II- TRIẾT LÝ ĐẠO GIÁO

LÃO TỬ 老子 (Tiên Đạo)

E:  Lao Tze

F:  Lao Tseu

 

           

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đức Hộ-Pháp thuyết chữ TU của Đạo giáo

Tiểu sử Đức Lão Quân

 

Đức Lý Lão-Đam (Lão-Tử hay là Thái Thượng Lão Quân) vì lòng nhơn phổ hóa thế gian, tìm đặng chơn lý tinh thần vi chủ, trừ khử phương vị vật lụy hình, định tự chủ kỳ tâm là diệu pháp, lại lấy phước an nhàn làm cơ thoát tục. Ây đời là cảnh sầu thảm khó khăn mà Ngài đến bày phép chơi hay cho giải trí, chẳng khác nào Ngài thấy người đương ngậm đắng trêu cay, Ngài cho nếm mùi ngon vị ngọt. Ngài nhờ quyền hành vật dục trong trường công danh, phú quí của Lục quốc phân tranh, tạo ác đã vô ngằn, nó thức minh “bổn thiện” của Ngài, nên hoài ái dân sinh, mới truyền phương thoát khổ”

   (ĐHP: trích Khuê bài Thiêng liêng vị)

            Theo Phật học: Lão Tử (C: lǎozǐ; tk. 6 (?) trước Công nguyên, cũng được gọi là Lão Ðam. Một trong hai vị hiền triết nổi danh nhất của Ðạo giáo song song với Trang Tử. Sử ký viết rằng: Lão Tử người nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc Nhân (Hồ Nam bây giờ). Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự Ðam. Trong tất cả những tác phẩm triết học người ta đều gọi ông là Lão-Tử hoặc Lão-Ðam. Theo nguồn tài liệu trên thì Lão Ðam giữ kho sách của nhà Châu và trong thời gian này ông có dịp gặp Khổng Tử. Cuộc gặp gỡ này thường được nhắc lại nhưng không thể xem là một sự kiện lịch sử. Thấy nước Châu suy, ông bỏ ra đi. Ðến cửa quan phía Tây, vị quan coi cửa là Doãn Hỉ biết ông sắp ẩn tích bèn cầu xin chỉ dạy. Thế là ông viết một quyển sách với khoảng 5.000 chữ nói về Ðạo và Đức, nay được gọi là ÐẠO ĐỨC KINH và sau đó ông đi mất tích. Theo truyền thuyết thì Lão Tử là tác giả của Ðạo Đức Kinh, nhưng các nhà nghiên cứu sau này đều nhất trí rằng, quyển sách này không thể ra đời trước thế kỷ thứ 4 hay 3 trước Công nguyên và vì vậy không phải là tác phẩm từ tay Lão Tử. Theo Tư Mã Thiên, tác giả của Sử ký, thì Lão Tử trau giồi đạo đức; học thuyết của ông cốt ở chỗ dấu mình, ẩn danh. Quan niệm này được nêu rõ trong cuộc gặp gỡ giữa ông và  Khổng Tử (bản dịch của Nguyễn Duy Cần)

 “Khổng Tử đến Châu, hỏi Lễ. Lão Tử nói: Lời nói

của ông là lời nói của  những kẻ  xương  tàn cốt rụi.  Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vòn nón lá mà đi chân. Ta nghe rằng, kẻ buôn giỏi khéo giữ của quí như không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo dường như kẻ ngu. Họ khác với cái kiêu khí và đa dục của ông, sắc thái và dâm chi ấy không ích gì cho thân ông cả. Tôi sở dĩ bảo cho ông biết có bấy nhiêu thôi.

Khổng Tử về bảo đệ tử: Chim, ta biết nó bay thế nào; cá, ta biết nó lội làm sao; thú ta biết nó chạy cách nào. Thú chạy thì ta có lưới bắt nó; cá lội thì ta có dây câu ví nó; chim bay thì ta có bẫy gài nó. Chí như con Rồng, thì ta không biết nó theo mây theo gió mà bay lượn như thế nào. Nay ta thấy Lão Tử như con Rồng!.

 “Các Lão gia sau này đã tôn thờ Lão Tử, gọi ông là Thái Thượng Lão Quân, Ðạo Ðức Thiên Tôn. Ông được xem là người sáng lập Ðạo giáo. Nhiều huyền thoại về ông cũng được lưu lại. Việc mất tích của ông được các Lão gia giảng rằng, ông sang Ấn Ðộ gặp Đức Phật và thâu nhận Phật làm đệ tử. Thuyết này được các Lão gia nêu ra trong những cuộc tranh luận với các vị Tăng nhà Phật sau này.

Ðạo Đức Kinh bao gồm 81 chương ngắn, trong đó 37 chương đầu nói về “ÐẠO”, 44 chương sau nói về “ÐỨC”. Nội dung của quyển sách này cũng không nhất quán bởi vì nó cũng chứa đựng những quan niệm triết lý khác song song với triết lý Ðạo giáo. Quan niệm trung tâm của quyển sách này – ngoài ĐẠO và ĐỨC nêu trên – là vô vi, tức là làm mà không có tác ý “Bất hành nhi hành”.Tư tưởng của Lão Tử cũng được các vị Cao Tăng Trung Quốc hấp thụ và giảng trình theo cách nhìn của nhà Phật.

            Truyền thuyết: mãi đến đời nhà Thương bên Tàu, Đức Lý Lão-Tử, Ngài mới đầu thai xuống trần. Việc đầu thai của Ngài cũng rất kỳ diệu: Ðời vua Bàn Canh nhà Thương (1401 trước Tây lịch), có một nàng con gái gọi là Ngọc Nữ 玉 女 mới vừa 8 tuổi (theo sách Ðông Du Bát Tiên), con của một gia đình đạo đức, ra chơi sau vườn, thấy cây Lý có một trái to chín đỏ, cô liền hái ăn. Ăn xong, nàng cảm thấy mỏi mệt và có thai. Người cha thấy sự lạ, bèn toán quẻ Âm Dương, biết là có một vị Ðại Tiên giáng sanh, nên không phiền hà gì cả và nuôi con gái rất kỹ. Nhưng nàng chịu mang thai như vậy cho đến già. Ðến năm nàng được 80 tuổi, trở thành bà già, tức là nàng đã mang thai ngót 72 năm, lúc đó là đời vua Võ Ðinh (1324 trước Tây lịch) nhà Thương, nàng Ngọc Nữ thấy trăng tỏ, bèn đi dạo sau vườn. Khi đi ngang qua cây Lý khi xưa thì đứa con từ trong bụng theo nách mẹ ra ngoài. Bà Ngọc Nữ kinh hãi, coi thấy nách mình liền lại như thường, không đau đớn chi cả. Ðứa con ra đời, nhưng đã phải ở trong bụng mẹ 72 năm, nên đầu tóc bạc trắng, do đó mới gọi là Lão Tử (con già). Lúc đó là giờ Sửu, ngày Rằm tháng 2 năm Canh Thìn, đời vua Võ Ðinh. Lão Tử chỉ cây Lý bảo rằng đó là họ của Ngài, lại xưng hiệu là Lão Ðam, tự là Bá Ðương, lại mỗi tai có 3 lỗ ở bên trong nên còn gọi là Lý Nhĩ. Cội Lý, nơi giáng sanh của Lão Tử, ở tại xóm Khúc Nhơn, làng Lại, huyện Khổ, nước Sở. Ngài có miệng rộng, răng thưa, thiên đình cao, râu tốt, mắt vắn, tai dài, sóng mũi cao như chẻ hai, trên trán có chỉ như 3 chữ Tam Thiên.

