|
MỤC LỤCLời Nói Đầu1. Bồng lai tiên cảnh 2. Diện kiến thiên cung 3. Lục long phò ấn 4. Ấn tý ấn tâm 5. Đoạ tam đồ, bất năng thoát tục 6. Nước Thánh 7. Luyện cam lồ thuỷ 8. Long tu phiến 9. Cô Đoàn Ngọc Quế 10. Huyền diệu cơ bút 11. Đền Thờ Phật Mẫu tương lai 12. Thánh lâm phàm |
Chẳng hạn, Thiên Chúa Giáo tin là Đức Mẹ Maria đồng trinh nhưng Đạo Tin Lành thì hiểu ngược lại. Người Trung Hoa cho rằng Đức Lão Tử xé nách người mẹ mà chào đời. Tín đồ thì mặc nhiên công nhận. Người ngoại giáo thì lập lờ bán nghi.
Thế nên, ta mới thấy đường ranh giữa tín ngưỡng và mê tín chỉ bằng sợi tóc. Vì vậy suốt những năm dài nghiên cứu về Đạo Cao Đài, người viết cũng thấy được "Những mầu nhiệm" đó, nên để vào ngoại sử mà chép thành quyển Đại Đạo Bí Sử này. Tin hay không tin là quyền của độc giả và đồng đạo vì người viết theo chân lý Đức Khổng Tử "Thuật nhi bất tác", kể lại mà không sáng tác. Bởi lẽ, nghe kể mà ghi chép lại nên chắc chắn nếu có nhiều chỗ dị ý, dị bản.
Một buổi sáng lối 8 giờ, vào năm 1921, ông đương ngồi trên võng, bỗng thấy trước mắt cách xa độ hai thước, lộ ra con mắt thiệt lớn rất huyền diệu thiêng liêng, chói ngời như mặt trời, ông lấy làm sợ hãi, lấy hai tay đậy mắt lại. Chừng 30 giây, ông mở mắt ra thì thấy con mắt cũng còn và lại chói sáng hơn nữa. Ông liền chấp tay vái rằng : "Bạch Tiên Ông, đệ tử biết rõ huyền diệu của Tiên Ông rồi. Đệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì". Vái xong thì con mắt lu dần rồi mất. Sau khi ông tu học được ba năm. Tiên Ông khen ông tu kỹ. Một hôm Tiên Ông giáng cơ ban cho ông một đặc ân, tự ý ông chọn thì sẽ ứng hiện tức thì. Ông mới bạch : "Bạch Thầy nghe nói cảnh Bồng Lai đẹp vô cùng Thầy có thể cho đệ tử thấy cảnh ấy được không ?". Cơ gõ một cái chớ không trả lời.
Ít lâu sau vào một buổi chiều, cuối tháng giêng năm Giáp Tý (2-1924), Ông ra đứng hóng gió và lên Dinh Cậu nhìn ra khơi biển Phú Quốc. Bất thần nơi chỗ trời biển giáp nhau lộ ra một cảnh rất xinh đẹp. Cảnh này vừa tan biến thì cảnh khác hiện ra ngay. Sau rốt, ông thấy một cảnh có Thiên Nhãn, trên xổ ngay xuống một hàng có 3 chữ Nhựt, Nguyệt, Tinh ngoạn mục vô cùng. Ông xem mê mẫn tinh thần. Lối chừng 15 phút thì cảnh ấy lu mờ dần rồi mất.
Về sau, phò cơ ông mới được Tiên Ông cho biết cảnh ấy là Bồng Lai. Do đó ông mới bảo người đệ tử là Đốc học Thới vẽ lại cảnh ấy mà thờ.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc ( 1890 - 1959) người làng An Hoà, Tây Ninh đã nhiều lần về chầu Thượng Đế nhưng có hai lần quan trọng nhất. Lần thứ nhứt vào năm 1907 và lần thứ hai lúc được ân phong mà Ngài chưa nhận nên Đấng Chí Tôn dùng huyền diệu cho Ngài về Bạch Ngọc Kinh để biết ngôi vị thiêng liêng và nhiệm vụ cao trọng của Ngài trong nền Tân Tôn giáo.
Năm 17 tuổi ( 1907), Ngài thiếp đi một lần để diện kiến Thiên cung. Nhờ đó mà Toà Thánh Tây Ninh xây đúng mẫu mực Thiên đình. Lần thứ hai Đức Ngài viết "Tam Thập Lục Thiên hồi ký"
Đêm rằm tháng giêng năm Đinh Mùi, Ngài nhìn ánh trăng hư ảo khẽ ngâm bài "Nhân Nguyệt vấn đáp" rồi tâm dần dần tê mê theo cơn gió nhẹ ru. Khi mở mắt ra, Ngài thấy chan hòa một thứ ánh sáng huyền diệu mà Ngài đang lửng chửng trên đường bằng phẳng, sạch sẽ và trắng như tuyết.
Bỗng thấp thoáng đằng xa đi lại một vị sư già, mặc áo cà sa vàng, nét mặt từ bi và cất tiếng hỏi :
- Em có nhớ qua không ?
Ngài nhìn vị sư , chợt nhớ ra vội đáp :
- Dạ nhớ .
Vì năm lên mười tuổi theo học chữ Nho, thường hầu Thầy đi cân thuốc ở tiệm Đức Vọng chợ Tây Ninh, Ngài đã gặp vị sư này bàn với Thầy Ngài về tướng Ngài như vầy : "Cậu bé này vào bậc siêu phạm, sự nghiệp vô cùng cao cả"
Vị sư già đưa Ngài đến 1 tòa lâu đài màu trắng tin và bảo Ngài :
- Em chờ qua ngoài này, qua vào trong một chút nhé.
Ngài chờ lâu quá không thấy vị sư trở lại bèn vừa kêu vừa gõ cửa, vẫn không ai trả lời. Ngài mới đi vòng quanh thấy nhà có 8 góc và 8 cửa đều giống nhau đóng kín mít. Nhìn kỹ, Ngài mới nhận ra mỗi cửa đều có 1 con đường trắng chạy về phía chân trời xa. Trong lúc băn khoăn chưa biết chọn con đường nào, bỗng ở phía có bóng đèn lòe sáng, Ngài liền phăng tới, gặp 1 tòa nhà mà cửa vẫn đóng. Ngài gõ liên hồi mấy tiếng, không thấy ai trả lời. Ngài bấn loạn muốn thối chân thì 1 tiểu đồng xuất hiện và chỉ ngay vào mặt Ngài mà nói :
- Anh có phải là anh Tắc không ?
- Sao em biết qua ? Cậu bé mỉm cười
- Sao tôi lại không biết. Thầy đợi anh trong nhà.
