Vị Luật Sự Lưu Văn Dòn và Thư ký Phan Thanh Liêm có nhã ý tom góp nhiều bài văn của tôi soạn trong thời gian qua để làm kỷ niệm . Chẳng dám tự hào là đa văn quảng kiến, nhưng trước cái thạnh tình của em Dòn và Liêm, tôi thuận chìu cho hai em khỏi thất vọng và mong rằng một ngày kia nếu chư tôn quân tử có dịp đọc quyển sách nầy và thấy có sơ sót điều chi xin hoan hỉ thông qua . Đa tạ .
1. Đáp Từ trong Lễ Nhậm chức Quyền Đầu Sư (26-2-59)
Tôi lấy làm hân hạnh được quý vị hoan hỉ đến dự lễ nhậm chức Quyền ĐẦU SƯ của tôi đông đủ như thế nầy làm cho tôi cảm khích vô cùng và tôi xin thành thật để lời cảm tạ toàn thể Đồng Đạo . Gần gũi từ lâu cùng quý bạn, với Chức sắc Thiên Phong cũng như với Đạo Hữu, tôi rất hãnh diện ngày giờ nầy được đứng giữa các bạn mà tôi nhận kỹ toàn là bạn thâm giao đã cùng nhau chung nếm đủ mùi cay đắng, ngọt bùi trên trường công quả để phụng sự cho chúng sanh . Thiết tưởng con đường Đạo rất gập ghình lại dẫy đầy chông gai thêm nỗi tà mị hay cám dỗ nên vì thiếu đức chúng ta đã trải bao phen Đạo chuyển và mỗi lần biến là mỗi lần con cái Đức CHÍ TÔN lâm cảnh âu sầu, thảm đạm . Như buổi nầy, cũng số con cái đó mà phần nhiều lại nhìn nhau bằng giọt lệ hơn là dưới nụ cười; Ấy là điều xưa nay nghịch hẳn với kẻ quyết chí tìm hạnh phúc dưới bóng từ bi . Nhưng có ở trong tình trạng éo le như thế mới biết Đạo thấp hay cao rồi tự mình hoán cải tâm tình, đổi thay tư tưởng đặng hướng về đạo đức thiệt mặt mà thôi . Chừng ấy dầu muốn dầu không, Đạo sẽ vươn mình một cách mạnh mẽ phi thường để hàn gắn những vết thương về vật thể lẫn tinh thần của con cái Đức CHÍ TÔN mà ngoài cái diệu huyền của Đạo không một năng lực nào của thế gian hàn gắn lại được .
Kính Hội Thánh,
Lúc sau nầy, nhờ kiên tâm trì chí trót hai năm trường từ năm Đinh Dậu (1957) đặng chờ ngày quang đãng tái lại, mỗi người trong chúng ta đã thâu thập nhiều ít kinh nghiệm để quyết sách vận trù chấn hưng nền Đạo thì kể từ đây tôi tha thiết yêu cầu quý bạn nên ghi tâm rằng chúng ta đã phế cả gia sự đi tu đặng giải khổ cho kẻ khác, nếu được, còn không được thì cũng giải một phần nào cho bản thân bớt khổ chớ có lý đâu cứ tự hãm mình trong cái khổ mãi . Muốn thoát ly nó thì cần dứt bỏ ngay những cái gì đã đem khổ cho mình hay cho gia đình mình mới thật là thượng trí .
Vả chăng Đức CHÍ TÔN có dạy rằng: “Thiên thơ có đủ máy hành tàng nhưng Thầy vì thương các con mà phải sửa nét tân khổ ra đường lo liệu.. . Xưa các Thánh làm nên cho Đạo biết bao là công trình ngày tháng! .. .” .
Vậy thì chúng ta phải lo liệu bằng cách nào cho đỡ khổ . Phải chăng cần ứng dụng chánh sách gắng công, trì chí phò trì lẫn nhau, đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung, đừng thấy đồng Đạo tranh đua ngồi mà xem không khuyên giải .Như thế mới mong vẹt lối chông gai để cho dễ bước đường sau tấn bộ .
Các Thánh xưa đã phí bao nhiêu công trình đặng làm nên cho Đạo thì các Thánh nay trong cửa Đại Đạo cũng không đi đường nào khác hơn cho đặng .
Thưa quý Đạo hữu,
Sanh nhằm buổi Đạo khai để cứu Đời, quý bạn được may duyên hơn các dân tộc khác ở ngoại bang còn lắm xa nguồn Đạo, thì quý bạn là người tương lai sẽ lãnh đầu công gióng trống khua chuông đem Đạo gieo truyền khắp hoàn vũ . Vậy hãy ráng gìn giữ cái phần may mắn ấy cho còn . Thoảng như để nó sứt mẻ hay tiêu tan tức thị là mình tự phủi một kiếp tu mà mình không hay vậy .
Người khôn đứng giữa cõi trần sao khỏi lấm bụi trần mà gặp được nước nhành dương liễu mau rửa bợn tục. Cơn đại biến vừa qua chẳng phải là việc lạ vì bởi việc gì phải đến thì nó đến và sẽ đến . Lạ chăng là chúng ta rất dễ quên Thánh giáo của Đại Từ Phụ đã thố lộ nguy cơ và tôi xin nhắc một đoạn như sau nầy để quay về chánh giác như người khôn trên kia và cũng để làm phương thuốc an ủi lòng .
Thánh Giáo: “.. .Thầy nói cho các con hiểu trước rằng cả môn đệ Thầy đã lựa chọn lọc lừa còn lối nửa phần .. . các con chớ nên buồn vì Thiên cơ phải vậy” .
Vả chăng cả thảy chúng ta đều là con yêu dấu của Đấng Cha Lành thì Người chưa hề rời bỏ một ai, duy kẻ nào thiếu đức tin hay kém hiểu biết thì dầu thương yêu đến đâu cũng không qua Thiên điều cho đặng . Chúng ta nên để ý chỗ đó cho lắm .
Kính Hội Thánh Cửu Trùng Đài Nam Nữ,
Từ năm Mậu Dần (1938) Quý Hội Thánh không có ĐẦU SƯ dìu dẫn trên bước Đạo cũng như trên đường Đời, rồi luống chịu khuyết điểm ấy cho đến nay làm cho chư Thánh khó tránh những sự phiền phức bất kỳ trong lúc thi hành sứ mạng Thiêng Liêng của mỗi vị .
Bởi nguyên nhơn đó mà nhơn sanh không khỏi chịu ảnh hưởng ít nhiều về mặt tinh thần và đạo lý . Đủ thí nghiệm từ lâu, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài không thể điềm nhiên tọa thị để tình trạng ấy kéo dài thêm nữa nên phải đại diện tạm đảm đương trách vụ ĐẦU SƯ hầu giúp quý Hội Thánh được vững vàng trên mọi hành trình .
Tôi rất hân hạnh được đề cử trong dịp nầy và tôi tin rằng vì việc công ích cho toàn thể, chư Thánh sẽ hoan hỉ chung tâm hiệp sức với tôi đặng cùng nhau đưa con thuyền Đạo nhẹ nhàng tách bến . Vậy nên tuy tài sơ đức siển và mặc dầu tình thế khó khăn tôi không khước từ trách nhậm mà quý Ngài thừa hiểu là rất nặng nề cực nhọc .
Tôi sẽ lựa chọn Chức Sắc hữu hạnh hữu đức đặng giao phó những địa vị trọng yếu ở Tòa Thánh và ở Địa phương . Đồng thời tôi sẽ triệu hồi một số Chức Sắc để tập rèn Tam lập (lập công, lập ngôn, lập đức) hầu mai sau hành Đạo cho đắc lực hơn .
Hội Thánh sẽ không quên công dày quả nặng của những vị vì tuổi cao sức yếu đã hồi hưu và sẽ tạo dựng cho chư vị ấy một đời sống an nhàn đầy vui vẻ .
Chúng tôi sẽ mở rộng cửa đón tiếp nhơn tài để giúp tay trong cơ phổ độ .
Hiện giờ tài chánh của Đạo đang khuẩn bách, tôi sẽ kêu gọi hảo tâm của cả con cái Đức CHÍ TÔN và đặt trọn hy vọng vào nghĩa cử thanh cao của mỗi vị hầu giúp Hội Thánh cứu vãn tình thế .
Sau hết, tôi xin khuyên toàn Đạo, không biệt phân Chức Sắc hay Đạo hữu cứ giữ vững đức tin và chớ khá nhẹ dạ xiêu lòng mà phải sa ngã vào hang sâu vực thẳm, thì may mắn lắm .
Một lần nữa tôi xin để lời cảm tạ nồng hậu và cầu chúc cho mỗi vị được khương cường mẫn huệ .
BẢO THẾ Quyền ĐẦU SƯ
(Ấn ký)
2. Diễn Từ Đại hội Hội Thánh (15-2-60)
Tôi hân hạnh được buổi hôm nay hội kiến với toàn thể quý vị Chức Sắc Lưỡng phái Nam Nữ hiện đương hành Đạo ở các Địa phương làm cho tôi tưởng lại cách đây đúng một năm không thêm không bớt ngày nào cả, tôi đã gặp gỡ quý vị cũng tại ngôi nhà nầy nhơn dịp Lễ tấn phong tôi cầm Quyền ĐẦU SƯ Cửu Trùng Đài, 19 tháng Giêng Kỷ Hợi (26 - 2 - 1959 dl ) .
Vậy thì giờ phút nầy là giờ phút kỷ niệm Đệ nhứt Châu niên tôi đã đảm nhiệm trọng trách thượng quyền trực thuộc Hành Chánh Đạo .
Thiết tưởng sức người hữu hạn việc Đạo vô biên, nhưng đã trọn hiến thân phục vụ thì dầu gặp trường hợp nào với hoàn cảnh gì chúng tôi vẫn thình lòng làm tôi cho đại chúng cho tới mức cuối cùng; chớ con Tằm kia vì bổn phận cho đến chết cũng còn quây tơ thì sao .
Sanh nhằm đời khai sáng mối Đạo Trời lại được phần can dự vào đại cuộc để chia sớt cùng các bạn đồng tuyến những nỗi lo âu, những niềm hoan lạc, chúng tôi cho đó là một phúc lộc hi hữu, cho nên tuy là tài mọn đức sơ chúng tôi vẫn để bước theo tiếng gọi Thiêng Liêng, nếu phải làm như con tằm kia cho phải giá, chúng tôi chẳng dám nại hà .
Đảm đương trách vụ Qu. ĐẦU SƯ với quyền hành đã ấn định trong Tân Luật và Pháp Chánh Truyền là được quyền cai trị phần Đạo và Phần Đời, tôi cố tránh dùng quyền cai trị ấy, cốt yếu tự chịu chông gai đặng vạch lối chông gai, mở đường êm dịu, khai nẻo vui tươi ngõ hầu nâng đỡ quý Chức Sắc được cao thăng phẩm tước xứng đáng vị ngôi, là sở nguyện của tôi mà thôi . Thoảng như một đôi khi cần chiếu Luật làm gương là vạn bất đắc dĩ . Vả lại, tôi rất hiểu và có lẽ quý vị cũng hiểu như tôi rằng luật lệ không bao giờ thiên vị, mà mấy ai ở cõi phàm nầy lại khỏi lạc lầm và vì bởi có luật lệ định hình, Đời mới có cờ Mao búa Việt để trị loạn, còn Đạo thì có kiếm Thư Hùng để trị tà, nhưng nó là huệ kiếm mà thôi và tuy vô hình nó vẫn có đủ năng lực phóng quang đến chỗ mờ ám tối tăm làm cho bộc lộ chơn hình tà tướng .
Đành rằng hễ mang lốt nhà tu thì phải sửa đổi cả cái gì hư tệ trong thân mình và ngoài thân mình nhưng nếu dễ làm như dễ nói thì ngày giờ nầy những nhà tu sĩ đều là Thánh nhơn cả thảy . Vì lẽ đó, mà trong cửa Đạo của chúng ta một số ít đàn em, nam lẫn nữ, còn yếu tánh vi phạm giới răn qui điều . Rất may là những người ấy còn đầy đủ tinh thần phục thiện .
Chánh pháp hướng Đạo của tôi đã giãi bày như trên, giờ thử kể đại lược những gì tôi đã làm trong kỳ đệ nhứt chu niên nầy .
Kính Hội Thánh,
Thập Nhị gia Liên bảo:
Cuộc thử thách từ năm Bính Thân (1956) kế tiếp tới măm Mậu Tuất (1958) đã làm cho một số con cái Đức CHÍ TÔN hằng ngày điêu đứng lo âu, đức tin không vững tinh thần lung lay, tôi liền tái lập Thập Nhị Gia Liên Bảo trong vùng Ngoại Ô Thánh địa đặng đem lại sự yên tịnh cho trí não dẹp bớt sự nhọc nhằn xác thân của chư Đạo hữu . Nhờ đó, người đồng Đạo mới tương liên nhau trong vòng yêu ái và hiện nay đều được an cư lạc nghiệp .
Cải tổ nội bộ Hành Chánh Đạo:
Cuộc đại biến trên đây đem lại cho tôi một kinh nghiệm cho đặng giữ vững đại nghiệp của Đạo về mặt vật chất lẫn tinh thần, tôi đã cải tổ nội bộ Hành Chánh Đạo bằng cách lựa chọn Chức Sắc hữu đức hữu tài và phó thác nhiệm vụ thay mặt Hội Thánh để dìu dẫn chư thiện tín ở địa phương hồi minh khử ám theo chánh lánh tà . Và tôi đã thâu thập được kết quả khả quan làm cho tôi tin chắc rằng với phương thức truyền giáo trong vòng Đạo Đức thiệt mặt do sự cố tâm ráng sức của quý vị Chức Sắc hiện diện nơi đây, Hội Thánh sẽ hãnh diện phất cờ độ thế .
Trường trai khổ hạnh:
Về thinh danh của Đạo và về phẩm giá của Chức Sắc làm đầu một Phận hay một Tộc Đạo tôi đã khuyên lơn tập lần khổ hạnh trường trai . Tôi rất hài lòng được tiếp phúc trình của nhiều vị Khâm Châu cho hay nhiều vị Đầu Tộc đã thông hiểu sự ích lợi nói trên và đã khép mình vào khuôn tinh khiết .
Điều chỉnh hành trình của Cửu Viện:
Nghĩ vì cho được thông cảm nhau về mọi mặt để nâng cao cho nền chơn giáo, tôi đã tư cho chư vị Chánh Phối Sư nam và nữ nhóm lệ hàng tháng với tam Viện dưới quyền trực thuộc của mỗi vị đặng trao đổi ý kiến trong vòng thân mật Đệ, Huynh, Muội, Tỷ rồi dâng yêu sách lên tôi liệu phương giải quyết . Như vậy thì từ thượng cấp dĩ chí hạ bậc, mỗi người đều được để tiếng nói mình vào sự chung lo việc cả . Rồi đây lần lần những điều thắc mắc, những chuyện ức lòng, những mối hư tệ mà bấy lâu ẩn khuất nơi nầy nơi kia sẽ tiêu tan, nhường chỗ cho sự vui tươi thỏa mãn .
Đền đáp công quả:
Để báo đáp ân thâm của chư vị Chức Sắc lão thành đã quả mãn công viên tôi đã xin Hội Thánh đài thọ cho những vị dưỡng nhàn nơi Dưỡng Lão Đường mỗi ngày 3.00$ (ba đồng) tiền chợ và tiền tiêu phí riêng . Còn những người bịnh nằm tại Dưỡng Đường thì mỗi ngày được hai đồng tiền chợ . Tuy không thấm vào đâu vì tài chánh eo hẹp nhưng cần có chẳng luận ít nhiều để tránh một phần nào vất vả .
Hội Công Đồng và Tòa Tam Giáo:
Để bảo thủ chơn pháp, tôi đã thành lập Hội Công Đồng cốt yếu để ngừa tội hơn là trị tội . Hội ấy là nơi giữ nét chí công và cũng là nơi rửa bợn cho những ai lấm bợn . Nếu cần xử Chức Sắc phạm tội sẽ có Tòa Tam Giáo do Đức Lý Giáo Tông định đoạt .
Tôi ước mong từ đây quý vị đều lưu tâm rằng theo sở nguyện tôi, chẳng nên có một ai để tên trong sổ của Hội Công Đồng hay Tòa Tam Giáo thì không còn may duyên nào bằng .
Thống nhứt Chi Phái:
Tôi cũng nên tỏ bày cho quý vị ở xa Tòa Thánh hiểu rằng lúc sau nầy cơ quan Cao Đài Thống Nhứt Sài Gòn khi trước dưới quyền Trưởng Ban của Ông Phan Khắc Sửu, rồi bây giờ dưới quyền Ông Nguyễn Văn Phùng (Thánh Thất Nam Thành Cầu Kho) đã đôi ba phen đến đây hội kiến Hội Thánh và yêu cầu thống nhứt các Chi Phái, thì Hội Thánh đã cho biết nguyên tắc sự thống nhứt là hay và đã trao chương trình qui định lập trường của Hội Thánh cho Cơ Quan trên đây thông qua các Chi Phái .