            Thánh ngôn dạy “Người gọi Lão Tử là Tiên Tổ giáo, thì Lão Tử cũng sanh ra đời nhà Châu”.

Lão Tử tức là Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ giáng trần thời nhà Châu bên Tàu, gọi là Lão Tử. Ðức Khổng Tử giáng sanh năm 551  trước Chúa  giáng  sinh,  có  đến  hỏi

Ðức Lão Tử về Lễ.

Đức Hộ-Pháp nói: “Đức Lão-Tử thấy loài người không biết điểm tinh thần mình, không biết chơn-tướng tinh-thần mình để nơi nào định vị cho có giá trị. Ngài sanh tại Trung-hoa, tâm-lý nhơn-sanh không biết phẩm-giá tinh-thần của con người là gì, đến đỗi tâm lý loài người buổi ấy sa-đoạ, không biết phẩm-vị mình nơi nào, không biết tôn-trọng phẩm-vị đó nên đọa xuống thú-chất vật loại, nếu không vì Bác-ái, Từ-bi thức tỉnh nhơn-loại, cho biết phẩm-vị tối cao của họ, đừng làm con vật nữa. Nếu  không phải  vì  tâm  Bác-ái,  Công-bình  thì không hề Ngài lập Giáo dường ấy. Ngày nay không phải nơi dân Á Đông này thôi, mà cả Âu-châu cũng vậy, biết rõ triết-lý đạo đức cao siêu của Ngài,  người  ta  theo chẳng biết bao nhiêu. Các Ngài xét định về mặt tinh-thần, lấy cả tinh thần siêu thoát của các Ngài coi có phải tinh-thần luật pháp của Tiên giáo chỉ do Bác ái, Công bình mà lập đặng chăng ? Phương pháp tạo ra có hình tướng ấy cốt yếu nâng-đỡ tinh thần nhơn-loại đến mục-đích cao-thượng là Bác-ái, Công bình”

LỄ VÍA ĐỨC THÁI THƯỢNG

KỶ NIỆM CỦA ĐẠO GIÁO - CHỮ TU.

Đền Thánh đêm 14-02-Nhâm Thìn (1952)

“Hôm nay là ngày lễ của Đức Thái Thượng, tức là ngày kỷ niệm của Đạo Giáo. Bần Đạo nhơn dịp ngày Vía của Ngài, Bần Đạo tiếp giảng chữ Tu mà ông Truyền Trạng Trấn đã giảng bữa hôm trước. Đề mục còn sơ sót song đến cái đích đề mục ấy nói lại trúng, khi kết luận ông đã nói rằng: Duy có Tu mới có thể dìu dắt nhơn loại đi đến mục đích Đại-đồng Thế-giới, đem hòa bình toàn thiên hạ, đây là trúng. Nói về chữ Tu thuyết nó vẫn còn sơ sót rất nhiều.

Chữ Tu chúng ta đã ngó thấy thiên hạ phân ra hai:

- Chủ hướng về siêu hình,

- Chủ hướng về siêu vật.

Tức nhiên cái thuyết Duy Vật và Duy Tâm nó thường phản kháng cùng nhau, buổi này do nơi đâu mà sản xuất cái thuyết Cộng Sản và sản xuất cái thuyết Xã Hội của toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này.

Ấy vậy, Bần-Đạo thừa dịp ấy giải rõ chữ Tu và tầm chủ hướng của nhơn loại, phải để trong mục đích nào, ấy là một cái đề chúng ta có thể nói từ Thượng-cổ đến giờ, tiền nhân, Chư Hiền, Chư Thánh, Chư Tiên, Chư Phật đã lập giáo và đã viết ra không biết bao nhiêu điển luật kinh sách, mà nói không hết, giải không cùng, huống chi đứng trên giảng đài này, lấy đề mục ấy mà nói không bao giờ đủ đặng. Bần-Đạo xin lấy cái tinh túy của nó giải rõ ra mà thôi. Duy Tâm thế nào, Duy Vật thế nào? Tầm nguyên lý coi nó do ở đâu xuất hiện hai lý thuyết ấy. Theo Kinh nhà Phật ta đã nghe rõ rằng loài người có nơi mặt địa-cầu này một trăm tám mươi ba triệu năm. Duy luận định nguyên-lý của nó, có trong năm chục triệu năm mà thôi, bổn căn của loài người nó có tánh vật của nó sanh trong vạn vật, cũng như con vật kia vậy, duy trong tánh vật của nó có Đức Chí-Tôn đến định Thiên-mạng của nó, nó có hai phần, hai đặc tánh. Tánh thú và tánh Trời.

Bây giờ luận về tánh thú của nó thì nó cũng như con thú kia vậy. Tánh của nó buộc nó đói phải cần kiếm ăn, lạnh rách phải kiếm mặc, nó khổ nó phải kiếm phương làm cho nó hạnh-phúc, nó khó khăn nó phải làm cho nó sung sướng cái phàm nghiệp của nó, thích cái gì phải kiếm phương thế nào làm cho nó thỏa thích, thỏa thích ấy là cái tánh thú dục nó vậy. Huống chi nó sanh nơi thế gian này chịu trong luật định của nó là tứ khổ, thì bây giờ nó phải tìm phương kiếm thế thoát khổ cho đặng; thoát khổ và tìm hạnh phúc với hình thể thì chẳng hề buổi nào tìm đặng, chẳng khi nào thấy hưởng được hạnh phúc do nơi hình thể mà nó chịu khổ, tức nhiên tánh thú của nó cốt yếu đến đặng chịu khổ, mà nó muốn thoát khổ, ấy là nó nghịch lại tánh đức luật định thiêng liêng của nó.

