QUẺ 091:

 

Kiếm kích liệt sơn lâm. Đạo tặc tất lai xâm

Bại tẩu cầm sưu định,  Phong hầu ấm tử tôn.

   劍 戟 列 山 林  。盜賊 必 來 侵

   敗 走 擒 搜 定 。封 侯 蔭 子 孫

Dịch nghĩa:  Vũ khí đã đủ đầy. Giặc nghịch tất đến đây

    Đánh bại rồi an định. Phong hầu con cháu hay.

Chú giải: Vũ khí của người lính bằng sắt thép, vũ khí của người Đạo là “cây gươm thần huệ đoạn trừ nghiệt căn” Nay Đức Chí-Tôn khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là đúng theo lời sấm truyền của các vì GIÁO CHỦ ngày xưa.

Chỉ có hai phương diện:

     1- Là do Tam Gíao thất kỳ truyền.

           2- Là chính mình Đức Chí-Tôn giáng cơ lập Đạo đặng Qui Nguyên Phục Nhứt, gọi là chấn hưng Tam Gíao lại cho hoàn toàn, lập Luật Pháp khuôn viên cho phù hợp theo dân trí buổi này mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh, hiệp cả Tinh Thần của các dân tộc biết nhìn nhau một CHA chung là thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ quyền THƯƠNG-YÊU, chung thờ một Tôn-giáo Đại đồng thì nhơn loại mới gội nhuần ân huệ và đời tranh đấu tự diệt sẽ trở nên đời mỹ tục thuần phong, thì vạn loại mới chung hưởng cơ Hòa-bình, phục hồi thượng cổ là do Thiên thơ tiền định buổi Hạ nguơn chuyển thế hoán cựu duy tân. Tóm lại, Đức Chí-Tôn khai ĐẠO kỳ thứ ba này là thuận theo “Lẽ  tuần-hoàn châu nhi phục thủy”.

Phật Mẫu Chơn Kinh có câu:

            “Kỳ khai tạo nhứt Linh đài,              

            “Diệt hình tà pháp cường khai Đại Đồng”.

  &

QUẺ 092:

       Ngạn khoát thuỷ thâm châu dị lạc,

Lộ dao sơn hiểm bộ nan hành,

 Xà hành tự hữu thông tân nhựt,  

Nguyệt thượng thiên không phân ngoại minh.

岸 闊 水 深 舟 易 落 。路 遙 山 險 步 難 行。

蛇 行 自 有 通 津 日。 月 上 天 空 分 外 明。

Dịch nghĩa:  Sông rộng nước sâu thuyền dễ đến,

Núi hiểm đường xa khó đạt thông

Uyển chuyển uốn mình lần tới bến

Trăng vàng chiếu khắp thoả lòng mong.

Chú giải:  Trong trời đất có gì đáng nói? Phải chăng nhìn lên không thì thấy mặt trời, mặt trăng, sao. Ngó xuống đất thì sông, núi. Nhìn lại người thì Nam, nữ. Ấy là nói chung Âm Dương của Trời; cương nhu của đất, ở người là Nữ nam phân biệt vậy. Trời đất có Âm Dương, vạn-vật có thể phách, nhơn loại có xác hồn; sự sống của vạn-loại trong Càn khôn thế giới chỉ nhờ có vật-chất và tinh-thần tương hiệp mới thành hình. Xác phải phù-hợp với hồn, cũng như vật chất phải phù-hợp với tinh-thần trở lại vô-vi, vô-vi cùng hữu-hình phải tương-đắc ..Ngôi Âm và ngôi Dương ấy gọi là Lưỡng-nghi (tức là hai ngôi).

           “Lưỡng-nghi là cơ Âm Dương phối-hợp thì bất cứ vật chi chi trong trời đất này cũng đều do Âm Dương mà sản-xuất, cũng gọi là Lý Nhị nguyên đó vậy. Âm với Dương vốn là cơ động tĩnh, mâu-thuẫn nhau, tương-khắc mà lại tương-hòa. Hai cái lý đối nghịch nhau để hỗ-trợ lẫn nhau chớ không phải để tiêu diệt nhau. Trời có sáng tối; Người có Nam, Nữ; Vật có cứng mềm; đất có nắng mưa; vạn loại có trống mái; cho chí đến loài cây cỏ mới nẩy chồi thì ra hai lá đầu tiên, ấy là hình tượng của Âm Dương đó (gọi là song tử diệp).  Âm Dương vốn là cơ sản xuất, nhưng trong Dương có Âm và trong Âm có Dương. Nho-gia gọi là “Vạn-vật phụ âm nhi bảo dương, trung chí dĩ nhi Hoà”

&

QUẺ 093:

 Nghĩ dục thiên nhi vị khả thiên,

          Đề phòng hỉ xứ nhạ câu xa,

      Tiền đồ nhược đắc âm nhân dẫn,

      Biến hoá ngư long xuất đại uyên.

擬 欲 遷 而 未 可 遷 。隄 防 喜 處 惹 勾 車 。

前 途 若 得 陰 人 引 。變 化 魚 龍 出 大 淵。

Dịch nghĩa:   Muốn dời không dễ dời đâu !

Đề phòng mọi việc kẻo hầu liên can

Tiền đồ nếu sẵn quí nhân,

Cá  rồng biến hoá thoát lần vực sâu.