Chúng tôi còn tọa thị mong chờ và nếu cần chúng tôi sẽ thông truyền “ Tin tức cho các Địa phương” đặng hiểu . Ngoài ra như không có văn kiện gì chánh thức của Hội Thánh ban bố thì chẳng vội tin mà phải bị ngoại nhơn lường gạt .
Cho hay chúng ta cần mở rộng cửa đặng đón tiếp nhơn tài, nhưng có điều kiện phân minh không thể để loạn hàng thất thứ được .
Tài chánh:
Sau nầy tôi tin cho quý vị rõ kể từ đầu tháng Giêng dương lịch (1960) Hội Thánh hết thâu tiền chợ Long Hoa và các chợ nhỏ trong vùng Ngoại ô Thánh Địa . Nói như vậy tức là từ đây bổn Đạo sẽ sống theo tuế nguyệt với lòng háo nghĩa của chư thiện nam tín nữ và của bá tánh thập phương đến chiêm ngưỡng .
Thế thì quý vị chỉ có một phương ứng dụng hợp thời là dĩ đức phục nhơn tâm thì bước Đạo sẽ được suông sẽ từ nội dung ra đến ngoại cuộc . Còn thất đức trong sở hành thì bước Đạo sẽ gặp khó khăn từ ngoại cuộc vào tới nội dung, mà cái gốc lung lay thì cái ngọn không khỏi xiêu đổ .
9- Tịnh đường:
Trong một ngày kế cận đây tôi se õmở Tịnh đường đặng tập rèn Tam Lập: Lập đức, Lập ngôn, Lập công; là những điều kiện cần thiết để thành công trong cuộc độ nhơn cứu thế . Đồng thời Hội Thánh sẽ đào tạo một thế hệ mới gồm những vị thiệt tâm hành Đạo không bận bịu vì gia đình hay tư sự tức là người trọn vẹn xuất thế mới hành Đạo xuất sắc được .
10- Nhà Hội Vạn Linh:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ ra đời để tái tạo Thượng nguơn Thánh Đức thì cả thiên hạ ở hoàn vũ nầy nếu sáng suốt sẽ nương bóng từ bi của Đại Từ Phụ mà cộng hưởng thái bình an lạc .
Trước khi đi đến đó chúng ta phải xây dựng một nhà chung để hội các Tôn giáo thế giới đặng hiệp trí hòa tâm thảo luận kế hoạch dìu dẫn con cái Đức CHÍ TÔN đi đến đại đồng . Nhà chung ấy sẽ lấy tên là nhà Hội Vạn Linh . Và tôi ước mong nó sẽ hoàn thành nội trong năm nầy, xin quý vị Khâm Thành, Khâm Châu, Đầu Phận, Đầu Tộc nam nữ lưu tâm vì nó dựa một phần lớn trong sự cố gắng của quý vị . Có câu phương ngôn rằng: Hễ muốn thì được . Tôi tin trước quý vị cũng như Hội Thánh đều muốn thì nhà Hội Vạn Linh sẽ nên hình tốt đẹp .
Bằng chứng cụ thể hiển nhiên “muốn thì được” là Hội Thánh nghèo, mấy em Thợ hồ trong Ban Kiến Trúc tự liệu kẻ công người của đem sơn đến sơn Đền Thánh; tổn phí gần bạc muôn .
Thứ nữa cũng bởi Hội Thánh nghèo, nhiều vị hảo tâm, ở các Phận Đạo kẻ đa người thiểu, công có của có, lót gạch sân Đại Đồng Xã, nay xem đẹp đẽ ngoạn mục tổn phí gần đôi muôn .
Tôi xin để lời để hết tín nhiệm nơi quý vị trong việc tạo tác nhà Hội Vạn Linh là kỷ niệm lịch sử công trình của quý vị mà tôi tin rằng sẽ đơm bông kết trái để tô điểm thêm ngoạn cảnh Thánh Địa .
Kính Hội Thánh,
Và quý vị Khâm Thành, Khâm Châu, Đầu Phận, Đầu Tộc Đạo nam nữ .
Muốn cất nhà phải xây nền tức là lo hạ tầng cơ sở cho xong, rồi mới lo tới thượng tầng kiến thiết .
Hội Thánh lo nền tảng yên bày rồi nay nhờ tài đức của quý vị tiếp vào cho nên hình nên vóc thì công quả của quý vị sẽ ghi bằng điểm son trong Sử Đạo .
Nay kính,
BẢO THẾ Qu. ĐẦU SƯ
(Ấn ký)
LÊ THIỆN PHƯỚC
3. Diễn Văn Khai trường Tu Hạnh Nữ Phái (7-10-60)
Nhơn dịp khai trừơng Tu Hạnh Nữ phái, tôi hân hạnh thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Đài để lời chào Ban Giám Đốc và chào Chư Chức Sắc, Chức Việc cùng Đạo Hữu Nam Nữ hiện diện nơi cuộc lễ nầy .
Kính quý Huynh Tỷ, quý Đệ Muội,
Sau 35 năm khai Đạo tuy vân đã có trường dạy Đạo, như lúc trước là Hạnh Đường lúc nầy là Đại Đạo Học Đường, dạy chung Chức Sắc Nam Nữ hỗn hợp và dạy về mặt lý thuyết để mở trí khai tâm của Sinh viên, nhưng không có lớp dạy về phương pháp thực hành . Đành rằng lý thuyết có phần hay của lý thuyết, mà thực hành cũng có phần rất cần của thực hành . Cần là đem lý thuyết ra thí nghiệm cho thành hữu hiệu, những cái gì đã mô tả trong kinh sách hay bài vỡ đặngrút kinh nghiệm làm phương xử kỷ tiếp vật trên đường Đạo và đường Đời .
Vả chăng giờ phút nầy nhơn sanh hằng trông vào hành vi, cử chỉ và nết na ngôn ngữ của Chức Sắc lãnh sứ mạng phổ truyền Chánh giáo, rồi dựa nơi đó mà đánh giá mối Đạo . Người ta nhìn những vị ấy như nhìn ngọn đuốc Thiêng, hễ tỏ rạng thì tôn sùng nối gót theo sau, còn lu mờ thì ngảnh về hướng khác . Chúng ta nên lấy công tâm phán đoán và lấy can đảm nhận ngay hiện giờ ngọn đuốc Thiêng chưa tỏ rạng, bởi hạnh đức chưa lố bóng và Hội Thánh cũng thấy vì đức sơ hạnh siển mà danh Đạo bị tổn thương quá nhiều . Vì thế trường Tu Hạnh kể từ đây sẽ lãnh vai tuồng bổ túc .
Thiết tưởng chẳng phải Nữ giới mới chuyên lo tu hạnh mà cả nam giới cũng y một thể . Nhưng để nêu cao thước ngọc khuôn vàng sản xuất nơi trường Tu Hạnh, Hội Thánh dành cho phái nữ chiếm phần ưu tiên đề danh kim bản .
Cho hay thời xưa ở các Tôn giáo, trong hàng nữ lưu đã có người đoạt vị Phật Tiên . Chẳng hạn như Đức Quan Âm trong cửa Thiền đắc thành chánh quả mà còn lập nguyện xuống Thế vớt kẻ trầm luân . Như Hà Tiên Cô về Đạo Giáo, đã đắc pháp nêu gương Tu sĩ thành công cho đoàn hậu tấn nối chí tu luyện đặng thoát miền trần tục . Như Bà Mẫu Thầy Mạnh, nơi cửa Khổng sân Trình, sợ con hư phải dời nhà đi nơi khác, cho con khỏi nhiễm tánh lăng loàn của chúng bạn .
Thời hiện đại nhờ gần Đạo, chúng ta được biết theo hầu Đức Phật Mẫu có Cửu Vị Tiên Nương Diêu Trì Cung hằng nhắc nhỡ phái nữ hãy lo trau giồi đức hạnh đặng rồi một ngày kia khỏi thẹn gặp chư Tiên Nương nơi thượng cảnh . Nghiệm cổ rồi suy kim; đứng trước bao nhiêu gương phụ nữ vẻ vang xuất thế như trên vừa kể, chúng ta thử hỏi trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với Cổ Pháp khả quí từ muôn thuở không thay đổi, lẽ nào chẳng có người dường ấy . Thời gian sẽ trả lời .
Sanh nhằm đời Đại Đạo hoằng khai tất cả con cái Đức CHÍ TON có hai con đường tùy sở thích lựa chọn . Như may lựa con đường về nơi Bồng Đảo thì phải chịu khổ hạnh trăm bề, còn như rủi chọn nẻo xuống Phong Đô thì mặc tình trụy lạc .
May rủi khôn lường, kẻ trí giả tự mình định phận .
Thế thì chẳng nên lầm tưởng rằng, hễ là liễu yếu đào thơ ắt phải chịu số thiệt thòi khuê môn bất xuất, rồi không đảm nhiệm vai tuồng phô trương bác ái từ bi ngõ hầu giải khổ cho đời bớt khổ . Muốn vậy trước hết phải có đủ hạnh tự hãm mình chịu cay đắng trong cái đắng cay, mới biết cái cay đắng của người bạc phước, thêm vào đó phải có đủ đức mới nảy lòng trắc ẩn trợ khổn phò nguy . Ấy là thi hành Thế Luật đặng dọn đường vào Hình Nhi thượng học .
Kể từ nay, trường Tu Hạnh ra đời, tôi để hết hy vọng vào sự tận tâm học tập của chư Sinh viên Nữ phái và cầu chúc cho cả thảy đều minh trong hành tàng cũng như trong học vấn .
Tôi cầu nguyện Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU ban ơn lành cho toàn thể Huynh, Tỷ, Đệ, Muội ./.
Nay kính
BẢO THẾ - Qu. ĐẦU SƯ
(Ấn ký)
LÊ THIỆN PHƯỚC
4. Diễn Văn Lễ Phát Lời Khen Ngợi Chức sắc và Nhân viên dày công Hành Đạo (9-10-60)
Tôi xin để lời chào quý Ngài và cảm tạ thạnh tình của toàn thể Huynh, Tỷ, Đệ, Muội không phụ lòng Hội Thánh đến đây tăng phần long trọng cuộc Lễ ban Lời Khen chư vị Lễ Sanh và Nhơn viên tận tâm phục vụ trong thời kỳ đã qua dưới quyền dìu dẫn của tôi .
Kính Hội Thánh,
Làm khách hữu tình đứng nhìn bốn biển, năm châu thấy thiên hạ lâm cảnh đồng bàn tương sát, đồng chủng tương tàn, không ai khỏi để lời than cái kiếp sống ở đời nầy sao lắm tai ương sầu não .
Xét cho ky,õ nghĩ cho cùng, thật đáng lo cho đời sắp tận diệt, mà cũng đáng tiếc cho nhơn sanh đã mang mảnh hình hài tốt đẹp như thế nầy, mà sau bao nhiêu kiếp tấn hóa từ hồi còn là kim thạch, thú cầm cho tới loài người rồi lại dừng bước tại đây đặng rồi trở lại tiền kiếp làm thân tận khổ .
Nghĩ vì thảm trạng nầy cứ liên tục phổ diễn trên mặt Thế từ đầu thế kỷ 20 tới nay, nếu không nhờ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ xuất hiện kịp thì, rồi dựa nơi nào thức tỉnh Nhơn sanh lo toan cải ác tùng lương . Nếu tạo hoài nghiệp chướng thì luật trả vay không châm chế . Chừng ấy rồi ai lo tái tạo đời Thánh đức đặng trường tồn luật hóa sanh của Tạo đoan .
Nương bóng từ bi của Đức CHÍ TÔN, chúng ta có bổn phận hằng ngày quyết sách vận trù thật hành cho hữu hiệu những biện pháp cứu độ sanh linh thoát khỏi tay tà mị dỗ dành mãi đắm chìm trong bể ái . Nhưng trước khi độ người chúng ta phải cố gắng tập tành cho tâm lành trí sáng đặng thâu thập đầy đủ kinh nghiệm làm tròn sứ mạng .
Cho đặng vậy, tiên khởi từ Chức Sắc hạ bậc đang tuổi thanh xuân phải lao tâm tiêu tứ trong bổn phận hằng bửa bằng cách xem mình nhẹ như tim bức mới trổ hết tinh thần phục vụ và tài năng học hỏi .
Cho hay tùng Đạo thì dễ mà hành Đạo rất khó khăn . Thoảng như có người phế việc riêng lo công ích, với ý chí làm nô lệ cho chúng sanh theo tôn chỉ Đạo, lấy bác ái làm nhành dương dụng công bình làm huệ kiếm thì không gì bằng . Ưng làm nô lệ với thái độ cao khiết tự đặt mình trong cái yếu mà mạnh, trong cái nhịn nhục mà là quyền thế, theo quyền diệu phép hộ trì của Đức CHÍ TÔN, với trách vụ đương kiêm của chúng ta, tôi có quan niệm trải thân, người Tôn giáo làm nô lệ chưa đúng chữ mà còn hạ mình xuống một bậc nữa làm nô lệ cho kẻ nô tỳ mới ra mặt người mượn thế làm gương giác thế . Với ý nghĩa nầy, có một số Lễ Sanh, Đầu Phòng Khoa mục và Nhơn viên nơi Cửu Viện, cả nam lẫn nữ, để việc Đạo trên hết mọi việc, xứng đáng được Hội Thánh hạ cố, tôi không ngần ngại hoan hỉ ân tứ lời khen công nghiệp hành Đạo của mấy em để làm gương cho bạn đồng thuyền đồng chạng.
Rồi đây tôi sẽ lưu tâm tới hành trình của quý Chức Sắc đứng trong Thánh Thể Đức CHÍ TÔN tại thế ở Trung ương và các Địa phương luôn của Đầu Phận và Đầu Tộc, đặng tuyên dương công dày quả nặng của những người vì Đạo quên mình hiến thân cho Đức CHÍ TÔN sai sử .
Tôi ước mong từ đây trong cửa Đạo chỉ có thưởng chớ không có trừng, ấy là quý bạn đền ơn cho Đức CHÍ TÔN vậy .
Tôi tuyên bố khai mạc cuộc Lễ Phát Lời Khen Ngợi ./.
Nay kính
BẢO THẾ Qu. ĐẦU SƯ
(Ấn ký)
LÊ THIỆN PHƯỚC
5. Thuyết Đạo Rằm Thượng Nguơn Tân Sửu (28-2-61)
Nhơn dịp Lễ Thượng Nguơn Tân Sửu, tôi để lời chào Quý vị hiện diện nơi đây và cầu chúc cho toàn thể được mọi điều lành .
Thưa Quý vị,
Gió Xuân còn mát mẻ, cảnh vật vẫn thắm tươi, người người đượm vẻ hân hoan trên nét mặt tỏ lòng hoài vọng sống vào một đời sống thư thả và vui đẹp hơn đời sống đã qua .
Đấy là thông lệ từ xưa nay, cả con cái Đức CHÍ TÔN không phân biệt màu da sắc tóc hay tín ngưỡng, hễ mỗi lượt Xuân về đồng mong ước tái lai cảnh thanh bình vì đã quá khổ trong cảnh tranh đua tàn khốc . Nói chung về thiên hạ như thế, còn nói riêng về người bổn Đạo, năm nay tôi nhận thấy vì đã từng chen sống trong cửa bần hàn đã chung nhiễm được mùi Đạo Đức nên thức tỉnh khá nhiều, đức tin trụ vững và tinh thần phục vụ khá cao thì Hội Thánh sẽ tận lực giáo hóa thêm đặng tạo phúc một phần nào cho cả sanh linh đang mong chờ .
Cho đặng vậy, chúng ta trong hàng Chức Sắc nên để tâm ân cần sự dọn mình cho xứng đáng người dẫn lối đưa đường trên tinh thần vị công vị ái . Đó là: “Tiên nhi luyện kỷ, hậu nhi hóa nhơn” . Nhược bằng chẳng vậy thì sẽ thất phận với sứ mạng Thiêng Liêng mà mỗi Chức Sắc đã nghiêng mình thọ lãnh .
Muốn luyện kỷ cho có kết quả tốt thì chúng ta nên hiểu cho tột lý thời gian liên hệ với không gian là lẽ nào .
Vả chăng ở cõi hồng trần, khi nhị khí âm dương dung hiệp thì vạn vật hóa sanh từ vỏ trụ tới loài người . Tuy là muôn hình vạn trạng, mà tinh là giả hình tạo bởi vật chất vận chuyển ra cơ hữu tướng .
Bởi là giả hiệp nên toàn là ảo ảnh, vì thế mọi vật từ kim thạch dĩ chí nhơn sanh không tồn tại mãi với nguyên hình được và phải biến thể theo thời gian đặng tấn hóa . Thời gian định hình thay đổi và định luật mất còn . Bởi đó mới có thời tiết xây chuyển qua lại đẩy đưa định thành trong năm có bốn mùa: Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàn rồi trở lại chuyển luân trong vòng hữu tướng làm cho thế gian điêu linh cũng vì thiệt thiệt hư hư chơn chơn giả giả .