Ấy vậy, khi nó còn tánh thú, nó muốn làm sao thỏa mãn, hể thỏa mãn thú tánh của nó, thì nhân cách của nó bị hủy diệt, nhân cách không thể bảo thủ được cho lâu, thiên mạng nó không có phương bảo thủ, tâm linh của nó không có phương làm chủ nó đặng thì nó phải trở nên con vật mà thôi. Vì cớ cho nên các Đạo Giáo, các triết lý cốt yếu tìm phương nào dung hòa tánh thú của nó cho phù hạp với chơn mạng của nó, tức nhiên làm phương nào bảo trọng sống thú của nó, phù hạp với nhân cách đó vậy. Muốn cho đặng thế ấy, phải giải quyết cái khổ của nó, nó muốn thoát khổ có một đường tồn tâm mà thôi, tồn tâm tức nhiên một thiện pháp giữ Thiên mạng đó vậy.

Ấy vậy làm chủ cái tánh thú đặng bảo trọng Thiên mạng, tức nhiên phải dồi mài sửa đổi luyện cả tinh thần và hình chất của mình thoát khỏi tánh thú, đặng bảo tồn nhân cách, tức nhiên bảo tồn Thiên mạng của mình gọi là Tu. Chữ Tu cốt yếu là để trau dồi cho đặng thoát cái tánh thú, bảo vệ nhân cách của mình đó vậy.

Theo cách vật trí tri, bây giờ luận về siêu hình thì chúng ta đã ngó thấy, hễ khi nó thức, con vật nầy khi nó thức nó tìm sống trong vạn vật, nó cùng lẽ sống trong vạn vật. Luật của vạn vật buộc nó phải đi kiếm ăn, kiếm sống đặng bảo trọng sanh mạng của nó. Theo trong thể pháp về cái thú tánh của nó muốn thoát được tánh thú ấy, bởi vì nó hung hăng bạo ngược, mạnh mẽ, cừ-khôi phản trắc vô cùng vô lối. Có nhiều khi thiên tánh, tức nhiên thiên mạng không thế gì điều khiển nó được, người ta thấy có nhiều khi không thế gì người ta thắng nỗi thú tánh của nó, nên tìm con đường siêu hình. Nó thức thì nó rất hăm hở dữ tợn, hung hăng đủ thứ hết thảy đặng bảo vệ sanh mạng. Khi nó ngủ, tức nhiên khi nó nằm ra bình-tĩnh hết dữ, nó bình định được cả tánh chất nó bớt dữ, tức nhiên cũng như chúng ta khi còn thức, lo tìm muôn phương ngàn kế đặng bảo thủ sanh mạng của chúng ta, bảo thủ hạnh phúc của chúng ta nơi thế gian này; mà thật ra kiếm hạnh phúc ấy trong giấc chiêm bao của chúng ta mà thôi. Khi chúng ta ngủ mới được an ủi, ta thức bao giờ tinh thần cũng khổ não, vì thức ấy trong thuyết siêu hình mới xuất hiện ra hai lý thuyết tương đương ấy.

Từ Thượng Cổ đến giờ có thuyết nào giải rõ nó chưa? Chúng ta đã ngó thấy rất ít, chúng ta định trước, chúng ta đã thấy cái thuyết “Tánh mạng song tu” rõ rệt, ta có thể nói hai cái thuyết ấy như lý thuyết Pythagore và Đức Chí-Tôn. Pythagore lấy cách vật trí tri làm căn bản đặng đi đến siêu hình, văn từ cách vật trí tri đến siêu hình; còn Đức Phật Thích-Ca lấy siêu hình làm căn bản dìu dắt cách vật. Hai lý thuyết ấy đương đầu với nhau, mà đã thấy thật sự thì Pythagore không khi nào cầm lấy nó, nó không có vật, nó không có hình, nó cho rằng cái sống của vạn vật nơi mặt thế gian này do nơi vô hình xuất hiện, tức nhiên siêu hình kia làm căn bản của cách vật trí tri; mà nếu không có cách vật trí tri đứng chung đó, chẳng hề khi nào chúng ta thấy hai bên tương hội cùng nhau, vì vậy Ngài để chữ Dyade, hồi trưa Bần-Đạo đã triết lý hai chữ ấy mà hầu hết người Việt-Nam dịch chưa rõ. Bần-Đạo nghe chữ Dyade tưởng rằng chúng ta có dịp đem cái siêu hình tả ra, tức nhiên đem chữ Dyade đến cùng Ngài, chữ đó giải không ra. Ấy vậy, cái lời của Chí-Tôn để trên mặt thế gian này có hai phương pháp, siêu hình cũng trong đây, mà siêu vật cũng trong cửa Đạo này. Tại sao? Tại vì có một Đạo Giáo Ngài đến một thân Ngài mà thôi. Cả con cái của Ngài đã cho đầu kiếp dưới thế gian này trước, rồi Ngài mới đến sau, Ngài chung hiệp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu nó dâng Tam-Bửu là dâng xác thịt, trí não, dâng cả tâm hồn tức nhiên dâng cả sanh mạng của nó cho Ngài để làm chữ Khí, rồi Ngài trả chữ Khí của Càn Khôn Vũ Trụ, tức nhiên cái sống của nhơn loại đi đến mục đích chữ Tu, Ngài biểu cả toàn thể dâng xác thịt cho Ngài, Ngài trả lộn lại cái sống của Càn Khôn Vũ Trụ, trong mình nó sống dậy mà làm Thánh Thể của Ngài. Chúng ta tưởng tượng một ngày kia, toàn cả nhơn sanh đứng làm phần tử Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh, tức nhiên phụng sự cho nhơn loại, hiệp trí não tâm hồn dâng cho Ngài hết, còn trở lực nào ngăn cản nữa, nhơn loại sẽ đến một cái tối trọng và thiên hạ nhứt gia như Đức Chí Tôn đã muốn. (Đức Hộ-pháp thuyết tại Đền Thánh đêm 14-02 năm Nhâm-Thìn (1952)

 

ĐẠO GIÁO LƯỢC KHẢO (1)

            (1) Ngài Tiếp Pháp  giảng tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 15-02- Giáp Thìn vào ngày Vía Đức Lão Tử. Đức LÃO QUÂN là vị Giáo chủ Đạo Giáo; hôm nay, ngày Vía của Đức Ngài, chúng ta nên nhắc sơ lược Tiểu sử và Học thuyết của Đức Ngài, âu cũng là một dịp ca tụng công đức của một Đấng dày công với Nhơn loại.

TIỂU SỬ ĐỨC LÃO QUÂN

Theo sách “Sử ký” Trung Hoa, Đức Lão Tử là người nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, Họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, thụy là Đam, làm Quan giữ “Tàng Thất Sử” của Vua nhà Châu, Ngài sanh ước chừng 604 năm trước Tây lịch. Ngài là người ẩn dật hay ít tham gia thế sự, nếp sống của Ngài người đời ít biết, cho nên lịch sử của Ngài không mấy rõ. Có sách chép thế nầy, sách lại biên thế khác, mãi đến nay người ta cũng chưa tìm ra bằng chứng xác thực.

