LỜI TỰA
Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thêm
về lịch sử đạo Cao Đài của bổn
đạo trong nước và khắp nơi trên thế giới,
Thừa Sử Lê Quang Tấn (Thánh Thất Sài Gòn) cho phép
chúng tôi xuất bản bản quyền Tiểu Sử Đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc trên đất Mỹ này vào
tháng 4 năm 1992 (Nhâm Thân).
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ Thừa sử Lê
Quang Tấn, đã bỏ rất nhiều thì giờ để
viết lên quyển tiểu sử này.
Và đặc biệt cám ơn sự giúp đỡ
tận tình của anh Huỳnh Hiệp Hòa đả sữa
chữa và bổ sung để quyển tiểu sử này
được hoàn hảo hơn.
Tôi chân thành cám ơn sự cộng tác, lòng nhiệt
tình và tinh thần trách nhiệm cao cả của vợ tôi (Huỳnh
Thị sắc), mẹ vợ tôi (Trần Thị Nga) và 2 ông
anh vợ tôi ( Huỳnh Hiệp Hòa và Huỳnh Chánh Minh).
Việc ấn loát quyển Tiểu Sử Đức
Hộ Pháp này, chúng tôi hoàn toàn tự túc về mọi mặt.
Chúng tôi xin giới thiệu đến bổn đạo
quyển Tiểu sử Đức Hộ Pháp này. Vì kinh nghiệm
biên soạn còn kém, cho nên quyển Tiểu Sử Đức
Hộ Pháp không tránh sự thiếu sót.
Chúng tôi rất mong nhận được những
ý kiến đóng góp và xây dựng của bổn đạo,
để lần xuất bản sau này được tốt
đẹp hơn.
Đinh Tấn Thành
TIỂU SỬ ĐỨC HỘ PHÁP
PHẠM CÔNG TẮC
GIÁO CHỦ ĐẠO CAO ĐÀI TÒA THÁNH
TÂY NINH
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên
và Cửu Trùng, đã trọn hy sinh cả kiếp nhân sanh
cho nhơn loại, thể hiện một Thiên Chức của
bậc vĩ nhân ở thế kỷ 20. Cảnh giác dục
vọng của con người trên thế gian này, hướng
dẫn nhân loại hợp nhất trong giống nòi, trong quốc
gia, trong tôn giáo, đề xướng Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống,
để hòa giải 2 Miền Nam-Bắc Việt Nam, tránh
cuộc phân tranh do ngoại bang áp đặt và dung hòa giữa
2 khối Cộng Sản và Tư Bản từng thề không
đội trời chung, hãy sớm hiểu biết nhau,
tương nhượng nhau, hầu có được Hòa
Bình, Tự Do và Dân Chủ.
Ông Phạm Công Tắc sanh ngày mùng 5
tháng 5 năm Canh Dần (dl.21-6-1890) tại làng Bình Lập,
Quận Châu Thành, Tỉnh Tân An (nay là Long An), là con thứ 8 của
ông Phạm Công Thiện và bà La Thị Đường,
nguyên quán tại An Hòa, Quận Trảng-Bàng, Tỉnh Tây-Ninh.
Thuở thơ ấu, Ông rất
siêng năng học tập, chuyên cần cấp sách đến
trường đúng giờ, được lòng yêu qúi của
Thầy và các bạn đồng lớp. Trong gia đình, ông
được nổi tiếng là một đứa con
ngoan, hiếu thảo với cha mẹ, nhường nhịn
và tôn kính anh, chị, em. Lớn lên trong hoàn cảnh nước
nhà bị lệ thuộc Pháp, ông đã sẵn có ý thức về
nỗi thống khổ của một dân tộc vong-quốc.
Vào năm 17 tuổi, đang học tại Trường
Chasseloup-Loubat SàiGòn, ông cùng với các nhà Cách Mạng Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Lương Khắc Ninh, Gibert Chiếu v.v.
. . hoạt động bí mật đưa người sang
Nhật Bổn để mưu cầu phục quốc.
Cuộc xuất ngoại thành công
trong 3 chuyến đi Nhật, đến chuyến thứ
4 thì Sở Mật Thám Pháp khám phá biết trong danh sách có tên
ông, nên ông phải tạm lánh mặt trở về quê nhà Tây
Ninh một thời gian.
Năm 1920, ông tùng sự tại sở
Thương Chánh SàiGòn và lập gia đình với cô Nguyễn
Thị Nhiều, sanh được 2 người con gái là
Phạm Thị Cầm và Phạm Tân Tranh. Sau đó
được đổi đi Cái Nhum, rồi Qui Nhơn,
đến năm 1925 thì trở về lại SàiGòn.
Nhờ trí thông minh và đức
tánh liêm khiết, ông đảm nhiệm nhiều chức vụ
quan trọng, luôn luôn giúp đỡ dân nghèo, không bao giờ lợi
dụng chức quyền mưu đồ lợi ích riêng
tư.
Đồng lương công chức
lúc bấy giờ có giới hạn, với tinh thần
đạo đức sẵn có, một hôm có người bạn
là ông Trần Chơn Thành đến thăm và cho ông biết
tại Khánh Hội, gần nhà ông có một gia đình nghèo rất
đáng thương hại, gia đình ấy có 2 hai người
con gái là Nguyễn Thị Cầm và Nguyễn Thị Hồng
bị một mụ tú bà gạt gẫm bỏ nhà ra đi. Ông
Thành gợi ý cho ông để tìm phương giúp đỡ
gia đình khốn khổ ấy. Ông không ngần ngại
đưa cho ông Thành một số tiền đã dành dụm
từ lâu, với lời ân cần căn dặn là phải
trực tiếp điều đình với mụ tú bà ấy
để giải thoát cho 2 cô gái đó khỏi chốn lầu
xanh, ông Phạm Công Tắc đã giúp đỡ 2 cô gái hoàn
lương về sum hợp với gia đình, làm ăn
lương thiện trở lại. Với đức tánh
hiền hòa của ông, ông luôn nhiệt tình làm việc
nghĩa, và cũng thường kêu gọi các bạn tri âm
giúp đỡ tận tình, sẵn sàng hỗ trợ cho những
người khốn khổ, hoạn nạn.
Ý chí của ông là lo lắng cho vận
mạng non sông, cho nòi giống đang bị áp bức bởi
những kẻ mua danh, bán lợi. Ai sống chết mặc
ai, họ chỉ biết vinh thân phì da, vợ ấm, con no
mà thôi.
Đời kim tiền đã làm cho
thiên hạ chìm đắm trong ao tù vật chất. Chán chê
cuộc sống phù du, ông bèn kêu gọi các bạn tri âm của
ông để luận bàn về cơ bút, mời các vong linh
nhập bàn họa thi và học hỏi nơi cỏi vô hình,
hầu tìm quên lãng trong thú vui cao thượng, khi cung đàn,
khi ngâm phú, lúc họa thi.
ĐẤNG GIÁO CHỦ CỦA ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Ông Phạm Công Tắc muốn tìm hiểu
về huyền bí của cỏi vô hình nên mới xây bàn cầu
cơ để học hỏi. Việc cầu cơ đã
có từ lâu trên thế giới, nhưng chỉ khác nhau về
mặt sử dụng, tùy theo phong tục, tập quán của
mỗi dân tộc.
Cơ bút là giai đoạn cuối
cùng của sự thông công của tạo hóa và người
trên phương diện tâm linh. Đây cũng là
phương tiện để các đấng vô hình giảng
dạy, phổ biến chúng sanh, là ngọn đuốc quang
minh để dẫn dắt con người đến chổ
cao siêu. Cơ bút là con dao 2 lưỡi rất bén, phải biết
sử dụng mới được, bằng ngược
lại thật vô cùng nguy hiểm. Nếu Đồng Tử
phò cơ thiếu sự hướng dẫn, thiếu công
luyện tập, thiếu sự tin tưởng trong nhiệm
vụ của mình hoặc lợi dụng trong một
mưu đồ nào đó, thì sẽ sanh ra lắm chuyện
tổn thương, dị hại về mọi việc, mọi
mặt.
Việc cầu cơ, chấp bút đã
xuất hiện vào thế kỷ thứ 18 bên Âu Mỹ và
đã phát triển thành thuyết Duy Linh và Thần Linh (Le Spiritisme).
Vào tháng 9 năm 1853, bà Decibardin
đến viếng thăm Nhà Đại Văn Hào Victor
Hugo tại cù lao Jersey để cùng xây bàn tiếp chuyện
với vong linh người chết, hầu giải buồn,
tìm thú vui trong sự học hỏi nơi cỏi vô hình.
Đêm 13-9-1853, có một chơn
linh giáng đàn xưng danh đấng vô hình nói chuyện với
ông Victor Hugo rất tâm đắc, ban cho nhiều áng văn
lưu loát và bảo rằng: "Hãy
để đức tin vào thái cực!". Đây là một
khái niệm vô hình học, gây nên một thế giới vô
hình tại nước Pháp lúc bấy giờ (tài liệu
trong quyển: Les tables tournantes de Jersey Chez Victor Hugo, trang 99
-135).
Tại Mỹ Quốc năm 1856,
luật sư Edmond là người có danh tiếng, nhất
là ông Napes, là một Giáo sư Đại Học Hàn Lâm Hoa Kỳ
cũng xây bàn tiếp xúc với đấng Vô Hình và viết
ra sách, cũng công nhận là có vong linh người chết
nói chuyện với người sống, và đã đề
cập trong quyển sách Traité de Méthaphysiques, đồng thời
nhấn mạnh rằng: "Từ
đây nền tảng khoa học mới nầy rất kỳ
diệu mà ít ai thấu triệt được".
Lúc bấy giờ tại SàiGòn, lại
nổi lên phong trào xây bàn và lan tràn cùng khắp thành thị và
thôn quê. Nơi nào cũng có xây
bàn, việc xây bàn rất huyền diệu vô cùng, như
đàn cơ ở Thủ Dầu Một, Miếu Nổi ở
Gò Vấp, chùa Ngọc Hoàng ở Đa Kao, chùa Hiệp Ninh ở
cái Khế (Cần Thơ), Thạch Động ở Hà Tiên
v.v...
Ông Phạm Công Tắc cùng với
các ông: Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu,
Trương Hữu Đức, Cao Quỳnh Diêu, Võ Văn
Nguyên hợp tại nhà ông Cao Hoài Sang đêm mùng 5 tháng 5
năm Ất Sửu (23-7-1925) để xây bàn mời các
đấng vô hình về họa thi phú theo phương pháp
Thông Linh Học của Tây Phương. Trong những buổi
xây bàn có nhiều vong linh nhập bàn xưng danh tánh rõ ràng, cho
nhiều bài thi rất hay, nhưng các ông chưa tin lắm,
bởi còn hoài nghi lẫn nhau (nghi ngờ có người phá
chơi). Song vì thích họa thi, vui với gió mát, trăng
thanh, non nhàn nước trí, nhất là các ông hướng về
mặt đạo đức, tu hành, làm lành, tránh dữ, nên
mới hợp nhau cùng các bạn tri âm xây bàn cầu cơ
như thế.
Vào đêm mùng 6 tháng 6 năm Ất
Sửu (26-7-1925), có một vong linh nhập bàn tự xưng
là Cao Quỳnh Lượng, gây nỗi vui mừng vô hạn
cho qúi ông hiện đang có mặt, nhất là ông Cao Quỳnh
Cư (bởi vì ông Cao Quỳnh Lượng gọi ông Cư
bằng chú). Ông Cư liền hỏi thử: "Nếu phải là Cao Quỳnh
Lượng thì biết các vị có mặt nơi
đây". Vậy cháu cứ gọi tên mỗi người
coi có đúng không? Ông Cư nói vừa dứt thì cơ liền
gỏ trả lời: Diêu, Tắc, Sang, Đức, Nguyên, Hậu,
được nghe Cao Quỳnh Lượng gọi đúng
tên từng người (nhất là sự phân biệt lớn
nhỏ thứ tự trong khi gọi tên), khiến cho ông Cư
càng vững niềm tin nơi thế giới vô hình hơn nữa,
sau đó ông Cư liền nhờ ông Lượng đi mời
ông nội của cậu là Cao Quỳnh Tuân về nhập
bàn (ông Cao Quỳnh Tuân là thân phụ của ông Cư).
Sau một thời gian nghỉ giải
lao, quí ông tiếp tục xây bàn, ông Cao Quỳnh Tuân liền nhập bàn, gây sự kinh sợ
cho qúi ông không ít, ông Cư kính cẩn đứng lên, khoanh
tay thưa với vong linh rằng: Trong buổi thầy quá
vãng, anh em con còn nhỏ dại, cho đến nỗi
anh của con cũng còn nhỏ, nếu có thể tiện
đây thầy cho chúng con một bài tự thuật
hầu để lưu truyền về sau cho đàn con
cháu tôn thờ làm kỷ niệm. Không chần chờ do dự,
bàn cơ liền chuyển động cho 1 bài thi như sau:
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn lắm tâm đời.
Bên màn đôi lúc trao hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xét nổi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Thầy xin kiếu!
Bài thi tự thuật của ông Cao
Quỳnh Tuân, khiến cho các
ông có mặt đều xúc động, riêng ông Cư không cầm
được giọt lệ, và kể từ hôm ấy các
ông không còn xem thường việc
xây bàn nữa, không còn nghĩ là một trò tiêu khiển
như trước, mà tất cả đều nghiêm trang,
tôn kính mỗi khi xây bàn.
Vào một đêm thứ bảy
ngày mùng 10 tháng 6 năm Ất Sửu (30-7-1925), qúi ông đến
nhà ông Cao Hoài Sang để tiếp tục xây bàn cầu các
vong linh về họa thi, thì bàn cơ chuyển động
một cách nhẹ nhàng, nhanh chóng lạ thường, bàn cơ
liền gỏ: "Thác vì tình",
nghe được 3 tiếng thác vì tình, các ông đều hốt
hoảng chỉ có ông Cao Quỳnh Cư trầm tĩnh hỏi:
Đàn ông hay đàn bà? Vong linh liền đáp: "Đoàn Ngọc Quế, con gái".
Cả tên và họ Đoàn Ngọc
Quế vừa xưng danh tánh đều đúng với tên
họ một người bạn thân của ông Diêu, hiện
đang có mặt. Ông Cao Quỳnh Cư liền xin vong linh một
bài thi tự thuật. Bàn cơ chuyển động nhẹ
nhàng cho một bài thi:
Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổn sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào ngờ phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư quần một gánh,
Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai.
Chính 2 bài thi của ông Cao Quỳnh
Tuân và cô Đoàn Ngọc Quế đã tự thuật, có một
trọng lượng đả phá mọi thành kiến nghi
ngờ, phủ nhận của quí ông lúc bấy giờ, mà
còn trợ lý giúp quí ông có đầy đủ niềm tin
sùng kính quyền mầu nhiệm của thế giới vô
hình hơn nữa. Vì là những thi văn nổi tiếng,
các ông liền họa lại bài thi của cô Đoàn Ngọc
Quế thật vô cùng lý thú, là người sống họa
thi cùng một vong linh với lối văn chương vô
cùng lưu loát, khiến cho các ông càng say mê xây bàn hàng đêm
để học hỏi thêm về huyền bí ở cỏi
vô hình. Nhất là được họa thi với một nữ
vong linh giỏi về thi thơ như cô Đoàn Ngọc Quế,
càng làm cho quí ông kính phục thêm.
Tuy nhiên qúi ông muốn tìm cho ra tông
tích của vong linh Đoàn Ngọc Quế, người con
gái "thác vì tình" này.
Vong linh liền đáp: trước kia ở Chợ Lớn,
học trường đầm.
Vào thượng tuần tháng 8
năm Ất Sửu (1925), quí ông xây đàn mời cô Đoàn
Ngọc Quế giáng đàn để học hỏi thêm về
thế giới vô hình theo sự mong muốn của mấy
ông từ lâu.
Cô Đoàn Ngọc Quế giáng cơ
chỉ dẫn cho mấy ông những bí ẩn về cỏi
vô hình, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của mấy
ông. Đồng thời, qúi ông đề nghị xin kết
nghĩa anh em với nhau, cô Đoàn Ngọc Quế bằng
lòng và thân mật gọi:
Ông Cao Quỳnh Cư là trưởng ca,
Ông Phạm Công Tắc là nhị ca,
Ông Cao Hoài Sang là tam ca,
Còn cô Đoàn Ngọc Quế tự xưng là tứ muội.
Được cùng nhau kết
nghĩa huynh muội, ông Cao Quỳnh Cư không ngần ngại
hỏi tên thật của cô Đoàn Ngọc Quế,
nhưng cô không cho biết. Sau cùng, vì các ông cứ nài nĩ
mãi nên cô Đoàn Ngọc Quế mới chiều lòng, bàn
cơ liền gõ 3 chữ viết tắt: V.T.L.
Ông Cao Quỳnh Cư hỏi tiếp:
Hiện giờ mồ mã cô Quế nằm tại đâu?
Cô Đoàn Ngọc Quế đáp: ngôi
mộ hiện giờ nằm tại nghĩa trang Bà Lân (Bà Tổng
Đốc Phương) tại ngã bảy Sàigòn.
Qúi ông nhất định phải
truy tìm cho ra tông tích cô Đoàn Ngọc Quế với cái tên họ
Bằng 3 chữ viết tắt
V.T.L.
Để biết rõ thiệt
hư, nhân ngày chủ nhật 3 ông Cư, Tắc, Sang đồng
hẹn nhau đến nghĩa trang bà Tống Đốc
Phương. Đúng 8 giờ sáng, ba ông giữ lời hứa
đến nghĩa trang và đi thẳng vào thì gặp ngôi mộ
cô Vương Thị Lễ. Đáp ứng sự hiếu kỳ
của 3 ông là nhìn thấy ngôi mộ xây cất rất đẹp,
trên mộ bia có ảnh của cô Vương Thị Lễ,
trẻ đẹp, và dưới chân dung còn ghi rõ họ tên.
Không còn hoài nghi gì nữa, 3 ông đốt nhang khẩn
nguyện vong linh cô Vương Thị Lễ xong rồi mới
ra về, nhưng vẫn còn thắc mắc, muốn biết
xem ban ngày các vong linh có thể về giáng đàn được
không? Và cũng có vài điều thắc mắc cần hỏi
cô Đoàn Ngọc Quế.
Trở về nhà thì các ông liền xây bàn cầu
cơ vào lúc 9 giờ sáng, cô Đoàn Ngọc Quế liền
giáng cơ mách bảo cho các ông biết rõ, ngôi mộ mà 3 ông
đã đến viếng hồi sáng, đó là ngôi mộ của
cô. Điều này khiến cho ba ông càng thêm kinh ngạc, vì
chưa được phỏng vấn mà đã nghe cô
Đoàn Ngọc Quế đáp ứng nguyện vọng của
ba ông trong buổi cầu cơ này.
Một bằng chứng mà qúi ông không thể phủ
nhận là người và vô hình trực tiếp liên hệ, nghĩa
là các ông đã khám phá ra một việc mà ít người hiểu
biết về huyền diệu của thế giới vô
hình.
Để ung đức tinh thần và cũng cố
niềm tin cho 3 ông, một hôm cô Vương Thị Lễ
giáng đàn chỉ bảo về mặt đạo đức,
tu hành và cố ý giới thiệu đến 3 ông 1 người
bạn gái của cô rất giỏi thi văn tên là Hôn Liên Bạch.
Được giới thiệu thêm một nữ thi
văn, ông Cao Hoài Sang muốn thử tài của nữ thi
sĩ này, nên liền xin phép đưa ra để thi "Tiễn biệt tình lang",
chẳng chậm trễ một giây phút nào, cô Hôn Liên Bạch
liền giáng cơ cho bài thi như sau:
Chia gương căn dặn buổi trường
đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thanh.
Ngày chờ mây án ngàn dâu khuất,
Đêm bặt đường khuya một bóng hình.
Lần lứa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xuôi ai thấu buổi đinh ninh.
Đồng thời cô Hôn Liên Bạch cho tiếp một
bài thi tựa là: "Hoài Lang"
Đông đình nhớ
buổi tạm chia đường,
Đông đình nhớ buổi tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời thảm mây giăng bao cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cô thân chạnh nhớ vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhất trường.
Mượn bạn lương nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu
sương.
Hai bài thi của cô Hôn Liên Bạch giáng cơ cho vào
ngày mùng 5 tháng 8 năm Ất Sửu (22-8-1925), khiến cho 3
ông vô cùng thích thú về thi thơ xướng họa giữa
vô hình và thế tục, qúi ông hết sức say mê, ngưỡng
mộ tâm hồn thanh thoát ở nơi cỏi tục này.
Lại thêm một việc hi hữu nữa là: tiếng
đồn cô Vương Thị Lễ giáng cơ được
loan truyền đi khắp nơi, khiến cho gia đình
thân nhân cô Vương Thị Lễ tìm đến tận
nhà ông Cao Quỳnh Cư để tìm hiểu sự
thật về cô Lễ giáng đàn và yêu cầu
được dự đàn cơ, qúi ông không thể từ
chối được, 2 vị khách lạ tự xưng
là thân nhân của cô Lễ xin được dự đàn
cơ.
Khi cô Vương Thị Lễ giáng cơ thì ông Cao
Quỳnh Cư liền hỏi: tứ muội có biết 2
ông khách lạ này là ai không? Cô liền nhanh nhẹn đáp:
"Đào Nguyên lạc
lối buổi vong Hưng".
Hai ông khách lạ tên Nguyên và Hưng nghe đúng tên
mình liền nhanh nhẹn đốt nhang khấn nguyện
và đáp lại lằng câu thơ:
"Đốt nén
hương xin tỏ Lễ mừng".
Cô Lễ tiếp nối bài thi:
"Tri kỷ còn nhiều
ngày gặp gỡ".