Con người sống dưới bóng thời gian với mảnh hình hài nhục thể cũng không ra ngoài vòng của sắc tướng đổi xây, phải chịu bao nhiêu kiếp đọa đày mới dứt được lao trần khổ tục .
Nói về số phận của nhơn sanh ở trên địa cầu 68 nầy rất may duyên gặp hội Hoằng khai Đại Đạo thì kẻ trí sẽ lợi dụng thời gian đặng giữ còn linh giác của Đức CHÍ TÔN ban cho từ thuở mới ra chào đời . Ngặt nỗi ngộ Đạo lại bất tùng Đạo, thì duy trong cửa Đạo mới có kẻ thức thời đem trí não dọn mình ra khỏi vòng cương tỏa của thời gian . Dọn mình ấy là đoạn trừ phàm tâm che lấp chơn tâm mà phàm tâm thì hoặc bất cẩn hoặc hữu ý trong hành tàng bất minh, trong ngôn ngữ bất chánh, trong tư tưởng tà vạy . Nói tóm làm tội lỗi là điều đại kỵ trong giới chơn tu . Đừng tưởng rằng một tội dầu nhẹ đến đâu, dầu vi phạm trong chỗ ẩn khuất đi nữa, dầu không ai thấy, chớ các Đấng vô hình đã thấy, dầu khỏi bị hành phạt phàm trần cũng không khỏi bị hình phạt Thiêng Liêng . Thì chạy sao khỏi nghiệp đền quả mang, rồi phải chịu thời gian kéo níu .
Huống hồ gì Chức Sắc Thiên Phong là người nắm Chơn Truyền Luật Pháp trong tay mà vi phạm đến thì bao nhiêu công tu đều thả trôi theo dòng nước bạc .
Như trên đã giải, thời gian thì hữu sắc vận chuyển hóa sanh . Còn không gian thì vô tận vô biên không hình không sắc, chẳng thấy chẳng đụng mà đâu đâu cũng có . Nó chứa đựng cả cái thiệt rộng thiệt lớn cũng như trong cả cái thiệt nhỏ tế nhị đều có nó ở trung tâm điểm . Nó điều khiển thời gian trong vòng chuyển luân tạo nên vạn vật và nhơn sanh với một trường thi công quả . Vậy thì không gian định quả tức là nắm mối Chơn truyền tạo Thế .
Không gian ấy là Đạo liên hệ với thời gian là Đời .
Đời tàn tạ chớ Đạo mãi trường lưu trên vạn vật .
Thưa quý vị,
Quán thông chí lý sự tương liên giữa thời gian và không gian, tôi ước mong trong lúc nhàn rỗi quý vị dụng hết trí não xem gương định bóng, đem sắc luận không rồi nhận định đâu là chơn, đâu là giả, ắt sẽ thấy rõ Thiên lý nơi mình đặng tự giác thì không uổng công từ thử phế đời theo cửa từ bi lập cơ cứu khổ ./.
Nay kính
BẢO THẾ Qu. ĐẦU SƯ
(Ấn ký)
6. Diễn Văn Đãi Tiệc Chức sắc đầu Xuân Tân Sửu (1961)
Cái lệ Hội Thánh thiết tiệc khoản đãi Chức Sắc đã dày công hành đạo sau một niên khóa 365 ngày, từ Trung Ương đến Địa Phương đã thành một thông lệ vừa hay vừa có ý nghĩa sâu xa không thể bỏ qua cho được . Như ngày hôm nay cả thảy các bạn nam, nữ qui tụ về nhà chung nầy là ngày vui vẻ nhứt khiến cho quên cả dĩ vãng chỉ nhớ hiện tại và lo tương lai vừa của mình vừa của bổn đạo; ấy là hay . Nhơn cuộc trùng phùng nầy anh chị em ngồi chung quanh ly nước lã với chén cơm pha lẫn tương rau thật là đạm bạc, mà mỗi người đều tỏ vẻ hân hoan hỉ hạ biểu dương một tinh thần đoàn kết mà khách bàng quan không ai không thèm muốn . Thêm nữa bữa tiệc liên hoan nầy đánh dấu trong tâm hồn của mỗi chúng ta dầu cho có điều gì phiền muộn nhau cho tới đâu đi nữa cũng xóa bỏ cho đành đặng giữ mãi còn cái tình đoàn kết cái giải đồng tâm . Ấy là ý nghĩa sâu xa .
Rồi do cuộc sum họp thân mật nầy mới nãy ra sự trên hòa dưới thuận trong ấm ngoài êm làm cội cho cây tương thân tương trợ trên nền nhân nghĩa trổ tược đâm chồi thì lo gì không độ được Vạn linh qua khổ hải .
Rải giống yêu đương trồng cây nhân nghĩa trong thiên hạ, chúng ta hãy xem gương người làm ruộng ung dung dậm bước trên thửa đất dọn sạch cỏ, phân bón đủ đầy, trước ngực một tay bợ thúng lúa giống, một tay khoan thai nắm lúa rảy tung lên nền trời, lúa rớt xuống đâu thì ít hôm sau gặt hái đến đó .
Các bạn thử nghĩ, trái với tình đời, ai gieo nấy hưởng, trong cửa từ bi, chúng ta gieo cho kẻ khác nhờ mà tựu trung chúng ta không mất phần . Hỏi vậy chớ đàng nào cao thượng .
Nên lưu tâm rằng muốn có lúa giống tốt, phải sàn sải lựa chọn thứ lép bỏ ra, giữ lại thứ nặng cân, no hột mới khỏi thất bại về sau .
Nhà tu sĩ chúng ta muốn phổ truyền Chơn giáo phải có đủ khả năng chắc chắn nơi mình, tất nhiên nên áp dụng giải pháp hành nghề của người làm ruộng kia mới khỏi bị nông nổi ngày mai hậu . Nói tóm là trước cần tu kỳ thân nhiên hậu mới đạt kỳ chí .
Luận tới chữ Tu kẻ phàm phu tục tử phần nhiều vừa nghe tới liền có quan niệm rằng giữa thời đại văn minh vật chất mà ngồi lim dim trụ trì trầm tư mặc tưởng là việc sái mùa hay lạc hậu .
Người hữu căn mà nhẹ tánh khi nghe nói chữ Tu liền muốn xả thân cầu Đạo nhưng e tiếng thị phi, sợ Đời biếm nhẽ, đành bỏ qua con đường tự cứu mà không hay, cũng đáng tiếc .
Còn chữ Tu trong cửa Đại Đạo hàm súc cái nghĩa đứng trước thảm trạng xã hội truân chuyên, xóm giềng cùng khổ, phải tự luyện thế nào cho nên người đủ lòng trắc ẩn ra tay tế độ quần sinh tức là dụng phép tồn tâm dưỡng tánh bằng cách khử trược lưu thanh mới nên hiệu nghiệm .
Về mặt công truyền thì khử trược có nghĩa là bỏ ra ngoài trí não của mình những tư tưởng xấu xa cấu tạo bởi thất tình lục dục nó đánh tan cả tư tưởng tốt đẹp . Còn lưu thanh là cầm lại trong mình những ý nghĩ thi ân bố đức, tâm cho quảng, thể cho bàng, giữ kỹ tâm linh không để bị che án bởi những tấm màn đen tối của ngã chấp và pháp chấp .
Được vậy mới trổ những đức tánh vì người mà tự chịu hy sinh .
Còn về mặt tâm truyền, khử trược lưu thanh có nghĩa là vận hành cho Tiên Thiên khí thay thế Hậu Thiên khí trong châu thân đặng luyện Tam Bửu, nhưng vấn đề nầy không phải viễn vông bàn luận nơi đây, xin quý bạn lượng thứ .
Vậy thì áp dụng phương Tu trong cửa Đại Đạo không có nghĩa là ẩn dật lánh đời mà trái lại phải chuyên chú vừa làm công quả trau mình vừa làm công quả giúp người mới thật là Tu .
Xin quý bạn ngộ nhận sự hư thiệt của nó rồi sẽ thấy, nếu không Tu thì bao nhiêu công phu hành đạo từ lâu chỉ để chuộc tội tiền khiên chớ không giúp vào tạo nghiệp Thiêng Liêng cho được .
Tiện đây tôi được hân hạnh gặp gỡ Chức Sắc đại diện Phước Thiện không phân biệt cơ quan hay nhiệm vụ, đến chia vui với các bạn nhứt môn đồng mạch, tôi xin nhơn danh một vị Thời Quân tỏ bày lòng hoan hỉ của tôi và tôi sẽ chiếu cố luôn luôn .
Vậy khi trở về tới bổn phương quý Chức Sắc nên thay thế chánh sách hành quyền bằng chánh sách hành pháp thì không lo lầm đường lạc nẻo trong một kiếp Tu lại còn được các Đấng vô hình ám trợ cho thành công đắc vị, và cần yếu là tận nhơn lực mới tri thiên mạng .
Tôi xin thay mặt Ngài THƯỢNG SANH và nhơn danh tôi cầu chúc cho quý bạn được Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU ban đầy đủ duyên lành phúc hậu .
Nay kính,
Tòa Thánh, ngày 24 tháng 1 Tân Sửu (dl 10/ 3/ 1961)
BẢO THẾ Qu. ĐẦU SƯ
(Ấn ký)
7. Huấn Từ Lễ Kỷ niệm Đệ II Chu niên cầm quyền Đầu Sư (5-3-61)
Kính chư vị Khâm Thành, Khâm Châu, Đầu Phận, Đầu Tộc Nam Nữ,
Ngày 19 tháng Giêng năm Tân Sửu (1961) là ngày Kỷ Niệm Đệ Nhị Châu niên tôi cầm quyền Đầu Sư cộng sự trực tiếp với Hội Thánh Cửu Trùng Đài . Nay nhơn cuộc gặp gỡ của chúng ta trong buổi đại hội nầy, chúng ta thử ngó lại thời gian qua, xem lại việc đã rồi, ắt quý vị cũng như tôi, không khỏi đau lòng xót dạkhi thấy bước Đạo thăng đó rồi trầm đó, như một bầu ngũ sắc tường vân bay qua trước gió, thoạt nổi thoạt chìm hình trạng cứ thay đổi mãi . Song le, nhận định lẽ huyền vi của cơ Đạo, là lẽ nào chúng ta sẽ rõ cái cao giá hơn hết trên mặt thế mà thiên hạ thường ca tụng là do nơi sự biến chuyển ấy đặng nên cân nên lượng, thì không còn lấy đó làm lạ và chúng ta chỉ trầm tĩnh đặng cùng nhau anh lớn em nhỏ tương y tương ỷ quyết sách vận trù vay trở cho đừng trễ nhịp trên con đường phổ độ, ngõ hầu giảm bớt phần nào lận đận của Hội Thánh .
Như ai ai cũng đều nhận kiến sau cơn thử thách vừa rồi, con thuyền Đạo hiện giờ được nhẹ mình chực bến rước khách hữu căn, ấy là một phần nhờ các Đấng Thiêng Liêng ám trợ và một phần nhờ quý vị hảo tâm vùa giúp, thật là ngàn thuở ơn sâu tình hậu vậy .
Cho hay khoản trùng dương qua bỉ ngạn còn diệu vợi xa xăm bao phủ lắm ba đào cuồng nghiệt, thì sự cứu vớt những kẻ trầm luân còn lắm gay go trắc trở .
Nhìn lại 36 năm qua Đại Đạo khai sáng, chúng ta hồi tưởng Hội Thánh đã hy sinh rất nhiều về mặt vật chất lẫn tinh thần, quyết giữ gìn kỷ cương trên nền tảng luật pháp để bảo thủ đại nghiệp .
Kết quả thâu thập đã được khả quan, cũng đáng mừng đó chút . Nhưng mới là một phần trong bổn phận Chức Sắc hữu trách mà thôi còn một phần trọng đại khác là hiện nay đứng trước cảnh hãi hùng của nhơn loại trong đời sống mất, chúng ta không thể không ra tay tạo lại đời sống còn, theo đức háo sanh của Thượng Đế . Lẽ dĩ nhiên ngày giờ nầy không còn là ngày giờ nói rằng tài sơ đức bạc hay nói rằng để học hỏi thêm cho rành mạch rồi mới thi thố duyên lành . Nếu viện lẽ nầy lẽ nọ rồi điềm nhiên tọa thị cho tới ngày xảy ra đệ tam tận thế thì còn gì sanh linh và vạn vật . Rồi Chức Sắc lãnh mạng lịnh thể thiên hành hóa sẽ trả lời thế nào với Bạch Ngọc Kinh .
Tiện đây tôi xin nhắc đại lược một chuyện cổ để thí nghiệm việc kim rồi chúng ta sẽ suy gẫm lựa chọn con đường để bước .
Số là trong thời kỳ biến chuyển đệ nhị tận thế, Nhơn sanh lúc nọ quá hờ hẩng với Đạo đức nghĩa nhân, nên Thiên Điều không chừa tội, nạn hồng thủy dâng lên dữ dội tiêu diệt cả vật thể hữu sanh . Rất may, riêng một gia quyến Ông NOE được Thiên sứ mách bảo đóng một chiếc thuyền thật to để lánh nạn và đồng thời đem theo một số cầm thú, mỗi loại một đôi, trống mái đặng lưu dòng nối giống cho tới ngày nay .
Nếu cho là chuyện thần thoại, thì tùy hỉ khách đời, nhưng cảm tưởng chung có lẽ là xe trước gãy xe sau phải tránh . Nhược bằng chẳng vậy thì cửa Đại Đạo rộng mở để làm gì .
Thoảng như thế hệ hiện kim không đổi tệ ra nên thì ngày giờ nầy Chức Sắc bổn đạo phải trải thân lấy tâm dụng trí thực hành cơ cứu khổ với tinh thần vị chánh vị công để điểm xinh ý chí vị ái để đổi đời dữ ra đời lành .
Vả chăng chính sách trị đạo trong mấy chục năm qua đã được vững vàng thì không có gì thay đổi . Duy hiện giờ Hội Thánh cùng toàn thể Chức Sắc cần xây chiều đổi hướng trong nhiệm vụ chăm nom bảo vệ đời sống còn của con cái Đức CHÍ-TÔN, vì hạ ngươn cận mãn mà 92 ức nguyên nhân chưa được cứu vớt phần nào . Bởi là mục đích của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì Hội Thánh sẽ áp dụng chánh sách đưa đường dẫn lối cho vạn linh thọ pháp để qui về thiện lương hầu tránh khỏi tai ương càng ngày càng dồn dập nơi nầy nơi nọ khắp hoàn cầu . Trọng yếu trong chánh sách nầy là tiên khởi mỗi vị Chức Sắc phải liệu toan dứt bỏ ưu lự tư riêng, đem hết can đảm không hổ mặt hạ mình phục vụ, nhiên hậu sẽ xướng xuất phương châm hành đạo theo lối thiệt nghĩa phổ truyền chơn giáo .
Vậy thì vừa làm công quả hằng ngày vừa tu thân hằng bửa mới mong bắt kịp ngày giờ đã trôi qua từ thử .
Nhờ có lăn mình trong cơn thử thách, những ai trong trường hợp nầy, đều được thêm phần mẫn đạt thì nên thận trọng bổn phận đừng để công chất củi ba năm rủi một giờ thiêu hủy ra tro bụi .
Như trên kia vừa phân giải, hễ biết trọng mình thì nên dụng trí đoạn ngăn vật ngoài làm ô trược thân trong, dụng tâm phủi sạch dục vọng bên trong ứng hiện trên tác động bên ngoài . Đó là lấy tinh hoa vật thể làm khối tinh thần thì chừng ấy lời nói mới có hiệu, công quả mới được định, tánh đức mới rỡ ràng .
Nên hiểu rằng trong thân con người cái thuộc về phần chơn, cái đức về phần thể và cái tánh về phần dụng, muốn tạo đức phải nhờ tánh và phải sửa tánh mới tạo được đức . Đức là hình dung của Đạo và trong đức gồm có công ái là khuôn luật thực hành cơ cứu khổ . Mở sáng cái đức tức là Minh đức và cho đặng cứu người ra khỏi chốn mê đồ ắt phải sống lộn với người ra sức đỡ nâng cho người qua cơn bỉ cực, ấy là Thân dân , rồi đem lời giáo hóa cho khỏi lâm vấp tội tình, ấy là đem dân đến chỗ Chí thiện, chí mỹ thì không còn thảm trạng tàn sát đấu tranh nữa . Ấy là Đạo cứu Đời trong cơn khói lửa mà vai tuồng chánh yếu về phần Chức Sắc Cửu Trùng Đài nặng gánh . Kính Hội Thánh và Quý Chức Sắc,
Đời mới của chúng ta là từ đây bớt việc văn phòng đặng đem cả tinh thần vạn năng làm phép độ đời ở cõi trần gian, luôn tạo nghiệp Đạo ở cõi Thiêng Liêng Hằng Sống . Lấy đức mà đong, lấy công mà định, ngôi vị của mỗi Chức Sắc ngự Tòa Sen sẽ do nơi công đức ấy mà được cao hay thấp .
