không tàng, không giảm. Đạo có thể quan niệm với hai phương tiện: vô và hữu. Vô th́ Đạo là nguyên lư của Trời Đất, nguyên lư vô h́nh. Hữu th́ Đạo là nguyên lư hữu h́nh, là Mẹ sanh ra vạn vật. Vô danh thiên hạ chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu.

Đạo là một nguyên lư hoàn toàn huyền diệu siêu h́nh và bất khả tư nghi. Người ta không thể định danh nó, cho nên gượng dùng đến danh từ ấy để tạm chỉ định. Hễ dùng đến danh từ để chỉ định tức là vạn vật được chỉ định đă bị hạn định, cho nên dùng đến danh là chỉ để áp dụng cho những phần tử của Đạo bị “phá” ra mà thôi, nghĩa là chỉ để ám chỉ một khía cạnh nào, một bề mặt hay một bề trái của cái Đạo Một, cái Đạo không thể phân chia.

Cho nên muốn được Đạo, không c̣n thể dùng đến lư trí, hiểu biết bằng sự so sánh mà chỉ có thể hiểu biết được khi nào chính ḿnh thực hiện được nó nơi bản thân. Đạo mà nói ra được, không phải là Đạo “thường” nữa; Danh mà gọi  ra được không c̣n là danh “thường” nữa. Như vậy định cho sự thật một cái tên, đó chỉ làm cho ta ĺa xa với cái “chân diện mục” của chúng tức là cái chân lư toàn diện của sự vật.

Trong giới sắc tướng thảy đều biến động không dừng, không có sự vật nào mà không thay đổi hoặc mau, hoặc chậm. Hay nói một cách khác, sự vật là vô thường. Bởi vậy hạng định nó trong một danh từ “tịnh” là sai. Ở đây ta thấy Lăo Tử chống lại với thuyết “chánh danh” của Khổng Tử và đề xướng thuyết “vô danh”. Nghĩa là Lăo Tử quan niệm sự vật trong đời theo sự thực hiện của sự vật, nghĩa là cái nhân sinh quan của ông là “nhân sinh quan động” (dynamique), không c̣n là “nhân sinh quan tịnh” (statique) nữa.

Không có một danh từ nào, không có một ư tưởng nào, cũng không có một sự phán đoán về giá trị nào mà có thể gọi là tuyệt đối cả. Thảy đều tương đối, nghĩa là bao giờ cũng có phần đối đăi của nó, tốt và xấu, thiện và ác, thị và phi, dài và ngắn, cao và thấp…

Thiên hạ đều biết tốt là tốt th́ đă có xấu rồi, đều biết lành là lành th́ đă chẳng lành rồi.

Cập tương đối ấy luôn luôn nằm sẵn trong mọi sự vật và bất cứ trong đời sống ta lúc nào cũng thấy nó hiện lên và gây cho ḷng ta nhiều tranh chấp v́ mâu thuẫn. Ta há không nhận thấy rằng ḷng ta là một cái ǵ mâu thuẫn hay sao? Vừa thương mà cũng vừa không thương, v́ trong thâm tâm ta cảm thấy mất tự do khi bắt đầu yêu ai một cách tha thiết. Biết bao khi ḷng th́ thuận mà miệng th́ từ chối, hoặc miệng th́ từ chối mà ḷng không thuận! cái ǵ đă khiến cho ta vừa cười vừa khóc và tiếng khóc tiếng cười thường lại giống nhau?...Phải chăng v́ cảm súc của ta lên đến cực độ lại càng giống nhau không thể phân biệt nhất là trong sự yêu ghét! “Thương nhau lắm cắn nhau đau”, t́nh yêu tha thiết thường lại dường như giống sự oán thù! Cho nên mới nói: “ghét lẫn cái bề trái của cái thương, và thương ghét tựu trung là một”.

Đời sống nội tâm của con người khi Đạo bị chia ĺa là một bầu mâu thuẫn và v́ thế “sống là khổ”. V́ chỉ khi nào ḷng ta không c̣n chia rẻ nữa, trở về sống được trong cái sống một, th́ mới mong giải quyết được vấn đề chia phân Nhĩ Ngă.

Cho nên đó là cái học chạy theo thị phi thiện ác, cái học chia ly phân tán, cái học nhị nguyên, cái học mà người muốn trở về với Đạo phải vứt bỏ. Lăo Tử khuyên ta nên muốn được Đạo, đừng có nh́n sự vật bằng con mắt nhị nguyên chia phân Nhĩ Ngă, mà chỉ nh́n thấy thảy đều là Một. Con người mà càng chạy theo cái học phân tán sẽ bị tâm hồn rối loạn v́ hay phân biệt và biện biệt.

Cũng v́ nh́n đời bằng cặp mắt nhị nguyên nên gặp phúc th́ mừng, gặp họa th́ buồn mà không hay rằng phúc đấy họa đấy cũng không chừng, hay họa đấy phúc đấy cũng biết đâu! “Họa bề phúc chi sở ỷ; phúc bề, họa chi sở phục”. ôi! Phúc rồi họa, họa rồi phúc, sự vật bao giờ cũng phản biến, nghĩa là hễ biến th́ biến thành cái đối địch của nó.

Tục ngữ của dân ta có câu:

“Nay cười, mai khóc”

Và có nhận rơ được cái luật phản biến của sự vật trên đời th́ được không nên vội mừng, mất không nên vội buồn. Nhờ vậy mà ḷng mới b́nh tỉnh thản nhiên trước mọi biến cố của cuộc đời.

Cái mà Lăo Tử chống đối là sự nh́n cuộc đời bằng lư trí, tức là nh́n cuộc đời bằng khối óc chia phân thiện ác, vinh nhục, thị phi, cao thấp…cho nên muốn được Đạo, muốn có hạnh phúc thật sự phải bỏ cái óc chia phân sự vật mà Lăo Tử gọi là “Giải Kỳ Phân” để mà thấy được sự huyền đồng của tất cả sự vật.