Ngài ngạc nhiên hỏi :
- Thầy là ai hở em ?
- Rồi anh sẽ biết. Nói xong tiểu đồng bước vào nhà.
Ngài bước theo gặp con kim mao hẩu nằm ngang, ngần ngại nên tiểu đồng cười giục :
- Có gì mà sợ, nó không cắn đâu. Anh cứ theo tôi, đừng ngại gì cả.
Ngài vừa bước qua, cửa tự động đóng lại. Ngài và chú tiểu đứng trong hành lang rộng mênh mông. Theo chiều dài hành lang có 5 phòng lớn, mỗi phòng có 1 cửa đóng. Chú tiểu đưa Ngài đến cuối phòng và dặn :
- Anh chờ đây. Lúc nào Thầy kêu tôi sẽ cho anh hay.
Chờ lâu quá sốt ruột, phần sợ con kim mao hẩu, ngài bạo dạn gõ cửa. Chú tiểu nghe tiếng gắt gỏng :
- Anh làm vì rối thế ? Anh nhát quá, thôi ở đây mà chờ Thầy.
Ngài ngắm xung quanh phòng, thấy dài đến 20 thước, rộng 10 thước, bốn mặt tường và nền nhà là 1 khối cẩm thạch phẳng liền cực đẹp … Từ ngoài 1 ông già cao lớn, mặc áo xanh, râu tóc bạc trắng bước vào phòng. Ngài chấp tay xá. Nhìn kỹ, Ngài nhớ ra, ông già này là người đi với nhà sư mà Ngài đã gặp trong tiệm thuốc Đức Vọng. Ông đi thẳng lại chiếc ghế bành ung dung ngồi xuống và bảo Ngài :
- Con ngồi xuống đi.
Trước nhứt, ông già hỏi thăm về gia đình nhưng trừ người chị thứ tư đã mất không hỏi, làm Ngài ngạc nhiên vô ngần. Sau lúc phê phán từng người trong gia đình, ông già gọi tiểu đồng
- Con đem bánh cho anh con ăn
Tiểu đồng mang và đặt trước mặt Ngài một đĩa bạc lớn, trên đựng đầy bánh hơi bốc lên thơm phức. Các chiếc bánh bột lọc hình tròn, nửa đỏ nửa trắng, xếp theo hình nón. Ngài được ông già mời ăn và uống nước bằng tô lớn vàng ròng. Đợi Ngài ăn xong ông già trầm ngâm nói :
- Hôm nay con ăn hai cái bánh rưỡi và uống 1 tô nước. Những thứ đó sẽ ám hợp vào đời hành đạo của con sau này. Nếu Ngài ăn hết ba cái bánh ( tượng trưng Tam giáo) thì việc Đạo đã xong, nhưng Ngài chỉ ăn có hai cái rưỡi ( chọn lọc) tức là chưa xong, ứng với quẻ 64 Hỏa Thủy vị tế trong việc Đạo biến hóa vô thường mà Ngài phải lo liệu sau này.
Ngài tạ từ ông già, nhưng nhớ đến con kim mao hẩu. Ngài vái xin con vật đó. Ông già tỏ vẻ ưng lòng và đáp :
- Con cứ về đi, sau này nó sẽ xuống với con.
Khi trở ra, Ngài bước lên lưng con kim mao hẩu và đạp lên mông thì cánh cửa tự mở. Lúc đến tòa lâu đài 8 góc, tiểu đồng từ tạ :
- Bây giờ em chưa thể cùng đi với anh được. Sau này thầy sẽ cho em xuống với anh. Thôi anh về đi
Ngài sực nhớ đi chơi quá lâu, vội chạy nhanh về, vô ý vấp phải mô đất, té lộn đi 1 vòng. Ngài giật mình tỉnh dậy, thoang thoảng bên tai tiếng khóc vang dậy, mở mắt ra thấy mọi người tấp nập chung quanh mình. Kẻ thì kéo tóc, người thì giựt tay, gọi tên Ngài ầm ỹ.
Ngài chờn vờn ngồi dậy như nói trong mơ : ỹ
- Con chó tôi đâu rồi ? ỹ
Người người ngơ ngác, nhưng Ngài lại nhớ đến con kim mao hẩu trong giấc mộng dài diện kiến Thiên cung.
( Tam thập lục Thiên Hồi ký)
Jeanine Anboyer trong quyển "Mỹ thuật Viễn Đông" nhận định rằng : Người VN đã biết chọn những cảnh thiên nhiên đẹp nhất để xây dựng những công trình thờ cúng của họ ( Les arts de I' Extrême Orient. Pario 1948 trang 83). Đó là lối kiến trúc cổ VN theo lối kiến trúc cảnh vật hóa ( Architecture VayAagec ) một tu sĩ Nhật Bản cũng cho rằng Toà Thánh được xây cất trên suối ngầm chảy qua 6 cửa gọi là "Lục long phò ấn" hay "Lục long kết tụ". Vùng đất này rất phát triển về Đạo pháp và nhân tài (Huỳnh Minh, Tây Ninh xưa và nay, Sài Gòn 1972, trang 177).
Viễn cảnh Toà Thánh Tây Ninh về phía Đông (cung Chấn) gối lên giồng Sân Cu (đất lành) , mặt trước phía tây ( Cung Đoài) trông ra sông Vàm Cỏ Đông. Phía tả (Nam) Thanh long nước sông Cẩm Giang - Bến Kéo chảy cuộc quanh . Đó là điểm kết long mạch, sách lỗ Ban Kinh gọi là hàm rồng. Phong thủy dương âm hội đủ Cận Cảnh, hồ Động Đình ( bàu Cà Na) nước chảy không ngừng ( pháp luân thường chuyển) vào rạch Ao Hồ Tây Nam ( câu). Hai bên trái phải Toà Thánh là hai cánh rừng Thiên nhiên xanh biếc hài hòa cảnh trí. Phía Bắc (cung Ly) suối Lâm Vồ. Phía Đông Bắc (cung Tốn) là Suối Đá. Phía Đông ( cung Chấn) Suối Cái chảy về Nam ( cung Khảm) qua Đoạn Trần Kiều, Suối Con lươn ra Giải khổ Kiều, bốn suối hợp sức tưới mát và bao quanh vùng Thánh địa, hợp với sông Vàm Cỏ Đông, Cẩm Giang mà kết tụ Lục Long Phò Ấn. Biểu hiện Tay Long (dương), Tay Hổ (âm) không đối lập nhau mà còn hòa hợp lẫn vào nhau nhiều lần viễn cảnh như cận cảnh. Bên trái (Thanh Long), bên phải (Bạch Hổ) thế sông núi châu đầu vào nhau như hình móng ngựa ( đại kích! ). Địa thế Lục Long phò Toà Thánh đó, không đâu tốt đẹp bằng.