Ông Nguyên và Hưng tiếp nối câu chót.
"Chạnh lòng
nhớ đến buổi thanh xuân".
Thiết tưởng nguồn thi cảm rạt
rào người phàm tục và vô hình được gặp nhau
để sáng tác thành một bài thi tuyệt bút:
Đào Nguyên lạc lối buổi vong Hưng,
Đốt nén hương xin tỏ Lễ mừng.
Tri kỷ còn nhiều ngày gặp gỡ,
Chạnh lòng nhớ đến buổi thanh xuân.
Một sự huyền diệu, hiển linh như
thế càng giúp cho quí ông Cư, Tắc, Sang thêm phần hứng
chí về việc xây bàn cầu cơ. Những huyền diệu
linh ứng do chính bản thân qúi ông tiếp nhận trong việc
họa thi phú hàng đêm, khiến các ông không biết mệt
mỏi, mà còn say sưa hâm mộ nữa là khác.
Vào hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925),
ông Phạm Công Tắc, cùng với các bạn tri âm của
ông hợp lại để xây bàn, thì có một vong linh về
nhập đàn, không chịu xưng danh tánh nhưng cho một
bài thi như sau:
Ớt cay, cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai,
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ai bòn chẳng chịu tấp theo ai.
Tiếp được bài thi, 3 ông Cư, Tắc,
Sang cố nài nĩ vong linh cho biết qúi danh, song Đấng
Vô Hình khước từ mà chỉ xưng danh là A.Ă.Â. mà
thôi. Các ông vô cùng ngạc nhiên, cố tìm hiểu nơi đấng
vô hình A.Ă.Â. này, nhưng ông ta không chịu tiết lộ
danh tánh của mình, khiến cho 3 ông tự suy nghiệm, và cảm
thấy là có điều gì kỳ lạ nơi Đấng vô
hình này và kể từ đó không ai dám tò mò hỏi thêm về
lý lịch của ông ta nữa. Cho đến thượng
tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), một lần nữa
ông A.Ă.Ẩ. giáng cơ đến dạy bảo 3 ông Cư,
Tắc, Sang là: đừng nên hỏi đến lai lịch
của ông nữa và càng không nên hỏi đến chuyên quốc
sự, thiên cơ, thì ông ta sẽ thường xuyên về họa
thi phú cùng các ông. Đồng thời, ông A.Ă.Â. còn bảo
qúi ông thiết "tiệc chay"
vào đêm rằm tháng 8 năm Ất Sửu (1925), để
thỉnh đức Diêu Trì Kim Mẫu và 9 vị tiên cô, cũng
như tổ chức đãi tiệc những người phàm
vậy, nhưng phải cho thanh tịnh và tinh khiết. Chẳng
biết phải thiết tiệc theo nghi thức như thế
nào, 3 ông Cư, Tắc, Sang hợp ý kiến xin thỉnh cô Vương
Thị Lễ giáng cơ về hướng dẫn. Cô Lễ
giáng đàn, chỉ bảo cả mọi việc, cùng
phương pháp chưng dọn bàn ghế cho nghiêm trang, và
còn cho 3 ông biết rõ cô là Thất Nương Diêu Trì Cung, là
vị Tiên thứ 7 trong 9 vị Tiên tại Cung Diêu Trì, do Cửu
Thiên Huyền Nữ cai quản, dưới quyền có 9 vị
Tiên nương. Cô Lễ là 1 trong 9 vị Tiên cô đó.
Thất Nương giáng đàn hướng dẫn
3 ông phải thành tâm cầu nguyện giữ trai giới
trong 3 ngày, trang hoàng nhà cửa, thịết lập buổi
lễ cho khang trang để nghinh đón đức Diêu Trì
Kim Mẫu. Ngoài ra còn bắt buộc qúi ông mỗi người
đều phải làm 1 bài thi, nhất là phải cố gắng
tìm cho được Đại Ngọc Cơ để thỉnh
đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn.
Nghe đến tiếng Đại Ngọc Cơ,
3 ông còn chưa nhận định được hình dáng
Đại Ngọc Cơ như thế nào, thất
nương liền vẽ hình Đại Ngọc cơ cho
3 ông xem, và cũng giải nghĩa rõ nguồn gốc xuất
hiện Đại Ngọc Cơ là trước kia lấy
hình tượng ngôi sao Bắc Đẩu mà tạo thành,
cùng hướng dẫn việc sử dụng Đại
Ngọc Cơ.
Được tiếp nhận sự hướng
dẫn chu đáo của Thất Nương, 3 ông rất
nóng lòng trông đợi cho đến ngày rằm tháng 8, hầu
biết thêm những điều mới lạ ở cỏi
vô hình.
May mắn thay! Và cũng huyền diệu thay! Trong
lúc 3 ông còn đang phân vân, chưa biết chạy tìm nơi
nào để có được Đại Ngọc cơ
để kịp ngày ấn định, thì tình cờ gặp
được một người thố lộ cho các ông
biết là ông Phan Văn Tỷ là người có Đại
Ngọc Cơ. Hơn nữa, ông Tỷ thường đến
nhà ông Cao Quỳnh Cư chơi và được biết việc
xây bàn có phần chậm chạp hơn là cầu Ngọc Cơ,
nhưng lúc đó ông Tỷ chưa dám có ý kiến.
Hôm nay có người đến hỏi mượn
Ngọc Cơ, ông Phan Văn Tỷ vui vẻ chấp nhận,
nhưng phải chờ ông đến nhà ông Âu Kích để
lấy lại Ngọc Cơ mà ông đã cho mượn từ
lâu. Một việc lo lắng, thắc mắc về Ngọc
Cơ đã được ông Tỷ giải quyết một
cách dễ dàng, và ông Tỷ đã đem Ngọc Cơ đến
nhà ông Cao Quỳnh Cư đúng hẹn.
Có phải chăng mọi việc đều do quyền
thiêng liêng đã an bày. Sau 3 ngày giữ trai giới tinh khiết,
nhằm tiết trung thu, trăng thanh gió mát, rằm tháng 8
năm Ất Sửu, căn nhà ông Cao Quỳnh Cư
được chưng dọn rất trang nghiêm.
Một cái bàn được trang trọng đặt
ra giữa căn nhà, trên mặt bàn phủ một tấm mặt
bàn trắng, và bông hoa đủ màu sắc xinh đẹp vô
cùng. Chung quanh mặt bàn thì có 9 cái tách uống trà và 9 cái ly uống
rượu trông rất lộng lẫy. Ngoài ra chung quanh bàn
thì có 9 cái ghế bằng mây được phủ bằng
vải trắng trông rất sang trọng. Nếu khách lạ
đến nhìn thì cũng phải tự khen thầm là chủ
gia tiếp đãi khách hết sức tươm tất, chớ
ai có ngờ chủ gia sắp sửa tiếp đãi 9 vị
tiên cô.
Gần tới 12 gìơ khuya ông Cao Quỳnh Cư,
Phạm công Tắc, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Diêu, Nguyễn
Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Võ Văn Nguyên đều
mặc áo dài đen, đầu bịt khăn đóng
đen rất nghiêm trang đến đốt hương
lên đèn thật vô cùng trọng thể.
Sau khi khấn nguyện xong, các ông bắt đầu
đốt trầm hương và 2 ông Cư, Tắc ngồi
xuống ghế để tiếp Ngọc Cơ. Ngọc cơ
chuyển động mạnh và nhanh nhẹn, đức
Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn, để lời chào mừng qúi
ông có mặt, chỉ dạy về đạo đức,
phương cách tu hành và hứa hẹn sẽ thường
giáng đàn chi bảo thêm cho 3 ông Cư, Tắc, Sang.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu nhường cơ lại
cho 9 vị Tiên Nương, và 9 vị Tiên Cô lần lượt
giáng cơ chào mừng quí ông.
Đặc biệt là trước khi ngồi nhập
tiệc thì Thất Nương giáng đàn chi dẫn cho 3
ông phải đem đàn ra hòa nhạc hiến lễ cho
đức Diêu Trì Kim Mẫu và 9 vị Tiên Cô (bởi qúi ông đều
giỏi về nhạc), an tọa nghe hòa nhạc và kế
tiếp 3 ông ngâm lên bài thi đã làm sẵn.
Bắt đầu nhập tiệc, Thất Nương
bảo 3 ông ngồi chung bàn để cùng dự tiệc với
Tiên Nữ, nhưng 3 ông đều thối thác, không dám ngồi
chung bàn. Thất Nương mời nhiều lần, bắt
buộc các ông phải tuân theo và lấy thêm 3 cái ghế
để sau 9 cái ghế đã có sẵn, rồi mới ngồi
vào ghế cùng chung dự tiệc với 9 vị Tiên Nương.
Yến tiệc rằm tháng 8 năm Ất Sửu
(1925), có thể nói là yến tiệc lần đầu tiên
giữa người và 9 vị Tiên Nương, được
gọi là Hội Yến Diêu Trì Cung, và hiện giờ theo
thông lệ hàng năm đến ngày rằm tháng 8 thì Hội
Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh đều thiết đại
lễ Hội Yến Diêu Trì Cung tại Đền thờ
Phật Mẫu vô cùng trọng thể, và cũng để
tưởng nhớ đến công ơn đức Diêu Trì
Kim Mẫu và cửu vị tiên nương đã dày công dẫn
dắt chức sắc Hiệp Thiên Đài trong buổi
đầu khi nền đại đạo mới phôi thai.
Một điều hi hữu là cả thế giới,
cùng các Tôn Giáo trước kia chưa có một buổi tiệc
nào cùng vói đấng thiêng liêng tham dự, duy nhất chi có
Tôn Giáo Cao Đài mà thôi.
Đây cũng là một đặc ân của dân tộc
Việt Nam, được Đức Phật Mẫu, bà mẹ
thiêng liêng dành riêng cho dân tộc Việt Nam. Nếu sau này bất
luận các dân tộc nào trên thế giới biết đạo
Cao Đài, nhập môn vào đạo Cao Đài rồi thì nhất
định phải giữ ý nghĩa đại lễ Hội
Yến Diêu Trì, để tỏ lòng tôn kính công ơn đức
Phật Mẫu.
Thông cảm ước vọng của 3 ông Cư,
Tắc, Sang, ông A.Ă.Â. giáng cơ hé mở từ từ
cho 3 ông biết thêm về huyền bí màu nhiệm của thế
giới vô hình, nhất là vận mạng tương lai của
dân tộc Việt Nam, để đáp ứng nguyện vọng
thiết tha của qúi ông bằng một lời hứa vô
cùng đanh thép: "Sẽ dùng
huyền diệu vô tận, vô biên để giải ách nô lệ
cho dân tộc Việt Nam..." một lời hứa
đầy đủ ý nghĩa ghi vào tâm trí 3 ông lúc bấy
giờ
Những gì đến nhất định phải
đến, vào đêm 27 tháng 10 năm Ất Sửu, Đức
Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ chi dạy: 3 ông phải "Vọng Thiên Cầu Đạo",
vào ngày 1-11-Ất Sửu (18-12-1925) gây sự ngạc nhiên cho
3 ông, bởi trong thời gian qua 3 ông chỉ biết thích thú
say sưa trong cảnh người tiên thượng giới,
kẻ phàm tục thế gian được họa thi tiếp
nối đêm này qua đêm khác để học hỏi về
thế giới vô hình. Hôm nay nghe đến danh từ "Vọng Thiên Cầu Đạo",
cả 3 ông đều băn khoăn, lo sợ vô cùng, bởi
3 ông chưa bao giờ nghĩ sau này sẽ có trách nhiệm
đi truyền đạo. Nhưng do sự hướng dẫn
của ông A.Ă.Â.từ từ rèn luyện cho 3 ông thông suốt
đạo đức để hữu dụng sau này.
Đêm 1-11-Ất Sửu (18-12-1925), tam vị mặc
áp dài đen, khăn đóng đen, chỉnh tề trang
nghiêm ra đứng giữa sân, cầm 9 cây nhang nguyện rằng
ba chúng tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài
Sang vọng bái đứcThượng Đế ban ân diễm
phúc cho 3 anh em tôi cải tà qui chánh, trước sự
đông đảo đồng bào chung quanh đến xem. Khổ
nổi đến giờ phút lập thệ như thế
mà ông vẫn còn phân vân chưa nhận định được
ông A.Ă.Â. là ai? Chỉ biết tuân theo lời phán dạy
của ông A.Ă.Â. mà thi hành.
Đúng 12 giờ khuya, thời tý, 3 ông xông trầm
cho tinh khiết, ngồi vào bàn cơ, Ngọc cơ rung chuyển,
thanh thoát, rồi ông A.Ă.Â. giáng cơ phán dạy: "Ngọc
Hoàng Thượng Đế Viết Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát", muốn được ta truyền
đạo kể từ bây giờ phải gọi ta bằng
"Thầy" cho tiện bề đối đãi, và ta gọi
lại các con.
"Thầy muốn
dùng các con mà hoằng khai nền đại đạo, các
con dám lãnh trọng trách ấy không?". Ông Phạm Công Tắc
bạch: Thầy dạy bảo thì chúng con tuân lịnh,
nhưng trong các con từ bé chí trưởng chẳng ai thông
đạo lý chi, duy nhờ Thầy dạy bảo bấy
lâu, thì sự hiểu biết chứa đặng trong muôn một,
e chẳng xứng đáng mà đảm nhận trọng
trách lớn lao này.
Đức Cao Đài Thượng Đế phán: chi
chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu
để trọn tấm lòng thành thì chẳng hề chi. Cả
3 ông đều vâng chịu và xin đức Cao Đài chỉ
bảo về phương thức thờ phượng.
Sau buổi lễ "Vọng
thiên cầu Đạo", 3 ông Cư, Tắc, Sang hết
lòng tôn kính đức Cao Đài Thượng Đế, lo
dưỡng tánh tu tâm, chuyên bề đạo đức rất
ân cần.
Tiếng đồn vang dội khắp nơi là có
đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng trần
khai sáng nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Sự kiện này đã ghi thêm một bước tiến nới,
hướng về Tôn Giáo Cao Đài được khai sanh
trên vùng đất Việt Nam, một vinh dự lớn lao
cho dân tộc Việt Nam là được nắm chủ quyền
Tân Giáo Cao Đài, để thực hiện sự thương
yêu và quyền công chánh mà đức Cao Đài đã phán dạy:
Chẳng quản
đồng tông mới một nhà,
Cùng nhau một
đạo tức một cha.
Nghĩa nhân
đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho
nhau đặng chữ hòa.
Trước những huyền diệu mà đức
Cao Đài đã thể hiện, hướng dẫn ông Cư,
Tắc, Sang trong thời gian qua, tạo thành một niềm
tin tuyệt đối, tôn kính đức Cao Đài.
Thắm thoát đến ngày lễ Noel (24-12-1925), 3 ông
thiết lập đàn cơ thì đức Cao Đài Thượng
Đế về chỉ dạy:
Muôn kiếp có ta nắm
chủ quyền,
Vui lòng tu niệm
hưởng ân thiên.
Đạo mầu
rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên
giữ trọn biên.
Hôm nay các con phải vui mừng, vì là ngày Thầy
đã xuống trần dạy đạo bên Thái Tây (
Đêm 18-1-1926, đức Cao Đài Thượng
Đế giáng cơ phán dạy: ông Phạm Công Tắc và
ông Cao Quỳnh Cư phải đem Ngọc Cơ vào tận
nhà ông Lê Văn Trung, (Hội Đồng thượng Nghị
Viện nhà ở đường Testard, Chợ Lớn)
để phò cơ cho đức Cao Đài Thượng
Đế về chỉ dạy cho ông Lê Văn Trung. Đây
là một việc khó khăn cho 2 ông Cư, Tắc, bởi vì
từ trước đến giờ 2 ông chưa từng
quen biết với ông Lê Văn Trung, hơn nữa ông Trung
là một công chức cao cấp, quyền thế mà đức
Cao Đài bảo phải đem đàn cơ vào tận nhà
ông Trung. Đức tin mạnh, khiến 2 ông phải tuân mạng
lệnh của đức Cao Đài. Hân hạnh thay! 2 ông vừa
bước vào nhà ông Trung thì được gia nhân vào phúc
báo cho ông Trung hay là có khách lạ đến viếng. Ông Trung
liền ra tiếp, mời khách vào nhà và an tọa. 2 ông Cư,
Tắc bắt đầu thuật lại về việc đức
Cao Đài Thượng Đế phán dạy là đem
đàn cơ đến tận nhà ông để chỉ bảo
ông. Vừa được nghe 2 tiếng Cao Đài, ông vô
cùng hân hoan chăm chú nghe từng lời thuật một
cách thích thú và tôn kính, ông liền chấp thuận cho thiết
lập đàn cơ tại nhà ông mà không chút do dự.
Sau lần gặp gỡ và hội đàm thân mật,
cùng với sự ân cần của ông Lê văn Trung, khiến
cho ông Phạm công Tắc càng thêm tôn kính đức Cao
Đài hơn. Thoạt đầu ông quá lo âu và hồi hộp
trước khi bước vào nhà ông Trung, nhưng sau khi tiếp
chuyện mới thấy rõ là ông Trung cũng rất sùng kính
đức Cao Đài và còn rất thâm tình với 2 ông như
tình huynh đệ với nhau.
Sau đó, ông Lê văn Trung liền trang trí nhà cửa,
thiết lập bàn hương án, mua sắm nhang đèn,
hoa, quả, trà, rượu đầy đủ, để
chờ ngày cung nghinh đức Cao Đài Thượng Đế
giáng lâm. Đến ngày rằm tháng chạp năm Ất Sửu
(1925), đàn cơ được thiết lập tại
nhà ông Trung vô cùng trọng thể với sự tôn kính tuyệt
đối của ông đã được ung đức từ
bấy lâu, nên đức Cao Đài Thượng Đế
liền giáng cơ chỉ dạy: "Thầy đã cho Lý Thái Bạch đến dìu dắt
các con ở đàn cơ Chợ Gạo bao lâu nay. Trung nhất
tâm nghe con! Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi
Thầy, thành cũng nơi Thầy, con hãy lấy sự
sáng của con mà suy lấy..."
KỆ RẰNG
Một trời, một
đất, một nhà riêng,
Dẫn độ
nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối
thiên cơ ra cứu chúng,
Đạo người
vẹn vẻ mói là tiên.
Những lời phán dạy của đức Cao
Đài Thượng Đế đã được ông Lê Văn
Trung nghiêm chỉnh thi hành, và tạc dạ ghi lòng, không bao giờ
xao lãng phận sự. Nhất là sự huyền diệu của
đức Cao Đài đã ban cho ông Trung được sáng
mắt. Nên nhớ đôi mắt của ông Trung bị mờ
lòa từ lâu; Các danh y, bác sĩ đều tận tình chữa
trị nhưng không hết. Hôm nay được sự huyền
diệu đặc ân của đức Cao Đài cho
được sáng lại như xưa. Đó là một huyền
diệu thiêng liêng, một khích lệ lớn lao mà suốt
đời ông Trung hằng ghi nhớ, nên đức Cao
Đài Thượng Đế cũng đã để lời
phán dạy: "Trung con hãy lấy
sự sáng của con mà suy lấy…". Tin tưởng
vào huyền diệu thiêng liêng của đức Cao Đài,
ông Trung nhất định thu xếp việc nhà, đệ
đơn xin từ chức hội đồng thượng
nghị viện, tình nguyện phế đời hành đạo,
một việc làm ít có xảy ra trong chốn quan trường,
và cùng hợp tác với các ông: Phạm công Tắc, Cao Quỳnh
Cư, Cao Hoài Sang đi khắp các tỉnh để phổ
độ chúng sanh, và lần hồi ông Trung trở thành một
chức sắc cao cấp đắc lực của Hội
Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh. Đồng thời, đức
Cao Đài Thượng Đế còn phán dạy thêm: "Trung con phải xúc tiến việc
khai mở đạo mới của Thầy giáng thế kỳ
ba, mượn tên là Cao Đài, dùng biểu tượng Thiên
Nhãn tượng trưng Thượng Đế, danh xưng
là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ".
Tháng 2 năm 1926, ông Phạm Công Tắc và qúi ông
Trung, Cư, Sang, Hậu, Đức đến nhà số: 110
đường Boudais SàiGòn để nhờ ông Ngô Minh Chiêu
hướng dẫn thêm về cách thờ Thiên Nhãn mà đức
Thượng Đế đã mặc khải cho ông Chiêu
được nhìn thấy con mắt (Thiên Nhãn), biểu
tượng đức Thượng Đế vào năm
1921 và đã họa thành bức tượng Thiên Nhãn để
thờ và tôn kính. Do cơ bút hướng dẫn mà 2 nhóm môn
đệ của đức Thượng Đế có dịp
được gặp gỡ trong tình huynh đệ tại
nhà ông Chiêu vô cùng thân mật, và cũng để phân chia
trách nhiệm phổ biến nền Đại Đạo,
đây cũng là ngày lịch sử của 12 môn đệ
đầu tiên của đức Cao Đài Thượng
Đế đã nhờ cơ bút hướng dẫn mới
có dịp hội ngộ với nhau, tay bắt mặt mừng
còn hơn anh, em ruột thịt cùng chung một nhà, để
lo phương cách truyền bá nền Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Cao Đài Thượng Đế là chúa
tể càn khôn thế giới, yêu thương dân tộc Việt
Nam là một dân tộc có đầy đủ đức
tin vững chắc biết kính Trời, thờ Phật, bất
cứ tôn giáo nào, từ đâu du nhập vào nước Việt
Nam đều được dân tộc Việt Nam sùng kính
thờ phượng. Do lòng hiếu để và ngưỡng
mộ vô bờ bến đó, đức Cao Đài mới ưu
ái, chiếu cố, chọn dân tộc Việt
Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ tức đạo Cao Đài được khai
sáng trên đất nước Việt Nam không phải là một
chuyện ngẫu nhiên, mà do thiên cơ tiền định
có một căn nguyên nhiệm mầu vô cùng bí ẩn, trí
phàm không thể xét đoán được, mà chính các Tôn Giáo
trước kia đã có lời tiên tri chứng minh là Thượng
Đế chúa tể càn khôn vũ trụ sẽ sáng lập
Tân Tôn Giáo Cao Đài. Chỉ có lòng thương yêu vô biên của
đức Cao Đài mới tạo được hoàn cảnh
tốt đẹp cho 2 nhóm Cao Đài, cùng chung một sự
ung đức, rèn luyện từ lâu, được dịp
hoan hỉ ngồi chung lại và tuyệt đối tuân lời
phán dạy của đức Cao Đài.