(Trích trang 38-42 Lăo Tử Tinh Hoa của Nguyễn Duy Cần)

 

 

 

13.QUYỀN CỦA HIỆP THIÊN ĐÀI

 

*Cung Đạo Ṭa Thánh , 22-4 Mậu Tư (dl 30-5-1948)

Pḥ loan: Họ Pháp, Khai Pháp.

Hầu đàn: Chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu.

CAO THƯỢNG PHẨM

Chào chư hiền hữu, chư hiền tỷ và hiền muội.

Đức Lư Giáo Tông viết, chư hiền hữu coi đọc không đặng, nên Bần tăng thủ bút cho Ngài, tưởng khi Hộ Pháp và Khai Pháp c̣n nhớ bút tích của Bần tăng nên ráng đọc nghe.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

LƯ GIÁO TÔNG

Chào hết cả chư Thiên phong nam nữ.

Hộ Pháp, hiền hữu muốn Lăo kư tên Thánh lịnh thăng vị cho chư Chức sắc Thiên phong. Điều ấy vốn không khó, chỉ sợ nghịch Thiên điều.

Lăo đă nói, hoàn cảnh của đôi ta phản trắc, Lăo vô h́nh lại đảm nhiệm trách nhậm trị thế định vị, tức là chủ khảo Thiêng Liêng vị.

Bởi thế cho nên khi Hộ Pháp trấn Thánh Phi Châu, Lăo mới đến cầm quyền đặng định vị cho các Thánh Tử Đạo, v́ đó mà lập nên quân đội.

C̣n Hiền hữu hữu h́nh mà lại nắm Thiên Điều hành pháp lập giáo. Hiền hữu là chủ khảo hữu h́nh vị, bởi cớ cho nên Hiền hữu làm đầu toàn Hội Thánh.

Khi Ngọc Hư giáng lịnh th́ Hiền hữu vẫn nhớ hai câu nầy:

Cửu Trùng không thể an thiên hạ,

Phải để Hiệp Thiên đứng trị v́.

Bởi lẻ ấy, Lăo đến khi nọ giao quyền trong bài thi: “Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu H́nh Đài”.

Ấy vậy, nơi tay Hiền hữu đủ quyền Chí Tôn mà chuyển thế. Lăo bất quá là một Giáng Nghị Đại Phu ở gần Hiền hữu, chia lo sớt nhọc mà thôi.

Lăo tưởng khi thiên hạ chưa an, có phải?

Cười…th́ nay đă hiện diện Quốc Sư Việt Nam, đặng bước qua Quốc Sư thiên hạ. Xong chưa mà toàn thối thác?

Cứ kư đi như trước đến giờ là đúng phép.

Ngày mai nầy, chiến sĩ Pháp hồi đă măn học, Hiền hữu làm ơn nói với họ rằng: Lăo lấy làm cảm xúc tâm Đạo của họ. Lại dặn thêm rằng: Tinh thần cao thượng, dầu hạ ḿnh thế nào th́ cao thượng vẫn là cao thượng; c̣n tinh thần hạ tiện, dầu tự tôn thế nào hạ tiện vẫn là hạ tiện. Nói rằng Lăo xin họ làm thế nào cho Đạo trở nên thanh bai tinh khiết. Ấy mới là người nghĩa của Lăo.

Nên đọc lại Thánh Giáo, rồi giải nghĩa cho toàn chư Chức Sắc Thiên phong đều hiểu.

Lăo xin kiếu, chúng ta c̣n nhiều điều bàn luận, nhưng cơ đă mỏi, chờ khi khác Lăo sẽ trở lại.

Thăng

 

***

 

Hai bài thi mà Đức Lư Giáo Tông nhắc ở trên xin trích ra như sau:

Bắt ấn trừ yêu đă đến kỳ,

Ngọc Hư định sửa máy Thiên thi.

Cửu Trùng không thể an thiên hạ,

Phải để Hiệp Thiên đứng trị v́.

Hành pháp d́u đời qua bể khổ,

Ra tay cứu chúng thoát cơn nguy.

Quyền hành từ đấy về tay nắm,

Phải sửa cho an đúng thế th́.

 

***

Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ,

Pháp luân thường chuyển mối Thiên cơ.

Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi vị,

Quản xuất Càn Khôn định cơi bờ.

Nhị kiếp Tây Âu cầm máy tạo,

Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ.

H́nh hài Thánh thể chừ nên tướng,

Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ.

 

 

 

** 

14. THÁNH GIÁO TIẾT LỘ CĂN KIẾP CỦA CÁC VỊ CHỨC SẮC HTĐ

 

* Ngày 22-1 Tân Măo (dl 1951)

Pḥ loan: Thừa Sử Hợi, Luật Sự Nhung

                  

Giám Đạo Nguyễn Huợt Hải

Xin chào quí bạn.

Tôi có được một tin quan trọng cho quí bạn, nhưng hôm 18 rồi nói ra bất tiện nên lại để đêm nay.

Nơi Ngọc Hư Cung đă quyết định lập đủ oai quyền cho quí bạn hầu nắm giữ chơn truyền trong cơn biến chuyển sắp đến mà chính tôi phải chịu phần đảm đương.

Có một điều rất hay là từ đây chư vị Thời Quân đă hiểu ra chân giá trị của Chức Sắc tiểu cấp Hiệp Thiên Đài là dường bao. Điều ấy chính tôi đă giúp cho quí bạn.

Nói về địa phương, từ đây chẳng c̣n sợ điều khó dễ như trước nữa. Quí bạn sẽ thưởng thức được nhiều điều hay trong hành tŕnh sấp tới. Sau thời gian Đức Hộ Pháp nhập Trí Huệ Cung, quí bạn sẽ được hưởng trọn Thiên ân.

…………………

Cher Trường, toi về dưới nhà moi th́ nói moi đă được nhẹ nhàng thân thể. Biểu ma femme vui chứ. Chứ khóc chẳng ích chi. Việc nhà th́ cứ tính theo như trước, rất cám ơn đó.