            Sanh nhằm thời loạn, bên xứ Trung Hoa, Ngài nghĩ rằng Giáo lý vô vi không thể truyền bá được, thành thử, về sau, Ngài bỏ nhà, cỡi Thanh ngưu nhắm hướng Tây đi thẳng. Lần đi nầy, người ta gọi là “Lão Tử Tây du”.

            Sách chép rằng: Khi đến Hàm-Cốc-Quan, Doãn Hỉ

là quan giữ ải đón tiếp, Ngài lưu lại một thời gian, viết xong Bộ Đạo Đức Kinh, rồi từ giã Doãn Hỉ. Về sau, không

ai gặp lại nữa.

            Kế nghiệp Đức Lão Tử, có Văn Tử, Thi Tử, Trang Tử, Liệt Tử. Nhứt là Trang Tử là người đặc sắc hơn hết, viết ra bộ Nam Hoa Kinh, làm sáng tỏ Đạo Giáo thêm lên. Thành ra Học huyết Lão Giáo nằm trong hai bộ Kinh: Đạo Đức Kinh và Nam-Hoa-Kinh.

          Vậy Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh nói những gì?

Nam Hoa Kinh Trang Tử thể theo ý Đức Lão Tử mà xướng minh Đạo Giáo sáng tỏ thêm lên.

Đạo Đức Kinh thì Đức Lão Tử chỉ bàn hai chữ  “Đạo Đức” là cơ Tạo-đoan định vị Trời Đất hóa sanh vạn vật và vạn vật khi đã trót sanh thành rồi, mỗi vật đều có tích lũy đạo đức nơi mình. Muôn loài phải đạt đạo đức ấy thì mới sống. Quan niệm về Vũ Trụ và Nhơn Sanh như thế rồi Đức Lão Tử  căn cứ theo đó  mà lập thành  Giáo pháp.

            Nay  chúng ta  muốn  biết học thuyết Đạo  Giáo  thì

chúng ta phải tìm hiểu Đạo đức nơi Trời và Đạo đức nơi người, nhiên hậu sẽ theo phương pháp đó mà thành lập một nếp sống của mình.

 

 

 

 

ĐẠO ĐỨC NƠI TRỜI

ĐẠO LÀ GÌ?

            Đạo là cái Vô danh có trước Trời Đất “Vô danh Thiên Địa chi thủy”. Đức Lão Tử tả cái Vô danh ấy như:

            Có một "Cái" tự nó sanh nó. "Cái" ấy sanh trước Trời Đất, yên lặng trống không, đứng riêng một mình mà không nghiêng không lệch, lưu hành khắp nơi mà không mòn mỏi, "Cái" ấy khá gọi là ngưồn sanh hóa Thiên hạ. Ta chẳng biết tên gì, song mượn chữ gọi là Đạo.

Hữu vật hỗn thành.        Tiên Thiên địa sanh,
Tịch hề, liêu hề              Độc lập nhi bất cải,

Châu hành nhi bất đãi    Khả dĩ vi Thiên hạ mẫu,

Ngô bất tri kỳ danh.       Tự chi vi Đạo".
        (Đạo Đức Kinh, chương 25)

            Vậy Đạo, chẳng những không tên mà còn vô hình, vô sắc, vô hương, vô xú nữa. Nói như thế thì Đạo là cái “Không”. Nhưng rồi Ngài sợ người ta hiểu lầm Đạo là trống rỗng; cho nên Ngài nói: Đạo dường như “Không” mà cũng dường như “Có”. Ngài mô tả cái "Có" rằng:

Đạo có ba trạng thái DI, HI và VI:
    - Xem mà chẳng thấy nên gọi là  DI,
  - 
Lóng mà chẳng nghe nên gọi là  HI,
 
-  Bắt mà chẳng nắm được gọi là   VI".

DI, HI, VI là ba trạng thái hỗn hợp thành một thể. Cái thể ấy: trên, không phản chiếu ánh sáng; dưới, không ẩn khuất bóng tối, vằng-vặc không tên lại lui về chỗ vô vật, thật Đạo là trạng của cái vô trạng. Lại nữa, nó dường có, dường không và lưu hành không ngừng. Đón xem phía trước thì không thấy đầu mối, chận xem phía sau thì không

thấy chỗ cuối cùng.

Thị chi bất kiến danh viết Di,
Thính chi bất văn danh viết Hi,
Bác chi bất đắc danh viết Vi,
Thử tam giả bất khả trí cật.
Cố hỗn chi vi nhứt,
Kỳ thượng bất kiếu,
Kỳ hạ bất muội.
Thằng thằng bất khả danh,
Phục qui ư vô vật,
Thị vị trạng chi vô trạng,
Thị vị hốt hoảng,
Nghinh chi bất kiến kỳ thủ,
Tùy chi bất kiến kỳ hậu".
         (Đạo Đức Kinh, chương 14)

Tóm lại Đạo là cái vô danh, vô hình, vô sắc, vô thinh. Dường có, dường không: Ấy là cái lẽ huyền nhiệm của cơ Tạo đoan, định vị Tạo đoan, định vị Trời Đất, hóa sanh vạn vật.

ĐỨC RA SAO?

Đạo sanh hóa vạn vật, nhưng làm cho vạn vật nên hình vóc và sống an vui trong Vũ Trụ thì lại là Đức “Đạo sanh chi, Đức súc chi”. Nay như hỏi Đức ra sao thì Đạo Đức Kinh chép rằng: "Khổng Đức chi Dung, duy Đạo thị tùng" nghĩa là Đức thì trống không mà luôn luôn cận kề với Đạo. Hoặc nói rõ ra là yên lặng trống không gọi là Đạo. Tuy Đạo yên lặng trống không nhưng hàm súc đủ quyền năng sanh hóa. Đến chừng cái trống không phát động thành tựu sự sanh hóa vạn vật thì lại mang danh là Đức. Vậy chúng ta có thể nói: Đạo là Thể, Đức là Dụng.

Để phân biệt sự động tác của Đạo với Đức, Đạo Đức Kinh chương 51 nói rằng: Đạo sanh vật, Đức nuôi đó, cấp dưỡng đó, nuôi nấng đó, đùm học đó, bồi sự đó, dưỡng nuôi đó, chở che. Do câu: “Đạo sanh chi, Đức súc chi, Trưởng chi, dục chi, Đình chi, đốc chi. Dưỡng chi,

phúc chi”.

            Vậy Đạo sanh hóa vạn vật, Đức nuôi dưỡng chở che, đùm bọc. Còn sự biến hóa của Đạo thì Đức Lão Tử nói rằng:

            - Đạo sanh một: Cái Vô danh sanh Thái Cực,
            - Một sanh hai: Thái Cực sanh Âm Dương,
            - Hai sanh ba: Âm Dương sanh Thái hòa.

Ba sanh vạn vật: Âm, Dương và Thái hòa sanh Vạn vật.

