GÓP NHẶT CHUYỆN ĐẠO

QUYỂN XXI

Viết xong ngày 17-09-Giáp Tư (1984)

QUANG MINH

 

MỤC LỤC:

1. SỰ BIẾN CHUYỂN TUẦN HOÀN CỦA VẠN VẬT
2. LỄ NHẠC-5 CÂY HƯƠNG
3. BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG GS ĐẠI BIỂU TRẦN QUANG VINH
4. KỶ TÍN CỨU CHÚA
5. SỰ OAI NGHIÊM CỦA ĐỨC LƯ
6. BÀI GIẢNG CHỮ “H̉A” TRONG LƯ NHẠC CỦA ĐỨC CHÍ TÔN
7. SUỐI VÀNG NÚI ĐIỆN BÀ & SUỐI NGẦM LỤC LONG PH̉ ẤN NẰM DƯỚI  L̉NG ĐẤT
8. CHÍ TÔN XUỐNG TẠI THẾ
9. TÍCH: LƯ TRƯỜNG CANH & LƯ NGƯ TINH (Con cá Ông)
10. NHỮNG HUYỀN THOẠI VÙNG NÚI BÀ, NÚI CẬU TÂY NINH
11. DỌN ĐẤT LƯƠNG TÂM
12. TRUYỀN ĐẠO PHẢI CÓ ĐỨC TIN

 

 

13. PHẬT THÂN LUẬN
14. LUẬN NGỮ
15.THÁNH GIÁO TIẾT LỘ VIỆC XỬ CÁC ÔNG TƯƠNG, TRANG, THƠ
16. CÁC BÀI THI DẠY ĐẠO ĐÁNG NGHI NHỚ
17. ĐẠO HỢP QUẦN CỦA NHÂN LOẠI
18. NHO GIÁO SUY LẠC
19. LẠY PHẬT CÁCH NÀO ?
20. ẢNH HƯỞNG CỦA THƠ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
21. NHẬP THẾ VÀ XUẤT THẾ
22. CÁCH NIỆM PHẬT
23. THỂ CHẤT VÀ TÁNH ĐỨC CÁC HẠNG KHÁCH TRẦN
24. THIÊN CUNG CỦA MỖI CON CÁI ĐỨC CHÍ TÔN

*

 

1.SỰ BIẾN CHUYỂN TUẦN HOÀN CỦA VẠN VẬT

 

*Đêm 16-9 Canh Dần (dl 26-10-1950)

Pḥ loan: Thừa Sử Hải-Luật Sự Nhung.

Hầu đàn: Thừa Sử Hợi, Luật Sự Hưởng, Khỏe, Khen,

                Giáo Hữu Thượng Giác Thanh

CAO THƯỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em.

Hôm nay Bần Đạo dạy mấy em hiểu rơ Nguyên Căn Biến Chuyển Tuần Hoàn Của Vạn Vật.

Vạn vật trong vũ trụ không vật nào hơn hay kém, trước sau đều đồng một thể là chơn linh lập đời định thế đặng các đẳng Tiên, Phật có nơi học hỏi và thi dụng tài năng, hầu tô điểm thêm phẩm giá Thiêng Liêng vị. Do lẽ đó, các phẩm chưa đủ sức lo tṛn địa vị phải luân hồi chuyển kiếp mà bồi bổ thêm.

Lúc khai thiên lập địa th́ các đẳng chơn hồn ấy phải đi từ vật chất lên thảo mộc, thú cầm rồi mới chuyển kiếp thành người được. Tính ra mỗi phẩm đi từ đầu chí cuối mà không bị lầm lạc th́ phải đủ chín chục ngàn (90.000) kiếp mới trở về Thiêng Liêng vị được. V́ cớ mà các đẳng chơn hồn lúc bị lạc lầm xa đọa, phải luân hồi chuyển kiếp măi mà chưa về đặng nơi cơi Thiêng Liêng hằng sống.

Các chơn hồn ấy lúc mới là hóa nhân th́ c̣n bản chất thật thà v́ chưa bị sự cám dỗ của vật chất. Sự cám dỗ ấy lại cũng do các chơn hồn c̣n nhỏ phẩm kiếp muốn cho các đẳng trên ḿnh đồng về một lượt mới bày cơ thử thách.

Lần lần các chơn hồn nhiễm vật chất, rồi do vật chất ấy mà tạo thành h́nh thể hữu vi đặng phơi bày cho biết lẽ huyền vi ra thiệt tướng. V́ vậy chúng ta thấy sự biến chuyển của tạo đoan càng ngày càng tăng tiến là lẽ đó.

Khi loài người lộ hết vẽ huyền vi cho nhau đặng hiểu rồi th́ cơ bí mật chẳng c̣n nữa, do đó mà sự qui đổi phải trở lại đặng cho các nguyên nhân thấy rơ mọi đường học hỏi về sự biến chuyển là lẽ nào.

Ngày nay, các nguyên nhân xuống thế mà c̣n ở tại thế, đă chuyển kiếp mấy lần 90.000 kiếp rồi. Bởi đó mà Đức Chí Tôn xây cơ chuyển thế cho các nguyên nhân thấy rơ sự huyền vi bất khả xâm phạm của Thiên điều, là dầu cho tay phàm  kiếm đặng sự bí mật của tạo hóa mà họ có thể t́m kiếm sự sanh của Chí Tôn hằng để hay chăng?

Ngày nay các nguyên nhân đă thấy rơ sự biến hóa của họ về vật chất là mầm tiêu diệt, nên tự họ phải nhường bước trước hành phạt Thiêng Liêng. Họ đă hiểu đặng huyền vi bí mật của vũ trụ, mà họ không hiểu lẽ sanh tồn do đâu mà có.

V́ vậy mà lần hồi họ chỉ nhờ học hỏi nơi Đạo đức mới hiểu lẽ ấy do đâu.

Lần nầy v́ các chơn linh xuống phàm quá lâu nên Đức Chí Tôn muốn đem về hết một lượt, rồi cho trở xuống học lại lớp khác. Bởi cớ Tam nguơn tận măn th́ Nhứt Nguơn kế tiếp là vậy.

C̣n quỉ nhân là những chơn hồn của quỉ vương nơi Tam Thập Lục Động cho xuống đặng làm các bài vở cho các Nguyên nhân học hỏi. V́ cớ cho nên các Nguyên nhân tội lỗi cũng phải đến cơi Phong Đô đặng chịu sự giáo hóa mà định trí định thần, rồi chuyển kiếp nữa, chớ chẳng hề v́ Quỉ vương mà tiêu diệt cho đặng.

Mấy em đă rơ chưa? Để bữa khác Bần Đạo dạy thêm nữa. Bữa nay chừng đó cũng vừa đủ.

Mấy em ráng học nghe.

Bần Đạo chào mấy em.

Thăng

 

 

2.LỄ NHẠC-5 CÂY HƯƠNG

 

*Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp tại Báo Ân Từ trưa 1-8 Đinh Hợi (15-4-1947)

Hôm nay Bần Đạo giản về Lễ Nhạc nghĩa là ǵ?

Từ thử ai cũng cho âm thinh sắc tướng là tà nự, mà căn bản của Đạo Nho là Lễ Nhạc, mà chính Đạo Tam Kỳ là Nho Tông chuyển thế th́ phải trung tầm nguyên lư của nó mà xác nhận cho đúng nghĩa là thế nào?

Đ̣i phen chúng ta không hiểu được nên thấy khi dâng lễ cho Chí Tôn, lúc “Nhạc Tấu Quân Thiên” hết lớp trống qua đến 7 bài th́ lâu quá, có khi phải chồn chân rồi nản chí, chính Bần Đạo cũng vậy. V́ nghĩ rằng Chí Tôn tư vị quốc dân Việt Nam nên tiền định chi chi cũng là gương mẫu cho toàn đại đồng thế giới, mà có lễ nhạc nầy luôn luôn khi dâng lễ th́ ư nghĩa ấy ắc cao trọng là phải. Bởi cớ cho nên lúc mới khai Đạo, Bần Đạo đến tại Thánh Thất Thủ Đức của ông Thơ tạo lập, Bần Đạo không tin nên hỏi, Đức Lư Giáo Tông lại dạy rằng: “Trên Ngọc Hư Cung có 2 câu liễu:

Phía hữu: “Bát Hồn vận chuyển Ca Huỳnh Lăo,

Phía tả: “Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn”.

Bần Đạo không hiểu là ǵ, lần lần Bần Đạo lại hỏi nữa. Bần Đạo lại được dạy và hiểu rằng: Kể từ phôi thai càn khôn vạn vật nầy, Chí Tôn là khối sanh quan biến thành 2 khối sanh khí, 2 khối ấy tụ lại thành 1 khối rất lớn, tương hợp nhau mới nổ sanh tiếng Âm, người ta gọi là ầm hay là tiếng ùm, Đạo Phật sửa lại là Úm (úm ma ni bát ri hồng). Nhờ tiếng nổ ấy bát hồn mới vận chuyển biến thành vạn vật loài người. Tiếng ấy bay nghe đến đâu th́ khí sanh quang đến đó, tức là có sống đến, bằng chẳng nghe được là nơi ấy tiêu diệt, nghĩa là chết mất mà thôi.

Bởi cớ nên dùng đến những vật cầu kỳ nó đă chết đi rồi, như cái trống là tấm da trâu đă chết đi rồi mà hiệp với sự khôn ngoan của loài người mà nó có tiếng kêu được tức là làm cho nó sống lại. Các vật khác cũng vậy, vật chất mà người làm cho nó sống lại được, nghĩa là bát hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ trọng cho Chí Tôn.

V́ cớ nên khi Nhạc Tấu Quân Thiên là có âm thinh sắc tướng thật không hiểu là “Phi Tướng Lễ”. Chí Tôn qui Pháp định thấy và nghe trọn cả bát hồn vận chuyển dâng cái sống cho người.

Nên chi từ đây khi Nhạc Tấu Quân Thiên chúng ta phải xem quí hơn dâng Tam Bửu, dầu phải lỡ đi nữa chừng trong Đền Thờ nghe đến đó phải đứng lại, cấm không đặng đi lộn xộn th́ lễ ấy giảm điều trọng dâng cho Chí Tôn mà không nên. Khi ấy là vận chuyển cả bát hồn mà đảnh lễ.

V́ cớ lễ nhạc ấy hiểu rơ lại th́ Chí Tôn không phải tư vị nước Việt Nam mà là chính nghĩa là làm cho sống lại Bát Hồn mà Ngài vẫn vui nhận lễ ấy.

Ấy vậy mới có thể làm chủ và gương cả toàn nhơn loại được th́ danh ấy không phải quá đáng sao?

Xin khuyên toàn Đạo từ đây nên để trọn tâm kính trọng khi Nhạc Tấu Quân Thiên.

NĂM CÂY HƯƠNG            

Từ thử Bần Đạo để cho các Nho gia muốn tự do giản nghĩa sao th́ giảng.

C̣n Bần Đạo hiểu rơ là ngũ khí, Chí Tôn dùng ngũ khí mà biến thành ngũ hành vận chuyển cả càn khôn tức là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Mỗi chất đều có mỗi khí, mùi vị và sanh quan của nó chúng ta không thể hưởng, nghe được.

Nên chi làm lễ đốt đủ năm cây hương là đúng theo phép tín ngưỡng là qui Pháp lại, mỗi vật trong ngũ khí dâng lễ cho Chí Tôn chỉ có Người vui hưởng qui pháp ấy mà thôi.

Cắc nghĩa rơ rệt ra là ngũ khí đó vậy. Đúng hơn nữa là trong bát hồn vận chuyển được là phải nhờ đến ngũ khí cũng một ư nghĩa với vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn.

Đạo Cao Đài là nền Đạo qui pháp, cả cái sống của bát hồn mà dâng lễ trả cái sống khi mới phôi thai càn khôn do nơi 2 khối sanh khí mà tạo thành. Ngày nay lại dâng lễ trọng cho Chí Tôn tức là phải qui Pháp cho khối sanh khí ấy, tức là Chí Tôn vui vẻ duy nhất là thấy trả sự sống lại cho Ngài.

Toàn Đạo nên trọn tâm xét hiểu nhiệm màu Đạo lư ấy mà lần lần đoạt cho được chơn pháp của Chí Tôn.

 

 

3. BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG GS ĐẠI BIỂU TRẦN QUANG VINH

(Đọc tại buổi tiệc rước Đức Hộ Pháp ngày 4-8 B.T (30 Aout 1946)

 

Kính Đức Hộ Pháp,

Sau khi năm năm phiêu lưu nơi hải ngoại v́ chủ nghĩa thương đời, ngày nay một ngày đáng kể vào sử Đạo, Ngài đă để chơn về Tổ Đ́nh. Tiểu chức xin thay mặt cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài và toàn Đạo Nam Nữ để tỏ ít lời chúc tụng mừng rỡ Ngài, luôn dịp để dâng cho Ngài một ư nguyện chung của toàn sanh chúng, nhứt là trong buổi mặt đời biến đổi, t́nh thế phân vân, do cuộc tang thương hiện tại.

Kính Ngài, tiếng nói của tâm hồn nó có thật chăng là khi trí năo bị kích thích một cách quá ư mạnh mẽ do sự biến động của cơ hữu h́nh, hay là nói trái lại, khi xác định phải chịu dày bừa quá lẻ trong cảnh điêu linh sầu khổ.

Về mặt Đạo cái khổ ấy lại là phần hơn, bởi thế từ khi vắng mặt Ngài, trong Đạo không một ai là không buồn thảm. Bất luận già, trẻ, lớn, nhỏ, nam, nữ khi gặp nhau nhắc nhỡ đến Ngài và các bạn xa quê, th́ trên khuôn mặt âu sầu, đôi ḍng lệ chỉ nh́n nhau từ từ rơi xuống khóe miệng để thế cho lời nói…Điểm tô thêm thảm trạng ấy, cảnh Đạo điêu linh, kẻ c̣n người mất. Nhưng đó là ngày đă qua.

Chiếc thuyền từ của Đức Thích Ca há chẳng phao tuông trên bể khổ chứa đầy nước mắt mới độ đặng chúng sanh.

Chúa Jésu há chẳng phải đỗ từ giọt máu trên cây Thập Tự mới thành mối Đạo?...

Cái tang chung ngờ vực đă làm cho ủ rũ ḷng người bấy lâu, nay bổng biến thành một vị Thiên Tôn từ phương trời Phi Châu bay về Tổ Quốc. Vị Thiên Tôn ấy chính là Ngài, khối thương yêu vô tận của Đại Đạo mà cũng là nguồn hy vọng chan chứa của nhơn sanh.

Nh́n đặng tận mặt Ngài nơi đây tiểu chức tưởng tượng h́nh như thấy được chiếc b́nh Bát Du của Đức Thích Ca trôi ngược ḍng nước Ma Ha một cách huyền linh rực rỡ khi Người đă lập thành Phật Đạo. Vậy tiểu chức xin dâng Ngài đóa hoa tươi nở nầy, nó là biểu hiện cho cả triệu quả tim của con cái Đức Chí Tôn cùng đang tươi nở cơi ḷng để hiến cho Ngài mối t́nh thân ái yêu đương vô giá của Đức Chí Tôn đă đào tạo trong bao năm khổ hạnh.