Quí bạn thưa với Ngài Khai Đạo rằng sự thật quả y như vậy, v́ cùng chung máu mủ lúc trước. Ngài Khai Đạo là anh cả, đến ông Phối Sư Khị , đến tôi, đến ông Lợi, c̣n cô Nhâm là em út. Tiền kiếp đă tạo nên Phật Vị, song v́ ông Lợi và bà Nhâm c̣n bị mắc thệ cùng nhau nên kiếp này tái sanh làm vợ chồng.

-Trân bạch: Phải người Việt không?

-Không, kiếp trước của chúng tôi là người Ấn Độ……

Đó là do sự thay đổi h́nh xác, thọ bẩm khí Hậu Thiên của cha mẹ hữu h́nh nên Phật tánh đă bị lu mờ đi, chỉ có linh tâm đôi khi c̣n nhớ chút ít thôi.

Quí bạn cũng đều có nguyên căn rực rỡ, nhưng chẳng dám lộ Thiên Cơ.

Bạn Hưởng, Khỏe, Du chúng ta là học tṛ của Đức Nhàn Âm. Tôi xin nói cho quí bạn được rơ, ở trong mỗi cung, mỗi động đều có đủ các đẳng Chơn Linh đến học hỏi, chỉ trừ chư Tiên Trưởng là nhất định mà thôi.

-Thừa Sử Hợi bạch…..

-Học tṛ Nhàn Âm Động là :Hưởng, Khỏe, Du, Thêm tức Chương.

Bạch Vân Động: Thừa Sử Hợi, Trân, Nhung, Vân, Khen, Trường, Đôi.

Hiệp Thiên Đài:  Hóa, Tộ, Hợi (Luật Sự), Đúng, Cẩm. C̣n TiếpLôi Âm Tự, Tỷ là đồng tử Bạch Vân.

Phổ Hiền Cung: Giảm, Nguyên, Nên, Tú, Tất, Ngời.

Bạn Phước nhờ bạn vui nhắc Ngời với nghe.

Khoe  là nhơn viên của Cửu Nương.

Các Cung các Động là nơi thâu học tṛ. Mỗi lần họ tái kiếp để lập công, nhưng tùy phận sự mà chia ra.

Thừa Sử Phước bạch: Do nơi Tiên Trưởng chia ?

-Chư vị Tiên Trưởng chia ra tùy theo sự lập vị của mỗi chơn linh.

Xin kiếu.

 

*Pḥ Loan: Nhung, Nguyên                            

Tái Cầu

 

Lúc năy Ngài Khai Đạo trông tin trả lời mà mấy toi không nói dùm luôn đây, moi nói cho hết chuyện, v́ lúc năy Nhung mệt nên yếu thần, mất điển. C̣n sót Thơ Cao là chơn linh ở Huyền Không Động, Phước Bạch Vân Động.

Mấy toi thấy toàn là những chơn linh theo lănh trọng trách, v́ cớ nên ở vào Đài Hiệp Thiên đây làm bộ máy giữ ǵn chơn truyền của Đức Chí Tôn, đặng cho nhơn sanh được trọn đường đi trên bước Đạo. Nhiệm vụ ấy coi nên trọng thể. V́ thế nếu tṛn phận sự là đắc vị liền, c̣n đi sái ngă là bị trọng tội. Ở nơi cảnh vô h́nh, những gương phản chiếu hành vi của tụi ḿnh rơ hơn hết. Nếu biết rằng trong mỗi thời cúng, cổ pháp mà chúng ḿnh đeo trên nê huờn cung nó tố giác hay xưng công của ḿnh. Vậy nên mỗi hành động đều ghi liền tại Bát Quái Đài, xin mấy toi rằng làm cho rỡ danh mới khỏi thẹn.

C̣n việc Ngài Khai Đạo hỏi th́ tên của ông Khí và của moi ổng đă biết. Tên của ông Lợi là Brahma Vhriwich nhơn vào lúc năm 752, đệ tử của ḍng Brahma Darwa. Trong kiến họ tại đây không c̣n ai nữa. Nhung định thần chút nữa để họa thi.

Cảnh tục tay chia luống nhớ rầu,

T́nh huynh nghĩa đệ mấy trăng thâu.

Đêm khuya nh́n ngọn hoa đăng cạn,

Trống nhặt nhớ h́nh nhạn bút sâu.

Một thuở tương rau nên hiệp mặt,

Đôi khi muối tuyết đă chung đầu.

Hữu vô hai ngă đành ly biệt,

Đệ trở Thiên Cung bởi lịnh chầu.

                                      Nam Dương.

 

***

Tên của những chức sắc được nhắc trong bài Thánh Giáo trên như sau:

Học tṛ Nhàn Âm Động: Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng, ST Nguyễn Hữu Khỏe, ST Vơ Nhàn Du, ST Lê Văn Thêm

Học tṛ Bạch Vân Động: Thừa Sử Nguyễn Văn Hợi, TS Phan Hữu Phước, ST Nguyễn Ngọc Trân, ST Phạm Duy Nhung, ST Vân (hay Ảnh- Đinh Công Ảnh), ST Lê Văn Khen, ST Lê Quang Trường, ST Lê Văn Đôi, ST Nguyễn Ngọc Tỷ.

Học tṛ Hiệp Thiên Đài Hóa: ST Ngô Tộ, ST Trần Tấn Hợi, ST Phạm Văn Đúng, ST Nguyễn Văn Cẩm.

Học tṛ Lôi Âm Tự: ST Bùi Văn Tiếp.

Học tṛ Phổ Hiền Cung: ST Đỗ Hoàng Giảm, ST Nguyễn Thành Nguyên, ST Diệp Văn Nên, ST Nguyễn Văn Tú, ST Lê Văn Tất, ST Nguyễn Minh Ngời.

Học tṛ Huyền Không Động: Luật Sự Nguyễn Ngọc Thơ, ST Bùi Quang Cao.

Nhơn viên của Cửu Nương: ST Lê Thị Khoe.