            Vạn vật khi đã trót sanh thành rồi, mỗi vật đều có cỏng một phần Âm, bồng một phần Dương và một phần Thái hòa: “Đạo sanh nhứt, Nhứt sanh nhị,  Nhị sanh tam, Tam sanh vạn vật. Vạn vật phụ Âm, nhi bảo Dương, Xung khí dĩ vi hòa" (Đạo Đức Kinh, chương 42)

            Riêng về người ta, chúng ta cũng có Đạo nơi mình là Âm Dương và Thái hòa. Kẻ học phải nhận thức lẽ huyền nhiệm Đạo tự nhiên của Vũ Trụ, để rồi sưu tầm giác ngộ Đạo Đức tự nhiên ở nơi mình.

            ĐẠO ĐỨC TỰ NHIÊN NƠI NGƯỜI:

Đạo Đức tự nhiên nơi người đồng thể với Đạo tự nhiên của Vũ Trụ. Đạo tự nhiên Vũ Trụ thì có ba trạng thái: DI, HI, VI. Thì cái thực thể Đạo tự nhiên nơi người cũng gồm có ba trạng thái là Âm, Dương và Thái hòa. Tuy nói ba trạng thái, nhưng không bao giờ nó lìa xa nhau. Ba như một, một như ba, cũng như sự sống lẫn lộn trong Nhục thân, mà chúng ta chẳng hề trông thấy, chẳng hề lóng nghe, chẳng hề rờ đụng. Thật là huyền nhiệm vô cùng. Người ta phải có Đạo ấy nơi mình thì mới sống; trái lại thì phải dứt. Đức Lão Tử nói rằng:

"Vạn vật đắc nhứt dĩ sanh. Kỳ trí chi nhứt dã, vô dĩ

vi sinh tương khủng diệt" nghĩa là muôn loài đặng một “Đạo” thì sống và sanh sản thêm nữa. Đến như số một “Đạo” nói đây, nếu muôn loài chẳng đặng nó để làm căn

bản cho sự sống còn thì muôn loài phải dứt.

Người ta cũng nằm trong công lệ ấy, mà vấn đề sanh tử là một sự kiện quan trọng nhứt của kiếp người. Vậy phải giải quyết bằng cách nào?

Sau đây là:

PHƯƠNG PHÁP TU HỌC

Vả lại, Đạo Đức nơi người là Âm, Dương và Thái hòa như trước đã nói: Đạo ấy cũng như sự sống lẫn lộn trong nhục thân; chúng ta chẳng hề trông thấy, chẳng hề lóng nghe, chẳng hề rờ đụng. Thế nên muốn hàm dưỡng nó thì phải dùng pháp môn "Vô vi".

Vô vi là gì?

Vô vi nghĩa là không hành động theo ngoại giới mà chỉ hồi hướng về nội giới Tâm linh, sưu tầm giác ngộ lẽ huyền nhiệm của Tâm lý và Sanh lý. Cho nên Đạo Đức Kinh chương 48 nói rằng:

            “Vi Đạo nhựt tổn, Tổn chi hựu tổn, Dĩ chí ư Vô vi"

nghĩa là học Đạo thì mỗi ngày mỗi giảm bớt và giảm bớt nữa cho đến vô vi.

            Không làm tức “Vô vi” nhưng chẳng phải khô khan như cây khô hay cục đá, mà thật là phải giữ một tâm trạng hồn nhiên, như đứa trẻ chưa biết cười “anh nhi chi vị hài” cho nên nói rằng: "Đạo thường vô vi nhi vô bất vi" nghĩa là Đạo thường là vô vi, nhưng chẳng có việc gì không làm. Tại sao? Bởi vì kẻ học phải làm những việc chưa đến, phải lo những việc chưa có “vi vô vi, sự vô sự”.

            Ví dụ: Chúng ta đã biết làm dữ thì họa trả lại. Biết làm dữ sẽ mang họa, chúng ta lánh dữ trước; thế là làm việc khi việc chưa đến. Xử sự khi sự chưa đến thì ắt chẳng

có việc gì làm bận lòng chúng ta.

            Vả lại, Đạo là nguyên lý ở trong Tâm linh siêu nhiên. Nay muốn tìm Đạo thì chúng ta phải vượt qua tất cả những lớp vọng chấp, thành kiến như: Lý trí, tình cảm, học lý hữu vi, thành kiến sai lầm vân vân... Vượt qua và vượt qua mãi đến Tâm linh thuần nhiên duy nhứt thì sẽ giác ngộ được Chơn lý “Đạo”.

            Theo những lẽ trên đây, chúng ta hiểu rằng sự vật nào cũng có một phần "Vô" (Tinh Thần) và một phần "Hữu" (Vật chất); theo Đức Lão Quân thì cái "Vô" thiết dụng hơn cái "Hữu".Ví dụ: Ba mươi cây căm hợp thành hình tượng bánh xe, nhưng cái thiết dụng, làm cho bánh xe lăn tròn được, là cái lỗ trống trong cái đùm. Nhồi đất nên hình cái lu, nhưng chỗ thiết dụng để đựng nước là lòng trống không bên trong.

            Thân hình người ta cũng vậy, nghĩa là người ta cũng có một phần "Vô" (Tâm) để chứa Đạo Trời và một phần "Hữu" (Thân) để thể hiện Đạo Trời thành Đạo người. Thế nên kẻ học nhứt thiết phải giữ cái Tâm không ấy, để hàm dưỡng Đạo Trời mà muốn giữ Tâm không thì kẻ học phải nhờ phép Thanh tịnh.

            Muốn Thanh tịnh, theo Trang Tử thì kẻ học phải quên: Quên tất cả việc ngoài, quên tất cả tư tưởng bên trong, quên tất cả việc xưa, quên tất cả việc nay, quên rồi quên mãi cho đến những thành kiến sai lầm cũng chẳng còn ẩn núp bên trong nữa. Quên như thế là Tâm không, rồi trong Tâm không sẽ có xuất hiện điểm "Linh Quang, sáng suốt" để làm Chủ tể cho đời sống của mình. Nhơn đó, mà sự lập Đức, sự tu thân của kẻ học, nhứt thiết đều phải lấy thanh tịnh làm căn bản. Xin xem chi tiết kể như sau:

1- VÔ DỤC:

            Vô dục nghĩa là không ham muốn vật chất. Vô dục là phép tu Tâm, cũng như Mạnh Tử nói: “Tiết dục khả dĩ tồn Tâm”. Đạo Đức Kinh chương 12 nói rằng:

            Năm màu sắc khiến người ta chóa mắt, năm thinh

âm khiến người ta điếc tai, năm vị ăn khiến người ta tê tái lưỡi miệng, sải ngựa đi săn bắn khiến người ta hóa cuồng, của cải quý giá khiến người ta hành động sái phương pháp chánh trực. Thế nên Thánh nhơn vì bụng mà không vì tai mắt (tức vì Tâm mà không dùng giác quan).

