TU TÂM
Bổn-Tánh Thánh-Chủ
Diệu-Không Thiền Sư

NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT

Phật Truyện:

Hồi lúc Đức Thích Ca còn tu luyện theo một cách quá khổ hạnh thì Đức Phật Nhiên Đăng hiện ra cầm cây đàn thì dây đàn bị đứt!!! Nhơn đó Phật Nhiên Đăng mới dạy Thích Ca bài học: "Đừng tu quá khắc khổ, nếu không thì cũng như dây đàn bị căng quá mà bị đứt vậy!!!" Nhờ đó mà Thích Ca tỉnh ngộ, bỏ lối tu khổ hạnh mà tu theo con đường Trung Đạo!!!

Kinh Thích Giáo:

Huệ Đăng bất diệt!!!

Chiếu Tam Thập Lục Thiên chi quang minh!!!

\

Quí Cao hữu!

Nhiên Đăng Cổ Phật là Thầy riêng, là Chơn Sư riêng của Đức Thích Ca. Thích Ca tu học được Thầy của mình theo dõi, hộ trì và dạy bảo!!! Còn chúng ta có được một Chơn Sư riêng ngang tầm cỡ như Phật Nhiên Đăng không? Chúng ta hãy tìm hiểu Nhiên Đăng Cổ Phật là ai? Chúng ta có thể gặp được Ngài không?

* Nhiên Đăng Cổ Phật: Đăng: là cây đèn sáng (Hải đăng, Huệ đăng), Nhiên: là tự nhiên có. Nhiên Đăng là ngọn đèn sáng có sẵn tự nhiên. Cổ Phật: là thật xưa không biết tự lúc nào.

Nhiên Đăng Cổ Phật: Là ngọn đèn sáng có sẵn tự nhiên từ lúc xa xưa lắm rồi, không phải mới tạo ra!!! Nói rõ hơn, Nhiên Đăng Cổ Phật chính là cái Điểm Linh Quang, là Phật Tánh, là Bổn Lai Diện Mục đã có sẵn từ xưa của chính mình, không phải bây giờ mới có hoặc do tu tập mới có!!!

Như vậy, mỗi người chúng ta ai cũng có Nhiên Đăng Cổ Phật cả!!! Nhiên Đăng Cổ Phật (Phật Tánh, Chơn Linh...) thì bình đẳng nhau, của chúng ta cũng y như của Đức Thích Ca vậy!!! Như vậy thì có rất nhiều Nhiên Đăng Cổ Phật, không riêng gì Đức Thích Ca mới có!!!

Trong Kinh Tứ Thời có 4 bài Kinh đặc biệt chỉ rõ nguồn gốc cúng tam thể của chúng ta.

1- Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế: Bài Kinh này nói về Đức Thượng Đế, tức là ám chỉ "Khối Đại Linh Quang".

2- Kinh Thích Giáo Nhiên Đăng Cổ Phật: Bài Kinh này nói về "Điểm Tiểu Linh Quang" (Chơn Linh, Bổn Tánh...) do Khối Đại Linh Quang chiết ra mà có, Điểm Tiểu Linh Quang này chính là Đệ Tam Thể của chúng ta.

3- Kinh Tiên Giáo Thái Thượng: Bài Kinh này nói về Chơn Thần là Đệ Nhị Thể của chúng ta (Thái Thượng là Thần Khí, là Âm Dương, tượng trưng Chơn Thần)

4- Kinh Nho Giáo Khổng Thánh: Nói về thể xác là Đệ Nhứt Thể của chúng ta.

Tổng tóm lại, Nhiên Đăng Cổ Phật chính là Điểm Lương Tâm, là một vị Đại Sư chân chính nhất của mỗi người.

NƠI NÀO LÀ PHƯỚC ĐỊA

Kinh Cầu Siêu

Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết!

Giảm hình phạt bớt đường ly tiết!

Xá Linh Quang tiêu diệt tiền khiên.

Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên,

Nơi Phước địa ở yên tu luyện!!!

\

Quí Cao hữu!

Trong một buổi lễ cầu siêu, có một Cao Đạo hữu đột ngột đặt ra câu hỏi: Cung Tiên ở đâu? Nơi phước địa chỗ nào? Chúng ta cũng cần phải biết để đến đó mà ở yên tu luyện chớ!!!

Chúng tôi thử trả lài vài nơi tạm gọi là Phước địa, chẳng hạn như ở tại các chùa Phật, tại các Thánh Thất Cao Đài, tại các Tịnh Thất, kể cả tại Tòa Thánh Tây Ninh nữa, nhưng tất cả chỗ đó không làm ông thỏa mãn với lý do đơn giản là: Theo ông thì những chỗ vừa kể ở trên hiện giờ Phật thì rất ít mà ma cỏ lại xâm nhập quá nhiều, ông không thể tin được những chỗ đó là Phước địa!!!

Như vậy thì theo ý của Quí Cao hữu, Cung Tiên ở đâu? Nơi Phước địa chỗ nào?

Quí Cao hữu!

Như Quí bạn đã biết: Vạn Pháp do tâm tạo. Tâm sanh thì chủng chủng sanh ma!! Tâm diệt thì chủng chủng ma diệt!!! Thiên Thai chẳng phải ở trần này. Chẳng phải trên trời, chẳng phải trên mây! Thiên Thai chỉ có ở trong Tâm của chúng ta mà thôi! Tâm tức Thiên Thai, ngoài Tâm không có Thiên Thai!!! (xem bài Thiên Thai). Như vậy thì Cung Tiên cũng không có ở ngoài Tâm!!! Nơi Phước Địa cũng không có ở ngoài Tâm nữa!!! Tóm, lại, Tâm tức là Phật, tức Thiên Thai, Tâm tức Cung Tiên, Tâm tức Phước địa!!!

Câu Kinh "Nơi Phước địa ở yên tu luyện" có ý dạy rằng: Chúng ta hãy quay vào bên trong cái Tâm của chúng ta mà tu luyện và phải nhớ là ở yên trong đó chớ có bung ra ngoài chạy theo sắc tướng nữa!!! Dĩ nhiên chúng ta phải ở trong cái Chơn Tâm, cái Phật Tánh, cái Chơn Linh, cái Bổn Lại Diện Mục... Các nơi đó mới đúng là Cung Tiên, là nơi Phước địa, mà cũng là cái Tịnh Thất riêng của chúng ta nữa!!! (xem bài Khi tàng bí tạng Như Lai).

Bài Kinh Phụ Tế chứng minh điều trên:

Trụ nguyên Tánh, hồn linh nhàn lạc!!!

Cõi Đào Nguyên cỡi hạc thừa long!!!

Lánh xa trược chất bụi hồng!

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung!!!

Trụ Nguyên Tánh: Ở trong Tịnh Thất riêng của mình, ở trong Bổn Lai Diện Mục của mình, ở trong Chơn Tâm của mình, ở trong Nơi Phước Địa của mình thì mình sẽ được nhàn lạc như ở cõi Đào Nguyên vậy, mặc sức chúng ta cỡi hạc thừa long mà thong dong sớm tối như đang ở Cung Tiên vậy!!!

Tổng tóm lại, Cung Tiên hay là Nơi Phước Địa là cái Nguyên Tánh (Phật Tánh, Bổn Tánh), là cái Bổn Lai Diện Mục, là cái tịnh thất riêng của mình mặc sức chúng ta vào ở yên trong đó tu luyện!!!

Tuy nhiên, muốn cho cái Tâm (Chơn Thần) của mình trụ vào nơi Phước Địa, nhập vào cái Tịnh Thất... thì không phải là một điều dễ dàng, nếu không muốn nói là quá khó khăn!!! Do đó vấn đề dạy Tâm, tu Tâm tức là tu Trí huệ, tu Thiên Đạo là một công phu cần thiết nhất và quan trọng mà tất cả chúng ta đều cần phải quan tâm đến!!!

Đến đây, chúng tôi cũng có thể giới thiệu cho Quí bạn một nơi Phước Địa cụ thể rõ ràng ở bên ngoài cái Tâm!!! (Hãy bình tĩnh, không có mâu thuẫn đâu). Đó là cuốn Kinh Cúng Thiên Đạo và Thế Đạo! Quí bạn hãy ở yên trong cuốn Kinh đó mà tu luyện y theo lời Kinh dạy cho đến lúc thành Đạo mới thôi!!! Khi thành Đạo rồi thì Quí bạn mới nhận thấy rằng: Bất cứ chỗ nào, nơi nào cũng đều là Thiên Thai, là cõi Đào Nguyên, là nơi Phước Địa cả!!!

NGƯƠN THẦN VÀ THỨC THẦN

Thánh Ngôn:

Than ôi! Đã bước chân vào đường Đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn thì phận sự làm môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh Giáo đâu?

\

* Ngươn Thần: Chính là Chơn Linh, là Điểm Linh Quang, là Đệ Tam Thể, là Bổn Lai Diện Mục của mỗi người! (xem bài Kho tàng bí tạng Như Lai).

Ngươn Thần là cái Thần nguyên chất, Linh diệu, trí huệ, viên giác tròn đầy. Ngươn Thần tự nó siêu tuyệt, đầy đủ, khỏi cần tu sửa!!! Nó chính là Chơn Sư riêng của mỗi người. Ngươn Thần (Lương Tâm) có nhiệm vụ dạy dỗ Thức Thần (Phàm Tâm, đệ nhị thể) và phải chịu trách nhiệm theo dõi, kèm sát luôn luôn cái Thức Thần!!! Cho nên, cái Thức Thần (Tâm) nếu còn mê muội, động loạn, đọa lạc, trầm luân thì cái Ngươn Thần lại phải kèm sát dạy dỗ luôn luôn cho đến chừng nào cái Thức Thần đạt được Thánh Thiện mới thôi!!! Lúc đó, cái Thức Thần mới đủ điều kiện hiệp nhứt được với Ngươn Thần, mà ta thường gọi là đắc Đạo!!! Ngươn Thần của mọi người đều bình đẳng, của Phật cũng như của chúng sanh, vì Ngươn Thần chính là Nguyên Tánh, là Phật Tánh của mỗi người.

* Thức Thần: Là Chơn Thần, là đệ nhị thể, là cái Tâm!!! Cái chữ Tâm mà mọi người thường dùng để nói, đó chính là Thức Thần vậy!!! Cái Thức Thần này cần phải được tu sửa, rèn luyện tu tập sao cho ngày càng sáng suốt, trí huệ đạt đến Thanh tịnh Thánh đức để được hiệp nhứt với Ngươn Thần! Đạt được như vậy, thì cái Thức Thần mới tránh khỏi vòng luân hồi sanh tử, mới được giải thoát!!!

Ngươn Thần phải dạy dỗ Thức Thần cho đến đạt được Giác Ngộ để biết theo Chánh bỏ Tà, theo Thanh bỏ Trược, theo Thiện bỏ Ác, theo Tịnh bỏ Động!!! Nếu cái Thức Thần còn phân biệt Chánh Tà, Thiện Ác thì nó còn ở trong vòng nhị nguyên!!! Dạy cái Thức Thần biết bỏ Chánh, bỏ Ác theo Thiện thì Thức Thần vượt qua được Nhị Nguyên nhưng còn chấp nhất nguyên!!! Cho nên Ngươn Thần phải dạy tiếp tục thêm nữa cái Thức Thần cho đạt được vô nguyên thì mới thật sự giải thoát, mới thật sự nhập lưu!!!

"Cung trí giác trụ tinh thần!

Hườn hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên!!!"

Hườn hư mầu nhiệm = Nhập lưu Niết Bàn = Vô nguyên!!!

THẦN CHÚ

Thánh Ngôn:

Gần nơi Tiên Cảnh, phải xa phàm!

Cái kiếp trần này trẻ chớ ham!

Một miếng đỉnh chung trăm giọt thảm,

Phải toan lui gót tránh vòng tham!!!

Thánh ngôn:

Trở chơn ít kẻ lo đi ngược!

Bước đọa xem qua dấu dập dìu!!!

\

Thông thường thì Thần Chú không được dịch ra ngoại ngữ mà phải viết và nhất là đọc thì phải y theo nguyên ngữ, dù đó là Phạn ngữ hoặc là loại cổ ngữ nào đó!!! Điều đó có phải là tuyệt đối không? Thần Chú có thể được dịch ra ngoại ngữ không? Trước khi giải quyết hai câu hỏi này, chúng ta nên tìm hiểu cho rõ nghĩa hai chữ Thần Chú cái đã!!!

Thần Chú có 2 loại:

* Thần Chú loại thứ nhứt:

Chú: một câu văn, một lời nói, chẳng hạn, chú thích có nghĩa là giải thích một câu văn...

Thần: Thần Linh, có tên riêng.

Thần Chú: Là một lời nói sai khiến tên riêng của một vị Thần Linh nào đó để thi hành một công việc nào đó!!! Loại Thần Chú này không thể dịch ra ngoại ngữ nào khác được vì là tên riêng của một vị thần thì làm sao dịch được! Phải đọc trúng tên của vị Thần Linh đó thì ông ta mới phục dịch cho người đọc Thần Chú. Loại Thần Chú này thật là nguy hiểm, chúng ta không nên sử dụng, vì chúng ta phải có đầy đủ "Công lực" mới sai khiến thần linh. Đến một lúc nào đó, cái Thần Linh đó sẽ quật ngược lại chúng ta nếu chúng ta hết "Công lực"!!!

* Thần Chú loại thứ hai:

Chú: Là một câu, một lời nói.

Thần: Là Chơn Thần, là cái Tâm của chúng ta.

Thần Chú: là một lời nói, một câu Kinh để dạy cái Tâm của chúng ta. Theo nghĩa này thì Thần Chú cũng được gọi là Tâm Chú, Tâm Kinh.

Thí dụ:

Thấy CÓ thì bị ràng buộc!!!

Thấy KHÔNG liền được giải thoát!!!

Hai câu thí dụ đó có ý dạy cái Tâm của chúng ta nên được gọi là Tâm Chú, là Tâm Kinh, là Thần Chú!!!

Như vậy, Thần Chú theo nghĩa này (loại thứ hai) thì có rất nhiều, mặc sức chúng ta sử dụng để tu tập để dạy Tâm, để tu Tâm, để tu trí huệ, để tu Thiên Đạo!!!

Tóm lại, loại Thần Chú sai khiến Thần Linh thi hành theo ý muốn của chúng ta thì nên tránh xa. Còn Thần Chú có mục đích dạy Tâm thì chúng ta sử dụng càng nhiều chừng nào, càng tốt chừng nấy!!!

VÃNG SANH THẦN CHÚ

Kinh Hạ Huyệt

Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ!

Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên!

Đưa tay vịn phép diệu huyền!

Ngọc Hư lập vị, Cửu tuyền lánh chơn!!!

\

Vãng Sanh Thần Chú là Tâm chú, là Tâm kinh, tức là một loại Chú để dạy Tâm của một người vừa chết! Đại Từ Phụ khai mở Đạo Trời để độ rỗi chúng ta thật là kỹ!!! Khi chúng ta còn sống khỏe mạnh thì có nhiều bài Kinh dạy Tâm cho chúng ta. Khi chúng ta ăn cơm thì có Kinh tụng trước và sau khi ăn cơm để dạy Tâm của chúng ta. Khi chúng ta đi ngủ hoặc sau khi thức, cũng có những bài Kinh dạy Tâm của chúng ta nữa. Khi chúng ta vào trường học cũng có Kinh dạy Tâm cho chúng ta. Có đủ loại Kinh để luôn luôn dạy Tâm cho chúng ta. Đó là nói lúc chúng ta còn sống mạnh, sống khỏe!!! Còn lúc chúng ta hấp hối sắp chết thì cũng có Kinh dạy Tâm cho chúng ta nữa!!! Đức Thượng Đế có lòng Đại Từ Bi đến nỗi, biết người hấp hối sắp chết không thể tự mình đọc Kinh được, cho nên mới cho các em đồng nhi đọc cho người hấp hối nghe để tỉnh Tâm sửa mình!!! Đó là bài Kinh Cầu Hồn khi hấp hối!!! Nếu như chết rồi thì cũng có bài Kinh khi đã chết rồi, kế đó là Kinh Tẩn Liệm, là Kinh Cầu Siêu, Kinh đưa Linh Cửu, Kinh hạ huyệt và Vãng Sanh Thần Chú!!!

Tất cả các bài Kinh nói trên kể cả bài Vãng Sanh Thần Chú cũng đều có một mục đích duy nhất là dạy bảo và nhắc nhở cái Tâm của chúng ta từ lúc còn sống mạnh khỏe, lúc bịnh, lúc hấp hối kể cả lúc đã chết rồi!!! Điều này chứng minh cho chúng ta thấy rằng vấn đề dạy Tâm, tu Tâm, tu Trí huệ tức là tu Thiên Đạo là một vấn đề thật là quan trọng và rất khẩn thiết!!!

Chúng ta trở lại vấn đề Vãng Sanh Thần Chú.

* Vãng Sanh: Chấm dứt sự sống, tức là chết!!! (Thí dụ: Vãng hát là xong tuồng hát, là hát xong rồi).

* Thần Chú: Là bài Kinh dạy Tâm của chúng ta.

* Vãng Sanh Thần Chú: Là bài Kinh dạy Tâm chúng ta khi chúng ta mới vừa hết sự sống (vãng sanh = chết).

Bài Vãng Sanh Thần Chú toàn bằng chữ Phạn A đi đa bà dạ... thì làm sao chúng ta hiểu được!!! Cho nên, chúng ta có thể tạm mượn một số câu Kinh khác để làm bài Vãng Sanh Thần Chú cho riêng chúng ta.

Chẳng hạn:

"Nắm cây Huệ Kiếm Gươm Thần!!!

Dứt tan thế sự nợ trần từ đây!!!"

Hoặc là:

Phi thường Huệ Kiếm mau cầm lấy!!!

Vào cửa không môn, đón Phật Đà!!!

XÃ PHÚ CẦU BẦN

Thánh Ngôn:

Đừng quá so đo việc phú bần!

Bần mà thanh tịnh mới nên thân!

Thân trau khổ hạnh, thần đừng nệ!

Nệ khó mong chi thoát kiếp trần!

\

Quí Cao hữu!

Chúng ta phải nhìn nhận một sự thật là: Một người quá nghèo đói thì thật khó tu hành hay nói đúng hơn là không thể nào tu hành được, nhất là vào cái thời Hạ ngươn mạt pháp này!!!

Nghèo đói thì sức khoẻ không có, Tam Bửu bị hao mòn, tự lo cho chính mình còn không được thì còn nói gì đến việc lập công quả vị tha cho xã hội!!! Nghèo đói thì khó tu! Đó là một thực tế!!! Vì suốt ngày chỉ lo chạy gạo, lo nạn áo cơm thì đâu còn sức khoẻ để lo công phu, cũng như đâu có thì giờ để lo Công quả được!!!

Thế mà, tại sao lại có câu khuyên chúng ta hãy xã PHÚ cầu BẦN!!! Lời khuyên này có mâu thuẫn với thực tế phủ phàng không?

Ngày xưa Đức Thích Ca cũng phải bỏ lối tu khổ hạnh (cũng như nghèo đói thì làm gì còn tinh khí sức khoẻ để mà hoàn tinh bổ não chớ!!!) mà theo lối tu Trung Đạo!!! Mà bây giờ lại khuyên chúng ta hãy xã PHÚ cầu BẦN thì thật là khó nghĩ quá!!!

Quí Cao hữu!

Câu xã phú cầu bần không có mâu thuẫn với thực tế cũng như không khó nghĩ lắm đâu!!! Lời khuyên này rất đúng vì người tu nào cũng cần phải biết xã phú cầu bần!!!

Tuy nhiên, chúng ta xã phú cầu bần theo một ý nghĩa mới, một ý nghĩa bóng bẩy cao xa!!!

* PHÚ: Là giàu sang nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng: Phú là rườm rà, là phức tạp, là nhiều tạp niệm, là nhiều dục vọng!!!

* BẦN: Là nghèo khổ nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng: Bần là đơn giản, là nhất Tâm, là Vô Tâm, là tự tại!!!