 

Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đăi, Phối Sư Thái Kh Thanh, Giám Đạo Nguyễn Hượt Hải, Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi, Bà Hương Nhâm, là 5 anh em trong một gia đ́nh Ấn Độ con của vua Brahma Itichnhon vào năm 752 (sau Tây lịch). Tên của ông Lợi là Brahma Vhriwich đệ tử của ḍng Brahma Darwa. Bà Nhâm tên Brahma Prech. Tiền kiếp các Ngài đă tạo nên Phật Vị, song v́ ông Lợi và bà Nhâm c̣n bị mắc thệ cùng nhau nên kiếp này tái sanh làm vợ chồng.

 

 

 

15. PHƯƠNG DIỆN CHÁNH THỂ CỦA ĐẠO

 

Bài diễn văn của Đức Quyền Giáo Tông tại Ṭa Thánh ngày mồng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất, vía Đức Phật Thích Ca.

 

Chư Đạo hữu cùng chư Đạo muội.

Buổi chênh nghiên Đạo hầu qua, tâm lư toàn con cái của Đại Từ Phụ dường như đặng chuẩn chàn an tịnh đă để trọn trí thức tinh thần suy gẫm, nên tệ huynh ngày nay toại chí lượm lặt những lời châu ngọc của Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng thuyết giáo đặng chỉ rơ thành ư nơi nào để cho Đạo phải chịu khảo đảo dường ấy. Cái hữu ích của sự khảo đảo sẽ tỏ tường nơi bài thuyết pháp nầy, nhưng xin chư hiền hữu, chư hiền muội cố tâm kiếm hiểu.

Các tôn giáo đă lập thành ở mặt thế ngày nay đă đoạt đặng một cái quyền hành hữu vi kiên cố, th́ trước kia cũng phải chịu khổ hạnh nương lấy một quyền hành bạc nhược yếu ớt của tâm lư mà thôi.

Ôi! Quyền hành tâm lư buổi nào cũng gặp sẵn sàn một tay thù địch mạnh mẽ cường thạnh, oai nghiêm là quyền đời hiện hữu, sự sung đột của quyền đời và quyền Đạo từ cổ chí kim tự nhiên mà có. Chúng ta đă đoán biết rằng, những quyền lực hành thế đều nương theo tinh thần mà sản xuất, trứng tinh thần ấy nở sanh quyền lực, v́ cớ cho nên các quyền hành đă có đủ thế lực mạnh mẽ nắm thế trị vào tay, hể vừa thấy trí thức tinh thần của nhơn sanh ướm ṃi sản xuất một cái trứng quyền hành chi khác nữa th́ đă sợ lưu hại cho ḿnh, nên toan phương đạp đổ.

Cuộc kết quả phản khán ấy, hoặc thành hoặc bại, óc ảnh hưởng của tương lai sanh hoạt quyền lực đương nhiên của họ, v́ cớ mà sự xung đột hằng xem dữ dội.

Ấy là những phương khảo thí tài lực của trí thức tinh thần, hầu làm cho trí thức tinh thần sanh điều hay, bày điều dở: hay th́ chánh, dở th́ tà, chánh th́ c̣n, tà th́ dứt. Ấy vậy, dù cho sự xung đột của quyền Đạo với quyền đời, thoảng đă làm cho lao tâm tiêu tứ của những trang chấp chánh Đạo quyền đi nữa, là phương chước tô điểm vẽ vời cho lịch xinh mặt Đạo. Phận sự bảo trọng lấy ḿnh là dễ, c̣n phận sự bảo Đạo vốn khó vô cùng, đáng lẻ những kẻ khuyến khích cho tệ huynh bảo trọng lấy ḿnh nên gọi là người ơn, c̣n những người khuyên lơn bảo tồn cho nền Đạo, gọi là kẻ nghịch mới phải. Tệ huynh tưởng khi chẳng cần nói th́ chư hiền hữu chư hiền muội cũng đă đoán biết rằng chẳng lẻ Chí Tôn lựa tệ huynh giao cầm quyền mối Đạo đặng bảo trọng lấy tệ huynh mà thôi. Trái ngược th́ lại nhũ rằng phải hủy ḿnh đặng bảo tồn sanh chúng. Chẳng lẻ chúng ta đành cho rằng trọng ḿnh hơn trọng Đạo là chơn lư?

Ôi! Đă biết bao phen đêm khuya thanh vắng, tệ huynh nằm gát tay lên tráng thầm hỏi lấy ḿnh:

Một mảnh thân phàm nầy, cô thân bạc nhược nầy, yếu ớt hèn mọn nầy, có đủ tài đức chi mà Đại Từ Phụ lại tin giao cho cái gian san sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu đặng cho gánh vác.

Càng nghĩ càng lo, lo rồi lại sợ, sợ không kham trách nhiệm mạng Trời, càng suy càng tủi. tủi rồi lại khóc, khóc sợ không phương nâng đỡ nổi chơn truyền.

Đại Từ Phụ lại qui tựu con cái của Ngài gần trên một triệu sanh linh, biểu bảo hộ nâng niu dạy dỗ.

Anh th́ nghèo, em th́ khó, gia nghiệp không mà quyền thế cũng không, bị cưỡng bức ép đè mang khổ hạnh.

Đă 9 năm Tệ huynh thấy ngờ ngờ trước mắt nhiều thảm trạng khó khăn, tinh những tiếng khóc than chẳng dứt, kẻ th́ đói, người th́ đau, Chức Sắc th́ hèn, tín đồ th́ dở, mối thương tâm chất chứa đầy ḷng, giọt huyết lệ toàn đêm chẳng ngớt…

An đâu đặng mà tịnh, vui đâu đặng mà nhàn, chúng sanh th́ khóc, Hội Thánh th́ than mà chẳng thấy một ai lo trọn Đạo. Tệ huynh xem lại những tay yếu trọng trong chấp chánh Đạo quyền, thay v́ chia đau sớt thảm, lo giải khổ cho chúng sanh, lại cố ư giựt giành quyền thế. Nhiều vị lại muốn cho tệ huynh ngồi ngó điềm nhiên, những thảm khổ ngơ tai, bịt mắt, lại buộc tệ huynh phải an tịnh đặng đắc Đạo thành Tiên, dầu mối Đạo chinh nghiên đừng ngó đến.