Quý vị là người hữu hạnh trước hơn ai hết được thọ pháp để phân biệt chánh tà, hư thiệt, vàng thau, thì thiên lý ở nơi mình, không phải tìm đâu xa nữa .
Vậy tôi ước mong quý vị sớm tự liệu khai thông huệ trí, lo tu hơn lập quyền, lo tự giác đặng giác tha, lo tạo nghiệp Thiêng Liêng hơn nghiệp phàm trần và nếu mỗi người đều lập một ý chí cao cả nầy thì những chuyện thường tình của trần tục không còn lai vãng trong cửa Đại Đạo, rồi Hội Công Đồng hay Tòa Tam Giáo sẽ là trừu rượng công bằng chớ không chi hơn .
Rất mong thay .
Nay kính,
BẢO THẾ, Qu. ĐẦU SƯ (Ấn ký)
8. Huấn Từ Buổi họp Hội Thánh (1-8-61)
Tôi hân hạnh nhơn danh Quyền Đầu Sư kỉnh lời chào Chư Thánh nam nữ có tấm nhiệt thành hưởng ứng lời hiệu triệu của tôi đến đây đông đủ kiêm cả đại diện Khâm Châu Địa phương, đặng dự cuộc Đại hội nầy để rồi quý vị sẽ lãnh trọng trách tạo ngôi định phẩm cho con cái Đức CHÍ TÔN .
Thế thường việc gì mới mẻ bày ra, dầu tư sự hay công ích, hay gặp nhiều khó khăn lúc sơ khởi và lắm lần như vậy thành ra thông lệ .
Nơi cửa Đạo chúng ta vừa trải qua 36 năm khai mở đã hưởng bao nhiêu mùi ai lạc sớm chiều, đã thấy bao nhiêu trận vận khứ thời lai, thì quả thông lệ ấy không chừa một dịp và một ai cả . Song le, có lên đảnh mới biết trời cao, có xuống vực mới hay đất thấp .
Chúng ta có chịu truân chuyên uất khuất mới rõ đường Tiên nẻo Phật khó dò .
Đành rằng đã xả thân cầu Đạo để nhờ bóng từ bi che chở, nhưng chẳng vì được Thiêng Liêng hộ trì mà không có cân công bình thưởng phạt . Như thuyết về công nghiệp, hễ gắng công phục vụ thì được thưởng, còn bê tha trễ nải thì bị trừng . Ấy là lẽ dĩ nhiên dầu việc đời cũng vậy . Duy trong cửa Tôn giáo, yếu điểm nên quan tâm hơn hết là thuyết về hạnh đức .
Một khi khoác áo tu sĩ là bắt đầu làm con vật cho cơ xảo của phàm trần mưu toan định giá thấp cao và cũng đồng thời làm tấm bia cho cơ thử thách của Vô hình bày chước phân chất vàng thau lẫn lộn . Nói áo tu sĩ là nói chung, còn nói riêng là bộ Thiên phục và chẳng phải là Thiên phục mà khỏi đời để luận cùng các Đấng Vô hình xem xét . Bộ Thiên phục ấy, một mình một vẻ ở dưới thế gian nầy, tuy là kỳ lạ khác thường mà là vật báu hi hữu nếu không xứng làm người thì không nên mặc . Là vì mặc nó để chầu Thiên, tất phải là người thanh nhã trong lời nói, tốt đẹp trong tư tưởng và minh chánh trong việc làm . Bên trong cần giữ mảnh thân cho tinh khiết, bên ngoài nên vẹn sắc phục cho trang hoàng, thì Thánh Thể Đức CHÍ TÔN tại thế mới ra xinh lịch và thanh cao .
Xem bao nhiêu Đạo thơ kinh điển lưu lại từ ngàn xưa chúng ta chỉ thấy có một lối dạy của Hiền triết, là dùng chánh sách giáo thiện kẻ bạc kiếp lo dọn mình lánh bớt tội tình và dìu dẫn kẻ hữu duyên mau đoạt phương xuất thế . Nhưng thảm nỗi bợn tục mãng che lấp linh căn, thành thử người tu đã ít mà kẻ thành lại không .
Nay cuộc tuần hườn xây chuyển, thời mạt pháp ứng hiện, khiến loài người xô đẩy nhau vào vòng tự diệt, kẻ ưng cam chịu, người oan rất phiền . Đại Đạo bèn khai đặng cứu độ nguyên nhơn thoát chốn mê tân .
Chư Thánh đây tất là môn đệ lãnh lấy đầu công khua chuông cảnh tỉnh, gióng trống gợi lòng cho nhơn sanh bất khảvong phế mộc bổn thủy nguyên . Vậy thì phải là bậc phi thường trong thiên hạ, như lời Đức Lý Đại Tiên đã phán, mới mong làm tròn bổn phận .
Đáng lẽ sự phong chức và việc thăng phẩm đều do hồng ân Đức CHÍ TÔN định liệu, nhưng cơ phong Thánh đã ngưng đặng thật hành luật công cử . Trong khoản chờ đợi ngày công cử còn xa, Hội Quyền Vạn Linh thành lập để thay thế quyền Chí Linh, đặng phó thác nhiệm vụ cao cả thể thiên hành hóa cho những Chức Sắc đủ đức đủ tài ngỏ hầu tránh nỗi làm trò cười giữa mặt thế .
Đức là Nhơn, Tài là Trí . Trí là phần sở hữu của quân tử . Nhơn là việc sở trường của trượng phu . Hiệp lại khả năng của hai người nầy làm một vào thân hình và khí lực của Chức Sắc Thiên Phong, ấy là gồm cả tài và đức vậy .
Có điều nên lưu ý là, nếu chẳng phải tự mình lập đức thì trông ai đem đức cho mình ? Còn như không tự mình luyện tài thì nhờ ai luyện giùm ? Vả chăng ngôi vị Phật Tiên nơi cửa Thiêng Liêng Hằng Sống là ngôi vị do thế nhơn tự đoạt . Đoạt với mãnh lực vô song là dẹp bỏ nhơn tâm khai sáng Đạo tâm thấu triệt được cả cơ mầu nhiệm của Đạo .
Hiện nay nhờ có Tam Kỳ Phổ Độ đại ân xá, chúng ta chưa phải nhọc công tầm Đạo như các Thánh hiền xưa mà Đạo đã tới gõ cửa từng nhà, chúng ta chưa có ý nguyện chi mà Đức CHÍ TÔN đã sẵn dành ngôi vị, thì còn có phúc hậu nào hơn .
Nếu cơ đoạt pháp của chúng ta phải mắc mỏ thì cũng lẽ hằng vì là công bình bất di bất dịch nhưng chẳng vì mắc mỏ mà lơi bước .
Trong ngày gần đây nhiều vị sẽ đắc phong Lễ Sanh, ấy là Chức Sắc tương lai. Nhiều vị Chức Sắc hiện tại sẽ thăng phẩm bậc, ấy là gấm ghé ngôi Phật Tiên của hậu thế . Chức tước và phẩm bậc chẳng khác nào thước ngọc đo công . Công nghiệp càng dày, thước càng cao, ngọc càng rạng . Ngọc rạng mới làm ngọn thần đăng đưa chúng sanh qua bỉ ngạn .
Thưa Hội Thánh,
Khi nãy tôi nhắc cái khái niệm: Vạn sự khởi đầu nan, là đại ý nói chúng ta chưa thoát hết thời kỳ rối ren nặng nhọc . Mặc dầu từ năm Đinh Dậu (1957) , Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đã quyết chí cầm giềng mối Đạo cho khỏi thất kỳ truyền . Nhưng chẳng phải dễ, cùng đã quyết tâm bảo thủ luật pháp cho trường tồn hữu hiệu nhưng vẫn mãi khó khăn .
Ví dụ trong cuộc tái lập Hội Quyền Vạn Linh thì chỉ có sung mãn đôi phần trọng yếu song có còn hơn không và trái lại chẳng nên khinh thường là khác, vì nó là trụ cốt đào tạo hạnh phúc cho nhơn sanh ngày mai hậu .
Giờ nói đến phận sự duy nhứt của Hội Thánh là xét việc cầu phong và cầu thăng thuộc năm Kỷ Hợi (1959), tôi xin Hội Thánh hãy lấy dạ vô tư tùy công định phẩm ngõ hầu tô điểm Thánh Thể Đức CHÍ TÔN tại thế cho gia tăng phẩm giá .
Vậy tôi mời Ông Qu. Thái Chánh Phối Sư Chủ tọa cuộc hội nầy và tôi cầu xin Đức Đại Từ Phụ ban bố cho Hội Thánh đầy đủ huệ trí thi hành sứ mạng .
Kính chào Chư Thánh Nam Nữ .
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT .
BẢO THẾ Qu. ĐẦU SƯ (Ấn ký)
9. Thuyết Đạo Hội Yến Diêu Trì Tân Sửu (1961)
Hân hạnh được Hội Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng cùng quý Chức Sắc cao cấp Cơ Quan Phước Thiện ủy nhiệm cho tôi trọng trách Thiêng Liêng làm đầu ban Tổ Chức cuộc Lễ Hội Yến Diêu Trì năm Tân Sửu (dl 1961) tôi xin để lời cảm tạ Hội Thánh .
Hôm nay cuộc Tổ Chức đã hoàn thành từ nội diện cho tới ngoại diện, ấy là nhờ sự tận lực phụ trách của toàn thể Cửu Viện Hành Chánh Đạo và Cửu Vụ Phước Thiện với tất cả anh em từ công quả tới thợ các ngành ở trại mộc, sở hồ và cơ xưởng, kể luôn chư vị Tá lý và Chức Sắc thiện nghệ Triển lãm làm cho ngoạn mục các giới đến xem không ngớt trầm trồ khen ngợi . Tôi ghi tâm tấm nhiệt thành của mấy anh em và quý Chức Sắc đã góp phần trọng yếu trong việc vĩ đại nầy làm cho tôi hãnh diện tuyên dương công trạng của quý bạn .
Kính Hội Thánh, cái may duyên lớn nhứt trong cuộc Lễ Hội Yến Diêu Trì năm nay mà Hội Thánh đạt được là dựng nên một trụ Phướng giữa thập mục sở thị trước Đền Thờ Đức Phật Mẫu mà tự bấy lâu chúng tôi hằng hoài vọng cho nó thành hình nên vóc . Giờ phút nầy nó vừa biểu hiệu cả khối tinh thần của Chư Thiện Tín đóng góp vào sự điểm tô nghiệp cả, vừa phô trương ý chí của Hội Thánh trong việc phát triển cơ năng truyền giáo .
Lá Phướng thượng lên rồi, nhìn nó nhẹ nhàng phất phới qua lại giữa không trung, chúng ta không khỏi kích thích vui mừng sẽ được ân huệ Đức Thiên Hậu ám độ kẻ hữu duyên, nhưng lại chẳng khỏi âu lo cho kẻ thiểu đức bị lụy trần khó thoát mê tân mà Đức Ngài phải riêng than thầm khóc nhìn xem họ lỡ bước trên khoa trường lập Tiên ngôi Phật vị trong Tam Kỳ hội nầy . Huyền vi pháp của Lá Phướng ấy thuộc quyền của Bà Lục Nương Diêu Trì Cung lấy đó độ dẫn chơn hồn về nguyên thỉ .
Vậy thì hướng về Đạo là nguồn sanh quang của Đức Phật Mẫu bủa khắp trần gian đặng giữ vẹn mảnh thân phàm của con cái Đức Ngài, về nhập môn cầu Đạo, nhơn sanh sẽ nhờ nước nhành dương gội rửa Chơn thần đặng hiệp với Chơn linh trở về cùng Thượng Đế .
Nhắc lại cái duyên may mắn của Hội Thánh đạt được, tôi xin thêm rằng chúng ta nên lưu tâm như đã tiên tri trong Kinh xưng tụng công đức của Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Cái Pháp linh của Bà Lục Nương là càng phất Phướng truy hồn về lối cũ, Bà càng làm cho giảm bớt thảm trạng thương hải biến vi tang điền ngõ hầu hộ trì những kẻ hữu duyên chịu làm con tế vật để tái tạo đời Thánh Đức . Còn trái lại thì rất vô phước cho kẻ vô căn, chừng ấy sẽ do Đại Hội Long Hoa định phận .
Thiết tưởng Đại Đạo còn trong thời kỳ mở rộng cửa tiếp đón thiện lương, thoảng như nhơn loại tự xoay hướng đổi chiều theo đuổi chủ nghĩa duy tâm thay vì cố chấp nhau trên đường tranh đấu so gươm thư hùng, thì rất nhẹ gánh cho Hội Thánh; còn nếu chẳng đặng vậy thì chốn A Tỳ là mồ chôn của kẻ bạo tàn mà rồi kẻ hiền nhơn không tránh khỏi bị lôi cuốn vào vòng tự diệt; Chừng ấy cái gánh nặng của Hội Thánh càng thêm nặng gánh, nhưng chẳng vì vậy mà chúng ta lại bán đồ nhi phế .
Sau 36 năm Khai Đạo, ngày nay Lá Phướng truy hồn được trương lên dưới Trời Nam có ảnh hưởng khắp hoàn cầu, nhơn loại cần lo tự giác cho kịp thì, rồi Đạo sẽ giúp sức cho thoát chốn khổ đau tái tạo Hòa bình.
Cho hay theo luật tương đối, cái may hằng đi kề cái rủi, mà cái rủi thường đến cho những kẻ không thức thời, nên mục đích của Đại Đạo là chuyển họa vi phước, cứu độ cho đủ 92 ức nguyên nhân, thì ai kia nên tỉnh giấc nam kha trở về với Thiên lý .
Nhơn Lễ Hội Yên Diêu Trì kỳ nầy chúng tôi cầu nguyện Đức Phật Mẫu ban phúc lành cho chúng sanh thì cái may mắn hôm nay sẽ dẫy đầy thâm thúy .
NAM MÔ ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN
Nay kính,
BẢO THẾ, Qu. ĐẦU SƯ (Ấn ký)
10. Lời Phủ dụ trong Đại hội Chức sắc Phước Thiện Nhâm Dần (19-2-62)
Vào Thượng Nguơn năm Nhâm Dần, gió xuân lai rai thoảng mùi hương riêng biệt nhẹ nhàng mát mẻ dục lòng người phấn chấn vui tươi không muốn thoát ly giấc mộng trần hoàn . Duy có một điều bất thường là khác hơn các năm qua, lộc xuân đương trổ mà tiết đông thiên còn tản mát âm khí lạnh lùng, làm cho chúng tôi có cảm tưởng thời tiết chẳng thuần sợ e có ảnh hưởng nhiều ít chi chăng tới tâm tánh con người trong xã hội nói chung và trong bổn Đạo nói riêng . Nhưng dầu sao, sự mục kiến cuộc đoàn tụ nhứt gia hôm nay của quý vị dưới mái nhà nầy làm cho chúng tôi được nhủ lòng không còn nghĩ ngợi xa xăm chi nữa .
Đành rằng cuộc trùng phùng nầy là một thủ tục biến thành thông lệ hằng niên, nhưng còn tùy hưởng ứng động hành của mỗi đơn vị mới đoán chí hướng của toàn thể . Cho hay người tri kỷ phải gặp người tri kỷ mới cùng nhau đồng một nhịp theo đuổi một chủ nghĩa chung trong cửa từ bi là chủ nghĩa độ đời; thì tất cả người họp mặt nơi đây đều là tri kỷ tri âm . Thoảng như ngày mai hậu sẽ gặp chông gai ở bán lộ, hay bị trở ngại ở thâm canh, chúng ta hãy nhớ cuộc sum vầy hôm nay đặng giữ cho tròn nguyên vẹn cái khối tinh thần lẫn vật thể nầy và cố gắng cho nó đừng di dịch ra ngoài vòng chánh giáo . Ấy mới là người trí .