Kính Ngài. Cái mừng vui của toàn Đạo đối với Ngài tràng trề, nương dựa nơi sự mừng vui ấy c̣n có một tiếng kiêu đau thương tha thiết của tâm linh nó làm cho chúng tôi ái ngại xốn xang. Đó là tiếng kiêu đau thảm của mặt đời v́ hoàn cảnh hiện tại. Tiếng kiêu đau thảm ấy có khi đă làm cho lay đọng ḷng Ngài. Giữa trời Nam, ước mong rằng chiếc thuyền từ của Ngài sẽ vẹt lối nguy nan làm cho nhơn sanh bớt khổ, th́ Hội Thánh Cửu Trùng Đài và cả Nam Nữ nguyện đồng tâm hiệp lực cùng Ngài, theo Ngài từng bước một đặng đoạt mục đích cao thượng của Đạo là:

“Cỗi thân làm mảnh áo tơi,

“Che mưa đỡ nắng cho đời nguy nan”.

Th́ dầu phải quên cả vết thương ḷng, chúng tôi nguyện không hề thối bước.

 

 

4. KỶ TÍN CỨU CHÚA

 

Trương Lương đưa Kỷ Tín vào ra mắt Hớn Bái Công và nói: “Kỷ Tín muốn dùng kế Điền Phủ ngày xưa để thay thế chúa thượng trá hàng.

Bái Công ḷng mừng khắm khởi nhưng giả bộ kinh ngạc hỏi: “Không thể được, ngày nay chúng ta là những người đi mưu cầu đại sự, nghiệp cả chưa thành ta chưa thưởng ban ân đức ǵ cho chư tướng, lư đâu để Kỷ Tướng Quân phải chịu sự hy sinh như thế, ta đâu nở dạ.

Kỷ Tín phủ phục tâu: “Thưa Chúa Thượng, nay việc đă gấp, cứu quân như cứu lửa. Nếu Chúa Thượng c̣n chần chờ tôi e không kịp nữa. Phận tôi là phải hy sinh cứu Chúa, xin bệ hạ chớ có lo âu. Nếu Thần có thác mà Bệ Hạ thoát khỏi ṿng dây th́ tên tuổi Thần sau nầy sẽ vững măi với non sông. Xin Bệ Hạ chớ can ngăn Thần làm việc nghĩa ấy”.

Thấy Kỷ Tín trung can, Hán Vương an ḷng nhưng c̣n do dự. Kỷ Tín rút gươm ra nói rằng: “Nếu Chúa Thượng chưa tin, tôi xin chết tại đây cho Chúa Thượng hiểu được ḷng dạ trung kiên của Kỷ nầy”.

Thấy vậy, Hán Bái Công biết Kỷ Tín hết ḷng hết dạ với ḿnh liền bước lại ôm chầm Kỷ Tín: “Tướng quân cha mẹ có c̣n không?”

-Tôi cha nay đă mất chỉ c̣n một mẹ già.

-Đó chín là mẹ của Trẫm, Trẫm sẽ thay Tướng Quân mà phụng dưỡng vậy.

Hán Bái Công lại hỏi tiếp: “Tướng quân đă nên bề gia thất hay chưa?”

-Thần đă có vợ.

-Đó chính là chị dâu của Trẫm, Trẫm sẽ cho cấp dưỡng châu toàn.

Bái Công lại hỏi: “Tướng Quân có con cái ǵ không?”

-Tôi chỉ có một con trai nhỏ.

-Đứa bé ấy chính là con trai của Trẫm, Trẫm sẽ nuôi dưỡng và dạy dỗ cho nó nên người. Trẫm xin thề với Tướng Công rằng Trẫm sẽ làm tṛn ba nhiệm vụ cao siêu ấy để báo đáp ân nghĩa của Tướng Quân. Xin Tướng Quân vững dạ.

Kỷ Tín liền thưa: “Chúa Thượng có ḷng thương lo lắng như thế, tôi nay thác đă an ḷng”.

Công việc đâu đó đă xong xuôi, Trương Lương và Trần B́nh lo viết thơ hàng. Trong thơ Trương Lương đă khéo kể lại câu chuyện cũ và xin cho được toàn thân.

Hạn Vơ sau khi nhận được thơ liền ra lịnh cho Chung Ly Muội và Mật Bố: “Đêm nay chúng sẽ hàng, ta phải phân thây chúng ra để rửa hờn năm cũ”.

Giữa lúc đó th́ Trương Lương và Trần B́nh lo sắp bày mưu kế để thoát thân. Kỷ Tín giả vua Hán mặc áo rồng, ngồi trên xe, chờ trời tối là thi hành diệu kế. Trời vừa chạn vạn tối, tiếng loa van dậy báo hiệu mở cửa khai thành. Phía Đông cửa thành vừa  mở, hơn 2000 mỹ nữ kéo ra, kẻ sau người trước. Quân hầu liền vào báo với Hạn Vơ. Hạn Vơ cười: “Hán Bái Công là tên ham tửu sắc, đi đâu cũng có mỹ nữ cung tần, Phạm Tăng lại khéo lo xa”.

Khi đoàn mỹ nữ ra quá nhiều quân Sở Bá Vương trông thấy thi nhau chạy đi tranh giành mà mất hết hàng ngũ không c̣n chú trọng đến việc canh gát nữa. Thừa lúc ấy quan quân nhà Hán tẩu thoát về Thành Cao lo chuyện phục thù.

Đoàn cung phi mỹ nữ đi trước, xe của Kỷ Tín đi sau, khi đi ngan qua mặt Hạng Vơ chẳng chịu đứng. Hạng Vơ thấy thế giận quát to: “Lưu Ban chết rồi à! Thấy ta mà chẳng xuống xe thi lễ, chờ lôi xuống hay sao?”

Quân hầu trông thấy lấy đèn rọi vào thấy Hạng Vơ bất động hét lên: “Phải Lưu Bang đó không?”. Kỷ Tín dơng dạc trả lời: “Ta là Kỷ Tín đây, chẳng phải Hán Vương đâu chớ vội mừng. Chúa Công của ta đă thoát khỏi thành nầy mấy tiếng rồi đừng ḥng đuổi bắt làm chi nữa mất công. Chúa Công ta đă thoát nhứt định sẽ đem quân phục thù. Bức thư ban chiều chính là bức thư trá hàng đó, thôi đừng nuôi mộng ảo huyền vô ích”.

Quân Sở liền đem chuyện thưa cùng Hạng Vơ về những lời lẽ của Kỷ Tín vừa rồi. Hạng Vơ giận lắm và cất tiếng than: “Lưu Bang trốn đi thật dể, c̣n Kỷ Tín chịu mạng cứu vua, ôi! Thật khó thay. Đó mới thật là đấng trung thành nghĩa khí. Trẫm chưa thấy ai phục dưới chơn Trẫm mà có hành động can trường như Kỷ Tín vậy”.

Nói xong Hạng Vơ cho Bố Lai dụ hàng: “Nhà ngươi đă dám thế mạng cho Lưu Bang thật là một người liệt sĩ. Hành động nầy đă được Sở Bá Vương cảm mến nên không muốn giết. Ngươi nên xuống xe lạy tạ Sở Bá Vương ngươi sẽ được hậu đăi.

Kỷ Tín tức giận quát to: “Ta là một kẻ tôi trung, nhứt định không thờ hai chúa. Ta là tướng nhà Hán, sống ta giúp cho Hán, chết ta nguyện làm quỉ Hán bang. Chúng bây cho dùng miếng đỉnh chung hồng làm cho ḷng ta đổi dạ. Cứ giết ta đi.

Sở Bá Vương biết không tài nào dụ được nên cho quân nổi lử đốt xe. Lửa cháy rất mạnh mà Kỷ Tín vẫn không ngớt lời mắng nhiếc Hạng Vơ. Lửa đă cháy xong, chiếc long xa giờ đây chỉ c̣n là một đống tro tàn, mang theo cả h́nh hài của một vị anh hùng trung liệt họ Kỷ…

(Trích trang 139-143 Đạo Đức Cổ Nhân của Nguyễn Hữu Trọng)

 

 

5. SỰ OAI NGHIÊM CỦA ĐỨC LƯ

*Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp tại Đền Thánh đêm 17-8 Quí Tỵ (1953)

 

Đêm nay là ngày vía của Nhứt Trấn oai nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Đức Giáo Tông chúng ta lấy làm hân hạnh nhờ ơn Đức Chí Tôn ban cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng Liêng hiển linh quyển năng vô đối, Bần Đạo nhớ lại buổi bang sơ mới khai Đạo, thật ra Bần Đạo không có đức tin ǵ hết, không có tin đến nước Đại Từ Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần Đạo năm Ất Sửu dạy cả mấy anh lớn ngày nay là Chức Sắc của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến thăm đến viếng mọi con cái của Ngài. Bần Đạo không đức tin ǵ hết, nghe nói Tiên giáng đi theo nghe chơi, làm cho Đại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho bài thi ai nấy cũng tốt, duy có bài của Bần Đạo rất dị hợm như vầy.

Thi:

Ngao ngán không phân lẽ thiệt không,

Thấy thằng áp út quá buồn ḷng.

Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,

Cái của, cái công phải trả đồng.

Đại Từ Phụ c̣n thêm hai chữ “nghe con” cho đến bảy tháng xuống ở Thủ Đức, năm thiên hạ bịnh chướng, khi không khởi phù ḿnh rồi chết, nhứt là tại Thủ Đức, lắm bịnh nhơn quá chừng, Đức Chí Tôn bảo xuống Thủ Đức cứu bịnh cho họ trong bảy tháng, xuống ở Thánh Thất của Đạo, nhờ Đức Lư giảng dạy với ng̣i bút, trọn bảy tháng trường mới biết Đạo. Có cái hay hơn hết là những điều ǵ Ngài dạy trong cơ bút là những sở hành trong kiếp sanh của Bần Đạo.

Bần Đạo làm chứng một Đấng mà Đức Chí Tôn đă lựa làm Anh Cả của chúng ta linh hiển lạ lùng, không cần lập đi lập lại, đối với chức sắc tất nhiên cả Thánh thể của Đức Chí Tôn. Bần Đạo cốt yếu nói với toàn cả con cái của Ngài Nam Nữ lưỡng phái phải định tâm và kiên cố đức tin của ḿnh. Các việc Đức Chí Tôn tiên tri, Bần Đạo vừa nói từ từ, nói đủ hết. Bần Đạo thú thật nhờ cái linh hiển của Ngài, nhờ Ngài giáo hóa nên Bần Đạo hôm nay được khối đức tin mạnh mẻ to tát. Nếu không có nhờ Anh Cả vô biên linh hiển ấy chắc là phận sự yếu trọng của Bần Đạo hôm nay chỉ mơ hồ, đức tin yếu ớt, thiếu đức tin thiếu cương quyết, thiếu tâm Đạo vững chắc.

Bần Đạo tưởng nếu ba điều ấy thiếu th́ nền chơn giáo không được nên h́nh như thế nầy. Cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết không có nền chơn giáo nào chỉ có hai mươi mấy năm mà đặng bành trướng, danh thể của nó cao trọng truyền bá một cách mau chóng như nền Đại Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn.

Hôm nay Bần Đạo chứng chắc quả nhiên như vậy, cái năng lực của Đạo hôm nay được như thế là nhờ Đức Lư Đại Tiên cầm quyền Thiêng Liêng vô đối, nhờ anh cả của chúng ta là Đức Lư Giáo Tông điều khiển quyền năng vô h́nh của Ngài.

Bần Đạo hôm nay mới được cái quyền và năng lực bành trướng như thế nầy. Có một điều Bần Đạo dặn trước, những kẻ tưởng Ngài vô h́nh coi chừng Ngài trừng trị, những kẻ nào phạm nhầm Thiên Điều, Bần Đạo dám quả quyết khó tránh nơi tay của Ngài.

Các con cái Đức Chí Tôn coi Ngài rất công b́nh. Ngài dạy:

Phải lập công, lập đức, lập ngôn, tức nhiên là “Tam Lập” Ngài rất công b́nh, rất oai quyền, Thiên vị chúng nhờ Ngài bảo vệ không thể v́ sơ sót.

Đức Chí Tôn coi Ngài cũng như một vị tướng soái, oai quyền của Ngài lớn lắm. Ở nơi Ngọc Hư Cung quyền của Ngài yếu trọng vĩ đại to tát lắm.

Cả con cái của Ngài cũng nên tin nơi Ngài, mong mỏi nơi Ngài, để cả ước vọng và đức tin nơi Ngài.

Bần Đạo xin khuyên một điều: lớn nhỏ phải yên tâm giữ Đạo, đừng sơ sót nhứt là đừng có ỷ công khi lịnh, coi chừng Ngài. Ngài trừng trị một cách oai quyền, trước mắt Bần Đạo đă thấy, hai mươi mấy năm lập Đạo cùng Ngài, Bần Đạo quả quyết như vậy.

Chúng ta hăy để trọn đức tin nơi Ngài, một Đấng công chánh oai quyền, nhưng rất yêu ái. Chúng ta được Ngài bảo vệ cho thật là một sự an ủi vĩ đại trong kiếp sanh của chúng ta đó vậy.

 

 

6. BÀI GIẢNG CHỮ “H̉A” TRONG LƯ NHẠC CỦA ĐỨC CHÍ TÔN

*Ngày 24-3-1929 (al 14-2-Kỷ Tỵ)      

 

THẦY

Thầy mừng các con.

Từ ngày Thầy hứa cùng các con rằng : Thầy cho bài giảng H̉A th́ các con có ḷng mong mỏi, nhưng kẻ pḥ loan chẳng đặng trọn thần. Nay Thầy cho lần lần vấn đề, về câu trường nhạc dĩ vi lạc . . . nghe các con. 

 

Đêm thanh vắng lên dây trổi nhịp,

Khải năm âm cho hiệp cùng nhau.

Chớ phân tiếng Thổ tiếng Bào,

Thạch Kim với Mộc ḥa vào mới vui.

Giữ tư trước thêm mùi du thủy,

Cách sơn xuyên ḥa mỹ nương nhau.

Xưa kia đều khách Thiên Tào,

Nay đây cảnh tục tranh cao lợi quyền.

Quyền chi đó, tiền duyên đành mất,

Lợi ǵ đâu mà thất đạo tâm.

Chẳng so như bực thú cầm,

Hồ bi thố  tử, nghĩ thầm  thương nhau.

V́ thương thế, xuống trần dạy bảo,

Dẫn các con huờn đáo cựu ngôi.

Than ôi ! Thế tục suy tồi,

Đường Tiên th́ lánh, ưa mùi vinh hoa.

Hoa ấy rụng, ṭng già chẳng rụng,

Vinh nọ ṃn, bá chợt màu tươi.

Sầu than gẫm lại buồn cười,

Chê người đạo đức, khoe người đai cân.

Cân ấy tội cơi trần là khổ,

Đai kia là h́nh nội Phong đô.

Khuyên con khá lánh mê đồ,

Cùng nhau d́u dắt giảng phô việc lành.

Dạy cả thảy nhơn sanh tỉnh tánh,

Lấy từ bi mà lánh sân si.

Toan lo cho Đạo kịp th́,

Đỡ nâng nhơn loại chung qui một trường.

Trong tám tiếng phân tường giai cấp,

Giọng Cung Thương cao thấp tùy nhau.