Như vậy, theo cái nghĩa bóng thì người tu hành cần phải từ bỏ những cái tạp niệm, những cái rườm rà phức tạp, những cái dục vọng quá nhiều của mình (XÃ PHÚ) để chọn lấy cái đơn giản, cái giản dị, cái nào ít bận tâm phiền não nhất! (CẦU BẦN).

Tóm lại, muốn tu hành thì chúng ta phải ráng đừng có nghèo vì nghèo thì khó Công phu cũng như khó lập công quả lắm!!! Cho nên, chúng ta phải biết sống giản dị những cũng phải biết quí trọng lao động!!! Và chúng ta hãy luôn luôn cảnh giác:

"Giác Ngộ mà thiếu gạo!

Thì coi chừng mất Đạo!!!"

NHÀN ÂM ĐẠO TRƯỞNG

Nhàn Âm Đạo Trưởng giáng cơ:

Chư Đạo hữu biết trước, muốn rèn lòng đạo đức phải khởi nơi đâu cho chắc bước đường chăng?

Đạo đức cần trau nơi TÂM là chỗ chẳng ai thấy được. Rèn trau cho thuần Tâm, mỹ Tánh, rồi mới tu lần đến bề ngoài, trọn vẹn hết cả ngoài trong thì chừng ấy thân hình tâm trí chắc khư, nào ai chuyển lai cho được!!!... Chuộng hữu hình mà quên các điều huyền bí chơn truyền thì cũng như có xác không hồn!!! Than ôi! Có thể hình xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây bên trủng!!! Có cây đèn dầu mà thiếu hơi lửa nhen lên thì cũng phải mờ mịt thâm u, trông chi soi sáng!!!

Ấy vậy nên biết mà răn mình, cái TÂM là vật người không thấy được, khá giồi trau nó trước!!!

\

Chúng ta hãy cùng nhau đến xin diện kiến Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng để cầu Ngài chỉ giáo cho chúng ta.

Âm: Là âm chất, là hình hài, là thể xác của chúng ta. Cái gì thấy được rờ được, có hình tướng đều thuộc Âm. (Âm tụ thành hình, Dương tán thành khí)

Nhàn: Là an nhàn, là không quá khổ hạnh!

Đạo: Là tinh thần, là Trí huệ, là cái Tâm!

Trưởng: Là phát triển, là tăng trưởng, là tiến hóa!

* Nhàn Âm: Là cái thể xác của chúng ta không nên theo lối tu quá khổ hạnh (hành xác) cũng như Đức Thích Ca phải bỏ lối tu khổ hạnh mà theo đường tu Trung Đạo vậy!!!

* Đạo Trưởng: Nhờ tu theo lối Trung Đạo (Nhàn Âm) mà cái Tâm (Đạo) của chúng ta mới tăng trưởng, mới phát triển, hay nói khác đi là cái Tâm của chúng ta mới được sáng suốt, mới có trí huệ, mà trí huệ chính là hơi lửa nhen lên cho cây đèn dầu!!!

Tóm lại, muốn cho cái Tâm được sáng suốt, được trí huệ (Đạo Trưởng) thì chúng ta không hành xác thái quá (Nhàn Âm)!!! Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta cứ tà tà ở không mà ăn!!! Cũng như bài trước, chúng ta nên sống giản dị (Nhàn Âm) nhưng cũng phải biết quí trọng sự lao động!!! (Để lo nuôi dưỡng bản thân chớ!!!).

 

THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ

Kinh Niệm Hương:

Đạo gốc bởi lòng THÀNH TÍN hiệp!

Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra.

Mùi hương lư ngọc bay xa,

Kính thành cầu nguyện TIÊN GIA chứng lòng!!!

\

Chúng ta hãy cùng nhau đến xin diện kiến Đức Thái Thượng Đạo Tổ để cầu Ngài chỉ giáo!

Thái: Phái Thái, màu vàng = Thần = Dương.

Thượng: Phái Thượng, màu xanh = Khí = Âm.

Thái Thượng: Tượng trưng thần khí, Âm Dương!!!

Tổ: Là nguồn gốc, là căn bản, là căn cội.

Đạo Tổ: Là nguồn gốc của Đạo!!!

Đức Thái Thượng dạy cho chúng ta biết rằng: Nguồn gốc của Đạo chính là Âm Dương, là thần khí, là Thái Thượng, là Thành Tín... Chúng dung hòa hiệp nhứt lại thành MỘT, thì đó là Đạo!!! Nhất Âm, nhất Dương chư vi Đạo mà!!! Đạo chính là Thái Cực mà trong đó có lưỡng nghi (Âm Dương)!!! Đạo chính là Một, là Nhất Nguyên mà trong đó có Nhị Nguyên!!! Không thể hủy bỏ lưỡng nghi mà đòi còn Thái Cực được!!!

Nguồn gốc của Đạo là Thần Khí, là Âm Dương thì còn nghe được!!! Còn nói nguồn gốc của Đạo là Thành Tín thì Quí bạn chắc còn nghi ngờ!!! Bạn khỏi nghi ngờ vì câu Kinh đã chứng minh điều đó.

Đạo gốc bởi lòng THÀNH TÍN hiệp!!! Tuy nhiên chúng ta cũng cần giải phẩu hai chữ Thành Tín để chúng ta hiểu được rõ ràng hơn.

* THÀNH: Là lòng nhiệt thành, là lòng hưng phấn của mình, là cái hạ quyết tâm của chính mình!!! Phàm làm bất cứ việc gì kể cả Đời lẫn Đạo mà không có lòng nhiệt thành hăng hái, không có quyết tâm thì công việc không thể thành công được!!!

Do đó, THÀNH là một yếu tố quan trọng để thành công, nhất là trong việc tu Tâm!!! Muốn có lòng nhiệt thành hăng hái thì phải có sức khoẻ, phải có khí lực mạnh mẽ!!!

Do đó, chữ THÀNH biến thành đồng nghĩa với khí lực vậy. Hay nói cách khác đi THÀNH chính là Khí vậy!!!

* TÍN: Là đức tin, là tin tưởng! Nói đến đức tin thì phần đông hiểu là tin tưởng có Đấng Tạo Hóa, là tin tưởng có Chư Thần Thánh Tiên Phật ... Nhưng ở đây chữ TÍN có thêm một ý nghĩa riêng là tin tưởng vào sự thành công trong việc làm của chính mình!!! Nhất định phải thành công!!! Đó là đức tin (chữ TÍN) hiểu theo nghĩa cụ thể và thực tế!!! Phàm làm bất cự việc gì mà mình luôn luôn tin tưởng nhất định sẽ thành công thì trước sau gì mình cũng phải đạt được thành công!!! Do đó TÍN, tức là đức tin, cũng là một yếu tố rất quan trọng để thành công trên đường Đời cũng như trên đường Đạo vậy!!!

TÍN là đức tin nên thuộc về lãnh vực của ý chí, của Tinh Thần. Do đó, chữ TÍN biến thành đồng nghĩa với thần lực. Hay nói khác đi, TÍN chính là THẦN vậy!!!

Nói tóm lại THÀNH và TÍN là hai yếu tố thành công thật là quan trọng!!! Nếu chúng ta cộng hưởng, hòa hiệp nhau (Thành Tín hiệp) thì sự thành công là một điều thật chắc chắn vậy!!!

Nói riêng trên đường Đạo, nhất là trên con đường tu Tâm, tu trí huệ, tu Thiên Đạo thì TÍN chính là THẦN (thần lực) và THÀNH chính là KHÍ (khí lực). Hay nói khác đi thì TÍN THÀNH chính là THẦN KHÍ mà Thần Khí (Thái Thượng) là Âm Dương, là nguồn gốc của Đạo Tu Tâm vậy!!! (Đạo Tổ). Cho nên nó mới có một câu Kinh đầu tiên trước hết của mỗi thời cúng mà bất cứ tín đồ Cao Đài nào cũng thuộc lòng hết!!! (Thuộc lòng là một việc, còn hiểu nghĩa lại là một việc khác!!!). Đó là câu Kinh Niệm Hương:

ĐẠO GỐC bởi lòng THÀNH TÍN hiệp!!!

PHẬT TỔ

Kinh Cầu Siêu:

Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,

A Di Đà Phật độ chúng dân.

Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc!!!

\

Chúng ta hãy cùng nhau đến xin diện kiến Đức Phật Tổ để cầu Ngài chỉ giáo bốn câu Kinh Cầu Siêu nói trên.

Đầu: Là Bộ Não, là Chơn Thần, là cái Tâm!

Vọng bái: Là hướng về chỗ nào! Ở đây là nói hướng về Tây Phương.

Tây Phương: Nghĩa đen là Phương Tây là phương Mặt Trời lặn!!! Nghĩa bóng Tây Phương là cõi Tịnh, là chỗ không có các việc động loạn!!!

Phật: Nghĩa đen là Ông Phật, nghĩa bóng Phật là trí huệ, là Chánh Giác, là Huệ Quang...

Tổ: Là căn cội, là nguồn gốc...

Phật Tổ: Là nguồn gốc sinh ra trí huệ Bát Nhã, là căn cội của sự sáng suốt. Ở đây Phật Tổ không phải là Ông Tổ của các vị Phật đâu!!!

Như vậy thì Đức "Phật Tổ" dạy chúng ta như sau: "Muốn có sự sáng suốt, muốn có trí huệ Bát Nhã, muốn có Huệ Quang thì cái Tâm chúng ta phải hướng về Cõi Tịnh, hướng về Nơi Phước Địa, Tâm lúc nào cũng nghĩ đến những điều Thánh Thiện, Thanh Tịnh, Tinh Khiết!!! Làm được như vậy thì đó chính là căn cội sinh ra Trí Huệ!!!

A Di Đà Phật: Người Tàu dịch là Vô Lượng Quang Phật!!! Vô Lượng Quang Phật là vô số ánh sáng tức là ám chỉ cái Trí Huệ Bát Nhã!!! Nói rõ hơn, A Di Đà Phật là tượng trưng cho Trí Huệ Bát Nhã!!! Trí Huệ Bát Nhã chính là A Di Đà Phật!!!

Khi chúng ta "Đầu vọng bái Tây Phương" thì chúng ta sẽ đạt được Trí Huệ Bát Nhã (thành Vô Lượng Quang Phật, thành A Di Đà Phật).

Lúc này chúng ta mới có quyền đi độ rỗi các chúng dân!!! (vì chúng ta đã có được Vô Lượng Quang tức là có Trí Huệ Bát Nhã). Nếu chúng ta còn u tối ngu muội (tức là chưa đạt Trí Huệ) mà háo danh đi độ người thì coi chừng kẻ mù mắt dắt người đui đi lọt xuống hố hết trọi!!!

Đức Phật Tổ cũng dạy chúng ta muốn vớt lê thứ khổ trần đọa lạc thì chúng ta phải lân mẫn, phải ân cần trong Công quả: "Phổ độ và Tế độ".

Nhất là chúng ta cần phải lân mẫn, ân cần hơn hết trong công quả Tế độ, tức là cứu đói, cứu bịnh, cứu khổ, cứu nạn cho chúng dân!!!

ĐỨC HỘ PHÁP

Thánh Ngôn:

Sanh tiền cụ pháp, vô công trác!!!

Tử hậu cùng đồ, uổng lộ diên!!!

Thánh Ngôn:

Ngày nay, Đạo đã khai tức là Tà khởi!!! Vậy thì các con phải hết lòng, hết sức mà tự gìn giữ lấy mình!!!... Thầy cho yêu quái được quyền lấy danh Thầy mà cám dỗ!!! Các con chớ buồn vì Thiên Cơ phải vậy!!! Thi nhiều đậu ít là lẽ hằng!!! Các con liệu phương thế mà nâng đỡ Đức tin của môn đệ cao lên hàng ngày! Đó là công quả đầu hết!!!

\

Quí Cao hữu!

Trong bài này, chúng ta không có ý đề cập đến cá nhân Đức Ngài Phạm Công T. mà chỉ muốn tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ Hộ Pháp và nhiệm vụ của một vị Hộ Pháp trong tôn giáo, đặc biệt là trong Đạo Cao Đài.

* Pháp: (xin xem bài Đắc Đạo) là phương tiện hữu hình hoặc vô hình.

* Hộ: Là hộ trì, là giám hộ, là giúp đỡ.

* Hộ Pháp: Là một phương tiện hộ trì, bảo vệ và giúp đỡ chúng ta. Một thí dụ về Hộ pháp hữu hình: Một ông già đi đêm có cầm theo một cây gậy để đánh đuổi các con chó khỏi bị chúng cắn, thì cây gậy đó được gọi là Hộ pháp cho ông già! Một thí dụ về Hộ pháp vô hình: Một Đấng thiêng liêng nào đó theo hộ trì giúp đỡ chúng ta tu hành thì vị đó được gọi là Hộ pháp cho chúng ta!!!

Trong Đạo Cao Đài có một Vị hộ trì gìn giữ các Tín đồ của Đạo tu hành, đó là Đức Phạm Hộ Pháp!!! Ngoài Đức Phạm Hộ Pháp là một Vị thường trực hộ trì, chúng ta cũng được các Đấng thiêng liêng khác theo giúp đỡ chúng ta tu hành chẳng hạn như Đức Quan Âm, Đức Quan Thánh... kể cả Vị Thần Hoàng Bổn Cảnh cũng được Sắc Chỉ của Đức Thượng Đế ra lịnh phải hộ trì bảo vệ tất cả các Cao Đạo hữu nữa!!!

Như vậy thì chúng ta cứ tin tưởng mà lo tu hành chân chính, đừng sợ không có người hộ trì!!! Chỉ sợ các Cao Đạo hữu không có quyết tâm tu hành, không có lòng nhiệt thành muốn tu giải thoát!!! Chư thần Hộ Pháp nói chung, Đức Phạm Hộ Pháp nói riêng, chỉ hộ trì giúp đỡ cho các đạo hữu có lòng thành tín, quyết tâm chân chính tu hành, chớ các Ngài không có hộ trì cho những kẻ phản Thầy, phản Đạo, Phạm Ngũ Giới Cấm Tứ Đại Điều Qui mà không chịu ăn năn sám hối!!! Các Ngài sẵn sàng "thanh toán" các loài ma quái đến quậy phá người tu hành chân chính. Tuy nhiên, các Ngải chỉ bảo vệ bên ngoài thân Tâm của chúng ta mà thôi!!! Còn các loài ma ở trong thân Tâm của chúng ta thì tự chúng ta tìm cách "thanh toán" lấy, chớ các Ngài không có quyền can thiệp vào bên trong cái nhà riêng của chúng ta!!! Như vậy thì làm sao đây? Các loài Ma ở bên trong thân Tâm lại dữ dằn hơn hẳn các loài Ma ở bên ngoài!!! Nếu các loài Ma bên trong rủ rê, mời mọc các loài Ma ở bên ngoài vào nhập bọn thì các Ngài Hộ Pháp cũng không thể can thiệp được, vì đó chính là ý muốn của người tu hành không chân chính!!! Do đó, các loài ma bên trong thân Tâm chính là Thập Tam Ma!!! (Thất tình + Lục dục) Thập Tam Ma thật đáng sợ vì chúng làm chủ động, làm chủ các loài Ma!!!

Quí Cao hữu!

Ở bên ngoài thân Tâm thì có các Ngài Hộ Pháp hộ trì chúng ta. Còn ở bên trong thì lấy ai hộ trì chúng ta? Lấy cái gì làm Hộ Pháp để chủ trị Thập Tam Ma đây?

Quí Cao Đạo hữu muốn chủ trị được Thập Tam Ma ở trong cái nhà riêng của mình thì chỉ có một cách duy nhất là rèn luyện được một cây Huệ Kiếm. Cây Huệ Kiếm này chính là Hộ Pháp riêng của mỗi người tu chúng ta!!! Cây Huệ Kiếm này còn được gọi là Cây Gươm Thần, là Cây Kim Tiên, là Chiếc Roi Thần, là Cây Giáng Ma Xử, là Gươm Huệ... Sau đây là một số câu Kinh để chứng minh:

? Nắm cây Huệ Kiếm Gươm Thần!

Dứt tan sự thế nợ trần từ đây!!!

? Dâng lên Huệ Kiếm xin cầm!

Chặt lìa trái chủ, đặng tầm Ngôi Thiên!!!

? Cầm Gươm Huệ chặt tiêu oan trái!

Độ dẫn quần sanh diệt quả nhân!!!

? Trừ Quái khí, Roi thần chớp nhoáng!

Bộ Lôi Công giải tán trược quang!!!

* Làm sao tạo được Cây Huệ Kiếm: Phải có công phu dày dặn và một thời gian lâu dài mới tạo được Cây Huệ Kiếm. Quí Cao hữu nên đọc lại kỹ các bài đã viết sau đây thì sẽ thấy được cách rèn Huệ Kiếm:

+ Năng chiếu Diệu Quang.

+ Chánh Niệm hiện tiền.

Thái Cực Đăng.

Tắm Thánh.

+ Huỳnh Đình Kinh

Thuyền Bát Nhã

+ Xâu chuỗi Bồ Đề

Định Vị Pháp

Lục độ

+ Giác ngộ

Nơi nào là Phước địa

Thần Chú

Thái Thượng Đạo Tổ

Phật Tổ...

* Người mới tu làm sao có Cây Huệ Kiếm:

Phải công phu một thời gian dài mới có Cây Huệ Kiếm. Vậy trong thời gian dài đó thì lấy cái gì làm Huệ Kiếm, lấy cái gì làm Hộ Pháp?

Dĩ nhiên, người mới tu làm gì có Huệ Kiếm liền ngay được!!! Cho nên, người mới tu phải mượn Cây Huệ Kiếm của người khác mà dùng. Mượn của ai? Đó là mượn Cây Huệ Kiếm của Đại Từ Phụ!!! Cây Huệ Kiếm của Đại Từ Phụ rất là siêu tuyệt, có thể trị Ma bên trong lẫn Ma bên ngoài!!! Đó là câu Thần Chú của Thầy:

NAM MÔ: CAO ĐÀI TIÊN ÔNG, ĐẠI BỒ TÁT, MAHATÁT.

Tuy nhiên, muốn cho Câu Chú của Thầy, tức là Cây Huệ Kiếm đạt được hiệu quả tối đa thì người niệm chú (để trị ma) phải có Bộ Lôi Công (xem bài Tâm tức Phật) nghĩa là phải có 2 điều kiện:

1. Đức tin vào Câu Chú phải tuyệt đối không một chút xíu nghi ngờ (chữ Tín).

2. Phải có một ý chí thật vững mạnh (chữ Thành) hạ quyết tâm trừ Ma!!!

Câu Chú của Thầy là Cây Phi Thường Huệ Kiếm mà chúng ta luôn luôn "Cầm trong tay" để tự cảnh giác đối với các loài Ma!!!

Phi thường Huệ Kiếm luôn cầm lấy!

Vào cửa không môn, đón Phật Đà!!!

Quí Cao hữu!

Tóm lại, bên ngoài thân Tâm người tu hành thì có Đức Hộ Pháp hộ trì bảo vệ; còn bên trong thân Tâm thì có cây Kim Tiên (tức Cây Huệ Kiếm) hộ trì chúng ta. Người mới tu thì mượn câu Chú của Thầy làm cây Kim Tiên.

Tuy nhiên, nếu người tu không có tự lực mà chỉ ỷ lại vào Đức Hộ Pháp và câu Chú của Thầy thì không được đâu!!! Tha lực chỉ hộ trì giúp đỡ cho người tu có tự lục công phu mà thôi!!! Do đó, chúng ta phải chí thành công phu thì mói mong nhận được sự hộ trì giúp đỡ của các tha lực!!!

TIỀN ĐỊNH

Đạo ngôn:

Nhất ẩm, nhất trác giai do tiền định!!!

Thánh Ngôn:

Tức quá! Chẳng biết tỏ cùng ai!

Hiền đức mà sao chịu khổ hoài!!!

Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,

Cũng là VAY TRẢ: Luật xưa nay!!!

\

Quí Cao hữu!