Chú giải: Cá tu biến thành rồng gọi là cá hóa rồng, tức nhiên dù vạn vật trong vũ trụ này đều cũng muốn tiến hóa hết. Loài người nghĩ sao mà cứ hẹn và hẹn ? Biết bao lời kêu gọi mà vẫn thản nhiên. Thật ra đèn không sáng ở chân. Từ xưa đến giờ dân Việt Nam này xin Đạo, mượn Đạo của người ta mà thôi. Còn nay chính Đấng Thượng Đế đến ban cho mối đạo nhà mở tại đất nước Việt Nam mà một số lớn người Việt Nam lại thờ-ơ, cứ mãi tìm nơi linh thiêng mà cầu, mà khẩn. Đạo mở tại Tây Ninh, mà có bao nhiêu người gốc ở Tây Ninh biết Đạo? Chỉ toàn dân tứ xứ tìm về  Buồn thay! Buổi sơ khai Đức Chí-Tôn mở Đạo đã cho hiệp đủ Tinh - Khí - Thần rồi tức là nền Đạo đã tròn đầy viên mãn, tóm lại là người tín-hữu Cao-Đài ngày nay chỉ có Tu là đắc Đạo. Thầy dặn:

            “Con chỉ có tu mà đắc Đạo. Phải ngó hằng ức thiên, vạn kẻ nhơn-sanh chưa đặng khỏi luân hồi, để lòng Từ Bi độ rỗi kẻo tội nghiệp” (TN I/21)

&

QUẺ 094:

   Nhứt nhân khứ, nhứt nhân nhập,

      Thanh phong minh nguyệt lưỡng tương sai,

 Hoạch đắc kim lân hạ điếu đài.

一 人 去 一 人 入。 清 風 明 月 兩 相 猜 。

臺。

Dịch nghĩa:   Một kẻ ra đi một kẻ vô,

Gió mát trăng thanh cũng đáng ngờ.

Mình được cá vàng lòng vui thích

Khéo gìn kẻo lại sẩy qua bờ.

Chú giải:  Luật của trời đất cứ một đóng, một mở; một ra một vào, cũng như hơi thở đều đặn trong con người, không dồn dập, không trì huỡn, chứng tỏ một sự khiêm tốn, không cao không hạ. Điều ấy dạy cho con người phải khiêm tốn như trời đất vậy. Không thái quá cũng không bất cập. Thầy dạy: “Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!. Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các  con  phải khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói  buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi, đâu đến nhọc công Thầy.  Ấy vậy, các con ráng độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết. (Thánh ngôn) Nay danh xưng “CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ TÁT MA-HA-TÁT” là gồm cả Tam-giáo gọi là Tam Giáo Qui nguyên:

                 - Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo.

                 - Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo.

                 - Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật Giáo.

&

QUẺ 095:

Hỉ vị ẩn, bi dĩ tao, đại vũ cuồng phong xuy cổ mộc, nhân nhân tận đạo bất kiên lao.

喜 未 隱 悲 已 遭 。大 雨 狂 風 吹 古 木。

人 人 盡 道 不 堅 牢

Dịch nghĩa:  Niềm vui chưa vẹn, đến điềm lo

Cổ thụ chiều hôm mưa gió to

Người người đồn đãi thời chưa đến

Muôn việc dở hay khá liệu dò.

Chú giải: Cổ thụ của mọi người là gốc lớn tức cha mẹ ông bà là điểm tựa cho tâm hồn, nhìn xa hơn thì đại cổ thụ chính là  Tôn giáo, là nơi điểm tựa cho tâm linh. Thế nên:

“Ngày nay Thầy mới đến lập một cái CAO-ĐÀI nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức-tin lớn tại thế này (La haute Église ou plus grande foi du Monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn-hạ nhỏ-nhít của hướng Á-Đông là An-nam ta, đặng cho trọn lời tiên tri “Đạo xuất ư Đông” và cho trúng Thánh-ý chìu lụy hạ mình của Thầy lập thành Hội-Thánh, làm hình thể Thiêng-liêng của Thầy hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định-tánh làm cho cả con cái của Thầy thức tỉnh, nhìn Thầy mà trở về quê cũ” ( PCT)

&

QUẺ 096:

Khả dĩ ký bách lý chi mệnh,

Khả dĩ thác lục xích chi cô,

Chung kỳ ký ngộ, vô trì ngộ,

Tiếu hô hô tha hương tụ thủ các tự lạc khang hoà.

可 以 寄 百 里 之 命。可 以 托 六 尺 之 孤。

鍾 期  既 遇 毋 遲 誤 。

笑 呼 呼 他 鄉 聚 首 各自 樂 康 和

Dịch nghĩa:  Tính mệnh đường dài khá gởi trao

Tấm thân oai dũng chí anh hào

Chung Kỳ đã gặp đâu còn ngại

Cười hát hân hoan thoả thích nhau.

Chú giải: Câu chuyện Bá-Nha và Chung Tử Kỳ xem nhau là bạn Tri âm, tức nhiên họ hiểu nhau qua tiếng đờn, họ có thể cảm nhau qua tư tưởng. Nhưng khi Chung Tử Kỳ mệnh bạc thì Bá Nha đờn trước mộ của Chung Tử Kỳ lần cuối, xong rồi đập vỡ đờn và nguyền rằng không bao giờ đờn nữa vì không một ai nghe được tiếng lòng của mình.

Trong bài “Gửi phường hậu tử” làm trong phút sắp lâm chung; nhà Cách mạng Phan Bội Châu có câu:

Đàn Bá-Nha mấy kẻ thưởng  âm?

Bỗng nghe qua khóc trộm lại thương thầm,

Chung-Kỳ chết ném đàn không gảy nữa.

Nhưng nếu con người không có đạo đức, không có nền tảng Tôn giáo làm điểm tựa cho tâm hồn cũng sẽ cô đơn lạc lỏng thôi. Đức Hộ-Pháp cũng xác nhận rằng “Nếu giờ phút này thiên-hạ đừng cho ta dị-đoan, chúng ta có thể nói Đức Chí-Tôn biết tình trạng nhơn-loại đã đến mức tự diệt nhau nên Ngài đến tạo nền Chơn-giáo của Ngài, tức nhiên ĐẠO CAO-ĐÀI, cho nhơn-loại gìn-giữ phần hồn đặng định chuẩn-thằng cái sống của họ, đừng cho nó đến cảnh điên của nó, mà họ đến cảnh điên tức đến cảnh tự diệt.  Đức Chí-Tôn đến đặng cho huờn thuốc phục-sinh đặng cho nhơn-loại sống lại là Đạo-đức tinh-thần của Đức Chí Tôn tạo cho họ, ĐẠO CAO-ĐÀI chính là cái sống linh-hồn nhơn-loại, bảo vệ tánh mạng tức nhiên Chơn-thần của họ, đặng họ tránh cái nạn tiêu-diệt”.                                                                   

&

QUẺ 097:

Báo đạo thượng lâm, xuân sắc tiên minh,

Tróc tiên khoái  trước, mã thượng hành trình.