Giốc Chủy Vũ hiệp thanh tao,

Lục căn Lục lữ phân sao cho đều.

 

  (Trích Tài liệu Ban Nhạc của Nhạc Sư Trần Thiện Niệm)

                                                                  

                                    

7. SUỐI VÀNG NÚI ĐIỆN BÀ & SUỐI NGẦM LỤC LONG PH̉ ẤN NẰM DƯỚI L̉NG ĐẤT

 

Chắc hẳn không một người Việt Nam nào không từng nghe nói đến núi Điện Bà hay núi Bà Đen ở tỉnh Tây Ninh. Núi nầy cao 884m, hai bên có hai ḥn núi Cậu và núi Heo, cách tỉnh Tây Ninh 11 cây số, đă có từ thời xa xưa. Biết bao chuyện linh thiên huyền bí được truyền tụng tại đấy. Trong thời b́nh, du khách bốn phương chẳng ngớt đến viếng cảnh, càng tạo thêm cho núi Điện Bà một sắc thái tôn nghiêm kính cẩn. Và nơi đây nghiễm nhiên là nơi linh sơn thắng cảnh, non thiên đất phước.

Trong các điều lạ của núi Điện Bà, có chuyện “Suối Vàng” và suối ngầm Lục Long là đáng cho chúng ta quan tâm suy nghiệm hơn cả.

Chúng ta được biết cách đây 30 năm, có một nhà khảo cứu về địa chất học, người Nhật Bản, t́m lên núi Điện Bà quan sát cảnh vật. Được sự hướng dẫn của tu sĩ Nhất Thiện, ông rảo thăm các nơi hang sâu động thẳm, lội suối băng rừng, nghiên cứu kỹ càng và tỉ mỉ, ghi chép từng nơi đă đi qua. Thấy ông có vẻ say mê học hỏi, khảo nghiệm, tu sĩ Nhất Thiện hướng dẫn ông đi qua phía bên kia núi, hầu t́m hiểu về “Suối vàng”.

Vừa đến khe suối, tu sĩ Nhất Thiện bảo khách :

-Đây là địa điểm “Suối vàng”, một hiện tượng khá lạ lùng ở Tây Ninh.

Nhà địa chất học Nhật Bản nghe nói có hiện tượng lạ, ra vẻ thích thú, dừng chân bên khe suối, quan sát cảnh vật chung quanh, rồi lần đến suối, thử khoát nước rửa mặt. Vốc nước trong bụm tay, lóng lóng lánh ánh vàng. Và trong ra ḱa khắp trên mặt nước, cuộn theo ḍng suối, có lợn vàng lan tỏa. Ông lấy nước đem ra khảo nghiệm, vui mừng tuyên bố:

-Quả là chất vàng, gọi tên  “Suối Vàng” là đúng đấy. Vàng nầy c̣n non, nước Việt Nam quả là đất phước, trong tương lai sẽ có một mỏ vàng vô tận. Nay mỏ vàng nầy chưa đến tuổi, không khai thác sớm được. Chờ độ 50 năm, 70 năm nữa, vàng đúng tuổi rồi kết tinh lại, chừng ấy Việt Nam có mỏ vàng, hẳn là dân giàu nước mạnh.

Thế rồi sau cuộc khảo sát suối vàng  núi Điện Bà, nhà địa chất học ấy có lấy đem về một bao nhỏ để khảo nghiệm thêm.

Câu chuyện núi Điện Bà có mỏ vàng do một nhân chứng giữa tu sĩ Nhất Thiện, từ đó đến nay vẫn c̣n giữ kín chưa ai nói đến.

Các khách du sơn cũng như người địa phương lên viếng núi Điện Bà, vẫn thường nghe thấy về câu chuyện Suối Vàng là có thật. Chính nhiều người mục kích mạt vàng trôi lờ đờ dưới mặt nước, bèn xuống hốt lên xem thử. Nhưng khi vốc nước lên tay, không c̣n thấy sắc vàng ngời chiếu, c̣n ở dưới nước th́ vẫn sáng chói theo sóng nước, phản chiếu óng ánh như kim cương.

….

Cách nay trong ṿng 5, 10 năm, cũng có một sĩ quan Nhật Bản đến viếng Ṭa Thánh Tây Ninh, với ư niệm t́m ṭi, nghiên cứu cuộc đất lạ, có tiếng là linh. Vị sĩ quan nầy cùng một vị tu sĩ  am hiểu về địa lư rất nhiều. Ông đến qua sát nơi châu vi Ṭa Thánh. Sau đó ông tiết lộ dưới ḷng đất từ Nội ô vô tới dưới núi Điện Bà, thẳng ra Ao Hồ, có một cái suối ngầm chảy qua 6 ngỏ là “Lục Long kết tu”. Trong tương lai vùng đất nầy rất phát đạt về mặt Đạo pháp cũng như nhân tài đều qui tụ về đây. Vị sĩ quan nầy chỉ tiết lộ như thế. Chúng tôi may mắn được một vị kỳ lăo không phải là người trong Đạo, có dịp đi với vị sĩ quan nầy, ghi chép và thuật lại cho chúng tôi rơ như trên.

Ngoài ra chúng tôi chưa được nghe một vị chức sắc nào trong Đạo nói cả. Nhưng chúng tôi tin chắc rằng, một nơi mà Đấng Thiêng Liêng đă từng chỉ định dùng làm nơi khai sáng Đạo Cao Đài, hiển nhiên phải có sự lạ lùng kỳ bí mà mắt phàm chúng ta chưa thể thấu hiểu nổi. Phải chờ cơ duyên đến lúc, chừng ấy mọi việc đều sáng tỏ. Thinh danh vùng Thánh Địa Cao Đài hẳn thêm vang dội.

Trên tinh thần vô tư, chúng tôi xin thuật câu chuyện trên đây như một giai thoại sống thật, để hiến quí bạn đọc hiểu thêm vấn đề non linh đất đất phước đă từng kết tu khí thiên non nước ra sao. Rồi trong  tương lai hẳn sẽ có những lời giải đáp chân xác.

 (Trích Tây Ninh Xưa và Nay của Huỳnh Minh từ trang 174-177)

***

Chúng tôi xin trích một đoạn Thánh giáo của Đức Lư giải thích về việc cất Ṭa Thánh tại nơi Lục Long pḥ ấn:

*Ngày 24-2-1927 (al 23-1-Đinh Măo)

 

THÁI BẠCH

Hỷ chư Đạo hữu, chư Đạo muội.

Lăo khen Thái Thơ Thanh, phải đó đa không, tưởng chư hiền hữu không thấy nữa.

Lăo cắt nghĩa v́ sao cuộc đất ấy là Thánh Địa: Sâu hơn 300 thước, như con sông giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn làm như 6 con rồng đoanh nhau, nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi, gọi là Lục Long Pḥ Ấn. Ngay miếng đất đó đặng ba đầu, một đầu ra giếng mạch Ao Hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia.

Người Lang sa chỉ đ̣i 20 ngàn, nói rồi trả đúng có 15 ngàn. Lăo dặn trả thành 17 ngàn, 18 ngàn th́ đặng vậy.

C̣n xin khai khẩn miếng đất rừng bên kia nữa mới trọn.

Đất nay c̣n rẻ, miếng đất chung quanh Thánh Địa ngày sau hóa vàng.

Chư hiền hữu biết lo lập, ngày sau rất quí báu.

THĂNG.

(Trích Đạo Sử quyển II trang 225)

 

 

8. CHÍ TÔN XUỐNG TẠI THẾ

*Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp (đêm 30-7 Đinh Hợi)

 

Hôm nay Bần Đạo giảng về “Chí Tôn xuống tại thế”.

Giảng đây nói về sự hiển nhiên, một cớ là các báo trên toàn cầu đă đăng và khi ấy có vi bằng kiến chứng, vậy không phải ngụy biện.

Các tôn giáo bất kỳ ngôn ngữ nào, nếu đề nghị về vấn đề ấy tức là nói đến Đạo La Mă là một tôn giáo tối cổ, lấy sự tích Chí Tôn giáng trần lần đầu tiên gọi là nhứt thế. Chí Tôn là Brahma (Tàu dịch là Bà la đa) đền thành Tibet trách trú gọi là La Mă. Ấy là một tôn giáo tối cổ. Bần Đạo sẽ thuyết từ nơi xứ Tibet đến đền La Mă.

Qua 10.000 năm rồi, Đức Chí Tôn mỗi 50 năm đến đó một lần, đến với h́nh thể chớ không phải chơn linh như Ngài đến với chúng ta ngày nay. Việc nầy đă được toàn cầu đăng trên khắp mặt báo.

Khi Đảng cộng sản nổi lên đánh đổ đế quyền Nga, các Vương Hầu Khanh Tướng cũng bị giết. Vị Hoàng Đế thuộc ḍng Bạch Nga bị cộng sản giết trong lúc đảo chánh quyền. Có một vị Hoàng Thân chạy thoát đến lánh nạng ở Tibet, nhờ ḷng Đạo đức của dân Ti bé tan. Các quan công thần pḥ vị hoàng thân đến đền Tibet ở trong chỗ mà loài người bởi La Mă bị trị chớ không phải thế trị. Nhờ đức Đa lai Lama bảo bọc nuôi dưỡng. Ḷng ái quốc ưu quân đă giúp vị Hoàng Thân ấy thoát nạng cùng gia đ́nh thân tộc.

Khi đến Đền Thánh được trọng đăi, trong 10 bữa vẫn an vui, nhưng ḷng hoài cố vẫn cứ đeo đuổi theo măi, phần thương vua, phần nhớ nhà, Ngài mới vào yết kiến Đại Sư. Đức Đa lai Lama thấy sắc diện đoán biết tâm bịnh của Ngài  mới ngó ngay nói: “Kỳ Đức Chí Tôn đến ngự như đă hẹn, khuyên Hoàng Thân ráng đợi vài tháng Chí Tôn sẽ đến, nếu các Ngài thấy Chí Tôn, Ngài sẽ được an vui lạ thường”. Mấy vị Công Hầu ở đó trước 2 tháng rồi có hỏi Đức Đa lai Lama: “Chí Tôn đến cách nào và h́nh thể ra sao?”

-Trả lời: Các Ngài muốn biết, cứ đợi đến chừng đó sẽ thấy biết, chỉ xin căn dặn có một điều, chung quanh Đền Thánh có treo những thanh chung, chừng nào những thanh chung đó ré lên là Chí Tôn đến vậy.

May thay các vị Vương Hầu v́ tánh tọc mạch muốn biết, đă vào chờ trước trong Đền Thánh. Khi tất cả thiên hạ vào cúng rồi th́ tất cả thanh chung đều khua, các bậc Đại Sư qú niệm. Mấy vị kia cũng qú  nhưng cố lóng tai th́ nghe từ ngoài xa dường như có nhiều tiếng chân ngựa nhịp nhàn đến trước Đền th́ dứt.

Chí Tôn từ từ vào, đến ngồi trên cái ngai để sẵn chờ Ngài trong Đền Thánh. Các vị Công Hầu ấy hết sức kinh khủng, chư vị Đại Sư th́ qú mọp, mà họ chỉ qú nữa chừng, mắt liếc ḍm theo. H́nh ảnh Chí Tôn đẹp vô cùng, không bút mực nào tỏa được, hào quan của Ngài rọi sáng khắp đền.

Cứ thường lệ là mỗi 50 năm Ngài đến một lần, tiên tri những hành tàng trong 50 năm sẽ tới. Bài tiên tri ấy Bần Đạo mới đọc, không nhớ trong Cao Đài Giáo Lư hay sách nào, Bần Đạo sẽ t́m lại đọc cho toàn Đạo nghe.

Mấy người ấy thấy Ngài đúng theo trong tờ kiết chứng vi bằng, nghe tiếng Ngài nói, nghe Ngài giảng Đạo. Khi Ngài giảng Đạo rồi, chư vị Đại Sư bái lễ xong th́ h́nh ảnh Chí Tôn biến mất, đồng thời ánh hào quan cũng mất. Những người ấy vẫn chưa tin, mượn cái đèn đem đến chỗ cái ngai th́ thấy c̣n in dấu vết ngồi trên nệm nhung.

Dầu Đức Chí Tôn đă đến Đền Thờ đă thờ Ngài 5.000 năm, trải qua 10.000 năm Ngài ban ơn tại mặt thế nầy.

Trên thế giới có 3 đền thờ Chí Tôn:

1.-Đền Thờ La Mă (Tibet)

2.-Rome

3.-Cao Đài chúng ta mới lập đây.

Đă 2.000 năm, đền thờ Rome Chí Tôn chưa ngự đến, hỏi tại sao? Ta có thề nói tại Rome thờ không đúng.

Chúng ta để sở vọng ước ao, nhờ Chí Tôn thường đến với chơn thần, vô h́nh chung cơ bút dạy Đạo tại đền La Mă thế nào th́ chắc chùng ta cũng đặng ban ơn chừng ấy. Duy dân Ti bé tain họ được hạnh phúc kiến diện Thiên Nhan, c̣n chúng ta chưa. Ước ao toàn sắc dân yêu ái nhứt tâm, nhứt đức, giữ hiếu cùng Ngài, giữ trung cùng Đạo, may ra sau nầy sẽ có Ngài ngự  th́ hạnh phúc ấy sẽ có Ngài tạc sử sanh để ngàn đời như đền La Mă.

Hỏi ta được ân ấy chăng?-Được, mà kíp hay chầy do tâm đức của ṇi giống Việt Nam sẽ là ấn chứng toàn tâm hồn loài người th́ mới mong mỏi được ḥa b́nh thế giới đại đồng ước mong thế nào được mau sớm. Người ta 15.000 năm, không chắc ǵ ta được sớm, xin dân Việt Nam mà Ngài nh́n là con yêu dấu, được đủ đầy Đạo đức như dân Ti bé tain th́ mới được ân thâm trọng ấy; nếu không đặng như thế, sẽ trễ năi khó thấy đặng Chí Tôn th́ cái hại c̣n lâu.

 

 

9. TÍCH: LƯ TRƯỜNG CANH & LƯ NGƯ TINH (Con cá Ông)

*Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp tại Báo Ân Từ ngày 29-5-Canh Th́n (dl 4-7-1940)

 

Có nhơn nghĩa mới gọi là thương yêu chơn thật, nếu không có nhơn nghĩa là thương yêu giả dối.

Đức Chí Tôn buộc con người phải thương yêu, nhơn nghĩa theo Thánh ư của Đức Chí Tôn mà thôi.

Nhắc tích : Lư Trường Canh và Lư Ngư Tinh là hai anh em bạn đồng mến với nhau, hằng ngày ở nơi núi hải đảo mà tu niệm. Một ngày kia Đức Quan Âm tính xuống rước hai người về Tây phương, mới giả là một người đàn bà chèo chiếc ghe nhỏ đi bán hoa quả, chèo ngang qua núi hải đảo rồi rao lên bán.

Lư Trường Canh muốn tu mà thoát kiếp th́ thôi chớ không cần ăn uống chi cả. Lư Ngư Tinh chịu không nổi, mới kêu lại mua ăn, th́ Đức Quan Âm hiện h́nh tại nơi đó mà rước Lư Trường Canh là Lư Giáo Tông đem về Tây phương; c̣n Lư Ngư Tinh bị ăn mà thành ra con cá ông ở dưới biển.