Thưa quý vị và quý bạn,
Nhiều Tôn giáo ra đời đã mấy ngàn năm để cứu vớt nhơn loại thoát cõi ái hà; nay Đại Đạo phát khai cũng chung cùng lo âu diệt khổ theo thiên thơ dĩ định, nhưng người người nên lưu tâm rằng phải chờ tới thất ức niên mới gặp lại mối Đạo Trời . Vậy thì Chơn linh nào nhập thế buổi nầy là được một may duyên hi hữu, trong đó quý bạn là người đầu tiên có đại chí vào trường thi đoạt vị . Thêm nữa, quý bạn còn thọ lãnh vai tuồng làm người lữ thứ đi đó đi đây khua chuông gióng trống cảnh tĩnh tâm phàm là một may duyên thứ nhì còn trọng yếu hơn cái may duyên trước . Nếu chẳng phải sẳn có căn lành thời làm sao ngộ phúc trùng lai . Nhưng cái may hay có cái rủi đeo đai và kỳ nầy chúng ta được may nhiều rủi ít là nhờ Ơn Trên hộ trì . Song le, chẳng nên điềm nhiên ỷ lại nơi cõi vô hình vì riêng ta phải tận nhơn lực mới tri thiên mạng . Cái nhơn lực buộc ta phải trì chí thực hành công quả và công phu, nhứt là phải chịu lâm cảnh éo le, oan tình nó rửa những bợn làm khuất cái tinh hoa của chơn ngã . Tinh hoa nầy phải lố dạng trong trắng như pha ly cho chúng sanh ngắm vào đặng phủi sạch bụi trần . Giá như không chịu khổ thì thế nào biết xót thương kẻ khổ, hầu ra tay cứu khổ . Có ở trong cái đau đớn mới nhận thức cái đau đớn nó vất vả ta đến bực nào mới đem lòng trắc ẩn hàn gắn vít đau của kẻ khác . Có trêu cay ngậm đắng mới hạ cố tới kẻ đang ngậm đắng trêu cay đặng tầm phương an ủi bố thí .
Tổng hợp những nỗi đoạn trường trên đây làm xâu chuỗi kinh nghiệm ấy là ta tự giúp lấy ta để thật hành bổn phận Tu sĩ . Nếu thiếu kinh nghiệm thì lấy gì bảo đảm những lời dạy Đạo, những bài thuyết pháp, những luận nghĩa bình chú mối Đạo . Chừng ấy dầu cho thiên ngôn vạn ngữ, hay tuyệt bút văn chương cũng chỉ là lời nói suông mà thôi . Vì thế cho nên phải là người vùi thân trong cửa Đạo, hiểu Đạo và biết Đạo cho tới nơi tới chốn mới tránh khỏi lạc lầm cho mình và cho những người chung quanh mình . Qua giai đoạn nầy rồi mới bước sang giai đoạn hi sinh những cái gì quí báu của mình đặng làm món quà hạnh phúc cho kẻ xấu số hơn .
Thiết tưởng đi cho tới sự thương yêu thiệt mặt phải lắm gay go mắc mỏ, nhưng mà cao thượng vô ngằn, thì Cơ Quan Phước Thiện đang nặng gánh hai chữ thương yêu tức là gánh khổ cho thiên hạ, thoảng như phải trải qua những trạng thái vừa kể trên cũng cứ kiên gan trong nhiệm vụ cho tròn công quả . Đồng thời cũng chuyên cần bền chí công phu, thì phẩm vị Thiêng Liêng chực rước .
Không cầm quyền Hành Chánh Đạo mà nắm gậy nâng đỡ kẻ vô phần với cái hạnh đức coi thiên hạ bằng Trời còn mình như mảy lông, chẳng tranh tài duy tranh đức, ấy là điều chúng tôi mong mõi nơi quý bạn trong tương lai của Đại Đạo .
Tôi cầu xin Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU ban điển lành cho quý vị và quý bạn .
.
Nay kính,
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA TÁT .
11. Huấn Từ Lễ Khai Giảng Hạnh Đường (16-4-62)
Tôi hân hạnh thay mặt Ngài THƯỢNG SANH đến dự Lễ Khai Giảng Hạnh Đường niên khóa Nhâm Dần (dl 1962) và tôi được hài lòng nhận thấy một số rất đông các em hưởng ứng nhập trường, tỏ ra một tinh thần hiếu học bất khuất trước cảnh khổ của Đạo làm cho Hội Thánh không khỏi không quan tâm đặng nâng cao tinh thần ấy .
Vậy đứng trước quí Sinh Viên hiện diện tôi xin để lời khen ngợi mấy em .
Mấy em Sinh Viên,
Mấy em vừa nghe những lời châu ngọc của nhị vị Đại Huynh TIẾP PHÁP và THƯỢNG CHÁNH PHỐI SƯ giải thích rành mạch cái sở dụng của Hạnh Đường, có thể tóm tắt như thế nầy .
Đứng về mặt Đạo mà luận, những kẻ qua lại trước cửa Hạnh Đường ví như khách lữ thứ đi đêm tịch mịch gặp ngọn đèn lòa quyến rũ dừng chơn và một khi lại gần yến sáng rồi thì người người để lộ vẻ vui tươi trên nét mặt cùng là tỏ sắc vững dạ trong cõi lòng dường như nhờ ngọn đèn cởi mở phần nào lo sợ trên lộ đồ thiên lý .
Giờ nầy mấy em là lữ khách, rồi đây Hạnh Đường sẽ khai tâm mở trí cho mấy em thuần thục nghĩa vụ người tu trong cửa Đại Đạo bắt nguồn từ Nhơn Đạo tới Tiên Đạo và Phật Đạo đặng rồi đem cái sáng của mình mà làm sáng thêm cái sáng của người khác ngõ hầu dìu dẫn họ tách khỏi bến mê qua cảnh giác .
Vậy tôi xin tiếp lời của quí Đại Huynh trên đây bình chú cách học về khoa Siêu hình xướng xuất nơi Hạnh Đường nó sẽ choán một phần trọng yếu về chơn lý hầu giúp mấy em làm phương khai khiếu trong hồi đèn sách . Khoa ấy nếu sưu tầm cho đến tinh vi và thực hành cho đến tế nhị sẽ dìu dẫn con người đứng vào hàng tam tài (Thiên Địa Nhơn) ngang hàng với Trơiø Đất giúp Đấng Tạo Công bảo tồn sanh hóa muôn loài, điều khiển Càn Khôn Võ Trụ . Vậy chư học giả cần biết học cách nào cho hữu hiệu chớ chẳng phải học thuộc lòng mà thành công . Cách ấy là minh cho được cái ý tứ của bài vở, ở ngoài mặt chữ, mới thấy cái vi diệu của ngôn ngữ đặt để trong bài .
Như thầy Tử Cống học Kinh Thi mà đạt tới Đạo lý, Thầy Tử Hạ cũng học Thi mà thông tới Lễ . Đức KHỔNG PHU TỬ thấy con chim Trĩ đang đậu trên sườn núi, thoạt có người đến, nó liền cất cánh bay đi, Ngài cho đó là nó e có chuyện chẳng lành nên lánh thân . Và trước khi muốn đậu chỗ khác nó bay lượn vài vòng trên không trung rồi mới đáp xuống . Ngài cho đó là đúng thì .
Mấy em thử nghĩ nếu chẳng gia công tra khảo cho tận chỗ sâu xa kín đáo của mỗi việc hay mỗi vật mà trong bài vở không thể tả hết thì làm thế nào hiểu phương chước đã phá cái vô minh là cái cửa đóng chặc con đường xuất thế .
Đành rằng cái tri với cái hành của người nầy không giống với người kia màchương cú trong bài vở soạn ra ví như vừng Thái Dương chói rạng một vườn hoa, loại nào trổ bông theo loại nấy, như cành Sen không bao thuở trổ bông hường là vì khí chất riêng của mỗi thứ tạo ra hữu tướng của mỗi hoa và nhờ có khí Thái Dương đem sinh lực cho nó sống và cấu kết tế bào cho nó trổ sắc, đượm hương, kheo màu . Tuy giống nầy không kém xinh lịch giống kia vì bởi sức hấp thụ nhiều ít dương quang của nó nhưng mỗi hoa vẫn đẹp mỗi vẽ .
Vậy thì trên nền học vấn ta nên chuyên chú vào cái sở đắc của lương tri sẵn có của mỗi người hầu tạo đài vinh dự cho mình . Vã lại lương tri ấy căn cứ vào sự thực nghiệm mà quán thông thêm rộng . Nếu phân tách lương tri với thực nghiệm ra hai phần thì chúng ta sẽ thấy về phần tri thì đa văn, đa kiến còn về phần hành, thận ngôn thận hành, hiểu xa thấy rộng, nói mà ít người chê bai, làm mà không điều hối tiếc . Có tri có hành mới đạt tới lý .
Thêm nữa nên quan tâm rằng có vùi thân trong mối Đạo, nếm mùi cay đắng ngọt bùi của Đạo, mới mong hiểu Đạo rồi thuyết Đạo mới có ý vị cho . Bằng trái lại chỉ biết ngoài bì phu mà nói trong cốt tủy thì công học bấy nhiêu sẽ trở thành công giả tràng mà chớ .
Phế bỏ thế sự để phụng sự cho người còn ở Thế thì duy có hàng Tu sĩ mang Đạo bào mới hi sinh dường ấy. Học đây là học đào tạo Đạo bào để che mình khi gặp nỗi khó khăn cùng để che người khác tùng bóng Đạo dung thân và vì vậy mới có Hạnh Đường làm địa bàn chỉ hướng .
Vậy quý em Sinh viên nên trì chí sử kinh và tôi cầu chúc quý em khá đứng bảng vàng khi mãn khóa học thì không còn gì vinh diệu bằng ./.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
BẢO THẾ (Ấn ký )
12. Thuyết Đạo vía Đức Quan Thánh Đế Quân (24-7-62)
Nhơn dịp Lễ Kỷ Niệm Đức Quan Thánh Đế Quân, tôi hân hạnh để vài lời nêu cao gương chí sĩ của Đức Ngài trong thời kỳ dân tộc Trung Hoa phân tranh Tam quốc . Tuy vân gương ấy xuất hiện ở nước ngoài, nhưng nó chói rạng thấu nhựt nguyệt, chiếu sáng cả Càn khôn, nên mới có ngày hôm nay Đức Ngài đứng vào hàng Tam Trấn Oai Nghiêm hộ trì Đại Đạo hoằng hóa trên mặt địa cầu nầy .
Thiết nghĩ không riêng về Trung Hoa, mà nước nào cũng có anh hùng chí sĩ, duy tinh thần thượng võ của Đức Quan Thánh có phần đặc sắc hơn người, là làm tướng giữa chốn ba quân, Đức Ngài vẹn giữ mối nhơn luân để xử sự tiếp vật và bảo tồn nền phong hóa triều cổ . Đặc sắc ấy chỉ tìm ở hạng siêu nhân mới gặp . Vì lẽ đó, người ta lập chùa dựng miễu thờ Ngài, thậm chí trong tư gia cũng lắm người thượng trang sùng bái . Sự thờ phượng nầy có ý nghĩa tuyên dương gương trong quả đẹp của hiền xưa cho đoàn hậu tấn trông vào mà tạo định lối đi của mình trên nghĩa vụ hay chí hướng .
Cho hay sống trên mặt thế nầy, bao phủ bởi những giả cuộc mà nhục thân hằng đòi hỏi luyến tiếc, người ta dễ dãi cho phàm tâm lấn áp đạo tâm, rồi chịu vất vả một kiếp sanh trên bước phong trần khổ lụy .
Để cứu vãn tình hình, Nho giáo đặt để những giềng mối liên kết bổn phận người đối với cá nhân mình, đối với người khác, đối với gia đình xã hội, với xứ sở quê hương, với lân bang ngoại quốc . Chánh yếu là chế ngự ích kỷ, diệt trừ bạo ngược, ngõ hầu đem sự sống còn thay thế sự sống mất . Giềng mối ấy căn cứ vào Nhơn Nghĩa Lễ Trí làm tiêu chuẩn . Đức Quan Thánh gồm cả 4 đức nầy làm nấc thang đoạt thiêng liêng vị .
Như nói về Nhơn tức là nói trong đó có công bình và thương yêu , thì phải quán triệt cái tình đồng sanh đồng hưởng âm dương chi khí, để cùng sống thuận theo lẽ Trời, thì cái Nhân của Đức Ngài biểu hiệu trong cuộc kết hữu tại Đào viên thủy chung như nhứt đi theo chánh nghĩa . Đó là cái Nhân về ngoại giới, còn cái Nhân ở nội thân hễ gặp dịp thì làm, ví dụ như kiến nhơn hạ mã bất huy đao, không nở sát hại kẻ sa cơ thất thế .
Nói về Nghĩa thì chi chi cũng vì hai họ Lưu Trương, mựa hề thất thệ . Thoảng như lâm cảnh xiêu lạc chia lìa kẻ nam người bắc, thì hàng Hớn bất hàng Tào .
Trong cái Nghĩa còn có cái chí . Chí ấy là một năng khiếu vừa trọng phận mình vừa trọng của Trời Đất là của chung thiên hạ, nên mới nãy ra khí phách anh hùng thà thọ tử để danh thơm hơn là thọ nhục phụ rảy thâm ân của Tào .
Nói về Lễ thì tự mình nghiêm khắc với hạnh nết mình, không để một hành động nào làm tổn thương đến nhơn vị mình hay nhơn vị người khác . Thủ Lễ đến chí Lễ, như ngồi chong đèn xem sách thâu canh trước phòng Nhị tẩu, như trong lúc ngụ với Tào Tháo, khi lưu khi khứ thảy đều minh bạch .
Nói về Trí thì đầy đủ kinh nghiệm am hiểu tận tường các khía cạnh khắt khe của phàm sự, nên thường tránh cho khỏi bị miệng người chê bai biếm nhẽ hầu giữ cho mãi còn cái danh trọng giá cao . Đức Ngài hằng luyện tâm cho được linh, dồi chí cho đến thành . Tâm linh chí thành, mới đem thân hồ thỉ tô điểm san hà và xây đấp cội Nghĩa nền Nhân để thỏa mãn những cái mơ ước thèm thuồng về mặt nầy của quần chúng . Vậy thì Ngài gồm cả trí của quân tử và chí của trượng phu đem thế đạo vận chuyển thế thái nhơn tình ra thế nhơn an cư lạc nghiệp .
Tham khảo tiểu sử của Đức Quan Thánh Đế Quân, chúng tôi không thấy nơi nào nói Đức Ngài có ý nghĩa gì về Đạo . Nhưng khi mãn kiếp phù sinh, trong 4 ngôi Thần Thánh Tiên Phật, Đức Ngài chiếm ngôi Thánh . Hỏi vậy ngôi nầy do đâu mà được nếu không phải do nhơn luân chi Đạo .
Xem Kinh định lý, chúng ta nhận thức Đạo hàm súc vạn nghĩa, chất chứa vạn năng, vô sở bất tại, lưu hành khắp nơi nuôi sống khắp loài . Song vì bởi rờ không đụng, ngó không thấy, kêu không nghe tiếng dội, người ta mới không gần được Đạo . Chẳng những vậy, đa số người còn đinh ninh rằng sống đây là tự nhiên sống chớ chẳng hiểu có liên hệ gì giữa hữu tướng và vô vi .
Hiện giờ Đại Đạo hoằng khai mở cửa vô minh vén màn hắc ám độ người trầm luân . Nhưng trông vào thật trạng của thế hệ đương kim chúng ta phải nhìn nhận công năng của Đạo rất dày mà tự lực của người rất mỏng .
Là Chức Sắc gánh nặng mối Đạo Trời, chúng ta có bổn phận còn phải hy sinh thêm nữa mới mong bồi bổ phần nào tự lực ấy .
Nay kính,
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
BẢO THẾ
13. Thuyết Đạo Kỷ niệm Ngài Khai Pháp (14-2-63)
Hôm nay là ngày kỷ niệm đăng Tiên của Ông Khai Pháp Chơn Quân (Trần Duy Nghĩa) tôi hân hạnh nhắc lại tiểu sử của Người đặng những bạn gần xa biết qua công trạng của một bậc tiền bối, vì Đạo quên mình như các vị tiền bối khác trong cửa từ bi ngõ hầu noi theo mà lập vị .
Quê quán tỉnh Gò Công, Ông Trần Duy Nghĩa sanh năm 1889 . Vốn là công chức hồi hưu sở Hỏa xa trong thời Pháp thuộc, Ông nhập môn cầu Đạo năm Bính Dần (1926) và thọ Thiên ân Khai Pháp Hiệp Thiên Đài, đắc lịnh phò cơ phổ độ .
Năm 1930, nội bộ Hội Thánh Cửu Trùng Đài thiếu Chức sắc cao cấp hành quyền, tạo nên một cuộc khủng hoảng Hành Chánh Đạo, Ông phải nhận lãnh trách vụ Qu. Ngọc Chánh Phối Sư đặng ổn định mọi bề .
Qua năm 1937, Ông trở về Hiệp Thiên Đài lãnh phận sự Chưởng Quản Phước Thiện, Ông được bề trên yêu chuộng, bề dưới thuận tùng . Cơ Quan Phước Thiện ngày hôm nay vẫn còn luyến tiếc một vị làm đầu có đủ tài năng đức độ dìu dẫn cơ quan ung dung để bước trên đường Đạo và đường Đời .
Tai bay họa gởi bất thần, đến năm 1941, Ông bị Chánh phủ Pháp bắt đày qua Hồng đảo, khép tội vi phạm chánh trị .