Ngũ sắc lịnh nhơn mục manh,
Ngũ âm lịnh nhơn nhĩ lung,
Ngũ vị lịnh nhơn khẩu sảng,
Tri sính điền liệp,
Lịnh nhơn Tâm phát cuồng,
Nam đắc chi hóa,
Lịnh nhơn hành phương,
Thị vị Thánh nhơn,
Vị phúc bất vị mục".

Đại ý nói rằng: Nếu người ta phóng túng theo hoàn cảnh bên ngoài thì Tâm phải bị loạn động. Cớ ấy nên Thánh nhơn vì Tâm mà không trọng tai mắt. Đức LÃO TỬ nói rằng:"Họa mạc đại ư bất tri túc, Cửu mạc đại ư dục đắc” nghĩa là nói về họa thì không có họa nào lớn bằng "không biết đủ", nói về lỗi lầm thì không lỗi lầm nào lớn bằng "muốn được".

Thật vậy, nếu chúng ta không cho mình là đủ và muốn được mãi mãi, thì sự lỗi lầm, sự tai họa sẽ theo đó mà đến với mình.

Thử hỏi: Danh với thân, cái nào quý hơn? Thân với tiền của cái nào trọng hơn? Đức LÃO TỬ đặt một vài câu hỏi như vậy, để cho kẻ học tự mình so sánh.

2- VÔ TRANH:

Người giữ Đạo thì có Đức, mà Đức là sức mạnh tinh thần, cho nên hễ người có Đức thì có tinh thần tự chủ mà không tranh với ai, không tranh với người và không tranh với hoàn cảnh. Nhờ không tranh mà chẳng lỗi lầm “Phù duy bất tranh cố vô vưu”. Đức LÃO TỬ mượn tánh nước để so sánh với tư cách người Đạo sĩ. Ngài nói:

Thượng thiện nhược thủy,
Thủy thiện lợi Vạn vật,
Nhi bất tranh. Xử chúng nhơn chi sở ố,
Cố cơ ư Đạo". (Đạo Đức Kinh, chương 8)

nghĩa là Bực thượng thiện giống như nước. Nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh. Ở chỗ mà người người đều chê bỏ, tức chỗ thấp. Nhờ vậy nên người thượng thiện gần với "Đạo".

So sánh sự nhu nhược và cang cường, Đạo Đức Kinh chương 76 nói rằng: Người ta khi mới sanh thì mềm yếu, khi chết thì cứng rắn. Vạn vật thảo mộc khi mới sanh thì mềm dịu, khi chết thì khô cứng. Thế nên nói rằng: Cứng và mạnh là bạn của cái chết, mềm và yếu là bạn của cái sống.

"Nhơn chi sanh dã nhu nhược,
Kỳ tử dã kiên cường.
Vạn vật thảo mộc chi sanh dã nhu thúy,
Kỳ tử dã khô tháo".

            Đại ý nói rằng người Thượng thiện không tranh với ai cả, tánh tình giống như nước. Nước hay làm lợi muôn vật, nghĩa là muôn vật dùng nước để uống được, để rửa cũng được, nước chẳng những không tranh mà còn hay ở chỗ thấp, là chỗ mà người đời hay chê bỏ. Và đại ý cũng như câu "Nhu nhược thắng cang cường" hay câu "Bất tranh nhi thiện thắng".

Thật quả vậy, nếu chúng ta chẳng tranh thì ai tranh với ta: "Phù duy bất tranh, Cố thiên hạ mặc năng dữ chi tranh" nghĩa là chỉ vì không tranh, cho nên thiên hạ chẳng ai tranh với mình.

 

3- TRỰC GIÁC:

            Về trí hay biết thì cũng cứ theo lẽ thiên nhiên mà sanh hoạt, chớ không cầu học thức kiến văn, nghĩa là cứ hướng về nội giới, gìn giữ tâm thanh tịnh, rồi Đạo vô vi sẽ xuất phát cảm ứng với Trời Đất vạn vật mà quán triệt sự vật. Đạo Đức Kinh chương 47 nói rằng:

            Không bước ra khỏi ngõ mà biết việc thiên hạ, không dòm ra cửa sổ mà hiểu Đạo Trời.

“Bất xuất hộ nhi tri thiên hạ,
  “Bất khuy dũ nhi kiến Thiên Đạo”.

Đức Lão Quân nói rằng: càng ra xa thì càng biết ít. Lẽ ấy nên Thánh Nhơn không tìm kiếm bên ngoài mà tự nhiên biết, không làm mà tự nhiên thành.

            "Kỳ xuất di viễn, Kỳ tri di thiểu, Thị vi Thánh Nhơn. Bất thành nhi tri, Bất vi nhi thành".

            Đạo Giáo chú trọng cái biết "Trực Giác" của Tâm Linh siêu nhiên, chớ chẳng cầu cái biết chi li của Trí Thức, cho nên nói rằng: "Tuyệt học vô ưu".

            Đức Lão Tử còn đề cập đến hai chữ "Huyền Đồng" để làm rõ thêm cái ý nghĩa "Trực Giác". Đạo Đức Kinh chương 56 nói rằng: "Tri giả bất ngôn, Ngôn giả bất tri. Tắc kỳ đoài bế kỳ môn, Tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, Hòa kỳ quang đồng kỳ trần, Thị vị Huyền Đồng" nghĩa là kẻ biết không nói, kẻ nói không biết. Thường ngậm miệng bít mắt, bít tai, lụt cái bén nhọn, bỏ sự chia phân, hòa với ánh sáng, đồng với bụi bặm. Ấy gọi là Huyền Đồng (đồng hóa với Đạo huyền bí) tức dùng cái khiếu trực giác tự nhiên, Trời Đất phú cho mình để cảm ứng với Đức. "Toàn tri năng, tận thiện mỹ" mà quán triệt vạn vật đến chỗ nguyên lý, chớ không phải cái biết vạn vật chi li của Lý trí luận (La tập).