Về trển, Lư Giáo Tông mới kêu nài cho Lư Ngư Tinh, th́ Đức Phật Như Lai cho Lư Giáo Tông một đồng tiền điếu, biểu xuống cột câu Lư Ngư Tinh.

Lư Giáo Tông câu, Lư Ngư Tinh chạy lại ăn. Đức Lư Giáo Tông mới đem về cho Đức Phật Như Lai. Quái lạ, về đến đó mà c̣n ngậm đồng điếu ấy trong miệng măi. Đức Phật Như Lai nói : Cái tánh tham của ngươi cho đến đỗi mà cũng không chừa.

Đức Phật quở một câu mà phải trở xuống biển làm lại con cá ông cho đến bây giờ./.

 

 

10. NHỮNG HUYỀN THOẠI VÙNG NÚI BÀ, NÚI CẬU TÂY NINH

 

1.-NGỌN ĐÈN HỒN TỬ SĨ HAY LÀ LĂO BỌC HUỲNH TRUNG

Ngược ḍng lịch sử, năm Mậu Tuất 1778, Chúa Nguyễn Phúc Ánh khởi nghĩa đánh Tây Sơn.

Qua năm 1780, quân lính Chúa Nguyễn Phúc Ánh chiếm giữ Phiên An Trấn, tức là Gia Định bây giờ. Nhưng quân Chúa Nguyễn Ánh chỉ giữ được đất Gia Định trong ít lâu rồi bị lực lượng Tây Sơn đánh bại.

Lực yếu, thế cô, Nguyễn Ánh cùng một nhóm Cần Vương bỏ đất Gia Định chạy về phía Bắc với núi rừng trùng điệp. Trên bước đường lận đận, chúa tôi nhà Nguyễn lạc lơng vào cảnh rừng sâu nước độc, mà lịch sử ghi nhận đó là vùng núi Điện Bà, tức núi Bà Đen.

Không lâu đài dinh thự, không cận thần áo cao mũ rộng mà chỉ có t́nh nghĩa Chúa tôi đồng tâm nhứt dạ, mỗi khi Nguyễn Ánh nhóm họp triều thần, chỉ tập trung trên cánh đồng cỏ hoan ở nơi rừng thẩm. Đời sau, dân gian truyền khẩu nơi đó là Sân Chầu. Vị trí lịch sử cách mạng của Nguyễn Vương hiện nay nằm trong xă Lộc Ninh, cách tỉnh Tây Ninh khoảng 30 cây số về hướng Đông.

Thuở lao đao lận đận trên đường chiến đấu ấy, trong đoàn quân vận chuyển của Nguyễn Ánh có một vị lăo bộc tên Huỳnh Trung. Vị lăo bộc nầy có phận sự châm lo về ngựa, ḅ để dùng vào việc vận chuyển lương thực.

Một hôm đoàn xe ḅ vận chuyển lương đến một ngỏ truông rừng, gọi là Truông Hồng Đào, cách núi Bà Đen 4 cây số, lăo bộc Huỳnh Trung lâm bịnh mà chết. V́ việc chuyển binh gấp rút, nên thi hài lăo bộc được vùi nóng bên truông Hồng Đào.

Từ đó đến nay đă hơn trăm năm, khách dạ hành có việc đi qua xóm Độn đến chân núi Bà Đen thường bắt gặp một hiện tượng huyền bí. Đó là ngọn đèn, được gọi là đèn Thần đưa lối khách xuyên đêm.

Khách hộ hành đi xe ngựa hoặc đi xe đạp, dù chạy nhanh hay chạy chậm, lúc nào cũng nh́n thấy phía trước cách trước mặt  khoản 50 thước có một đóm lửa đèn. Nếu khách ngừng, ngọn đèn dừng lại như đợi chờ. Khách di chuyển, ngọn đèn cũng di chuyển giữ khoản cách 50 thước.

Khi đi gần đến chân núi Bà Đen th́ ngọn đèn vụt biến mất. Rồi khi khách  rời núi trở về Tây Ninh, lúc đến xóm Độn, ngọn đèn hướng dẫn trước mặt cũng biến như khi đưa đến núi.

Trải qua bao nhiêu tuế nguyệt, những bậc kỳ lăo và dân chúng địa phương truyền nhau rằng, đóm đèn thần kia chinh là đóm lửa hồn của lăo bộc Huỳnh Trung. Dù bất hạnh mất đi trên dọc đường chiến đấu theo Chúa Nguyễn Ánh, nhưng hồn tử sĩ vẫn bừng sáng thiên thu, giúp đỡ ngưởi đi trong đêm đỡ sai đường lạc bước.

 

2.-ĐẠO BINH VÔ H̀NH Ở VÙNG NÚI CẬU TÂY NINH

Núi Cậu cách tỉnh lỵ Tây Ninh 12 cây số ngàn. Muốn đến núi Cậu chúng ta phải đi đường lên Cà Tum, ngă đến suối vàng.

Đây là vùng núi non huyền bí, nhiều bô lăo và đồng bào ở Tây Ninh ngày nay c̣n nhắc đến những hiện tượng lạ ở vùng núi Cậu.

Cách nay 40 năm, dân chúng ở vùng núi nầy thường thấy một Đạo binh xuất hiện trên núi mỗi tháng vài ba lần và liên tục khoảng 15 năm như vậy.

Đạo binh thường xuất hiện vào đêm. Vị chỉ huy oai phong lẫm liệt, lưng giắt gươm trần, lính th́ đội nón gỗ hàng ngũ chỉnh tề, bước đi ăn rập nhịp nhàn, đèn đuốc sáng choang, tiếng reo ḥ vang dội.

Hiện tượng xảy ra, mọi người trông thấy rơ ràng như vậy chớ không phải chuyện đồn đăi hoang đường.

Theo truyền thuyết, người ta cho đó là Đạo âm binh của cố Tri Phủ Huỳnh Công Giản khán Miên ở cánh đồng Trà Vông, mà lúc bấy giờ nhân dân gọi là Quan Lớn Trà Vông.

Trên núi nầy có miếu thờ Quan Lớn Trà Vông, đồng bào trong vùng rất tin tưởng và kinh sợ oai linh của Ngài.

Từ xưa tới nay, những vị anh hùng trung quân ái quốc, sanh vi tướng, tử vi Thần, và các chiến sĩ tận trung hy sinh cho Tổ Quốc, lúc thác rồi hồn vẫn linh thiêng.

Các hiện tượng Đạo binh ma xuất hiện như vậy, chẳng riêng ǵ nước Việt Nam ta, mà cả khắp thế giới đều có.

Chúng ta có đọc quyển sách viết thuật lại viên Thuyền Trưởng trên thương thuyền đang lướt sóng thẳng đương, bồng thấy phía trước có một chiếc tàu binh, h́nh thức là loại tàu cổ. Trên chiến thuyền có vị chỉ huy và thủy thủ đang hoạt động.

Tương truyền đang lo tránh né sợ tàu va chạm nhau, nhưng rồi trong vài tiếng đồng hồ, tàu kia mất dạng, biển cả bao la, mà nh́n chẳng thấy đâu cả.

Các hiện tượng huyền bí như vậy quả thật có xảy ra, nhưng khoa học cũng đành không giải thích được.

Trở lại vấn đề Đạo binh vô h́nh ở Núi Cậu Tây Ninh , việc xuất hiện của Đạo binh làm cho dân chúng trong lúc ấy rất tinh tưởng oai linh của vị anh hùng trung quân ái quốc, chống giặc Miên để giữ ǵn bờ cơi nước nhà.

Từ sau năm 1945, dân chúng vùng Núi Cậu tản cư đi rất nhiều và từ đó người ta không c̣n thấy Đạo binh xuất hiện nữa.

 

3.-DẤU CHƠN ÔNG KHỔNG LỒ TRÊN NÚI, TẢNG ĐÁ NẰM TRÊN NGỌN CÂY DẦU TRẠI BÍ

Tây Ninh là đất thiêng, có nhiều chuyện lạ trải qua hằng mấy trăm năm hăy c̣n.

Lúc nhỏ chúng tôi nghe đồn rằng trên Núi Điện Bà có một dấu chân lớn của ông Khổng Lồ, từ ngàn xưa c̣n in sâu ở đó.

Việc nầy đồng bào tỉnh Tây Ninh ai cũng biết, nhứt là những vị tu hành thường đi viếng Núi Điện Bà trong lúc đất nước thanh b́nh, có đến xem dấu chân lún trên mặt đá.

Mấy mươi năm về trước, chúng tôi cũng t́m đến nơi để quan sát nay có dịp thuật lại để cống hiến bạn đọc, nhứt là bạn đọc ở xa.

Vào năm 1930, do người hướng dẫn chúng tôi lên núi. Cỏ cây chen lá, lá chen hoa, lối đi vất vả, mất mây tiếng đồng hồ, chúng tôi đến trước chùa Linh Sơn t́m tảng đá lớn và nơi đó có in một dấu chơn rất to lún xuống, thấy rơ đủ 5 ngón. Từ ngón cái ra gót chơn, tức là bề dài bàn chơn, dài lối 5 tấc. Bề sâu lún xuống mặt đá độ 2 phân, tháng mưa nước đọng lại.

Đây là một dấu lún tự nhiên chớ không phải có người đục đá để làm một chuyện “mỵ thuật ma giáo” hầu có hậu ư ǵ.

Chúng tôi cũng theo chơn một hướng dẫn viên để đến Trại Bí, hầu có quan sát tảng đá ngàn cân vướng trên chản ba “cây dầu cổ thụ”.

Từ tỉnh lỵ Tây Ninh, chúng tôi đi theo quốc lộ 22. Trải qua 22 cây số ngàn đến Trại Bí (vùng nầy thuộc về khu vực vùng cấm). Ngày xưa đồng bào thường vào đây bức mây, đốn củi, lấy chai.

Chúng tôi thấy một cây dầu to lớn, cao chừng 20 thước, bề tṛn lối 3 người ôm không giáp. Cây cổ thụ nầy có từ mấy trăm năm nay, cành lá vẫn xinh tươi.

Bề cao lối nữa thân cây, có một cái chản ba. Giữa cái chản ba có một tảng đá rất to, sức nặng ước chừng trên 1.000 cân.

Tảng đá ấy nằm trên đó không biết bao nhiêu đời. Ai đi đến nh́n thấy đều cho là việc hy hữu của thế gian. Chính các khoa học gia cũng đành khoanh tay chịu phép không giải được hiện tượng kỳ bí ấy.

Nếu tảng đá đó nằm dưới đất, chưa chắc 5, 3 chục người lực lưỡng xê dịch nổi. Vậy th́ nó làm sao nằm được ở trên giữa chản ba cây dầu. Theo truyền thuyết của những người địa phương th́ sự việc ấy nằm trong huyền thoại nầy:

Ngày xưa có một vị Thần Linh vô cùng to lớn, mà người ta gọi là ông Khổng Lồ.

Ông Khổng Lồ có người vợ trẻ, mà nàng rất ít khi nghe lời ông. Ông thường dặn vợ, nếu ông đi vắn th́ ở lại động trên núi chờ ông chớ đừng đi đâu cả.

Nhưng trưa nay ông đi vắng, và lúc trở về bà vợ không có ở núi Điện, có lẻ đi hái hoa quả ở đâu đó.

Ông mới bước đi t́m vợ, một chơn ông đứng ở Núi Điện Bà, một chơn bước qua bên Núi Cậu. V́ ông giận bà, ông dặm chơn hơi mạnh nên chơn lúng xuống đá, để dấu chơn lại như ta thấy hiện nay.

Miệng ông kêu vợ, nhưng chưa nghe vợ trả lời, lúc đó lại có con quạ bay ngan kêu quạ quạ, ông hỏi con quạ rằng:

“Vợ tao đi ở nơi nào?

“Nếu mi có biết mau mau chỉ dùm.

Quạ ta không chỉ, mà vừa bay đi vừa trả lời:

“Đàn bà lắm kẻ gian ngoa,

“Vợ mi mi giữ hỏi ta làm ǵ?

Đang bực ḿnh nghe quạ đáp vô lễ như vậy, ông Khổng Lồ giận con quạ lắm, liền với lượm một tảng đá vừa tầm tay (nặng độ 1 tấn) liệng con quạ, nhưng quạ khôn ngoan bay bổng lên cao. Đá không trúng quạ mà rơi vào chản ba  “cây dầu cổ thụ” và nằm gọn ở đó cả mấy thế kỷ rồi, đá dính trên cây càng ngày càng lớn.

Chúng tôi ghi lại huyền thoại nầy cống hiến bạn đọc nghiệm xem ở thế gian có nhiều chuyện lạ, nhứt là ở vùng rừng núi xa xôi. Chúng tôi cũng không tin là chuyện có thật.

Chúng tôi lê gót đó đây, sưu tầm những chuyện lạ trên dăy non sông gấm vóc trải qua bao cuộc điêu linh, những hiện tượng lạ kia vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt đến nay vẫn c̣n tồn tại trên vùng non linh đất phước của dư đồ Việt Nam huyền bí.

(Trích Tây Ninh Xưa và Nay của Huỳnh Minh từ trang 137 đến 145)

 

 

11. DỌN ĐẤT LƯƠNG TÂM

 

Nếu trong công cuộc giáo dục con người đức dục chiếm địa vị quan trọng thế nào trong việc huấn đức, việc đào luyện lương tâm cũng quan trọng thế ấy. Sống thiện, sống đúng nhơn phẩm là vấn đề của lương tâm chớ không phải hiểu biết nhiều nguyên tắc, học thuyết luân lư mặc dầu việc nầy vẫn cần thiết. Sống nên người là biết nhận đúng cái ác để tránh, cái thiện để theo. Mà làm sao nhận đúng những điều ấy nên không chạy đến lương tâm.

Pascal nói: “Lương tâm là cuốn sách luân lư hay nhứt mà chúng ta phải tham khảo hơn hết”. Thật vậy, đứng góc cạnh luân lư, người ta phải nói lương tâm là cơ quan phán đoán tính chất luân lư thiện hay ác của các tác vi nhân linh, là những việc làm mà con người làm với ư thức chịu trách nhiệm về chúng.

Forquier dựa vào định nghĩa của cuốn Vocalulaire de la societe de Philosophie viết: “Lương tâm luân lư là đặc tính mà tinh thần con người nhờ đó đưa ra những phán đoán thẳng mực, tự nhiên tức khắc về giá trị của một vài hành vi cá nhân nhứt định”. Trước khi hành vi xảy ra nó cho ta biết hành vi tốt hay xấu theo lư tưởng luân lư. Hành vi xảy ra xong, lương tâm sẽ gây trong ta những tâm t́nh  lúc nó phản ứng trước việc thiện hay ác. Tâm t́nh hân hoan nếu là bổn phận được thi hành. Tâm t́nh hối tiếc nếu ta lầm lỗi.

Bởi vai tṛ lương tâm tối hệ như vậy nên khi bàn về nhân đức người ta phải nghĩ ngay đến huấn luyện lương tâm. Trong xă hội loài người có hai hạng người đáng kính là ANH HÙNG và THÁNH NHÂN, nhứt là Thánh Nhân. Anh hùng nơi trận mạc th́ hay lắm, nhưng hay hơn là anh hùng trước sự tấn công của t́nh dục, xu hướng xấu, tập quán xấu. Làm được một Nă Phá Luân th́ oai thật, nhưng không được không sao. Mà nhứt định phải nổ lực đi con đường của Socrate, Francoi, d’Assise là đường tu đức.