Về Lục Long, trong kinh dịch, Chu Công giải nghĩa 6 hào của quẻ Thuần Càn ( ) thành 6 rồng như sau :
HÀO ĐẦU : Rồng còn ẩn náo chưa ( đem tài) hàng được (tiềm long vật dụng) tức rồng còn dưới vực sâu chưa lên mây nên chưa biến hóa được. Ý nói người chưa gặp thời thì nên trau giồi hạnh phúc, luyện thành tài trí, ở ẩn không cầu danh, không ai biết mình thì cũng chẳng buồn.
HÀO HAI : Rồng đã hiện ở cánh đồng ra mắt đại nhân thì lợi ( hiện long tại điền lợi kiến đại nhân). Người giúp đời mà không khoe công lao, giữ lòng thành tín và được trung chánh gặp đại nhân thì lợi.
HÀO BA : Người quân tử suốt ngày hăng hái đến tối vẫn còn thận trọng , dù nguy hiểm mà không tội lỗi ( quân tử chung nhật, càn cân tịch tịch nhược Lệ Vô Cửu). Người quân tử giữ lòng trung tín mà tiến sức lập ngôn lấy lòng thành lập sự nghiệp. Ở địa vị cao mà không tự kiêu, ở địa vị thấp mà không lo lắng .
HÀO BỐN : Như rồng có khi bay lượn, có khi nằm vực, tùy thời mà không lầm lỗi ( hoặc được tại uyên vô cửu).
Thận trọng tùy thời cơ, nên tiến thì tiến (như rồng bay nếu không thì chờ đợi (rồng nằm vực) chuẩn bị cho kịp lúc ra giúp trời.
HÀO NĂM : Rồng bay trên trời ra mắt đại nhân thì lợi (phi long tại thiên lợi kiến đại nhân). Mây bay theo rồng, gió bay theo cọp. Ý nói Thánh nhơn ra đời người người trông theo.
HÀO CUỐI : Rồng lên cao quá có hối hận (kháng long hữu hối). Rồng bay quá khó xuống, nếu hành động sẽ xảy ra điều đáng tiếc vì cực thịnh tắc suy nên lui bước để giữ đạo người quân tử .
" Thời thừa lục long dĩ ngự thiên"
Đức Lý Thái Bạch giáng dạy về Lục Long phò ấn như sau :
Chấp tay bắt ấn là sao ?
Hữu vi nguyệt, tả vi nhứt, vị chi âm dương. Aâm dương hiệp nhứt phát khởi càn khôn, sanh sanh hóa hóa
Trong năm ngón tay, ngón áp út còn gọi là ngón vô danh. Chỉ cảnh tượng Trời đất lúc chia phân. Vô danh Thiên địa chi thỉ. Đến hội Tý thì cõi trời lập vì Thiên sanh vi Tý. Theo thập nhị địa chi thì cung Tý tại góc ngón vô danh.
Ngón cái gọi là mẫu chỉ, biểu tượng sau khi tạo thiên lập địa, vạn vật có tên. Hữu danh vạn vật chi mẫu.
Vậy ngón cái là mẫu chỉ, ngón trỏ là thực chỉ, ngón giữa là trung chỉ, ngón áp út là vô danh chỉ, ngón út là tiểu chủ.
Muốn bắt ân tý, trước khi chấp tay phải dùng ngón tay cái của tay trái ( mẫu chỉ) ấn vào cung Tý góc ngón áp út (vô danh chỉ) cũng của tay trái. Còn tay phải ngón cái của tay trái chỉ vào cung Dần của tay trái. Bốn ngón còn lại của tay trái bao ngoài tay trái thuộc dương có ngón tay mặt chỉ vào. Còn tay mặt thuộc âm có tay trái ở trong phù hợp với kinh dịch : "Âm nội hữu chơn dương, dương nội hữu chơn âm. Âm dương lưỡng cá tứ năng hữu kỷ nhơn tri"
Khi xá phải hợp với Đại Tam Tài. Tay đưa lên trán : Kỉnh Trời, xá sâu tới gối; Kỉnh đất, thu về ngực ; kỉnh nhơn.
Ấn tâm hay tâm ấn là gì ? Đó là ấn truyền bí pháp cho hành giả thiền định. Ngón cái chứa sinh lực; ngón trỏ và ngón út xuất điển quang, chống phá và xua đuổi tà điển. Ngón giữa và ngón áp út thu điển quang, nhận điển thiêng liêng, thu huyền khí.
Như vậy, ấn tâm là co ngón giữa và ngón vô danh lại (thu điển trời đất), ngón cái đè lên 2 ngón này để tạo nguồn sinh lực dồi dào. Còn 2 ngón trỏ và út duỗi ngay ra xuất điển xua đuổi tà mị.
Lời thề ấy nghe như trái ngược tuyên ngôn của Ngọc Hư Cung : "Đại ân xá, tận độ chúng sanh". Cái chìa khóa của câu trên là "Hộ Pháp đọa tam đồ" mà kỳ ba phổ độ có Hộ Pháp, người giữ gìn Pháp luật, Ngài buộc tội thì Ngài cũng có quyền ân xá.
Trước hết, ta tìm hiểu Tam đồ là gì ? Đó là ba đường đi, ba cõi hành hạ kẻ phạm thiên điều.
Vậy Tam đồ là ba nơi hành phạt gồm : địa ngục, ngạ qủi, súc sanh khó thoát tục. Thật ra, ai lỡ phạm thiên điều cầu khẩn nơi Đức Hộ Pháp, ăn năn hối lỗi nhờ Ngài mở huệ quang khiếu bằng cách :
- Văn Kinh : Dạy nghe Kinh, đọc Kinh đi cúng kiến thường xuyên : "Lễ bái thường hành tâm đạo khởi"
- Tư Kinh : suy xét những nghĩa lý trong kinh vì đọc kinh phải tầm lý, không hiểu nghĩa dễ bị u mê sai lạc.
- Thiền định : Phải tu tịnh ít nhất ngày một lần để tiếp điển lành của các Đấng Thiêng Liêng.
Nhờ đó, khi hào quang của Đức Phật chiếu tới trí tuệ ta mới tiếp nhận khai khiếu, dù lúc đó ở trong cõi Tam đồ cũng được giải thoát ngay.