報 道 上 林 。春 色 鮮 明 。

捉 鞭 快 著 。馬 上 行 程

Dịch nghĩa:  Trên rừng giục giã tiếng oanh ca

Xuân sắc vui tươi đến mọi nhà

Hãy kíp vung roi lên chiến mã

Ngựa nhanh đâu ngại quãng đường xa.

Chú giải: Giờ này, chúng ta sống nơi trái địa-cầu  68 này là cái nhà, trọng-hệ yêu-ái nhứt của chúng ta, tưởng chắc ai cũng sợ chết lắm, sợ chết rồi lià khỏi trái địa cầu này đi. Vì cái sợ chết ấy mà cố bám víu vào nó và coi như một cứu cánh, có lẽ Thần Tiên ở cõi cao kia khi nhìn thấy chúng sanh lao-nhao, lố-nhố mà thương hại cho cái vô minh, giống như hai trẻ con giành nhau “một cái tiền lá mít” mà đánh nhau đến u đầu vỡ trán. Vì cái sợ chết mà phải chịu sa-đọa; nếu như tất cả đều nắm vững cái sống chết thì chắc-chắn nhân-loại sẽ không khổ-sở như thế này.

&

QUẺ 098:

Thử nhập thổ huyệt, tối khả an thân

Nhật trung bất kiến, tĩnh dạ tuần hành.

鼠 入 土 穴 。最 可 安 身 。

日 中 不 見。 靜 夜 巡 行

Dịch nghĩa:   Chuột ẩn hang sâu đợi có khi

Tấm thân an ổn chẳng còn nghi

Ngày ngày lẫn khuất tìm đâu thấy

Đêm đến lần ra có ngại gì.

Chú giải: Chuột vào hang tự thấy yên ổn, giống như ếch ngồi đáy giếng xem trời bằng vung. Người cố bám víu vào nghiệt cảnh này mà bình an vì của cải, sự nghiệp. Phải quả-quyết rằng trong càn khôn vũ-trụ này, cái địa-cầu 68 này là hạng chót, hạng khổ-não nhứt nơi mặt địa-cầu; như vậy kiếp sanh nơi mặt địa-cầu này không phải đáng cho chúng ta lưu-luyến; nhưng thử hỏi chúng ta đến đây để làm gì, mà khi vừa đến rồi thì ôm trọn cái oan-khiên; nào danh, nào lợi, nào tình; không dám bỏ sót một món nào hết. Thử hỏi có vô-lý không ? Nếu tất cả chúng ta đều  thấy rằng đó là chuyện vô-lý  thì chi bằng quẳng quách nó đi cho rồi, tội gì tranh giành từ một cái nút chai, một mảnh đất hẹp, một bước chân trên cát? Nhơn-loại muốn sống thanh-bình mà chính mình thì cứ gây chiến tranh mãi thì làm sao có bóng thanh bình xuất hiện. Các nước gọi là siêu cường, mà thật ra chẳng “cường” chút nào hết, trái lại phải gọi là “siêu nhược” thì đúng hơn! .Thi văn dạy Đạo

CAO-ĐÀI tá thế xuống phàm-gian,

Bạch-Ngọc, Huỳnh-Kim cũng chẳng màng

Chìu lụy đòi phen xem quá tục,

Nghĩ không đổ lụy phải cười khan.

 

Cười khan mà khóc bởi thương bây,

Chẳng mất một con nghiệt cả bầy

Biết phận già không chờ chống gậy,

Nương theo con dại mới ra vầy.

&

QUẺ 099:

Đả khởi bình sinh chí, Tây Nam hảo khứ du,

Yêu triền nhập vạn quán, Kỵ hạc thướng Dương châu.

打 起 平 生 志 。西 南 好 去 遊 。

腰 纏 十 萬 貫 。騎 鶴 上 楊 州

Dịch nghĩa:   Đề cao chí khí bình sinh,

Tây Nam theo hướng thoả tình ước mong

Trong lưng tiền bạc đã không,

Dương châu cảnh đẹp thẳng dong hạc vàng.

Chú giải: Nếu nói về hướng Tây Nam là hướng của quẻ Càn trong Bát Quái Cao Đài. Đúng như lời tiên-tri trong quyển “Giác mê-ca” mà tác-giả là một Đạo-gia có ghi lại:

     Hữu duyên mới gặp Tam-kỳ Phổ-độ

     Muôn đời còn tử-phủ nêu danh,

     Ba ngàn công-quả đặng viên thành,

     Mới đặng Thiên-thơ chiếu-triệu.

           Đoạn văn thơ này có mục-đích báo cho nhân-loại biết trước rằng chỉ có người hữu-duyên mới gặp được Tam-Kỳ Phổ-Độ, hầu do theo chơn-lý Chánh-truyền ấy mà làm phương thoát tục mới mong trở về ngôi xưa vị cũ mà cởi bỏ cái kiếp trần-ai nặng nợ này. Điểm tới đích đó là Niết-Bàn, Cao-Đài nói là cảnh Thiêng-liêng Hằng sống.

&

QUẺ 100:

Hỉ hỉ hỉ, chung phòng bỉ, hoạch đắc ly long Hàm hạ châu, hốt nhiên thất khước, hoàn tại thuỷ lý.

喜 喜 喜 終 防 否。 獲 得 驪 龍 頜 下 珠。

              忽 然 失 卻 。 還在 水 裏。

Dịch nghĩa:  Niềm vui đã quá mực lường,

Hãy nên phòng việc bất thường xảy ra

Ngọc châu hàm ngựa sẵn mà,

Thình lình châu lại chìm sa biển hồ.