Muốn có một lương tâm lành mạnh trước hết phải biết phân biệt các thứ lương tâm và đào luyện riêng lương tâm chính trực. Chúng ta đă biết nhiều loại lương tâm. Như đối với chân lư th́ có lương tâm chánh trực, lương tâm sai lầm.

Lương tâm sai lầm chia ra lương tâm quá rộng, quá hẹp và bối rối. C̣n đối với cá nhân lương tâm có thể gọi là chắc chắn hay hồ nghi. Ở đây ta chỉ quan tâm sự huấn luyện lương tâm chánh trực.

Bí quyết là:

1.-Đừng khi nào cả ḷng làm nghịch lương tâm. Ai có ư cải mệnh lệnh lương tâm một lần có thể bất tuân nó nhiều lần. Một lương tâm bị bất phục nhiều lần trở thành vô hiệu, sau cùng sai lạc.

2.-Đọc nhiều sách báo dạy về lương tâm.

3.-Nghe giáo luyện về Đạo lư.

4.-Noi gương các bực giàu lương tâm  như cha mẹ lương thiện, thầy giáo lành nghề.

5.-Bàn chuyện tâm hồn với những cố vấn đao hạnh, thông minh.

6.-Tỉnh tâm, tự kiểm thảo.

Có lương tâm chánh trực là đă bước được một bước dài trên đường tâm đức. Người ta chỉ c̣n lo luyện cái nhân đức là nên người tốt đẹp.

(Trích trang 17-19 Thuật Sống Dũng của Hoàng Xuân Việt)

 

 

12. TRUYỀN ĐẠO PHẢI CÓ ĐỨC TIN

 

*Mereredi 29 septembre 1926 (23-8 B.D)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI

GIÁO Đạo NAM PHƯƠNG

Thầy dạy chư môn đệ một lần cho mà hiểu và nhớ hằng ngày.

Nhiều đứa truyền Đạo mà trong ḷng kinh sợ kẻ thọ giáo.

Thầy hỏi: Phải nghịch chơn lư chăng?

Phải các con há!

Kẻ dốt mà dạy người dốt th́ cả hai dầu nói tới tận thế cũng c̣n dốt.

Lại thấy kẻ dốt ấy kích bát trở lại chịu thiệt rằng: “Đạo ḿnh là lầm lạc”. Người truyền Đạo dường ấy có sai chánh lư chăng?

Phải.-Các con há!

Chẳng khác nào người ngồi nhà thấy kẻ mắc mưa ước ḿnh, nhảy ra che cho ướt, lại khen rằng mát th́ là muội lắm đó.

Vậy Thầy lại thấy một bọn môn đồ khi đến nói Đạo với kẻ nào, th́ thẹn thùng ái ngại; phải nghịch chánh lư chăng?

Phải, thiếu tư cách đă đành. Ḿnh v́ chữ thiện mà dạy người th́ giá trị  ḿnh đă cao thượng rồi, mà c̣n thẹn nổi ǵ?

Chẳng khác nào một đứa bé bị chửi, sợ nhục lại ráng chửi lại cho bằng; té ra bị nhục hơn nín lặn nghe luôn nửa.

Thầy lại thấy nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu là ǵ, bị người chê rồi c̣n biếm nhẻ nửa. Phải nghịch chánh lư chăng?

Trong phần đông các con, nhiều kẻ ấy.

Thầy khuyên các con nhớ hoài rằng: Thầy của các con là ông Thầy Trời; nên biết mỗi ổng mà thôi, th́ đủ, nghe à.

Ngôi vị Bạch Ngọc Kinh chẳng ưa kẻ hung hăng mà lạ một điều kẻ hung hăng Đạo đức thường phá cửa lúng đặng vào, địa vị phần nhiều đoạt bởi kẻ ấy.

Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế t́nh th́ gần ngôi Tiên Phật đó.

 

 

13. PHẬT THÂN LUẬN

 

Phật thân có ba: Pháp Thân, Báo Thân, Hóa Thân.

Thế nào là Pháp Thân:

Pháp Thân tức là bản thể rộng lớn vô biên của vũ trụ, bản thể ấy nương tựa, hay là căn nguyên sinh ra các Pháp (tức vạn hữu theo nghĩa phổ thông của Phật gọi là Pháp) nên gọi Pháp Thân. Lại theo ư nghĩa từng nơi trong Phật giáo c̣n dùng những danh từ Pháp Giới, Chân Như, Thật tế, Phật tín, Thanh Tịnh Tâm, Vô Lượng Quang, Như Thị…để chỉ rơ bản thể ấy.

Bản thể Pháp Thân tất cả chúng sanh đều có. Như trong kinh Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh”.

Lại trong kinh Pháp Hoa nói: Pháp ấy b́nh đẳng, không có cao thấp. Pháp ấy là ǵ?-Tức là bản thể, là pháp thân, chẳng qua trí thức ta đă bị nhiều lớp vô minh che phủ khiến không có trí huệ thấu triệt rộng khắp để ngộ nhận bản thể, mê và ngộ khác nhau ở chỗ đó, mà cũng v́ thế phải lưu chuyển sinh tử.

Thế nào gọi là báo thân: Báo nghĩa là đáp lại, hễ cái ǵ có nhân th́ tất có quả. Nhân lành th́ quả tốt, nhân dữ th́ quả xấu. Quả tức là sự đáp lại của nhân, nhân là cái đă sinh ra quả.

Các đức Phật nguyên trước cũng là chúng sanh, song các Ngài biết ḿnh có bản thể pháp thân, ấy là cái nhân chân chính để thành Phật, nên căn cứ vào đấy mà tu tập, trải qua vô số kiếp tiêu sạch những mê vọng ám chứng, phúc tuệ đầy đủ, chứng được bản thể chân như, cảm được báo thân tốt đẹp trang nghiêm như trong kinh nói: “Thân của Phật  là từ trong Pháp giới trong sạch, thanh tịnh tâm mà sanh ra, tứ vô lượng công đức trí huệ mà sanh ra, từ 6 phép ba la mật mà sanh ra , tức từ bi, hỷ xả mà sanh ra.

Vậy cho biết thân của Phật bởi kết tụ bao nhiêu trí tuệ, đức tính lành tốt trong vô lượng kiếp, mà Ngài đă xả thân v́ Đạo, hy sinh v́ sự lợi ích cho chúng sanh, ấy là phúc quả đáp lại của cái nhân tu hành chân chánh. Nhân đă căn cứ vào bản thể rộng lớn vô biên th́ quả cũng sẽ thành thời gian vô cùng vô tận. Mà đă có thân tất có độ, nên cơi Phật là cơi thanh tịnh, trang nghiêm là cảnh giới siêu phàm đầy sự an lành giải thoát.

Thế nào là Hóa Thân?

Hóa là ứng hóa hoặc biểu hiện. Các Đức Phật sau khi đă tu hành chứng ngộ được chân lư, trở về bản thể pháp thân tức là trí tuệ của vật chất đă chung ḥa lẫn nhau, nên bấy giờ diệu dụng vô cùng, muốn hóa ra thân nầy thân khác, cùng ngàn muôn ức thân, tùy theo nhu cầu của chúng sanh, căn cơ như thế nào mà thuyết pháp hóa độ. Như trong Kinh nói: Đức Phật Thích Ca hiện thuyết pháp ở cơi nầy, đồng thời ở thế giới khác cũng có hóa thân của Ngài, hoặc đang ngồi ở bên gốc bồ đề tọa thiền nhập định, hoặc đang ở pháp ṭa thuyết pháp giáo hóa v.v…

Ta chớ lấy làm lạ, khi nói hóa thân của Phật hay Bồ Tát mà cho là chuyện huyễn hoặc v́ đâu; đó chỉ là các Ngài đă đi đến một tŕnh độ tinh vi của vật chất và tư tưởng. V́ tư tưởng và trí tuệ đă sáng suốt giác ngộ hoàn toàn, không c̣n những oán chướng mê lầm phiền năo. Về vật chất th́ đă dung ḥa với bản thể, không c̣n có cái h́nh xác ù ĺ đầy cặn bả đúc nặng như thân thể của chúng ta bậy giờ. Nếu mọi sự tác động của các Ngài đă diễn kịp theo sức tư duy không c̣n có cái ǵ ngần ngại nữa.

Ví dụ: như tôi muốn đi ra Hà Nội để thăm người bà con chẳng hạn. Nếu như thân xác tôi là vật chất ù ĺ, sự hành động không được mau như ư muốn nên đă mất một ngày rưỡi ngồi ĺ trên chiếc tàu hỏa, hay một tháng trường kéo từ Huế ra Hà Nội, nếu đi bộ. Trái lại, nếu vật chất tôi đă được tinh vi tác động theo kịp mức tư duy, th́ chỉ trong nháy mắt tôi đă tới Hà Nội ngay…

Chúng ta có Pháp thân, có báo thân, các vị Bồ Tát có đủ 3 thân, song chưa được viên măn, chỉ có Phật mới đủ 3 thân.

Tóm lại tuy chia 3 thân là để cho chúng ta dễ hiểu, dễ cảm nhận, chứ thật 3 thân vốn là một thể. Hóa thân hay báo thân đều là diệu dụy của chân như, vốn từ trong thể pháp giới trong sạch thanh tịnh mà phát hiện ra, cũng như sóng tức là nước, nước là sóng, 2 cái không thể rời nhau được.

(Trích trang 100-103 Thế Giới Quan Phật Giáo của Thích Mật Thể)

 

 

14. LUẬN NGỮ

 

Phái Tăng Tử cùng với các môn đệ góp nhặt những lời giản dụ của Khổng Tử xếp thành sách Luân Ngữ để truyền về sau. Sách nầy h́nh như môn đệ Khổng Tử ai nhớ được điều ǵ th́ chép ra, rồi góp lại mà thành, cho nên không có thứ tự ǵ cả. Có chỗ là bọn đồng môn của Tăng Tử chép ra, có chỗ là bọn học tṛ của Tăng Tử và Hữu Tử chép thêm vào. Cũng v́ thế cho nên các đệ tử của Khổng Tử đều để chữ “Tử” lên trên tên tự: Tử Lộ, Tử Trương, Tử Du, Tử Hạ, Tử Cống v.v…duy chỉ có Tăng Tử và Hữu Tử th́ để chữ Tử xuống dưới tên họ là để tỏ cách tôn kính.

Song sách ấy dùng một chữ NHÂN, chữ HIẾU, chữ CHÍNH mà mỗi nơi nói một khác là ǵ cách lập giáo của Khổng Tử cứ tùy tư cách hoặc tùy sở đắc, sở thất của từng người mà dạy bảo cho nên nghĩa không đồng. Tùy h́nh thức th́ không có trật tự phân minh, nhưng văn từ th́ thật rơ, thật đúng, ư từ rất sáng, rất gọn, mà câu nào cũng hàm súc nội dung đích đáng là lời của Thánh Nhân. Nay ta nhờ có cách ấy mới biết rơ học thuyết của Khổng Tử và mới hiểu rơ cái vi ư của Ngài về các sự lư.

Thật là quyển sách rất quí của Nho Giáo, song học giả phải lập chí học mà suy nghĩ cho kỹ th́ mới biết là hay, và sự học Đạo của Thánh Hiền mới có ích lợi.

Tŕnh Y Xuyên đời Tống nói: “Có người đọc xong sách Luận Ngữ rồi sau không thấy ǵ cả; có người đọc xong rồi lại thích một vài câu; có người đọc xong rồi lấy làm thích lắm; có người đọc xong rồi thích đến nổi múa tay múa chơn lên mà không biết”. Ông lại nói: “Ai đọc xong Luận Ngữ mà vẫn c̣n những tánh nết như trước khi chưa đọc, th́ người ấy chưa hiểu đọc sách vậy”.

(Trích trang 175-176 Nho Giáo quyển I của Trần Trọng Kim)

 

 

15. THÁNH GIÁO TIẾT LỘ VIỆC XỬ CÁC ÔNG TƯƠNG, TRANG, THƠ

 

*19 Mars 1934 (5-2-Gi áp Tuất)

HAI CAI

Ông Chông mượn viết dùm.

Ôi! Ḿnh là Tú dốt mà ổng cứ đặt cậy thông ngôn, sợ thôi anh Bảy. Mầng mấy anh em.

-…

-Dạ

Anh lớn, bậy quá phải không có lịnh Thầy dạy th́ Cả Chông bị ngồi khám tối 2 năm thấy mồ tổ; ư nói bậy nữa.

-…

-À, cái đó đặng lắm. Hôm trước cầu nguyện tại đây, siêu độ gần năm bảy ngàn vong hồn.

-…

-À! Không kiện sao được. Cười.

Cha cám ơn lắm, Anh Lớn.

Ôi! Mẹ con nó bây giờ nghe lời bậy bạ nên không hết ḷng cùng Đạo. Tôi buồn quá. Anh Lớn nghĩ mà coi: Tôi bị hai ông Tương, Trang rủ quến, nghe lời theo một lúc. Hú hồn, hú vía, không thôi bị Thiên Điều thấy cha thấy mẹ. Nên biết hai năm án là tại đó, mà thiếu phước ân xá. Nhờ Thất Nương cho hiểu nên ăn năng cầu khẩn Thầy mới đặng thăng về cơi Thiên vị, xong mất cựu vị một phẩm, c̣n Nhơn Thánh mà thôi.

À! Đại Từ Phụ th́ xin cho c̣n Địa Phẩm, trừ Thiên vị đặng mong ngày qui của họ, lấy hồng ân xá tội. C̣n Đức Lư Giáo Tông hiểu ư ấy, nên buộc án tại Ngọc Hư, truất quyền Giáo Tông Thầy để dành cho ông Tương, c̣n Trang th́ mất quyền Chưởng Pháp, chỉnh làm Đầu Sư Hàm mà thôi.

Ôi! Ông Thơ cũng bị rớt măo, làm cho cha Thiêng Liêng của ổng khóc lóc, thảm quá chừng.

À! Mấy anh đừng thèm làm quen với hai ông xanh đỏ, sợ bị đa nghe!

Thăng

 

 

  16. CÁC BÀI THI DẠY ĐẠO ĐÁNG NGHI NHỚ

 

1-Tṛi trọi ḿnh không mới thiệt bần,

Một nhành sen trắng náo nương thân.

Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,

Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần.

Bố hóa người đời gây mối Đạo,

Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.

Chừng nào đất dậy Trời thay xác,

Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

 

2.-TẢ BẠCH NGỌC KINH

Một ṭa Thiên Các ngọc làu làu,

Liền bắt cầu qua nhấp nhóa sao.

Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,

Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào.

Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,

Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.

Dời đỗi chóp giăng đoanh đỡ nổi,

Vững bền vạn kiếp chẳng hề sao.