Như thế, chìa khóa "đại ân xá, tận độ chúng sanh" được mở ra, nếu ta biết ăn năn và tu luyện kiếp sanh trở nên tốt đẹp
Con ngựa Cantaka của Đức Phật Tổ cở lớn và dài, nên Đức Cao Thượng Phẩm phải kết hai cái xe bò lại để dễ chở. Viên Chánh Tham biện tưởng Đức Cao Thượng Phẩm tụ tập dân chúng mưu sự gì nên cho quân lính kích hai bên đường. Dọ Thám cho biết Đức Cao Thượng Phẩm chỉ di cốt Phật Tổ chớ không làm gì khác nên họ giải tán
Bửu tượng Đức Phật Tổ đặt giữa hai cụm rừng Thiên Nhiên. Mặt hướng về nước Cao Miên. Tay che trán như chờ đón cả dân tộc này. Tượng biểu hiện Thái tử Sĩ Đạt Ta rời bỏ hoàng cung đi tu, phía sau có Sa Nặc chạy theo chắp tay xúi Ngài trở lại.
Người Cao Miên thì cho pho tượng Phật Tổ cỡi ngựa đó là vị Thái Tử của nước họ đã chuyển hóa giúp dân họ hồi đầu hướng thiện. Vào buổi sáng mình ngựa đầy mồ hôi. Họ cố công hứng lấy nước mà uống chữa được nhiều thứ bịnh. Vì vậy, họ về nước đồn lên khiến hàng vạn người lũ lượt kéo đến Toà Thánh làm công quả phá rừng cất chùa mới.
Công quả giúp phá rừng quá đông. Đạo chưa tạo được cái nhà nào phải nấu ăn và ăn uống giữa trời. Thế mà người công quả lục tỉnh, Nam Vang ngày càng mỗi về đông.
Thiếu mọi phương tiện phòng bịnh, thuốc thang không có. Đức Cao Thượng Phẩm xin Đức Chí Tôn ban bí pháp luyện Cam Lồ Thủy mà dân Đạo quen gọi là NƯỚC THÁNH
Chưa có đền thờ nên Đức Cao Thượng Phẩm hành pháp giữa trời . người xin nước Thánh đem chai xếp hàng trên bàn. Mỗi khi làm phép trấn thần xong là múc vào chai của ai nấy lấy đem về uống. Nhờ có huyền diệu Thiêng Liêng nước Thánh trị được bá bịnh. Tiếng lành đồn xa, công quả các nơi tập nập kéo về. Nhờ thế rừng cấm không bao lâu trở thành mảnh đất bằng phẳng. Toà Thánh tạm bằng tranh được dựng lên. Đó chẳng phải nhờ huyền diệu thiêng liêng, ơn trên giúp sức sao? mà nước Thánh chỉ là phương tiện để giúp đại thành cứu cánh ngôi Bửu điện.
Thiên Nhơn hợp nhất hiện rõ từ đầu.
Nhiều chức khác như : Đức Cao Thượng Phẩm cũng được truyền nhiều bí pháp như truyền thần, tẩy trược trị bịnh, giải thể .
Có nhiều bí pháp không được truyền bá và nhiều bí pháp chưa được áp dụng trong giai đoạn này. Người thọ bí pháp phải là chức sắc, hoặc người trưởng trai. Khi hành pháp thì được các Đấng Thiêng Liêng ám trợ, đưa đến những kết quả bất ngờ, ngay cả người hành pháp cũng không lường được. Chẳng hạn vào 1935 tại Kgchnang (Campuchia) tín đồ Duyên ( nay là chức sắc ) phát cơn đau bụng thuốc thang đều vô hiệu. Thân nhân đưa đến Thánh Thất Nam Vang, ông Cao Tiếp Đạo làm phép giải bịnh cho ông , ông run rẩy và uống chung nước Thánh liền mửa ra bảy cây đinh, rõ ràng ông bị thư từ lâu.
1. Phép luyện Ma Ha Thủy
Tắm Thánh hay giải oan phải có Ma ha Thủy. Ma Ha Thủy là nước sông Hằng nơi Đức Thích Ca tẩy trần đạt Đạo.
Muốn luyện nước Ma Ha, ta lấy một tô nước để trước Thiên bàn. Người hành pháp thân ngó ngay thiên nhãn và lấy mắt mà vẽ chữ Phật trong con ngươi của Thiên nhãn, co chơn trái lên vẽ chữ Pháp đạp lên chữ ấy, rồi rút chơn mặt lên viết chữ Đinh gọi là Đinh giáp.
Hành pháp xong, tay trái bắt ấn Hộ pháp để ngay ngực, tay phải cũng bắt ấn Hộ pháp để trên tô nước, buông ấn ra rồi ngón tay giữa vẽ chữ bùa Tam Thiên. Đoạn xòe tay ra truyền thần xuống nước niệm chú " Ma Ha Thủy vàng hủy oan nghiệt tội chứng chi đọa". Nhắm mắt, định thần đợi thấy Thiên nhãn giáng trên mặt nước thì xả ấn. Như vậy là Ma Ha Thủy đã được luyện thành.
Khi thực hành cầm chén Ma Ha Thủy rót lên đầu chảy xuống tô được hứng phía dưới để cho người giải oan hay đứa trẻ tắm Thánh rửa mặt.
2. Pháp luyện Cam Lồ Thủy :
Hành phép xác phải có Cam Lồ Thủy. Cây dương nơi Lôi Aâm Tự , mỗi chót lá đọng lại một giọt sương là một sinh mạng con người, nếu giọt sương rơi thì người phải chết.
Muốn luyện nước Cam Lồ, ta đặt tô nước trước thiên bàn rồi lấy 2 chung nước âm dương xáp lại cho âm dương ký tế vừa rót ngay xuống tô vừa niệm thần chú : "Cam Lồ thủy năng hủy trước kiếp ở sinh oan nghiệt tội chướng chi đạo" hễ dứt câu niệm là dứt giọt nước. Đoạn tay trái bắt ấn Hộ pháp để ngay ngực, tay mặt cũng bắt ấn Hộ pháp chụp lên miệng tô, co ngón tay giữa vẽ chữ bùa Tam Thiên trên mặt nước, rồi xòe tay ra truyền thần xuống mặt nước. Đoạn nhắm hai mắt định thần, hễ thấy Thiên nhãn giáng trên mặt nước thì giựt tay ra ( xả ấn). Như vậy là Cam Lộ Thủy được luyện thành .
Khi làm phép hành xác, tay trái cầm chén Cam Lồ Thủy , tay mặt cầm nhành dương nhúng vào nước Cam Lồ rồi vẫy xung quang thi hài ( định thần thấy thi hài chứ không thấy quan tài)
Bà Tư Hương Hiếu cai quản phòng trùø, ngoài việc lo ăn uống cho công quả còn may thiên phục cho chức sắc Thiên phong.
Ưu tú nhứt là bà làm chiếc Long Tu Phiến cho Đức Cao Thượng Phẩm đúng như lời Đức Chí Tôn giáng dạy. Long tu là râu rồng, phiến là quạt; tức là quạt râu rồng, nhưng thật sự chỉ làm bằng 36 lông cò trắng kết thành.