Chú giải: Cả thế giới đều xem nước Mỹ là đứng đầu thế  giới gọi là văn-minh vật chất đủ đầy, là niềm ước mơ của nhân loại, thế mà chẳng có văn-minh chút nào. Vì Ỷ mạnh đem quân đi đàn áp nước nhỏ, làm hại đến nền hoà-bình của các nước đàn em, rồi cứ thế xua quân thẳng tiến: hại người rồi Trời hại, lẽ nào hơn ? Nếu rủi thời ai là tác-nhân gây nên mấy trận bão dữ-dội ở nước Mỹ chắc Tổng-Thống Mỹ sẽ treo giải mấy chục triệu đô-la để bắt cho được “tên khủng bố”; đằng này “ông trời” ra tay khủng-bố thì hết đường chạy chối. Hãy có niềm tin hứa-hẹn của Tam-Kỳ Phổ-Độ đã đến, để ứng hiệp:

        “Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chiếu theo luật Thiên đình, Hội Tam-giáo mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn-sanh bước lên con đường Cực-Lạc tránh khỏi đoạ luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách-nhiệm nặng-nề của Đấng làm người, về bực nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn này”.

&

QUẺ 101:

Quốc hữu hiền sĩ, thị vô nịnh thần,

can qua bất dụng, thường hưởng thái bình.

國 有 賢 士 。是 無 佞 臣 。

干 戈 不 用 。常 享 太 平

Dịch nghĩa:  Nước nhà sở cậy đấng anh minh

Diệt kẻ nịnh thần rạng vẻ linh

Nghiệp quả binh đao đâu vướng bận

Dân an quốc thới hưởng thanh bình.

Chú giải: Xưa nay không thời nào vắng mặt lũ nịnh thần, cũng như không đâu mà thiếu rác, chỉ duy nơi làm điểm cho khách quốc tế tới nhìn cho ra vẻ sang trọng thì mới không thấy rác bên ngoài, nhưng coi chừng khuất bên trong. Một thời đại nhiều rác đến dân chúng phải kêu la!..  

Bên cạnh đó về tâm linh “Những cơ-quan và những hành vi hiện-tượng của các Tôn-giáo đương-nhiên ngày nay như dường biến thành cổ-vật, nên đã mất cái hay để giúp đời tự-trị, tự giác, tâm hồn thiếu nơi an-ủi, tư-tưởng mất pháp chuẩn thằng, trí thức không phù hành-động, biểu sao đời không trở nên một trường náo-nhiệt, rắc-rối, khó khăn, rồi giục cho cả nhơn sanh dong ruổi trên con đường duy-vật mà quên hẳn cái quyền vi-chủ của trí-thức tinh thần “.

&

QUẺ 102:

Thái lai bỉ dĩ cực, chư sự mạc ưu tâm, đãn tu bồi nghĩa nguyên phúc, tố ta hảo sự, hành ta phương tiện,

nhứt điểm đan linh độc đắc chân.

泰 來 否 已 極 。諸 事 莫 憂 心 。但 須 培 義 元 福 。做 些 好 事 行 些 方 便 。一 點丹 靈 獨 得 真

Dịch nghĩa:  Sự lành vừa đến hoạ tiêu tan

Mọi việc đâu còn vướng bận tâm

Thi nghĩa đắp bồi nền âm đức

Người vui, lòng toại lý mầu thâm.

Chú giải: “Ôi, thử nghĩ cái ngày nào trí-thức tinh-thần đã tiều tụy, thì cái lương-tri, lương-năng cũng do đấy mà tiêu-tàn, thì con người đứng giữa cõi trần-hoàn này phải trở nên bao nã ? Tưởng lại, tương-lai của Đạo Cao-Đài do nơi cái sở hành và cái tư-tưởng cao-thượng của nó, ngày nay nó có thể hứa với nhơn-sanh rằng: một ngày nào chúng ta sẽ hưởng điều hạnh-phúc ấy”

&

QUẺ 103:

Dân lạc nghiệp, quan lại thanh, ủng cơ chi thế,

phục kiến vu kim, cáo chư nhân, thiên thu hồng nghiệp, phù thử vọng minh quân.

民 樂 業 官 吏 清 。壅 基 之 世 。復 見 于 今。

 告 諸 人 千 秋 鴻 業。 扶 此 望 明 君。

Dịch nghĩa:   Quang minh dân chúng âu ca

Việc đời đã được thái hoà ung dung

 Ngày nay sự thế vuông tròn

 Nước giàu chúa Thánh đâu còn ước mơ.

Chú giải:  Quả thật, “Đức Chí-Tôn hoằng-khai Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ tức là thành lập một trường công-quả tại thế gian này để cho tất cả nhơn-sanh thi đua lên nấc thang tiến-hóa tột phẩm thiêng-liêng, cao thấp tùy nơi sở hành của mỗi người muốn cùng chẳng muốn”.            

                                  Thi văn dạy Đạo

                        Nghi-nan chớ chác lấy lòng phàm.

                        Hễ biết Đạo-mầu mới biết ham.

                        Mắt thịt thấy Trời coi thấp chủm.

                        Hỏi ai cho thấu Đạo khôn tầm.

&

QUẺ 104:

An như Thái sơn, ổn như bàn thạch,

phóng đảm tiền hành, trung thông ngoại trực.

安 如 泰 山 。穩 如 盤 石 。

放 膽 前 行 。中 通 外 直

Dịch nghĩa: Yên như non Thái vững Thạch bàn

Phóng dạ bền gan quyết thẳng đàng

Chí hùng há dễ hòng lay chuyển

Ngoài thẳng trong thông thế mới an.