Đêm giao thừa Tết Nguyên Đán năm Bính Dần
(18-2-1926) tuân lịnh đức Cao Đài Thượng
Đế phán dạy, ông Ngô Minh Chiêu cùng 2 ông Cao Quỳnh Cư
và ông Phạm Công Tắc phải mang Ngọc Cơ thân hành đến
từng nhà của các môn đệ đầu tiên để
đức Cao Đài giáng cơ cho mỗi môn đệ một
bài thi chúc xuân, tiên đoán đức tánh hành đạo của
mỗi người. Trước hết là đến nhà
ông Võ Văn Sang. Sau khi chủ gia thắp nhan đèn khẩn
nguyện xong thì ông Tắc và ông Cư phò loan, đức Cao
Đài liền giáng cơ cho một bài thi:
Tân dân hỉ kiến
đắc tân niên,
Tam Kỳ Phổ
Độ bá thế hiền.
Nhứt định
chủ tâm chơn đạo lý,
Thăng thiên hoạt
địa chỉ như nhiên.
Sau khi đức Cao Đài Thượng Đế
giáng cơ cho bài thi xong thì ông Ngô Minh Chiêu ngõ lời chúc mừng
năm mới đến gia đình ông Võ Văn Sang, rồi
từ giả ông Sang để đi đến nhà môn đệ
khác. Cứ thế 3 ông Chiêu, Cư, Tắc đến từng
nhà các môn đệ để phò loan cho đức Cao
Đài giáng cơ chỉ dạy cùng chúc xuân cho mỗi gia
đình. Qúi ông phải đi cho đù 12 gia đình môn đệ
của đức Cao Đài, mới được trở
về nhà. Những gia đình môn đệ đều tiếp
nhận những lời vàng tiếng ngọc của đức
Cao Đài Thượng Đế phán dạy, và tiên đoán
vận mạng tu hành của mỗi vị môn đệ ở
buổi sau này, Bằng một bài thi ngắn gọn và đầy
đủ ý nghĩa cao xa, thâm thúy.
Ngày 11 tháng 3 năm Bính Dần (24-4-1926), ông Phạm
Công Tắc được đức Cao Đài Thượng
Đế phong chức "Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ
Đạo Sĩ", cùng với qúi ông Cao Quỳnh Cư,
Cao Hoài Sang v.v... đều được thọ phong chức
sắc. Cả qúi ông Cư, Tắc, Sang, Diêu, Hậu, Đức
v.v... đều phải tôn kính ông Lê Văn Trung là anh và phải
tôn kính ông Ngô Minh Chiêu là anh cả. Và đức Cao Đài Thượng
Đế có phán dạy:
"
Chiêu hôm trước
hứa truyền đạo, cứu vớt chúng sanh, nay phải
y lời mà làm chủ, dẫn dắt các môn đệ Ta vào
đường đạo đức, đến buổi
chúng nó lập thành. Chẳng nên thối thác! Thay mặt Ta mà
dạy dỗ chúng nó, nghe và tuân lịnh.
Trung, Kỳ, Hoài 3
con phải thay mặt cho Chiêu mà đi độ người,
nghe và tuân lịnh!
Bảng, Sang, Giảng,
Quý lo dọn mình đạo đức để truyền
bá cho chúng sanh, nghe và tuân lịnh!
Đáo con phải
họp mặt vào đây để giúp đỡ Trung, nghe
và tuân lịnh!
Ông Đáo bạch:
bạch Thầy, con mắc lo vun tròn hội Minh Lý.
Đức Cao Đài
Thượng Đế phán: cũng một gốc, tùy ý con
định, sau chớ có trách Thầy!
Đức tập
cơ, Hậu tập cơ, sau theo mấy anh đặng
độ người, nghe và tuân lịnh!"
Phải chăng những lời phán dạy của
đức Cao Đài Thượng Đế là một thiên lệnh bổ
nhiệm những vị đầu tiên, phân công cho từng
môn đệ, 2 đoàn thể Cao Đài được
đức Thượng Đế đào tạo từ lâu,
hiệp nhứt lại để cùng chung một trách nhiệm,
truyền bá nền Đại Đạo hầu làm sáng tỏ
thanh danh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Thật
là một thiên lệnh thuyên bổ hi hữu của đức
Cao Đài Thượng Đế. Các môn đệ đầu
tiên không một lời thối thác, suy bì, mà chỉ biết
tuyệt đối tuân hành theo huyền diệu thiêng liêng
ban bố. Số người vào đạo Cao Đài lên gấp
mấy lần, gây nhiều lo âu cho qúi ông vì chưa có nơi
thờ phượng, và cũng cần phải được
hợp pháp trong việc truyền đạo ở các tỉnh
cho được dễ dàng. Do đó qúi ông mới thiết
lập đàn cơ cầu xin sự chi giáo của đức
Cao Đài Thượng Đế. Đức Cao Đài Thượng
Đế phán dạy: "Các con
vào chùa Giác Hải gặp hòa thượng Như Nhãn thì sẽ
toại nguyện". Tiếp nhận lời dạy của
đức Cao Đài, một phái đoàn Chức sắc Cao
Đài được đề cử đến kiến
diện Hòa Thượng Như Nhãn và được tiếp
đón rất nồng hậu. Sau khi được trình bày
cặn kẽ, Hoà Thượng Như Nhãn đồng ý chấp
thuận cho nượn ngôi chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự tại
tỉnh Tây Ninh đang xây cất gần xong, chỉ còn tô
vách, lót gạch, và sơn phết là sử dụng được).
Trưởng huynh Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh đứng
ra đảm nhiệm trọng trách tu bổ ngôi chùa Gò Kén do
Hòa Thượng Như Nhãn cho tạm mượn để
làm ngôi Thánh Thất Cao Đài. Đồng thời, các môn
đệ đầu tiên của đức Cao Đài hợp
nhau thảo luận viết đơn xin khai đạo
để trình lên đức Cao Đài xem xét trước.
Đức Cao Đài có phán dạy: "Thầy là chúa tể Càn Khôn thi còn đi xin phép ai?
Nhưng vì các con quá sợ nên Thầy phải chiều lòng".
Ngày 29-9-1926, ông Phạm Công Tắc cùng các môn đệ
đầu tiên gồm 27 vị đồng ký tên (thay mặt
cho 247 vị hiện diện trong buổi họp) trong tờ
khai Đại Đạo gởi lên ông Le Foy, Phó Soái Nam Kỳ.
Thật ra thì tờ khai đạo đã được ông
Lê Văn Trung và ông Lê Văn Lịch soạn thảo trước
rồi, và đức Cao Đài đã duyệt lãm.
Thiết tưởng nền Đại Đạo
lúc bấy giờ đang bị chánh quyền Pháp nghi kỵ.
Mọi sự di chuyển của các chức sắc, khó lọt
qua mắt của mật thám bủa vây khắp nơi. Ông
Lê Văn Trung dám đương đầu, đứng mủi
chịu sào đệ đơn xin khai đạo lên chính phủ
Pháp là một việc làm không đơn giản và không kém phần
nguy hiểm. Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ tuy mới phôi thai, nhưng 2 tiếng Cao Đài
luôn luôn được đồng bào nhắc nhở tôn
kính, nên mỗi khi có thiết lập bàn cơ bất luận
nơi nào, dù xa xôi cách trở mấy đi nữa, đồng
bào cũng nhiệt tình kéo đến tham dự rất
đông đảo. Trước là tiếp thu, ghi nhận những
chi dẫn về đạo đức, tu hành của các
đấng thiêng liêng, sau là xin toa thuốc trị bệnh
và xin nhập môn cầu đạo.
Chùa Gò Kén (Tây Ninh), bổn đạo ngày đêm lo
tu sửa, sơn phết rất trang nghiêm cho kịp ngày lễ
Khánh Thành Thánh Thất Cao Đài vào ngày rằm tháng 10 năm
Bính Dần (16-11-1926). Kể từ ngày mùng 1 tháng 10 năm
Bính Dần, Hội Thánh Cao Đài ban lịnh cho tất cả
Chức Sắc ở các tỉnh tạm ngưng việc
truyền bá để qui tụ về Thánh Thất Cao
Đài Gò Kén (Tây Ninh) để chung lo cho ngày đại lễ
khánh thành Thánh Thất và kỷ niệm ngày hoằng khai nền
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Về việc
kỷ niệm này đức Cao Đài Thượng Đế
Giáng Cơ phán dạy:
"Các con! Thầy
đã lập thành Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của
các con! Hiểu à!
Thầy lại qui
tam giáo, lập tân luật, trong rằm tháng 10 có đại
hội cả Tam Giáo Thánh Thất! Các con hay à!
Sự tế tự
sửa theo Tam Kỳ Phổ Độ, cũng nơi ấy
xuất hiện mà ra! Rõ à!
Thầy nhập 5
Chi lại làm một là có ý qui tụ các con trong Đạo
Thầy lại một nhà, Thầy là cha chưởng quản!
Hiểu à!
Từ đây trong
nước Nam duy có một Đạo nhà chân thật là
đạo Thầy, Thầy đã đến lập cho các
con gọi là Quốc Đạo! Hiểu à!
Thầy phải buộc
các con hiệp chung trí mà lo việc đó! Nghe à! Từ
đây các con sẽ cực nhọc hơn, vi Thầy phan
phát phận sự cho mỗi đứa, chẳng vì vậy
mà các con sanh nạnh nhau, tựa hồ chia phe, phân phái là
đại tội trước mặt Thầy! Nghe à!
Các con phải
ngưng mọi việc mà chung lo cho đại hội"
Tiếp được những lời vàng, tiếng
ngọc của đức Cao Đài Thượng Đế
dạy và hướng dẫn từng sự việc,
người tín hữu Cao Đài muôn người như một,
đồng nhận thức tầm quan trọng của ngày
rằm tháng 10 năm Bính Dần là ngày đại lễ kỷ
niệm Đệ Nhất Chu Niên Hoằng Khai Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trên quê hương việt
Nam. Đây là một danh dự lớn lao cho dân tộc Việt
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thường
nhắc nhở với bổn đạo: đạo Cao
Đài được khai mở cho dân tộc Việt
Đức Hộ pháp đã trả lời một
câu hỏi của đức Cao Đài Thượng Đế:
"Thầy bảo con làm Lão Tử,
hay Jesus con làm cũng không đặng, làm Thích Ca Mâu Ni
cũng không đặng, con chỉ làm đặng Phạm Công
Tắc mà thôi. Con nghĩ rằng bất tài vô đạo
đức này, chỉ quyết theo Thầy không bỏ, những
tưởng cũng chẳng ích chi cho Thầy".
Đức Cao Đài Thượng Đế phán dạy:
"Tắc, thoảng như Thầy
lấy tính đức Phạm Công Tắc lập giáo, con
nghĩ sao?"
Đức Hộ Pháp bạch: "Nếu đặng vậy…"
Đức Cao Đài Thượng Đế phán dạy
tiếp: "Thầy đến
lập cho nước Việt
Nghe xong, tâm tư Đức Hộ Pháp như phiêu
lưu lên giữa không trung, nghe nói điều mà mình từng
ước mong, đức Ngài không thể từ chối
đặng, bởi 2 chữ Quốc Đạo có nhiều
mãnh lực là tôn giáo Cao Đài thật sự của dân tộc
việt Nam và chính người Việt Nam làm chủ. Đồng
thời đức Cao Đài Thượng Đế có ban
cho một bài thi:
Từ đây nòi giống
chằng chia ba,
Thầy hiệp các
con lại một nhà.
Nam, Bắc cũng
rồi ra ngoại quốc,
Chủ quyền chơn
đạo một mình Ta.
(1) - Chẳng phải chia nước Việt
(2) - Thầy nắm chủ quyền, hiệp Tam
Giáo tức nhiên nền Chơn Giáo Quốc Đạo, chẳng
những của Việt Nam mà thôi, mà cả nhân loại thế
giới.
(3) - Nền đại đạo được
truyền bá
(4) - Đức Cao Đài Thượng Đế
vi chủ Đại Đạo, tín ngưỡng qui nhất.
Hội Thánh Cao Đài dự trù khánh thành Thánh Thất
Gò Kén trong vòng 3 ngày, vì khả năng tài chánh có hạn, không
dám mời nhiều khách. Hơn nữa, thực dân Pháp theo
dõi cản ngăn lắm chuyện, nhưng Đại Lễ
Khánh Thành mặc nhiên kéo dài trên 3 tháng. Đồng bào, nhân
sĩ, trí thức, báo chí, đủ mọi giai cấp, mọi
tín ngưỡng, mọi quan niệm lần hồi kéo về
Thánh Thất Gò Kén để chiêm ngưởng lễ bái
đức Cao Đài Thượng Đế, cùng chào mừng
nền tân tôn giáo vừa được khai sáng trên đất
nước Việt Nam. Giới nhân sĩ trí thức nhập
môn trên 100.000 người, đã lôi cuốn một số
đông đảo đồng bào ở các tỉnh qui tụ
về làm công quả khiến cho thực dân Pháp đâm ra lo sợ
vế sự phát triển quá nhanh chóng của đạo Cao
Đài. Do đó vị Chánh Tham Biên Tỉnh Tây Ninh tìm cách gây
áp lực bắt buộc Hòa Thượng Như Nhãn phải
đòi chùa Gò Kén lại.
Đồng thời, thực dân Pháp xúi giục Phật
Tử đệ đơn xin cấp bách trục xuất Hội
Thánh Cao Đài ra khỏi chùa Gò Kén, cố tình đẩy số
tín đồ này vô tận rừng sâu nước độc,
đầy sơn lam chướng khí, tiêu hao lần hồi
với ý đồ thâm độc, triệt hạ các mầm
phản loạn có thể xảy ra sau này. Trước áp lực
trục xuất khỏi chùa Gò Kén, Hội Thánh Cao Đài còn
đang băng khoăng, không biết phải dời đi
đâu thì đức Cao Đài Thượng Đế và
đức Lý Thái Bạch giáng cơ phán dạy: "Hội Thánh đến Bàu Cà Na,
xã Long Thành (Tây Ninh) tìm mua một vùng đất để xây
cất Đền Thánh Cao Đài". Được sự
hướng dẫn quá rõ ràng của Quyền Thiêng Liêng,
đức Hộ Pháp cùng Trưởng Huynh Chánh Phối
sư Thái Thơ Thanh và một số chức sắc ngồi
xe đến thẳng Bàu Cà Na, thì được hướng-dẫn
để mua phần đất 96 mẫu rừng cấm
hoang vu của ông Aspar bán lại với gía 25.000 đồng.
Đức Lý Thái Bạch giáng cơ phán dạy: "Ngày nay Lão nhứt định
bỏ chùa Gò Kén, vậy thì các con phải trả lại chùa
này, song trước khi trả phải cất Thánh Thất
cho xong y như lời dạy.
Nền Đại Đạo vẫn tiếp tục
truyền bá ở các Tỉnh, và đức Hộ Pháp hướng
dẫn, giáo hóa thêm một số chức sắc có đủ
khả năng và tài đức để đi hành đạo
các Quận, Tỉnh, luôn cả ở Lào và Cao Miên. Hân hạnh
thay cho dân tộc Việt Nam, vào đêm 16 tháng 10 năm Mậu
Thìn (27-11-1928), Bát Nương Diêu Trì Cung giáng đàn cho đức
Hộ Pháp biết là: vào năm 1914, Trung Quốc có cho Thầy
Địa Lý Lỗ Ban, người Triều Châu bí mật
đột nhập vào nước Việt Nam mang theo cây Long
Tuyền Kiếm đến tận núi Lan để dùng phép
trù ếm dân tộc Việt Nam, làm cho Nhân Tài Việt Nam
không xuất hiện được. Vì Trung Quốc lo ngại
hòn núi Lan nổi lên thì có Trạng, Tướng, Nhân Tài sẽ
xuất hiện ở nước Việt
Buổi hội thảo về phương thức
đi tìm Long Tuyền Kiếm do sự chỉ dẫn của
Bát Nương Diêu Trì Cung, đi đến kết luận
là: thành lập một phái đoàn gồm 36 vị chức sắc,
chức việc và bổn đạo khỏe mạnh, tình
nguyện sử dụng 12 chiếc xuồng ba lá. Đoàn
tùy tùng có nhị vị Hiền Huynh Lê Văn Trung và Nguyễn
Văn Chưởng (sau này là trưởng ban kinh tài châu
đạo Mỹ Tho, còn ông Lê Văn Trung là Chưởng Quản
Phước Thiện nam phái). Đúng 6 giờ sáng đức
Hộ Pháp hướng dẫn cả phái đoàn vào Thánh Thất
Khổ Hiền Trang, bái lễ đức Chí Tôn để
trọn tâm khẩn nguyện sự ra đi tìm Long Tuyền
Kiếm được kết quả tốt đẹp.
Sau khi dùng điểm tâm xong, đúng 8 giờ sáng ngày 28-2-Kỷ
Tỵ(27-4-1929), đức Hộ Pháp và phái đoàn xuống
12 chiếc xuồng ba lá trực chỉ theo con sông đi thẳng
xuống chợ Thầy Yến rồi đến Láng Cát mới
dừng lại. Cả phái đoàn cùng lên bờ, tự vạch
các cây lau, cây sậy, cây bàng tạo thành một con đường
để tiến tới hòn núi Lan vừa mới nổi
lên khỏi mặt đất. Người hướng dẫn
đi trước phải cầm một sợi dây luộc
dài, để đoàn người đi sau bám lấy lần
mò bước theo chân người đi trước, vì cỏ
năng, bàng mọc khỏi đầu người nên không
thấy nhau được. với một khoảng
đường độ 700 thước (đường
chim bay), mà phái đoàn phải vất vả vượt qua
rất chậm chạp, phải lội qua một con bưng
sình lầy, nước phèn trong vắt, mất cả tiếng
đồng hồ phái đoàn mới đi đến gò
đất hòn núi Lan. Đức Hộ Pháp ra lịnh tạm
dừng chân nghỉ dưỡng sức, rồi bắt
đầu chấp bút, còn cả phái đoàn thì thành tâm cầu
nguyện Thần Linh phò trợ cho phái đoàn sớm tìm được
nơi chôn dấu Long Tuyền Kiếm. Suốt cả giờ
đồng hồ, đoàn tùy tùng vô cùng vất vả, tận
lực đào sâu xuống đất, cho đến khi đụng
phải phần đá cứng, vẫn quyết tâm đào thủng
đá thì thu lượm được một cái Ghè,
như cái bình vôi của mấy người ăn trầu,
một lưỡi dao phai rĩ sét, 6 con cờ tướng
làm bằng ngà, và 6 đồng tiền kẻm thuộc
đời vua Minh Mạng, cả phái đoàn hết sức
hân hoan phấn khởi, nhất định sẽ tìm cho
được Long Tuyền Kiếm, nên không ai bảo ai, mọi
người đều nổ lực đào sâu xuống
thêm, sau cùng thì đụng phải một cái hòm bao chì, bề
dài độ 9 tấc. Nỗi vui mừng không kể xiết,
khi cái hòm được đem lên khỏi mặt đất,
lau chùi sạch sẽ và đức Hộ Pháp phán dạy: Long
Tuyền Kiếm trong đó, đức Hộ Pháp ra lịnh
gói kỹ lại Bằng vải đỏ để
đưa về Tòa Thánh. Đồng thời, đức Hộ
Pháp chỉ định cho đoàn tùy tùng phải cố gắng
đào một con kinh từ ngọn Tràm Sập băng ngang
chót mũi Long Tuyền Kiếm cho bứt, đặng trừ
tuyệt phép ếm của Thầy Lổ Ban Trung Quốc. Trong
lúc đoàn tùy tùng đang đào kinh, đức Hộ Pháp
phán dạy: "Nay là kỷ niệm
nước Việt Nam, dòng giống Lạc Hồng
được hữu phước nhờ đạo trời
khai mở, gở nạn ách cho nhân loại và từ từ
sẽ gở ách nô lệ cho dân tộc Việt Nam ta. Dòng dõi
ta sẽ phục nghiệp, dân tộc sẽ xuất hiện
nhân tài, phá tan xiềng xích chẳng còn bị lệ thuộc
nữa, nếu chậm trễ là do nhân dân Việt Nam ta
không biết tôn thờ đức Chí Tôn, không đủ thương
yêu nhau, cứ tranh giành quyền lợi cá nhân. Lại nữa,
tổ phụ ta đã gây ra nợ máu là Chúa Trịnh và Chúa
Nguyễn, nay vẫn còn dính dòng máu ấy, khi nào nợ máu ấy
trả dứt rồi thì mới vãn hồi hoà bình, độc
lập thật sự được". (Trích bài hóa giải
Long Tuyền Kiếm của chơn nhơn Lê Văn Trung).