 

 

17. ĐẠO HỢP QUẦN CỦA NHÂN LOẠI

 

Người ta sở dỉ hơn các loài vật là v́ biết hợp quần để lập thành xă hội có tôn ti trật tự khiến cho thiên hạ được yên trí. Tuân Tử nói rằng: “Lửa và nước có khí mà không có sinh, cây và cỏ có sinh mà không có biết, muông chim có biết mà không có nghĩa. Người th́ có khí có sinh, có biết và lại có nghĩa cho nên là quí nhứt trong thiên hạ. Người ra sức không bằng con trâu, chạy không bằng con ngựa, thế mà con trâu con ngựa đều bị người ta dùng được là sao?-Là tại người ta biết hợp quần.

Người ta lấy cái ǵ mà hợp quần được?

-Rằng lấy cái phận trên dưới. Định ra phận trên dưới th́ làm thế nào mà có nhân?-Rằng lấy nghĩa. Lấy nghĩa mà định trên dưới th́ ḥa, ḥa th́ hợp là một, hợp làm một th́ có nhiều sức, có nhiều sức th́ mạnh, mạnh th́ thắng được muôn vật.

Trong sự hợp quần của loài người có nghĩa là quí hơn cả. Bởi có nghĩa cho nên ta mới biết phân ra lớn ta trật tự để giữ cho sự sinh hoạt của nhân quần không rối loạn.

Người ta sinh hoạt ở đời không thể không quần tụ; quần tụ mà không định phận ở trên dưới th́ tranh đoạt nhau, tranh đoạt nhau trên dưới là cái hại lớn của người ta, có định phận trên dưới là cái lợi lớn của thiên hạ; mà đấng nhân quân là cái then chốt để cai quản cái phận trên dưới. Vậy đă có nhân quần là phải có nhân quân để giữ trật tự cho xă hội.

(Trích trang 287-288 Nho Giáo Quyển Thượng của Trần Trọng Kim)

 

 

18. NHO GIÁO SUY LẠC

 

Sau ngày Khổng Tử mất, Nho Giáo chia ra làm 8 phái: Phái Tử Trương, phái Tử Tư, phái Nhan Uyên, phái Mạnh Tử, phái Tát Điệu Khai, phái Trọng Lương, phái họ Tôn tức phái của Thâu Khanh (Tuân Tử) và phái Nhạc Chính Khắc. Mỗi phái có một chủ trương khác biệt, câu nệ và chê bai lẫn nhau.

Như Tuân Tử nói thiêu Phi Thập Nhị Tử có hạ câu chê rằng: “Bọn tiện nho của hạng Tử Du, bọn tiện Nho của họ Tử Hạ, bọn tiện nho của họ Tử Trương”, đủ chứng minh chỗ bất ḥa giữa các phái, trẫm triệu của sự biến thiên và suy lạc Nho Giáo.

Thật ra Nho giáo đă bắt đầu suy lạc từ cuối đời Chiến Quốc là lúc xă hội Trung Hoa đỗ nát v́ nạn loạn lạc dấy lên khắp nơi, các nước đánh nhau không nghỉ.

Kịp khi nhà Tần dẹp yên các nước thực hiện được sự thống nhất th́ v́ chánh sách chuyên chế dùng binh pháp trị dân của Tần Hủy Hoàng mà Nho giáo ngộ nạn “Phần thư khanh Nho” (Đốt sách chôn sống học tṛ). Nền tảng của Nho học cùng các kinh sách xưa đều bị phá hủy triệt để.

Nhưng đến đời Lưỡng Hán, khi t́nh thế ổn định các quan nghĩ đến việc mở mang học thuật th́ Nho Giáo được cơ hội xây dựng trở lại mà phát triển mạnh mẻ. Có thể nói từ Lưỡng Hán trở đi Nho Giáo chiếm địa vị độc tôn trên xă hội Trung Hoa.

Để xây dựng lại nền văn hóa đă sụp đỗ, nhà Hán lo sưu tầm lại kinh sách cũ. Nho học nhân đó hưng khởi lên tạo nên một thạnh huống vô cùng nhiệt náo trên nền học thuật. Đến như về phần h́nh nhi thượng học tức là phần tâm học, thuần lư Nho Giáo th́ trái lại càng ngày càng suy đồi v́ lối học huấn.

Thế nên cứ lấy đại thể mà xét th́ Nho Giáo về mặt lư tưởng cao siêu mà lối học h́nh nhi thượng, măi theo trào lưu tiến hóa vật chất mà hạ thấp dần xuống.

Sỡ dĩ có lối học huấn hổ và từ chương là v́ lúc Hán sơ, sách xưa đều bị thiêu hủy, nay muốn gây dựng lại các học giả ra công t́m kiếm những bản cũ gọi là cỗ văn.

Ngoài ra những bậc cố lăo do kư ức, chép lại sách xưa gọi là kim văn. Những bảng văn chép theo kư ức hẳn không tránh khỏi những chỗ sai lầm hay thiếu sót. Đến như những cỗ văn v́ bị dấu cất để tránh ngọn lửa Tần cũng thành ra mất mát, hoặc thiếu trang, hoặc rách nát.

Chính đó là nguyên nhân tạo nên cái học huấn hổ là lối học châm chú t́m những chỗ sai, chỗ sót và định nghĩa từng chữ từng câu, xếp đặt thành kinh truyện. Mỗi phái chủ trương mỗi cách, căi vă nhau, chỉ chú trọng về mặt lữ chương nên cái học thêm viễn của Nho Giáo càng ngày càng kém sút đi.

Lối học huấn hỗ từ chương đă rất thạnh hành trong đời Lưỡng Hán Tam Quốc Lục Triều, cho đến đời Tùy mới bắt đầu định xong thiên hạ. Nhà Tùy mở mang các nhà học và định lệ thi cử chọn người tài càng thôi thúc thời thượng chú trọng về mặt từ chương, v́ nó là nấc thang bước lên đài danh vọng. Cái tập quán nầy được nhà Đường đón tiếp một cách nồng nhiệt. Các sĩ phu cần ở sự đỗ đạc hơn thực học, thành thử cái học văn khoa th́ rất thạnh hành, mà cái học Đạo lư th́ rất suy.

Qua đời Tống, các học giả nhận thấy cái học huấn hổ từ chương chỉ là cái học chú trọng về h́nh nhi hạ, không phản ảnh được Đạo thống của Khổng Mạnh nên quai qua t́m lấy cái học h́nh nhi thượng, gây thành phong trào lư học trong đời Tống và Minh. Tiêu biểu cho phong trào nầy nên kể Lục Tương Sơn đời Tống, và Vương Dương Minh đời Minh là lỗi lạc hơn hết.

Tuy nhiên cái học nghĩa lư mặc dầu chói rạng với nghĩa lư Lục Vương, nhưng không thể át được cái học từ chương thi cữ là cái học bao giờ cũng được người đời ham thích, bởi nó đem lại danh lợi nhăn tiền, thành thử cái học khoa cữ hư văn vẫn là cái bịnh của thời thượng.

Nguyên nhân khiến cho lư học của đời Tống không thể tiếp tục phát triển được v́ cuối đời Tống, Trung Hoa bị Mông Tộc Cát trị. Người Mông Cổ là một giống dân kém về học thuật hơn dân Hán. Đó là điểm trở ngại cho cái học cao siêu về h́nh nhi thượng. Hết đời Nguyên của người Mông, lại đến đời nhà Thanh của người Măn, cũng là một dân tộc không được phát triển về tinh thần. Đến cuối đời Thanh, Tây học du nhập vào Trung Hoa càng quyến rũ người đời bỏ cái học về triết lư khó khăn, chạy theo cái học chuộng về đường phát triển vật chất.

Nói tóm lại, từ đời Chiến Quốc đến đời Thanh, cái học Đạo thống của Khổng Mạnh thuộc về h́nh nhi thượng vẫn một mực suy lạc. Mặc dầu trong đời Tống lư học được xiển minh nhưng đứng về đại thể mà xét th́ Nho Giáo cứ theo trào lưu thối hóa về mặt tinh thần mà một ngày một suy lạc.

(Trích trang 125-128 Đời Hạ Nguơn của Vương Kim)

 

 

19. LẠY PHẬT CÁCH NÀO ?

 

Đă là Phật Tử th́ ai cũng phải lễ Phật, nghĩa là đứng trước bàn thờ Phật, trước tượng Phật hoặc h́nh ảnh của Đức Phật nghiêm trang làm lễ, đầu sát tới đất.

Lễ Phật để làm ǵ?

Lễ Phật không có ư nghĩa là lễ một vị Thần Linh hay thờ cúng và lễ bái một bức tranh, một bức tượng (idolatric). Làm như thế là mê tín trái với giáo lư của Phật bày trừ hết thảy mê tín.

Đức Phật đă dạy tất cả h́nh tượng, ngay cả xác thân của Ngài khi c̣n tại thế, đều là giả dối, vô thường. Vậy Ngài không dạy chúng ta lạy Ngài và lạy những tranh tượng vẽ h́nh dáng Ngài. Nhưng chúng ta là những kẻ phàm phu, c̣n sống trong ṿng thế gian thông thường, c̣n phải tu hành, nên chúng ta cần có có một cái ǵ để tượng trưng trước mắt ta trong trí ta những đức tánh rộng lớn vô biên, từ bi hỷ xă, thanh tịnh, dũng mănh, giác ngộ, trí tuệ của Ngài, để nhắc nhỡ chúng ta.

Chúng ta lể trước bức tượng, bức tranh Phật không phải chúng ta lễ bức tranh bức tượng ấy mà chúng ta lễ, chúng ta tỏ ḷng cung kính rộng lớn cùng cực, đời đời làm gương mẫu cho ta. Trước những đức tin cao cả vô biên ấy, chúng ta cảm thấy chúng ta c̣n biết bao nhiêu mê lầm, bao nhiêu khiếm khuyết, bao nhiêu tội lỗi. Chúng ta cảm thấy chúng ta như một hạt bụi nhỏ nhen đối với một trái núi ngất trời. Tự nhiên chúng ta phải sụp lạy để tôn kính, cái ǵ cao quí đang soi sáng cho chúng ta và nâng chân vị của chúng ta lên đến cực điểm.

Như thế lễ Phật không phải là mê tín, và cũng không phải là làm hèn hạ thân ḿnh phải cúi đầu rạp xuống đất. Trái lại, cúi sát đất là để ta bỏ cái tính ngă mạn, cái ḷng tự cao tự đại mê tới, ngu xuẩn của chúng ta. Mà chúng ta bỏ cái tính kiêu mạng, cái ngu tối, ấy là chúng ta đă biết nâng chúng ta dần dần lên những đức tính cao quí, sáng suốt và rộng lớn của chư Phật.

Nói tóm lại, chúng ta lễ Phật với 3 ư nghĩa, với 3 mục đích sau đây:

1-Ư chí bỏ tính ngă mạng, tưởng rằng thân ḿnh là cao là quí nên đă làm bao nhiêu điều tham lam, mê lầm, sai quấy.

2-Hai là với ư nguyện theo gương Đức Phật làm cho những đức tính ẩn nấp trong thân tâm ta được sáng suốt, nẩy nở như những đức tính cùng cực vô biên của Đức Phật.

3-Ba là quyết chí đem đời chúng ta qui hướng theo Phật, tức là qui hướng theo điều thiện, hy sinh cho chơn lư, chỉ làm những điều chơn chánh, vừa lợi ích cho ḿnh, cho người và cho các vật khác.

(Trích trang 78-79 Đường Vào Ánh Sáng Đạo Phật của Tịnh Mặc)

 

 

20. ẢNH HƯỞNG CỦA THƠ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG

 

Thuở nhỏ Nguyễn Hữu Chỉnh có làm bài thơ “Cây Pháo” nó đă ảnh hưởng  rất thực với đời sống của Chỉnh  ở tương lai.

“Xác không vốn những cậy tay người,

“Bao nă công tŕnh, tách cái thôi.

“Kêu lắm lại càng tan tác lắm,

“Chung qui cũng một tiếng mà thôi.”

Nguyễn Hữu Chỉnh theo Tây Sơn làm một thứ tướng quân mưu sĩ. Sẵn đó nhờ có công đuổi Trịnh Bồng, Chỉnh được vua Lê Chiêu Thống phong tước bằng Quận Công. Chỉnh thông mưu với Nguyễn Duệ hiện trấn tại Nghệ An tính mưu phản lại Tây Sơn, công việc không thành.

Đối lại, Nguyễn Huệ sai bọn Ngô Văn Sở đem quân ra Nghệ hợp cùng Vơ Văn Nhậm lo việc Bắc phạt (đánh miền Bắc). Chỉnh lại sai tướng chống lại, nhưng thua trận, rốt cuộc Chỉnh bị bắt. Nhâm bèn kể tội Chỉnh rồi sai xé xác làm mấy mảnh.

Đương thời thiên hạ truyền tụng câu chuyện sau đây: Vốn Chỉnh là một nhân vật túc trí đa mưu, song mạng Chỉnh không sáng, số Chỉnh không đỏ, và cái số mạng đen tới đó được thể hiện ra nơi bài thơ tứ tuyệt trên mà Chỉnh đă làm lúc c̣n niên thiếu.

Đồng thời lúc Tây Sơn ra Bắc trị tội Chỉnh, kẻ mà Bắc B́nh Dương Nguyễn Huệ “ngại” nhứt trong đời. Nhân gian lúc ấy có câu ca dao:

“Ai mang con sáo sang sông,

“Để cho con sáo sổ ḷng bay cao.

“Bay cao th́ mặc bay cao,

“Lưới trời lồng lộng thoát nào được đây.”

Nơi Sấm Trạng Tŕnh cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có tiên tri:

“Chim bằng cất cánh về đâu?

“Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công”.

Có ai tưởng, cậu Chỉnh làm bài thơ cây Pháo mà sau thân ḿnh phải tan tác như cây pháo, danh ḿnh chỉ nghe một tiếng “đùng” rồi không c̣n van vội âm thanh nào nữa. V́ danh vị ấy chỉ nhờ kẻ khác lập cho ḿnh chớ không tự tay ḿnh tạo ra nó th́ tức nhiên nó bị lấy lại khi người cho ấy đă hết thời.

Chúng tôi xin mạng phép luận Đạo nơi đây. Danh vị ở thế gian không được tồn tại như chức Tổn Thống, Thủ Tướng, Bộ Trưởng, Ngoại Trưởng v.v…nói rằng do dân dựng lên th́ một thời gian nó cũng bị nhân dân lôi xuống.

Nếu là tước nhỏ do người trên ban cho th́ một thời gian lâu hay mau, người trên đó sẽ lấy lại. Ban ra bởi người thế gian là kẻ phàm phu th́ giá trị nó vẫn nhơ bẩn thấp hèn, phàm phu.

Chỉ có danh vị của Thượng Đế ban cho th́ không ai ở thế gian có quyền lấy lại được mà nó vẫn tồn tại măi măi nơi cảnh Hằng Sống.

Nên chi Chí Tôn khuyên ta cố gắn chí tu hành lập công bồi đức. Hội Thánh là người thay mặt cho Chí Tôn tại thế nh́n nhận ta ở phẩm nào th́ về Thiêng Liêng cũng vẫn ở phẩm ấy, trừ phi chúng ta phạm lỗi, hoặc chê bổ mới có thể mất mà thôi.

Tin chắc như vầy, chúng ta hăy minh tiến trên đường lập vị, không khi nào xảy ra cảnh mai một như trường hợp của Nguyễn Hữu Chỉnh.