Cái sở vọng của các người ấy, tệ huynh để cho chư hiền hữu, chư hiền muội kiếm hiểu coi để lại nơi nào, không cần cạn tỏ.

V́ tệ huynh biết đặng cái bí mật huyền vi ấy, nên không khứng nghe lời, mới nảy sinh ra trường ác cảm. Nào là lường gạt nhơn sanh, nào là tranh giành quyền tước, gieo nhục nhă khắp nơi, lấy quyền đời chế Đạo. Một trường ngôn luận xảo huyệt, dối gian truyền cùng làng khắp xóm, những sự kết cuộc cũng không hại chi danh thể của tệ huynh, duy làm cho thiên hạ chê khinh chánh giáo. Chẳng biết lương tâm của những kẻ phá Đạo ngày nay có phải thế nào, lẻ tà chánh trọng khinh sao chẳng rơ.

Tệ huynh ngồi nhớ lại đă cách 10 năm, nghĩa là hạ tuần năm Sửu, tệ huynh c̣n làm Thượng Nghị, vào lầu ra các, trong th́ bạn, ngoài th́ quan, nẻo hoạn lộ hèn sang nhục vinh đă chán với tuồng đời, mùi cay đắng đă từng quen với mặt thế, nào là mày trung, nào là mặt nịnh, đă trông nom mỏi mắt ṃn hơi, nên mới biết chê đời mến Đạo.

Nay lục tuần hầu đến, lẽ nên hư huyền biến cũng đă thừa, có chi hay pḥng mến pḥng ưa, có chi trọng pḥng yêu pḥng chuộng. Tệ huynh hằng hỏi lấy ḿnh, cái ngày của Đại Từ Phụ sai Hộ Pháp và Thượng Phẩm đem lịnh vào nhà mà dạy một đứa tội t́nh nầy, phải dâng trọn xác hồn cho Ngài làm lợi khí mở chơn truyền, nên gọi là ngày hữu duyên hay c̣n gọi là ngày trả nợ. Nếu phải trả nợ th́ Thầy lại nào đành giao một cái gia nghiệp vĩ đại của nhơn sanh cho một kẻ gian tham bạo ngược, c̣n như gọi rằng duyên th́ chắc đủ quyền lực cầm vững Đạo. Đă 9 năm xong lướt trên con đường đi thang lửa, bước chông gai, mà cũng có thể bảo thủ chơn truyền của Thầy vững càng toàn hảo, th́ không phải là một tay giả mạo hay là  một đứa tội nhơn mà làm cho Thánh chất đặng thắng hơn phàm tánh.

Bởi biết ḿnh, biết Thầy, biết người, biết Đạo mới yên trí định tâm giữ ǵn Đạo mạch. Tệ huynh duy có một sở vọng là ngày nào Đạo đắc thành, đời thật đặng thái b́nh, th́ thối bước, lui chơn liền, đặng thích chí du sơn ngoạn biển, cái vui cùng tận của tệ huynh ở tại nơi đó mà thôi, chớ chẳng phải tại mến đời ngồi chịu khổ.

Ngày nay là ngày vía Đức Thích Ca mà tệ huynh không giải thích Đức Thích Ca, th́ chư hiền hữu lưỡng phái cũng hiểu rơ tích của Ngài và chư hiền hữu cũng thông suốt Phật Đạo chút ít rồi.

Tệ huynh chỉ để th́ giờ quí báu đặng nhắc chư hiền hữu  lưỡng phái nhớ một hai tôn chỉ quí trọng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đương thời, nhứt là về phương diện thể của Đạo.

Tệ huynh không giản Phật Đạo, chớ Đại Đạo ngày nay cũng là Phật Đạo, v́ gom hết Tam giáo (Nho, Thích, Đạo) và Thích Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích Ca.

Tệ huynh hằng nhắc chư hiền hữu, chư hiền muội rằng: Đạo vẫn một, mà mỗi thời kỳ khai Đạo th́ phương diện khác nhau, v́ Đạo khai phải phù hợp với dân trí đương thời khai Đạo. Khi Đức Thích Ca mở Phật Đạo, th́ nhơn sanh buổi ấy c̣n thánh đức nhiều, cả các nhơn sanh đều ngán sự khổ năo truân chuyên ở thế, nên Thiên Đ́nh phú cho Ngài lấy tôn chỉ tiêu cực diệt tứ khổ (sanh, bịnh, lăo, tử) mà độ chúng.

Ngài cũng bị lắm điều truân chuyên khổ năo, lao thân tiêu tứ với đời, mà chừng thành Đạo cũng bị quỉ phá một hồi dữ dội, rồi mới thành Đạo.

Đức Lăo Tử khai Đạo Tiên, th́ cũng huyền pháp làm tôn chỉ cao thượng, v́ đương buổi ấy nhơn sanh ưa huyền diệu phép tắc. Ngài cũng bị nhơn sanh cho là lăo già mê hoặc chúng . Đệ tử của Ngài cũng lần lần xa Ngài, cho đến đổi khi Ngài đi ngan qua Hàm Cốc Quan, vô nha môn của Doăn Hỷ đặng độ ông nầy là chơn linh của Ngươn Thỉ, th́ Từ Giáp là học tṛ hầu cận Ngài v́ mê sắc rồi xa ngă mà cũng xa Ngài.

Mà Đạo Tiên cũng thành tựu và cũng truyền bá tứ phương vậy.

Khổng Phu Tử thọ lịnh Thiên Đ́nh xuống khai Đạo Nho đặng sửa nhơn luân trong buổi Châu mạt, v́ trong buổi ấy can thường luân lư suy đồi, nên nhơn sanh thấy cái Đạo nhơn luân của Ngài nay, sửa đời đặng th́ khâm phục.

Ngài cũng lắm công nhọc nhằn với đời, qua Tề bị Yến Anh, qua Yên bị phế, qua Triệu bị đuổi, kẻ bắt người buộc, ăn giá nằm sương nhọc nhằn biết mấy. Đến nổi nhà Tần tàn bạo không xiết kể, phàn thi khanh nho (đốt sách chôn học tṛ) mà Đạo nho cũng lan truyền khắp hoàn cầu.