Thiết nghĩ trong vòng lệ thuộc Pháp năm
1929, mà đức Hộ Pháp đã làm một việc phi
thường, thế gian hi hữu, là hướng dẫn một
phái đoàn Cao Đài đi tìm Long Tuyền Kiếm tại núi
Lan và long trọng cho biết trước rằng: Dân tộc
Việt Nam sẽ có nhiều nhân tài xuất hiện, từ
từ sẽ gỡ ách nô lệ, phá tan xiềng xích, chẳng
còn bị lệ thuộc nữa. Lời tuyên bố của
đức Hộ Pháp lúc bấy giờ đã bộc lộ
tinh thần ái quốc nồng nàn trước mũi thực
dân Pháp mà không ngần ngại hiểm nguy.
Tháng 6 năm 1927, đức Hộ Pháp lên
đường sang
Ngày 6-6-1928 tờ nhật báo Pháp ngữ Les Annales
Coloniales có đăng bài của nghị sĩ Edward Neron, hạt
Nauteloire nói về những biến chuyển như sau:"gần đây các Chức sắc
Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh loan tin rằng: sẽ có một ông
vua mới cho người Cao Miên xuất hiện tại Tây
Ninh". Tin theo lời đồn đãi, người
Cao Miên kéo đến Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh rất đông
đảo, trên 10.000 người.
Ông De La Brosse, Thống Đốc Nam Kỳ và ông
đại diện cho vua Monivong nước Cao Miên, cùng các
viên chức chỉ huy ngành an ninh Nam Kỳ và ngành công an phối
hợp đến tận Tòa Thánh Tây Ninh , ông Thống Đốc
mời vị Chức sắc cao cấp nhất là đức
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhật (Lê văn Trung),
buộc Ngài phải đính chánh tin đồn về việc
một nhà vua Cao Miên mới sẽ xuất hiện tại
Tây Ninh, và Ngài phải chịu trách nhiệm về những việc
lộn xộn có thể xảy ra. Lịnh truyền
được thi hành và không có việc gì đáng tiếc xảy
ra làm rối trật tự.
Đây là thủ đoạn của thực dân Pháp
tại Cao Miên, được biết đức Hộ
Pháp mới tới hành đạo, Phổ biến nền
đại đạo chỉ trong một thời gian ngắn
mà đã được một số đông trí thức,
nhân sĩ tại thủ đô Phnom Pênh nhập môn vào đạo
Cao Đài trên lãnh thổ Cao Miên.
Ngày 1-7-1931, tờ báo Midi Colonial loan
tin: Một nỗi nguy cơ thật sự cho nền trị
an ở cõi Đông Dương (Un Véritable danger pour la sécurité
de L'Indochine). Sau đó, ông Emey Oustrey Nghị Sĩ (nguyên Thống
Đốc Nam Kỳ), đã viết bài đăng trên báo
Midi Colonial ngày 18-7-1931 như sau: "Không
ưa thích gì đạo Cao Đài, tôi đã để nghị
đủ mọi cách, nhưng đến hôm nay thì tôi có thể
nói rằng: Những tài liệu sai lạc cũng qúa
đáng cho họ... đó là điều khiến tôi có thái
độ khoan hồng để Tôn Giáo Cao Đài được
tự do tín ngưỡng" (nguyên văn Pháp Ngừ: C'est
ce qui m'a determine à leur declarer que j'étais décidé à reclaimer en leur
faveur un régime de liberté pour la Religion qu'ils pratiquent). Một vị
Nghị Sĩ Nam Kỳ của thực dân Pháp lúc bấy giờ
như ông Emey Oustrey mà còn đủ can đảm nhìn nhận
việc làm sai lầm của mình trong buổi ban đầu
gây nhiều khó khăn cho Tôn Giáo Cao Đài.
Ngày 25-2-1932, đức Hộ Pháp để
cử một phái đoàn Chức Sắc Cao Đài lên gặp
ông Emey Oustrey nhờ can thiệp với chính phủ Pháp cho
đạo Cao Đài được tự do tín ngưỡng
đúng theo bài viết của ông đăng trên báo Midi
Colonial ngày 18-7-1931.
Thậm chí lúc bấy giờ thực
dân Pháp còn mưu đồ dàn dựng lên các chi phái khác
như: Thông Thiên Đài, Thánh Thất Đồng Sen, Hòa
Đông Thượng, Tỉnh Gò Công gồm những vị:
Nguyễn Trung Thăng, Lê Quang Hộ, Quách văn Nghĩa, Nguyễn
Văn Nhã v.v...Họ đã được thực dân Pháp ngấm
ngầm yểm trợ đem về chiếm Tòa Thánh Tây
Ninh, cố tình thay thế một ít Chức sắc Hiệp
Thiên Đài, nhưng âm mưu bị chận đứng, kế
hoạch bất thành trước sự phản ứng của
Bổn Đạo trong vùng Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh. Hơn
nữa, đức Hộ Pháp có đủ quyền năng
bảo thủ Chơn Truyền Luật Pháp của Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, không để cho tà
quyền lấn áp, xâm nhập Tòa Thánh Tây Ninh được;
bởi có bàn tay thiêng liêng ngăn chận, những kẻ
tham quyền cố vị, và thù hận đều ra ngoài hết.
Đức Hộ Pháp có đủ can đảm san bằng
sự thù hận đặng bảo tồn hình thể
đức Chí Tôn cho trọn thương yêu và đủ uy
quyền phá tan mọi mưu đồ đưa chi phái về
chiếm Tòa Thánh để phá rối, gây hoang man trong hàng Chức
Sắc vùng Thánh Địa Tây Ninh. Ngoài ra, thực dân Pháp còn
ngấm ngầm yểm trợ cho Giáo Sư Nguyễn Phan
Long lãnh đạo chi phái Liên Hòa Tổng Hội về Tòa
Thánh Tây Ninh liên hệ với một số chức sắc
có thẩm quyền để triệu tập Hội Vạn
Linh vào ngày 11-6-1933 chất vấn và hỏi tội đức
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhật và đức Hộ
Pháp Phạm công Tắc trước sự hiện diện
của những vị:
- Ông Bonvicini, báo Opinion.
- Ông Vabols , báo Courrier De Saigon.
- Phóng viên báo Đuốc Nhà Nam.
- Ông Trạng Sư Diệp Văn Kỳ
và Nguyễn Thế Phương.
Những mưu đồ đen tối
ấy chưa kịp xung đột đến chánh giáo của
đức Cao Đài Thượng Đế, thì nó đã bị
bại trận bởi Thánh Thể của Ngài có người
cầm luật oai nghiêm như đức Hộ Pháp gìn giữ
nên hình được.
Ngày 9-10-Qúy Dậu (26-11-1933), lại
thêm một màn màn kịch xuất hiện, được sự
yểm trợ từ bên ngoài, giáo hữu Thượng Bộ
Thanh tiếp tay vận động cho 800 đại biểu
"ma" lập thành Đại
Hội Nhân Sinh Bất Thường, với mưu đồ
xin vào Đền Thánh lễ bái đức Chí Tôn để
gây rối. Bổn Đạo đã ngăn chận không cho
vào Đền Thánh, nên 800 vị đại biểu "ma" này đành cam chịu
qùi ngoài sân lễ bái, mặc dù nhị vị Lễ Sanh
Thượng Thích Thanh và Chánh Trị Sự Nguyễn Văn
Hội hết sức nhiệt tình giúp đỡ mà cánh cửa
Đền Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh vẫn khép kín, không
cho "ma hồn" xâm nhập
vào có phải chăng do Thánh Lịnh đề ngày 28-7-1933 của
Hội Thánh Cạo Đài Tòa Thánh Tây Ninh ban hành ngưng quyền
chức nhị vị Đầu Sư Thượng Tương
Thanh và Ngọc Trang Thanh nên mới có mưu đồ nẩy
sanh ra việc khuấy động ngày 26-11-1933 của Giáo Hữu
Thượng Bộ Thanh. Lễ Sanh Thượng Thích Thanh
và Chánh Trị Sự Nguyễn Văn Hội, là những nạn
nhân đáng thương hại, bị bàn tay phù thủy xúi
giục mà toàn cả chức sắc và bổn đạo nơi
Thánh Địa Tây Ninh đều am hiểu sâu sắc và
tường tận. Đồng thời, lại thêm một
ít chức sắc Hiệp Thiên Đài tự rút lui khỏi
Tòa Thánh Tây Ninh trở về Sàigòn, trong lúc nền Đại
Đạo gặp hồi thử thách khó khăn với thực
dân Pháp, và nội bộ chức sắc đang bị phân tán.
Nhưng đức Hộ Pháp vẫn điềm nhiên can
đảm chịu đựng, lèo lái thuyền đạo
vượt qua sóng gió bão bùng. Đông xung, tây đột, bảo
thủ ngọn cờ Đại Đạo, uy quyền Hội
Thánh không hề hấn gì trước mọi áp lực của
các chi phái và thực dân Pháp, đang thẳng tay tiêu trừ
Tòa Thánh Tây Ninh bằng mọi giá. Đức Hộ Pháp xem
thường mọi thử thách, điềm nhiên như
không có việc gì xảy ra, trọn tuân hành lịnh của
đức Cao Đài, lo kiến tạo ngôi Đền Thánh cho
sớm hoàn thành. Đền Thánh trước kia đã 3 lần
tiếp nối xây cất, song đều bị đình trệ
công tác, và đây là lần thứ 4 đức Hộ Pháp tiếp
tục kiến tạo.
Trước tiên, đức Hộ
Pháp ra lịnh kêu gọi 500 công thợ và công qủa tình nguyện,
đặc biệt là gợi ý cho mọi vị phải lập
tờ "Hồng Thệ" dâng lên Hội Thánh, dù cho thợ
mộc, thợ sơn, thợ hồ và công quả, đồng
tình nguyện không lập gia đình "thủ trinh” hầu
được tinh khiết suốt thời gian kiến tạo
Đền Thánh. Đức Hộ Pháp cho lịnh khởi công
kiến tạo ngôi Đền Thánh trước sự vui mừng
của Hội Thánh và toàn thể Bổn Đạo Nam Nữ
vào ngày 1-11-Bính Tý (14-12-1936). Điểm đáng lưu ý trong công
tác xây cất Đền Thánh là không có ngân khoản dự
trù, không có sơ đồ thiết kế, không kiến trúc
sư mà chỉ nhờ đức Lý Thái Bạch giáng bút chỉ
dẫn cho đức Hộ Pháp từng bộ phận, rồi
đức Hộ Pháp hướng dẫn lại cho số
công Thợ và công Quả, lần hồi xây cất cho đến
ngày hoàn thành. Thật là một việc hi hữu trong công tác
xây cất lớn lao như thế mà chưa chuẩn bị
tiền bạc trước, chưa có vật liệu, chỉ
có khối đức tin vững chắc nơi đức
Cao Đài Thượng Đế, nên đức Hộ Pháp
và Hội Thánh lúc bấy giờ vấp phải nhiều khó
khăn. Hội Thánh cho lịnh Hộ Viện mở tủ
xem lại ngân qũy của đạo còn được
bao nhiêu để lo mua vật liệu. Tuân lịnh, Hộ
Viện mở tủ ra kiểm soát lại thì chỉ còn vỏn
vẹn có một đồng sáu cắc bốn xu (lđ 64).
Hội Thánh phải làm sao đây với số tiền qúa
nhỏ nhoi này? Chẳng còn biết phương cách nào
hơn đức Hộ Pháp phải thân hành đi xuống
tận nhà đại tỷ Chánh Phối Sư Lâm
Hương Thanh ở quận Vũng Liêm, tỉnh vĩnh
Long để nhờ giúp đỡ cho tạm mượn số
tiền về xây cất Đền Thánh. Đại tỷ
Lâm Hương Thanh vui mừng niềm nở tiếp đón
đức Hộ Pháp, đức Hộ Pháp trình bày nguyên
nhân việc đến thăm đột ngột này không
ngoài mục đích tạm mượn một số tiền
về tiếp tục kiến tạo Đền Thánh. Đại
tỷ hướng dẫn đức Hộ Pháp đi xem những
vựa lúa đầy ấp chưa bán được, vì bị
khủng khoảng kinh tế trầm trọng, gía lúa xuống
qúa thấp, gía một giạ trước kia là hai đồng
hai (2đ 20), hiện giờ chi bán có hai cắc một giạ
(0đ 20), thì làm sao bán được, nên lúa vẫn còn
đầy bồ. Đại Tỷ Lâm Hương Thanh nói
với đức Hộ Pháp: "Qua
nói thiệt với em trong mình qua hiện giờ không còn gi hết!".
Sau một lúc suy nghĩ, Đại Tỷ đi thẳng
vào phòng, mang ra một cái hòm sắt nhỏ, bên trong hòm đựng
đầy vàng và hột xoàn (đồ nữ trang từ bà
cụ cho đến cả thân quyến để chung trong
hòm sắt đó), đưa cho đức Hộ Pháp với
lời lẽ nhiệt tình: "Em
đem về cầm đỡ để lấy tiền kiến
tạo ngôi Đền Thánh". Nếu đem số
đồ nữ trang vàng và hột xoàn đi cầm thế
một nơi nào đó, thì nhất định sẽ có số
tiền một trăm ngàn đồng, đức Hộ Pháp
suy nghĩ, đem số nữ trang này đi cầm thì được
rồi, nhưng đến khi chuộc thì biết lấy
đâu ra tiền?. Biết có chuộc nổi hay không?. Nói vậy
rồi 2 người cười xòa với nhau, Đại
Tỷ để lời khích lệ đức Hộ Pháp: "Trên có huyền linh đức
Chí Tôn, dưới có cả đức tin con cái của Ngài,
Nam cũng thế, Nữ cũng thế, đâu em về cất
bường coi, không cần lấy số đồ nữ
trang này, cứ tin tưởng nơi đức Chí Tôn, em cứ
tiếp tục xây cất coi có được hay không?".
Đức Hộ Pháp đành từ
giã ra về với hai bàn tay trắng, song vẫn giữ vững
niềm tin nơi đức Chí Tôn, tiếp tục chỉ bảo
công thợ kiến tạo từng bộ phận và không quên
nhắc nhở cả Chức Sắc, công Thợ phải
chắt chiu từng đồng, từng cắt, tận dụng
từng viên gạch. Nhờ sự cần kiệm vật
liệu, gây thêm niềm tin của Bổn đạo. Nhất
là ở các địa phương nhiệt tình hảo tâm
đóng góp công, của, và đồng tâm hiệp trí chung lo
kiến tạo ngôi Đền Thánh, nói lên tinh thần đại
đoàn kết, hy sinh tuyệt đối vì Thầy vì Đạo.
Cả Chức sắc và Công Thợ chẳng ngại gian
lao, thiếu thốn, cơm chẳng đủ no, phải
cháo rau qua ngày, không một lời than trách, quyết tâm hoàn thành
ngôi Đền Thánh cho nhanh chóng, đáp ứng nguyện vọng
thiết tha của nhân sanh đang chờ đợi.
Thắm thoát 3 năm trôi qua, công
trình kiến tạo Đền Thánh gần xong, thì toàn quyền
Pierre Pasquier ra lịnh hạn chế mọi sự đi lại
của người Tín Hữu Cao Đài, không cho cúng kiến,
gây bế tắc việc truyền giáo và khó khăn trong việc
xây cất Đền Thánh. Trước những áp bức bất
công của nhà cầm quyền Pháp tại Đông
Dương, đức Hộ Pháp và Hội Thánh gởi
đơn khiếu nại thẳng lên ông Georges Mandel, Tổng
Trưởng bộ thuộc địa, trình bày về vấn
đề Tôn Giáo Cao Đài bị đàn áp, khủng bố,
và yêu cầu ông Tổng Trưởng quan tâm đến, cho
phép đạo Cao Đài được tự do truyền
bá, tự do xây cất Đền Thánh, và tự do cúng kiến
với danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ. Đơn khiếu nại của đức Hộ
Pháp có trọng lượng đáng kể, được
ông Tổng Trưởng Georges Mandel chuẩn phê, chỉ thị
cho Toàn Quyền Đông Dương tại Việt Nam cho Tôn
Giáo Cao Đài được tự do tín ngưỡng. Tuân lịnh của thượng cấp, Toàn Quyền
Pierre Pasquier buộc lòng phải để cho đạo Cao
Đài được tự do tín ngưỡng. Song thâm tâm
sâu sắc rất nguy hiểm "thua
keo này bày keo khác", cố tâm diệt đạo Cao
Đài cho thỏa lòng tự ái, vì đã bị Tổng
Trưởng thuộc địa Georges Mandel quở trách vì
hành động áp chế đạo Cao Đài. Toàn quyền
Pierre Pasquier đã dùng thủ đoạn bí hiểm là tung tiền
mua chuộc một ít Nhà Văn bán rẽ lương tâm, chạy
theo danh lợi, không ngần ngại viết láo, vu khống,
mạ lỵ, nói xấu Tôn Giáo Cao Đài, gây luồn dư
luận hoàn toàn bất lợi cho Chức Sắc và Bổn
Đạo trên toàn quốc, cố tình làm xáo trộn nội
bộ Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh. Ngoài ra, Toàn Quyền
còn bí mật ra lệnh cho thuộc hạ tung tin xuyên tạc,
nhằm bôi lọ thanh danh Chức Sắc Tòa Thánh Tây Ninh một
cách quyết liệt, cùng mua chuộc một ít Chức sắc
non lòng nhẹ dạ, vì danh lợi riêng tư và muốn cầu
an. Họ đã vu khống một số Chức sắc làm
chánh trị chống Pháp bằng hình thức gom góp một số
tài liệu gọi là liên hệ đến chánh trị, phóng
đại lên làm hồ sơ hội kín, và kèm theo bản
phúc trình tố cáo là phản động, hầu xin chánh phủ
Pháp Quốc triệt hạ Tôn Giáo Cao Đài để tránh
mọi hiểm họa sau này. Số tài liệu vu khống ấy
đã được Toàn Quyền Pierre Pasquier mang theo mình để
đem về tâu trình với chính phủ Pháp. Chẳng may,
chiếc phi cơ chở vợ chồng Toàn Quyền
chưa kịp đáp xuống phi trường Pháp Quốc
thì đã bị cháy trên không, cả 2 vợ chồng Toàn Quyền
đều bị chết cháy trên phi cơ cùng với số
tài liệu đó. "Mưu sự
tại nhân, thành sự tại thiên" thật là một
linh ứng nhãn tiền, hại người trời hại
lẽ nào hơn.
Thiết nghĩ, Tôn Giáo Cao Đài làm gì nên tội,
mà Toàn Quyền Pierre Pasquier lại cố tình trù dập, tiêu
diệt để gánh lấy thảm họa đau thương
như thế. Âu cũng là định mệnh, gieo giống
nào nhất định phải gặt giống nấy.
Định luật tự nhiên của tạo hóa đã an
bày, không tài nào tránh khỏi. Thực dân Pháp nhìn vào vụ chết
của Toàn Quyền làm bài học kinh nghiệm xử dụng
uy quyền.
Ảnh hưởng của 2 thế lực, bắt
buộc người Tín Hữu Cao Đài xa lần Tôn Giáo để
khỏi bị khó khăn trong cuộc mưu sinh hằng
ngày, còn Hội Thánh thì không được trọn vẹn
liên hệ chặt chẽ với Bổn Đạo như
trước kia, đó là thâm ý của thực dân Pháp áp dụng
để phân hóa nền Đại Đạo, gây xáo trộn
nội bộ Chức Sắc Toà Thánh Tây Ninh. Nhưng thực
dân Pháp đã lầm, lầm một cách chua cay. Người
Tín Hữu Cao Đài cam chịu ẩn nhẩn sống yên lặng,
bởi họ thừa biết đạo Cao Đài là đạo
do Thượng Đế đặt để ra, nhất định
không có một quyền lực nào tiêu diệt được.
Nếu khôn ngoan sớm cởi mở những sai lầm may
ra chiếm lại được tình cảm của họ,
bằng không thì việc gì đến thì định sẽ
đến.
Đức Hộ Pháp đã can đảm gánh lấy
cả thù hận đặng bảo thủ hình thể đức
Chí Tôn tại thế này, thực hiện trọn vẹn sự
thương yêu. Ai lấp lửng chạm đến Ngự
Mã Thiên Quân thì rước lấy hậu qủa không sao tránh
khỏi.
Ngày 19-12-1931, Nhật báo "Progrès
Civique" đã khôn khéo nêu lên trang thứ nhất: "Sau nước Pháp là nước
Đức đã tiếp đón đạo Cao Đài một
cách nồng hậu và vì những lý lẽ đó ta không nên
đá động họ". Không phải hành động
như thế chỉ là theo nguyên tắc vì lòng nhân đạo
và sự tôn trọng luật pháp nước Pháp, mà cũng
vì một lối chánh trị khôn ngoan, bởi vì sự tàn
sát giết hại họ chỉ làm nảy sanh ra một
phong trào khác, không kém phần nguy hiểm hơn.
Nguyên văn Pháp Ngữ: "Après la France, L'Allemagne a été la
premlère à faire un bon accueil au CAODAISME. Par consequent, il faut les laisser
tranquilles, non pas settlement pour le principe par humanité et par le respect
des lois frangaises mais aussi par sagesse pilitique, parce que leur
persécution ne pourrait que faire naitre un autre mouvement qui, lui,
risquerait d'etre dangereux".
Đức Hộ Pháp thường
nhắc nhở Bổn Đạo: "Tôn Giáo Cao Đài
không thể làm công cụ, không làm con cờ của bất cứ
một ai. Cái thế của Tôn Giáo Cao Đài phải là cái
thế trường tồn, trường cửu, đứng
trên và đứng trước để hưóng dẫn đời,
hướng dẫn nhân sanh theo 3 tiêu chuần: Từ Bi, Bác
Ái và Công Bằng.