Một hớp nước, một miếng ăn cũng do Tiền Định!!! Có đúng như vậy không??? Tiền định là gì?

Theo định nghĩa mà mọi người thường hiểu thì Tiền định là số phận đã được định trước, không thể thay đổi, không thể tránh được!!! Nếu hiểu theo nghĩa này thì chúng ta đừng lo gì hết, cứ buông trôi để cho Tiền định xoay chuyển!!! Thật là một điều sai lầm to lớn!!! Không thể buông trôi được!!! Không thể "Cũng liều nhám mắt đưa chân" được!!! Chúng ta phải tận nhơn lực mới tri được thiên mệnh!!! Phải tự mình gieo giống tốt, mới được hưởng quả tốt. Gieo giống nào sẽ được hưởng quả nấy. Gieo đậu được đậu. Trồng mía được mía, làm thiện gặp lành, làm ác gặp dữ!!! Nhân nào Quả nấy! Không bao giờ sai trật!!! Lưới trời lồng lộng mà một mảy lông cũng không lọt!!! Như vậy, thì Tiền định phải được hiểu như thế nào?

Câu Đạo ngôn ở trên phải được sửa lại như sau đây mới rõ nghĩa và không có tạo ra sự hiểu lầm: "Nhứt ẩm, nhứt trác giai do NHÂN DUYÊN tiền định!!!". Mọi kết quả, mọi hậu quả đều có nguyên nhân của nó trước đó!!! Không có cái gì, điều gì mà tự nhiên có được!!! Nguyên nhân trước đó và duyên cảnh trước đó tạo ra cái Quả hiện tiền hôm nay cho chúng ta!!! Cái nhân duyên đã tiền định cho chúng ta!!! Vậy Tiền định phải hiểu theo nghĩa Luật Nhân Quả mới đúng!!! Hiểu theo nghĩa này thì chúng ta mới tích cực làm tốt cái nhân duyên để được hưởng cái Quả tốt do chính "cái tận nhân lực" của chúng ta!!!

Luật Nhân Quả là Thiên Cơ, là cái Máy Trời, là cái Lưới Trời bao trùm và chi phối cả Vũ Trụ!!!

Hiểu theo nghĩa của Luật Nhân Quả thì Tiền định tức là Nhân duyên định!!! Nói khác đi thì số mệnh của mỗi người không phải là cái Định mệnh cứng ngắt!!! Mà số mệnh của chúng ta vẫn có thể được thay đổi cho tốt hơn do các hành tàng thánh thiện của chúng ta!

Luật Nhân Quả cho biết làm ác phải gặp ác, hành thiện phải được hưởng thiện. Vậy mà tại sao lại có người than:

Tức quá! Chẳng biết tỏ cùng ai!

Hiền đức mà sao chịu khổ hoài!!!

Vậy thì Luật Nhân Quả tức là Máy trời bị trục trặc chăng? Thưa không phải thế, tại vì "Hiền đức mà bị khổ hoài" cũng có lý do của nó, cũng có nhân duyên của nó! Cho nên Đức Lý mới có dạy:

Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,

Cũng là VAY TRẢ: Luật xưa nay!!!

Tóm lại, hễ có vay là phải trả! Nhân nào Quả nấy không sai! Hễ có tiền duyên thì phải có hậu quả!!! Cho nên, nếu chúng ta muốn sửa đổi số mệnh cho được tốt đẹp hơn thì chúng ta cần phải tu Tâm và hành thiện tạo phước!!!

Do đó, chúng ta cần phải luôn luôn nhớ câu:

"Đức năng thắng số"

 Tâm kệ:

Hễ sanh sự thì sự liền sanh!!!

Tại mình vời nên nó mới theo mình!!!

Cho nên:

Tạo bể dâu thì dâu bể đến liền!

Tạo ra nghiệp chướng thì có liền oan khiên!!!

 

THIÊN CƠ

Thánh Ngôn:

Thiên cơ đã lộ lúc khai Trời!

Kêu khách phàm trần đã hụt hơi!

Cứ mãi vinh hoa cùng lợi lộc!

Chẳng lo cái chết đến gần nơi!!!

Thánh Ngôn:

Lại có lắm kẻ đáng thương hại tự phụ rằng họ hiểu thấu cả lẽ mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa. Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần này tiết lậu Thiên Cơ cả!!! Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện, Thầy không bao giờ không cảm ứng đối với những cầu nguyện chơn thành!!!

\

Quí Cao hữu!

Trong bài "Huỳnh Đình Kinh" chúng ta có nói đến Thiên Thơ, còn trong bài này chúng ta xin cùng Quí bạn tìm hiểu hai chữ Thiên Cơ.

Thiên Cơ: Trong Đạo Cao Đài có "Đại Ngọc Cơ" để Đức Thượng Đế giáng điển xuống qua Đại Ngọc Cơ mà khai mở Đạo Trời và dạy đạo. Về hữu hình thì tạm gọi là Cây "Đại Ngọc Cơ" đó chính là Thiên Cơ vậy! Nội dung Đại Ngọc Cơ giáng dạy được sưu tập thành quyển Thánh Ngôn thì quyển Thánh Ngôn đó được gọi là Thiên Thơ vậy!!! Thánh Ngôn cũng được gọi là Thiên Cơ đã lộ!!!

Lúc khai Trời: Hiểu theo nghĩa gần và cụ thể thì lúc khai Trời là lúc khai mở Đạo Trời tức là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, gọi tắt là Đạo Cao Đài. Đó là lúc vào năm Giáp Dần 1926.

Đạo Trời khai mở để kêu gọi chúng sanh phải biết sợ cái chết đã gần kề mà lo tu đức sửa mình hầu trở về chỗ Thái Bình Cực Lạc là quê xưa cảnh cũ của mình. Nhưng phần đông chúng sanh không ai nghe thấy lời kêu gọi đó cả vì cứ mê mãi vinh hoa cùng lợi lộc mà thôi!!!

Thiên Cơ mà Đức Thượng Đế để lộ trong quyển Thánh Ngôn thì chúng ta có quyền tìm hiểu học hỏi. Còn Thiên Cơ mầu nhiệm bí mật mà Đức Thượng Đế chưa lộ thì chúng ta không dám bàn đến. Hơn nữa, chúng ta có biết đâu mà bàn!!!

Hai chữ Thiên Cơ còn có thêm một nghĩa khác nữa: Thiên Cơ là Máy Trời, là Luật Nhân Quả, là Lưới Trời lồng lộng mà một mảy lông cũng khó lọt!!!

ĐỨC NHƯ LAI

Kinh Pháp Hoa:

Vào nhà Như Lai

Mặc áo Như Lai

Ngồi Tòa Như Lai

Đạo Ngôn:

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư!

Học hành không thiếu cũng không dư!

Đến nay tính lại đà quên hết!

Chỉ nhớ trong đầu một chữ NHƯ!!!

\

Quí Cao hữu!

Trước hết chúng ta tìm hiểu hai chữ Như Lai.

NHƯ: Đi ra. Cái gì rời khỏi bản thân của mình mà ra đi gọi là Như. Thí dụ cái đồng hồ của ta đang đeo mà bị rơi mất đi thì đó gọi là Như.

LAI: Đến. Cái gì đến với bản thân mình thì gọi là Lai. Thí dụ khách vãng lai là khách đến địa phương của mình đang ở. Một thí dụ khác nữa là vô tình ta bị một người lạ mặt đánh một bạt tay (vì có sự hiểu lầm) thì đó cũng gọi là Lai.

Tóm lại, việc gì đến với ta thì gọi là Lai, còn việc gì rời khỏi ta mà đi thì gọi là Như! Việc đến (Lai) cũng như việc đi (Như) thì có khi là việc vui, việc may hoặc có khi việc buồn, việc rủi!

Bây giờ chúng ta hiểu đoạn Kinh Pháp Hoa đã nói ở trên.

* Vào Nhà Như Lai: Hiểu theo nghĩa đen thì vào nhà Như Lai là qui y Tam bảo xin làm Phật tử, còn theo nghĩa bóng thì vào nhà Như Lai là hiểu được rõ nghĩa của hai chữ Như Lai đã nói ở trên!!!

* Mặc áo Như Lai: Hiểu theo nghĩa đen thì mặc áo Như Lai là người Phật Tử thực hành theo lời dạy của Phật ở trong các Kinh Thượng Thừa Phật Giáo. Còn hiểu theo nghĩa bóng thì mặc áo Như Lai là thực hành cái Tâm không động trong mọi hoàn cảnh vui buồn may rủi! Tâm Như Lai là Tâm bình tĩnh, tự nhiên và chấp nhận vui vẻ tất cả!!!

Dù có cái gì rời khỏi Ta (Như) hoặc dù có cái gì xảy ra đến cho Ta (Lai) thì Tâm ta vẫn giữ được bình thường, vẫn luôn luôn được an lạc tự tại! Thực hành hai chữ Như Lai theo nghĩa này thì thật là khó!!! Thực hành như vậy gọi là mặc áo Như Lai!!! Mặc áo Như Lai rất khó, cho nên khi chúng ta cởi áo Như Lai ra, rồi lại mặc áo Như Lai vào!!! Điều đó có nghĩa là có lúc chúng ta giữ được Tâm bình thường, an lạc, rồi có lúc chúng ta mất bình tĩnh, sân si nổi lên đùng đùng!!!

* Ngồi Tòa Như Lai: Hiểu theo nghĩa đen thì Ngồi Tòa Như Lai là người Phật Tử thực hành lời dạy của Phật đạt đến được Phật Quả rồi lúc đó người Phật Tử xứng đáng ngồi Tòa Như Lai! Còn hiểu theo nghĩa bóng thì Ngồi Tòa Như Lai ám chỉ người tu lúc nào cũng mặc áo Như Lai (tức là Tâm lúc nào cũng bình thường, an lạc) không bao giờ cởi áo Như Lai ra (tức là không bao giờ mất bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh) thì người tu rất xứng đáng ngồi Tòa Như Lai! Nói rõ hơn nữa là người đó đã thành Phật!!!

* Chơn Như: người tu nào đã được ngồi Tòa Như Lai thì gọi là người đó đã được Chơn Như Lai (bất cứ lúc nào cũng được bình tĩnh, an lạc và tự tại). Chơn Như Lai gọi ngắn gọn hơn thì gọi là Chơn Như, hoặc ngắn gọn hơn nữa thì gọi là NHƯ!!!

Chỉ nhớ trong đầu một chữ Như là có ý đó!

THỂ PHÁP VÀ BÍ PHÁP

Thánh Ngôn:

Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn lìa khỏi xác mới thấy cơ mầu nhiệm đặng thì chừng ấy đã muộn rồi!!!

Thánh Ngôn:

Đã thấy ven mây lộ bóng dương,

Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.

Đạo Cao phó có tay cao độ,

Gần gũi sau ra vạn dặm trường!!!

Thánh Ngôn:

Các con cứ nói Đạo cho mỗi kẻ nghe hay không tùy ý!!! Thầy nói các con nghe: Nếu kẻ nào biết hiểu Thánh Ngôn của Thầy nơi miệng các con mà tỉnh ngộ thì số hằng sống của nó vốn còn! Còn chẳng vậy thì thôi, cứ để cho chúng nó theo Tà quái!!! Đạo là quí! Của quí chẳng bán nài!!! Các con đừng thối chí!!!

\

Quí Cao hữu!

Chúng ta hãy đi ngay vào định nghĩa.

* Thể pháp: Là hình tướng!

* Bí pháp: Là ý nghĩa dạy Đạo của cái hình tướng đó!!! Thật là đơn giản và dễ hiểu, không cầu kỳ xa hoa!!!

* Thí dụ 1:

Thể pháp: Cái áo dài trắng!

Bí Pháp: Cái áo dài trắng dạy chúng ta ăn ở cho trong sạch và tinh khiết!!!

* Thí dụ 2:

Thể pháp: Con rắn 7 đầu trong Tòa Thánh.

Bí Pháp: Dạy cho chúng ta biết thất tình độc hại như rắn vậy. Chính thất tình đã làm cho chúng ta phải vương mang nghiệp chướng, sanh tử, luân hồi!!!

* Thí dụ 3:

Thể pháp: Vườn Ngạn Uyển.

Bí Pháp: Ám chỉ cái xác và cái Tâm của người tu cũng như là một vườn ngạn uyển vậy!!! Nghĩa là chăm sóc thể xác và cái Tâm phải cẩn thận tỉ mĩ y như chăm sóc một vườn ngạn uyển vậy!!! Phải nhổ bỏ hết cỏ dại là Tam độc tham sân si và thất tình lục dục...!!! Phải trồng kỳ hoa và dị thảo vào, như Tâm Kinh, Tâm kệ...!!!

Không được thả vào Vườn Ngạn Uyển gà vịt, heo chó, trâu bò...!!! Phải tưới nước và bón phân thuộc loại thật tốt là ẩm thực tinh khiết và tư tưởng tinh khiết...!!!

Tóm lại, Thể pháp và Bí pháp đi đôi với nhau như hình với bóng, như âm với dương, không thể tách rời nhau được!!! Trong Tòa Thánh Tây Ninh có rất nhiều hình tướng tức là có rất nhiều bí pháp!!! Tòa Thánh là Bạch Ngọc Kinh, tức là Kinh Vô Tự, chỉ có hình tướng (thể pháp) để dạy Đạo (bí pháp) chớ không có chữ!!! Tòa Thánh cũng tượng trưng là Thánh Thể Đức Chí Tôn.

"Nhập Thánh Thể dò đường cựu vị,

Noi Chơn Truyền khử quỉ trừ ma!!!"

Quí Cao hữu!

Khi chúng ta thấy được bí pháp rồi thì cứ y theo bí pháp mà tu, thể pháp không còn cần thiết nữa!!! Thể pháp là phương tiện giúp cho chúng ta thấy được Đạo lý mà tu! Đạo lý đó chính là Bí pháp vậy!!!

Thể pháp ví như chiếc xuồng đưa chúng ta qua sông. Bí pháp ví như Bờ Chánh Giác mà chúng ta phải bước lên để đi đến nơi giải thoát! Khi đã lên được bờ rồi thì chiếc xuồng tức là thể pháp không còn cần thiết nữa!!! Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải đập bỏ chiếc xuồng... Cứ để nguyên chiếc thuyền đó (tức là để nguyên nguyên thể pháp) cho những người khác qua sông chớ!!!

BẤT BÌNH

Thánh Ngôn:

Nếu các con không lo tự lập ở cõi thế này thì Thầy cũng không thể bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng! Thầy vì công lý mà khai Đạo cho các con, cũng là một hạnh phúc lớn cho các con rồi! Nếu Thầy còn đưa tay bồng ẵm nữa thì các con sẽ chẳng còn chịu khó nhọc vì Đạo!!!

Thầy lại nói rằng: Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành vậy!!!

\

Quí Cao hữu!

Một điều chắc chắn là không một ai sống ở trên cõi đời này mà tránh khỏi được sự bất bình! Ai ai cũng có bất bình!!! Nhưng tùy theo trình độ của mỗi người mà sự bất bình ở trong Tâm được thể hiện ra ngoài bằng những cử chỉ hành động khác nhau, có người thì chửi thề, có người thì quơ tay múa chân, có người thì la lớn lên, có người thì cắn răng lặng thinh đè nén sự bất bình, có người thì mĩm cười để phủ lấp sự bất bình...

Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu 3 vấn đề sau đây:

+ Thế nào gọi là bất bình!

+ Nguyên nhân gây ra bất bình.

+ Làm sao hết bất bình?

1- Thế nào gọi là bất bình:

Hiểu theo nghĩa thông thường thì bất bình là nổi giận lên có những cử chỉ hành động thiếu sáng suốt!!!

Còn hiểu theo nghĩa đặc biệt thì bất có nghĩa là không, bình có nghĩa là bình thường. Như vậy thì bất bình có nghĩa là không bình thường!!! Thí dụ: Vui quá mức cũng gọi là bất bình! (cái vui không bình thường). Có người quá vui mà chết vì đứt mạch máu não!

Như vậy, bất bình không phải chỉ dành riêng cho sự giận hờn mà bất bình cũng chỉ cho sự vui vẻ quá trớn nữa!!!

Tóm lại, cái gì quá mức mất bình thường mà chúng ta gọi là bất bình!!! Thái quá hay bất cập đều không phải là Đạo, cho nên mới có câu: Bình thường Tâm là Đạo!!!

Do đó, chúng ta cứ sống bình thường là: Vui cứ vui, buồn cứ buồn nhưng đừng để nọc buồn vui len vào Chơn Tánh!!! Nói rõ hơn là đừng để buồn vui quá mức!!! Cái gì quá mức, thái quá cũng đều hư hại vì nó sẽ làm cho mê mờ óc sáng suốt!!!

2- Nguyên nhân gây ra bất bình:

Sau đây là một số nguyên nhân gây ra sự bất bình:

- Mong cầu mà không được như ý.

- Bị người khinh rẻ, chế nhạo.

- Vật chất quá thiếu thốn.

- Bị người vu oan.

- Thân xác mệt mỏi, bệnh hoạn.

- Bị người làm phiền não.

- Si mê thú vui trần gian.

3- Làm sao hết bất bình:

Nguyên nhân quan trọng nhất gây ra sự bất bình là tại vì Tâm của chúng ta còn quá nhiều si mê và ham muốn!!! Do đó, chúng ta cần phải dạy Tâm của chúng ta đừng si mê và ham muốn nữa!!! Mà muốn được như vậy thì chúng ta cần phải giác ngộ mấy điều sau đây:

* Giác ngộ lẽ vô thường: Vạn hữu tướng đều phải vô thường! Cái gì hữu hình là hữu hoại!!! Có đó rồi mất đó!!! Vạn vật đều vô thường huyễn hóa, không thường, còn thì chúng ta si mê ham muốn để làm cái gì cho sanh ra phiền não bất bình!!!

* Giác ngộ Biển Trần Khổ: Dù khéo biện luận cho mấy thì Đời vẫn là một trường tranh đấu đầy khổ lụy đau thương!!! Biển trần khổ vơi vơi trời nước là như vậy!!! Hơn nữa,

"May là đâu, còn rủi là đâu?

Chẳng qua chỉ là Biển Khổ bắt cầu sông Mê!!!

* Giác ngộ Đời chỉ là giấc mộng: Sau đây là một số Kinh kệ diễn tả Đời chỉ là giấc mộng.

? Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn!

Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai!

Giải thi lánh chốn đọa đày!!!

Chơn Linh trong sạch ra ngoài Càn Khôn!!!

? Đời chỉ là giấc mộng!

Rốt cuộc cũng hoàn không!!!

Mau mau từ bỏ hết!!!

Mới nhẹ nhàng khi chết!!!

? Không chừng lát nữa chết!

Sẽ phải từ bỏ hết!!!

Mới thấy được vô thường!

Thì đã gặp Diêm Vương!!!

Tóm lại, nếu chúng ta muốn không có bất bình thì chúng ta phải chấm dứt si mê và ham muốn!!! Mà muốn chấm dứt được si mê và ham muốn thì chúng ta phải giác ngộ và phát triển mãi mãi các điều giác ngộ sau đây:

+ Thấy được vạn pháp đều vô thường huyễn hóa!

+ Thấy được cuộc đời là Biển trần khổ!

+ Thấy được cuộc đời chỉ là giấc mộng!!!

Quí Cao hữu!

Trong Thánh Ngôn, Thầy có dạy: Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành vậy!!! Ý chỉ của Đại Từ Phụ dạy chúng ta rằng: Mặc dù ở trên cõi đời này có đầy rẫy những điều trái tai gai mắt mà Tâm của chúng ta không còn bất bình nữa thì chúng ta thành Đạo vậy!!! Đạo thành ở trong Tâm của chúng ta, chớ không phả ở bên ngoài đâu!!!

Do đó, muốn thành Đạo thì chúng ta cần phải tu Tâm, phải luyện Tâm. Tu luyện làm sao cho Tâm hết bất bình đối với ngoại cảnh, dù đó là nghịch cảnh hay thuận cảnh!!! Đến lúc này, chúng ta mới có quyền nói: Bình thường Tâm là Đạo vậy!!!