551 năm sau Khổng Phu Tử, mới có khai Đạo bên Thái Tây, nên Thầy cho Đức Chúa Jesus-Christ gián sinh khai Đạo Thánh cho phù hợp với dân trí Âu Châu.

Đức Chúa Jesu cũng bị cường quyền Israel áp bức cho đến đổi hồi ban sơ th́ có 12 vị Thánh Tông Đồ theo Ngài, mà sau c̣n có một Thánh Piere mà thôi. Nhưng người cũng phải chối chúa 3 phen đặng tránh cường quyền bắt buộc.

Chừng Đạo thành th́ Du-Già bắt Ngài mà nạp cho chánh phủ hành h́nh, đóng đinh trên cây Thánh Giá, hành xác Ngài gớm ghiếc như thế đặng cho nhơn sanh kinh khủng mà bỏ Đạo, mà Đạo Thánh cũng gieo truyền khắp cả hoàn cầu.

Lúc Đạo Gia Tô truyền qua Đông Pháp th́ vua Annam cũng nhặt cấm, bắt mấy người theo đọa Gia Tô bước qua Thập Tự, ai không bước qua th́ bị tử h́nh.

H́nh phạt gớm ghê như thế mà cũng có người chí thành thọ tử mà thôi, chớ không chịu chối Đạo. Xét kỷ lại thiệt người xưa là Thánh đức, ít ai b́ kịp, cứ giữ chánh tâm làm trọng, thủy chung như nhứt mà thôi.

Ngoảnh lại ngày nay mà ngán cho đời!

Ôi! Trong 8 năm dư chuông Thánh truy hồn, Đạo Trời đem tin cứu thế, mà hễ có nghe phản phất lời đồn huyền hoặc chi của người toan phá Đạo, th́ mau mau cuốn Thánh tượng, dẹp Thiên bàn ḷng toan chối Đạo.

Biết bao nhiêu người nịnh quyền hiếp thế, xu phụ theo nịnh tà, mong toan phá Đạo, rước rắn rừng vô cắn gà nhà, nạp chất Thánh vô đề lao cho phỉ ḷng oán hận.

Con một cha, gà một ổ mà làm cho đỗ lụy rơi châu, gieo thảm sầu cho lắm người tâm thành trí vẹn phải dừng chơn thối bước.

Quạ nuôi tu hú cũng c̣n biết thương, người đi một đường sao nở hại nhau như thế.

Ai toan bứng gốc phá chồi của nền Đạo th́ để cho Thiêng Liêng quyết đoán, ḿnh cứ nắm giữ luật lệ của Thầy và Đức Lư Giáo Tông đă thành lập từ buổi ban sơ th́ thành Đạo, v́ luật lệ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thể thiên hành hóa là món binh khí diệt tà quyền.

Đời có thạnh có suy.

Đạo động tịnh chuyển xây;

Lửa thử vàng, gian nan thử Đạo.

Trong 8 năm rồi, biết bao phen vẹt mây ngút, thấy trời xanh, mà lắm lúc xem đất bằng sóng dậy.

Thầy đă nói tiên tri: Chi chi qua Quí Dậu cũng phải cho thành Đạo, mà trước khi Đạo thành th́ Tam Thập Lục Động quỉ về phá Ṭa Thánh dữ dội lắm, mà trừ an nội loạn th́ mới thành Thiên Cơ.

Ngày nay bảo tố dữ dội đă qua rồi, tệ huynh nh́n thấy mấy em đă bị bao phen khảo đảo, thảm khổ vô cùng, mà mấy em cũng ngồi vững trong thuyền bát nhă của Thầy độ rước, th́ tệ huynh hết sức vui mừng, nên nguyện rằng sẽ đem dạ yêu thương mà d́u dắt mấy em về cùng Thầy cho đến chốn.

Các Đấng Thiêng Liêng cũng có nói trước: “Rồi đây nguyên nhân sẽ đến rần rần, có lắm anh hào thành tâm giúp Đạo”. Cơ Trời mầu nhiệm cao sâu, người đâu thấy đặng.

Từ ngày ác khí nổi lên xung đột, bên bạo tàn trương nanh múa vút, th́ bên Thánh Đức hiền lương có lắm anh hào đem hết trí thức tinh thần ra công giúp Đạo.

Tạo hóa vần xây chuyển thế,

Âm dương thiệt khéo đầu cơ.

Khiến cho tệ huynh nhớ lời tiên tri của Bát Nương Diêu Tŕ Cung hồi ban sơ có dặn:

“Hễ gặp người an ban tế thế,

“Nên qú mà nghênh, lấy lễ trọng người.

“Cởi thân ra mănh áo tơi,

“Che mưa đỡ nắng cho đời nguy nan”.

Tôn chỉ cao thượng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là lập công quả cùng Thầy, lo độ rỗi nguyên nhân, truyền bá chơn Đạo cho đời biết chữ Nhàn là quí, Đức là trọng, đặng hết tranh tranh đấu đấu, lập quyền lấn thế nhau, báng sáng nhau, hại sanh chúng nguy nan đời đời kiếp kiếp.

Từ 20 năm nay, xem trong hoàn cầu thiệt đâu đâu cũng cũng là một cảnh sầu không tỏa ra cho cùng tận được. Biết bao người đă bị lượng sống vô t́nh vật chất chụp đè trên biển khổ, ham lo sung sướng cho mảnh thi hài, bo bo vừa ḷng t́nh dục. Ít ai ngó xuống thương đồng loại cực khổ biết bao! Kể không xiết số người thất nghiệp truân chuyên, cơm tẻ ngày hai không có, mảnh tơi che cật chẳng lành. Tôi phản chúa, người phá Đạo, tṛ nghịch Thầy, cha ĺa con, vợ xa chồng, huynh đệ bất ḥa, bằng hữu tranh nhau cũng v́ mối nhơn luân suy bại! chẳng c̣n thấy Chúa Thánh tôi hiền, phụ từ tử hiếu, trông chi gặp tháng Thuấn, ngày Nghiêu, nhà nhà lạc nghiệp thái b́nh âu ca.