Biết trước nguy cơ sẽ
đến cho Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh TâyNinh một
ngày gần đây, ngày 12-6-Canh Thìn (16-7-1940), đức Hộ
Pháp cho lệnh gọi Huynh Giáo sư Thái Khí Thanh (Lâm Tài Khí) gốc
người Trung Hoa đến tận văn phòng Hộ
Pháp Đường để Ngài huấn giáo về mặt
đạo đức và thăng trầm tồn vong của
nền Đại Đạo trong tương lai, nhất
là phải ghi nhớ những lời chỉ dẫn quan trọng:
"nếu chẳng may Hội
Thánh gặp phải sự biến động, Hiền
Đệ nhớ thượng cờ Đạo và cờ
Trung Quốc lên các văn phòng, cùng dinh thự trong nội ô
Tòa Thánh. Trong lúc Bần Đạo vắng mặt tại
Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh, Hiền Đệ hãy thay mặt
Bần Đạo mà gìn giữ, bảo thủ sản nghiệp
của đạo". Đồng thời, đức
Hộ Pháp còn trao cho Hiền Huynh Giáo Sư một Thánh Lệnh
với lời ân cần phán dạy: "khi nào hữu sự thì Hiền Đệ xuất
trình Thánh Lệnh này". Vì biết trước Hội
Thánh sẽ phải gặp nhiều khó khăn, thử thách
của nhà đương qụyền thực dân Pháp, nên
Ngài mới chọn Giáo sư Thái Khí Thanh là một chức sắc
có đủ tánh nhẫn nhục, chịu đựng được
để vượt qua mọi thử thách, áp đặt
của họ. Thật ra lúc bấy giờ Hội Thánh còn nhiều
Chức Sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng
Đài, nhất là trong hàng phẩm Giáo Sư còn nhiều vị
có khả năng, đạo đức, nhưng đức
Hộ Pháp lại chọn Hiền Huynh Giáo Sư Thái Khí Thanh,
một chức sắc gốc người Trung Quốc để
bổ nhiệm làm đại diện cho Hội Thánh Cao
Đài Tòa Thánh Tây Ninh, và lại không nhìn nhận Giáo sư Thượng
Vinh Thanh. Âu cũng một sự “tiên
đoán” biết trước việc xảy trong nền
Đại Đạo.
Ngày 16-6-1940, Toàn Quyền Đông
Dương Decoux chỉ thị cho thực dân Pháp đóng cửa
Tòa Thánh Tây Ninh và các Thánh Thất Cao Đài trên toàn quốc.
Đồng thời tung tin là lính mật thám Pháp sẽ bắt
đức Hộ Pháp, dụng ý của họ lúc bấy giờ
là: "dụ hổ ly sơn",
cố tình gây chấn động hoang man cho Bổn Đạo,
để thỉnh cầu đức Hộ Pháp lánh mặt
khỏi Tòa Thánh, đi ẩn tránh nơi khác, làm mất
đi hậu thuẩn của Bổn Đạo để
dễ dàng xuyên tạc. Vì cảm mến và tôn kính đức
Hộ Pháp, có một số thân hữu trước kia ỏ
SàiGòn và một số Chức sắc đến ngõ lời
yêu cầu Ngài nên tạm lánh mặt một thời gian cho
qua cơn sóng gió. Đức Hộ Pháp vui vẻ đáp lời:
"Bần Đạo cám ơn
các bạn lo lắng cho Bần Đạo, nhưng Bần
Đạo không thể lánh mặt được. Bần
Đạo là kẻ đứng mũi chịu sào, lãnh đạo
Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, Bần Đạo
đủ can đảm chấp nhận và chờ đợi
thái độ lẫn hành động của cường
quyền Pháp đối vói Bần Đạo như thế
nào cho biết. Đức Chí Tôn bảo Bần Đạo
ngồi nơi đây, ở nơi đây, sống chết
vẫn nơi đây, ôm chân Ngài dầu cho mảnh thân này có
phải bị tiêu diệt để bảo trọng nền
Quốc Đạo, thì Bần Đạo cũng không bước
ra khỏi đây một bước". Cao qúi thay! với
đức tin vững chắc, tinh thần bất khuất,
trong sáng, xem thường mọi hiểm nguy bất luận
từ đâu đến, đức Hộ Pháp vẫn bình tĩnh
và thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra vậy.
Sau khi đức Quyền Giáo Tông
Thượng Trung Nhật qui thiên ngày 19-11-1934, biết bao
nhiêu chuyện rối rấm liên tiếp diễn ra trong nội
bộ Hội Thánh. Các chi phái dưới sự yểm trợ
của thực dân Pháp, kéo về Toà Thánh áp đảo Hội
Thánh đủ mọi mặt, song đức Hộ Pháp vẫn
bình tĩnh lèo lái con thuyền Đại Đạo vượt
qua mọi thử thách cho đến ngày Hội Thánh Cửu
Trùng Đài và Hội Vạn Linh đồng yêu cầu đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc nắm quyền Chưỏng
Quản Nhị Hữu Hình Đài, Hiệp Thiên và Cửu Trùng
ngày mùng 6-11-Giáp Tuất (12-12-1934), trong thời kỳ nền
Đại Đạo đang gặp hồi khó khăn, chức
sắc Hội Thánh bị phân hoá trầm trọng do thực
dân Pháp xúi giục và yểm trợ các chi phái.
Ngày 14-5-Tân Tỵ (4-6-1941) lính mật
thám Pháp xâm nhập nội ô Tòa Thánh Tây Ninh bắt đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc đưa đi an tri tại
Djiring. Ngày 17-6-Tân Tỵ (11-7-1941) lính mật thám Pháp đột
nhập nội ô Tòa Thánh lần thứ hai bắt thêm 5 vị
Chức sắc cao cấp: Đại Huynh Khai Pháp Trần Duy
Nghĩa, Phối Sư Ngọc Trọng Thanh, Phối Sư
Thái Phấn Thanh, Giáo Sư Thái Gấm Thanh, và Sĩ Tải
Đỗ Quang Hiển, cả 5 vị Chức Sắc đều
bị dẫn giải về giam tại SàiGòn. Cho đến
ngày 27-7-1941, đức Hộ Pháp và 5 vị Chức Sắc
được đưa xuống tàu cùng 12 Chánh Trị Phạm
tại bến cảng Nhà Rồng SàiGòn để đày
sang Madagascar (Phi Châu).
Sau bao ngày đêm trôi nổi trên biển
cả, 18 vị Chánh Trị Phạm Việt Nam được
đưa thẳng tới trại giam Noay Leva Comores thuộc
miền bắc Madagascar, khi đến nơi thì gặp thêm
11 vị Chánh Trị Phạm Việt Nam khác đã bị
Pháp đưa đến đây trước một tháng, nâng
tổng số tù Chánh Trị Việt Nam tại Noay Leva Ccoores
là 29 vị. Ngoài 6 vị Chức Sắc Cao Đài, hầu hết
thuộc Đảng Viên Cộng sản, trong đó có 2 vị
thành phần đệ tứ quốc tế là Nguyễn Thế
Truyền và Nguyễn Thế Song.
Vị Toàn Quyền Đông Dương
lúc bấy giờ hóng hách tuyên bố: "Chẳng 1ẽ tôi đưa họ vào hàng Thánh Tử
Đạo, thừa cơ hội có chuyến tàu sang Quân Cảng
Diogo Saurez của nước Madagascar, tôi gởi ông Hộ
Pháp Phạm Công Tắc cùng đoàn tùy tùng của ông ta qua tạm
nghỉ suốt đời tại đó". Lời biếm
nhẻ ngạo nghễ của người cầm quyền
đã trắng trợn bộc lộ chân tướng chánh sách
tiêu diệt những Chức Sắc Cao Đài quá ư rõ rệt.
Cuộc sinh sống hàng ngày của
29 vị Chánh Trị Phạm Việt Nam tại trại giam
Noay Leva Comores thể hiện tình người, không phân biệt
Đảng Phái, Tôn Giáo, mà chỉ biết nhìn nhau là nạn
nhân của cường quyền Pháp. Tuy nhiên trong hoàn cảnh
tù tội mất tự do, tinh thần bị căng thẳng,
nên không sao tránh khỏi những cuộc tranh luận lẫn
nhau về Quốc Gia và Cộng Sản, nhưng mọi sự
đều được kết thúc trong tình tương
nhượng hoà nhã với nhau.
Đến cuối năm 1942, tình
hình thế giới biến chuyển, số tù Chánh Trị
Việt Nam được lệnh di chuyển về miền
nam Madagascar. Ông Freydier, Trưởng Trại Noay Leva Comores
truyền lịnh cho 27 vị Chánh Trị Phạm lên 2 chiếc
xe vận tải, có lính hộ tống đưa thẳng về
miền nam Madagascar (tổng số 29 vị Chánh Trị Phạm,
chết 2 vị, còn lại 27 vị). Cuộc di chuyển
27 vị Chánh Trị Phạm từ trại miền bắc
về miền nam Madagascar vô cùng vất vả, ròng rã suốt
5 ngày đêm không nghĩ. Mãi đến ngày thứ 6, sau khi
qua một con phà, 2 chiếc xe chở 27 Chánh Trị Phạm
và lính hộ tống mới tới một thung lũng
đồn điền trồng mía và cà phê của một
người Pháp, và đoàn xe được dừng lại
trước trại giam Voutrouzou. Trại trưởng
Freydier cho lệnh 27 Chánh Trị Phạm Việt Nam vào trại
giam sau bao ngày mệt nhọc di chuyển từ bắc chí
nam Madagascar.
Tháng giêng năm 1943, Trưởng
Trại Freydier hướng dẫn đưa một phái
đoàn sĩ quan Anh Quốc vào tận trại giam , thăm
hỏi các Chánh Trị Phạm, tiếp xúc với các đảng
viên cộng sản rất thân mật. Kế tiếp
được tin một vị Tướng Pháp De Gaulie
thành lập chánh phủ lưu vong và chánh quyền Pháp tại
Madagascar chuyển giao cho chánh quyền Anh Quốc đến
thay thế cai trị Madagascar. Ông Freydier Trưởng Trại
Voutrouzou bàn giao trách nhiệm cai quản trại giam cho một
Sĩ Quan Anh Quốc, và sự sinh sống của 27 Chánh Trị
Phạm Việt Nam được phần dễ dàng thoải
mái hơn những năm về trước.
Sau khi nghe tin quân đội Liên xô đánh
bậc Đức Quốc Xã ra khỏi Leningrad, thi chỉ
trong vòng 5 tuần lễ sau, có phái đoàn quân đội
đồng minh, do một Sĩ Quan Anh Quốc làm trưởng
đoàn vào trại giam Voutrouzou ân cần tiếp xúc với
các Chánh Trị Phạm Việt Nam, Đảng Viên Cộng
Sản anh Lê Giang, Hoàng Hữu Nam, Nguyễn Văn Ngọc,
Đinh Công Hoạt, Hoàng Đình Rồng, và sau cuộc tiếp
xúc thân mật này, 4 anh đảng viên cộng sản
được viên sĩ Quan Anh Quốc rước ra khỏi
trại giam, để đi học khóa quân sự tại
Calcutta (Ấn Độ). Được nghe lại, sau khi
tốt nghiệp khóa quân sự tại Calcutta, 4 anh Đảng
viên cộng sản: Lê Giang, Hoàng Hữu Nam, Nguyễn Văn
Ngọc và Đinh Công Hoạt được quân đội
đồng minh đưa về Đông Dương vào tháng
9 năm 1944, cả 4 anh này được cho nhảy dù
đột nhập xuống chiến khu thuộc tỉnh
Cao Bằng (Miền Bắc Việt Nam) để liên lạc
với nhóm kháng chiến chống Phát Xít Nhật Bổn tại
vùng Cao Bằng để giải thoát số tù binh Pháp còn bị
Nhật Bổn giam giữ trong rừng.
Sau này ông Lê Giang được để
cử làm Giám Đốc Công An Nhân Dân đầu tiên của
chánh phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại
Hà Nội năm 1945, và nghe đâu đến năm 1980, ông Lê
Giang được vinh thăng lên tối cao Pháp Viện nước
VNDCCH. Riêng phần số Chánh Trị Phạm Việt Nam còn
lại tại trại giam miền nam Madagascar, mãi đến
năm 1945, nước Madagascar được Anh Quốc
trao trả chủ quyền độc lập tự do,
chánh phủ Madagascar thông cảm hoàn cảnh tù đày của
số Chánh Trị Phạm Việt Nam, nên khoan hồng phóng
thích cho 23 người còn lại được tự do tạm
trú sinh sống trên lãnh thổ Madagascar để chờ ngày
hồi hương về cố Quốc. Trong số Chánh Trị
Phạm Việt Nam còn tạm sống trên đất nước
Madagascar, đức Hộ Pháp là người chánh quyền
Madagascar chiếu cố và ưu ái nhất, bởi vì trong thời
gian còn bị giam tại trại Voutrouzou, đức Hộ
Pháp có sáng kiến giúp đỡ dân bản xứ ở chung
quanh trại giam biết sử dụng cối xay lúa và cối
giã gạo, vì dân tộc Madagascar lúc bấy giờ còn lạc
hậu, chỉ biết giọt lúa, chớ chưa biết
xay lúa theo phương pháp của người Việt Nam
đã sử dụng từ lâu. Được sự hướng
dẫn sử dụng cối xay lúa, đồng bào Madagascar
vô cùng mừng rỡ, và cám ơn đức Hộ Pháp
đã nhiệt tình giúp đỡ chỉ dẫn cho họ biết
sử dụng cối giả gạo, làm cho hạt gạo
càng trắng thêm, và còn được thêm một số cám
nhuyễn để làm bánh in ăn hàng ngày. Hơn nữa,
có một năm bị hạn hán, các giếng nước đều
bị khô cạn, đồng bào Madagascar đang lâm nguy lo lắng,
thì đức Hộ Pháp hướng dẫn lấy nước
từ trong khe suối đưa về bằng những ống
tre nối tiếp từ sườn núi chạy về tận
thung lũng cho đồng bào có nước dùng, như thế
đồng bào Madagascar được thoát qua cơn hạn
hán.
Đồng bào Madagascar từng sống
dưới cảnh lệ thuộc Pháp, rồi Anh Quốc cai
trị, nên rất thông cảm cho 23 vị Chánh Trị Phạm
Việt Nam đang tạm sống trên lãnh thổ Madagascar chờ
ngày trở về quê hương. Sau khi chánh phủ Pháp lập
bang giao với Madagascar, ông Bộ Trưởng Ngoại Giao
Madagascar liền đề cập với ông Đại Sứ
Pháp tại Madagascar về vấn đề giao trả tự
do cho 23 Chánh Trị Phạm Việt Nam mà chánh phủ Pháp
đã đưa đến giam cầm Madagascar vào năm
1941 về Việt Nam càng sớm càng tốt. Nhờ sự
nhiệt tình của ông Bộ Trưởng Ngoại Giao
Madagascar, nên ông Đại Sứ Pháp tại đây phải
phúc trình về chánh phủ Pháp tại Paris lo phương tiện
di chuyển 23 vị Chánh Trị Phạm về Việt Nam.
Mãi đến giữa năm 1946, mới có một chuyến
tàu buôn của Pháp cập bến Quân Cảng Diego Suarez để
rước 23 chánh trị phạm do Đại Sứ Pháp
đôn đốc sự chuyển vận, cùng chào tạm biệt,
23 Chánh Trị Phạm đều xuống tàu trở về
Việt Nam bình yên. Nổi khổ tâm của đức Hộ
Pháp lúc bấy giờ là trong 6 vị Chức sắc bị
thực dân Pháp bắt đày qua Madagascar, hôm nay được
trở về quê huương xứ sở đoàn tụ
gia đình, mà lại vắng bóng 2 vị Chức sắc là Giáo
Sư Thái Gấm Thanh và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển,
đã gởi nấm xương tàn trên lãnh thổ Madagascar,
chỉ còn 4 vị Chức Sắc già nua, ốm yếu, tóc
bạc phơ. Khi chiếc tàu buôn vừa cập bến Cap
Saint Jacques Việt Nam (nay là vũng Tàu), thì chánh quyền Pháp
tại tỉnh này cho lịnh rước đức Hộ
Pháp lên bờ, còn lại 22 Chánh Trị Phạm thì cho di chuyển
qua một chiếc tàu nhỏ hơn, rồi đưa thẳng
vào bến Nhà Rồng Sàigòn.
Sau khi được đưa lên
đất liền, tỉnh lỵ Cap Saint Jacques, đức
Hộ Pháp được nhà cầm quyền Pháp lưu giữ
lại 3 ngày, chờ có chuyến phi cơ để
đưa về SàiGòn một cách âm thầm, không thông báo cho
Hội Thánh, hoặc người trong gia đình biết.
Đến khi chiếc xe hơi chở đức Hộ
Pháp đến tận nhà ông Sĩ Tải Nguyễn Văn Hợi,
đường Colonel GriMaud (nay là đường Cống Quỳnh),
đức Hộ Pháp đi thẳng vào nhà thì gặp Hiền
Huynh Giáo Sư Thượng Sách Thanh đang ngồi trong nhà,
thình lình nhìn thấy đức Hộ Pháp bước vào
nhà, Giáo Sư Thượng Sách Thanh liền chạy đến
ôm chồm lấy đức Hộ Pháp, xúc động, nghẹn
ngào, đổ lụy, không nói ra lời, sau 5 năm 3 tháng 2
ngày xa cách. Được nghe có tiếng vang động ở
nhà trên, ông Sĩ Tải Hợi cùng một số chức sắc
ở nhà dưới liền chạy lên thì gặp ngay đức
Hộ Pháp, hết sức vui mừng không sao tả xiết.
Đức Hộ Pháp phải tạm ở lại nhà ông Sĩ
Tải Hợi 3 ngày để lo thủ tục trình báo tại
SàiGòn, và sau đó được ông Sĩ Tải Hợi và
Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) đưa
về Tòa Thánh Tây Ninh. Đức Hộ Pháp ngồi trên xe của
Giáo sư Thượng Vinh Thanh, còn xe của ông Sĩ Tải
Nguyễn Văn Hợi thì chở một số chức sắc
tháp tùng chạy theo đoàn xe hộ tống của quân đội
Pháp vừa chạy mở đường, vì lúc bấy giờ
đường lưu thông SàiGòn-Tây Ninh rất khó khăn,
thường bị Việt Minh ngăn chận, nên bắt
buộc các loại xe tư nhân phải chờ đến
ngày có xe quân đội Pháp chạy mở đường thì
mới chạy theo. Một tuần lễ chỉ có 2 chuyến
xe quân đội Pháp mở đường hộ tống,
nên mãi đến ngày 22-6-1946, đức Hộ Pháp mới
được đưa về tới Tòa Thánh Tây Ninh, trước
hàng vạn Tín Hữu và Chức Sắc nam nữ, cùng binh
sĩ Cao Đài ngưỡng vọng nghinh tiếp vô cùng trọng
thể. Vừa bước chân tới Tòa Thánh thì đã có sẵn
binh sĩ Cao Đài là nỗi bâng khuâng của đức Hộ
Pháp trước làn tên mũi đạn của Việt Minh
kháng chiến và quân đội Pháp, và nhất là đồng
bào, cũng như Bổn Đạo Cao Đài đang sống
bơ vơ không nơi nương tựa. Đức Hộ
Pháp ngậm ngùi than rằng: "Còn
thiếu 1 năm 10 tháng mới may ra giải khổ nạn
ách cho dân tộc Việt Nam chấm dứt được,
lẽ dĩ nhiên luật công bình thiêng liêng của tạo
hóa, ta dầu muốn cũng không thể sửa cải được".
Cả Hội Thánh, Chức sắc
và Bổn Đạo làm sao thấu rõ lời "tiên đoán" vận mạng
của nước nhà sau 5 năm 3 tháng 2 ngày bị tù đầy
ở Madagascar (Phi Châu), mới trở về cố quốc
đã trở thành hiện thực buổi sau này. Có phải
chăng đức Hộ Pháp đã "tiên đoán báo hiệu" cho Hội Thánh, Chức
Sắc và toàn thể Bổn Đạo nam nữ biết
trước rằng: đức Ngài còn phải chịu thêm
một lần khổ hạnh nữa, phải lưu vong, rồi
bỏ xác nơi đất khách quê người, cũng
như Văn Vương phải chịu thọ nạn khổ
hạnh 7 năm nơi Vũ Lý, đã gầy dựng sự
nghiệp nhà Châu buổi nọ. Vào ngày 16-2-1956, đức Hộ
Pháp một lần khổ hạnh nữa, tự nguyện
lặng lẽ rời khỏi Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh
cùng với một số Chức Sắc thân tín lưu vong
qua nước Cao Miên, nơi đây Ngài đã đề
xướng Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống, dung hòa 2 khối Cộng
Sản và Tư Bản, cả hai đều là con cái của
Thượng Đế, phải sớm biết nhau và
tương nhượng nhau trong tình huynh đệ, để
rồi đức Hộ Pháp thoát xác qui thiên ngày 17-5-1959 với
lời di ngôn: "Bần đạo
cùng chung chịu cảnh chia đôi của đồng bào 2
miền Nam Bắc Việt Nam, Bần đạo đã tiên liệu
rồi, việc phải đến sẽ đến, nước
nhà chưa thống nhất thì gấp gì mà hồi loan. Vậy
phải bình tâm chờ một thời gian nữa sẽ thấy
thiên cơ xoay chuyển có lợi cho Việt Thường về
mặt tinh thần".