Đức Cao Thượng Phẩm giải thích về Long Tu Phiến như vầy :
Vì lẽ đó mà bà Tư truyền rao trong giới công quả, ai có lông cò trắng đem hiến với 2 điều kiện là : 1/ Lông cò lỵ ( tự chết), 2/ Lông cò nuôi chớ không được bắn giết.
Sau đó, có người Tà Mun đem tặng Bà Tư 18 lông cò trắng. Anh ta thưa với bà Tư:
- Cây dầu trước nhà tôi, cách tháng nay có cặp cò đến ở. Bỗng nhiên, hôm qua con cò trống giãy chết. Tôi chỉ lựa được 18 lông tốt, còn những lông khác lem luốc không lấy được.
Hôm sau, vợ anh đó lại đem đến cho bà Tư 18 lông cò mái. Chị ta nói :
- Tội nghiệp đôi vợ chồng nhà cò quá. Làm ổ chưa đẻ đã chết. Tôi chôn cả hai xác dưới góc dầu, chớ không dám ăn thịt vì chim sa cá lỵ linh hiển lắm.
Ngay đêm hôm đó, bà Tư thấy cậu Cao Quỳnh An về thăm có dẫn theo người bạn gái có cái mũi thật cao. Cậu An nói :
- Thưa mẹ, con xin trả lại xương cốt cho mẹ và xin ba giúp đưa con vào cõi Cực Lạc.
Nghe đến đó, bà Tư giựt mình, mồ hôi ướt đẫm. Bà nhủ thầm, nhớ lời dặn của Đức Cao Thượng Phẩm : "Âu cũng là số kiếp. 18 lông cò trống tượng trưng cho cơ thu thuộc dương, 18 lông cò mái tượng trưng cho cơ xuất ( đẩy) thuộc âm. Đạo Đức Kinh có viết " Nhất âm, nhất dương chi vị Đạo". Ta thuộc chi Đạo, như vậy là hợp lẽ thiêng liêng".
Điều đó chứng tỏ ngay cả bà Tư cũng chưa thấu hiểu cơ huyền vi trong 36 lông cò trắng gồm có 18 lông dương và 18 lông âm.
Vào năm 1949 sau ngày lễ xuất quân, một nữ thư ký đến hỏi bà Tư :
- Thưa bà, bà dạy con cái quạt chỉ có 36 lông cò, sao mấy ông quân đội bông mỗi mặt tới 36 lông
Bà Tư ôn tồn đáp :
- Nếu lông cò tượng trưng một mặt 36 lông có thì không sao.
- Dạ tới hai mặt. 72 lông cò .
- Như vậy, ta đã cầu thất thập nhị địa sát tới rồi. Họ sẽ nhập vào tướng tá mà quấy nhiễu khó lường trước được.
Bà Tư âu lo. Sau đó ít lâu bà lên trình với Đức Hộ Pháp xin đưa quân đội ra khỏi nội ô mà vẫn không tránh khỏi nạn phản thầy trừng đạo do tướng Nguyễn Thành Phương cầm đầu.
Tên Đoàn Ngọc Quế chỉ là tên mượn ( tá danh), tên thật của cô là Vương Thị Lễ, nhưng tầm nguyên còn nhiều bí hiểm hơn nữa. Kiếp trước cô là một công chúa con 1 vị vua bên Tàu, nhưng vì : "Ngỡ trau duyên vào ngọc các; nào dè phủi nợ xuống tuyền đài", nên còn vướng bụi hồng trần phải tái sanh vào gia đình Tổng đốc họ Vương ở Việt Nam. Nhưng vẫn không tròn câu tình ái.
Khi cô mang bệnh nặng. Gia đình rước bác sĩ thuốc thang cho cô và có hứa : nếu trị lành bệnh sẽ gả cô cho bác sĩ. Nhưng vì không phải duyên nợ , cô biết rõ được việc ấy, nên lúc bác sĩ đến săn sóc cho cô; cô uất lên mà chết.
Vào năm 1925 ( 10 - 6- Ất Sửu), ba ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn tại nhà ông Sang. Sau khi cầu cái bàn lay động 1 cách khoan khai, dịu dàng như 1 tiên nữ. Quả đoán không sai 1 linh nữ giáng đàn cho bài thi :
Đó là bài thơ đầu tiên cô Đoàn Ngọc Quế ban tặng quí ông để dẫn dụ vào con đường tầm thầy học đạo. Cũng đêm đó, ba ông hỏi cô bịnh chi mà chết, cô cho bài thi như vầy :
Hai bài thơ này đúng với điều đã dẫn trên. Ba ông vẫn chưa rõ ngọn nguồn, nhưng vì thấy bài thơ tình tứ hay nên họa vận.
2- Rặng liễu khóc oanh có mấy ai
Mộ người quốc sắc đấng thiên tài
Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các
Xót bạn tri âm cõi dạ đài
Ngàn dặm hoa trôi sâu cụm trước
Một mộ cỏ láng ủ nhành mai
Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai
Cao Quỳnh Cư
3- Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai
Nông nỗi nghĩ thôi tiếc mấy tài
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt
Vàng rơi riêng chạnh khách chương đài
Những ngờ duyên thắm trao phòng bích
Hậu nỗi xương tàn xủ dậu mai
Mật dãy đồng tâm bao thưở nối
Nữa chừng xuân gãy tủi thân ai
Cao Hoài Sang
Rồi ông Cư hỏi cô Đoàn Ngọc Quế :
- Hồi còn tại thế xứ ở đâu ?
- Ở Chợ Lớn, cô đáp
- Cô học ở đâu ?
- Học trường đầm
Hôm sau, ba ông mời cô Đoàn Ngọc Quế đến dạy làm thi và hỏi việc ở cõi vô hình. Vì đó, cô bố trí cho các ông hạm việc Đạo. Cứ đêm đêm ba ông đều cầu cô giáng, nhưng khi thì cô giáng, khi thì các đấng giáng.
Về sau chỉ mồ cô, các ông tìm được càng tin hơn. Cô gọi ông Cư là anh cả, ông Tắc là Nhị ca, ông Sang là Tam ca, cô là Tứ muội.
Vào hạ tuần tháng 7 - Ất sửu (1925) ba ông xây bàn cầu cô dạy thi văn, nhưng rất lạ, một đấng giáng xưng là A, Ă, Â cho bài thi dưới đây :
Các ông trách cô trước đây không nói rõ ông A, Ă, Â là ông trời, là Thượng đế mà cứ lừa dần đi sâu vào đường Đạo. Cô biết rõ nhưng không dám tiết lộ thiên cơ vì Thiên đình sắp đặt như vậy.