Sau 5 năm khổ lụy ở xứ người, Ông được qui hồi cố thổ vào năm 1946 . Về Tòa Thánh Ông tiếp tục dựng lại công nghiệp Đạo đã gián đoạn ngoài ý muốn của Ông và lãnh nhiệm vụ Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh
Đến năm 1953, nhìn lại hành trình dĩ vãng chưa thấy thâu thập được kết quả gì khả quan để mở thêm trí giác, Ông liền chủ tâm bớt việc văn phòng để vào Trí Giác Cung nhập định . Nhưng thiện nguyện chưa kịp đạt thành thì ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1954) Ông từ giã cõi trần trở về cựu phẩm, hưởng thọ 66 tuổi (tính theo Âm lịch) .
Khuất bóng trên cõi dương gian về thể xác, Ông vẫn tồn sanh về anh hồn nơi cõi Thiêng Liêng . Lần lượt trong những cuộc học hỏi riêng của chúng tôi, Ông giáng cơ tỏ dấu vui mừng được dịp luận đàm với bạn đồng Đài .
Trong những dịp nầy, Ông lưu lại cho chúng tôi một kỷ niệm trong bài tứ tuyệt như vầy:
Bài thi nầy về văn chương thì thâm thúy vô cùng, về ý tứ thì cao xa tột bực .
Đọc giả có thể hiểu đó là những lời nhắn nhủ cùng khách phồn hoa, từ trang tế thế an bang, nhà tu sĩ tới thường nhơn, nên rèn luyện đức tánh là điều cần thiết để lập nên nghiệp cả .
Nói đến chữ đức thì nó bao hàm cái thể của Tâm, cái dụng của tánh, bắt nguồn từ nguyên lý không hình, không tình, không tên, không tuổi, cho tới khi tâm tánh trọn hướng về sắc tướng thinh âm, tức là về giả cuộc, thì cái đức khuất dạng . Mà hễ thất đức thì không làm ra trò trống gì .
Ngụ về thế sự tình đời, Đức Thái Thượng Lão quân phân tách hai hạng người: Thượng sĩ và Hạ sĩ cũng như hai hạng đức: Thượng đức và Hạ đức đặng rồi kẻ trí trông vào như trông gương soi mình, rồi chọn lấy con đường lập thân cho hưũ hiệu .
Bực Thượng sĩ thì không tự cao tự quí, không bận lòng tới việc phải quấy, nên hư, tốt xấu, cứ giữ vẹn hiền tâm thánh trí .
Kẻ Hạ sĩ thì phàm tâm nặng nề, ưa biện luận sắc sắc không không mà trong lòng trống rỗng .
Bậc Thượng đức thì nơi mình gồm đủ các yếu tố của tánh nhơn tổng hợp lại thành một cơ điều hòa thuần mỹ an nhiên dường như ở ngoài thiên hạ sự .
Kẻ Hạ đức thì thân tâm lắm nhiễm ô trược hồng trần, mất nhơn mất nghĩa, mất lễ, mất trí . Thoảng như thi thố được vài điểm Đạo đức nào vẫn không đủ rửa sạch bợn tâm tẩy hết bợn trần . Rồi làm sao lập nỗi thân danh .
Đứng về mặt Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà luận, chúng ta nên áp dụng con đường trung dung giữa hai hạng đức nói trên, để làm kỷ luật trau giồi thân tâm, thì có 3 điều:
Nay kính
BẢO THẾ
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT .
14. Diễn Từ Khai mạc Đại Hội Nhơn Sanh Giáp Thìn (24-3-64)
.Nhơn danh Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, tôi xin để lời chào quý Nghị viên và Phái viên Hội Nhơn Sanh năm Giáp Thìn (1964) .
Thiết tưởng sau 12 năm tại Tổ Đình vắng tiếng con cái Đức CHÍ TÔN, các địa phương vì cuộc bất an trong Quốc nội mà ra nông nỗi, Hội Thánh chỉ biết riêng sầu trong tấc dạ, đợi chờ ngày quang đãng chớ chẳng làm chi hơn, thì Nhơn sanh cũng nên ý thức tình trạng mà thông cảm giùm . Quý vị cũng nên biết thêm rằng sống trong giai đoạn vừa qua chẳng khác nào nằm giữa mùa đông lạnh lẽo, lá rời cành, chim đổi tổ, cảnh vật đìu hiu, Hội Thánh luống trông mau tới mùa xuân đặng nối lại với nhơn sanh mối dây thân mật trong cuộc sum vầy tại nhà chung như thuở nọ; nhưng chẳng biết mấy lượt xuân lai, Hội Thánh mong chờ vẫn không ngớt mong chờ ngày tái ngộ . Rất may, thiên tùng nhơn nguyện, ngày quang đãng đã đến lại đến trong dịp gió xuân hãy còn dịu mát thổi vào lòng mọi người và số người trong cửa Đạo được hưởng ngọn thanh phong trước hơn ai hết là chư thiện nam tín nữ hữu hạnh được Đức LÝ NHỨT TRẤN OAI NGHIÊM khen tinh thần đạo đức của chư đạo hữu khả quan do Thánh giáo đêm mùng 9 tháng Giêng Quí Mão (2/ 2/ 1963) .
Song le giữa khoản giao thừa xuân sanh đông tàn, làn mây đen che áng mặt nhựt chưa trọn tiêu tan mới có ứng hiện vài điểm bất tường đe dọa kết quả của quý Hội sẽ xoay về hướng nào mà định hướng duy nhứt của Hội Thánh là hòa đồng với nhơn sanh để tạo phúc cho nhau .
Vả chăng việc phải đến sẽ đến, hoặc kiết, hoặc hung, hoặc mau, hoặc chậm, tùy không gian định luật cho thời gian căn cứ vào hành tàng vén khéo hay không của mỗi người có trách nhiệm trong cửa Đạo . Một khi việc đến rồi thì không quyền năng nào sửa cải, cứu cánh cho được . Vì cớ mà trong 38 năm qua nền Đại Đạo đã lắm phen thay đổi cuộc diện, như khi thăng thì vinh diệu vô song, còn lúc trầm thì thẹn thuồng chí để . Mỗi lần biến chuyển là cả một bài thi của Đức CHÍ TÔN sắp bày trên mặt Thế đặng con cái Người có dịp so tài sánh đức để đoạt vị . Phương châm đi đến mức giựt giải quán quân không chi lạ là thí sinh phải luôn luôn trụ vững đức tin, sáng suốt nhận định thị phi tà chánh và bình tĩnh lướt qua cơn chuyển biến . Lẽ hằng là thi nhiều đậu ít vì bởi nếu bài thi dễ thì đậu nhiều mà hễ dễ thì chẳng phải bài thi .
Giờ nầy đây cơ khảo dượt đang hoành hành, những ước nguyện của nhơn sanh là những bài toán đệ lên cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài giải đáp, đoạn dưng lên cho Thượng Hội hay Đức LÝ NHỨT TRẤN OAI NGHIÊM chuẩn phê mới kiện toàn quyền Vạn linh tại Thế .
Kính quý Nghị Viên và Phái Viên ,
Nghĩ rằng trong cơ hội nầy, Cửu Trùng Đài là đâu, Hiệp Thiên Đài lại là đâu, khi vui chia sớt, khi nhọc có nhau, nên chúng tôi sẵn sàng chen vai gánh vác với Cửu Trùng Đài phận sự vẹt chông gai quét miểng sành đặng quý Hội được thung dung tiến bước .
Với thiện chí ấy chúng tôi sẽ nhứt diện bảo tồn uy tín của Hội Thánh, nhứt diện đáp nghĩa với nhơn sanh bằng cách khoan hồng xem xét nguyện vọng của con cái Đức CHÍ TÔN để khuyến khích trên đường tấn hóa đạo đức .
Sau nầy chúng tôi rất hân hạnh được biết quý vị đã đem hết khả năng hành sự từ ngày 16 tháng Giêng chí hôm nay 11 tháng 2 Giáp Thìn không giờ phút nào lơi bước, thậm chí làm việc tới ban đêm . Tinh thần phục vụ như vậy làm cho chúng tôi có quan niệm và tin chắc rằng quý vị sẽ là Chức Sắc trọng yếu tương lai của bổn Đạo .
Ngày nay Hội Nhơn sanh được long trọng hợp pháp hóa, như có một vị Thời Quân và 3 Chức Sắc thay mặt Hiệp Thiên Đài chứng sự, có nữ Chánh Phối Sư đại diện Nữ Phái ngồi ghế Phó Chủ Tọa .
Đó là về phần hình thức, duy về sự việc thì hồ sơ cầu phong cho phái nam cũng như phái nữ phải chuyển lên Bộ Pháp Chánh minh tra công nghiệp mới hợp pháp và không mất lẽ công bằng vì là trách nhậm đặc biệt của Chức Sắc hữu thệ .
Còn về phần phát biểu ý kiến của chư Nghị Viên và Phái Viên thì được tự do ứng dụng nhưng không ra ngoài chương trình nghị sự của Đại hội và chẳng nên quên lễ độ là hạnh kiểm của nhà tu và là kỷ luật của Hội Thánh .
Kính Hội Thánh,
Ở đời trong dịp xử sự tiếp vật chúng ta được kinh nghiệm trong mọi việc, việc nào cũng có khó mới có nên, cái hay rút trong cái dỡ, thoảng như gặp sự trắc trở trong việc của người thì nên ghi vào lòng để tự giác và khi tới việc mình hãy lấy đó hầu dọn lối cho đến thành công . Chẳng hạn như đi ngang qua một vườn bông hường được khéo săn sóc nên cả vạn bông đua nhau phơi sắc khoe màu, đượm hương ngào ngọt làm cho khách nhàn du phải dừng chơn thưởng cảnh và ca tụng công phu của chủ nhơn ông miếng vườn . Nhưng hường nào lại chẳng có gai, muốn bẻ nó phải cẩn thận từng ly từng tấc mới cầm được của quý vào tay, bằng trái lại thì luống công vô bổ .
Hôm nay Hội Thánh đến đây đông đủ như thế nầy tỏ ra một niềm đoàn kết thân hữu, tôi xin để lời cám ơn Hội Thánh và trao phận sự Chủ Tọa Hội Nhơn Sanh cho Hiền Huynh Thượng Chánh Phối Sư ./.
15. Thuyết Đạo Vía Đức Hộ-Pháp Giáp Thìn (20-5-64)
Ở đời trong dịp xã giao có lắm điều tế nhị ảnh hưởng lớn lao tới sự thành bại của đại cuộc, cho nên trong những việc làm hay lời nói cần thiết là TRI với HÀNH phải đi đôi và CHUNG với THỦY phải vẹn toàn mới mong tạo uy tín cho mình và gây thiện cảm với người.
Như hồi Đức HỘ PHÁP còn tại tiền, toàn thể bổn đạo sùng thượng Ngài như sư phụ , sư huynh, nay người đã xuất thế sự tôn kính trên đây còn gia tăng vạn bội. Ấy là niềm chung thủy của bổn đạo trước sau không phai lợt TÌNH lẫn HIẾU, còn THỦY CHUNG của đức Ngài thì khi xưa ở cõi phàm trần bồi đấp nền đạo, dạy dỗ con em thế nào thì khi nay cũng thế ấy, ở cõi thượng thiên Đức Ngài vẫn tiếp tục về mặt vô vi, ban phép lành cho mọi người đồng hưởng.
Nay nhơn dịp lễ Vía Đức Ngài tôi xin đọc bài thi sau đây của Đức Ngài lưu lại cho Hội Thánh làm kỷ niệm.
Thương thay, một bậc siêu nhân trong cửa đạo như Đức HỘ PHÁP mà chịu lưu vong nơi xứ người, rồi gởi mảnh hình hài nhục thể nơi đó, với một điều định quyết là không qui hồi cố quốc nếu quê hương xứ sở còn bị chia đôi, phải chăng đó là mối lo liệu cho vận mạng tương lai của giang sơn cẩm tú sẽ giao gởi lại ai là người an bang tế thế , đặng giải khổ cho đồng bào chóng thoát nạn đao binh đã diễn xuất từ lâu trong vòng huynh đệ.
Vã lại tình huynh nghĩa đệ khắn khít nhau như thủ túc mà nỡ nào tay mình đành chặt chơn mình, nên Đức Ngài hằng luyến tiếc chẳng vì thiếu sức phàm nhưng vì số thiên định nan đào phải tách miền hạ giới không trọn viên mãn công trình trong nghĩa vụ .
Nhắc đến sức phàm, chúng tôi xin đại lược đề cao đại chí của Đức ngài không hề lung lay trước mọi biến cố, liên hệ tới nền Đạo dầu ở nơi nào phát sanh ; đức tin không hề suy kém trước những thử thách thậm nguy, còn tinh thần thượng võ phụng sự cho Hội Thánh thì chưa hề một ai mưu dụng lợi khí gì mà khuất phục cho được.
Có điều đáng để ý là trong những động hành kể trên có lẫn lộn những thái độ ôn nhu khi cần , những nét điềm tỉnh khi phải chỗ , tức thị là Đức Ngài đã thực thi trọn vẹn cái dõng của Thánh nhơn với mục đích là bảo vệ cả hai triệu tín đồ an cư hành đạo.
Luận tiếp về bài thi, chúng tôi rất bồi hồi trong tấc dạ khi nghe qua những lời thống thiết của Đức ngài, vừa tự thán, vừa nhắn nhủ với thế hệ đương kim trong cửa Đạo rằng khi vắng bóng Đức Ngài rồi sợ e chiếc thuyền-từ sẽ lâm cảnh thân côi phận bạc trên mặt biển trầm luân mênh mông lai láng sóng dập gió dồi lại thiếu địa bàn chỉ hướng ắt phải lắm gay go xoay trở.
Đã rảnh tay nơi cõi tục mà còn nặng lòng nơi cõi Thiên, thử hỏi có bao nhiêu người cùng tột ưu-thời mẫn thế như vậy. Nếu Đức Ngài chẳng đắc vị nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống hồ dễ chúng ta được may duyên gần gũi Đức Ngài hầu học hỏi thêm những điều cần học hỏi.
Cho hay về phần Đức Ngài thì Thiên định đã đành, còn về phần chúng ta thì NHƠN NGUYỆN HÀ NHƯ ? Nếu không thiện nguyện, rồi dựa nơi nào mà để lời đối chiếu với câu “Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi”.
Trong hoàn cảnh này hai chữ cội Đạo có nghĩa ám chỉ lãnh vực của Hiệp-Thiên-Đài không ra ngoài phạm-vi bảo-thủ chơn-truyền và Luật-Pháp mà từ lúc ban sơ Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài là tay gìn sứ mạng phò huyền cơ diệu bút cho Đức CHÍ-TÔN mở Đạo cứu đời. Tiện thị cội Đạo là Hiệp-Thiên-Đài đó vậy.
Để nhận định cho rõ thêm yếu điểm này, tôi xin trích lục một đoạn văn trong bài chú giải Pháp-Chánh-Truyền về Hiệp-Thiên-Đài như vầy :
“Cửu-Trùng-Đài là Đời mà Hiệp Thiên Đài là Đạo; cho nên buộc Đời phải nương Đạo mà lập ra thiệt tướng mới mong độ rỗi nhơn-sanh chuyển cơ Tạo-hóa.
“Cái trọng hệ là nếu không có Hiệp-Thiên-Đài thì không có Đạo. Trời Đất qua chớ Đạo không qua, nhơn-loại tuyệt chớ Hiệp-Thiên-Đài không tuyệt”.
Kế đó, Pháp Chánh Truyền dạy tiếp :
PCT.-“Hiệp-Thiên-Đài là nơi THẦY ngự cầm quyền Thiêng-Liêng mối Đạo. Hễ Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài vẫn còn”.
C.G.- “ THẦY là Chúa Tể Càn-Khôn Thế-giới tức là Chúa-Tể sự Vô-Vi, nghĩa là chủ quyền của Đạo, mà hể chủ quyền của Đạo ngự nơi nào thì Đạo ở nơi ấy.
Vậy Đạo còn thì Tòa-Ngự của Thầy là HTĐ vẫn còn. Hễ nói Đạo chẳng hề khi nào bị diệt thì HTĐ vẫn còn vì Đạo diệt thì là tận thế. Vậy thì Đạo chưa tuyệt ắt HTĐ cũng không tuyệt”.
Trên đây là những lời vàng tiếng ngọc minh giải Hiệp-Thiên-Đài là Cội Đạo vậy.
Bây giờ chúng ta tìm hiểu vì lẽ gì Đức-Hộ-Pháp lại buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rút kinh-nghiệm đã thâu thập trong thời gian cầm quyền Chánh-Trị-Đạo tại thế, Đức Ngài nhận thức căn phần của Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài khó khăn nặng nhọc, lại là thiểu số, thoảng như rủi lâm vấp vào nẽo chông gai hay sa cơ vào nơi hầm hố thì tự cứu lấy là phương duy nhất chớ chẳng nên ỷ lại vào năng lực nào khác để nâng đỡ cho mình, rồi đã thất vọng, lại thêm thất vọng chớ chẳng chi hơn.