Đức Hộ Pháp thường
nhắc nhở và phán dạy Bổn Đạo: Ngày nay
đức Chí Tôn, đức Thượng Đế tối
cao, tối trọng đến hoằng khai đạo Cao
Đài. Nghĩa là đem đến đền thờ cao và
đức tin lớn tại thế này để gây dựng
nên nền Đại Đạo, mượn một sắc
dân hèn hạ, nhỏ bé ở hướng Á Đông là Việt
Nam cho lời tiên tri "Đạo
Xuất Ư Đông", đúng với Thánh ý chìu lụy,
hạ mình của Thầy, lập thành Hội Thánh Cao
Đài làm hình thể của Thầy hầu cầm cho đặng
dùi trống lôi âm dục vọng truy hồn, nắm cho chắc
chày chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định
tánh, làm cho con cái Ngài thức tỉnh nhìn thấy nhau mà trở
về quê cũ. Tuy Thầy hạ mình chìu lụy để
làm gương cho Hội Thánh, xét ra quả nhiên thấy rõ
ràng Thầy tránh khỏi mang xác thân hèn hạ của kiếp
sanh làm người, đến thế với một thể
thống vinh diệu thiêng liêng không hình mà làm cho chúng ta thấy,
không nói mà chúng ta nghe, giao cho chúng ta giữ trọn quyền
hành của Ngài nơi tay mà điều đình mối đạo.
Cái oai quyền ấy có ảnh hưởng cho nền đạo
biết là bao, Thầy dùng phép lương tâm, quyền tình
ái làm cho cả nhân loại thấy rõ mặt Thầy, hầu
nhìn lẫn nhau trong Thánh Đức của Thầy mà cộng
yêu hòa ái: "Cộng Hòa! Cộng Hòa!" ấy là hai lời Châu Ngọc của Thầy để vào lòng của mọi người, mình biết cộng hòa mới
làm cho cả xã hội quốc dân cộng
hòa, rồi làm gương cho rực rỡ quang minh, mà
truyền bá cả tư tưởng cao thượng ấy
cho ra khắp toàn cầu, cho cả nhân loại
đặng cộng hòa đại đồng thế giới.
Ấy là phận sự tối cao tối trọng
của Thầy đã phú thác cho chúng ta, nếu chúng ta không
xem phận sự ấy trọng hệ, lại vì công danh, quyền lợi mà thù nghịch lẫn nhau, từ Thầy phản bạn, thì chúng ta có đáng làm con cái, tôi tớ của Thầy
chăng?
Thầy thì sợ phàm tâm, tục tánh nên lập luật pháp rất
nghiêm để buộc cả Hội Thánh kết
hợp lại với nhau thành một đại gia
đình. Luật thì có tân luật, pháp thì
có Pháp Chánh Truyền, Quyền thì có Tòa Tam Giáo, ấy là cái
còi, cây gậy, hàng rào thiêng liêng đang lùa cả đàn chiên
của Thầy hợp chung lại với nhau làm một.
Nhưng tiếc thay! Kẻ chăn chiên chẳng biết
lóng tiếng còi, đoàn chiên không kiên ghê cây gậy, hàng rào thưa rịch thưa rang, để
đến nỗi bầy sói lũ hùm bắt chiên Thầy
phân thây xé thịt!
Tại Hội Thánh cũng chưa
nên Hội Thánh, chức sắc thiên phong có cũng như không, có bóng không hình, làm cho thân Thầy không đủ quyền
hành mà xoay chuyển thiên thơ (Plan Divin) hầu đối địch
quyết thắng tà mưu nhiều hại. Cả Thánh Ngôn
của Thầy dạy dỗ chúng ta từ buổi khai đạo đến chừ đã hiện
thành chơn pháp, tân pháp, mà ngày nay chúng sanh còn chưa hiểu thấu. Phần nhiều người lạm dụng
vào bậc thiên phong, lấy tà tâm bẻ
bai biếm nhẻ, chớ chẳng chịu truyền bá lời
lành làm cho kẻ đạo tâm xiêu đường lạc
ngỏ. Nếu cơ đạo dường
này thì chúng ta mong chi tận độ chúng sanh và thành lập
thể đạo cho được.
Đạo có thể pháp làm ngoại dung, và bí pháp làm nội dung, mà thể pháp
tác thành 10 điều chẳng đặng 3, còn bí pháp thì chưa ai hiểu thấu.
Điều này làm cho đạo mất giá trị trước mặt chúng sanh, đức tin càng
ngày càng khuyết giảm, để cho các Tôn Giáo khác công
kích chánh truyền mà hại cho
người hết lòng vì đạo phải ngại ngại
lo lo về điều hư thiệt. Bởi cớ nên biết bao Tiên, Phật đã
giáng trần cùng khắp Thái Tây cho tiên tri về nền chánh giáo, những người bền vững cần tu mới mong giữ vẹn đức tin nhập vào cửa
đạo. Cơ khảo đạo ngày nay xem quả vậy.
Bần đạo tưởng
chúng ta đã nặng mang trách nhiệm nơi mình, mà nếu chúng ta không có đởm tâm liệu mình tự xử, thì
mong minh đoán cùng ai? Bần đạo nói thẳng rằng, tại nơi lòng thành yếu
ớt của chúng ta không dụng cả công tâm mà điều
đình chánh giáo, lại để nể nể vì vì,
làm gương xấu cho kẻ khác, tiếng bua danh, gây phe
đảng, lập tư riêng làm nên thế lực, ngày nay
đã có độc lập tự quyền cũng do bởi
đó. Trong mình chúng ta có 2 người: một là Ta, hai là chức
sắc thiên phong, nghĩa là tôi tớ của Thầy, với chúng ta dầu cho tan xương,
nát thịt với một kiếp sống thừa này không chi rằng hại, duy hại là hại cho phận sự thiêng liêng. Nếu
chúng ta không biết cao trọng mà giữ tròn trách nhiệm đặng bảo thủ cái
cơ nghiệp chung của cả nhân sanh, là đạo ngày nay đây thì cái tội tình trước mắt Thầy tính coi bao lớn?
Vậy thì chúng ta nên chung công hiệp
sức cùng nhau kể từ đây nhất định
chẳng cho ai phạm quyền mình, vì quyền mình là quyền Thầy,
dầu cho còn một mặt tín đồ đi nữa thì Hội
Thánh cũng phải giữ quyền Hội Thánh, xúm xích
nhau, mạnh yếu, tùy phương bảo thủ, cây Cờ
Đạo của Thầy là Tòa Thánh. Gắng tạc thành sừng
sửng tại miền cực đông nơi Nam Việt này
một cái Cao Đài, đặng làm ngọn đèn soi sáng
đến cảnh cộng hòa của toàn thế giới.
Thiết nghĩ đã trên 50 năm
qua, đức Hộ Pháp đã để lời phán dạy:
nhắc nhủ toàn cả chức sắc
và bổn đạo nam nữ phải
đoàn kết thương yêu, công bằng đối xử lẫn nhau để dành giữ
bảo thủ cơ nghiệp Đại Đạo hôm
nay trở thành hiện thực, và lời tiên
đoán của Ngài mãi mãi ghi sâu vào tâm não của mỗi Tín Hữu đời đời kiếp kiếp ... Mục
tiêu chánh yếu của đạo Cao Đài là lo cho toàn thiên
hạ được tự do, hạnh phúc, vì lý do cao cả
ấy mà đức Hộ Pháp phải trọn hy sinh. Vì lẽ bất công đương nhiên mà đức
Chí Tôn đã giáng cơ phán dạy: "Ngày nào còn tồn tại một lẻ bất
công trên mặt thế này thì đạo chưa thành".
Đức Hộ Pháp hằng hướng dẫn
và huấn giáo chức sắc cùng cả Bổn đạo:
I - PHƯƠNG
LUYỆN KỶ ĐẶNG VÀO CON ĐƯỜNG THỨ BA ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
- Phải biết
thân thích cùng cả nhân vật, tức là tìm nguyên do của vạn
linh cùng chí linh.
- Phải
ân hậu và khoan hồng.
- Phải
thanh nhàn đừng vị kỷ.
- Phải
bình tĩnh, nghĩa là đừng chịu ảnh hưởng
của họa phước buồn vui. Tập tánh không
không, điềm nhiên, vui cũng vui, buồn cũng buồn,
nhưng đừng để nọc buồn vui xâm nhập
vào chơn tánh.
- Phải
độ lượng khoan dung tha thứ.
- Phải
vui vẻ điều hòa, tự chủ và quyết đoán.
- Phải
giữ linh tâm làm văn bổn, hiếu hạnh với Chí Tôn và Phật Mẫu.
II - PHƯƠNG
PHÁP TRỊ TÂM VÌ TÂM LÀ HÌNH ANH THIÊN LƯƠNG:
- Đức
tin và khôn ngoan là kho chí bửu.
- Ai đã cố
oán kẻ thù mình thì khó giữ thanh tâm công chánh cho đặng.
- Ai chẳng oán hận
mới thắng được kẻ thù nghịch cùng mình.
- Sự cừu
hận là khối thảm khổ đệ nhất của nhân sanh, nên người hiền
thì không biết đến hay là từ bỏ cừu hận
oán ghét.
- Thắng
đặng khí nộ mình thì không chọc ai giận dữ.
- Lấy
thiện mà trừ ác.
- Lấy
nhân nghĩa trừ bạo tàn.
- Lấy lòng quảng
đại mà cởi mở tâm lý hẹp hòi.
- Lấy
chánh trừ tà.
- Ấy là
đường thương huệ kiếm.
III - LUYỆN THÂN LUYỆN
TRÍ:
- Ẩm thực
tinh khiết.
- Tư tưởng
tinh khiết.
- Tin tưởng
mạnh mẽ nơi Chí Tôn và Phật Mẫu.
- Thượng
yêu vô tận.
- Ấy là
chìa khóa mở cửa Bát Quái Đài tại thế này.
Đức Hộ Pháp vì hạnh phúc của nhân loại
mà quyết tâm thực hiện cho kỳ được bác
ái, công bằng, vị tha và đại đồng thế giới.
Người Tín Hữu Cao Đài đã trọn hy sinh xương máu từ thuở khai
sinh đạo cho đến bây giờ cũng chỉ vì mục đích ấy. Muốn cho đạo Cao
Đài có giá trị nơi mặt thế này mà đi chưa tới mục
tiêu ấy, tức là công trình cấy lúa trên đá vậy! Trước hoàn cảnh hổn loạn
của đất nước Việt Nam lúc bấy giờ,
đồng bào đang tranh tối, tranh sáng, người Tín
Hữu Cao Đài đang sống dưới 2 làn tên mũi đạn
của quân đội Pháp và Việt Minh. Với trọng
trách là Hộ Pháp, Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng, đức Hộ Pháp triệu tập
đại hội Nhân Sanh, hầu chấn hưng nền
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và phục
quyền Vạn Linh.
Nhân ngày đại lễ vía Đức
Chí Tôn, mùng 9 tháng Giêng năm Đinh Hợi (1947) đức
Hộ Pháp long trọng nhắc nhở Chức sắc và
phán dạy Bổn đạo: "Đừng
để ngoại bang xâm nhập vào nội quyền Việt
Nam đưa đến cảnh tương tàn, tương
sát, và làm một món hàng cho các cường quốc đổi
chác". Thể hiện tấm lòng ưu ái trước
bao áp lực, đức Hộ Pháp để lời phán dạy:
"Hồ Chủ Tịch
đánh, Bần đạo đòi, kẻ đánh người
đòi, nhất định nước Việt Nam sẽ
độc lập, tự do", với chủ
trương bất bạo động "Bất chiến tự nhiên thành" đức Hộ
Pháp hằng giải thích cho Chức Sắc và Bổn Đạo
biết rõ đường lối bất bạo động
chủ trương có điểm đặc biệt là
không chọc tức một ai! (Đường lối bất
bạo động của Thánh Gandhi trước kia, đôi
khi còn gây bực tức cho người Anh.) Người Tín
Hữu Cao Đài mãi ghi nhớ lời phán dạy của
đức Hộ Pháp: "Bần
đạo lúc nào cũng không muốn giải quyết vận
mạng nước nhà bằng quân lực, mà phải dùng
phương pháp đạo đức đặng đem
hòa bình hạnh phúc lại cho giống nòi".
Xét thấy sơ ước 6-3-1946
ký kết giữa Hồ Chủ Tịch và Sainteny thì chánh phủ
Pháp không thật tâm giải quyết vấn đề Việt
Nam trên bàn Hội Nghị, thay vì chánh phủ Pháp phải hội
đàm với phái đoàn chánh phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa do Hồ Chí Minh dẫn đầu diễn ra tại
Paris, nhưng chánh phủ Pháp lại né tránh đưa Hội
Nghị về Foutainebleau để thảo luận, và hiệp
định Foutainebleau được ký kết ngày 14-9-1946
giữa Tổng Trưởng bộ ngoại giao M. Marius
Noutet và Hồ Chí Minh Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ cộng
Hòa. Tiếp theo là chánh phủ Pháp chỉ thị cho quân
đội Pháp tại Việt Nam tấn công "đánh chiếm" Hải
Phòng ngày 20-11-1946, gây cảnh tang tóc cho đồng bào Việt
Nam. Mãi đến ngày 19-12-1946, đúng 8 giờ sáng, tiếng
súng tổng tấn công của Việt Minh mới bắt
đầu nổ trên toàn quốc. Bao thảm trạng thương
tâm đã đến với đồng bào và bổn đạo
Cao Đài, gánh lấy sự trả quả vô cùng tàn bạo
của quân Pháp lúc bấy giờ, và lệnh "tiêu thổ kháng chiến"
đã ban hành.
Không thể ngồi yên trước
làn tên mũi đạn của Pháp và Việt Minh kháng chiến,
đức Hộ Pháp có văn thư gởi đến cụ
Chủ Tịch Hồ Chí Minh xin cứu xét lại lệnh
"tiêu thổ kháng chiến" bởi bên Trung Quốc
người đông đất rộng có thể áp dụng
được, còn nước Việt Nam quá nhỏ bé! Ngày
12-8-Đinh Hợi (1947) đức Hộ Pháp đến viếng
thăm trường Qui Thiện (Trí Giác Cung) do Hiền Huynh
Đinh Công Trứ làm chủ trưởng, nhìn thấy
trường Qui Thiện thượng lá cờ trắng (bạch
kỳ) đức Hộ Pháp liền giải thích cho Hiền
Huynh Đinh Công Trứ biết rõ ý nghĩa cà bạch kỳ
"về ý nghĩa của lá
cờ trắng là biểu tượng cho Hòa Bình, nhưng lá
cờ trắng chỉ dùng khi nòi giống trong nước
xô xác nhau, cốt nhục tương tàn khốc liệt, vô
phương cứu chửa, thì ngày ấy mới đúng ý
nghĩa của nó".
Đức Hộ Pháp nhắc lại
lịch sử thuyết Nhan Hồi, tức ông Nhan Uyên, học
trò của đức Khổng Phu Tử trước kia, để
cho Hiền Huynh chủ trưởng trường Qui Thiện
hiểu rõ thêm giá trị của lá cờ trắng, (và lá cờ
trắng tại trường Qui Thiện được hạ
xuống). Cầm bạch kỳ xông pha ra giữa chiến
trường để giải thích cho đôi bên nghe, và hiểu
điều hơn lẽ thiệt, giúp cho đôi bên thấu
triệt đạo nghĩa, hầu lui binh, tránh cho nhân sanh khỏi
thảm họa tiêu diệt lẫn nhau. Đó là chủ thuyết
của Thầy Nhan Hồi mà đức Hộ Pháp vừa
sơ lược "sử
tích" để chỉ dẫn cho Hiền Huynh Đinh
Công Trứ, chủ trưởng trường Qui Thiện,
và cũng là một sự tiên ứng sau này. Đó là sau khi
Hiệp Định Génève 20-7-1954 không được tôn trọng,
đức Hộ Pháp đề xướng Bản Cương
Lĩnh Chính sách Hòa Bình Chung sống ngày 26-3-1956. Chỉ định
cho Trung Tá Lê Văn Thoại (nay là Hữu Phan Quân HTĐ)
hướng đưa một phái đoàn mang bạch kỳ
(cờ trắng) ra tận nhịp cầu thứ 2 của cây
cầu Hiền Lương (Bến Hải) thuộc vĩ
tuyến 17, là nơi ranh giới chia đôi Nam-Bắc Việt
Nam, để thượng bạch Kỳ lên, hầu kêu gọi
chánh phủ 2 miền Nam-Bắc đừng "tuân lịnh" ngoại bang xúi giục, mà gây
cuộc tương tàn, nồi da xáo thịt, như thảm
họa Chúa Nguyễn - Trịnh phân tranh trước kia vậy.
Ngày 17-1-1949, đức Hộ Pháp có văn thư số: 115/HP-TTVP.
gởi cho Thượng Sứ Pháp tại Đông
Dương và Đại Tướng Blaizot, Tổng Tư
Lịnh Quân Đội Pháp tại Viễn Đông biết
rõ về đường lối trung lập của Tôn Giáo
Cao Đài. Nội dung văn thư viết ...... sự hiện
diện những tổ chức Quân Bị Cao Đài chúng tôi
đã đến giai đoạn không cần thiết nữa,
chúng tôi sẽ đứng Trung Lập, và đó là lập
trường sau này của chúng tôi. Chúng tôi để cho nhà
binh Pháp tự do định liệu ngày giờ chúng tôi giao
hồi khí giới, ước mong được sớm
ngày nào tốt ngày nấy. Còn đối với Việt Minh
kháng chiến thì thuộc về nội bộ người
Việt Nam chúng tôi tự giải quyết cùng nhau......
Vì lòng ái quốc thương sanh,
vì sự tồn vong của tổ quốc và giống nòi,
đức Hộ Pháp không thể điềm nhiên để
cho ngoại bang mưu đồ áp đặt dày xéo đồng
bào, nên sau khi nghe tin Pháp và Việt Minh ký hiệp ước
chia đôi Hoàng Đồ Việt Nam tại bàn hội nghị
Génève 1954, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Đức
Hộ Pháp liền gởi một bức thư không niêm cho
cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh, trình bày ý kiến và cho
biết giống nòi Việt Nam không thể chia đôi, toàn cả
Quốc Dân không chịu cuộc nội chiến do Ngoại
Bang áp đặt, như nội chiến giữa Chúa Trịnh
và Chúa Nguyễn thuở trước. Với trọng trách của
đức Cao Đài Thượng Đế giao phó, đức
Hộ Pháp có sứ mạng đặc biệt là làm thế
nào giải ách lệ thuộc cho nòi giống, và bảo thủ
Hoàng Đồ Việt Nam.
Đức Hộ Pháp biết
trước mưu đồ của Ngoại Bang muốn áp
đặt chia đôi đất nước Việt Nam nên vào
đêm rằm tháng 4 năm Giáp Ngọ (17-5-1954) đứng
trước Giảng Đài Đền Thánh, đức Hộ
Pháp can đảm nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn
cả Chức Sắc và Bổn Đạo làm một Giáo Sư
hòa giải 2 khối Cộng sản và Tư Bản đang
tranh giành quyền bá chủ, thề không đội trời
chung, kẻ mất người còn. Đức Hộ Pháp có
điện văn "phản
kháng" gởi cho Tứ Cường tại Hội Nghị
Génève đủ chứng tỏ lòng thiết tha yêu nước,
yêu chủng tộc của một vị lãnh đạo Tôn
Giáo, một đấng cứu thế kỳ ba đầy
lòng bác ái, nhiệt tình lo phương cứu khổ cho nhân
loại nói chung, cho nòi giống Việt Nam nói riêng. Kể ra
chủ thuyết Trung Lập Việt Nam lúc bấy giờ
do Tôn Giáo Cao Đài đề xướng không phải là một
việc đơn giản đối với chánh quyền
Pháp đang triệt để chống Cộng Sản.
Thiết nghĩ vào đầu
năm 1949, đức Hộ Pháp đã có văn thư chánh
thức bày tỏ cho Thống Sứ Pháp và Đại Tướng
Blaizot biết rõ đường lối Trung Lập của
đạo Cao Đài sau này, cùng giao trả vũ khí của
Binh Sĩ Cao Đài sớm ngày nào tốt ngày nấy. Chứng
tỏ lập trường Trung Lập cố hữu của
Tôn Giáo Cao Đài, cũng là một hành động không kém phần
nguy hiểm.
Được tin Pháp và Việt
Minh bị áp lực phải tuân lệnh của Ngoại
Bang chia đôi nước Việt Nam tại bàn hội nghị
Génève, đức Hộ Pháp liền gởi cho Tứ Cường
tại hội nghị Génève 1954 một bức điện
văn "phản kháng"
Ngoại Bang xâm nhập chủ quyền Việt Nam, cố
tình áp đặt chia đôi nước Việt Nam. Trước
khi gởi bức điện văn "phản kháng" tới Tứ Cường,
đức Hộ Pháp có nhã ý yêu cầu Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm đồng ký tên trong bản điện văn,
nhưng Thủ Tướng Ngô Đình Diệm hồi
đáp đức Hộ Pháp bằng một văn thư,
là xin đức Hộ Pháp tự ký tên đặng gởi
đi, chứ người không thể ký tên chung vào một
điện văn với đức Hộ Pháp được.
Người tín hữu Cao Đài
làm sao quên được lời tiên đoán phán dạy của
đức Hộ Pháp. "Đức
Chí Tôn đến lập một nền Chánh Đạo này tại
cõi Đông Dương là cốt làm cho kẻ bị hiếp
đáp được mạnh mẽ, kẻ hiền lương
sẽ làm Thầy kẻ hung dữ, ấy là công bằng
thiêng liêng của tạo hóa. Phải giữ đạo
đức cho bền, còn sự chi nghịch với chơn
đạo là mưu chước của Tà Quái. Hết phạt
đến thưởng là thường lệ. Đức
Chí Tôn đã cho họ hưởng cái quả mà họ đã
có công gieo trồng và vun xới, khi hiểu rồi thì phạt
là thưởng, thưởng là phạt. Tóm lại, chỉ
là định luật, có công gieo cái gi thì được
hưởng cái nấy".
Xã hội đại đồng không
phải là ảo tưởng, chắc chắn phải
được hình thành, được xây dựng nên bằng
ý chí của Thượng Đế, không phải bằng
vũ khí, bạo lực, sắc máu, mà nhờ sự hiểu
biết, nhờ trình độ tiến hóa, đạo đức
và tinh thần đại đồng của con người.