Năm 1928 Thất Nương giáng cho đôi câu liễn ở Thảo Xá Hiền Cung như sau :
Ngài phò cơ với Đức Cao Thượng Phẩm nên thường cho Đức Cao Thượng Phẩm bày trò viết ra văn vẽ. Đức Cao Thượng Phẩm rất tức nhưng khó trả lời được. Một hôm tại chùa Vĩnh Nguyện Tự, cây cơ treo lên tường bỗng nhiên rung chuyển, Đức Cao Thượng Phẩm mới kêu ngài mà chỉ và nói :
- Tám, coi cây cơ qua đẩy hay nó tự chuyển ?
Ngài cười mà không đáp và cơ tự chuyển như vậy chắc chắn có các đấng muốn giáng đàn dạy việc.
***
Ông Lê Văn Lịch , chủ chùa đến bảo mấy ông rằng :
- Căn phòng này có ma, không ai dám nghỉ, hai ông có thể dọn sang phòng khác.
Nghe thế, Đức Hộ Pháp mới đi vòng quang quan sát căn phòng. Bất chợt ngài thấy một cây cột bị mối ăn lam nham. Ngài đến gần trông kỷ thì thấy có 4 đầu hình người quen thuộc. Ngài mới gọi Đức Cao Thượng Phẩm đến và bình nghị. Mới hay hình trên cùng là Đức Thượng Sanh, hình kế là Đức Cao Thượng Phẩm, hình có khôi giáp là Đức Hộ Pháp, hình cuối là Đức Giáo Tông Ngô Văn Chiêu.
Nên các ông chẳng chút sợ hãi và nghỉ luôn tại phòng đó. Ông Lê Văn Lịch ngạc nhiên hỏi, hai ông mới chỉ cho ông Lịch coi các hình. Ông Lịch lòng còn nghi. Khi Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn ( tức ông Lê Văn Tiểng, thân sinh ông Lịch) giáng cơ bảo ông Lịch đến lấy quyển ống trên ghế thờ đọc lời di ngôn của Ngài : "Tôi xin dâng đệ tử ( tức Thái Lão Sư Trần Văn Thụ sau sắc phong Ngọc Chưởng Pháp) và con tôi (tức ông Lịch sau sắc phong Ngọc Đầu Sư ) cho nền Đạo mới". Nhờ đó, ông Lịch mới thật sự tin theo Đạo.
***
Một đàn cơ khác tại Thánh Thất Liên Hoa Cửu Cung ( Thủ Đức) vào năm 1940, sau khi Đức Thượng Đế giáng, thì một vị hầu đàn ( Chủ tịch Hội Phật Học trứ danh ở miền Nam) liền qùi xuống dâng lên một cái khải ( mật sớ) trong đó viết 6 chữ ; "Nam Mô A Di Đà Phật" và cầu ơn trên minh rõ cái sớ ấy.
Đại Ngọc cơ chuyển động và viết : " Thập nhị tùng lục".
Người dâng sớ nói lớn : "Trật". Đại Ngọc cơ chậm rãi viết :
- Thầy cho phép con khai các mật khải ấy và đọc lớn lên cho cả đàn cùng nghe.
Vị đó tuân lịnh, lấy làm đắc ý và đọc lớn : " Nam Mô A Di Đà Phật"
- Con đếm xem mấy chữ ?
- 12 chữ
- À, 12 chữ ngày hôm nay là do 6 chữ xưa kia mà ra. Trật chỗ nào ?
Vị trên liền sụp xuống lại và xin lỗi.
Trong đàn cơ hôm đó, có tả quân Trần Văn Thành hầu chứng kiến đã được Đức Lý Thái Bạch thâu làm môn đệ từ mồng 7-01-Đinh Mão (1927) tại chùa Gò Kén như sau :
Trần Văn Thàng Tả quân của Thần Hoàng Trần Văn Xương . Trong bài thi, Đức Lý đã tiên tri Trần Văn Thàng thần trong Ban Chư Thần bảo vệ Toà Thánh mà Trần Văn Xương là Thượng Đẳng Thần ( trong quyển Bát Đạo nghị định, Trần Văn Xương là giáng cơ trước tiên nói lên ý nầy). Còn tả quân Trần Văn Thàng được Đức Lý cho mượn gươm tiêu trừ tà ma " Bình thế tục" để "đưa thuyền Bát Nhã" khỏi vòng vây cô hồn. Như vậy, nhiệm vụ của tả quân là bảo vệ các thuyền Bát Nhã đưa linh cửu đến Cực Lạc thổ an toàn.
Trong buổi đầu khai đạo rất nhiều huyền nhiệm. Tiếc rằng, sự mầu nhiệm đó kéo dài không được lâu.
Đức Hộ Pháp dạy về việc đắp chơn dung như sau:
" Hình của Đức Phật Mẫu đắp theo hình chưng cộ bông Cửu Nương lần đầu tiên, vào tháng 8-Đinh Hợi Thầy đã chỉ cho Chí Thiện Trạch, Trần Phong Lưu và Tá Lý Kia cất giữ coi theo đó mà làm mẫu. Hồi đó mượn bức tranh của bà phối sư Hương Hiếu và sự tích đời Hán Võ Đế bên Tàu.
Đức Phật Mẫu có từ thuở khai thiên do khí âm dương tạo thành, có quyền năng vô đối, vô biên, vô lượng cũng như Đức Chí Tôn, hữu hữu, vô vô, nắm trọn bí pháp nhiệm mầu của càn khôn vũ trụ. Chớ không phải là bí pháp biến thành thể pháp do hiện tượng sự tích đời Hán Võ Đế". Đó chỉ là mượn ý tạc hình, chớ Phật Mẫu vốn vô vi.
Thanh Loan là chim lịnh của Đức Phật Mẫu, luôn báo tin trước nơi nào có Đức Phật Mẫu giá lâm, hay chu du càn khôn thế giới.
Theo nhà điểu học Nhật Bản Hachisuka đã viết về hai thứ chim mà Trung Hoa và Nhật bản gọi là phượng (trống) và loan (chim mái) : " Vì sự tương tự nhau, người ta thường lầm hai thứ chim phượng và loan. Thật sự phượng là giống chim thanh cao, ưu thích âm nhạc tượng trưng cho điềm lành, giống chim này chỉ xuất hiện để báo hiệu Thánh nhân ra đời, nên phụng gáy kỳ sơn thì Văn Vương ra đời. Loan cũng là giống chim ngũ sắc nhưng sắc xanh nhiều hơn. Con chim phụng lông cũng ngũ sắc nhưng sắc đỏ nhiều hơn .