Đấng hóa công là Đại Từ Phụ chung của nhơn sanh trông thấy hoàng cảnh như vầy cũng đổ lụy rơi châu với bầy con dại, biết bao thương sót lũ con hoang, ra đường gây tội lỗi, trong mấy muôn năm phải bị luân hồi, trả vay măi măi như chống vàng xây. Từ việc rất lớn lao tới việc tế vi mải mún, thạnh suy bỉ thới, cũng phải chuyển vần y như luật Trời đă định.

Đạo Trời đem tin cứu thế, thức tỉnh nhơn sanh phải tu tâm dưỡng tánh, theo lành lánh dữ cho khỏi nạn luân hồi vay trả, hằng ngày phải nhớ câu: “Oan gia nghi giải bất nghi kiết”.

Người phải thương nhau như con một cha, cả hoàn cầu là Đại Chánh Cung của nhơn loại, không hại lẫn nhau, lấy lễ phép mà giao thiệp cùng nhau, lấy công bằng mà đối đăi cùng nhau.

Lo cho Đạo hữu trong nền Đạo có cơ sở làm ăn, biết làm lành là quí.

Que l’humanité soit une, une comme race, une comme religion une comme pensée.

Ấy là cuộc sửa đời lập Tân Thế Giới (Ere Nouvelle) của Đại Từ Phụ đă tuyên ngôn từ buổi khai Đạo.

Theo lư chánh thật hành chỉ rơ trên đây th́ nhiều người trong Đạo lại chê, c̣n theo việc mị mộng ăn ngọ, ăn chuối, tuyệt cốc, tịnh luyện th́ ưa, c̣n nguyên nhân lở bước ai lo?

Trong 8 năm qua rồi, tệ huynh đây và hiền đệ Phạm Công Tắc là Hộ Pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hiệp cùng nhiều Thiên Phong đă để hết tâm thành trí vẹn, đặng thi hành cho hoàn tất mấy điều của Thầy và Đức Lư Giáo Tông đă dạy bảo.

Ôi! Biết bao phen bị đánh đổ, lắm người trong Đạo không hiểu tôn chỉ Đại Đạo, lại c̣n biếm nhẻ nói tệ huynh lo việc hữu h́nh, chớ không lo vô vi tịnh luyện.

Bởi vậy mới rồi đây tệ huynh có đắc lịnh dạy bảo phải chỉ rơ phương diện chánh thể của Đạo. Xin giải:

Trước đây tệ huynh có nói: Thầy lập Đạo kỳ nầy phù hợp với dân trí ngày nay đă tăng tiến khỏi nguơn tấn hóa đến địa vị tối cao, cho nên chủ nghĩa cựu luật của các tôn giáo hiện thời, không đủ sức kềm chế đức tin của toàn nhơn loại.

Theo chánh thể của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ th́ có 3 hội định quyền hành đặc biệt…

 

A-Thứ nhứt là: HỘI NHƠN SANH.

Trong Hội Nhơn Sanh th́ Chánh Phối Sư phái Thượng làm chủ trưởng.

Hội viên th́ Lễ Sanh đỗ xuống Chánh Trị Sự, Thông Sự và người phái viên thay mặt cho nhơn sanh.

Trong nội luật Hội Nhơn Sanh có ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rơ thức lệ.

Ấy vậy từ hàng tín đồ cùng Đồng Nhi đều có người thay mặt đặng xem xét việc Đạo, rồi đệ lên Hội Thánh phán đoán.

Vạn vật cũng có ảnh hưởng trong Hội Nhơn Sanh, v́ người là chúa của vạn vật. Xét kỷ th́ Thầy công b́nh không xiết kể và lo việc hóa sanh không nần không tận.

 

B-Thứ nh́ là: HỘI THÁNH

Trong Hội Thánh th́ có Thái Chánh Phối Sư làm chủ trưởng.

Hội viên th́ từ Giáo Hữu, Giáo Sư và Phối Sư thiệt thọ có trách nhiệm hành chánh đặc biệt.

Trong Nội Luật Hội Thánh của ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rơ thức lệ.

Hội Thánh có quyền xem xét các việc của Hội Nhơn Sanh dâng lên và các việc hành chánh trong Đạo, rồi đệ lên Thượng Hội.

 

C.Thứ ba là: THƯỢNG HỘI

Thượng Hội th́ cũng có Nội Luật chỉ rơ thức lệ. Trong Thượng Hội th́ Giáo Tông làm chủ trưởng, Hộ Pháp phó chủ trưởng.

Hội viên th́ có:

Thượng Phẩm,

Thượng Sanh,

Ba vị Chưởng Pháp.

Ba vị Đầu Sư Nam phái.

Và Nữ Đầu Sư Nữ phái.

Không cần nhắc th́ chư hiền hữu lưỡng phái cũng hiểu rằng mấy Đại Thiên Phong kể trên đây có hành chánh phận sự lớn lao của ḿnh, th́ mới đặng vào Thượng Hội.

Thượng Hội để giúp Giáo Tông và Hộ Pháp điều chỉnh cả nền Đạo lớn lao của Thầy.

Thượng Hội có quyền xem xét các điều nghị luận của Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh rồi hoặc đưa lên cho Giáo Tông và Hộ Pháp phê chuẩn hay là trả lại cho Hội Thánh định đoạt lại.

Ba hội (THƯỢNG HỘI, HỘI THÁNH, HỘI NHƠN SANH) toàn nhập lại theo thức lệ rành rẽ th́ gọi là Quyền Vạn Linh, chớ không phải ai muốn lập Hội Vạn Linh, tổ chức ǵ theo ư riêng của ḿnh rồi muốn đem ai lên làm chủ trưởng, tổ chức ǵ cũng được. Như vậy th́ có luật lệ ǵ đâu? Mà không luật lệ th́ là không phải Đạo.

Trên ba hội th́ có Giáo Tông và Hộ Pháp.