Chú giải: Núi Thái là một trong năm ngọn núi lớn nhứt tại Trung Hoa, là Ngũ Nhạc. Sự kiên cố đó làm vững niềm tin

về vật chất; nhưng người Việt Nam cũng có niềm tin ở tinh thần. Thầy dạy:“Con nghe: nơi nào Thầy ngự, thì nơi ấy là Thánh Địa. Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành, thăng lên chức Văn-Xương vào trấn-nhậm làng Hiệp Ninh dạy dỗ dân vô Đạo. Thầy ban trọn quyền thưởng phạt đặng răn làng ấy cho đến ngày biết ăn-năn cải-hóa …Vậy thì làng Long-Thành các con khá an lòng. “Còn Tòa-Thánh thì Thầy muốn cho có nhơn-lực hiệp cùng Thiên-ý, ấy là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước.”

&

QUẺ 105:

Nguyệt trung hữu đan quế, nhân chung phan bất trước, vân thê túc hạ sinh, thử tế hảo lạc cước.

月 中 有 丹 桂 。人 終 攀 不 著。

雲 棲 足 下 生。 此 際 好 落 腳。

Dịch nghĩa:  Có nhành đan quế giữa trăng tròn

Ai kẻ dừng chân trước cửa son

Thang mây đặt sẵn bên chân đó

Cất bước tiến lên chí chẳng sờn.

Chú giải:  Câu chuyện cung trăng và chú Cuội cũng làm tươi nét văn chương Việt Nam thật tình tứ, thật yêu kiều, nhưng chưa thoát khỏi:

 Cái vòng danh lợi cong cong,

           Kẻ hòng ra khỏi người mong chen vào

Gẫm lại, người đã hiểu đời mới biết ngán cho đời, kẻ đã lăn lóc trên nẻo họan đường danh mới biết chán đường danh nẻo lợi . Thi văn dạy Đạo:

Đức cao thì mới đáng nên người,

Đức thắng tài kia đã mấy mươi

Có đức  có tài giềng đạo trọng.

Không tài không đức hóa không thời

&

QUẺ 106:

Thiên gian nhứt cô nhạn. Liệu lịch thán ly quần.

Thí vấn tri quân giả. Nhi kim hữu kỷ nhân.

天 間 一 孤 雁 。嘹 嚦 歎 離 群。

 試 問 知 君 者。而 今 有 幾 人。

Dịch nghĩa:   Khung trời cánh nhạn bơ vơ,

Gọi đàn khắc khoải phút giờ kêu thương

Ai người quân tử bốn phương ?

Trong trần mấy kẻ cùng phường tri âm?

Chú giải: Chim nhạn ngày xưa thường hay mang tin tức từ nơi này đến nơi khác. Nếu có người gởi thư đi thì ắt có người trông tin. Nhưng cái niềm khao khát mong chờ của nhân loại là muốn có một nền hòa bình thực sư, công bằng và Bác ái. Hôm nay Đạo Cao Đài đang đem tin vui tới.

Thầy dạy: “Từ Thầy đến lập Đạo cho các con đến giờ Thầy chưa hề một mình chuyên-quyền bao giờ. Các con lựa chọn nơi nào mà Hội-Thánh vừa lòng ắt đẹp lòng Thầy. Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn-toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây-Ninh đây mà thôi; Các con đã hiểu Thánh-Ý Thầy phải cần-kiệm, mỗi sự chi vì phương-tiện mà thôi ”  (TNI/98)  Thi văn dạy Đạo:

Tìm Đạo mà chi khá hỏi mình ?

Bến mê mới vững vớt quần sanh

Vun trồng cội phúc ơn chan thấm

Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn

Tâm chánh nương nhau gìn lối chánh

Lòng thành nhờ lẫn lóng hơi thanh

Thiên cơ tuy hẳn nêu trường khảo

Lướt khỏi, ngàn thu quả đắc thành.

&

QUẺ 107:

Hồng diệp vô nhan sắc. Điêu linh nhứt dạ phong,

Lân kê tỉnh ngọ mộng. Tâm sự tổng thành không.

紅 葉 無 顏 色 。凋 零 一 夜 風 。

鄰 雞 醒 午 夢 。心 事 總 成 空

Dịch nghĩa:  Lá đổ không nhan sắc

Gió xuân phận lạc loài

Tỉnh giấc gà trưa vang tiếng gáy,

Một bầu tâm sự tỏ cùng ai.

Chú giải: Tâm sự đầy tràn nhưng không người chia sẻ. Một ước mơ to lớn mà chửa đạt thành.Chỉ có Đức Thượng Đế mới rõ được nỗi băn khoăn, mong đợi đó nên Thầy nói:

“Thầy có hội chư Tiên Phật mà thương nghị về sự lập Đạo tại Đại Nam Việt-Quốc. Các con khá nghe lời Thầy dặn, chớ khá nghịch lẫn nhau, phải đồng một lòng một dạ mà lo chấn-hưng đạo-đức, tuy bây giờ phân chia nhiều nhánh, nhiều chi chớ ngày sau cũng có Một mà thôi. Các con dầu bên nào cũng thương nhau như con một nhà chớ khá ganh gỗ chê bai nhau” (TNI/110)                                                                                                         

&

QUẺ 108:

Sự như ma. Lý đa thác.Yểm vân trung

Không thành đảm các.

事 如 麻。 理 多 錯 。掩 雲 中。 空 成 擔 擱。

Dịch nghĩa:   Sự tình bối rối như gai.

Cố tình gỡ rối chỉ hoài công thôi

Trời trong lẫn khuất mây rồi,

Có điều ngăn trở ắt trời định phân.

Chú giải: Ma là cây gai, gai cũng làm trở ngại cho bước đường đi. Từ ngữ này phát sinh thêm là những chướng ngại, ma quái, có trí khôn như người, làm cản trở cho bước đường tu. Thế nên người tu hành phải ngừa lắm mới được.

Thầy dạy: “Vì mỗi việc khó-khăn trắc-trở là lúc sơ khai, vậy Thầy khuyên các con ráng thành tâm hành Đạo, mà Đạo không phải giữ bằng lỗ miệng đâu(TNI/71)                      

Thi Văn Dạy Đạo

     Oai linh của đạo sấm rền Trời.

     Thương kẻ có tròng  lại chẳng ngươi

      Một trái điạ-cầu chưa mấy nặng.