LỘ BÌNH DƯƠNG

Thánh Ngôn:

Ai vạy tà nấy có phần riêng, cứ giữ nẻo thẳng đường ngay mà bước đến thang thiêng liêng chờ ngày hội hiệp cùng Thầy!!!

Thánh Ngôn:

Đạo tuy cao song nên biết sức quỉ cũng chẳng hèn!!! Nếu không biết lo ngăn ngừa dằn lửa nóng trong Tâm thì bị lửa tam muội của Quỉ Vương đốt cháy!!!

\

Quí Cao hữu!

Nhứt Âm Nhứt Dương chi vị Đạo! Một Âm và một Dương dung hòa nhau mà thành Đạo!!! Tại sao có Lộ Bình Dương mà không có Lộ Bình Âm?

Âm có bản chất tụ lại. Dương có bản chất tản ra, bốc lên. Ở đây chữ Dương ám chỉ sức nóng giận của con người. Người tu cần nhất là phải biết dằn lửa nóng (Dương) trong Tâm, đó gọi là Bình Dương!!! Hay nói ngược lại, Bình Dương là dằn lửa nóng trong Tâm!!! Nếu không Bình Dương được thì sẽ bị lửa tam muội của Quỉ Vương đốt cháy!!! Kiếm củi ba năm, đốt cháy chỉ trong một giờ!!! Bình Dương là một việc quan trọng và ưu tiên một đối với người tu hành cho nên Lộ Bình Dương được đặt ngay trước mặt Tòa Thánh cho mọi người nhìn thấy mà biết lo ngăn ngừa dằn lửa nóng trong Tâm. Lộ Bình Dương nhắc nhở người tu đừng có nóng giận, đừng có bất bình nữa!!!

Tại sao không có Lộ Bình Âm? Âm có bản chất hạ xuống, tụ lại. Âm đầu có bản chất bốc lên cho nên không cần phải Bình Âm. Còn Dương thì cần phải bình xuống cho ngang hàng với Âm, như vậy Âm Dương mới trung hòa nhau được. Cho nên kế Lộ Bình Dương là Trung Hòa Lộ!!! Có Bình Dương mới có Trung Hòa!!! Nếu không Bình Dương thì Âm Dương so le quá xa thì làm sao Trung hòa được!!! Đến đây có một vấn đề mà các tín đồ Cao Đài chia làm "hai phe" có quan điểm trái ngược nhau, mâu thuẫn nhau!!!

Đó là vấn đề sơ đồ tu hành của người Cao Đài. Một bên thì cho rằng người tu phải bắt đầu từ Tòa Thánh đi ra, trước hết là Lộ Bình Dương rồi Lộ Trung Hòa, rồi Trí Giác Cung, Giải Khổ Kiều, Trí Huệ Cung, Đoạn Trần Kiều rồi Ao Thất Bửu, Trường Lưu rồi tới Thiên Thọ Lộ là xong việc tu hành.

Còn "phe" bên kia thì đi ngược lại, nghĩa là bắt đầu từ Thiên Thọ Lộ... cho đến Tòa Thánh là Bạch Ngọc Kinh thì xong việc tu hành!!! Phe nào cũng có lập luận riêng của mình và cố chấp vào lập luận đó!!! Ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến sơ đồ từ Tòa Thánh đi ra tới Thiên Thọ Lộ mà thôi, vì sơ đồ này hợp lý hơn.

* Tại sao bắt đầu từ Tòa Thánh:

Tại vì Tòa Thánh chính là Bạch Ngọc Kinh. Mà Bạch Ngọc Kinh chính là Quyển Kinh vô tự, là quyển "Bí kíp võ lâm" chứa đầy bí pháp trong đó!!! (xin xem bài Bạch Ngọc Kinh). Trong Kinh Giải Oan có chứng minh điều đó:

"Nhập Thánh Thể dò đường cựu vị,

Noi Chơn Truyền khử Quỉ trừ Ma!!!"

Do đó, người tu Cao Đài phải bắt đầu từ Tòa Thánh là quyển kinh dạy bí pháp tu hành thì rất là hợp lý!!! Từ Tòa Thánh đi ra tới Lộ Bình Dương.

* Lộ Bình Dương: Lộ Bình Dương đã nói rõ ở trên. Có Bình Dương thì Âm Dương mới trung hòa nhau được!

* Lộ Trung Hòa: Âm Dương có trung hòa nhau thì chúng ta mới có sự sáng suốt, mới có Trí Giác!!!

* Trí Giác Cung: Chúng ta có Trí Giác, có sự sáng suốt thì chúng ta mới giải khổ được!

* Giải Khổ Kiều: Khi chúng ta giải khổ được rồi thì Tâm chúng ta được Thanh Tịnh. Thanh Tịnh lâu ngày thì Tâm chúng ta sẽ phát huệ, sẽ có Bát Nhã!!!

* Trí Huệ Cung: Khi chúng ta có trí huệ, có Bát Nhã thì chúng ta mới cầm Gươm Huệ mà chặt tiêu oan trái. Chặt tiêu oan trái gọi là Đoạn Trần!!!

* Đoạn Trần Kiều: Khi đoạn trần được rồi thì chúng ta thảnh thơi an lạc mà hòa mình vào Đạo. Điều này bên Phật Giáo gọi là Nhập lưu!!! Nhập lưu liên tục, không gián đoạn thì Cao Đài Giác gọi là Trường Lưu!!!

* Trường Lưu: Hòa mình vào Đạo liên tục, không gián đoạn gọi là Trường Lưu. Hay nói rõ hơn, Trường Lưu chính là đạt Đạo vậy!!!

* Thiên Thọ Lộ: Tu hành đạt đến Trường Lưu tức là đạt Đạo. Đạt Đạo thì sống thọ bằng Trời là lẽ đương nhiên. Hay nói khác hơn là chúng ta đã được hội hiệp cùng Thầy vậy!!!

Quí Cao hữu!

Sơ đồ tu thì như vậy. Tuy nhiên khi chúng ta đã đạt được trí huệ bát nhã rồi thì chúng ta đừng vội đoạn trần mà nên quay trở lại nhập vào cuộc sống để cứu vớt chúng sanh đang còn lặn hụp trong Biển Trần Khổ!!! Đại Từ Phụ có dạy:

"Bát Nhã khuyên con trở mái chèo!

Gìn lòng thương lấy chúng sanh eo!!!"

Trong Kinh Giải Oan cũng có dạy:

"Huệ quang chiếu thấu chánh tà!!!

Chèo thuyền Bát Nhã, Ngân Hà độ sanh!!!"

Trong Kinh Cầu Tổ Phụ cũng có dạy:

"Nương thuyền Bát Nhã cho an,

Dìu chừng con cháu vào đàng nghĩa nhân"

Trong Thánh Ngôn cũng có dạy:

"Cầm Gươm Huệ chặt tiêu oan trái!

Độ dẫn quần sanh diệt quả nhân!!!"

Tóm lại, đối với người tu Đạo Cao Đài thì việc đầu tiên là phải lo đắp con Lộ Bình Dương cho được bằng phẳng để đi, tức là lo dằn lửa nóng trong Tâm, sau đó mới mong đạt được Trí huệ Bát Nhã mà lo lập công quả!

"Đa thi huệ trạch! Vô lượng độ nhân!!!"

ĐÓNG ĐỊA NGỤC!
MỞ TẦNG THIÊN!

Kinh Giải Oan:

Khối trái chủ nhẫn lo vay trả!

Mới gây nên nhân quả nợ đời!

Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi,

Thiên Cung lỡ lối, chơi vơi cõi trần!!!

May đặng gặp Hồng Ân chan rưới,

Giải trái oan sạch tội tiền khiên.

Đóng Địa Ngục, mở tầng Thiên,

Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây Phương!!!

Kinh Khai Cửu:

          Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi,

Quên trần ai mong mỏi Động Đào!

Ngó chi khổ hải sóng xao,

Đoạn tình yểm dục đặng vào Cõi Thiên!!!

Đạo Thi:

Địa Ngục A Tỳ đã trải qua!

Bây giờ Thiên Cảnh phải là nhà.

Phi thường Huệ Kiếm luôn cầm lấy,

Vào cửa không môn, đón Phật Đà!!!

\

Quí Cao hữu!

Loài người đã tốn rất nhiều giấy mực để nói về thiên đàng và địa ngục!!! Bây giờ chúng tôi lại tốn thêm giấy mực nữa để nói về Địa Ngục và Thiên Đàng!!!

Địa Ngục và Thiên Đàng có thật hay không? Có ở đâu? Cụ thể hay mơ hồ? Phải nói làm sao cho thật rõ ràng cụ thể để cho chúng sanh biết ớn Địa Ngục mà lo hướng Tâm về Thiên Đàng!!!

Khoa học thực nghiệm hiện đại đã cho chúng ta biết trong không gian bao la chỉ có các định tinh, các ngôi sao, các thái dương hệ, các ngân hà, các quasar... Khoa học không có nói đến chỗ nào là Địa Ngục hay chỗ nào là Thiên Đàng cả!!!

Quí Cao hữu!

Trong Kinh Cầu Siêu có câu: "Miền âm cảnh Ngục môn khai giải". Trước hết chúng ta phải hiểu "Miền âm cảnh" là gì? Ở đâu? Vì đó là ngục môn mà chúng ta cần phải khai giải! Chúng ta phải đi tham quan Miền âm cảnh để biết được ngục môn mà lo tránh xa chớ!!! Nếu không biết ngục môn ở đâu thì coi chừng chúng ta lủi đầu vào Cửa Địa Ngục mà không hay biết gì cả!!! Cứ đọa mãi ta bà, biết bao giờ thoát ra!!!

* Miền âm cảnh: Người xưa hiểu Miền âm cảnh ở dưới lòng đất âm u, là cảnh dành cho các người đã chết!!! Đây là một quan niệm sai lầm vì dưới lòng đất chỉ có đất, đá và nước, sâu xuống nữa thì tới Hỏa quyển là ruột của quả đất mà thôi!!! Như vậy chúng ta nên hiểu Miền âm cảnh ở đâu?

Âm: Là vật chất, là hình hài, là hữu hình hữu tướng!!! (Dương tán thành khí, Âm tụ lại thành hình). Thí dụ: cái nhà, chiếc xe, viên ngọc... gọi chung lại đều thuộc là Âm. Cái gì có thể thấy được, rờ được, hữu hình, hữu tướng đều thuộc Âm cả, gọi chung là Âm Chất!!!

Cảnh: Là không gian, là nơi chốn,,,

Âm Cảnh: Là một cảnh không gian trong đó có chứa các âm chất!!!

Như vậy thì âm cảnh ở ngay trước mắt chúng ta đang sống đây!!! Cái thế giới mà trong đó có đủ thứ vật chất, nào là xe hơi nhà lầu, nào là tiền bạc ngọc ngà châu báu, nào là sắc tài tửu khí... Cái thế giới đó gọi là Âm Cảnh!

* Ngục môn: Là cái cửa đi vào Địa ngục! Là cái cửa đi vào Miền âm cảnh!!! Cái cửa đó chính là lòng ham muốn vật chất của chúng ta!!! Gọi tắt là vật dục!!!

* Đóng Địa Ngục: Chúng ta đã thấy được cái cửa của Địa Ngục rồi chúng ta cứ từ từ đóng cửa Địa Ngục lại là xong ngay!!! Nói như vậy có nghĩa là chúng ta dẹp bớt lòng ham muốn vật chất lại, dẹp cho đến lúc chúng ta không còn một chút ham muốn nào nữa thì lúc đó cánh cửa Địa Ngục đã được khép kín hoàn toàn! Nhơn dục tận tịnh thì Thiên lý lưu hành mà!!!

Quí Cao hữu!

Nếu nói Thế giới ta bà này là Miền âm cảnh, là cõi Địa Ngục thì cả nhơn loại trong đó có chúng ta đều đang ở trong Địa Ngục hết ráo!!! Đúng vậy!!! Đúng vậy!!! Tất cả chúng ta không trừ một người nào cả đều đang ở trong Địa Ngục, đều đang ở trong Miền âm cảnh!!! Vì lý do đó mà chúng ta cần phải TU để biến Địa Ngục thành Thiên Đàng, biến Miền âm cảnh thành Ngọc Hư Cung!!! Địa Ngục hay Thiên Đàng, Miền âm cảnh hay Ngọc Hư Cung cũng đều ở ngay tại Thế giới ta bà này!!! Như vậy thì tại sao cũng cùng ở trên thế giới ta ba này mà có người coi nó là Thiên Đàng, lại có người coi nó là Địa Ngục??? Có sự mâu thuẫn chăng?

Quí Cao hữu!

Chúng ta đã biết "Vạn pháp do Tâm" tạo, cho nên tâm tức Phật mà Tâm cũng tức Địa Ngục nữa! Do đó, tùy theo cái Tâm của mỗi người mà cái cảnh biến thành Thiên Đàng hay Địa Ngục vậy!!! (xin xem bài Cảnh và Tâm). Cũng vì lý do đó mà vấn đề tu Tâm, luyện Tâm phải được đặt lên hàng đầu và ưu tiên một!!! (xin xem bài Huỳnh Đình Kinh và nhiều bài khác có liên quan).

* Mở tầng thiên: Ở đây, chữ Thiên có nghĩa là cái Tâm, là Bộ Não, là Chơn Thần của chúng ta. Mở Tầng Thiên là tu Tâm, là tu tập mở mang trí huệ, là khai mở Tâm.

Tóm lại muốn được giải thoát thì người tu phải tự chính mình Đóng Cửa Địa Ngục và Mở Tầng Thiên chớ không có ai làm dùm cho mình!!!

Đóng Cửa Địa Ngục là dẹp bớt lòng ham muốn vật dục lại! Mở Tầng Thiên là tu Tâm, tu Trí Huệ, tu Thiên Đạo! Hai việc đó bổ túc cho nhau. Hễ mở được Tầng Thiên thì cửa Địa Ngục từ từ bị đóng kín. Ngược lại cũng vậy!!!

TẬN THẾ

Thi của Bát Nương hỏi Đức Hộ Pháp:

Dám hỏi Đại Huynh rõ Máy Trời!

Chừng nào ba lửa cháy ba nơi!

Năm sông đua chảy, năm sông cạn,

Bảy núi bổ tan, bảy núi dời.

Tận thế Long Hoa sao chẳng thấy!

Tại Trời ngột khí có hay thôi!

Rồng bay ngựa chạy cho ai cỡi,

Đất dậy chừng bao đổi xác Trời!

Thi của Đức Hộ Pháp đáp lại:

Hành tàng hư thiệt tại Cha trời,

Dông Mậu Dương hồ hỏa khắp nơi.

Châu ngũ khí hòa Tâm ác diệt,

Thất sơn náo động, Tứ sơn dời.

Thế tan, Xuân kỷ, Long Hoa trổ!

Thưởng phạt tận cùng Thánh Đức thôi.

Long Mã bạn đường Tiên trạng kỵ,

Cù phi hải sụp Lý thay Trời!

\

Quí Cao hữu!

Thông thường, mấy "ông già" hay bàn luận về ngày tận thế. Mấy "ổng" tưởng tượng vào một năm nào đó, chẳng hạn vào năm 2000 thì cả nhân loại và thế giới này sẽ bị tiêu diệt hết!!! Nói như vậy thật là tiêu cực và không có trách nhiệm!!! Mấy đứa nhỏ nghe được lại sanh ra chán đời, không chịu học hành, hơn nữa lại còn có thể quậy phá nữa vì chúng nó nghĩ rằng đàng nào cũng bị tiêu diệt!!! Thật là tai hại!!! Như vậy thì chúng ta hiểu hai chữ tận thế ra sao? Và Long Hoa Hội có nghĩa như thế nào?

Nghĩa thứ nhứt của Tận Thế: Tận Thế là tiêu diệt những kẻ phàm phu thế tục, tiêu diệt những kẻ ác độc nặng trược.

Dĩ nhiên là chừa lại những con người thánh đức thiện lành mà dự đại hội Long Hoa chớ! Hiểu theo nghĩa này thì giúp cho mấy đứa nhỏ ráng tu Tâm dưỡng tánh, tu đức sửa mình cho trở thành con người thánh thiện hầu được dự hội Long Hoa.

Nghĩa thứ nhì của Tân Thế: Tận Thế là tiêu diệt cái phàm Tâm, cái dục vọng của mỗi loại người. Tận Thế có nghĩa là nhơn dục tận tịnh!!! Ở đây, việc Tận Thế nằm bên trong thân Tâm của người tu, chớ không phải thế giới bên ngoài!!!

Quí Cao hữu!

Để hiểu rõ thêm, chúng ta cần tìm hiểu một câu trong Thánh Ngôn sau đây:

Càn Khôn càng náo nhiệt, ngày tận diệt lại gần kề: Càn Khôn ở đây không phải là cái Càn Khôn Vũ Trụ, mà là cái Càn Khôn Tiểu Vũ Trụ, hay nói rõ hơn Càn Khôn là cái thể xác của mỗi người (Đầu là Càn, Bụng là Khôn). Cái thể xác càng náo nhiệt có nghĩa là "Chơi xã láng" thì cái thể xác phải bị hao mòn đi đến tiêu diệt thôi!!! Chơi xã láng thì "Sáng về sớm" (bị chết, bị tiêu dệt) là lẽ đương nhiên!!! Cho nên Thánh Ngôn mới có dạy: Càn Khôn càng náo nhiệt thì ngày tận diệt phải gần kề là lẽ đương nhiên.

Bây giờ chúng ta cần tìm hiểu thêm một câu thi của Đức Hộ Pháp: Thế tan, Xuân kỷ, Long Hoa trổ!!!

Long Hoa trổ: Long là rồng tượng trưng cho cái Tâm. Hoa là tinh hoa. Long Hoa trổ là cái Tâm của chúng ta được khai mở trí huệ. Tu làm sao cho cái Tâm đạt được Trí huệ, đạt được Bát Nhã thì gọi là Long Hoa trổ!!!

Muốn cho cái Tâm đạt được Trí huệ Bát Nhã thì cần phải có đủ hai điều kiện căn bản:

1- Thế Tan: Đấy là điều kiện thứ nhứt. Thế tan ám chỉ cái phàm Tâm thế tục của chúng ta không còn nữa, có nghĩa là Nhơn dục được tịnh tận!!! Khi nhơn dục tịnh tận thì Thiên Lý lưu hành thôi!!! Cho nên, ở đây, Thế tan không có nghĩa là thế giới bị tiêu diệt hoặc là nhân loại bị tiêu diệt!!!

2- Xuân kỷ: Đây là điều kiện thứ hai. Xuân là mùa xuân, ám chỉ cái sức khoẻ, cái sức mạnh của chúng ta. Kỷ là bản thể, là thể xác. Xuân kỷ là cái thể xác được mạnh khỏe, có đầy đủ Tam Bửu Ngũ Hành là tám món báu ở trong cái túi Bát Bửu Nang.

Tóm lại, muốn tu Tâm cho đạt đến Trí huệ Bát Nhã (Long Hoa trổ) thì phải có đủ hai điều kiện căn bản là Nhơn dục phải tịnh tận (Thế tan) và phải có đủ Tam Bửu Ngũ Hành (Xuân kỷ)!!! Người tu đạt được Long Hoa trổ rồi thì mới có "Vé đại biểu" mà tham dự "Long Hoa đại hội!". Do đó, chúng ta không nên trông ngóng "Long Hoa đại hội" mà chỉ nên tu tạo được hai điều kiện cho "Long Hoa trổ" mà thôi!!! Tâm của chúng ta chưa được khai mở Trí huệ (chưa trổ Long Hoa) mà cứ trông ngóng mong mỏi "Long Hoa đại hội" là một điều mê tín!!!

Tổng tóm lại, cái nghĩa chánh nhứt của hai chữ Tận Thế là nhơn dục tịnh tận!!!

 

THÁNH BẤT KHẢ TRI

Kinh Tiên Giáo:

Tiên Thiên khí hóa

Thái Thượng Đạo Quân

Thánh bất khả tri

Công bất khả nghị

\

Quí Cao hữu!