Tuy vẫn không nói hết lời, Đức Ngài thương xót cho thân phận cội Đạo không ngớt chơi vơi mới tỏ nỗi ưu sầu nhưng trong cái rầu buồn ấy có ẩn ý cái hy-vọng một ngày kia sẽ có người nối chí tận lực đem con thuyền-từ qua Bỉ-ngạn.
Vã lại việc gì cũng có nên hư, có mặt trái, có thành công thất bại Ngài mới chuyển kết bài thi bằng hai câu:
Đoạn chót này thuộc về tương-lai và chưa phải hồi giải-thích, chúng ta nên nhường chỗ cho thời-gian trả lời./.
16. Phủ dụ trong dịp Bà Phối Sư Hương Nhiều
tái thủ Chưởng Quản Phước Thiện Nữ phái
Trong cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một ngày công-quả của mỗi chúng ta là một ngày chúng ta trọn vẹn hiến thân cho Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu xử khiến để thay thế cho Người đặng dìu dẫn nhơn-sanh thoát ly khổ hải nhứt là đối với hạng người còn nặng say sưa với mùi chung đỉnh còn lắm quằn quại trong bả vinh huê là những miếng mồi treo gương cho kẻ phàm phu lạc lầm làm tôi cho tà-mị. Thất một ngày công-quả là mất một bửa phục-vụ nhơn-sanh tức là thêm một ngày chìm đắm nhơn-sanh trong vòng tục lụy.
Vã chăng trong bổn Đạo có hai hạng người, một là hạng hạ-thừa chỉ lo giữ Đạo cho vuông tròn và đức-tin cho mạnh mẽ và một nữa là hạng thượng thừa có nhiệm vụ trọng yếu hơn như trên vừa kể. Thoảng như trong phẩm này mà có người còn liều lĩnh trong sứ-mạng Thiêng-Liêng, tự mình đã nhận lãnh thì thà xuất ngoại cho khỏi phụ lòng Đức-Từ-Bi che chở. Vì đó trong đêm mùng năm tháng chạp Tân-Sửu (10.1.1962) tại cung Đạo Đền Thánh Đức LÝ NHỨT-TRẤN OAI-NGHIÊM giáng cơ dạy như vầy:
Thế thì dầu chức-sắc hay đạo-hữu cả nữ lẫn nam không ai được trái bước trong đạo nhơn-luân nhiên hậu mới gấm ghé vào Thiên-Đạo. Thì công-quả là phương-châm duy nhứt dọn lối vào đường lập vị.
Sau này chúng ta cũng cần ý-niệm thêm rằng gắng sức thường hành công-quả là phương-chước đoái công chuộc tội, nếu chẳng phải tội hiện kim thì cũng nợ tiền khiên vì không ai được thập toàn trên mặt thế. Rửa sạch tội lỗi bằng công-quả tức là ưng lòng hứng chịu những gian lao về trí não cùng những khổ nhọc về hình hài đặng đền lại cái mà những ai trong chúng ta đã tạo hoặc trực tiếp hay gián tiếp cho kẻ khác, phải vì ta mà điêu-linh tân khổ. Đòn cân công-bình nhứt là thuộc phía vô-hình không bao giờ chênh lệch, thử hỏi những công kia trả nợ nầy hồ dễ không hạp chơn lý cho được .
Một trọng điểm khác nên quan tâm là trong khi làm công quả có những việc bị hàm oan phải mang, có những điều ngang trái phải gánh, những chuyện thị phi phải lảnh với ngậm ngùi nuốt đắng trêu cay mà không dám than thân, không nên trách phận, đó là những cách thử thách của tà thần để cho ta được thực nghiệm, trau giồi đức tánh thế nào cho ngang hàng với Phật , Thánh , Tiên mới mong thành Đạo. Lẽ dĩ nhiên quả đẹp thì vị cao, bằng trái lại thì chỉ có kế tái sanh tục kiếp mà lần hồi tiến hóa.
Vã chăng ĐẠI-ĐẠO khai sáng một lần đại ân xá, chẳng ân tứ hai lượt , thì nhơn sanh hạnh ngôï Tam Kỳ hội này là may duyên hi hữu. Nếu chẳng tu theo ngọn đèn thiêng liêng vạch lối, dầu giữa nắng ban ngày hay bán dạ thâm canh luôn luôn tỏ rạng. Trong lúc tà quyền giành giựt con cái Đức CHÍ-TÔN đang lôi kéo vào chốn âm u đày đọa, chừng ấy tấn thối lưỡng nan có hối tiếc cũng muộn màng không xoay trở kịp.
Đức HỘ-PHÁP buổi nọ đã dụng phương hay chước khéo bảo vệ chức sắc, chức việc và thiện nam tín nữ của cơ quan Phước-Thiện cho khỏi sa vào cạm bẩy món ngon vật lạ tứ giăng chung quanh mỗi người, nhứt là phái yếu nữ lưu còn lắm thiệt thòi về trình độ học thức và tinh thần phục vụ và lắm hiếm hoi về hạnh đức để làm gương mẫu cho kẻ mình phổ độ noi theo, nên Ngài mượn tay một nữ Chức Sắc Cửu-Trùng-Đài là bà Phối Sư HƯƠNG-NHIỀU có đủ kinh nghiệm và phúc hậu để dìu dẫn nữ phái Phước-Thiện đi trên đường ngay nẻo chánh của chơn đạo . Mở trí khai minh là việc khó khăn nặng nhọc mà bà đã làm tròn bổn phận từ lâu cho đến khi phải gián đoạn nhiệm vụ của đức HỘ PHÁP nảy giao vì đại biến trong cửa đạo liên hệ tới gia đình bà, mà bà vẫn kiên tâm bền chí không rời Thánh Địa để giữ cho còn sự tượng trưng lãnh đạo giáo hóa nữ phái Phước Thiện khổ hạnh nầy Hội Thánh hằng ghi nhớ .
Hôm nay cơ điều hòa trong cửa đạo đã trải qua nhiều trạng thái khó khăn mới được trổ mầm hứa hẹn một tương lai nhiều hy vọng khả quan cho con cái Đức Chí-Tôn và Đức Phật-Mẫu trụ hết đức tin vào hai Đấng khai Thiên lập Địa nắm cả huyền vi mầu nhiệm cơ đạo đặng cứu vớt sanh linh khỏi cơn đồ thán .
Hội Thánh Hiệp-Thiên-Đài nhận thấy sứ mạng Bà Phối- Sư HƯƠNG-NHIỀU còn tiếp tục được đắc lực hơn theo ý định của Đức Hộ-Pháp khi còn tại tiền . Nên chúng tôi vui lòng giao hườn cho bà trách vụ Chưởng-Quản Nữ Phái Phước-Thiện .
Ngày nay bà chánh thức hành sự, tôi ước mong bà sẽ thi ân bố đức cho đoàn em út Nữ phái dưới quyền bà đặng thụ hưởng để rồi cả thảy đều một nhịp một nhàng chị trước em sau nâng đỡ lẫn nhau trong tình tương thân tương ái thì may mắn lắm .
Đành rằng Hội Thánh Hiệp Thiên Đài có phận sự lập ngôi định thứ cho chư chức sắc chẳng luận ở cơ quan trọng yếu nào trong cửa Đạo, nhưng phải có sự tận tâm tận lực của mỗi đơn vị cho dễ bề Hiệp Thiên Đài công minh phân đoán .
Nhơn danh Hội Thánh Hiệp-Thiên-Đài tôi cầu nguyện Đức CHÍ-TÔN và Đức PHẬT MẪU phát hạ hồng ân cho Hiền Tỷ trong công khó đặc biệt nầy sẽ được sớm cao thăng phẩm tước .
Nay kính,
TÒA- THÁNH, ngày 24 tháng 3 năm Giáp Thìn (dl.5.5.1964)
QUYỀN CHƯỠNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
( Ấn-Ký)
Bảo Thế LÊ THIỆN PHƯỚC
17. Diễn Văn Khai mạc Đại Hội Hội Thánh Giáp Thìn (25-9-64)
Cuộc đời có lắm chuyện trớ trêu như vinh nhục thay đổi liền tay, sang hèn chuyển xoay chớp nhoáng, còn kiếp người như bóng phù du vừa thấy đó liền mất đó. Với bao nhiêu chuyện ấy, hơi đâu mà bàn.
Nền Đạo cũng có lúc thăng, lúc trầm. Thăng thì vui vẻ tươi cười anh em lớn nhỏ chia nhau cộng hưởng, trầm thì sầu não ưu tư cũng cùng nhau kê vai chung chịu.
Khác với đời là Đạo hằng kết tình thân hữu giữa bạn đồng thuyền xúm nhau giữ vững nghiệp Đạo cho tới ngày hôm nay và luôn tới ngày mai hậu.
Song le, đã trải qua gần nửa thế kỷ sau khi khai sáng Đạo Trời, phàm tâm với chất Thánh vẫn còn lẫn lộn dưới bóng từ bi làm cho Hội Thánh phải nhiều phen điên đảo. Mặc dầu vậy, dầu muốn dầu không, vì Thiên thơ dĩ định cả chức sắc lãnh sứ mạng thể thiên hành hóa phải chung tâm hiệp trí quyết sách vận trù tìm phương tái tạo niềm hòa khí thuận theo ý Trời đặng khỏi tủi hổ khi về cảnh Thiêng liêng Hằng sống.
Vã lại, đã khá lâu quyền Vạn Linh gián đoạn sự thông công với quyền Chí Linh, bởi những chuyển biến gây nên trong cửa Đạo thì thật khá tiếc. Nay Hội Thánh khởi đoạn phục hồi năng lực của quyền Vạn Linh, thật khá mừng.
Tuy vân mừng, tôi xin lưu ý chư Thánh Nam Nữ cổ ngữ này để làm câu nhựt tụng:
Lòng người thì chất chứa những nham hiểm ích kỹ hại nhân còn lòng Đạo thì gồm những tinh vi tế nhị, người trí thì quyết chí noi theo đường Đạo là đường duy nhứt để vén màn hắc ám khám phá mối huyền vi của Đạo. Mục đích tư riêng trong kiếp tu của mỗi phần tử ưu tú trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn tại thế có bấy nhiêu đó thôi. Còn việc truyền giáo cứu độ nhơn sanh thoát chốn trầm luân là công quả ngoại giới thuộc về đức tánh thương yêu và công bình.
Nếu thiếu những yếu điểm này có tánh cách liên hệ trực tiếp với công phu nội giới thì cũng khó mong đoạt cơ mầu nhiệm như trên vừa kể. Vã lại trên trường phổ độ chư vị được đặc sắc hơn kẻ khác để thành công là sẳn có nơi mình cả quyền năng vô lượng vô biên của vô hình ám trợ.
Đấy là một lợi khí không ai thấy được và cho đặng duy trì món lợi khí ấy cho mãi còn hiệu lực thì phải tự mình rèn luyện bổn tâm cho linh diệu quang minh ngõ hầu chế ngự dục vọng sa vào cạm bẩy của tà mưu để chia rẻ con cái Đức CHÍ TÔN, làm tôi cho tà mị ấy là điều tối kỵ trong nền Chơn giáo.
Giờ luận đến ý nghĩa của cuộc Đại hội HỘI THÁNH hôm nay, chúng tôi nhận thấy đây là cơ hội tốt đẹp cho chư Thánh tuyên dương công trạng của mỗi người trong thời gian qua để lập thêm quả cao vị trọng.
Có điều nên đề phòng là Thánh Thể Đức CHÍ TÔN tại thế còn dẫm bước giữa chợ đời với mãnh nhục thân yếu đuối rất dễ bị khắc phục bởi những lợi, lộc, quyền, danh là vật của đời treo cao giá. Một khi thâm nhiểm mùi đời ắt quên mùi Đạo, rồi sức chống chỏi với tà tâm lần hồi suy giảm thì một ngày kia nếu đa số con cái Đức CHÍ TÔN hướng về đường tội lỗi rồi thiểu số người còn lại e phải đổ lụy mà xem cơ đồ sụp đổ.
Ngừa bịnh hơn trị bịnh, chúng ta hãy cương quyết dụng phép thương yêu lấy đường dung thứ làm chuẩn thằng để nâng đỡ nhau trên đường thi công quả, thì trong Bát Quái Đài chư Thần, Thánh, Tiên, Phật sẽ chứng minh lòng thành của mỗi chúng ta mà ban ơn lành cho cả thảy: Ấy là ý nguyện chúng tôi rất lo ngại bánh vẽ sẽ là kết quả của cuộc hội chăng?
Sau nữa tôi xin chư vị quan tâm rằng đã được Thiên Phong vào hàng Thánh trong đương kim thời đại thì phải có tư cách hành vi tư tưởng như liệt Thánh trong Thượng cổ thời đại. Luôn luôn lấy tâm quản thể bàn mà tiếp nhơn xử sự thì nền Đạo mới thiệt tướng là phi thường Đạo và danh mới tỏ rạng là phi thường danh.
Đây rồi Hội Thánh sẽ đem hết công tâm và lượng khoan hồng để xét đoán từng thỉnh nguyện của Hội Nhơn Sanh vừa rồi về năm Giáp Thìn (1964) và chứng minh công nghiệp của những vị đã xứng đáng đứng sổ cầu phong và cầu thăng hầu dâng lên Thượng Hội giải quyết.
Kính Hội Thánh,
Tôi xin long trọng tuyên bố khai mạc Đại hội HỘI THÁNH Cửu Trùng Đài về niên hội Giáp Thìn (1964) và trao cho Ông qu. Thái Chánh Phối Sư nhiệm vụ chủ tọa Hội Thánh.
Tôi cầu xin Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU, Tam Trấn Oai Nghiêm và chư Thần Thánh Tiên Phật ban ơn lành cho toàn Hội.
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nay Kính,
BẢO THẾ (Ấn Ký)
18. Huấn Từ Lễ Kỷ niệm Đức Q. Giáo Tông (16-11-64)
Bước vào cửa Khổng Sân Trình, chúng tôi lấy làm e ngại không dám múa búa trước cửa Lổ bang. Song le dầu thế nào, sự hiện diện của chúng tôi nơi đây chỉ cốt yếu gây tình thân hữu với nhà mô phạm và giúp tinh thần cho Ban Giám Đốc ngôi trường này được mạnh tiến thêm trên nhiệm vụ.
Lãnh sứ mạng khai tâm mở trí cho đoàn son trẻ mầm non nước nhà, một nước tuy đứng vào hàng tiểu quốc nhưng rạng danh văn hiến hơn 4.000 năm tại miền Nam Đông Á, quý vị giáo sư có mặt nơi đây được hãnh diện nhận lãnh chức vụ trong ngành giáo huấn, một chức vụ cao thượng mà lại bạc bẻo. Bạc bẻo vì chịu phận thiệt thòi hơn các giới trong tứ dân: Sĩ, Nông, Công, Thương, mặc dầu Sĩ đứng hàng đầu và trên tất cả. Để bù lại cái thiệt thòi này về bề ngoài, bề trong được vui vẻ lương tâm nhà nghề vì chính mình quý vị là tay đào tạo nhơn tài mà ngày nay hay ngày đã qua cùng ngày sẽ tới họ không quên tình sư nghĩa đệ. Cái tình này các giới khác chưa hề có.
Đức Khổng Thánh khi xưa vì lo cho tương lai dân tộc Trung Huê trong thời kỳ gia vong quốc phá bèn xướng xuất Nho Tông làm phương trị loạn. Nho giáo của Đức Ngài căn cứ vào Đạo lý luân thường nhưng không thích hợp với chánh sách bá Đạo của các vì Vương thời bấy giờ.
Vì lẽ đó mà châu lưu khắp xứ, Đức Ngài gắng tìm minh chúa mà phò. Thảm nổi, từ nước Lổ sang nước Vệ, đến nước Tấn, nước Tần v.v... Ngài không được trọng dụng rồi phải lui về nguyên quán là nước LỖ mở trường dạy học. Trong số 3.000 học trò, có 72 vị tài cao học rộng tinh thông lục nghệ là: Lễ Nhạc Xạ Ngự Thư Sổ. Hiện nay hậu tấn còn xưng tụng chư vị ấy là Thất Thập Nhị Hiền.
Thiết tưởng con người sinh ra phải học mới biết chớ nào ai được đặc biệt sanh nhi tri chi. Thử hỏi dầu ở thời đại nào với dân tộc nào, hay tôn giáo nào, nếu không có văn chương thì lấy đâu mà tả kinh diễn điển. Cho nên chuyện học là cần nhứt của trò, chuyện dạy là bổn phận của Thầy, và nhà trường là lò ung đúc văn chương. Nếu thiếu một trong ba yếu điểm này thì đường văn minh phải thoái lui, dân trí và dân khí phải chìm đắm trong lạc hậu u tối.
Kính quý liệt vi Giáo Sư.