      Nâng luôn thế-giới một tay dời.

&

QUẺ 109:

Vật thượng cựu triệt. Cam giá tân xa,

Đông Tây Nam Bắc. Ổn bộ khang cù.

勿 上 舊 轍 。甘 駕 新 車 。

東 西 南 北 。穩 步 康 衢

Dịch nghĩa:  Lối cũ đừng theo luống uổng công,

Ngự lên xe mới tất an lòng

Đông, Tây, Nam, Bắc đều thư thả

Vững bước đường dài bốn mặt thông.

Chú giải: Lối cũ của tâm linh là chỉ những nền đạo đã có từ xưa đến giờ. Phần nhiều các Đạo mà tiền nhân đã theo đều lấy theo văn hóa của các nước mà vị Giáo chủ mở Đạo nên người theo tu học rất khó mà thấu triệt được, như Đạo Phật xuất phát từ Ấn Độ, Đạo Nho Đạo Lão phát xuất từ Trung hoa, cho nên ngoài triết lý cao siêu còn nạn ngôn ngữ bất đồng. Do vậy mà hôm nay sự tu hành của các vị có công mà không thành đạt. Thầy mới đến Việt Nam mở cho mối Đạo nhà, dùng Quốc ngữ làm chánh tự, thật hạnh phúc vô cùng, tất cả những trở ngại giờ này không còn nữa

           Thầy dạy rằng: “Con ôi! trong anh em của con phần dốt nhiều hơn phần hay chữ, đứa ám muội đông hơn đứa thông-minh; Thầy đến chăm-nom dạy-dỗ đứa ngu-dốt hơn là đứa hay giỏi; thà là đứa sáng khôn quá hiểu mà chê Thầy hơn là đứa dốt nghe Đạo Thầy không rõ lý.           Thầy cười rồi tiếp nữa rằng: Thầy muốn Đạo của Thầy làm thế nào cho trẻ con lên ba tuổi cũng hiểu đặng, con nghĩ sao con?“

&

QUẺ 110

Dạ mộng bị thử, đốc tỉnh lai bất kiến nhân.

Chung tiêu phế tẩm. Trực đáo thiên minh.

夜 夢 被 鼠 。篤 醒 來 不 見 人 。

              終 宵 廢 寢 。直 到 天 明。

Dịch nghĩa:   Nằm mơ chuột cắn chăn bông,

Tỉnh ra mới biết người không vắng rồi

Nghĩ suy trằn trọc đêm dài,

Những mong trời sáng một ngày mới hơn.

Chú giải: Điềm chuột cắn chăn bông, chỉ sự không lành, tức nhiên phải quên đi dĩ vãng không tốt. Sự trằn trọc là phải nhiều suy nghĩ, mong “ngày mai trời lại sáng”. Hình ảnh này một người mơ bóng tự do. Bóng tự do ấy không ngoài lẽ Đạo hợp với tình Đời. Sự tình này không chỉ riêng một người, mà cả dân tộc. Từ đó Thầy mới đem Đạo cứu đời: “Thầy khuyên các con nhớ hoài rằng: Thầy của các

con là ông Thầy Trời;  nên biết một ổng  mà thôi,  thì đủ, nghe à !” Thi văn dạy Đạo: 

    Rẫy bái thà quen thú dốt mình.

    Thà là giữa chợ lắm đua tranh.

    Nên hư một kiếp nhờ gần-gũi.

    Kẻ thiện học gương đặng sửa mình

&

QUẺ 111:

Thu sương túc, hạ nhựt viêm, tân hoa tiên liễu cựu hoa yêm. Thế tình khan lãnh noãn, phùng giả bất tu ngôn.

秋 霜 肅 夏 日 炎 。新 花 鮮 了 舊 花 淹 。

           世 情 看 冷 暖 。逢 者 不 須 言。

Dịch nghĩa:  Sương thu nặng, nắng hạ nồng.

Hoa tươi hé nhuỵ thay phần xác xơ

Việc đời ấm lạnh đâu ngờ,

Luận bàn chi nữa biết nhờ cậy ai.

Chú giải: Điềm lành chưa đến, ý mong chờ, tình đời còn đen bạc. Thế thái mà, luận bàn mãi ũng vậy thôi. Chi bằng vui với Đạo, là một điểm tựa bền bĩ nhứt cho đời người.

Ông Thầy Trời dạy: “Thầy vẫn đã thường nói rằng, Thầy đến lập cho các con một nền chơn Đạo tức là mỗi sự chi dối trá chẳng phải là Thầy. Thầy đến là chủ ý để dạy cả nhơn sanh đặng Hòa Bình chớ chẳng phải đến đặng giục nghịch lẫn nhau. Thầy lại thường nói rằng sự sang trọng vinh hiển của các con chẳng phải nơi thế gian này”.

&

QUẺ 112:

Vị triển anh hùng chí, Trì khu bất đạn lao.

Cảm tương hưu cữu bốc. Tây bắc đoạt tiền tiêu.

未 展 英 雄 志 。馳 驅 不 憚 勞。

 敢 將 休 咎 。西 北 奪 前 標

Dịch nghĩa:  Chí hùng chưa phát hiện ra,

Gian lao xuôi ngược phong ba không sờn

Rủi may lẽ ứng thiệt hơn,

Vẻ vang cờ gấm ghi ơn công đầu.

Chú giải: Vận thời trước chưa thông, nhưng chí cả quyết thắng. Tận nhơn lực tri thiên mạng. Thành công sẽ đến.

           Thầy cũng cho biết lòng thương của Thầy đã dành cho sự hiếu đạo của Việt-Nam rất nhiều:“Xưa sanh linh lắm lần hy sinh vì Đạo, song chẳng đặng ân tứ cho bằng các Môn đệ Thầy ngày nay. Các con còn hờn nữa mà ngán lòng dừng bước. Càng khổ hạnh, càng thương tâm thì lòng càng nôn-nóng. Khổ hạnh vì mấy chục triệu sinh linh thì cái khổ ấy có nên tiếc chăng?”