Chữ Thánh ở đây ám chỉ cái Thánh Chất của Đức Thái Thượng, tức là cái Trí huệ Bát Nhã của Đức Thái Thượng bao la rộng khắp, chúng ta là người phàm mắt thịt không thể biết được đâu, chính chúng ta bất khả tri, chớ không phải là ông Thánh bất khả tri đâu!!! Cũng như vậy, cái công đức của Ngài to lớn bao la, chúng ta cũng không thể luận bàn được!!! Tóm lại, chính chúng ta bất khả tri cái Thánh Chất Trí huệ của Đức Thái Thượng và bất khả nghị Công đức của Ngài!

Cũng với ý nghĩa này, chữ Thánh được dùng trong các danh từ sau đây:

Tòa Thánh: Tòa nhà để tu tập Thánh Chất (Trí huệ).

Thánh Chất: Cái Thất để tu tập Thánh Chất (Trí huệ).

Tóm lại, chữ Thánh ở đây có nghĩa là Thánh Chất, là Tinh thần Trí huệ, chớ không có nghĩa là ông Thánh!!!

 

CHẤP CHỈ VONG NGUYỆT

Thánh Ngôn:

Nâu sồng nhuộm áo pha màu khổ!

Tránh mối oan khiên, chớ buộc mình!!!

...

Chiều thu nguyệt xế!

Non nhạn ngày thâu!!!

Lẩn thẩn tháng ngày qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc!!! Nếu chẳng bền vững theo nẻo chánh mà thoát lối sông Mê thì căn quả trả vay vay trả chẳng biết ngày nào tiêu tận đặng!!!

\

Quí Cao hữu!

Hễ tu thì đừng chấp! Hễ chấp thì còn vướng và còn nghiệp chướng luân hồi!!! Đức Phật Thích Ca đi thuyết pháp gặp nhiều chúng sanh sống cao ngạo mạn chỉ trích Ngài và đả phá Ngài nên Ngài mới có dạy rằng: Ta là ngón tay chỉ TRĂNG, các ngươi hãy ngó Trăng chớ có ngó ngón tay của ta không phải là Trăng!!! Lúc đó, chúng sanh chỉ lo ngó ngón tay, dừng ở ngón tay và vướng mãi ngón tay, mãi lo phê bình đánh giá ngón tay mà quên ngó Trăng!!!

Chúng sanh bây giờ cũng không khác, cũng vẫn chấp CHỈ mà vong NGUYỆT!!!

Chấp Chỉ: Vướng chấp ngón tay!

Vong Nguyệt: Bỏ quên trăng!

Ngón tay là phương tiện, là người thuyết pháp giảng chơn lý. Còn Trăng chính là chơn lý Tâm của chúng sanh là hay nhìn và phê bình người thuyết pháp mà không chịu nghe coi người ta thuyết cái gì, có đúng hay không!!!

Do đó, chúng tôi yêu cầu Quí Cao hữu đừng tìm hiểu Tác giả của những bài viết này là ai, chỉ cần đọc và tìm Chơn lý trong những bài viết đó mà thôi!!!

Nói thật với Quí Cao hữu, ngón tay của ai cũng dơ cả, cho nên chúng ta chỉ nên nghe lời thuyết pháp mà đừng nhìn người thuyết pháp!!!

Sau đây là một vài ví dụ về Chấp Chỉ Vong Nguyệt:

* Thí dụ 1: Thể pháp là sắc tướng, là phương tiện để diễn giải bí pháp. Tu là tu theo bí pháp được để ẩn giấu trong thể pháp. Nếu ta cứ ôm mãi thể pháp mà không chịu tìm hiểu bí pháp để tu thì đó gọi là Chấp Chỉ Vong Nguyệt!

Thí dụ bạn mê cái áo dài trắng nên bạn tung tiền ra mua vải trắng loại nhập cảng để may cái áo dài! Bạn tin rằng cái áo dài trắng là cái áo giáp che chở cho bạn! Nói thật, bạn có may cả chục cái áo dài trắng loại đắt tiền nhất, chúng cũng không thể bảo vệ hay che chở cho bạn được đâu!!! Nếu bạn không biết tu theo bí pháp của cái áo dài trắng! Mặc cái áo dài trắng và hành theo bí pháp của nó thì lúc đó cái áo dài trắng mới trở thành cái áo giáp che chở cho bạn!!! Sau đây là bí pháp của cái áo dài trắng:

+ Giữ Tâm cho trong sạch, không nhiễm trần.

+ Giữ Tâm cho thanh tịnh, không tạo nghiệp chướng.

+ Tu Tâm cho được sáng suốt trí huệ.

Mê mặc cái áo dài trắng mà quên tu theo cái bí pháp của nó thì đó gọi là Chấp Chỉ Vong Nguyệt!!!

* Thí dụ 2: Đại Từ Phụ có dạy: Muốn được đắc giải thoát thì cần phải có đủ hai điều kiện là Công Quả lẫn Công Phu!!!

Công quả: Độ SANH (Sự nghiệp dành cho sanh chúng).

Công phu: Tu TÂM (Trí huệ Bát Nhã)

Phần đông các Cao Đạo hữu chỉ mê lập Công quả mà quên hẳn Công phu. Bạn có Công quả cho thật nhiều (tạo nhiều Âm chất) mà Tâm vẫn còn mê muội (không tạo Thánh chất) thì làm sao mà được giải thoát!!! Nắm cây Huệ Kiếm Gươm Thần mới dứt tan được sự thế nợ trần từ đây chớ!!! Nếu bạn chỉ lo tạo âm chất (Công quả) thì sau này chỉ được hưởng phước mà thôi, chớ không thoát được vòng luân hồi vì thiếu phần thánh chất (Công phu tu Tâm)!!! Mê Công quả Âm chất mà quên Công phu Thánh chất thì đó gọi là Chấp Chỉ Vong Nguyệt vậy!!!

* Thí dụ 3: Bạn được cho một chiếc xe Dream mới để đi về Thành phố. Bạn thấy chiếc xe đẹp quá, bạn mê, bạn ngắm nghía, bạn lau chùi, bạn mân mê, bạn giữ kỹ, bạn sợ nó hư rồi sau cùng bạn quên hẳn việc về Thành phố là mục đích chánh của bạn! Bạn mê chấp phương tiện mà quên đi cái mục đích chánh của mình thì đó gọi là Chấp Chỉ Vong Nguyệt!!!

Tóm lại, người tu hành phải biết phân biệt giữa phương tiện và mục đích để đừng kẹt ở Phương tiện!!!

CỬU HUYỀN THẤT TỔ

Kinh Cầu Tổ Phụ:

Âm Dương đôi nẻo như nhau,

Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì!

Kinh Khai Cửu:

Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,

Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân!!!

\

Quí Cao hữu!

Bài viết này rất "Khó đọc" và khó chấp nhận đối với phần đông Quí Cao hữu, cho nên chúng tôi xin Quí Cao hữu hãy bình tĩnh, khách quan và "Giải trừ kiến thức" trước khi đọc bài này, để thấy được "Mặt trăng" mới!!!

Thờ Cửu Huyền Thất Tổ là thờ Tổ Tiên, Ông Bà, cho nên bài viết này được dựa theo quan điểm âm dương của Ông Bà, chớ không dựa theo quan điểm âm dương của Kinh Dịch!!!

Dựa theo quan điểm Nam thất, Nữ cửu của Tổ Tiên để lại thì chúng ta có thể hiểu nghĩa của Cửu Huyền Thất Tổ và của Âm Dương như sau:

* Số 7 (Thất) tượng trưng cho Dương (Nam), tượng trưng cho tinh thần, cho linh hồn, cho cõi vô hình. Số 7 ở đây không nói về số lượng, mà chỉ tượng trưng cho cõi Dương, cõi vô hình. Cho nên chúng ta có thể hiểu: Thất Tổ là bao gồm hết những người đã chết (Phần Âm là thể xác đã bị tiêu diệt, chỉ còn phần Dương là linh hồn)  trong mỗi Tông đường, không phân biệt tuổi tác hay cấp bậc lớn nhỏ gì hết!!!

* Số 9 (Cửu) tượng trưng cho Âm (Nữ), tượng trưng cho thể xác, tượng trưng cho hữu hình, hữu tướng!!! Số 9 ở đây cũng không phải nói về số lượng mà chỉ tượng trưng cõi hữu hình, tức là cõi của những người còn sống. Cho nên, chúng ta có thể hiểu: Cửu Huyền là bao gồm hết những người còn sống trong mỗi Tông đường, không phân biệt tuổi tác, cấp bậc lớn nhỏ. Chẳng hạn, ông nội của mình hiện đang còn sống dù đã 120 tuổi thì cũng thuộc về Cửu Huyền, chớ không cho là Thất Tổ được!!!

Tóm lại, Cửu Huyền Thất Tổ không nói về số lượng mà chỉ tượng trưng cho Âm Dương. Cửu Huyền (những người còn sống) thuộc Âm và Thất Tổ (những người chết) thuộc Dương. Thờ Cửu Huyền Thất Tổ chính là thờ Âm Dương lý vậy!!! Chúng ta đã thờ Thái Cực (Đức Chí Tôn) và ở đây thờ thêm Âm Dương (Tổ Tiên) thì cũng là một điều rất hợp lý vậy!!! Sau đây là sơ đồ của hai câu Kinh chứng minh điều nói trên:

 

 

 

Hai câu Kinh trên có ý nghĩa như sau: Cõi Âm cũng như cõi Dương hoặc là: Cõi người sống cũng như cõi người chết, hoặc là: Cửu Huyền cũng như Thất Tổ, hoặc là: Người còn sống cũng như người đã chết đều phải giữ câu thọ trì như nhau!!!

Sau đây cũng là hai câu Kinh chứng minh Cửu Huyền là những người còn sống:

"Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,

Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân!!!"

Chỉ những người còn sống mới có than khóc, mới có đổ lụy thì Cửu Huyền chính là những người còn sống!!! Chớ Thất Tổ không thể đổ lụy được!!!

Khi chúng ta chết mà ông nội của chúng ta còn sống thì Ông ta cũng đổ lụy vì thương chúng ta. Do đó, ông nội của chúng ta cũng thuộc về Cửu Huyền chớ không thuộc về Thất Tổ được, dù ông ta nay đã 120 tuổi!!!

Quí Cao hữu!

Nói về Tổ Tiên của chúng ta thì đâu phải chỉ có 7 ông mà thôi, mà có hằng hà sa số chư Tổ cho đến ông Tổ xa xưa nhất là Đức Thượng Đế!!! Do đó nếu chúng ta hiểu hai chữ Thất Tổ nói về số lượng thì không ổn rồi!!! (Vì đâu phải chỉ có 7 ông Tổ mà thôi!!!).

Đến đây, sẽ có một số Cao Đạo hữu đặt câu hỏi sau đây để chất vấn!!! Nếu nói Cửu Huyền là những người còn sống thì sao lại để trên bàn thờ rồi thắp nhang mỗi bữa!!!???

Quí Cao hữu!

Để hai chữ Cửu Huyền trên bàn thờ thắp nhang mỗi ngày thì cũng đúng lý thôi!

Lý do thứ nhứt: Vì hai chữ Cửu Huyền tượng trưng cho lẽ Âm của Đạo, cho nên thờ Cửu Huyền là thờ lẽ Âm cho đối xứng với lẽ Dương (Thất Tổ) thì mới đúng với câu: Nhứt Âm, nhứt Dương chi vị Đạo chớ!!!

Lý do thứ hai: Chúng ta thắp nhang trước bàn thờ mỗi ngày để làm gì??? Khói nhang là hơi độc CO2 thì Tổ Tiên Ông Bà đâu hưởng nhang khói làm chi!!! Nếu chúng ta cứ dâng lên khói độc CO2 cho Tổ Tiên thì chúng ta là những người bất hiếu đấy!!! Như vậy thì thắp nhang mỗi ngày có mục đích gì?

Mục đích thờ Cửu Huyền Thất Tổ:

Mỗi lần thắp nhang trước bàn thờ, chúng ta cần nhớ hai mục đích sau đây thì việc thắp nhang mới có ý nghĩa:

1- Tưởng nhớ và noi theo gương tốt của những người quá vãng trong tông đường (Thất Tổ).

2- Lo bảo dưỡng những người còn sống, đặc biệt đối với những người không có sức lao động như trẻ nhỏ hoặc ông bà cha mẹ già yếu!!! (Cửu Huyền).

Thấy rõ hai mục đích nói trên thì chúng ta mới hiểu: Sở dĩ để hai chữ Cửu Huyền trên bàn thờ là để nhắc nhở chúng ta nhớ lo bảo dưỡng những người còn sống!!! Chỉ lo cúng kiến người chết, mà lại bỏ đói người sống là một điều không phải Đạo!!!

Do đó, khi chúng ta đi Cúng Thời Đức Chí Tôn, Phật Mẫu, các Đấng thiêng liêng (đây là Thất Tổ lớn) thì chúng ta nhớ lo bảo dưỡng tất cả chúng sanh (đây là Cửu Huyền lớn) thì việc đi cúng thời mỗi bữa mới có ý nghĩa của nó. Cũng như khi chúng ta thờ cúng ông bà tổ tiên thì chúng ta phải nhớ lo bảo dưỡng con cháu vậy!!!

Đức Chí Tôn, Phật Mẫu ............... là Thất Tổ lớn!!!

Tổ Tiên, Ông Bà............................ là Thất Tổ nhỏ!!!

Tất cả chúng sanh.......................... là Cửu Huyền lớn!!!

Con cháu trong nhà....................... là Cửu Huyền nhỏ!!!

Tóm lại, khi chúng ta thờ cúng Thất Tổ thì phải nhớ lo cho Cửu Huyền, mới là đúng Đạo!!!

Quí Cao hữu cũng đã biết câu: "Nhứt nhơn thành Đạo, Cửu Huyền thăng!!!". Một người trong Tông đường, dĩ nhiên là còn sống, tu hành được thành Đạo thì những người còn sống chung quanh của Tông đường (tức là Cửu Huyền) nhất định được ảnh hưởng mà có sự tiến hóa!!! Sao không nói Thất Tổ thăng mà chỉ nói Cửu Huyền thăng??? Quí Cao hữu nên suy nghiệm chỗ này!!!

Tổng tóm lại,

Âm Dương đôi nẻo như nhau!

Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì!!!

CÂU THỌ TRÌ

Thương yêu là Công quả!

Thanh tịnh là Công phu!

Công nào cũng được cả!

Miễn lòng mình hỉ xã!!!

AO THẤT BỬU

Kinh Tiểu Tường:

Ao Thất Bửu gội mình sạch tục,

Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.

Vạn Linh trổi tiếng mừng thầm,

Thiên thơ Phật tạo độ phàm giải căn!

\

Quí Cao hữu!

Trước khi giới thiệu Ao Thất Bửu cho Quí Cao hữu tắm rửa gội mình, chúng ta cũng nên tìm hiểu bốn câu Kinh nêu trên.

Ao Thất Bửu là một cái ao có 7 món báu để chúng ta tắm gội cho sạch hết phàm tâm. Nhờ tắm gội ở Ao Thất Bửu mà chúng ta tạo được cái Liên đài, nói khác hơn là nhờ tắm gội Ao Thất Bửu mà chúng ta tạo được cái Tâm Tòa Sen tức cái Tâm Phật, cái Tâm Như Lai!!! Ao Thất Bửu quí báu như vậy nên Vạn linh vui mừng trong dạ khi có cái Ao Thất Bửu để tắm gội!!!

Nhưng Ao Thất Bửu nghĩa bóng là gì và do ai tạo ra?

Quí Cao hữu!

Ao Thất Bửu không phải là cái ao hữu hình có chứa nước để tắm gội như chúng ta thường thấy.

Ở đây, theo nghĩa bóng, Ao Thất Bửu là Tâm Kinh, là Kinh dạy Tâm, là Thiên Thơ!!! (xin xem bài Thiên Thơ và bài Tắm Thánh đã viết ở trước).

Quí Cao hữu!

Muốn tạo được Liên đài thì chúng ta phải tắm gội thường xuyên và nhiệt thành!!!

Hai chữ Dà lam nghĩa đen là Chùa Phật, nghĩa bóng là Công phu khổ hạnh!!! Có Công phu khổ hạnh tức là có Dà lam thì chúng ta mới tạo được Liên đài mà Liên đài chính là cái Quả phúc của chúng ta!!! (Cái kết quả đầy phúc đức).

Quí Cao hữu!

Chúng tôi sẽ giới thiệu cho Quí Cao hữu Ao Thất Bửu đầy đủ 7 món báu, còn việc chịu công phu khổ hạnh để tắm gội thường xuyên hay không là do chính Quí Cao hữu muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!

"Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn" và "Giờ giờ cần phủi sạch, chớ để vướng trần ai" là kim chỉ nam của các người tu!!! Đốn ngộ nhưng phải tiệm tu!!! Tiệm tu chính là thường xuyên tắm gội Ao Thất Bửu!!! (Tức là Tắm Thánh). Sau đây là Ao Thất Bửu.

* Bửu thứ nhứt:

Tất cả đều là ơn!

Không một chút oán hờn!

Luôn luôn Ta tự tại!

Chẳng điều gì quái ngại!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

* Bửu thứ hai:

Thương yêu là Công quả!

Thanh tịnh là Công phu!

Công nào cũng được cả!

Miễn lòng mình hỉ xã!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

* Bửu thứ ba:

Trùng trùng duyên khởi y như mộng!!!

Hết mộng rồi thôi, chẳng có gì!!!

Cho nên:

Đối với ta, tất cả đều vô nghĩa!!!

Chẳng có điều chi làm cho ta động Tâm!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

* Bửu thứ tư:

Thân này chẳng phải Ta!

Vạn pháp cõi ta bà!

Đều vô thường, huyễn hóa!

Ta xem thường tất cả!!!

Thoát trần ta bước siêu nhiên!

Tâm không dính Cảnh là Tiên trên Đời!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

* Bửu thứ năm:

Không bất bình thế sự!

Không bàn chuyện thị phi!

Không động tâm ưa ghét!

Trang nghiêm thanh tịnh!

An lạc thái bình!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

* Bửu thứ sáu:

Thấy CÓ thì bị ràng buộc!

Thấy KHÔNG thì được giải thoát!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

* Bửu thứ bảy:

Trụ nguyên Tánh, hồn linh nhàn lạc!

Cõi Đào Nguyên cỡi hạc thừa long!!!

Lánh xa trược chất bụi hồng!

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.

Quí Cao hữu!

Sau đây là cách Tắm Ao Thất Bửu theo các tiêu chuẩn sau:

1- Mỗi lần tắm một bữa và tắm liên tục (Chánh niệm luôn hiện tiền) trong một thời gian dài ngắn tùy theo tâm thức của mỗi con người, một tuần hai tuần chẳng hạn.

2- Phải hiểu rõ nghĩa của mỗi bài tâm Kinh để khi ý niệm tới đâu thì Tâm tin tưởng tới đó!!! Niệm tới đâu thì chúng ta tin tưởng tuyệt đối là Tâm của chúng ta phải đạt được y như nội dung của bài Kinh vậy!!! Đức tin là trên hết!!! Vì Đức tin là căn bản của tu Tâm!!! (xem bài Thành Tín).

3- Sau mỗi lần tắm gội, chúng ta nhớ niệm Danh Thầy để hộ trì cho chúng ta đạt được nội dung của bài Tâm Kinh, để giúp cho chúng ta có đức tin càng thêm vững chắc!!! Đức tin càng vững mạnh thì kết quả càng to lớn!!!

Quí Cao hữu!

Tóm lại, Ao Thất Bửu là Tâm Kinh, là Thiên Thơ!!! Trong Thiên Thơ có 7 bài Tâm Kinh để dạy Tâm của chúng ta. Chính Quí Cao hữu cũng có thể dựa vào Kinh Kệ mà tự mình đào một Ao Thất Bửu cho thích hợp với Tâm thức của mình!!!

CÔNG THAM THÁI CỰC

Kinh Cúng Tứ Thời:

Công tham Thái Cực,

Phá nhứt khiếu chi huyền quang!