Tất cả từ cội nguồn Phật, Chúa, Lão, Khổng,
hay các Giáo Chủ khác đều được Thượng
Đế giao sứ mạng xuống thế vào những thời
kỳ khác nhau, ở những địa phương khác nhau
để hoằng hóa mối đạo, mở trí khai tâm
cho các sắc dân trên mặt địa cầu biết
điều thiện lành, đạo đức, hầu tiến
hóa trở về với Thượng Đế, bởi các
đấng đã giáng trần khắp cả hoàn cầu. Hơn
nữa là vào năm 1926, đức Chí Tôn đã giáng cơ chỉ
dạy: "Chẳng những
ngày hôm nay Thầy mới đến với các con, dân tộc
Việt Nam nhỏ bé, mà Thầy đã cho nhiều chơn
linh xuống thế, ngày nào được nghe tiếng còi
thì các Chơn linh ấy sẽ về qui hiệp cùng Thầy".
Kỷ Nguyên Thánh Đức là
ngươn của thế giới đại đồng,
xã hội này được dựng lên bởi con người
biết yêu thương kính trọng nhau, xem nhau như huynh
đệ, không còn phân biệt màu da, chủng tộc, tôn
giáo, giai cấp. Con người của xã hội này phải
có trình độ cao về đạo đức tinh thần
và lòng từ bi bác ái.
Với Tôn Giáo Cao Đài, hòa là tôn chỉ,
chiến là mục tiêu phải sang bằng, nên đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc thường nhắc nhở Chức
Sắc và Bổn Đạo nam nữ phải nêu cao ngọn
cờ cứu khổ "bất
chiến tự nhiên thành". Ngày nào Hội Thánh nam nữ
còn tưởng nhớ đến Bần Đạo, thì Bần
Đạo chỉ xin một điều là hợp sức với
nhau chung lo gìn giữ tất cả các cơ quan chánh trị
đạo để cùng nhau chuyển thế. Lời phán dạy
đó phải chăng là một sự tiên đoán vận mạng
nền Đại Đạo sau này? Nhưng than ôi! Hội
Thánh không ra Hội Thánh! Vài chiếc áo Cửu Trùng làm sao cứu
nỗi đại nạn này.
Ngày 18 tháng 4 năm Giáp Ngọ
(20-5-1954) đức Hộ Pháp hướng dẫn một phái
đoàn chức sắc Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh
rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất (SàiGòn) vào
lúc 9 giờ sáng lên đường đi Paris để hội
kiến với Tổng Thống Pháp René Coty tại điện
Elysées. Phái đoàn Hội Thánh Cao Đài đến Paris tạm
nghĩ tại Hotel Georges V., nơi đây đức Hộ
Pháp đã tiếp kiến với nhiều chánh khách Việt,
Pháp đến vấn an trong tình thân mật thông cảm lẫn
nhau. Vào lúc 14 giờ ngày 24-5-1954, Thủ Tướng Laniel tiếp
kiến và hội đàm thân mật với đức Hộ
Pháp tại điện Matignon (Paris).
Vào lúc 15 giờ ngày 27-5-1954, ông Bộ
Trưởng Mecheri thay mặt Tổng Thống Pháp Réne Coty
đến tận Hotel Georges V. chào mừng xã giao đức
Hộ Pháp và chuyển đệ lời mời của Tổng
Thống là: đúng 18 giờ 30' ngày 28-5-1954 Tổng Thống
Réne Coty sẽ tiếp kiến đức Hộ Pháp tại
điện Elysóes.
Chiều đến, đức Hộ
Pháp và phái đoàn tùy tùng rời Hotel Georges V., lên xe đến
thẳng điện Elysées, được ông Bộ Trưởng
Mecheri tiếp đón (theo nghi lễ Quốc Khách) nồng hậu
và mời đức Hộ Pháp cùng phái đoàn vào sảnh
đường điện Elysées.
Đồng hồ trên tường
vừa thánh thót đồ báo hiệu 18 giờ 30' thì Tổng
Thống Réne Coty bước ra phòng khách bắt tay chào mừng
đức Hộ Pháp và phái đoàn tùy tùng. Đồng thời
Tổng Thống cho mời các cộng sự viên tại Tổng
Thống Phủ đến chào mừng đức Hộ
Pháp và tự giới thiệu từng cộng sự viên với
phái đoàn Chức Sắc.
Cuộc hội đàm rất thân mật,
Tổng Thống Réne Coty có hứa lời với đức
Hộ Pháp là sẽ hội kiến với Thủ Tướng
Lanniel để sớm ký kết hiệp ước Pháp-Việt,
trao trả chủ quyền Độc Lập cho Quốc Gia
Việt Nam.
Sau buổi hội kiến và
đàm đạo trong tình thân mật, Tổng Thống mời
đức Hộ Pháp và phái đoàn bước sang phòng tiệc
tiếp tân dùng bửa cơm chay. Buổi cơm chay tại
Tổng Thống Phủ rất đậm đà thân thiết
Pháp-Việt kéo dài trên một tiếng đồng hồ, và
cũng là cơ hội duy nhất để Tổng Thống
Réne Coty biết rõ thêm về Tôn Giáo Cao Đài, một Tôn Giáo
được khai sáng trên đất nước Việt Nam
vào năm 1926.
Mặc dầu đã được
Tổng Thống nhắc nhở, nhưng Thủ Tướng
Laniel vô cùng tế nhị, khéo léo trì huởn, chờ cho
đến ngày mùng 5 tháng 5 năm giáp Ngọ (4-6-1954) là ngày
sinh nhật đức Hộ Pháp, Thủ Tưóng Laniel mới
ký kết 2 hiệp ước trao trả chủ quyền
độc lập cho quốc gia Việt Nam với Thủ
Tướng Bửu Lộc, chánh phủ Cộng Hòa Việt
Nam.
Đúng 19 giờ đêm 4-6-1954, các
quan khách Pháp, Việt lần lượt đến dự lễ
sinh nhật đức Hộ Pháp được tổ chức
tại Hotel Georges V. Thủ Tướng Laniel trình bày cho
đức Hộ Pháp rõ là ông ta đã ký kết xong 2 bản
hiệp ước trao trả chủ quyền cho quốc
gia Việt Nam, đúng như lời Tổng Thống René
Coty đã hứa hẹn với đức Hộ Pháp tại
điện Elysées 28-5-1954. Và bày tỏ với đức Hộ
Pháp: sở dĩ việc ký hiệp ước trao trả
chủ quyền cho quốc gia Việt Nam có phần chậm
trể đến hôm nay là vì chánh phủ Pháp muốn làm món
"quà kỷ niệm"
chào mừng ngày sinh nhật của đức Hộ Pháp, một
phương cách ngoại giao của chánh phủ Pháp vô cùng tế
nhị đối với vị lãnh đạo Tôn Giáo Cao
Đài, một đối tượng đáng ngại với
chủ thuyết "Bất
chiến tự nhiên thành".
Trước bối cảnh chánh trị
của nước Việt Nam lúc bấy giờ vô cùng
đen tối, ngoại bang định chia đôi nước
Việt Nam trên bàn hội nghị Génève, đức Hộ
Pháp biết rõ là Mỹ sẽ thay chân Pháp và đang còn thương
lượng dàn xếp cho Ngô Đình Diệm thay thế Thủ
Tướng Bửu Lộc, mà Đại Tá Edward Lansdale (Mỹ
sẽ là cố vấn cho Ngô Đình Diệm sau này) đã nhận
được chỉ thị mật, cần nhanh chóng chận
đứng mọi ý đồ của Pháp tại Việt
Nam, Ngô Đình Diệm sẽ về SàiGòn ngày 25-6-1954. Còn đang
viếng thăm các cung điện tại Thủ Đô Paris,
được tin ngoại bang định áp đặt
chia đôi nước Việt Nam.trên bàn hội nghị
Génève 1954, đức Hộ Pháp lo âu về nỗi thống khổ
của một dân tộc đã từng bị chia đôi
lãnh thổ Nam-Bắc giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn,
nên đức Hộ Pháp và phái đoàn tùy tùng lên 2 chiếc
xe Simca rời khỏi Paris, trực chỉ Génève để biết
rõ thiệt hư. Khi xe của phái đoàn vừa tới
ranh giới địa phận nước Thụy Sĩ, thì
đã có sẵn anh Nguyễn An Mỹ (con trai cụ Nguyễn
An Ninh) túc trực tiếp đón đức Hộ Pháp và
phái đoàn, cùng hướng dẫn đưa về Hotel
Régina. Riêng anh Nguyễn An Mỹ thì từ giả phái
đoàn trở về trụ sở Versoix báo cáo.
Chỉ trong vòng một tiếng
đồng hồ thì anh Nguyễn An Mỳ hướng dẫn
ông Trần Thanh Hà, Tổng Thư ký liên lạc của phái
đòan chánh phủ VNDCCH đến Hotel Régina chào mừng
đức Hộ Pháp, và chuyển lời kính mời đức
Hộ Pháp và phái đoàn đến trụ sở Versoix.
Theo lời mời của ông Trần
Thanh Hà, Đại huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa
đến trụ sở Versoix được sự tiếp
đón của Thiếu Tướng Thanh sơn (tức Nguyễn
Văn Tây, một thành viên quân sự trong phái đoàn chánh phủ
VNDCCH.) trước sự hiện diện của Luật Sư
Phan Anh, Bác Sĩ Lê Văn Chánh. Một cuộc gặp gỡ
hi hữu của Thiếu Tướng Thanh Sơn và Bảo
Đạo Hồ Tấn Khoa sau bao năm xa cách từ
năm 1945 tại chiến khu Châu Đốc, Miền Tây Nam
Bộ, hôm nay tình cờ lại được hội ngộ
với nhau trên đất khách quê người, Thiếu
Tướng Thanh Sơn và Đại Huynh Bảo Đạo
vô cùng xúc động, ôm choàng lấy nhau thắm thiết và
không cầm được hai hàng giọt lệ tự
nhiên lăng chảy...
Không phải ngẩu nhiên mà đã
có nhiều phiên họp thảo luận tiếp xúc giữa
2 phái đoàn: Chánh Phủ VNDCCH. và phái đoàn Cao Đài từ
đêm 28-6-1954, do Luật sư Phan Anh và Đại Huynh Bảo
Đạo làm trưởng phái đoàn, những phiên họp
này do ông Trần Thanh Hà và Nguyễn An Mỹ khéo léo cho xe trực
đón phái đoàn Cao Đài tại công viên La Perle Du Lac để
đưa đến trụ sở Versoix dự các phiên họp,
tránh sự theo dõi của Công An ngầm Thụy sĩ.
Phái đoàn Cao Đài và phái đoàn VNDCCH
đã trải qua nhiều buổi họp sôi nổi kể
từ ngày 28-6-1954 liên tiếp cho đến ngày 5-7-1954, tuy
nhiên vẫn chưa hé mở điểm then chốt là việc
phái đoàn VNDCCH, Hà Nội chỉ thảo luận với
chủ nhân ông của Miền Nam lúc bấy giờ là Pháp, chớ
không biết tới sự hiện diện của Bác sĩ
Trần Văn Độ, Trưởng phái đoàn Chánh Phủ
Việt Nam Cộng Hòa, SàiGòn. vì thế mà suốt một tuần
lễ liên tiếp "hội
đàm" giữa 2 phái đoàn VNDCCH và phái đoàn Cao
Đài không đạt được kết quả mong muốn.
Đức Hộ Pháp chỉ định cho Luật sư
Trần Văn Tuyến và Đại Tá Phạm Xuân Thái tìm
chọn một nhà hàng sang trọng, để mời phái
đoàn VNDCCH dùng một buổi cơm thân mật để
đáp lễ lại phái đoàn Hà Nội trong những phiên
họp vừa qua tại trụ sở Versoix đã đài
thọ cho phái đoàn Cao Đài.
Ông Trần Thanh Hà Tổng Thư Ký
liên lạc của phái đoàn VNDCCH đến Hotel Régina xin
diện kiến đức Hộ Pháp, trình bày cho biết là
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng và phái
đoàn VNDCCH không thuận tiện đến dự buổi
cơm ngoài trụ sở Versoix xin đức Hộ Pháp
thông cảm và xin chuyển đệ lời của Thủ
Tướng Phạm Văn Đồng mời đức Hộ
Pháp đến dự buổi cơm thân mật với Thủ
Tướng tại trụ sở Versoix. Đức Hộ
Pháp tỏ lời cám ơn, và xin từ khước dùng cơm,
nhưng chấp nhận đến hội kiến với
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng vào lúc 19 giờ
đêm 5-7-1954 tại trụ sà Versoix (Hotel Le cèdre, do chánh phủ
Thụy sĩ dành riêng cho phái đoàn Hà Nội).
Để tránh sự dòm ngó và theo
dõi của công An đặc biệt Thụy Sĩ, đức
Hộ Pháp và đoàn tùy tùng lên xe song mã tại Hotel Régina
đến công viên La Perle Du Lac, thi đã sẵn có 2 chiếc
xe du lịch của anh Trần Thanh Hà và cậu Nguyễn An
Mỹ túc trực đón tiếp lên xe trực chỉ đến
trụ sở Versoix. Hai chiếc xe vừa ngừng trước
trụ sở Versoix vào lúc 21 giờ đêm 5-7-1954, thì mưa
bắt đầu rơi hột, nhưng từ bên trong trụ
sở Thủ Tướng Phạm Văn Đồng và phái
đoàn Chánh Phủ Hà Nội ra tận xe chào mừng thân mật.
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ôm choàng đức
Hộ Pháp và hướng dẫn cả phái đoàn vào phòng
khách trụ sở Versoix. Thủ Tướng Phạm Văn
Đồng ngồi chung với đức Hộ Pháp trên một
cái ghế dài, ngay bức chân dung của Chủ Tịch Hồ
Chí Minh. Ông luật sư Phan Anh ngồi bên cạnh phía tay mặt
của đức Hộ Pháp, ông Việt Phương ngồi
lấy tốc ký và biên bản sau lưng luật sư Phan
Anh. Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước, ngồi bên cạnh
tay trái của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng.
Ngồi vòng quanh đối diện ghế của Thủ
Tướng và đức Hộ Pháp gồm có qúi ông: Trần
Công Tường, Bộ Trưởng công thương, Bác
sĩ Lê Văn Chánh, Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn
Khoa, ông Trần Thanh Hà, Nguyễn An Mỹ, Đại Tá Phạm
Xuân Thái, Luật Sư Trần Văn Tuyên (sau này là phó Thủ
Tướng Miền Nam).
Mở đầu buổi họp,
đức Hộ Pháp nói: "Đồng
bào rất biết ơn công kháng chiến của Việt Minh,
nhưng vấn để giải phóng Việt Nam phải cho
trọn vẹn, không thể đuổi Pháp đi, rồi
rước Tàu, Nga vào cũng như tháo bỏ cái gông, rồi
mang cái cùm vào. Toàn dân sẽ phán đoán!" Thủ Tướng
Phạm văn Đồng đáp lời: "Chúng tôi biết rất rõ điều ấy và
không bao giờ có thể xảy ra được" và
Đức Hộ Pháp cũng trình bày rõ với Thủ Tướng
Phạm Văn Đồng rằng: "người Pháp không thể ở mãi tại Việt
Nam để thi hành hiệp định Génève được,
người Mỹ sẽ thay chân người Pháp, thì dù sao
chánh phủ Miền Nam do Bác sĩ Trần Văn Độ
làm trưởng đoàn, cũng là một thực thể của
chánh quyền Miền Nam lúc bấy giờ, vấn đề
Việt Nam phải do người Việt Nam quyết định.
Hai chánh phủ Nam-Bắc Việt Nam cần bàn bạc thào
luận cùng nhau tốt hơn là trực tiếp hội
đàm với phái đoàn Pháp". Đó là lời đức
Hộ Pháp ân cần trình bày lẽ thiệt hư, bất lợi
cho đồng bào, chủng tộc với Thủ Tướng
Phạm Văn Đồng và phái đoàn chánh phủ Miền
Bắc tại Génève đêm 5-7-1954.
Buổi hội thảo tiếp diễn
trong bầu không khí cởi mở. Trước khi bế mạc,
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng mời đức
Hộ Pháp và phái đoàn Hội Thánh Cao Đài sang phòng kế
bên dùng tiệc cháo chay và bánh ngọt. Trong buổi tiệc
thân mật đức Hộ Pháp có nói với Thủ Tướng:
"Bần Đạo đã
cho xây cất xong một phủ thờ Tông Đường
họ Phạm ở Tòa Thánh Tây Ninh, chừng yên rồi ông
nhớ về đó!" Thủ Tướng tươi
cười đáp lời: "dạ,
chừng đó tôi sẽ về".
Trước khi đức Hộ Pháp
và phái đoàn kiếu từ ra về, Thủ Tướng
Phạm Văn Đồng còn ôm hôn đức Hộ Pháp
đầy tình thân mật đậm đà. Phái đoàn chào
từ biệt lên xe rời khỏi trụ sở Versoix về
tới Hotel Régina gần 24 giờ.
Đúng 9 giờ sáng ngày 6-7-1954, ông
phó phái đoàn Pháp tại hội nghị Génève đến viếng
thăm đức Hộ Pháp tại Hotel Régina, suốt một
tiếng đồng hồ đàm đạo, và chuyển lời
của ông Chevaul Trưởng phái đoàn Pháp kính mời
đức Hộ Pháp và phái đoàn Cao Đài vào lúc 12 giờ
cùng ngày đến dùng buổi cơm chay. Theo lời mời,
đức Hộ Pháp và phái đoàn được ông Chevaul
tiếp đón vô cùng thân mật, nên đức Hộ Pháp thố
lộ cho ông Chevaul biết: "Hồi
đêm hôm tôi có hội kiến với Thủ Tướng
Phạm văn Đồng trong tinh thần hiểu biết
và cởi mở tốt đẹp". Đồng thời, đức Hộ
Pháp còn khéo nhắc nhở ông Chevaul một câu: "NE METTEZ PAS VOS DOIGIS DANS LE
PANIER DES CRABES". Và chú giải rất thâm thúy: "vấn
đề Việt Nam chúng tôi rất khó khăn, tế nhị
lắm, người Pháp các ông không nên nhún tay vào nội bộ
Việt Nam của chúng tôi. Nếu các ông nhún tay vào, chẳng
khác nào các ông thọc tay vào giỏ đựng cua, nhất
định sẽ bị cua kẹp, thì không thể nào rút
tay ra được". Ông Chevaul rất chú ý, và có lời
cảm ơn đức Hộ Pháp, và hứa sẽ chuyển
đệ những lời khuyến cáo về chánh phủ
Pháp (Paris) rút thêm kinh nghiệm về vấn đề Việt
Nam.
Thêm một việc hi hữu xảy
ra tại buổi tái họp hội nghị Génève lúc 15 giờ
ngày 6-7-1954, Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước
được đức Hộ Pháp chỉ định
đến tham dự buổi họp để biết thêm
về sự diễn biến tại bàn hội nghị
như thế nào. Thay vì đi dự họp theo thông lệ thường
thì Ngài Bảo Thế phải mặc đạo phục Chức
Sắc Hiệp Thiên Đài, như những buổi họp
thảo tại trụ sở Versoix, song đặc biệt
hôm nay, đến tham dự hội nghị Génève đức
Hộ Pháp lại cho phép Ngài Bảo Thế mặc âu phục.
Lần đầu tiên có một vị chức săc Cao
Đài đến tham dự hội nghị Génève với
tư cách là tham dự viên, mà lại mặc âu phục, nên
ban tổ chức mới xấp xếp cho Ngài Bảo Thế
ngồi bên cạnh phái đoàn chánh phủ Miền Nam Việt
Nam. Thiết nghĩ, từ ngày khai mạc hội nghị
Génève, đã trải qua nhiều buổi họp, mà cả
hai phái đoàn chánh phủ Miền Bắc và Miền Nam
chưa bao giờ chào hỏi nhau, coi nhau như người
xa lạ, chứa bao giờ quen biết nhau. Hôm nay có Ngài Bảo
Thế Lê Thiện Phước, một Chức sắc cao cấp
của Đạo Cao Đài đến tham dự buổi họp,
ngồi cạnh bên Bác sĩ Trần Văn Đô, Trưởng
phái đoàn Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam. Khi phái
đoàn Miền Bắc do Thủ Tướng Phạm
Văn Đồng hướng dẫn đến hội
trường Génève, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng
vừa bước vào phòng họp thì nhìn thấy Ngài Bảo
Thế Lê Thiện Phước mặc âu phục mà lại
ngồi cạnh bên Bác sĩ Trần Văn Đô. Ngài Bảo
Thế nhìn thấy Thủ Tướng thì gật đầu
chào, Thủ Tướng gật đầu đáp lễ lại,
cả phái đoàn Miền Nam nhìn thấy Thủ Tướng
Phạm Văn Đồng gật đầu chào, liền gật
đầu đáp lễ lại, và cả 2 phái đoàn Miền
Nam, Miền Bắc đồng vui vẻ Cười với
nhau.
Liên tiếp bao nhiêu buổi họp
tại hội trường Génève, lần đầu tiên 2
phái đoàn Chánh Phủ Miền Nam-Bắc Việt Nam vui vẻ
chào hỏi nhau, gây xôn xao chấn động cho các phóng viên,
ký giả quốc tế hiện diện đang thi hành nhiệm
vụ thông tin, bởi vì từ khi khai mạc hội nghị
Génève cho đến bây giờ mới được vinh hạnh
chứng kiến được một việc hi hửu
này vào lúc 15 giờ ngày 6-7-1954. Đây cũng là một kỷ
niệm khó quên được, do phái đoàn Cao Đài làm mô
giới cho 2 phái đoàn Miền Nam và Miền Bắc Việt
Nam có cơ hội tiếp xúc lẫn nhau sau này.