&

QUẺ 113:

A nhiễm trầm trầm, chung nhựt hôn hôn.

Lôi môn nhứt chấn. Thể kiện thân khinh.

痾 染 沉 沉 。終 日 昏 昏 。

雷 門 一 震 。體 健 身 輕

Dịch nghĩa:   Bịnh tình trầm trọng. Hỗn loạn tinh thần

Cửa lôi vang động. Thân thể an lành.

Chú giải: Trước thì rối rắm trong lòng, nhiều nỗi lo âu, nhưng gắng chí, Trời không phụ lòng người. Ắt có duyên                           

Thi văn dạy Đạo

  Động đình trở gót lại ngôi xưa

 Tuổi ấy qui y nhắm đã vừa

 Sân hoạn cùng đường gương ngọc rạng

 Nguồn đào để bước mảnh xuân thưa

 Nhàn chiều nhặt thúc đời vay trả

 Non xế quanh co nẻo lọc lừa

 Khổ hạnh để lòng công quả gắng

 Lánh trần chi nệ nỗi cay chua.

&

QUẺ 114:

Dị phi dị , nan phi nan. Hốt địa khởi ba lan.

Hoan tiếu lưỡng tam phan.

易 非 易。 難 非 難

忽 地 起 波 瀾。 歡 笑 兩 三 番

Dịch nghĩa:     Khó, dễ không phân được lẽ đồng

Đất bằng sóng dậy lý cùng thông

Cực suy đến thạnh cơ trời định

Vui vẻ mấy phen thoả tấm lòng.

Chú giải: Khó dễ là chuyện thường xảy ra, chỉ duy hỏi lại tâm mình có muốn đến đích không ? Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Chuyện Đời đã vậy thì chuyện Đạo cũng vậy.

          Thầy đã dạy: Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết Thương-Yêu nhau trong Thánh-Đức của Thầy, sự Thương-Yêu là chìa khóa mở Tam-Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế-Giới và Bạch-Ngọc-Kinh. Kẻ nào ghét sự Thương-Yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa luân-hồi. Có câu này nữa “Mọi sự khó-khăn Thầy gánh vác, chỉ cậy các con Thương-Yêu, gắng công độ-rỗi(TNII/43)                                                                                                                                        

&

QUẺ 115:

Lộ bất thông, môn bế tắc.

Cẩn thận đề phòng. Vân tàng nguyệt hắc.

路 不 通 。門 閉 塞 。

謹 慎 提 防。 雲 藏 月 黑

Dịch nghĩa:   Đường không thông lối ra vào,

Cửa còn đóng kín làm sao thấu tình ?

Gìn lòng dè dặt chớ khinh,

Trăng mờ vì khuất bóng hình trong mây .

Chú giải: Phải biết sự đời bao giờ vẫn thế: vinh nhục, buồn vui, đừng chấp nê, đừng ngao ngán. Có đủ ý chí thì vượt qua. Trăng đã lên rồi chỉ còn chút áng mây vương, chờ cơn gió qua, mây sáng soi muôn dặm trường, ấy cũng là khúc nhạc lòng réo rắt hòa với nhạc của vũ trụ.

        Đức Giáo Chủ cho biết rằng: “Ngộ-nghĩnh thay! Giờ phút này Qua cho mấy Em biết, chỉ có dân-tộc Việt-Nam về văn-hóa Nho-Tông của chúng ta mới có đặng một cái Nhạc là đều do nơi âm thanh và điều Qua đương nói với mấy Em, cái kinh-dinh của các sắc dân nơi mặt địa-cầu này, cả các quốc-dân xã hội đều nhận điều đó. Nước Trung-Hoa hay các sắc dân chịu ảnh-hưởng cái văn-minh tối cổ của Nho-Tông chúng ta mới có Nhạc, âm-thanh ấy là Lễ.”

&

QUẺ 116:

Oa giác thằng đầu lợi, nhi kim dĩ biến thông.

Thảo đầu nhân tiếu ngữ. Nghi thuỷ bất nghi chung.

蝸 角 繩 頭 利 。而 今 已 變 通 。

草 頭 人 笑 汝。 宜 始 不 宜 終

Dịch nghĩa:  Lợi lộc nhỏ nhen giữa buổi đầu,

Về sau thông đạt có xa đâu ?

Phất phơ ngọn cỏ người đàm tiếu

Trước thành sau hạn lý cao sâu.

Chú giải: Một chút tia sáng ban đầu như vậy cũng đem lại

niềm tin. Níu lấy tia hy vọng đó để tiến đến thành công. Người xưa cũng vậy mà nay ta cũng vậy có khác gì đâu ! Việc nào cũng xuất phát tự trong lòng, vậy nên biết, qua lời Đấng Giáo Chủ dạy Đạo quan trọng này cho nhân loại:

“Giờ phút này Qua giao cho mấy Em một sứ-mạng làm sao cho thiên-hạ nghe ống tiêu Thiêng-liêng đặng tinh-thần nòi giống mấy em đứng dậy định tương-lai vinh quang cho mình. Với cái giọng ngọt dịu của mâý em, làm cho thiên-hạ thức-tỉnh, diệt tiêu bớt hung-hăng bạo ngược. Trái lại đem đến một con đường hòa-huỡn, cao quí, tốt đẹp, êm-dịu; đem lại cái đạo-đức tinh-thần  chiến thắng để cứu-vãn  sanh mạng lòai người. Bởi giờ phút này họ đang đi đến con đường diệt-vong mà chớ!”. 

&

QUẺ 117:

Châu ngọc tẩu bàn trung, điền viên định phụ phong . hưu ngôn mưu vị toại, thử khứ tiện hanh thông..

   珠 玉 走 盤 中。 田 園 定 阜 豐 。

  休 言 謀 未 遂   此 去 便 亨 通。

Dịch nghĩa:  Châu ngọc chảy trong bàn

Vườn ruộng ắt phong quang

Đừng nói lời nghi ngại.

Phen này ắt vẻ vang.