Mà nếu v́ đại nghiệp mà thiệt thân th́ sử Đạo sẽ lưu danh hậu thế mà cơi hư vô sẽ hưởng phần thưởng xứng đáng của Đấng cầm cân công b́nh là Đại Từ Phụ./.

Quang Minh 

 


21. NHẬP THẾ VÀ XUẤT THẾ

 

Người Đông Phương ngày xưa, nhân cái thuyết chu kỳ mà chia ra 2 hạng người: hạng nhập thế và hạng xuất thế. Hạng chấp nhận thuyết chu kỳ một cách tuyệt đối “Tri kỳ bất khả nhi bất di” th́ thích sống ẩn dật thi hành Đạo minh triết  bảo thân như Kinh Dịch đă dặn: “Thời Bỉ âm trưởng dương tiêu”, tức là lúc tiểu nhân thạnh, quân tử suy, người quân tử phải ở ẩn mới khỏi lụy (Thiên Địa bế, hiền nhân ẩn).

Một hạng nữa là hạng trí giả, nhưng dù không bát thuyết chu kỳ, miễn cưỡng tự nhũ “Tri kỹ bất khi nhi vi chi” thích dùng Đạo hữu vi can thiệp vào việc người để cải tạo lại xă hội như ư họ muốn. Họ là hạng người có nhiều cao vọng  mong cho “Thiên tùng nhơn nguyệt”, đổi loạn thành trị, đổi thời sắt thép thành thời kim ngân, kéo lại mặt trời không cho lặng…Họ tin vào sức người có thể chống lại sức Trời đổi thu đông thành mùa xuân vĩnh cửu bất biến. Họ là hạng người tự xem thay được quyền Tạo Hóa “thể thiên hành Đạo”.

Tiêu biểu hai hạng người nầy là câu chuyện sau đây trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Như phần đông chúng ta đều biết trong thời Tam Quốc có những người ẩn sĩ như Khổng Minh, Tư Mă Huy, Châu Thôi B́nh và các nhóm nhà chánh trị như Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền.

Lưu Bị được Từ Thứ giới  thiệu đi t́m Khổng Minh. Không gặp Khổng Minh Lưu Bị lại gặp Châu Thôi B́nh, bạn thiết của Khổng Minh. Châu Thôi B́nh nói: “Ông muốn hỏi tôi kẻ dẹp loạn à! Như thế kể ra ông có ḷng nhân rồi đó, thấy thiên hạ điêu linh mà chẳng nở ngồi bó tay. Nhưng từ xưa đến nay, trị và loạn có bao giờ dứt. Từ Vua Cao Tổ chém rắn đăi nghĩa giết bạo Tần đó là do loạn mà ra trị. Qua đến thời vua Ai Đế, B́nh Đế th́ trị được 200 năm, thiên hạ thái b́nh đă lâu nên mới sinh ra Vương Măng oán nghịch, đó là do trị mà ra loạn. Chừng đến Quan Vũ trung hưng, sửa cơ nghiệp lại, đó là do loạn mà ra trị. Đến nay trên 200 năm, dân yêu cũng đă lậu nên can qua dấy động bốn phương, lúc nầy là lúc trở nên loạn đó. Chưa có thể nào làm b́nh định được. Nay tướng quân lại muốn kiếm Khổng Minh để mà thay đổi âm dương tiêu tức, đổi loạn ra trị chấp vá đất trời, đổi ngôi trời đất tôi e chẳng phải dể đâu, v́ chưa đúng lúc. Như thế ông chỉ làm cái việc lao nhọc vô ích mà thôi. Ông há không nghe câu “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giă vong” hay sao? Thiên lư là thế ai dám cượng cầu?”

-Huyền Đức cải lại: “Lời Tiên sinh thật hay, nhưng tôi là ḍng giỏi nhà Hán lẽ phải khuôn pḥ, dám đâu buông cho số mạng”.

-Châu Công B́nh: “Thôi thôi, tôi là người ở chốn sơn dă, đủ đâu để biện luận với Tướng quân. Vậy ư ông đă hỏi nên lỡ đă có những lời không đẹp ư, xin chớ chấp!”, rồi bỏ ra đi.

Khổng Minh lúc nghe Từ Thứ giới thiệu cũng đă nối nóng, hét lên: “Bộ ông tưởng tôi là con vật hy sinh để mà cúng tế hay sao?”.

Khổng Minh, Như Thôi, Châu B́nh nhật xét về thời cuộc đâu có khác nhau: “Thiên địa bế hiền nhân ẩn”. Cái học của Khổng Minh về thuyết chu kỳ đă biết rơ thế nào là: “Thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành”. Vậy mà rốt cuộc, v́ cảm cái nghĩa làm cố mao lư bóp ḷng chấp nhận ra gánh vác công việc đội đá vá trời để rồi chung cuộc chết ṃn trong thất bại chua cay và tủi nhục.

Tiếng than cuối cùng của bậc anh tài quán thế: “Nhơn nguyệt như thử, thiên lư vị nhiên”. Đă làm cho hàng thức giả về sau bùi ngùi không biết chừng nào!

(Trích trang 113-114 Chu Dịch Huyền Giải của Nguyễn Duy Cần)

 

 

22. CÁCH NIỆM PHẬT

 

Niệm Phật có nhiều cách tùy từng lúc, tùy từng trường hợp. Sau đây là vài cách niệm Phật:

1).Tụng niệm:- Đứng trước bàn thờ Phật, thấp hương niệm lớn tiếng.

2).Mật niệm: -Niệm tiếng nhỏ, niệm thầm. Thí dụ như gặp chỗ không có bàn thờ Phật hoặc chỗ đông người, hoặc trước khi ngủ, hoặc lúc tỉnh giấc dậy, niệm nho nhỏ đủ để một ḿnh nghe.

3).Khẩn niệm: -Bất chợt gặp một tai nạn, đau khổ, niệm khẩn thiết Đức Phật, Đức Quan Thế Âm, Đức Dược Sư v.v…

4).Quán niệm: -Đứng trước tượng hoặc h́nh ảnh Đức Phật chiêm ngưỡng tướng tốt đẹp của Phật, rồi tưởng tượng Đức Phật ở trước mặt, suy nghĩ và nhớ lại rằng, Đức Phật có tướng tốt đẹp như thế là v́ Đức Phật có những đức hạnh từ bi, hỷ xă, thanh tịnh rộng lớn vô biên.

5).Chuyên niệm: -Đi đứng nằm ngồi, bất cứ làm việc ǵ hoặc việc ǵ cũng tưởng nhớ tới Phật, tưởng tượng như Phật và Bồ Tát luôn luôn ở gần bên để chỉ đường cho ta hành động và suy xét đúng với chân lư.

Niệm Phật một niệm tức là tiến gần đến Phật một bước. Niệm luôn như thế măi chúng ta sẽ thấy chúng ta gần Phật và Phật đến với chúng ta. Rồi lâu dần, chúng ta sẽ thấy Phật ở ngay trong ḷng ta, sáng suốt trong sạch và yên vui vô cùng.

Đă có ư chí muốn niệm Phật, người Phật Tử phải tự ḿnh thực hiện 3 điều cần yếu:

Điều thứ nhứt là lập đức tin chắc chắn:

a-.Tin chư Phật và Bồ Tát là những vị giác ngộ đầy ḷng từ bi cứu khổ và soi sáng cho chúng sanh.

b-.Tin giáo pháp của Đức Phật chắc chắn đưa chúng ta đến chỗ giải thoát và hạnh phúc chơn thật.

c-.Tin ḿnh có đủ khả năng tu tập thành Phật, thành Bồ Tát, hoặc giảng sinh sáng Cực Lạc Thế Giới.

Điều thứ hai là tập nguyện vững vàng. Người Phật tử phải quyết chí tu trong Phật Pháp, nguyện ăn ở hành động theo giáo pháp của Đức Phật để sẽ được giảng sinh sen tịnh độ hoặc sẽ thành Phật, thành Bồ Tát.

Khi đă lập chí vững vàng th́ không bao giờ có thể thoát lui nữa, dẫu gặp những cản trở khó khăn đến đâu cũng vẫn tiến, không hề chán nản.

Điều thứ ba là Lập Hạnh. Lập hạnh tức là đem thực hành chí nguyện nói trên, đem thực nghiệm những giáo pháp của Đức Phật dạy trong đó có phương pháp niệm Phật, niệm Bồ Tát.

Chúng ta phải thực hành chí nguyện một cách siêng năng, kiên quyết, phải niệm Phật đến mức thuần phục, nghĩa là tâm trí không tưởng nghĩ đến việc khác, chỉ tưởng nghĩ đến Phật và Bồ Tát mà thôi. Niệm thuần phục như thế trong kinh gọi là niệm “Bất tâm bất loạn”.

V́ vậy người Phật Tử khi sắp lâm chung, phải làm cho tâm thần yên tỉnh, gạt bỏ hết trần duyên thế sự, đừng luyến tiếc cơ nghiệp, của cải, gia đ́nh, quyền thế …Thường chỉ v́ ḷng luyến tiếc, tham tiếc ấy mà người ta không thể niệm Phật được nhất tâm bất loạn. Chẳng khác ǵ trong truyện ngụ ngôn: Con c̣ muốn bay mà con Ngao kẹp miệng kéo xuống. Có vẫy cánh thiệt mạng mà không thể bay bổng lên cao được. Càng vẫy nhiều càng thêm đau khổ.

V́ lẽ ấy khi ông bà cha mẹ sấp mất, các con cháu hiếu thảo, hiểu thâm sâu Đạo Phật phải b́nh tâm, sửa soạn  một khung cảnh yên tịnh cho ông bà, cha mẹ dễ dàng việc định tâm niệm Phật.

Ta chẳng nên v́ ḷng thương yêu sai lầm mà khóc ầm ĩ, làm cho ông bà, cha mẹ rối loạn tâm thần, luyến tiếc thế sự  không thề yên tâm văng sanh sang cơi Cực Lạc mà cứ lẫn quẩn trong ṿng luân hồi của thế gian nầy măi.

Lúc ấy con cháu nên b́nh tỉnh tiếp sức với ông bà, cha mẹ mà khẩn thiết niệm Phật  A Di Đà từ bi thương xót, tiếp dẫn người thân yêu sang quốc độ của Ngài./.

(Trích trang 73-76 Đường Vào Ánh Sáng Đạo Phật của Tịnh Mặc)  

 

 

23. THỂ CHẤT VÀ TÁNH ĐỨC CÁC HẠNG KHÁCH TRẦN

*Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp tại Đền Thánh đêm rằm tháng giêng năm Mậu Tư (24-2-1948)

 

 Hôm nay, Bần Đạo giảng về các hạng khách trần thể chất và tánh đức của họ, cốt yếu để d́u dắt cả thảy quan sát toàn thể Đạo.

Ấy là phương hay để chúng ta có thể quan sát được mỗi hạng khách trần, trọng hệ nhứt là Thánh Thể của Đức Chí Tôn tức nhiên là Hội Thánh. Vả chăng, chúng sanh nhứt là nhơn loại mỗi mỗi đều có đẳng cấp Thiêng Liêng tùy theo sự tiến hóa của chơn linh của họ, dầu tánh chất hay h́nh thể cũng tùy theo tiến hóa của chơn linh mà có riêng đặc tánh, riêng về h́nh thể của họ, chúng ta ngó thấy phương pháp của cổ nhân xem tướng người, đoán tánh chất, số mạng, cũng là nương theo đó.

Các hạng khách trần, Bần Đạo duy nói về đẳng cấp và tấn hóa, nếu dám quả quyết, nói hẳn rằng: Mặt địa cầu nầy có 2.700 triệu người mà buổi nầy khuyết điểm bao nhiêu không biết, số ấy là trong thời thái b́nh. Trong 2.700 triệu nhơn sanh tức có 2.700 triệu tánh đức, chúng ta không thể ǵ đoán xét được, nhưng chúng ta có thể chia khách trần ra làm nhiều hạng:

-Một hạng trước là hạng trái chủ, nghĩa là hạng thiếu nợ, hạng thiếu nợ là ǵ? Là những người gây ra nhơn quả đă nhiều. Luật nhơn quả để họ vô hàng cùng khổ của các chơn linh.

-Hạng thứ nh́ là hạng tác trái, nghĩa là người đă cho vay.

-Hạng thứ ba là hạng du học, là các chơn linh đến mặt địa cầu t́m phương pháp đặng học hỏi, v́ họ thiếu thốn, đến đặng thâu đoạt cái phần thiếu kia cho hay biết nhiều thêm đặng tấn hóa về chơn linh.

-Hạng thứ tư là hạng ta bà du hí, du thực đến chơi rồi về, mà cái hạng ấy ít lắm, nếu có đi nữa th́ phần nhiều chết yểu hết.

-C̣n một hạng nữa là hạng Thiên mạng, hạng Thiên mạng là hạng chơn linh cao cấp tức nhiên đă đạt phẩm vị cao trọng, vâng mạng đến thi hành lịnh của Ngọc Hư Cung hay của Lôi Âm Tự.

Bây giờ Bần Đạo mới chỉ rơ hạng trái chủ là hạng thiếu nợ. Bần Đạo quả quyết rằng, nếu ngó thấy họ ta đoán được ngay. Cái thói nghèo hèn cùng khổ dầu đến đâu cũng ra nghèo hèn, rán làm sang bao nhiêu cũng lộ cái nghèo hèn ấy, v́ tánh đức họ hiện ra h́nh trạng xấu xa cho đến cách ăn mặc cũng vậy; họ sợ thiếu nợ nhưng hại thay họ đă lo đêm lo ngày, chạy tảo chạy tần, lo sống đủ mọi phương diện, nhưng chẳng phút nào họ được an hưởng tinh thần và tưởng tượng rằng ḿnh có hạnh phúc. Có khi người trái chủ đó ấy đầu kiếp một lượt th́ họ có phương thế làm đặng trả, là may duyên cho họ lắm; nếu rủi người chủ trái không đến th́ họ phải đầu kiếp măi t́m cho đặng người chủ nợ ấy, làm tôi mọi cho họ đặng trả nợ, ấy là một phương pháp mà các chơn linh hăi hùng sợ sệt hơn hết.

 Tánh đức của họ là thường lo cho ḿnh được lợi mà thôi, nhưng không biết chừng nào đủ, đến đỗi trong ư muốn làm có của cho lung, cho nhiều để dành ngừa đó đặng có phương thế trả nợ, sợ một điều là buổi muốn trả mà không trả nổi. Tâm linh họ giục thúc như vậy. Họ hà tiện lắm, nhiều khi gặp được t́nh liên hữu với chơn linh nào mà họ gọi là chủ trái đến, lạ lùng thay, đối với cả toàn thiên hạ không thương yêu ai, mà nếu họ gặp người chủ trái ấy giục họ thương yêu, kính mến, chiều chuộng, bao nhiêu của cũng đem dưng hết cho người ấy. Có nhiều khi không có của họ đem cả thân sanh họ đặng đền trả nữa. Hạng thiếu nợ có tánh đức đặc biệt nhỏ nhen, chắt mót, không tưởng đến ai khác hơn ḿnh, duy người chủ trái đến th́ toàn cả cơ nghiệp đều để lại cho người đó, dầu muốn dầu không, hay là không hay biết cũng do tay người đó phá hoại hết sự nghiệp. Họ phát hiện ra có tánh chất buồn bực quạu quọ, không yên tâm, cứ lo lắng bậy bạ nhứt là h́nh ảnh của họ cùng khổ, bịnh hoạn luôn và thường chịu phận đê hèn. Đó là hạng có quả kiếp.