Đức Phạm Hộ Pháp nói về việc cầu Phật Mẫu của Hán Võ Đế như sau :
"Tiết Trung thu, rằm tháng 8 năm Ngọ, đầu giờ Tý, vua Võ Đế qùi trước chùa thành tâm cầu khẩn. Đúng 12 giờ thanh loan đáp trước sân Hoa điện. Vua thỉnh Đức Phật Mẫu ngự tại chánh điện.
Đức Phật Mẫu dạy 4 vị nữ nhạc trao 4 quả đào tiên. Đông Phương Sóc và Hán Võ Đế qùi rước lộc." Sự tích đó lưu truyền đến bây giờ.
Việc tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thay cho Hán Võ Đế, Đức Ngài : giải thích :
"Nguyên căn của Hán Võ Đế là Hớn Chung Ly ( trong hàng bát tiên ) giáng sanh thành lập quốc gia. Kỳ hạ ngươn này, Đức Cao Thượng Phẩm cũng là chơn linh của Hớn Chung Ly tái thế lập thành quốc Đạo, nên tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thuận hơn"
Còn tấm tường phía ngoài đối diện với các tượng của Cửu Vị Nữ Phật, thì Đức Ngài cho tạc hình Nam Bình - Dương Phật.
"Chừng nào có đền thờ Phật Mẫu thì Thầy cho biết không gì lạ. Vì Đền Thánh tượng trưng cho Bạch Ngọc Kinh tại thế, có hình Hộ Pháp mặc Thiên phục Khôi giáp; thì nơi Đền thờ Phật Mẫu tượng trưng Lôi Aâm Tự, lẽ dĩ nhiên tạc hình của Ngài, nhưng không mặc Thiên phục, chỉ mặc áo cà sa mà thôi."
"Từ lúc tay nắm đạo quyền" Đức Cao Thượng Sanh tiếp tục xây dựng để hoàn thành kiến thiết cơ bản. Ngài hoài vọng xây Đền Thờ Phật Mẫu, nên chấp bút học hỏi, được Bà Bát Nương dạy :
"Nơi nào trong vùng Đạo không là Thánh Địa ? Sân đình núi Bà, phần đất gần Hàm phong cạnh cửa số 7 Nội ô, đều có thể chọn xây Đền mới được"
Vì theo Đức Cao Thượng Sanh, phần đất trước cửa Hòa Viện ngày nay nhơn sanh ở dày đặc, khó giải tỏa, nên Bà Bát Nương giáng dạy như trên và còn cho biết kích thước Đền thờ mới như sau :
Về kích thước bằng kích thước Đền Thánh về các Đài thì tổng hợp giữa Đền Thánh và Báo Ân Từ, nghĩa là mặt tiền Đền Thờ Phật Mẫu giống như Báo Ân Từ, có khác hơn : Đài giữa gọi là Lôi Aâm Tự cao bằng lầu chuông, trên đỉnh có 3 vòng Tam Thanh. Ngược lại hai đài hai bên thì thấp hơn 6 thước mà hình trụ cụt giống như lầu chuông bị cắt ngang (xem hình). Đài bên phải xây vườn Ngạn Uyển hình mặt nhựt, bên phải xây Ao Thất Bửu hình mặt nguyệt (bên phái nữ). Bốn góc có 4 hình trụ, đỉnh hình cầu giống như đền Hồi giáo (xem hình).
Vườn Ngạn Uyển phải trồng đủ 12 sắc hoa tượng trưng 12 con giáp. Ao Thất Bửu phải cẩn đủ 7 loại báu qúi : pha lê, xà cừ, châu, ngọc, vàng, bạc, đồi mồi .
Ở mặt sau, nơi thờ Phật Mẫu cũng xây Đài Bát Giác như Bát Quái Đài, nhưng gọi là Tạo Hóa Thiên hành khiển Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh , trên đỉnh có tượng Tam Thánh Bạch Vân Động là Thanh Sơn Đạo sĩ, Nguyệt Tâm Chơn Nhơn và Tôn Trung Sơn. Bên ngoại là hình bát giác có 8 chữ Hán : Thạch, Mộc, Thú, Nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật, bên trong nội tiếp đường tròn ( hình trụ trơn) chữ vòng vô vi của Phật.
Toàn thể bên ngoài sơn toàn một màu trắng. Màu Đạo, khi các con về chầu Mẹ đều mặc đồ toàn trắng trừ mái ngói đỏ, xung quanh không được vẽ hình chi. Bên trong Đền Phật Mẫu vẫn trần khiết cách thờ như cũ. Từ Nam Bình Dương Phật đến tượng Phật Mẫu phải có đủ 8 bậc tượng trưng Bát Cảnh Cung. Đền Thánh có 9 bậc là Cửu Thiên khai hóa.
Tấm vách sau lưng Nam Bình Dương Phật , tức mặt trước thì tạc tượng "Thiên Cơ Chuyển hóa" tức lấy sự tích trong 9 bài kinh Cửu mà Hội Thánh Phước Thiện đã vẽ và đã cho xuất bản.
Tóm lại, Đền thờ mới vẫn gọi là Đền Thờ Phật Mẫu mặt tiền có 3 lầu, cao nhứt là Lôi Âm Tự, hai bên có Ao Thất Bửu và Vườn Ngạn Uyển. Tấm vách dưới Lôi Âm Tự có tạc tượng " Thiên Cơ chuyển hóa" ( chỗ mà Đền Thánh tạc tượng Tam Thánh).
Cung thờ Phật Mẫu gọi là Tạo hóa Thiên, đối diện với tượng Phật Mẫu là Nam Bình Dương Phật.
Sau đó, Đức Cao Thượng Sanh giải thích thêm.
Khi Đền Thờ Phật Mẫu cất xong, việc thờ phượng dời đến cơ sở mới thì Báo Ân Từ được sắp xếp lại cho đúng chơn truyền .
Chỗ cũ thờ Phật Mẫu đắp một quả địa cầu sơn màu xanh, trên có đắp hình nước Việt Nam theo chiều dài sơn màu vàng. Tất cả nằm trên nền trắng hình chữ nhựt. Ơû dưới có đặt ghế thờ bài vị hoặc hình ( không đối tượng), các hiền triết, các nhà bác học, các bậc vua chúa có công với nhân loại. Vì tất cả chúng sanh đều do Đức Chí Tôn phân tánh giáng sanh, tuy họ có lập trường có chủ nghĩa khác nhau. Đó chỉ là luật mâu thuẫn để tiến hóa,như có kẻ ác mới rõ người thiện, không có mâu thuẫn đấu tranh thì xã hội không tiến bộ.
Bên trên nền trắng để 4 chữ màu đỏ : "ÐẠI ĐỒNG CHI PHÁP " đó là tôn chỉ của Đạo Cao Đài : Đại Đồng Thế giới do luật pháp Thiên triều đã qui định.