Chú giải: Niềm vui tràn ngập trong lòng, tức là nhạc lòng cùng hòa với nhạc của vũ trụ. Dù thấy trước sự vẻ vang, nhưng đừng lờn, đừng ngạo mạn, giữ vững đức tin. Cũng như người Đạo phải biết tại làm sao Đạo Cao-Đài dùng âm thinh sắc tướng. Phải có ý nghĩa quan trọng lắm đó:

“Từ thử Đạo Cao Đài dùng Lễ-Nhạc và ai cũng cho âm thinh sắc tướng là tà mị, mà căn bản của Đạo Nho là Lễ Nhạc, mà chính Đạo Tam-Kỳ là Nho-Tông Chuyển Thế  thì phải truy tầm nguyên lý của nó mà xác nhận cho đúng nghĩa là thế nào? Đòi phen chúng ta không hiểu được cho uyên thâm khi dâng lễ cho Chí Tôn lúc “Nhạc Tấu Quân Thiên”, hết lớp trống qua lớp đờn bảy bài thì lâu quá có khi phải chồn chân rồi nản chí, chính Bần Đạo cũng vậy, vì nghĩ rằng Chí Tôn tư-vị quôc dân Việt-Nam nên tiền định chi chi cũng làm gương mẫu cho toàn Đại Đồng Thế-Giới mà có Lễ Nhạc này luôn luôn khi dâng lễ, thì ý nghĩa ấy ắt cao trọng lắm là phải.”

&

QUẺ 118:

Nguyệt dĩ minh, hoa tối phát, sự du du, vô bất hợp.

月 已 明 花 最 發。 事 悠 悠 無 不 合。

Dịch nghĩa:  Vầng trăng chiếu sáng mênh mông !

Hoa tươi đua nở còn lồng hương trinh.

Nghĩ suy thêm lắm sự tình,

Thảy đều hoà hợp, tự mình hân hoan.

Chú giải: Cuộc đời tươi đẹp như hoa nở, như trăng lên. Người chỉ mong có thế, nhưng cái vui vật chất dầu bao nhiêu đi nữa cũng phải tương xứng với niềm vui tinh thần thì mới toại và bền bĩ, lâu dài. Đừng quên ! Đừng quên!

         Đức Hô-Pháp cũng cho rằng: “Chính cái đạo-đức tinh thần là của cải số một. Cái của cải thiêng-liêng quí báu nó dành sẵn trong tay của mọi người, mà ít ai có để ý đến, chúng ta chịu nghèo là do nơi mù-quáng không ngó thấy mà thôi. Ấy là cái khổ tâm của bạn hữu-hình. Nếu cái khổ tâm của bạn hữu-hình chúng ta  được  chấm dứt thì chúng ta đã đoạt được nơi mặt thế này đó vậy. Hỏi học Đạo-đức  nơi đâu mà có ? Nếu không ở vào cửa Đạo thì không bao giờ tạo đức được, nên ngày nay Đức Chí-Tôn lập Đạo để cho tất cả chúng-sanh được lập Đức nơi cửa Đạo này đó vậy. Chỉ có Đạo Cao-Đài để tạo Đức cho cả triệu người đặng hưởng, mà Đức ấy của Đạo Cao-Đài làm thì không bao giờ mất. Tôi xin bảo-đảm không bao giờ mất ”     

&

QUẺ 119:

Mông lung thu nguyệt ánh châu môn,

Lâm ngoại điểu thanh tự viễn tăng,

Tự hữu quý nhân lai tiếp dẫn.

Hà tu xảo ngữ tự lưu oanh.

 朦 朧 秋 月 映 珠 門 。林 外 鳥 聲 寺 遠 僧。

自 有 貴 人 來 接 引 。何 須 巧 語 似 流 鶯。

Dịch nghĩa:  Mơ hồ trăng chiếu cửa son,

Chùa tầng vọng tiếng véo von chim rừng.

Qúi nhân tiếp dẫn khá mừng,

Cần gì trau chuốt lời thường giọng oanh.

Chú giải: Người đạo đức luôn hưởng ứng với hương vị đạo đức, một tiếng chuông ngân cũng nhắc nhớ nguồn đào thuở nọ. Tiếng chim rừng cũng gợi niềm u-tịch của người tu. Phải biết cho rõ thời kỳ của Đại Đạo trọng yếu lắm: “Thầy đến đặng hườn nguyên cái chơn Thần cho các con đắc Đạo. Con hiểu “Thần Cư Tại Nhãn” bố-trí cho chư đạo-hữu con hiểu rõ nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.“Thầy khuyên con mỗi phen nói Đạo, hằng nhớ đến danh Thầy”.

&

QUẺ 120:

Sự vị kiến, tâm bất an. Nghi lự cửu. Thuỷ an nhiên.

事 未 見 心 不 安 。疑 慮 久 始 安 然。

Dịch nghĩa:   Việc chưa thấy rõ xa gần,

Tâm không an định, còn ngần ngại lo

Nghĩ suy toan tính liệu dò

Sau rồi tất sẽ yên cho toại lòng.

Chú giải: Lo nghĩ là chuyện tất nhiên: có lo mới có nghĩ, có nghĩ mới giải quyết được mọi việc trước mắt và còn định quyết cả tương lai. Nhưng phải đạt cho được mục đích làm nên cho mình mà còn có lợi cho người nữa. Đừng ích kỷ hại nhân mà ông Trời bớt tuổi đó! Hãy nhớ “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” Tức nhiên nó như sợi dây thung càng kéo ra xa khi buông càng bật mạnh trở lại mình

Đây cũng là đạt được sự minh tâm kiến tánh hay là hồi quang phản chiếu  là đạt Đạo đó. Thi Văn dạy Đạo:

                      Lễ kinh đã dạy kính nhường người

Cái thói kiêu-căng chẳng khó noi

                      Bậc Thánh Châu-Công xưa vẹn Đức

                      Nếu kiêu đời chẳng gọi nên Người !

&


Tiếp theo >


Top of Page

      HOME