Tánh hiệp vô vi.

Thống Tam Tài chi bí chỉ!

Đạo Đức Kinh:

Thiên đắc Nhứt dĩ thanh!

Địa đắc Nhứt dĩ vinh!

Thần đắc Nhứt dĩ Linh!

Vạn vật đắc Nhất dĩ sinh!

\

Quí Cao hữu!

Ngoài ý nghĩa của những người "Luyện Đạo" chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của "Công tham Thái Cực" về phương diện tu Tâm như sau:

Thái Cực: Một đối tượng duy nhất, chẳng hạn, Thiên Nhãn là Thái Cực, một bài Tâm Kinh duy nhất là Thái Cực, một Chánh Niệm hiện tiền duy nhất là Thái Cực, một đầu cây nhang đang cháy là Thái Cực, huyệt ấn đường cũng là Thái Cực... Tóm lại, bất cứ một đối tượng duy nhất nào dù là đối tượng vật lý hay là tâm lý cũng trở thành là Thái Cực khi nào tâm thức của chúng ta tập trung hoàn toàn vào đối tượng đó.

Công tham: Công phu tập trung tâm thức vào một đối tượng duy nhất gọi là công tham (Thái Cực). Công tham Thái Cực lâu ngày thì sẽ có Trí huệ, sẽ có sự linh diệu, tức là sẽ khai mở được khiếu huyền quang!!!

Công tham Thái Cực: Còn gọi là Thần đắc Nhứt (Tâm thức tập trung vào một đối tượng duy nhất mà thôi).

Phá nhứt khiếu chi huyền quang: Còn gọi là dĩ Linh! (Sẽ có trí huệ, sẽ có sự linh diệu).

Tóm lại, khi Tâm thức của chúng ta tập trung hoàn toàn vào một đối tượng duy nhất thì đối tượng đó chính là Thái Cực. Cho nên Thái Cực có thể hiểu rộng ra là một Chánh Niệm hoặc là một bài Tâm Kinh, hoặc là một Thiên Nhãn, hoặc là một huyệt đạo... Do đó, Công tham Thái Cực cũng có thể hiểu rộng ra là Thần đắc Nhứt (dĩ Linh) hoặc là Chưởng Đào Tiên (thủ giải trường tồn) hoặc là Năng chiếu Diệu Quang (tiêu trừ nghiệt chướng) hoặc là Tắm Ao Thất Bửu (gội mình sạch tục)!!!

Công tham Thái Cực, phá nhứt khiếu chi huyền quang còn gọi là "THẦN ĐẮC NHỨT DĨ LINH"!!!

TU THIỀN

Kinh Dâng Hoa:

Từ Bi giá ngự rạng môn thiền!

Đệ tử mừng, nay hữu huệ duyên!

Kinh Dâng Rượu:

Thiên Ân Huệ chiếu giáng thiền minh,

Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh!

Thánh Ngôn:

Nhành dương nước rưới tan lòng tục!

Nguồn Thánh Đạo dìu lại cõi Tiên!

Phước gặp kỳ ba Trời Phổ độ!

Mau chơn ráng lướt tới rừng Thiền!!!

\

Quí Cao hữu!

Nghe nói tới tu thiền thì phần đông các Cao Đạo hữu đều phản đối, thậm chí có người còn chế nhạo các người tu thiền nữa! Họ có biết đâu Đạo Cao Đài, chính là Đạo Thiền!!! Họ cũng không biết là chính các vị Phật, các vị Bồ Tát, các vị Cổ Đức Thiền Sư, các vị Thánh đều nhờ tu thiền mà thành Đạo!!!

Quí Cao hữu!

Sở dĩ các Cao Đạo hữu đó chỉ trích phê bình Đạo thiền là vì họ nghĩ rằng Đạo Cao Đài còn trong Tịch Đạo Thanh Hương, chưa tới thời kỳ Tịch Đạo "Đạo Tâm"! Họ cho rằng chưa tới thời kỳ mà lo tu Tâm, tu Thiền, tu Thiên Đạo là sai!!! Họ còn khuyên chúng ta chỉ nên lo tu Nhơn đạo mà thôi, với lý do là vì "Đức tu Tiên đạo" mà "Nhơn đạo bất tu" thì "Tiên đạo viễn hỉ"!!! Họ còn bảo chúng ta chờ chừng nào có Chơn Sư mới được quyền tu thiền!!! Chúng ta đã có Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ là Đấng Chúa Tể của Càn Khôn Vũ Trụ mà chưa xứng đáng là Chơn Sư của chúng ta hay sao? Mà còn phải chờ đợi đòi hỏi một Chơn Sư nào nữa chớ!!!

Đợi chờ cho tới chừng nào mới chịu tu Thiền để được giải thoát? Đợi Tử thần đến rồi mới chịu tu hay đợi xuống tới Cửu Tuyền gặp Diêm Vương rồi mới chịu tu hay sao? Quí Cao Đạo hữu hãy luôn cảnh giác bằng bài kệ sau:

Không chừng lát nữa chết!

Sẽ phải từ bỏ hết!!!

Mới thấy được vô thường!!!

Thì đã gặp Diêm Vương!!!

Quí Cao hữu!

Để giúp cho Quí Cao hữu nói trên dẹp bỏ các thành kiến đối với Thiền, chúng ta cũng nên thảo luận các điểm chánh yếu của Đạo Thiền.

* Thiền là gì?

Thiền là Đạo! là Dịch! Cho nên Đạo Thiền không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ hạn hẹp của loài  người! Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tạm mượn ngôn ngữ mà diễn tả Thiền để chúng ta có thể hiểu được đại khái về Thiền!

Thiền là sự tập trung tư tưởng, là sự tập trung tinh thần!!! Thí dụ bạn đang uống trà thì bạn cứ chú Tâm duy nhất vào việc uống trà, không phân tâm vào việc nào khác, thì đó gọi là Thiền!!! Mà người Nhật gọi đó là Trà Đạo!!!

Hiểu theo nghĩa Thiền là sự tập trung thì làm bất cứ việc gì chúng ta cũng Thiền được cả!!! Thiền bất cứ lúc nào!!! Thiền bất cứ chỗ nào!!! Đi đứng hay nằm ngồi đều Thiền được cả!!!

" Đi cũng Thiền! Ngồi cũng Thiền!

Nói nín, động tịnh thảy an nhiên!!!"

Tóm lại, Thiền sẽ giúp chúng ta dễ thành công vì nhờ chúng ta tập trung hết tâm trí vào một công việc duy nhất!!!

Như vậy, Thiền là một điều rất tốt đẹp, cớ sao có một số Cao Đạo hữu lại chống đối Thiền, thậm chí còn chế nhạo nữa!!!

* Thiền là sự tập trung tư tưởng:

Tập trung tư tưởng gọi là THIỀN QUÁN. Quán là quán xét, là suy nghĩ, là tư duy, là tìm hiểu một vấn đề duy nhất mà thôi! Tư tưởng không bị phân chia, không bị phóng Tâm sang một vấn đề thứ nhì nào khác!!! Đó gọi là Thiền! Tập trung tư tưởng chưa được thì chưa thể gọi là Thiền! Mục đích của Thiền Quán là gì? Thiền Quán để Tâm được mở mang, được giác ngộ, được thấy chơn lý, được thấy bí pháp... Tức là nhờ Thiền Quán mà chúng ta được sáng suốt và được tiến dẫn đến trí huệ!!!

"Làm người phải rõ lý sâu!

Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh!"

Tu Thiền Quán rất tốt nhưng Quán mãi mà không có lúc nghỉ ngơi thì sẽ sanh ra loạn trí, điên cuồng, làm mất hết giá trị của pháp môn Thiền định!!!

"Chớ thái quá cũng đừng bất cập!

Phép tu hành luyện tập nhiều ngày!!!"

* Thiền là sự tập trung tinh thần:

Tập trung tinh thần gọi là THIỀN CHỈ. CHỈ là đình chỉ tất cả!!! Là nghỉ ngơi toàn diện!!! Là nới giãn tận cùng!!! Là buông xã triệt để!!! Là không quán xét, không tư duy suy nghĩ điều gì nữa hết!!! Là Vô Niệm!!! Thiền CHỈ là gom hết tinh thần vào một điểm duy nhất, đó gọi là "qui Nhứt bổn", gọi là "Chưởng Đào Tiên", gọi là "Chầu Chí Linh". Đến đây vấn đề Thiền CHỈ được chia ra 2 phần:

1- Tập trung tinh thần bên ngoài:

Nếu là tín đồ Cao Đài thì tập trung tinh thần vào một điểm duy nhất đó là Thiên Nhãn. Các Cao hữu cứ nhìn ngay Thiên Nhãn mà định thần của mình, lâu ngày sẽ thấy linh diệu! Đó gọi là "Thần đắc Nhứt dĩ Linh!!!". Đó gọi là "Công tham Thái Cực" sẽ phá được "Nhứt khiếu chi huyền quang"!!! Đó gọi là "Chưởng Đào Tiên" mà thủ giải trường tồn!!!

2- Tập trung tinh thần bên trong:

Tập trung tinh thần bên trong cơ thể là tập trung tinh thần vào một huyệt đạo duy nhất trong cơ thể, chẳng hạn huyệt Ấn dương hoặc huyệt Đan diễn (Rún)!!! Tập trung tinh thần vào huyệt đạo là một điều rất nguy hiểm!!! Tập trung thái hóa hoặc tập trung vào các"Huyệt nguy hiểm" thì dễ sanh ra "Tẩu hỏa nhập ma"!!! Điều này làm mất hết giá trị của Pháp môn thiền định!!! Do vậy, mà pháp môn thiền định bị nhiều người phản đối, bởi những kẻ hành THIỀN sai trái!!! Người hư chớ Đạo Thiền không hư!!!

Tu Thiền CHỈ sẽ đem đến cho Tâm chúng ta sự thanh tịnh! Rồi nhờ từ sự thanh tịnh này mà sanh ra được Trí huệ! (Thanh Tịnh Trí Phật). Tuy nhiên, nếu chúng ta tu CHỈ đến thái quá thì sẽ sanh ra hôn trầm mê muội, điều này cũng sẽ làm giảm uy tín của Pháp môn Thiền định!!!

Quí Cao hữu!

Tu QUÁN và tu CHỈ phải thay đổi nhau luôn, QUÁN đến lúc mệt thì sang qua CHỈ, CHỈ đến lúc tỉnh thì sang qua QUÁN.

Quán Chỉ rồi Chỉ Quán!!!

Quán sẽ được Trí huệ!!!

Chỉ sẽ được Thanh Tịnh!!!

Quí Cao hữu!

Ngoài 2 pháp môn Thiền QUÁN và Thiền CHỈ ra, Đạo Thiền còn pháp môn thứ ba là Thiền ĐỊNH. Thiền ĐỊNH bên Đạo Phật gọi là "Nhập ĐỊNH tam muội".

* Nhập ĐỊNH tam muội = Thiền ĐỊNH:

Nhập ĐỊNH tam muội (Thiền ĐỊNH) gọi là Chỉ Quán song tu, nghĩa là tu CHỈ và QUÁN một lượt!!! Điều này khó giải nghĩa, nhưng mượn thí dụ để nói thì dễ hơn: "Thí dụ bạn Niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật, trong khi niệm bạn có tư tưởng đến Đức Phật A Di Đà và có đặt đức tin vào Đức Phật A Di Đà thì đó gọi là bạn đang tu QUÁN (chỉ là việc Quán nhỏ thôi). Trong khi đó bạn cũng nhờ câu Nam Mô A Di Đà Phật mà Tâm bạn được đình chỉ lại một chỗ, không bị tạp niệm, không bị phóng Tâm! Đó gọi là bạn đang tu CHỈ! Cùng một câu Nam Mô A Di Đà Phật mà bạn có thể tu QUÁN đồng thời bạn cũng có thể tu CHỈ thì đó gọi là CHỈ QUÁN Song tu!!! Bạn niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật ((Chỉ Quán một lượt) cho đến lúc "Vô biệt Niệm" tức là không còn phân biệt đâu là câu Niệm, đâu là cái Tâm nữa, tức là được "Hườn hư" rồi thì đó gọi là Nhập ĐỊNH tam muội hay còn gọi là THIỀN Định!!!

Các Tín đồ Cao Đài cũng có thể nhập ĐỊNH tam muội bằng cách Niệm Danh Thầy cho đến lúc Vô biệt Niệm!!!

Tổng tóm lại, cả 3 pháp môn: QUÁN, CHỈ và ĐỊNH gọi chung lại một tên là THIỀN!!! Kết quả của THIỀN là ĐỊNH nên chúng ta thường gọi là Thiền – Định!!!

CÁCH TU TÂM

Thánh Ngôn:

Dò theo đường chánh chớ sai lầm!

Biết Đạo cần trau một chữ Tâm!

Tiên Phật nơi mình đâu phải khó!

Khó do chẳng trọn tấm chơn thành!

Thánh Ngôn:

Đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!

\

Quí Cao hữu!

Tu Tâm là dạy Tâm, là dạy dỗ Chơn Thần, là tu trí huệ, là tu Thiên Đạo, là làm sao cho Tâm đạt được: sáng suốt, giác ngộ, thanh tịnh, ý chí mạnh mẽ và đức tin vững chắc. Muốn đạt được các yêu cầu nói trên thì chúng ta lần lượt thực hành các cách tu sau đây:

1. Hiệp chúng đẳng Chư Phật, tạo định thiên thi.

2. Đóng cửa, tụng Huỳnh Đình.

3. Giữ gìn Chánh Niệm luôn luôn hiện tiền.

4. Luôn luôn Giác Ngộ và Kiến Tánh.

5. Năng Chiếu Diệu Quang.

6. Năng Tắm Thánh và tắm Ao Thất Bửu.

7. Lần chuỗi Bồ Đề.

8. Năng Quán đàn.

9. Đóng Địa Ngục, Mở Tầng Thiên.

10. Rèn Cây Huệ Kiếm.

11. Luyện Bộ Lôi Công.

12. Đắp Lộ Bình Dương.

13. Công tham Thái Cực: Thần đắc Nhứt.

14. Chưởng Đào Tiên.

15. Niệm Danh Thầy và Nhập Định Tam Muội.

16. Ngươn Thần Thường Trụ.

17. Tu Quán, tu Chỉ, tu Định.

Quí Cao hữu!

Tất cả 17 cách tu Tâm nói trên đều có rải rác trong các bài thuyết giảng của Bổn-Tánh Thánh-Chủ và Diệu-Không Thiền Sư. Do vậy, Quí Cao hữu nên đọc thật kỹ các bài thuyết giảng để tìm ra được các "Bí kíp" tu Tâm ẩn chứa trong đó!!!

Chúc Quí Cao hữu thành công!!!

Tâm kệ:

Hoàng hôn sắp tắt Mặt Trời!!!

Lại gặp mưa bão làm Đời hết vui!!!

Đệ Huynh ơi! Hỡi Đệ Huynh!!!

Sao còn mê đắm mùi trần!

Sao chưa thức tỉnh, Định thần giải căn

Đệ Huynh ơi! Hỡi Đệ Huynh!!!

SỰ THẤT BẠI CỦA THÁI TỬ

Đức Phật Thích Ca, hồi còn là Thái Tử, Ngài ra ngoại thành thấy cảnh đời Sanh, Lão, Bịnh, Tử nên Ngài quyết tâm rời bỏ Cung Vàng Điện Ngọc để đi tìm Chơn lý, tìm cách thoát khỏi Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Nhưng Ngài đã thất bại vì không có ai có thể thoát khỏi Sanh, Lão, Bịnh, Tử được!!! Sanh, Lão, Bịnh, Tử cứ diễn tiến mãi không ngừng!!! Ví đó là Định luật của Vũ trụ, của Đức Thượng Đế!!!

Tuy nhiên, nhờ sự thất bại này mà Thái Tử mới thấy được một phương pháp giải thoát siêu tuyệt và truyền lại cho chúng ta đến ngày hôm nay. Đó là, thay vì nhìn các đối tượng bên ngoài (Sanh, Lão, Bịnh, Tử) thì sẽ sanh ra phiền não, sanh ra sự khổ, Ngài dạy chúng ta hãy nhìn vào bên trong Tâm và huấn luyện Tâm thay đổi quan điểm đối với Ngoại cảnh chung quanh. Ngài dạy chúng ta hãy luôn luôn giữ gìn cái Tâm cho được độc lập và tự do!!! Đó là cách giải thoát duy nhất!!! Sau đây là một truyện Cổ của Phật Giáo sẽ làm cho Quí Cao hữu thấy được Pháp Giải Thoát!!!

* Đất, Nước, Gió, Lửa chừng nào mới hết:

Một Đệ Tử hỏi Ông Thầy của mình: Thưa Thầy, tứ đại Đất, Nước, Gió, Lửa cho đến lúc nào mới hết? Ông Thầy suy nghĩ một hồi lâu mà chưa tìm ra được câu trả lời!!! Ông đành chịu thua và giới thiệu người đệ tử đến hỏi Sư Phụ của mình!!! Sư Phụ này cũng "Chào thua" và cũng giới thiệu người đệ tử đó đến hỏi Sư phụ của mình!!! Cứ như thế mà người đệ tử đem điều thắc mắc của mình đi hỏi từ Ông Sư Phụ này cho đến các Ông Sư Phụ khác mà vẫn không thỏa mãn được!!! Cuối cùng, một Ông Sư Phụ giới thiệu người đệ tử đến tham vấn Đức Phật Thích Ca và dặn kỹ rằng: Nếu Đức Phật giải đáp không thỏa mãn được thì ngươi đừng có đi tham vấn một ai nữa cho mất công!!! Người đệ tử bèn đến yết kiến Đức Phật và cũng đặt ra câu hỏi như trên.

Dễ quá con!!! Khi nào cái Tâm của con hết thì Đất, Nước, Gió, Lửa cũng chấm dứt ngay thôi!!!

Ngay sau câu trả lời của Đức Phật, người đệ tử đắc được Quả vị A la hán, một Quả vị không còn dục vọng trong Tâm nữa!!!

Quí Cao hữu!

Chỉ một câu trả lời đơn giản của Đức Phật thôi cũng đủ truyền lại cho hậu thế một cái chơn lý, một cái bí pháp giải thoát rồi!!! Khi nào cái Tâm của chúng ta hết (Không tạo tác nữa) thì vạn vật tiêu tan!!! Thật là giản dị!!! Không có lý nào khác nữa!!!

Quí Cao hữu!

Chúng tôi xin ghi lại đây các câu danh ngôn, Thánh ngôn và Đạo ngôn để giúp cho chúng ta trên đường tu tập giải thoát:

1. Vạn pháp do Tâm tạo!

2. Thiên đàng hay Địa ngục đều do Tâm!

3. Tâm tức Phật! Mà Tâm cũng tức Ma nữa!

4. Chứng được Vô Sanh Pháp thì Tây Phương trước mặt!

5. Phi mao tùng thử đắc! Tớ Phật giả do tha!

6. Cao thâm vạn sự tại Nhơn Tâm!

7. Đắc Đạo cùng chăng đều do Tâm của các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!

Quí Cao hữu!

Sau cùng, chúng ta đều thấy cái TÂM là Chánh Nhứt!!! Cho nên, vấn đề tu Tâm, tức là tu Trí huệ, tu Thiên Đạo phải là một vấn đề ưu tiên số một!!!

Đến đây, để chấm dứt bài này, chúng tôi xin gởi tặng Quí Cao hữu một câu "Thần chú" luyện Tâm để Quí Cao hữu tâm niệm hàng ngày:

Thấy CÓ thì bị ràng buộc!!!

Thấy KHÔNG liền được giải thoát!!!

Nam mô: Cao Đài Tiên Ông! Đại Bồ Tát! Mahatát!

CẤT NHÀ CÕI THIÊN

Kinh Phụ Tế:

Đã từng chịu khó khăn kiếp sống!

Định Tâm thần giải mộng Nam Kha.

Càn Khôn để bước ta bà,

Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên!