Luận cổ suy kim, tôi nhận thấy Mạnh Thường Quân lúc nọ là tay hảo hớn nhứt trong nước Tề, ưa chiêu hiền đãi sĩ, thích kết bạn hơn kết thù. Hằng ngày Người chứa Tân Khách hàng ngàn và hậu đãi mỗi người như nhau, không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo và lấy tư cách bình dân để tiếp nhơn xử sự, dầu thân hay sơ, ai ai cũng được gần gũi Người như bạn cố giao. Một bửa kia vì hết tiền nuôi khách, khách lần lượt tứ tán ra đi không màng ngó lại, ngôi nhà khi hôm qua vang tiếng vui cười khi nay lại im hơi vắng bóng người lui tới. Mạnh Thường Quân tỏ dấu buồn rầu cho nhơn tình thế thái. Một người khách bặt thiệp nói: Hiền sĩ hãy nhìn buổi chợ, sớm mơi thiên hạ tấp nập chen vào, chiều lại vắng vẻ như bãi tha ma, vì không còn đồ cần dùng nữa. Hoàn cảnh của quý vị có thể ví như hoàn cảnh của Mạnh Thường Quân, thì dầu gặp cơn bất hảo, danh Mạnh Thường Quân vẫn lưu truyền ư hậu thế.
Các em học sinh,
Đường học vấn của các em còn dài, tuổi các em còn thơ, nhưng không vì vậy mà tôi không thuật cho mấy em nghe cho vui một chuyện khá ngộ nghĩnh là tích của Sở Vương Hàn Tín.
Sanh ở nước Sở bên trung Hoa, Hàn Tín là một người nghèo lại sớm mồ côi cha mẹ, thường buổi đi câu cá đổi tiền mua gạo. Chỗ người ngồi câu laiï gần chỗ bà Phiếu Mẫu giặt đồ. Phiếu Mẫu liền nói:
Nảy giờ tôi trộm thấy cậu không câu được con cá nào, chắc tại tôi giặt đồ nước xao động, nên cá không dám tới ăn câu. Thôi tôi mời cậu về nhà tôi dùng cơm chờ qua ngày khác. Hàn Tín du dự nhưng cơn đói thúc tới, người liền nhờ cơm đở dạ của Phiếu Mẫu. Ngặt thay, ngày nào cũng như ngày nào, câu không được cá và ngày nào cũng như ngày nào cứ ăn cơm nhờ của Phiếu Mẫu.
Hàn Tín hứa ngày sau sẽ trả ơn cho bà,
Gân tới ngày xuống Trường An lập công danh, Hàn Tín ra chợ gặp một côn đồ thấy Hàn Tín mang gươm bèn thách đố Tráng sĩ muốn đi qua đây phải lòn trôn ta mà đi, bằng không hãy để gươm lại đó cho ta. Hàn Tín tự nghĩ: giết thằng này được rồi nhưng lở hội công danh chi bằng ta chịu nhục mặc cho miệng thế chê cười.
Hết hồi bỉ cực tới hồi thới lai Hàn Tín xưng vương nước Sở, thì Hàn ơn đền nghĩa trả cho Phiếu Mẫu đã đành lại còn phong thưởng cho tên du đãng tiền nhựt làm nhục Người và nhờ cái nhịn đó mà có ngày nay vinh sang bốn bể.
Đặc điểm trong đời oai võ của Hàn Tín là trả ơn và nhịn nhục.
Nhờ Thầy ngày nay mà mấy em trở nên người hữu dụng ngày sau. Mấy em sẽ là hậu hiền chớ khá quên hai đặc điểm trên đây của tiên hiền Hàn Tín vậy.
Kính Quý Ngài,
Dưới bóng từ bi của Đức Thượng Đế, anh cả chúng ta là Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đã nhiều phen trải qua lắm nổi khổ tâm vì tình đời luôn cả mối Đạo.
Hiện giờ đứng trên Thiên Thượng để mắt nhìn xuống thiên hạ, Ngài hằng hoài cố đến thân phận nhơn loại đang dung ruổi trên đường nguy khốn và không ngớt ám trợ cho người có nhiệt tâm giáo hóa nhơn sanh. Âu cũng là một đại công quả về phần vô vi của Ngài vậy.
Quý trường Trung Tiểu học tư thục LÊ VĂN TRUNG đặt dưới danh bất hư truyền của một bậc tiền bối như Ngài, sẽ được ngài phò trì cho danh thêm cao và quý vị có chức vụ trọng yếu trong nội bộ sẽ được Ngài nâng đỡ tinh thần thêm tráng kiện, lý trí thêm dồi dào để dìu dắt con em vui sống trên một nền văn hóa tuyệt sắc bắt nguồn từ đạo đức ra đến thân dân.
Nay Kính,
Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
BẢO THẾ
(Ấn Ký)
19. Huấn Từ Lễ Bế Giảng Hạnh Đường ((24-12-64)
Nhơn dịp niên học Hạnh Đường Giáp Thìn mãn khóa, tôi hân hạnh được Hội Thánh hoan hỉ mời dự lễ bế giảng long trọng như thế này, tôi xin để lời cảm tạ thạnh tình của Hội Thánh.
Giữa đây tôi nhận thấy số Sinh Viên và Học Sinh nam nữ năm nay thặng số hơn năm ngoái rất nhiều, ấy là triệu chứng mùi Đạo đã nhẹ nhàng tưới mát tận cõi lòng con cái Đức CHÍ TÔN mới có nhiều người nông chí thi đua vào học đường tìm hiểu Đạo Mầu. Rồi đây các bạn khác sẽ noi gương chuyên lo đèn sách hơn quyến luyến gia đình thì rất may cho những bạn ấy.
Thiết tưởng sinh viên và học sinh của Đời lo học văn chương rèn tập bách khoa thì có nghỉ hè để bồi dưỡng tinh thần và phục hồi sức khỏe. Còn sinh viên và học sinh của Đạo thì có nghĩ xuân để đối tượng. Hẳn đôi bên đều có nghỉ xong nghỉ khác mùa vì khác lối học và cũng khác cảnh ngộ. Cho nên nói rằng nghĩ chớ kỳ trung bên hàng tu sĩ chúng ta một khi rời cửa học đường thì bắt tay vào việc thực hành những cái gì đã học trong bài vở vừa để thí nghiệm vừa để rút kinh nghiệm. Có thí có nghiệm như có tri có hành đi đôi thì sự học mới thành hữu ích.
Vả chăng lý thuyết là ngọn đèn, còn thực hành là lối đi. Ngọn đèn chỉ soi sáng chứ không dìu bước vẹt chông gai hay qua hầm hố. Thảng giữa đường gặp những chướng ngại này thì khách lữ hành phải dụng lý trí bổ túc lý thuyết rồi tự mình tìm thế qua truông nhưng không mất ngọn đèn báo hiệu.
Quý Sinh Viên và Học Sinh,
Như trên vừa nói trong nay mai quý em sẽ dấn thân vào đường thực nghiệm ắt không khỏi vướng nhằm trắc trở khó khăn rồi vì đó mà bất cập để luận bài dễ bài khó, Thầy dở Thầy hay. Trái lại hãy xét kỷ trình độ học thức của mình tiến thoái hà như, chớ chưa hề có bài học dễ hay bài học khó, Thầy dạy dở hay Thầy dạy giỏi. Như xưa kia Đức Khổng Tử mà Thiên Hạ tặng là Đại Thánh Sư biểu yết kiến Đức LÃO TỬ và hỏi Đạo, Đức LÃO TỬ giãng rằng: Ông lấy nhân nghĩa sửa Đời ư ? Sao thấy người ta say không nấu rượu bán để có bả mà ăn. Sao thấy người ta sụp xuống bùn không lội xuống bùn để có tôm có cá mà bắt. Bày ra việc nhơn nghĩa lễ trí, đặt ra người Quân Tử kẻ Tiểu Nhơn, Thiên hạ mới tranh khôn dại, mới luận thị phi, mới giành cao hạ, tức là Ông xúi loạn đó.
Cái thuyết của ta thì thanh tịnh vô vi nhưng vô vi nhi vô bất vi.
Ta không ra tới cửa ngỏ mà biết THIÊN HAÏ sự, vẫn ngồi trong nhà dòm ra cửa sổ mà biết việc Trời Đất. Ông nghĩ sao ?
Nếu chẳng phải là Thánh Nhơn, Đức KHỔNG TỬ sẽ phiền lòng vì bị chạm tự ái rồi sẽ chê Đức LÃO TỬ là tự phụ tự cao chăng ? Không, Đức Ngài về nhà tự nghĩ cái Đạo của ta là Đạo nhập thế, còn Đạo của Đức LÃO TỬ là Đạo xuất thế, cho nên Ông luận như vậy rất phải, ta khó theo kịp đó.
Nói đến đây chúng ta nhận thức rằng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ qui hiệp tinh ba giáo lý của Tam giáo và ngũ chi làm cho giáo lý thuần nhứt để giác ngộ nhơn sanh trong thời buổi văn minh khoa học thạnh hành theo đuổi vật chất bỏ rơi tinh thần thì dầu người khó tánh đến đâu hễ nhập Đạo rồi liền có phương châm tu luyện theo sở thích cá nhân. Như vậy Hội Thánh có đủ phương sách cứu độ mỗi từng giới trong xã hội. Chẳng hạn như ai có chí trị bình giữa đời loạn lạc thì dụng Nho tông chuyển thế.
Những ai không muốn xen vào việc phức tạp của phồn ba thì học thuyết thanh tịnh vô vi của Đức LÃO TỬ hoặc thuyết tự túc của Đức Trạng Trình pháp danh là Thanh Sơn Đạo Sĩ, hồi còn sanh tiền lưu lại bài thi trạng cảnh thanh nhàn cư sĩ như vầy:
Trở lại giáo lý của Đại Đạo chúng ta nhận thấy có ba phương tiện bổ túc cho nhau như:
Khổng giáo dạy thương Đời, giữ thuần phong mỹ tục lập hòa bình. Kỳ dư không cần biết tới cái chết, vì cho rằng chưa biết cái sống hồ dễ biết cái chết cho được.
Đạo giáo khuyên sống đơn sơ giản dị ẩn dật an nhàn, trường sanh bất lão, vân du thiên ngoại cho tới chừng nào muốn bỏ xác thì tự bỏ lấy.
Phật giáo thỏa mãn nhu cầu siêu nhiên, bài giải nguyên nhân sanh khổ đặng đoạn tuyệt quả báo luân hồi.
Vậy thì Đại Đạo hiện nay gồm hết cái tinh thần vạn năng truyền thống của dân tộc Việt Nam, là “ Tam Giáo Đồng Nguyên” căn cứ vào ba yếu điểm: Lễ Trí, Thần Bí và Triết Lý. Ba phương diện này hiệp một làm chơn pháp tận độ hữu vi trở lại vô vi muôn đời hằng sống ở Thiêng Liêng cảnh. Gặp Đại Đạo hoằng khai, ai không tu thì quá uổng.
Giờ phút này ở tại đây quý em còn là Sinh Viên, qua ngày mai sẽ là chức sắc lãnh lịnh đi ta bà thế giái với những kết quả thâu thập nơi Hạnh đường, ra tay rưới giọt nhành dương gội rửa bụi trần cho khách phàm tục theo sứ mạng giáo nhơn qui thiện, mà mỗi người trong chúng ta phải đoạt thành mục đích.
Cho hay việc phổ truyền chơn giáo không chờ tuổi tác, không đợi ngày giờ, cũng không phân biệt nam nữ. Như Đức QUAN ÂM NHƯ LAI kia đoạt vị cao hơn biết bao nhiêu bậc Bồ Tát hay La Hán của Nam phái; thì trong hàng nữ lưu đâu phải không có bậc dị nhơn cứu thế, chỉ với hai chữ thương yêu hóa độ quần sanh, Đức ngài được ngự trên tòa sen rạng ngời chiếu diệu.
Vậy thì đối với người TU, điều toát yếu là lập đại chí, thốt đại nguyện và giữ y lời sẽ chắc chắn đoạt Đạo.
Tôi cầu chúc cho mấy em sẽ gặp nhiều may mắn trong tương lai hành Đạo và cứ theo chơn HỘI THÁNH, nối gót Đức CHÍ TÔN, ngõ hầu thung dung để bước thì cửa kinh Bạch Ngọc sẽ đón mời, không còn chi hơn nữa.
Nay kính,
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
BẢO THẾ
(Ấn ký)
20. Chúc Xuân Tết Nguyên Đán Ất Tỵ (2-2-65)
Thưởng gió xuân dịu mát phưởng phất lúc bình minh rồi ngắm cảnh vật đua sắc khoe màu dưới ánh thái dương rạng chói, khách trần gian tự thấy phấn khởi trong cõi lòng một niềm vui thú xúc động cả tinh thần lẫn vật chất muốn tồn tại mãi với thời gian, không muốn rời bỏ thời gian mà phải phai lợt niềm vui thú ấy.
Vả lại trong một năm chỉ có một mùa xuân, nên khi Xuân về mọi người đều dọn mình tề chỉnh nghinh Xuân với những tư tưởng và hy vọng hết hồi bỉ cực tới hồi thới lai. Tuy mơ màng ảo mộng nhưng nhờ đức tin khéo duy trì, người ta thi đua lựa chọn những lời thanh tiếng ngọt chúc tụng cho nhau, những ngươn hạnh phúc đức, lợi trinh là những yếu tố đem con người lên đài danh dư,ï lên đống tiền tài mà không hay những yếu tố đó là nguyên ủy phát sanh tranh đấu giựt giành tạo khổ hơn tạo phúc.
Tương đối là trong điềm lành ẩn khất điềm dữ song ít ai nhìn vào sự thật và ngộ nghỉnh thay, Xuân này qua rồi người người trông chờ Xuân khác đến, hy vọng nầy tiêu tan rồi lại nối liền hy vọng khác, thành thử chỉ sống trong giả cuộc mà lụy thân vì bị kềm hảm trong giả cuộc.
Thiết nghĩ tình đời thế sự như trên là để tỏ ra bề ngoài cái chủ định bên trong của thiên hạ hằng mong thoát ly trần khổ mà lại tìm những giải khổ với ước vọng khô khan từ năm này sang năm nọ.
Giờ luận về bình diện tôn giáo, kẻ tu sĩ trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ý thức rằng lễ nghinh Xuân là lễ thức nghi với thuần phong mỹ tục nhà Nam nên tưng bừng đón rước hàm xúc cái ý nghĩa mượn sự việc vần xây với thời tiết và mùa Xuân là mùa tốt đẹp nhứt trong bốn mùa, để làm đà canh tân đời sống phức tạp theo quan niệm phàm phu làm đời sống thanh bình theo chơn pháp. Thần Thánh Tiên Phật căn cứ vào Đạo đức làm bùa hộ mạng và lập quyền nặng độ đời.
Vậy thì nhập Đạo rồi, chúng ta nên cố gắng tìm hiểu huyền vi của Đạo trong mọi hành tàng mới chẳng uổng công phu tu luyện.
Nhơn đây, tôi xin lưu ý quí bạn bài thi sau nầy của Thiêng liêng giáng dạy để phòng ngừa sự thất bại trên đường tu niệm của người dương thế.
Kính Tỉnh Trưởng và quí Quan khách,
Hân hạnh Đại diện Hội Thánh, tôi xin để lời cám ơn quí vị có tâm nhiệt thành đến đảnh lể Đức CHÍ TÔN trong ngày đầu Xuân Ất Tỵ và tôi xin cầu chúc Tỉnh Trưởng cùng quí Quan khách được Đức CHÍ TÔN và các Đấng Thiêng Liêng phát hạ hồng ân cho quí Ngài được thọ tỷ nam san phước như đông hải.
Với sự hiện diện của quí Ngài nơi đây cùng chúng tôi tạo một bầu không khí tương thân tương đắc khắn khít Đạo Đời, ấy là kiết nhựt tân niên sẽ nối dài chuổi ngày vui tươi trong hạnh phúc giữa chánh quyền và giáo quyền.
Kính Hội Thánh và toàn thể bổn đạo,
Nhơn danh Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài tôi xin để lời cầu chúc cho tất cả anh chị em được Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU ban ân lành cho mỗi vị được mẫn đạt huệ thông, sức khỏa dồi dào và trọn năm vui vẻ.
Nối theo lời cung chúc này tôi xin đồ lại cho quí bạn làm kỷ niệm đầu năm bài thi dưới đây của nữ Phật Bát Nương Diêu Trì Cung để làm may duyên cho năm Ất Tỵ.
THI (Ngày 29 tháng chạp Quí Dậu (12.2.33)
Mầng nhau vì thấy giúp nên nhau,
Mầng Đạo từ đây đẹp vẻ màu.
Mầng xác chí linh thêm mảnh lực,
Mầng thần chân lý đặng danh cao.
Mầng duyên nhân loại đường tu vững,
Mầng phước nguyên hồn chẳng chút hao.
Mầng Đạo từ nay nâng thế giới,
Mầng nền chánh giáo trở thanh cao.