Giáo Tông là chủ Cửu Trùng Đài, th́ lo về việc chánh trị của Đạo, có Chưởng Pháp và Đầu Sư ở trung gian giúp sức điều đ́nh các luật lệ truyền xuống cho ba Chánh Phối Sư nắm trọn quyền hành chánh.

Giáo Tông có quyền định đoạt việc chánh trị của Đạo.

Hộ Pháp th́ lo giữ luật lệ của Đạo cho khỏi sái Thiên Điều, v́ luật lệ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay th́ thế cho Thiên Điều.

Hộ Pháp có quyền đặc biệt về ân xá cũng như Gi áo Tông có quyền chánh trị vậy.

Hộ Pháp Chưởng Quản  Hiệp Thiên Đài, có Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân giúp sức.

Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một là quyền Chí Tôn.

Tệ huynh có thọ lịnh chỉ có phương diện chánh thể của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nầy khai trong buổi Hạ Nguơn chuyển thế đây y như trên đó. Xin chư Đạo hữu lưỡng phái ráng nhớ và lo phận sự đừng sái luật Đạo mà bị tội và ḿnh tuân trọn luật Đạo của Thầy, th́ là món binh khí diệt tà quyền giả mị đó.

Tệ huynh xin nhắc lời tuyên ngôn của Đại Từ Phụ hồi buổi ban sơ.

Thầy có nói: “Thầy lập Đại Đạo kỳ nầy là lập một cái trường công quả, nếu các con đi ngoài trường công quả ấy, th́ không trông mong ǵ về cùng Thầy đặng”.

Trường công quả của Thầy có đôi bên: một bên vô h́nh là các Đấng Thiêng Liêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần) cũng lập công quả trong buổi chuyển thế nầy, các Đấng Thiêng Liêng thường theo một bên ta đặng ám trợ chúng ta về phần vô vi.

C̣n về mặt hữu h́nh tại thế là các việc phải có thi hành, như chúng ta bây giờ đây mới làm đặng, th́ phần chúng ta phải lo làm, rồi có các Đấng Thiêng Liêng ám trợ.

Thí dụ: như đi độ rỗi nhơn sanh th́ phải nói Đạo cho người nghe, như phải lập mấy cuộc để giúp thế đang nguy nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc học, nhà thương, nhà dưỡng lăo, cùng các nghề nghiệp cho Đạo hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần che thân ấm cật v.v…th́ chúng ta phải lo hết, rồi các Đấng Thiêng Liêng ám trợ cho thành tựu.

Nếu chúng ta làm biến, không làm công quả chi cho Đạo bên hữu h́nh th́ các Đấng Thiêng Liêng theo ḿnh không lập công quả được, th́ tội trọng về phần ḿnh chịu lấy.

Từ hồi tạo thiên lập địa tới ngày nay, trong mỗi kỳ khai Đạo, không có thời kỳ nào mà chính ḿnh Thầy là Chủ Tể Càn Khôn Thế Giái xuống mà lập ra, không có tôn có tôn giáo nào đặng một vị Đại Tiên là Đức Lư Thái Bạch lănh làm Giáo Tông như ngày nay vậy.

Tệ huynh đây là lănh về phần xác, thay thế cho Ngài đặng lo làm các việc hữu h́nh tại thế cho Ngài, rồi ở trong có Ngài ám trợ.

Tệ huynh xin chỉ rơ quyền hành lớn lao của Đức Lư Đại Tiên Thái Bạch Kim Tinh cho mấy em rơ:

Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,

Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu;

Quyền năng dâng thửa Thiền Triều,

Càn không thế giái dắt d́u tinh quân.

 

Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,

Cho đến Đường Triều mới biến thân;

Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,

Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.

Động Đ́nh thi rượu đong muôn đấu,

Bồng Đảo câu Tiên nắm một cần;

Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,

Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân.

Ngài nói rằng:

“Hễ Đạo trọng th́ tức nhiên hiền hữu trọng, vậy th́ chư hiền hữu biết ḿnh trọng mà lo sửa vẹn người đời.

“Từ đây Lăo hằng giữ ǵn cho chư hiền hữu thêm nữa.          

“Nếu thoảng Lăo ép ḷng cầm quyền thưởng phạt phân minh là cố ư muốn giá trị chư hiền hữu thêm cao trọng hơn nữa, vậy Lăo xin đừng để dạ phiền hà nghe !

Xin chư hiền hữu lưỡng phái ghi nhớ mấy lời châu ngọc ấy đặng sửa ḿnh.

Hết ḷng cảm tạ mấy em và chư tôn có công mệt mỏi ngồi nghe mấy lời tôi cạn tỏ rồi đó.

Hết dạ khẩn cầu cho nền Đạo mau chóng hoằng khai.

 

 

   Viết xong ngày 14-03-Giáp Tư (1984)

QUANG MINH

(Xin xem tiếp Quyển XIX)

 

 

________________________________________________________________________________

  

MỤC LỤC:

1.LƯỢC THUẬT CĂN NGUYÊN ĐẠO CAO ĐÀI

2. HUẤN TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI

3. HOANG MỒ TRÊN ĐẢO MADAGASCAR

4. CHÓ GIỮ CỦA

5. BÀI THI “THÂN TẶNG ANH EM” Của Thừa Sử Phan Hữu Phước

6. ĐỨC LƯ TIÊN TRI NGÀY CƠ ĐẠO BỊ KHẢO

7.  NÊN TH̀ ĐỂ, HƯ TH̀ BỎ

8. T̀M HIỂU CƠ QUAN “PHỔ TẾ”

9. ĐỨC CHÍ TÔN KHUYÊN TU

10. BỐN ANH EM TRANH GIA TÀI

11. BÀI THI THỌ KHỔ của Đức Cao Thượng Phẩm

12. ĐẠO LÀ G̀?

13. QUYỀN CỦA HIỆP THIÊN ĐÀI

14. THÁNH GIÁO TIẾT LỘ CĂN KIẾP CỦA CÁC VỊ CHỨC SẮC HTĐ

15. PHƯƠNG DIỆN CHÁNH THỂ CỦA ĐẠO

Top of Page

      HOME