 

LẬP ĐỨC:

            Đức là năng lực ở trong tâm mà ra. Tịnh thì gọi là Tâm, động thì gọi Đức. Hoặc nói cách khác, Đức là những lý tưởng thiện mỹ mà người ta đã học hành cho đến Tâm đắc (lý tưởng tiềm tàng trong tiềm thức) hay lý tưởng tự nhiên sẵn có trong bổn tánh, đến khi hữu sự thì biểu dương cử chỉ tốt lành. Lập đức của Nho Giáo thì tập luyện thuần thục Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) để làm khuôn thước cho sự xử kỷ, tiếp nhơn. Đạo Giáo lại quay về nội giới Tâm linh siêu nhiên mà tìm đức, cho nên nói rằng: Người có đức thường thì Tâm trở nên hồn nhiên như đứa trẻ sơ sanh chưa biết cười “anh nhi chi vị hài” hoặc nói rằng: Thường đức đầy đủ thì người trở lại mộc mạc. Mà muốn được tâm trạng nầy thì phải thực hiện phép thanh tịnh. Đạo Đức Kinh chương 16 nói rằng: Hồi hướng về nội giới cho đến hư không cùng tột thì giữ được tịnh. Tịnh thì vạn vật “Thần khí chí ý” đều xuất hiện ra rồi chúng ta thấy nó lần lượt trở về căn cội. Ôi, mọi vật trùng trùng đều trở về nguồn gốc nó thì đó gọi phục mạng, mà phục mạng là thường. Biết cái Thường “Đức Thường” là Minh. Than ôi! Người đời, nếu chẳng có cái thường ấy thì gây ra hung bạo cho mình.

            "Trí hư cực, Thủ tịch đốc, Vạn vật tịnh tác, Ngô dĩ quan phục, Phù vật vân vân,  Các phục qui kỳ căn, Qui căn viết tịnh, Thị vị viết phục mạng, Phục mạng viết thường, Trí thường viết minh, Bất trí thường vọng tác hung".

            Đức LÃO TỬ nói rằng bậc toàn thiện đời xưa tinh tế nhiệm mầu, siêu huyền thông suốt. Họ sâu không thể dò được, cho nên muốn biết họ chúng ta nên mô tả dung mạo của họ như sau: cử chỉ của họ thận trọng dường như lội qua sông giá đông đặc, do dự dường như bốn bên có người dòm ngó họ, nghiêm trang dường như hầu khách quý. Tình thức của họ tan rã cũng như giá tan. Bộ tịch mộc mạc dường như gỗ chưa bào gọt. Trống không dường như hang núi. Kẻ giữ Đạo không muốn đầy, tức không cố chấp tư tưởng tạp niệm. Nhờ không ham đầy, cho nên Thiên lương

không bị bế tắc. (Phỏng theo Đạo Đức Kinh, chương 15).

            Người có đức thì tâm họ trở lại như “xích tử chi tâm”.Dung mạo họ thì như lẩn thẩn, mộc mạc. Đạo Đức Kinh chương 20 nói rằng:

            Người đời thì hớn hở, như hưởng thái lao, như lên xuân đài. Riêng ta chỉ yên lặng chẳng có dấu vết chi, như đứa trẻ sơ sanh chưa biết cười rũ rượi vậy, như không biết về đâu. Nhưng riêng ta khác với người, là ta trở về với Mẹ

nuôi muôn loại, tức là sống với Đạo tự nhiên.

            "Chúng nhơn hi hi, Như hưởng Thái lao, Như xuân đăng đài, Ngã độc bạc hề kỳ vị triệu,  Như anh nhi chi vị hài. Luy luy hề nhược vô sở qui, Ngã độc dị ư nhơn, Như quí thực mẫu".

Thể hiện được phép thanh tịnh thì Tâm Đức trở về với vô vi, vô danh, mà hễ Tâm Đức đạt đến chỗ trí hư thì dung mạo trở về chỗ mộc mạc hồn nhiên như anh nhi chi vị hài.

DƯỠNG SANH:

            Ngạn ngữ có câu: "Linh hồn thanh khiết ở trong một  thân thể khoẻ mạnh". Ấy vậy sự dưỡng sanh là một pháp môn trọng yếu cũng như pháp môn tu học tâm linh. Phép dưỡng sanh cần nhứt là phải làm sao cho thân ta sanh sống với một cách điều hòa và nhập vào lẽ thiên nhiên, tức sống  với  một tinh  thần không  loạn động,  một  nhục thể

không đau ốm.

Đạo Đức Kinh chương 10 nói rằng:

"Tải doanh phách bảo nhứt, Năng vô ly hồ? 

Chuyên khí trí nhu,  Năng anh nhi hồ?  Địch trừ huyền lãm, Năng vô tỳ hồ?"

Nghĩa là làm cho hồn phách hiệp một, không để chia lìa đặng không?  Làm cho khí trở nên mềm dịu, như đứa hài nhi đặng không?  Gội rửa lòng ta cho đến mức huyền diệu mà không bợn chút bụi trần, đặng không?

            Đại ý Đức LÃO TỬ đặt ra  ba  câu  hỏi  mà  không giải đáp, là vì mỗi người đều có một thể chất khác nhau, cho nên mỗi người phải chọn lấy phương thức tu hành riêng . Ấy vậy nên, nếu Đức Ngài lập phương trước thì e có người lầm, mà phép dưỡng sanh nếu áp dụng không đúng thì sẽ có hại cho sức khoẻ.

Chỗ nầy, về sau phải Luyện đơn nương theo mà chú giải rộng rãi, thành một giáo pháp riêng, để cầu sự trường sanh cửu thị, nhứt là câu:

"Chuyên khí trí nhu, Năng anh nhi hồ".

Họ chia sự hô hấp ra làm hai giai đọan là: ĐIỀU TỨC nghĩa là vận chuyển hơi thở điều hòa và ĐÌNH TỨC nghĩa là không thở bằng mũi mà chỉ hô hấp với bộ phận hô hấp bên trong. Chúng ta có nghe nói người tu theo phái Pha kia (Fakir) cũng đạt đến phép nội tức nầy nữa. Đó là cứu cánh của Pháp Môn trường sanh cửu thị. Nhưng chúng ta không nên liều lĩnh bắt chước, nếu không có người chỉ dẫn. Bởi vì phép Dưỡng sanh nếu áp dụng không đúng mức thì có hại cho sức khoẻ như đã nói trên. Về phép Dưỡng sanh Huỳnh Đế nội kinh có câu:

            "Điềm đạm hư vô, Chơn khí tùng chi.

            “Tinh thần nội thủ, Bình an tùng lai".

Nghĩa là giữ điềm đạm hư vô thì  Chơn khí  theo đó, tinh

thần bền vững bên trong thì bình an sẽ đến.

            Câu nầy ý nghĩa cũng như lẽ đã nói trên.Thực hành được phép dưỡng sanh nầy thì không những mình có một thân hình sức khoẻ, một tâm hồn sáng suốt mà thần khí có thể dung hợp thành một Pháp thân vi diệu nữa.

XỬ THẾ:

Xử thế có ba điều là:

            1- Từ   2- Kiệm    3-Bất cảm vi thiên hạ tiên.