Bên gian trái trên nền trắng đề 4 chữ Hán : "HẢI NGOAÏI CHI THẾ" để thờ chơn linh các bậc Thánh nhân, hiền triết, anh hùng nước ngoài. Các chức sắc chi thế cũng được thờ đây khi đã qui vị.
Bên gian phải, trên nền trắng đắp 4 chữ Hán : "QUỐC NỘI CHI ÐẠO" đó là mục đích của Đức Chí Tôn lập nền quốc Đạo buổi đầu. Gian nầy thờ các nhà cách, chiến sĩ vô danh, các anh hùng hào kiệt nước Việt Nam, các chức sắc chi Đạo cũng được thờ nơi đây khi đã qui vị .
Báo Ân Từ ( có tượng Nhị Thập Tứ Hiếu) là nơi vẫn trần thiết các lễ như từ trước tới nay thuộc quan, hôn, tang, tế hoặc các ngày giỗ chung v.v…
Đức Phật Mẫu đã dạy : "Đạo chia ra ba chi : Thế, Pháp, Đạo. Mình tu cho đúng theo luật, chúng sanh ca tụng công đức là mình đắc thế. Hễ đắc thế thì phải tầm pháp. Nếu hành pháp hiển linh thì đắc đạo, nhập cõi Niết Bàn"
Về việc tiếp nhận Kinh Đức Phật Mẫu thì Đức Hộ Pháp giảng như sau :
"Kinh Phật Mẫu cho tại Kiêm Biên ( Cao Miên) với Báo Ân Đường của Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi ….Bần Đạo đến nhằm lúc cúng vía Đức Phật Mẫu. Bát Nương đến cầu cơ viết có nhiều người làm chứng. Các Đạo hữu và một người không biết Đạo là gì. Đó là ông Hiếu ngồi trước sân chơi. Họ thấy tứ phía đều có hào quang giáng hạ, xẹt xuống Báo Ân Đường. Tới chừng trọn bài kinh rồi cả thảy ( người ngoài sân) đều nói không biết cái gì xẹt khi nãy xẹ qua xẹ lại, không dè trong nhà (Báo Ân Đường ) đương phò loan."
Như vậy, Phật Mẫu chơn kinh do chính Bà Bát Nương giáng cơ cho tại Cao Miên.
Vân Trung Tử là thầy học của Tôn Võ Tử. Tôn Võ Tử hay Tôn Tử, người đời Xuân Thu (Trung Hoa) đứng vào hàng Chư tử, sanh ở núi La phù, thao lược tinh thông. Tuy còn nhỏ mà đã soạn được bộ sách binh pháp gồm 13 thiên : Thủy kế, Tác chiến, Mưu công, Quân hình, Bình thế, Hư thiệt, Quân tranh, Cửu biến, Hành quân, Địa hình, Tựu địa, Hỏa công, Dụng gián. Toàn là những thuật dùng binh, làm căn bản cho những nhà tướng xưa nay trong cõi Á Đông. Ông làm Thượng Tướng quân cho Ngô Hạp Lữ, giúp Ngô đánh Sở. Khi giặc yên, ông trở về điền viên lấy chữ thanh nhàn tiêu dao ngày tháng.
Còn hạc tượng trưng đạo Tiên là 1 loài chim giống như cò nhưng không có mồng. Chim hạc tượng trưng cho sự thanh cao nhàn hạ. Có nhiều giống hạc, thứ qúi là hạc đỏ đầu. Hạc cao 3 thước, mỏ chân cổ đều dài, mình toàn sắc trắng, bay lượng rất nhanh, tiếng kêu thật lớn. Tương truyền hạc sống lâu đến 1.000 năm.
Đức Phạm Hộ Pháp giảng về hai Thầy trò họ Tôn như sau :
"Xưa kia Tôn Võ Tử tìm thầy học Đạo Tiên đã thoát tục. Ngày nọ hai thầy trò cỡi hạc vân du ngoạn mục, Vân Trung Tử nhủ rằng : Đi ngang qua chợ Thiên Vương là cảnh cũ của con, nếu lòng con còn tưởng nhớ thì con hạc bay không nổi, rồi con phải trở lại phàm không về cùng thầy được.
Nhưng Tôn Võ Tử đạt phẩm Nhơn Tiên, mà tránh không khỏi bọn phàm, nên khi con hạc bay qua chợ Thiên Vương, thấy cảnh xưa động lòng ngậm ngùi, con hạc liền đáp xuống.Vân Trung Tử biết học trò còn nhiễm phàm liền đằng vân về động.
Tôn Võ Tử 1 mình ở lại chợ Thiên Vương đi tìm quê xưa , chỉ thấy chòi tranh ủ dột, người vợ xưa tuổi già quá 70, muốn tạo 1 sự nghiệp đời thì đã muộn. Đành cam nhịn lỡ Đạo lỡ đời, ấy vì chẳng chịu nghe lời thầy.
" Con hạc bay về chợ Thiên Vương ( nay là chợ Trường Lưu thuộc xã Trường Hòa) là gương sáng cho các bậc chơn tu, phải cố gắng giữ lòng thanh bạch, dầu có sống lẫn lộn nơi phàm thế mà không nhiễm mới được ? Đó cũng là phương chọn lọc phàm Thánh"
Một số Tiên Phật lâm phàm trong Kỳ Ba là :
Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh ( Nguyễn Ngọc Thơ ) ngươn linh là Từ Hàng Bồ Tát - Tầm nguyên thì Phật Từ Hàng tu đắc Đạo ở Phổ Đà Sơn , "Phổ Đà Sơn giải qủa Từ Hàng" tức Quan Aâm Bồ Tát.
Còn bà Đầu sư Lâm Hương Thanh ( Lâm Ngọc Thanh) ngươn linh của Long Nữ.
Long Nữ vốn là em Đệ Tam Thái tử con vua Long Vương hóa cá dạo chơi, bị vướng phải lưới ông chài. Đức Quan Aâm sai Thiện Tài Đồng tử hóa thường nhơn đến mua cá đem ra Nam Hải thả. Nam Hải Long Vương cám ơn đức, sai con gái là Long Nữ đem tặng Đức Quan Âm một viên ngọc chiếu sáng cả ban đêm. Long Nữ cảm phục quyền năng của Đức Phật nên xin qui y và làm đệ tử Đức Quan Âm.
Vì thế ta thấy ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà Lâm Hương Thanh là đôi bạn đời với nhau vì tiền kiếp đã định.
Sau cùng, cũng nên biết ngươn linh của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là Ngự Mã Thiên Quân tức người đánh xe ( ngự là đánh xe) của Ngọc Đế giáng trần làm Hộ Pháp cầm cây Kim Tiên còn cây Gián Ma Xử trấn ở Thiên môn.