Kinh Khai Cửu:

Ngó chi khổ hải sóng xao!

Đoạn tình yểm dục đặng vào cõi thiên!

Thánh Ngôn:

Sắm nghiệp trần gian còn phải khó!

Huống là Nghi Trưởng tại Bồng sơn!!!

\

Quí Cao hữu!

Tạo được một căn nhà vừa ý ở cõi trần gian này là một sự khó khăn lắm nỗi!!! Bây giờ lại nói tạo một căn nhà cõi thiên nữa thì thật là quá sức tưởng tượng!!! Nhà trần gian dù khó khăn cách mấy, chúng ta cũng còn có hy vọng tạo được!!! Nhà cõi thiên thì cất ở đâu? Cất nhà trên mây chăng? Ơ trên nguyệt cầu chăng? Ở trên sao Mộc chăng? Ở trên phi thuyền Con Thoi chăng? Nhà Cõi Thiên cất bằng vật liệu gì? Cách xây nhà Cõi Thiên có giống như cách xây cất thường tình không?

Quí Cao Đạo hữu!

Ngặt một nỗi là người tu nào cũng cần phải cất được một nhà Cõi Thiên để mình ở, chớ không được ở đậu nhà của người khác!!! Người nào cất được một căn nhà Cõi Thiên hoàn chỉnh thì có thể nói người đó đã đạt được Cơ thoát tục rồi vậy!!! Cũng có thể nói người đó đã đạt được "Cân đẩu vân" của Tề Thiên Đại Thánh rồi vậy!!!

"Cỡi Kim Hẩu đến Tịch san,

Đẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem!"

(Kinh Bát Cửu)

Khi Quí Cao hữu đạt được Phép Cân Đẩu Vân rồi thì việc đến Niết Bàn hóa ra dễ dàng!!! Nói nghe hấp dẫn quá, phải không Quí Cao hữu!!! Quí bạn đang sốt ruột phải không? Thôi thì chúng tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề!!!

Trước hết chúng ta cần biết Cõi Thiên ở đâu? Biết được Cõi Thiên rồi thì chúng ta mới có "Đất" để cất nhà chớ!!! Như trong các bài trước đã viết, chữ Thiên ở đây không có nghĩa là Trời, mà Thiên chính là cái Tâm của chúng ta!!! Quí bạn cũng đã biết: Tâm tức Phật, Tâm tức Ma, Tâm tức Thiên Thai, mà Tâm cũng tức Niết Bàn nữa!!! Như vậy thì cất nhà Cõi Thiên có nghĩa là tu luyện cho cái Tâm của chúng ta trở thành một cái Tịnh Thất để khi nào cần chúng ta sẽ vào đó ở thì chúng ta sẽ được an lạc, được thoải mái, không còn một chút phiền não như đang ở cõi Niết Bàn vậy!!! (xin xem kỹ các bài trước).

Trụ nguyên Tánh, hồn linh nhàn lạc!!!

Cõi Đào Nguyên cỡi hạc thừa long!!!

Lánh xa trược chất bụi hồng!

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung!!!

(Kinh Phụ Tế)

(Nguyên Tánh = Tịnh Thất = Nhà Cõi Thiên)

Quí Cao hữu!

Nảy giờ chúng tôi chỉ nói trên lý thuyết, chỉ nói về phương hướng mà thôi. Bây giờ chúng tôi sẽ đề cập tới phương diện thực hành.

* Luyện đức tin: Cách trừ phiền não, tà niệm... Khi nào gặp một phiền não hay là có tà niệm len lỏi vào Tâm của chúng ta thì Quí bạn hãy làm như sau:

Tay trái bắt Ấn Tý, Ý niệm Danh Thầy (Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Mahahát), còn Tâm thì Quí bạn tin tưởng hoàn toàn (đức tin tuyệt đối) là được: an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!! Ngoài ra Tâm bạn đừng nghĩ điều gì nữa cả!!! Nói thì dễ nhưng khi thực hành thì rất khó!!! (Cho nên tu Tâm thật khổ hạnh chớ không phải dễ dàng). Có thể lần đầu bạn Niệm Danh Thầy mà phiền não tà niệm chưa tiêu được vì Đức tin còn quá mỏng, quá yếu!!! Đức tin là trên hết và phải tuyệt đối!!! Niệm Danh Thầy mà chưa thấy kết quả là do Đức tin của mình!!! Đức tin được bao nhiêu là kết quả sẽ có bấy nhiêu!!! Cho nên Đức tin cần phải luyện tập lâu ngày khổ hạnh thì mới được!!! Cũng như Tôn Ngộ Không phải luyện tập Phép Cân Đẩu Vân lâu ngày và rất nhiều lần mới đạt được 8.400 dặm!!! Lần đầu, Tôn Ngộ Không nhảy lên liền bị rớt xuống cái bịch!!! Cũng như lần đầu Niệm Danh Thầy Quí bạn cũng vẫn còn bị phiền não vậy!!! Quí bạn Niệm Danh Thầy nhiều lần, phải luyện tập nhiều lần, cũng như Tôn Ngộ Không đã phải kiên trì mới luyện được phép Cân Đẩu Vân vậy!!!

Niệm Danh Thầy và tin tưởng tuyệt đối!!! Cứ làm như vậy nhiều lần cho đến lúc nào đó Đức tin của Quí bạn đã kết khối cứng như Kim Cương thì phiền não, tà niệm, ma cỏ gì cũng phải tiêu tan cả!!! Lúc này Danh Thầy đã trở thành căn nhà Cõi Thiên của Quí bạn!!! Khi lâm chung, chắc chắn Quí bạn sẽ về được căn nhà Cõi Thiên này vì chính Quí bạn đã tốn nhiều công phu xây dựng!!! Hơn nữa, trong Thánh Ngôn cũng có dạy: "Lúc lâm chung, đứa nào biết Niệm Danh Thầy thì sẽ được về cùng Thầy" mà!!! Đến lúc này, mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần bạn được: an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát. Hay nói cách khác, Danh Thầy là phép Cân Đẩu Vân đưa bạn thẳng đến Niết Bàn!!! Hay nói cách khác nữa, Danh Thầy chính là Cơ thoát tục!!! Câu Kinh có nói: Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi thiên mà!!!

TỊNH THẤT VÀ BẠCH NGỌC KINH

Thánh Ngôn:

Gần nơi Tiên Cảnh, phải xa phàm!

Cái kiếp trần này trẻ chớ ham!

Một miếng đỉnh chung trăm giọt thảm,

Phải toan lui gót tránh vòng tham!!!

Thánh Ngôn:

Biển khổ chẳng chịu rời!

Thì Ngôi xưa còn xa mãi!!!

\

Quí Cao hữu!

Có nhiều Cao Đạo hữu than phiền rằng Đạo Cao Đài (Tòa Thánh Tây Ninh) không có Tịnh Thất (ngoại trừ Trí Huệ Cung) thì làm sao tu giải thoát? Họ cho rằng Cao Đài "Tây Ninh" chỉ có thể pháp mà không có Tâm pháp, không có Bí pháp!!! Thật ra thì Cao Đài "Tây Ninh" có đầy đủ hết thể pháp, nào Tâm pháp, nào Bí pháp, không thiếu một món nào!!! Tại vì họ không có Đức tin nên làm sao hưởng được ân huệ của Đại Từ Phụ, làm sao được Đại Từ Phụ khải ngộ cho thấy được Tâm pháp, thấy được Bí pháp chớ!!! Thiếu đức tin mà còn cao ngạo đánh giá Đạo Trời nữa thì làm sao thấy được Bí Pháp Giải Thoát chớ!!! Đại Từ Phụ có dạy: Thời buổi Hạ ngươn này, bí pháp phải được bày ra cho mọi người thấy, không được quyền giấu nữa!!!

Quí Cao hữu thấy chưa, Bí pháp đâu có giấu kín nữa, tại chúng ta không thấy hoặc thấy mà không hiểu đó là Bí pháp, chỉ một mực định kiến cho rằng đó chỉ là Thể pháp mà thôi!!!

Quí Cao hữu nên lưu ý là Bí pháp chỉ được bày ra trước mắt cho mọi người thấy mà không có "giải mã" đâu nhé!!! Vì không có "giải mã" cho nên chúng ta không tấy được bí pháp!!! Quí Cao hữu đừng vội nản chí vì Đức Đại Từ Phụ sẽ giải mã (khải ngộ) cho Cao Đạo hữu nào có đủ điều kiện một cái Tâm chí thành và một đức tin vững chắc!!!

Quí Cao hữu!

Tòa Thánh là Bạch Ngọc Kinh đặt tại thế, để trước mắt cho mọi người đều thấy!!! Mà Bạch Ngọc Kinh chính là quyển Kinh vô tự có chứa đầy đủ các "bí kíp võ lâm" trong đó!!! Tại chúng ta chưa thấy được hoặc chưa đủ điều kiện (Thành + Tín) để được Đại Từ Phụ khải ngộ mà thôi!!! Đại Từ Phụ sợ chúng ta không thấy quyển Bạch Ngọc Kinh này nên cho xây cất Tòa Thánh lấn ra (lộ rõ ra) tới giữa Lộ Bình Dương!!! Bí pháp (Kinh vô tự) giữa Lộ cho mọi người qua lại đều thấy mà có ai chịu "THẤY" đâu!!!

Quí Cao hữu!

Trở lại vấn đề Tịnh Thất (xin xem bài Kho tàng bí tạng Như Lai) thì mỗi một tín đồ Cao Đài, Thầy đều có cho một Tịnh Thất riêng mặc sức chúng ta ở yên tu luyện!!! Đó là điểm Linh Quang, là Bổn Tánh, là Phật Tánh, là Bổn Lai Diện Mục của chính mình! Mỗi người đều có đủ 3 món: Một cái nhà (thể xác), một cái Thánh Thất (cái Tâm) và một ngôi TỊNH THẤT (Chơn Linh, Bổn Tánh...). Cái Tâm của chúng ta cứ vào ở yên trong Tịnh Thất đó mà tu luyện, còn đòi hỏi cái Tịnh Thất bằng gạch ngói hữu vi chi nữa!!!

Trụ nguyên Tánh, hồn linh nhàn lạc!!!

Cõi Đào Nguyên cỡi hạc thừa long!!!

(Trụ nguyên Tánh = Tâm ở yên trong Tịnh Thất).

Hoặc là:

Thường trụ ngươn Thần (Bổn Lai Diện Mục, Chơn Linh, Phật Tánh = Tịnh Thất) thì mọi đường bặt!!! (Mọi nghiệp chướng tiêu tan).

Quí Cao hữu!

Trụ Nguyên Tánh, Trụ Ngươn thần tức là cái Tâm trụ vào Tịnh Thất của riêng mình!!! Nói thì nghe dễ hiểu đấy, nhưng trụ bằng cách nào, thực hành ra sao??? Quí Cao hữu hãy đọc lại thật kỹ bài "Cất nhà Cõi Thiên" thì sẽ thấy được cách trụ Tâm vào Tịnh Thất. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin nhắc lại sơ qua: Quí bạn ý thì Nệm Danh Thầy còn Tâm thì tuyệt đối tin tưởng là Quí bạn được an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát y như đang ở trong Tịnh Thất vậy!!! Cứ niệm và tin tưởng như vậy cho đến một lúc nào đó thì Quí bạn sẽ thấy: "Hễ mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần bạn được an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát thật sự"!!! Đến đây Quí bạn mới thấy được kết quả của Công phu tu tập kiên trì!!!

Quí Cao hữu!

Trong bài trước, Quí bạn đã thấy được: Danh Thầy chính là Cơ Thoát tục! Danh Thầy chính là Phép Cân Đẩu Vân! Danh Thầy chính là căn nhà Cõi Thiên!!! Bây giờ Danh Thầy cũng chính là NGÔI TỊNH THẤT hay còn gọi là TÒA BẠCH NGỌC nữa!!! Tất cả đều do Đức tin!!! Nhưng phải là KÍNH NGƯỠNG mới được!!! Kính ngưỡng Danh Thầy tức là Kính ngưỡng Đại Từ Phụ một cách chân thành thật sự!!!

RỒNG KHÔNG RÂU

Thánh Ngôn:

Thầy thấy nhiều đứa tu thì cũng muốn tu mà thế tục cũng không muốn chừa bỏ! Áo dài cũng muốn mặc, giày Đạo cũng muốn mang! Đường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng tuôn vào mà thấy bạc rơi cũng chẳng bỏ, lợi nhỏ cũng chẳng từ, mượn danh Đạo tạo danh mình, vô Thánh Điện mà hơi tà còn phưởng phất!!!

\

Quí Cao hữu!

Có một lần đi cúng ở Tòa Thánh, chúng tôi gặp một Cao Đạo hữu bất ngờ đặt một câu hỏi chúng tôi: Tại sao những con Rồng ở bên ngoài Tòa Thánh đều có râu cả mà ở trong Tòa Thánh chẳng có một con Rồng nào có râu hết? Gặp câu hỏi bất ngờ làm cho chúng tôi phải "Chào thua!!!". Tuy nhiên, chúng tôi hẹn lát nữa vào Thời cúng sẽ dâng câu hỏi này lên Đại Từ Phụ để cầu xin Ngài khải ngộ cho!!! (Điều này chúng tôi làm theo lời dạy của Đức Hộ Pháp: Cầu Trí huệ thì xin Đại Từ Phụ, cầu vật chất thì xin Đại Từ Mẫu). Nhưng thật là huyền diệu! Ngay liền sau đó, chúng tôi được khải ngộ mà không cần phải chờ đến thời cúng!!! Chúng tôi mừng quá liền nói lại cho Cao Đạo hữu đó nghe, tất cả chúng tôi đều thỏa mãn, không còn thắc mắc nữa!!!

Quí Cao hữu!

Rồng là tượng trưng cho cái Tâm của chúng ta!!! Râu Rồng là tượng trưng cho các sợi dây ràng buộc cái Tâm của chúng ta!!! Khi vào trong Tòa Thánh cúng thì chúng ta phải dẹp hết mọi sự ràng buộc đời thường để cho cái Tâm (Rồng) của chúng ta được thanh tịnh (không có một sợi râu nào hết) mà chầu lễ Đức Chí Tôn. Chúng ta đừng có đang chầu lễ Đức Chí Tôn mà lại nhớ ruộng chưa rải phân bón hoặc nhớ vé số chưa dò!!!

Ruộng và vé số, đó là những sợi râu Rồng!!! Vào trong Tòa Thánh cúng thì chúng ta ngắt bỏ những sợi râu Rồng đó đi!!! Chúng ta đừng vô Thánh Điện mà hơi tà còn phưởng phất!!!

Tâm kệ:

Đạo Trời soi khắp chốn!

Khá biết tỉnh mộng hồn!!!

Nếu chẳng sớm tra thân!

Ắt có ngày cùng tận!!!

MẶC KHẢI

Thánh Ngôn:

Các con phải gắng sức, Thầy hằng ở bên các con, chẳng hề bỏ các con buổi nào!!!

\

Quí Cao hữu!

Lúc ban sơ khi nghe lời dạy của Đức Hộ Pháp: "Muốn cầu trí huệ thì xin Đại Từ Phụ" thì chúng tôi chưa tin vì chúng tôi nghĩ rằng: Đại Từ Phụ vô hình, vô ảnh thì làm sao mà hỏi!!! Hỏi như thế nào và Đại Từ Phụ trả lời cho mình bằng cách nào??? Thật là trừu tượng làm cho cái Tâm của chúng tôi mơ hồ và hoang mang!!!

Nhưng!!!

Lần đầu tiên chúng tôi thử đặt một câu hỏi trong thời cúng thì được Đại Từ Phụ mặc khải cho chúng tôi được thỏa mãn hoàn toàn!!! Kinh nghiệm này làm cho chúng tôi rất hưng phấn và Đức tin càng thêm vững chắc!!! Chúng tôi "bắt bén" xin hoài và được Đại Từ Phụ thỏa mãn nhiều lần!!! Nhưng sau này chúng tôi không dám làm rộn Đại Từ Phụ nữa vì trong Thánh Ngôn có dạy: "Các con hãy xét nét kỹ, trước khi cầu Thầy"!!! Do đó khi nào có vấn đề thật quan trọng mà chúng tôi "bí lối" thì chúng tôi mới cầu Thầy mà thôi!!! Sau đây chúng tôi tạm định nghĩa hai chữ mặc khải.

* Mặc khải: Âm thầm khải ngộ cho chúng ta hiểu rõ ràng một vấn đề nào đó. Đại Từ Phụ khải ngộ cho chúng ta không phải bằng văn từ hoặc bằng lời nói mà bằng "Điển lực" vô hình nhưng có sức mạnh. Cũng như cái "Remote" điều khiển Tivi từ xa được dùng bằng "Điện lực Pile" vậy, Đức Đại Từ Phụ cũng có cái "Remote" của Ngài và điều khiển chúng ta (cũng là một loại Tivi) từ xa bằng "Điển lực" của Ngài!!! Khi chúng ta được mặc khải thì tự nhiên chúng ta biết một cách rõ ràng không cần suy luận, khoa tâm lý học gọi đó là Trực Giác!!!

Do đó, người được mặc khải cũng không biết là mình đang được mặc khải, cho nên mới sanh ra cao ngạo ngã mạn!!! Mà hễ cao ngạo ngã mạn thì Đại Từ Phụ không bấm Remote cho chúng ta nữa, tức là không còn mặc khải cho chúng ta nữa!!!

Quí Cao hữu!

Theo thuật ngữ Thiền Tông thì mặc khải còn được gọi là "Tâm truyền Tâm". Các vị Thiền sư, các vị Chơn sư đắc Đạo cũng có khả năng bấm Remote cho chúng ta để khải ngộ chúng ta về một vấn đề nào đó. Sau đây là một số thí dụ khác về mặc khải:

* Cây Đa trong Mặt Trăng:

Một bạn Đạo dẫn chúng tôi đến gần Cung Đạo trong Tòa Thánh rồi chỉ một hình tròn trắng trong đó có lờ mờ một cây cổ thụ rồi đặt câu hỏi với chúng tôi:  "Tại sao Cung Đạo là chỗ rất quan trọng mà lại vẽ một cái Mặt Trăng tròn có Cây Đa của thằng Cuội nữa?"

Một câu hỏi thật bất ngờ cũng làm chúng tôi ngỡ ngàng giây lát. Liền sau đó chúng tôi tự nhiên (không phải tự nhiên đâu nhé!!!) nhớ lại 2 câu Kinh Tiểu Tường:

Bồ Đề Dạ dẫn hồn thương tấn!

Cực lạc Quan đẹp phận Tây Qui!

Quí Cao hữu!

Vòng tròn trắng: Là mặt trăng, tượng trưng cái Tâm (Dạ) của chúng ta.

Cây cổ thụ: Là cây Bồ Đề, tượng trưng cho sự sáng suốt, thanh tịnh, an lạc.

Bồ Đề Dạ: Là cái Tâm sáng suốt, thanh tịnh và an lạc!!! Nhờ có Bồ Đề Dạ mà chúng ta được thượng tấn, được siêu thăng, được giải thoát thì vẽ hình "Bồ Đề Dạ" tại Cung Đạo cũng là một điều rất hợp lý!!!

VẠN DẶM TRƯỜNG

Thánh Ngôn:

Đã thấy ven mây lộ bóng dương,

Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.

Đạo Cao phó có tay cao độ,

Gần gũi sau ra vạn dặm trường!!!

\

Quí Cao hữu!

* Ven mây lộ Bóng Dương: Nghĩa đen là Mặt trời đang lố dạng, chiếu ánh sáng đánh tan màu đen. Nghĩa bóng là Đạo Trời được khai mở để đem ánh sáng Trí huệ ban rải cho chúng sanh, đánh tan cái u tối mê muội của chúng sanh.

* Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường: Nghĩa đen là sau khi Mặt Trời mọc thì chúng ta mới thấy đường mà cùng đi với nhau. Nghĩa bóng là khi thấy được Đạo trời thì chúng ta cùng nhau đến thọ giáo nhập môn học Đạo để hưởng được Huệ Quang của Đức Thượng Đế.