Từ - Từ nghĩa là hiền lành biết thương người, mến vật và hay giúp đỡ mọi người, mọi vật. Chữ Từ đồng nghĩa với chữ Bác-ái của Phật Giáo và chữ Nhân-ái của Nho Giáo, Đạo Giáo quan niệm rằng:

"Thiên Địa dữ ngã đồng sanh, vạn vật dữ ngã đồng thể". Thế nên kẻ học lúc nào cũng phải hòa mình với Trời Đất, vạn vật cầu sự an vui của mình theo lẽ tự nhiên. Đức Lão Tử dạy rằng: Kẻ làm lành, hay làm dữ với ta, ta đều lấy đức mà trả lại cả “Dĩ đức báo oán”.

Kiệm - Kiệm nghĩa là thiếu thốn. Chúng nhơn giành lấy cái thực, riêng ta thì cầu cái hư. Chúng nhơn tranh quyền lợi để làm giàu sang, riêng ta thì lúc nào cũng cho là đủ. Chúng nhơn cầu lấy phước lộc, riêng ta thì thu hình về chỗ vô vi cầu sự vô tội. Đức Lão Tử nói: Trên đường danh lợi, kẻ nào tri túc thì khỏi bị nhục, kẻ nào đứng ngoài vòng tranh đua thì khỏi bị hại. Thế nên ta vui lòng chịu thiếu thốn để cầu an vui theo Đạo.

Bất cảm vi thiên hạ tiên  nghĩa là chẳng dám tranh hơn thiên hạ. Đức Lão Tử cho rằng: Luật thiên nhiên lúc nào cũng có một sức mạnh rất thiêng, không cần tranh mà hay thắng lợi, không cần nói mà hay ứng nghiệm, không cần vời mà các vật theo về, lờ mờ mà hay mưu toan “Thiên chi Đạo bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai, thiên nhiên nhi thiện mưu”. Vậy đạo sĩ sống theo luật thiên nhiên, không tranh giành để giữ vẹn Tâm thanh tịnh vô vi.

            Đức LÃO TỬ nói: "Quân tử vi thiện nhược thủy,

ủng chi khả dĩ tại sơn, khích chi khả dĩ quá tảng, năng phương, năng viên, ủy khúc tùy hình. Cố quân tử năng nhu, nhi bất năng nhược, năng cường nhi bất cang, như thủy chi tánh dã. Thiên hạ nhu nhược mạc quá ư thủy, thị dĩ nhu nhược thắng cang cường". Nghĩa là người quân tử tánh giống như nước, ngăn đó thì ở trên núi, hất đó thì có thể văng lên trán, nó có thể vuông có thể tròn, hay uốn mình theo hình, cho nên người quân tử hay mềm mà chẳng yếu, hay mạnh mà chẳng cứng, cũng như tánh nước vậy. Dưới trời chẳng có vật gì mềm yếu hơn nước, vậy nên cái mềm yếu hơn cái cứng mạnh. Nước chẳng tranh, song không phải hèn nhác. Đạo Đức Kinh nói rằng: "Thiên hạ mạc nhu nhược ư thủy, nhi công kiện cường giả, mạc chi năng thắng, kỳ vô dĩ địch chi, nhược chi thắng cường, nhu chi thắng cang". Nghĩa là trong thiên hạ chẳng có vật chi mềm yếu hơn nước, thế là dùng nước để đánh đổ vật cứng rắn, chẳng có vật gì bằng nước (nước chảy đá mòn) thật yếu hơn mạnh, mềm hơn cứng.

Theo TRANG TỬ thì người có Đạo Đức gọi là Chơn Nhơn. Lại nói Chơn Nhơn đời xưa không phân biệt kẻ hèn, không khinh khi kẻ khó, ở ngôi cao không kiêu, ở vị thấp không hổ, khi ra không hí hởn, lúc vào không buồn tẻ, không hung hăng tập thành, khi công thành thì chẳng tự đắc. Nói tóm lại buổi nào cũng giữ cái không không, chớ chẳng dùng Tâm thức mà cưỡng chế Đạo Tâm.

Câu nầy đại ý nói rằng: Thánh Nhơn không tranh hơn thiên hạ mà cứ ở chỗ thấp kém, lại còn không tự hiện, không tự thị, không tự phạt, không tự căng. Nghĩa là không tranh giành hơn thua với mọi người thì ai cùng mình tranh giành. Thánh Nhơn không tranh với thiên hạ, nhưng cứ lo ôm giữ Đạo thể, để làm gương cho đời soi sáng. Nhờ sự không tranh mà Thánh Nhơn ở ngoài muôn

vật, mà chung qui muôn vật hướng về Thánh Nhơn.

Tóm lại: học thuyết của Đức LÃO TỬ lấy vô danh làm tôn chỉ, lấy vô vi làm phương tiện. Hay thì thật là hay nhưng khó phổ truyền trong nhơn gian. Bởi vì vô danh, vô vi là không không, nếu đem cái không mà giảng luận thì chúng ta không thể nói hết cái linh động thâm trầm của nó, thành thử kẻ học cứ tự tỉnh rồi tâm thần lãnh hội, để biết mà thôi. Chẳng những về Đạo tự tu, tự giác, Đức LÃO TỬ dùng phép vô vi mà đến luân lý cũng vậy.

           Như Luân lý học Ngài bảo rằng: Vô tranh tức bất cảm vi thiên hạ tiên và dĩ đức báo oán. Thâm ý của Ngài là cần cho mình giữ được thanh tịnh là phương pháp tối cần để giồi mài cái linh lực Trời phú cho mình được mẫn huệ.  Tôn chỉ vô danh của Đức Lão Quân chống đối với các thuyết "hữu danh" của Đức Khổng Phu Tử. Đạo Giáo cho rằng ở trong tâm vô vi tự nhiên đã có tinh thần Nhân nghĩa rồi. Thanh tịnh thì không không, đến khi phát động thì đó là Nhân nghĩa vậy, chớ không phải lập thuyết Nhân nghĩa "hữu danh". Vả lại "hữu danh" thì hữu hình, hữu hình thì có bóng tối. Biết đâu có kẻ không tốt ẩn núp dưới bóng tối của danh Nhơn nghĩa để phỉnh phờ gạt gẫm người ta, cho nên Ngài nói: "Tuyệt nhân khí nghĩa dân phục hiếu từ" (Bỏ danh từ nhân nghĩa thì dân trở lại hiền từ) Đạo Đức Kinh chương 19. Đức LÃO TỬ là người ẩn dật, không hay giao thiệp với thế sự. Nếp sống ấy đủ mô tả được một phần nào cái thuyết "Thanh tịnh vô vi" của Ngài. Đạo Giáo là một Giáo thuyết trong Tam Giáo. Giáo lý Đại Đạo là qui nguyên Tam Giáo. Vậy Đạo Giáo chiếm một phần quan trọng trong pháp môn "Tu tâm huyện tánh" của người Tín đồ Đại Đạo. Nay kính

Đêm 14 rạng mặt 15 tháng 2 Giáp Thìn
Tiếp Pháp : TRƯƠNG VĂN TRÀNG

Tiếp theo >

Top of Page

      HOME