C̣n hạng chủ nợ có tánh cách đặc biệt là không biết lo ǵ hết, lơ lơ lửng lửng, ngày chí tối không biết đợi ai trả nợ, mà chắc ḿnh có món nợ chúng sẽ trả, không lo ǵ cho họ cả, thả ĺnh b́nh du hí du thực, không biết ǵ ráo cứ ngơ ngơ ngẫn  ngẫn, không động tới ai, mà cũng không làm nên ǵ cho ai; mà khi nào chúng ta thuyết đạo với họ th́ họ biết xu hướng, chịu nghe tưởng cái huyền linh nầy sẽ giúp ḿnh đắc lợi ǵ. Họ đi chùa, đi miễu cốt cầu danh, nghe nơi nào linh hiển, đem nhang đèn tới cầu tài cầu lợi cho ḿnh. H́nh ảnh của họ, gương mặt bơ bơ mà lúc nào cũng tự tôn tự đại, ḿnh là chủ nợ dầu nợ nhiều hay nợ ít cũng là nhà giàu rồi, và đặc sắc điều nầy là không sợ hao tài. Tánh chất sợ tội, sợ quả báo mà không biết trọng ḿnh, thoạt nghe đó, tin tưởng đó, nhưng không phải tin tưởng đạo đức mà chỉ tin nơi huyền linh đặng cầu khẩn mà thôi lại có tánh chất ngớ ngẩn, trong ḿnh không có tiền th́ thôi, nếu có tiền mà ai nói vừa bụng th́ lại móc đưa ra hết, có khi đưa rồi lại mắng người ta, đưa chẳng phải v́ thiệt tâm mà đưa. Tánh chất của người chủ trái là vậy đó.

Bây giờ nói đến hạng du học, hạng du học b́nh thường cái ǵ cũng muốn biết, ham đọc sách vở kinh luật nhưng chỉ đọc qua loa rồi bỏ, ưa kiếm hiểu, ưa tọc mạch hơn ai hết, cái ǵ cũng muốn hiểu, cái ǵ cũng muốn biết, có khi nào họ mơ màng th́ họ cũng muốn bỏ. Hạng du học th́ nhiều mà lạ lùng thay, phần nhiều không tín ngưỡng, học cao đến đâu nếu đem đạo đức tinh thần mà nói, họ không biết ǵ hết, cứ cái chơn lư họ t́m măi mà thôi, chính ḿnh họ, họ cũng chẳng biết họ là ai, nhưng cũng là hạng tự tôn tự đại lắm, họ quyết đoán trong óc họ rằng không ai hơn họ được, cho là ḿnh khôn hơn thiên hạ nên làm cao cách hơn ai. Gương mặt lúc nào đi cũng ngước lên người ta gọi là mấy cậu "trịch bồ lương" mà thứ đó lại nhiều hơn hết.

Hạng ta bà, nếu có th́ chúng ta thấy liền, không động tới ai, không nói tới ai, cái sống, cái chết của họ cũng không cần biết, họ thường ở theo các chùa hoặc lên núi, một cơi một ḿnh, chịu thanh tịnh mà thôi, c̣n đi chơi t́m lên non núi. Ta thấy trong các chùa chiền, họ bơ vơ dộng chuông, gơ mơ rồi nam mô lên, nam mô xuống. Hạng ta bà du hí nầy sống trên cơi trần nếu không vừa bụng th́ thối lui về tức là chết.

Bây giờ các bạn muốn nghe hơn hết là hạng Thiên mạng. Hạng Thiên mạng, là hạng người không biết tầm lấy cho ḿnh, chỉ lấy của ḿnh lo cho thiên hạ, không biết tôn trọng h́nh hài của ḿnh, chỉ tôn trọng thiên hạ, bởi v́ hạng Thiên mạng cốt yếu t́m cả năng lực chỉ đạo cho thiên hạ làm môi giới tinh thần, ấy là một phương pháp giải cứu cho đời và bảo trọng nuôi nấng thiên hạ đó. Tánh chất như Lục Tổ bất động, bất trần, bất cấu, bất nhiễm. Có nhiều khi họ đến mà chưa có phận sự th́ họ ngơ ngơ ngẫn ngẫn như khùng như điên. Ấy là khi chưa đắc thế, thiên hạ kêu là ba trợn ba nháng đó; một khi mà họ đắc thế rồi, quyết cứu độ thiên hạ thay thế cho Thiêng Liêng, vâng mạng lịnh Đức Chí Tôn đến làm bạn với người đặng truyền Đạo, thâu con cái của Chí Tôn về một mối. Phần đó ta có thể xem xét được trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn.

Mấy em nếu có gặp người khùng khùng điên điên phải quyết đoán là họ c̣n đợi thời và họ chưa tới thời đó mà thôi.

 

 

 24. THIÊN CUNG CỦA MỖI CON CÁI ĐỨC CHÍ TÔN

 *Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp tại Đền Thánh, thời Tư đêm 19 tháng 2 năm Mậu Tư (dl. 29-03-1948)

 

 Ngày hôm nay, Bần Đạo giảng về Thiên Cung của mỗi con cái của Đức Chí Tôn. Thiên Cung ấy, Chí Tôn có nói rằng: "Gia tài của các con, Thầy đă sắm sẵn". Gia tài ấy tức là Thiên Cung vậy.

Bần Đạo nhớ lại buổi nọ, Đức Chí Tôn biểu Chư Đại Thiên Phong, nhứt là những môn đệ đầu tiên của Ngài bên Cửu Trùng Đài, nên ta kể những vị ấy như là Thánh Tông Đồ của Đạo Cao Đài vậy: như là Trung, Trang, Tương, Thơ, Nương, Ca đó là những vị đến lúc ban sơ khởi thể của nền Đạo. Chí Tôn biểu: Các con phải lập họ hàng của ḿnh, tức là biểu lập Thiên Cung tại thế. Thảm thay! Hồng ân ấy, Chí Tôn liệng trong tay mà không biết nắm, tức nhiên họ làm mất đạo nghiệp của họ vậy.

Thiên Cung của chúng ta mà Đại Từ Phụ gọi gia tài dành để cho chúng ta, trừ ra đứa nào chê bỏ, Thầy mới đem cho đứa khác, Thiên Cung ấy là ǵ? Là các nguyên căn của Đức Chí Tôn, là cơ tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ. Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nói rằng: Đức Chí Tôn buổi nọ có Thiên Cung riêng, Ngài dứt cả toàn Thiên Cung đó đến một chỗ chẳng có vật chi, rồi Ngài lấy dương quang đặng Ngài biến tướng ra và ban cho mỗi con vật một điểm linh tính, tiếng Phạn gọi là Monade, c̣n ta gọi là nhứt điểm linh, điểm linh ấy tấn hóa vô biên vô giới, đi từ vật chất đến Phật vị, th́ trong con người đi biết bao nhiêu kiếp sống liên quan mật thiết cùng nhau, do mỗi kiếp sống để tạo thành một gia tộc. Chúng ta sanh ở thế kỷ nầy có ông, bà, cha, mẹ, anh, em, bạn tác, vợ chồng, con cái, cả các cơ nghiệp hữu h́nh của chúng ta tạo tại thế nầy, sẽ trở nên cơ nghiệp nơi cảnh vô vi kia, đặng làm Thiên Cung của chúng ta.

 Vậy Thiên Cung là ǵ? Nếu chúng ta gọi là gia tộc vô h́nh th́ phải gọi là xă hội, do đại nghiệp căn bản của chúng ta lập thành. Nếu chúng ta tưởng tượng trở lộn lại do lời của Đức Chưởng Đạo nói, th́ Đức Chí Tôn cũng vô một khuôn luật ấy, nhưng Ngài đạt Pháp, nắm cả bí mật vô biên đặng tạo càn khôn vũ trụ riêng, chẳng khác như ta đă thấy tấn tuồng hữu vi nơi mặt thế này, cũng làm con, làm cha, mà ta thấy cha ta tạo nghiệp thế nào, th́ ta cũng bắt chước như thế ấy. H́nh trạng Đức Chí Tôn đă làm th́ ta sẽ làm theo, hay là ta đă làm rồi nơi cảnh vô h́nh, Đức Chí Tôn đă dành để cho ta mà ta chưa hề biết như vậy, ta chỉ biết giờ nầy mà thôi, đến khi bỏ xác thú rồi, trở lại cảnh vô h́nh, mới biết ta có một đại nghiệp.

Bởi vậy cho nên buổi sanh tiền trong kiếp sống của ta đây: Ăn để sống tranh giành đặng nuôi con thú, tức là thú h́nh của ta mà quên lảng cả đại nghiệp. Không có thảm trạng nào hơn là ta quên ḿnh hiểm nguy, nên Chí Tôn rất thảm khổ thấy ta ch́m đắm trong trường đời. Ta thử tưởng tượng như ta làm cha mẹ đương giữ đại nghiệp cho con, phần hương hỏa đó rất vĩ đại, trong thời buổi c̣n niên thiếu cho nó đi ra ngoại quốc du học rồi lúc ở ngoại quốc nó không đủ phương sanh sống, cái gia nghiệp ấy nó chưa được hưởng mà không ai giúp đỡ tự nó t́m kế làm thuê làm mướn với tài hay mà sống.

Nếu nó sống được với nghề hay nghiệp giỏi, với cái thiệt tài của nó th́ không nói ǵ, ngặt một nỗi nó không sống được theo phương pháp quân tử, nó phải hạ ḿnh xuống đi ăn trộm ăn cướp bạo tàn, điếm đàng, lừa dối, làm đủ tội lỗi với phương sống đê hèn đó của đứa tiểu nhơn, th́ ta thử hỏi ông cha hay bà mẹ cầm cái đại nghiệp ấy, sẽ đau đớn thương tâm như thế nào chớ?

Thật ra Đức Chí Tôn cũng dường đó, một đám nhơn sanh như chúng ta đây, Ông đă nói: Của mỗi đứa con Ông c̣n giữ một đại nghiệp, đại nghiệp ấy không phải của Ông cho, mà là của tự ḿnh chúng ta tạo dựng, nhưng chúng ta lại nỡ quên phứt nó đi, để cho thân thể ra hèn tiện, khổ năo, truân chuyên, mà cái đại nghiệp kia ta lại không thể bảo trọng được. Nếu đương đầu với mạng sống mà ta không tự tỉnh, kiếm phương pháp sống cho chí thành, rủi t́m cái sống theo quỉ pháp, thử hỏi Đức Chí Tôn sẽ đau đớn như thế nào nữa? Thầy đă nói: "Gia tài của các con Thầy không bao giờ lấy cho kẻ khác, kỳ dư kẻ nào chê bỏ". Nếu chúng ta thất nghiệp cả của cải phụ ấm do nơi ta đào tạo ấy mà ta trở bước hưởng lại không được là tại nơi ta từ chối, tự ta quên ḿnh mà từ bỏ cái đại nghiệp ấy. Ta sống một trăm tuổi có nghĩa ǵ đâu? Ví như mỗi phen có một đám xác đi qua, th́ dường như người quá cố nhắc nhở ta một điều ǵ? Người chết ấy nói với ta rằng: "Tôi đi đây là đến cảnh thiệt, c̣n quí ngài ở lại đó là cảnh giả đa nghe!". Phải sáng suốt đặng phân thiệt giả, mới bền giữ cơ nghiệp thiêng liêng, chớ đời sống phàm gian là một khổ hải đa nghe!

Nhơn loại bao giờ mới tỉnh cơn mơ mộng tàn ác mà t́m cho được cái sống Thánh đức cao siêu? V́ cớ cho nên mỗi đứa chúng ta, dầu lao khổ, truân chuyên, dầu nhiều phen bị khảo đảo khổ hạnh, mà dường như tinh thần ta thấy khoái lạc hơn nữa, là tại sao vậy? Tại ta biết rằng sự khảo đảo h́nh xác nầy không phương ǵ mà động chạm đến phạm vi đại nghiệp của ta kia đặng, bất quá là bóng dáng mà thôi, mà hễ không động đến được th́ ta biết rằng ta có thể bảo thủ được, không sợ mất của thiêng liêng ta đă sẵn có.

Nếu cả mấy em biết nghe theo chơn lư vô cùng vô tận của Thiêng Liêng Hằng Sống ấy, bảo trọng được cái cảnh thiệt tướng ấy th́ hay hơn là trọng cái sống của thế t́nh mơ mộng. Mấy em chỉ nên sợ một người mà thôi, ngoài ra dưới thế gian nầy không c̣n sợ ai hết. Kẻ nào có quyền thế th́ chỉ có giết chết thân ta là hết chuyện. C̣n các em, các con, phải sợ người mà chẳng những có thể giết thi hài của mấy em, mấy con, mà c̣n tận đọa tam đồ chi khổ, lại c̣n truất cả đại nghiệp của mấy em và mấy con nữa. Người ấy là Đại Từ Phụ vậy./.

 

  Viết xong ngày 17-09-Giáp Tư (1984)

QUANG MINH

(Xin xem tiếp Quyển XXII)

MỤC LỤC:

1. SỰ BIẾN CHUYỂN TUẦN HOÀN CỦA VẠN VẬT

2. LỄ NHẠC-5 CÂY HƯƠNG

3. BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG GS ĐẠI BIỂU TRẦN QUANG VINH

4. KỶ TÍN CỨU CHÚA

5. SỰ OAI NGHIÊM CỦA ĐỨC LƯ

6. BÀI GIẢNG CHỮ “H̉A” TRONG LƯ NHẠC CỦA ĐỨC CHÍ TÔN

7. SUỐI VÀNG NÚI ĐIỆN BÀ & SUỐI NGẦM LỤC LONG PH̉ ẤN NẰM DƯỚI L̉NG ĐẤT

8. CHÍ TÔN XUỐNG TẠI THẾ

9. TÍCH: LƯ TRƯỜNG CANH & LƯ NGƯ TINH (Con cá Ông)

10. NHỮNG HUYỀN THOẠI VÙNG NÚI BÀ, NÚI CẬU TÂY NINH

11. DỌN ĐẤT LƯƠNG TÂM

12. TRUYỀN ĐẠO PHẢI CÓ ĐỨC TIN

13. PHẬT THÂN LUẬN

14. LUẬN NGỮ

15.THÁNH GIÁO TIẾT LỘ VIỆC XỬ CÁC ÔNG TƯƠNG, TRANG, THƠ

 16. CÁC BÀI THI DẠY ĐẠO ĐÁNG NGHI NHỚ

17. ĐẠO HỢP QUẦN CỦA NHÂN LOẠI

18. NHO GIÁO SUY LẠC

19. LẠY PHẬT CÁCH NÀO ?

20. ẢNH HƯỞNG CỦA THƠ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG

21. NHẬP THẾ VÀ XUẤT THẾ

22. CÁCH NIỆM PHẬT

23. THỂ CHẤT VÀ TÁNH ĐỨC CÁC HẠNG KHÁCH TRẦN

           24. THIÊN CUNG CỦA MỖI CON CÁI ĐỨC CHÍ TÔN

Top of Page

      HOME