* Đạo Cao: Là Đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài cao xa lắm. Chúng ta nhập môn học Đạo thì phải có tay "Cao thủ" độ mình, có nghĩa là chúng ta cần thường xuyên gần gũi cái Thiện Tri Thức.

* Gần gũi: Ám chỉ những tín đồ phế bỏ cả việc đời, vào ở trong nội ô Tòa Thánh tu luôn. Họ ở ngay trong Nội Ô (gần gũi) mà không chịu gần gũi thiện Tri thức!!! Họ tu mơ hồ, họ tu mê tín!!! Để rồi cuối cùng Đạo không thành mà đường Đời lại lỡ dỡ!!!

"Thiên Cung lỡ lối!!! chơi vơi cõi trần!!!

Do đó, họ mới bắt đầu bỏ Đạo không tu nữa, bỏ hẳn chay lạt lại ăn cả thịt trâu thịt chó nữa!!! (Người đời thường có ăn thì cũng không đáng trách).

Chẳng những thế nhiều khi họ còn phản Đạo, ố Đạo bằng những ngôn từ khó nghe!!! Đúng là xa Đạo "Vạn dặm trường!!!" có phải không Quí bạn!!!

Quí Cao hữu!

Nói như thế không phải là "quơ đũa" cả nắm đâu nhé. Nói như vậy chỉ để giải thích và chứng minh câu Thánh ngôn mà thôi. Chúng ta cũng nên thương hại họ là những bạn đồng môn được ở gần Ánh Đèn Thiêng Liêng mà không hưởng được Huệ Quang của Đại Từ Phụ!!!

Tâm kệ:

Đạo Cao cao cao lắm!!!

Người phàm thật khó nắm!

Lại đâm ra khinh thường!

Nên mãi bị chìm đắm!!!

TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Thánh Ngôn:

Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa!!!...

Ta nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ này mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi!!!

Thầy nói cho con nghe: "Nếu chẳng đến Trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc Đạo bao giờ"!!!

\

Quí Cao hữu!

Bài viết này rất "Khó đọc". Xin Quí Cao hữu đừng đọc, nhất là Quí Đạo hữu đã có định kiến!!!

* Nhứt Kỳ Phổ Độ: Từ khi tạo lập nhân loại, Đức Thượng Đế thấy chúng sanh chìm đắm trong khổ hải mới mượn một người phàm là Thái Tử Tất Đạt Đa thuộc nước Ấn Độ, khai mở Đạo Phật để cứu khổ chúng sanh.

* Nhị Kỳ Phổ Độ: Khoảng hơn 500 năm sau Đạo Phật, Đức Thượng Đế cũng chưa thỏa mãn lòng đại từ bi của mình (Có lẽ Đạo Phật bị canh cải làm đi xa Chơn Truyền). Cho nên Ngài mới sai con của mình là Jésus xuống thế lập Đạo Thiên Chúa mà không mượn tay phàm nữa.

* Tam Kỳ Phổ Độ: Đã 2 lần lập Đạo: Một là mượn tay phàm lập Đạo Phật. Hai là sai chính con của mình lập Đạo Thiên Chúa. Đức Thượng Đế cũng chưa thỏa mãn, cho nên, vì đức háo sanh và lòng đại từ bi của mình mà Đức Thượng Đế chính mình giáng trần, lần thứ ba này để lập Đạo Cao Đài để cứu rỗi chúng sanh. Đạo mở lần thứ ba này được gọi là "Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ".

Tóm lại,

- Mở Đạo lần nhứt: Mượn người phàm.

- Mở Đạo lần hai: Do con của Đức Thượng Đế.

- Mở Đạo lần ba: Chính Đức Thượng Đế giáng trần mở Đạo bằng diệu cơ bút.

Quí Cao hữu!

Chúng ta rất may duyên gặp được Đạo Trời và Ông Thầy Trời!!! Cho nên chúng ta đừng có vọng động chạy Đông chạy Tây mà tìm Đạo nào khác hoặc tìm Chơn Sư nào khác, vì Đại Từ Phụ có dạy: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ này mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi!!!

NẮM TÂM

Kinh khi thức dậy:

          Đây tới sáng xôn xao với thế,

Nhẫn đua chen kiếm kế sanh nhai.

Có thân giữa chốn đọa đày,

Đếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn!!!

Xin Từ Phụ ra ân cứu độ,

Tăng huyền linh giác ngộ chí thành.

Rõ phước đức, biết tội tình,

Nắm tâm đắp vững mặt thành Càn-Khôn!!!

\

Quí Cao hữu!

Cái Tâm là cái trừu tượng mà bảo nắm Tâm là nắm làm sao? Cái Tâm ví như con ngựa, nếu không nắm Tâm được thì nó chạy rong khắp chỗ rồi làm sao? Thật là khó nghĩ!!!

Quí Cao hữu đừng vội nản chí, chúng tôi sẽ đề nghị một cách nhận diện rõ cái Tâm để nắm ngay "cái đầu" của nó!!! Quí Cao hữu phải đọc thật kỹ các bài viết trước đây thì mới rõ cách năm Tâm. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhắc lại sơ lược:

* Làm cho cái Tâm phải hiện nguyên hình:

Thí dụ có một cái câu : "Tôi luôn bình tĩnh, an lạc và thương yêu hết thảy chúng sanh!!!". Chúng ta hãy cho cái Tâm chứa câu đó và chỉ chứa một câu đó mà thôi!!! (xin xem bài Bản chất của Tâm).

Như vậy thì cái Tâm của chúng ta đã hiện nguyên hình thành một câu rồi!!! Chúng ta cứ tụng niệm câu đó mãi không bao giờ rời (không nghỉ tu 5 phút!!!) thì chúng ta đã cột được Tâm rồi tức là chúng ta đã nắm được "cái đầu" của Tâm rồi!!! Dễ quá, phải không Quí bạn? Chỉ cần cho cái Tâm hiện nguyên hình thành một cái câu rồi nắm ngay cái câu đó mà tụng niệm tu hành là xong ngay!!!

Tùy theo ý muốn của Quí bạn, Quí bạn có thể làm cho cái Tâm của mình hiện ra nguyên hình PHẬT (một câu nói thánh thiện) hoặc hiện ra nguyên hình MA (một câu sa đọa). Nói là nói vậy, chớ chắc chắn là Quí bạn thích nắm Phật hơn là nắm Ma rồi!!!

Quí Cao hữu!

Cách làm cho Tâm hiện nguyên hình đã có! Còn chịu nắm hay không là do Quí bạn!!! Đại Từ Phụ có dạy: "Đắc Đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi"!!!

HỘI HIỆP CÙNG THẦY

Thánh Ngôn:

Lúc lâm chung, đứa nào biết Niệm Danh Thầy thì sẽ được về cùng Thầy.

\

Quí Cao hữu!

Niệm Danh Thầy sẽ được về cùng Thầy! Nói nghe dễ dàng quá, phải không Quí bạn? Cũng như bên Phật Giáo, Niệm Danh Phật A Di Đà sẽ được về Cực Lạc Quốc!!! Nói nghe hấp dẫn quá, phải không Quí bạn?

Mới nghe qua thì thật là đơn giản và rất dễ dàng, ai tu theo cách này cũng được!!! Tu thì dễ nhưng đắc thì không dễ đâu, nếu không muốn nói là quá khó khăn và khổ hạnh!!! Quí bạn sẽ nói: Niệm Danh Thầy thì có gì là khó khăn và khổ hạnh đâu!!! Ai Niệm cũng được mà!!!

Đúng rồi!!! Ai niệm cũng được hết!!! Nhưng Niệm đúng "bí kíp" và chí thành Niệm liên tục thì không phải bất cứ ai cũng làm được!!! Nếu chúng ta Niệm Danh như "một con két" hoặc như "một cái máy Cassette" thì Niệm nhiều chỉ sanh ra mệt mỏi và biến thành mê tín mà thôi!!!

Quí Cao hữu!

Quí bạn hãy đọc kỹ các phàn dưới đây sẽ thấy được "bí kíp".

* Hội hiệp cùng Thầy

Thánh Ngôn có dạy: "... Ráng giữ gìn Bộ Thiết Giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy!!! Nghe và ráng tuân theo!!!"

Quí Cao hữu!

Cho đến ngày nào chúng ta mới hội hiệp cùng Thầy? Đó là ngày mà chúng ta từ bỏ cõi đời này!!! Hay nói rõ hơn đó là ngày từ trần, là lúc Lâm chung của chúng ta!!! Đợi tới lúc lâm chung chúng ta mới được hội hiệp cùng Thầy!!! Mà có chắc chắn là chúng ta được hội hiệp cùng Thầy không??? Tại sao chúng ta không lo hội hiệp cùng Thầy trước đi, lúc hấp hối, lúc tinh thần bối rối, tán loạn thì không "ăn chắc" đâu!!!

Nhưng mà!!! Thế nào là hội hiệp cùng Thầy??? Cái Tâm của chúng ta "nằm gọn" trong Danh Thầy không rời ra nửa bước, hay nói khác hơn là Danh Thầy "nằm gọn" trong Tâm chúng ta!!! Hay nói khác hơn nữa, Tâm chúng ta là Danh Thầy! Danh Thầy là Tâm của chúng ta!!! Ngoài ra, không còn một "món" nào khác nữa, thì đó gọi là hội hiệp cùng Thầy!!! Lý thuyết thì như vậy. Còn việc thực hành cụ thể thì thế nào??? Quí Cao hữu cứ cho Tâm mình Niệm Danh Thầy liên tục, mãi mãi, không hở cũng không rời, niệm cho đến lúc Quí bạn không còn biết, không còn phân biệt đâu là Tâm, đâu là Danh Thầy nữa thì đó gọi là đạt đến chỗ "Vô biệt Niệm"!!! Đạt đến chỗ vô biệt niệm thì gọi là được hội hiệp cùng Thầy, hay nói khác hơn là: Lúc đó chúng ta đang ở Cực Lạc Quốc!!!

* Niệm Danh Thầy với Đức tin

Niệm Danh Thầy đến độ "Vô biệt Niệm" thì rất khó (không có nghĩa là chẳng làm được). Tuy nhiên, chúng ta có thể Niệm Danh Thầy với Đức tin. Đức tin đây phải là loại KÍNH NGƯỠNG mới được. Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa: Phải là KÍNH NGƯỠNG mới được!!!

Chân thành kính ngưỡng Danh Thầy, kính ngưỡng Đại Từ Phụ, kính ngưỡng Đức Thượng Đế, kính ngưỡng Đấng Hóa Công!!!

Thực hành: Mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần tin tưởng tuyệt đối (gọi là Khẩu tụng Tâm hành), là chúng ta được: an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!! Phải tin tưởng tuyệt đối được như vậy và chắc chắn phải được như vậy, có thể mấy lần đầu, chúng ta chưa được như vậy vì Đức tin của chúng ta còn mỏng, còn yếu!!! Cho nên chúng ta phải tập Niệm nhiều lần với đức tin tuyệt đối, có nghĩa là chúng ta phải luyện đức tin y như Tôn Ngộ Không luyện Phép Cân Đẩu Vân vậy!!!

Quí Cao hữu!

Khi chúng ta Niệm Danh Thầy đủ "Dose" rồi thì lúc đó Danh Thầy đã trở thành Cực Lạc Quốc, mặc sức chúng ta vào trong đó mà hưởng an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!!

Cứ mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần chúng ta được an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!! (Do Đức tin đã được đầy đủ). Hay nói rõ hơn nữa là chúng ta được hội hiệp cùng Thầy ngay lúc còn sanh tiền!!!

Kết luận:

Cầu Siêu lúc sanh tiền!

Đừng đợi chết rồi khiêng!

Lúc đó siêu sao kịp!

Vẫn phải xuống Cửu Tuyền!!!

CON HẠC

Thánh Ngôn:

Bát Nhã khuyên con trở mái chèo!

Gìn lòng thương lấy chúng sanh eo!!!

\

Quí Cao hữu!

Qua khỏi Trí Huệ Cung là tới Đoạn Trần Kiều. Ngày xưa Đức Hộ Pháp bảo một vị Tá Lý (thợ đắp vẽ) đắp một con hạc mà cái đầu hạc phải hướng bay về phía Trường Lưu và Thiên Thọ Lộ, đặt con hạc đó trên Đoạn Trần Kiều. Thế mà, vị Tá Lý đó lại đặt con hạc quay đầu trở lại, nghịch chiều với lời dặn của Đức Hộ Pháp!!! Tới chừng đắp con hạc xong, vị Tá Lý mới thấy mình vô tình làm không đúng theo lời dạy của Đức Hộ Pháp nên xin Ngài cho được sửa lại. Nhưng Đức Hộ Pháp không cho và dạy thêm: "Âu đó cũng là Thiên Cơ vậy. Thay vì Phàm nhập Thánh mà bây giờ Thánh phải lâm Phàm"!!!

Quí Cao hữu!!!

Đâu phải vị Tá Lý dám cãi lời của Đức Hộ Pháp mà tại vì Đức Thượng Đế bấm cái Remote của Ngài xạ điển xuống cái Tâm của vị Tá Lý bảo phải đặt con hạc ngược chiều trở lại. Vị Tá Lý đâu có biết mình đang bị cái Remote điều khiển từ xa, mà chỉ tưởng rằng mình làm đúng theo lời dặn của Đức Hộ Pháp!!! Đức Hộ Pháp biết rõ điều này nên không cho sửa lại mà cứ để y như vậy!!!

Quí Cao hữu!

Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta cũng nên hiểu nghĩa một số ngôn từ:

* Thánh: Là Thánh Chất, là Trí huệ, là Bát Nhã. Người có Trí huệ Bát Nhã gọi là Thánh Nhân.

* Con hạc: Tượng trưng cho người tu đạt được Thánh Chất, đạt được Trí huệ Bát Nhã thì gọi là Phàm Lâm Thánh!!!

* Thánh Lâm Phàm: Đáng lẽ ra thì một người tu đạt được Thánh Chất Trí huệ là họ đoạn trần luôn mà "bay" về hướng Trường Lưu Thiên Thọ Lộ mà sống thọ bằng Trời Đất vậy (Thiên Thọ Lộ = Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống). Nhưng Đại Từ Phụ không cho, mà bảo các vị Thánh Nhân này, phải quay đầu trở lại Cõi Trần để tiếp tay Đại Từ Phụ cứu vớt chúng sanh, đó gọi là Thánh Lâm Phàm!!!

Bát Nhã khuyên con trở mái chèo!

Gìn lòng thương lấy chúng sanh EO!!!

TỘI BẤT HIẾU

Lời Đức Khổng Từ:

Bất hiếu hữu tam: Vô hậu vi đại!!!

\

Quí Cao hữu!

Ngày xưa có một số người lạm dụng câu nói của Đức Khổng Tử mà giải nghĩa sai lệch theo ý riêng của mình!!! Họ nói rằng: Tội bất hiếu có 3 loại mà tội không có con trai nối dõi Tông đường là tội đứng đầu!!! Sở dĩ họ giảng như vậy là để có cái cớ lấy thêm vợ bé, lấy thêm hầu thiếp!!! Hiện giờ cũng có một số người giảng y như vậy nhưng không biết có lạm dụng để cưới thêm vợ nhỏ hay không?

Quí Cao hữu!

Bây giờ chúng ta phải hiểu làm sao đây? Hay là cũng phải giảng y như cũ, không mới mẽ gì hết???

Quí Cao hữu!

Trước khi đổ rượu mới vào bình cũ, Quí bạn hãy đọc lại kỹ bài "Pháp luân thường chuyển". Bây giờ chúng ta phân tích thêm ý nghĩa một số ngôn từ.

* Hiếu: Theo nghĩa hạn hẹp thì hiếu là hiếu thảo với cha mẹ, ông bà!!! Nhưng theo nghĩa rộng thì Hiếu là sự thương yêu vạn loài, thương yêu hết thảy chúng sanh!!! Thí dụ: Hiếu khách là thương yêu kính trọng khách!!! Hiếu với dân là thương yêu kính trọng dân!!!

* Vô hậu: Thí dụ chúng ta tu đạt được Chánh Pháp rồi đoạn trần luôn mà về Thiên Thọ Lộ, không chịu tìm người thừa kế để hoằng dương Chánh Pháp, đó gọi là Vô hậu!!! Tu đạt được Chánh Pháp mà không chịu "trở mái chèo" (tức là vô hậu) để gìn lòng thương lấy chúng sanh eo thì gọi là bất hiếu, là không thương yêu chúng sanh!!!

Đức Thích Ca ngày xưa tu thành Phật rồi, cũng trở lại cõi Trần để hoằng dương Chánh Pháp suốt 49 năm dài!!! Nên Ngài được gọi là Hữu hậu (con người ăn ở có hậu về sau) và Ngài đã tìm được người thừa kế là Maha Ca Diếp nên Ngài cũng được gọi là Đại Hiếu (tức là thương yêu chúng sanh vô lượng).

Khi đã hiểu "vô hậu" vi đại rồi thì Quí Cao hữu, xin hỏi thật nhỏ, có còn tính cưới vợ bé để sinh con nối dõi Tông đường không?

TRỤ NGUYÊN TÁNH

Kinh Phụ Tế:

Trụ nguyên Tánh hồn linh nhàn lạc!

Cõi Đào Nguyên cỡi Hạc thừa Long!

Lánh xa trược chất bụi hồng!

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung!!!

Phật Mẫu Chơn Kinh:

Trụ căn quỉ khí Cửu tuyền!

Quảng khai Thiên Thượng tạo quyền chí công!!!

Đạo Ngôn:

Thường trụ Ngươn Thần, mọi đường bặt!!!

\

Quí Cao hữu!

Cái Nguyên Tánh, cái Ngươn Thần tức cái Bổn Tánh, cái Phật Tánh thì trừu tượng, vô hình, vô ảnh thì làm sao mà trụ cái Tâm của mình vào đó được??? Hễ trụ vào trong đó thì chúng ta sẽ được nhàn lạc, sẽ được thong dong, và mọi tà niệm dục vọng đều dứt bặt!!! Nói nghe hấp dẫn quá, nhưng làm cách nào trụ vào được cái vô hình đây!!!

Xin Quí Cao hữu đọc lại bài "Nắm Tâm" thì sẽ rõ. Nhưng ở đây chúng tôi cũng xin nhắc lại:

* Làm cho Nguyên Tánh phải hiện nguyên hình

Chúng ta hãy cho Nguyên Tánh hiện nguyên hình thành "Nam mô Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát". Câu Niệm Danh Thầy này đã trở thành là Nguyên Tánh của chúng ta.

Tâm của chúng ta cứ niệm mãi câu Niệm Danh Thầy này thì đó gọi là Tâm trụ vào Nguyên Tánh!!! (Hoặc còn gọi là Tâm thường trụ vào Ngươn Thần). Như vậy là cụ thể rồi phải không Quí bạn!!! Tâm thường trụ vào Nguyên Tánh có nghĩa là Tâm thường Niệm Danh Thầy! Thật là dễ hiểu và dễ làm!!! Nhưng...

* Đức tin và ý chí: Tâm vừa niệm Danh Thầy vừa tin tưởng mãnh liệt là chúng ta được "An lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!!". Phải hạ quyết tâm, phải kiên trì (ý chí) Niệm Danh Thầy cho đến lúc phải đạt được "An lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!!" Cứ mỗi lần Niệm Danh Thầy là mỗi lần chúng ta được an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!! Thế là chúng ta đã được hội hiệp cùng Thầy, hay nói cách khác là chúng ta đã hiệp nhứt được với Phật Tánh, với Nguyên Tánh rồi vậy!!!

Đức tin là trên hết nhưng phải kèm theo ý chí nữa mới được!!! Đức tin hiệp với ý chí thành Bộ Lôi Công!!! Có được Bộ Lôi Công thì làm gì cũng thành, kể cả trên đường Đạo lẫn đường Đời!!!

"Trừ Quái khí roi thần chớp nhoáng!

Bộ lôi công giải tán trược oan!!!" (Kính Tứ Cửu)

 

Tiếp theo >

Top of Page

       HOME