Luồng gió mát cởi mở chào mừng
của 2 phái đoàn Nam Bắc Việt Nam thổi vào phòng họp,
xua tan bầu không khí tẻ lạnh nặng nề của
các buổi họp trước đây, gây ngạc nhiên cho
toàn thể những người hiện đang có mặt
trong phòng họp. Nhất là ông Chevaul, trưởng phái
đoàn Pháp hết sức ngạc nhiên và chú ý, là vì vừa mới
được nghe đức Hộ Pháp thuật cho biết
việc tiếp xúc thân mật với phái đoàn VNDCCH hồi
đêm hôm mà hiện giờ 2 phái đoàn Nam Bắc lại
chào hỏi nhau.
Được biết ngoại
bang mưu đồ bán đứng Việt Nam trên bàn hội
nghị Génève, đức Hộ Pháp liền mở cuộc
họp báo tại Génève vào lúc 17 giò ngày 18-7-1954 trước sự
hiện diện của các phóng viên ký giả quốc tế
để báo động trước về việc ngoại
bang áp đặt chia đôi lãnh thổ Việt Nam. Tại buổi
họp báo này, đức Hộ Pháp đã tuyên bố: "Nếu Việt Minh và Pháp tuân
lịnh Ngoại Bang chia nước Việt Nam làm hai mà
không có sự chấp thuận của toàn dân Việt Nam thì Bần
Đạo chống cả hai hết". Lời tuyên bố
của đức Hộ Pháp có một trọng lượng
nhất định, tỏ rõ tinh thần ái quốc, yêu
đồng bào vô bờ bến của đức Hộ
Pháp đã bộc lộ trong lời tuyên bố, cương
quyết giải thoát cho dân tộc Việt Nam khỏi nạn
phân chia lãnh thổ, một thảm họa vô phương cứu
chửa như thời Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn.
Sau khi phái đoàn Cao Đài rời
khòi Génève trở về Miền Nam Việt Nam, tại SàiGòn
lúc bấy giờ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
được cố vấn Mỹ là Đại Tá Lansdale hướng
dẫn mưu lược triệt hạ các Tôn Giáo, Đảng
phái đã từng cộng tác với Pháp gây mất tình dân tộc
và làm suy yếu lực lương quổc gia.
Muốn cứu vãn tình thế nước
nhà khỏi bị áp đặt của ngoại bang, đức
Hộ Pháp không ngần ngại đứng ra kêu gọi các
Tôn Giáo, Đảng phái thống nhất lại thành một
khối, đủ trọn thẩm quyền trực tiếp
thương lượng thẳng với Chánh Phủ VNDCCH
tại Hà Nội do hiệp định Génève tạo thành
20-7-1954.
Biết rõ thảm họa
đưa đến cho dân tộc Việt Nam là Thủ
Tướng Chu Ân Lai (Trung Quốc) và Thủ Tướng
Pháp Pierre Mendes (Pháp) bí mật hội kín với nhau, bán đứng
nước Việt Nam trên bàn hội nghị Génève, bất
chấp lời khuyến cáo của Thủ Tướng Anh Ọuốc
Churchill và Tổng Thống Mỹ Quốc là Eisenhower đã họp
nhau tại Tòa Bạch Ốc ngày 10-7-1954 kêu gọi Pháp: "Đừng nên chấp nhận
việc ngưng bắn ở Đông Dương với giá
quá cao".
Không thể khoanh tay ngồi chờ
nạn tương tàn, tương sát đưa đến,
bắt buộc vị lãnh đạo Tôn Giáo Cao Đài, đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc phải lên tiếng kêu gọi
các Tôn Giáo và Đảng phái hiệp nhất lại thành lập:
"MẶT TRẬN THỐNG NHẤT
TOÀN LỤC QUỐC GIA" được gọi là mặt
trận Cao Thiên Hòa Binh (Cao Đài, Thiên Chúa, Hòa Hảo, Bình
Xuyên), tạo thành một khối duy nhất, để trực
tiếp thương lượng thẳng với chánh phủ
VNDCCH Hà Nội, hầu tránh mưu đồ áp đặt của
ngoại bang đang xâm nhập nặng nề vào nội quyền
Việt Nam.
"Mưu
sự tại nhân, thành sự tại thiên" ngoại
bang đã xúi giục Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
thẳng tay phá vỡ Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực
Quốc Gia, và thẳng tay triệt hạ các Tôn Giáo, đảng
phái, gây mất tình đoàn kết dân tộc trầm trọng.
PHẢI CHỌN MỘT CON ĐƯỜNG
Gần bước sang năm Ất
Mùi, nhân danh đấng tạo hóa Cao Đài bất diệt
Bần Đạo gởi cùng toàn thể nhân loại bức
thông điệp này để thiết tha kêu gọi những
vị cầm quyền chánh phủ, lãnh đạo các dân tộc,
nhận định nhiệm vụ một cách khôn khéo hơn.
Bao giờ cũng vây, nhân loại cố kiếm một con
đường để tạo một đời sống hòa bình, hạnh phúc, mà không đạt
được như ý muốn, chỉ vì không biết nghe
theo mênh trời… Ngày nay nhân loại đang trải qua môt
cơn khủng hoảng tinh thần ghê gớm mà vẫn còn
phải hỏi đâu là con
đường sống? Ở trên thế gian này không có chi
là bất di bất dịch cả. Theo luât trời mọi
việc đều tiến triển. Lẽ dĩ nhiên xã hội
loài người cũng phải theo định luât ấy.
"Hai chủ thuyết đang đối chọi nhau:"
Thuyết thứ nhất mệnh
danh là Dân Chủ thì tán dương sự Quốc Gia tương
trợ và tôn trọng giá trị con người, càng bảo
tồn cái gì hay và đẹp. Thuyết ấy cao cả biết
bao, nhưng lại thiếu thành thật mà những điều
khoản ghi trong tập nhân quyền đã được
Liên Hiệp Quốc tán dương gần đây vẫn
chưa thực hiện.
Thuyết thứ hai mệnh danh là Cộng
Sản, xúi giục giai cấp vô sản chống lại
giai cấp tư bản, chủ trương tiêu diệt,
những việc bất công xã hội, và hứa hẹn quân
phân lại tài sản, nhưng vì có tính vô thần và độc
tài, nên đã trở thành qúa khắc khe.
Nay 2 bên Cộng Sản và Tư Bản
đã thực hiện tranh chấp, vì 2 Chủ thuyết đều
hứa hẹn tạo cho nhân loại một đời sống
tốt hơn xưa, có một điều mà chúng ta nhận
xét thấy rõ rệt là cả hai không đạt tới
đích xác hòa bình và hạnh phúc. Trái lại nhân loại vẫn
cứ bị phân hóa, vì cuộc xung đột vẫn kéo dài
không lối thoát, cả nhân loại đều lo lắng hỏi
rằng: Thế giới sẽ đi đến đâu. Khi
cả hai khối đều chuẩn bị những chiến
cụ có sức phá hoại mãnh liệt, nếu không phải
đi đến chỗ diệt vong? Sự cộng tồn
được đem ra thí nghiệm ở các nước Á
Châu như Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam không được
như ý muốn, mà chỉ tạo được một nền
hoà bình phù phiếm làm cho tình hình thế giới thêm căng
thẳng, và các nước nói trên phải chịu gian khổ
nhiều nhất. Do đó tất cả trách nhiệm đều
trút vào những ông cầm đầu các Chánh Phủ lãnh
đạo quần chúng nếu các ông cứ tiếp tục
dẫn dắt nhân loại đến cảnh diệt vong,
vậy thì mọi người chúng ta phải nghe theo tiếng
gọi của đấng thiêng liêng, ấp ủ ở bản
thân ta, và nên hiểu rằng: chỉ có lòng yêu thương
trong bác ái, đoàn kết trong hòa khí và công bằng mới có
thể có hòa bình và hạnh phúc.
Bần đạo xin ngõ lời
cùng nhân dân Pháp và đồng bào Việt Nam vốn có những
liên hệ trực tiếp với nhau. Đối với
người Pháp, Bần Đạo có thể nói và tuyên bố
trước thế giới rằng: "Trong 80 năm chung sống, hai dân tộc Pháp và Việt
Nam đã từng trải qua nhiều nỗi thống khổ
trong 2 cuộc chiến 1914-1918 và 1939-1945. Hỏi các người
Pháp! Các ông chắc cũng hiểu hơn ai hết, dân tộc
Việt Nam với nền văn minh cố cựu cương
quyết theo đuổi nguyện vọng được
độc lập của họ, các ông hẳn không lạ
gì người Việt Nam, có một đức tính không biết
phụ bạc, và biết phân biệt bạn và thù. Các ông
không thể phủ nhận một đức tính sẵn có
của nhân dân Việt Nam. Các ông có đủ tư cách để
chứng tỏ rằng trong giờ phút này, sau khi hủy bỏ
nền thống trị của các ông, nước Việt
Nam cũng không công nhận một uy quyền nào khác thay thế.
Trước, sau như một, người dân Việt Nam
luôn thiết tha một nguyện vọng là: được
quyền tự định đoạt lấy số phận
mình. Đồng thời, các ông có thể tuyên bố với:
... Trước hết với dân tộc Mỹ vốn có
thiện chí tỏ tình giúp đỡ Việt Nam, rằng các
dân tộc vẫn được coi như... nhưng phải
coi chừng, đừng phạm vào những lầm lỗi
đã đi từ chánh sách thực dân đến chánh sách
can thiệp, bất cứ dưới hình thức nào trong
công việc riêng của Việt Nam để tránh khỏi
phải chịu hậu qủa về cuộc thí nghiệm
của họ.
Đối với nhân dân Việt Nam và riêng đối với
các vị lãnh đạo Miền Nam cũng như Miền Bắc,
Bần đạo xin các ông cống hiến cho nhân loại ở
trong tình trạng nguy vong, một tấm gương sáng lạng
về sự đoàn kết vì mọi người đều
biết rằng đoàn kết là sống. Trong những giờ
phút này trách nhiệm của các ông thật nặng nề, nếu
các ông cứ cố chấp theo đuổi một cuộc
đấu tranh lý tưởng quốc tế đầy dẫy
những dục vọng và phe đảng thì các ông sẽ là
những người có tội với tổ quốc và nhân
dân Việt Nam.
Các ông không thể quên rằng hạnh phúc của dân tộc
Việt Nam là kết tinh của tình đoàn kết và tình thương
yêu, hoà khí và công bằng. Đó là lý tưởng quốc gia
mà tổ tiên từ ngàn xưa lưu truyền lại chớ
không phải là sản phẩm của cuộc đấu
tranh chánh trị và bè phái. Phải nên mạnh bạo và thẳng
thắng, như thế thì các ông sẽ được toàn
dân ủng hộ. Người Việt Nam phải đau khổ
ê chề, vì sự chia rẽ nội bộ và cuộc tuyền
cử riêng rẽ do 2 chánh phủ đối lập tổ
chức, không thể nào tránh khỏi được những
dục vọng bè phái.
Các ông cầm đầu chánh phủ Miền Bắc và Miền
Nam, các ông còn ngại gì mà không nêu gương đoàn kết,
thành lập một chánh phủ lâm thời duy nhất, thoát
ly khỏi ảnh hưởng ngoại quốc, với sự
tham dự của các phần tử thuộc mọi khuynh hướng
chánh trị, Tôn Giáo hầu tiến tới cuộc tổng
tuyền cử Toàn Quốc Việt Nam. Toàn dân sẽ ghi công
các ông. Do đó bằng tấm gương qúi báo ấy, các
ông sẽ là những người được tiếng
là đã cứu vãn nước Việt Nam trước hết
và sau là toàn cả thế giới.
Trước khi ngừng bút, Bần Đạo xin thành khần
cầu nguyện Chí Tôn Cao Đài của chúng ta, để
cho nhân loại sang năm mới sẽ thoát qua giấc triền
miên, hướng thẳng vào ánh hào quang chói lọi và chân lý
của Thượng Đế đặng lựa chọn
lấy con đường hạnh phúc. Cuộc đấu
tranh để sinh tồn sẽ đưa đến cuộc
binh đao, gây nên khổ nảo, tàn phế và chết chóc.
Trái lại sự hổ tương để sinh tồn bằng
cách thương yêu trong tình huynh đệ, đoàn kết
trước hòa khí và công bằng, đó là điều kiện
tạo nên sự hợp tác hòa bình, sáng tạo hạnh phúc
và tự do. Mỗi người chúng ta đều có thể
tự do Chọn Lấy Một
Con Đường"
Người tín hữu Cao Đài
làm sao quên được vụ án cựu Trung Tướng
Trần Quang Vinh, nguyên Tổng Tư Lệnh quân đội
Cao Đài, nguyên Tổng Trưởng Quốc Phòng Chánh Phủ
Miền Nam, đã bị quân đội liên minh của Thiếu
Tướng Trình Minh Thế chận đường bắt
cóc, đốt xe, lên án tử hình và bắt đưa về
giam ở núi Bà Đen (Tây Ninh). Đức Hộ Pháp liền
chỉ định Thừa Sử Phan Hữu Phước
và Sĩ Tải Lê Quang Tấn vào mật khu của Quân đội
Liên Minh trên núi Bà Đen để "phản điều tra" vụ án Trần
Quang Vinh (Cố vấn hành chánh đạo tại Tòa Thánh
Tây Ninh). Được mật lịnh của đức Hộ
Pháp, Thánh Vệ Trưởng Tòa Thánh Tây Ninh chuẩn bị
cho một phái đoàn Cơ Thánh Vệ hộ tống
đưa Thừa Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải
Lê Quang Tấn vào mật khu của quân đội Liên Minh
trên núi Bà Đen để phản điều tra vụ án
Trần Quang Vinh, cùng đi có Luật sư Phan Thanh Liêm (em
ruột Thừa Sử Phước) lên đường tại
Hòa Viện Tòa Thánh Tây Ninh, trực chỉ vào chân núi Bà.
Thiếu Tướng Trình Minh Thế
cho lệnh Thiếu Tá Đòn hướng dẫn một tiểu
đoàn Liên Minh túc trực tại chân núi Bà tiếp đón
phái đoàn chức sắc của Hội Thánh vào chiến
khu để phản điều tra vụ án ông Trần
Quang Vinh. Đoàn hộ tống của Cơ Thánh Vệ thấy
được khẩu hiệu của quân đội Liên
Minh ở chân núi Bà chờ đợi. Đôi bên giao lãnh cùng
nhau, và Thiếu Tá Đòn mời Thừa Sử Phan Hữu
Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn lên đường
về tư lệnh bộ hội kiến với Thiếu
Tướng Trình Minh Thế. Mãi đến 16 giờ phái
đoàn mới đến chót núi Bà Đen thì được
Thiếu Tướng Trình Minh Thế và các Sĩ Quan trong bộ
Tham Mưu ân cần tiếp đón, cùng trao đổi thân mật.
Phái đoàn phản điều tra vụ án phải tạm
nghỉ nơi tư lệnh bộ 2 ngày đêm mới gặp
ông Trần Quang Vinh, do Trung Úy Trưởng, sĩ Quan bổn
bộ áp giải đến một hang đá rất kiên cố
và rộng rãi. Sau này mới được biết là nơi
trú ẩn đặt biệt của Thiếu Tướng
Trình Minh Thế khi có cuộc oanh tạc, hoặc biến động.
Sĩ Tải Lê Quang Tấn bắt đầu thẩm vấn,
lấy khẩu cung ông Trần Quang Vinh, phản điều
tra vụ án đã bị quân đội Liên Minh lên án tử
hình. Tiếp nhận được phúc trình kết quả
cuộc phản điều tra vụ án ông Trần Quang
Vinh, đức Hộ Pháp chỉ thị cho Thiếu Tướng
Trình Minh Thế phải đưa vụ án ra xét xử lại
(trong 6 tháng bị giam giữ mới đưa ra xét xử).
Tuân lịnh đức Hộ Pháp một
tòa án quân sự Liên Minh được thiết lập ngay tại
chân núi Bà Đen, có mấy ngàn đồng bào và Tín Hữu
đến tham dự rất đông đảo. Dịp này
Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh đề cử Ngài Bảo
Đạo Hồ Tấn Khoa đại diện cho Hội
Thánh với tư cách biện hộ trong phiên tòa án quân sự
xét xử vụ án ông Trần Quang Vinh. Được biết
Ngài Bảo Đạo trước kia là một đốc
phủ sứ thượng hạng, xuất thân trường
luật tại Hà Nội, và là cựu tỉnh trưởng
tỉnh Châu Đốc. Thật là một việc hi hửu,
một chức sắc Hiệp Thiên Đài phải vào tận
chân núi Bà để biện hộ cho một chức sắc
Cửu Trùng Đài là Phối Sư Thượng Vinh Thanh.
Trước những lời biện hộ vững chắc
của Ngài Bảo Đạo suốt cả buổi sáng và buổi
chiều, Tòa Án Quân Sự Liên Minh tuyên án: miễn truy tố,
nhưng bắt buộc ông Trần Quang Vinh không được
tham gia chánh trị nữa. Ông Phối Sư Thượng
Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) sau 2 ngày làm thủ tục
được tự do trở về Tòa Thánh Tây Ninh trình diện
đức Hộ Pháp và trọng ân đức Ngài đã kịp
thời cứu giúp để tiếp tục lập công với
Hội Thánh. Một thời gian sau, Hội Thánh sắp xếp
cho ông Thượng Vinh Thanh sang Pháp để điều trị
bệnh sốt rét rừng.
Sau ngày Hiệp Định Génève kết
20-7-1954, lịnh ngưng bắn ban hành khắp cả Miền
Nam Việt Nam, vào ngày 11-8-1954, quân đội Việt Minh tập
họp vào 3 khu: Xuyên Mộc, Đồng Tháp Mười và Cà
Mau đúng theo kế hoạch của hội nghị trung
giá và Génève bắt đầu trao đổi tù binh tại Việt
Trì, 3 sĩ quan Pháp được về trước nhất
là: Trung Uý Boder, Jego và Morin bị bắt tại Cao Bằng.
Đức Hộ Pháp phán dạy: Thiếu
Tướng Trình Minh Thế hãy hướng dẫn quân đội
Liên Minh đến thay thế những căn cứ quân
đội Việt Minh đã rút đi tập kết. Tuân
theo lời đức Hộ Pháp quân đội Liên Minh
đã đóng quân ở các tỉnh Miền Đông, đến
Đồng Tháp Mười, và các tỉnh Miền Tây Nam Bộ,
thì gặp phải sự đụng chạm với lực
lượng Phật Giáo Hòa Hảo của Thiếu Tướng
Lê Quang Vinh tức bộ đội của Ba Cụt tại
tỉnh Châu Đốc, nhưng nhờ sự khéo léo
tương nhượng và dàn xếp, nên đôi bên tránh
được nổ súng với nhau.
Sau đó, Đại Tá Lansdale, cố
vấn của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thân
hành vào tận tư lệnh bộ quân đội liên minh tại
núi bà Đen hội đàm cùng Thiếu Tướng Trình Minh
Thế và thuyết phục ông Trình Minh Thế đem quân ra
cộng tác với ông Ngô Đình Diệm, lãnh đạo
chánh phủ Cộng Hòa Việt Nam. Đại tá Lansdale khôn
khéo hứa hẹn, khiến ông Trình Minh Thế chấp nhận
tiếp đón Bác Sĩ Chương, Tổng Trưởng
bộ y tế chánh phủ Miền Nam vào thăm chiến khu
Liên Minh để đặt điều kiện cho quân
đội Liên Minh ra hợp tác với chánh quyền Ngô Đình
Diệm. Trước ngày ra hợp tác với Thủ Tướng
Diệm, Thiếu Tướng Trình Minh Thế hướng
dẫn một số sĩ quan trong bộ tham mưu đến
tận Trí Huệ Cung xin diện kiến đức Hộ
Pháp, với trọng tâm thỉnh cầu đức Hộ
Pháp đi SàiGòn làm chủ tọa buổi lễ quân đội
Liên Minh ra hợp tác với chánh phủ Việt Nam Cộng
Hòa. Đức Hộ Pháp phán dạy: "Bần Đạo không thể đi chứng kiến
cái chết của các con! Các con không nghe lời Bần Đạo
thì tự các con lo liệu!"
Buổi lễ tiếp nhận quân
đội Liên Minh xáp nhập vào quân đội quốc gia
được tổ chức tại SàiGòn rất trọng
thể, và ông Trình Minh Thế được Thủ Tướng
Diệm chánh thức gắng quân hàm Thiếu Tướng
quân đội Quốc Gia Việt Nam trước sự hiện
diện của Đại Sứ các nước, cùng các Tổng
Trưởng trong nội các Chánh Phủ Ngô Đình Diệm đều
có mặt.
Còn nhớ rõ, một hôm đức
Hộ Pháp đến thăm các chức sắc thời quân
tại văn phòng Hiệp Thiên Đài, đức Hộ
Pháp ân cần luận đàm vói Qúi Ngài: Bảo Thế Lê Thiện
Phước, Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, Hiến
Pháp Trương Hữu Đức, Khai Đạo Phạm
Tấn Đãi, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng v.v... và một
số đông chức sắc Hiệp Thiên Đài gồm có
Thừa sử, Truyền Trạng, Sĩ Tải, Luật Sư
(trên 30 vị). Đức Hộ Pháp nói: "Thiếu Tướng Trình Minh Thế, nó lầm
tưởng rằng nó đã đủ lông, đủ cánh rồi,
nó có thể bay nhảy với đời, nhưng chánh trị
nó còn qúa non kém, nhất định sẽ bị người
ta hại chết! Nếu không các bạn cứ vanh 2 bàn tay
của bần đạo". Đức Hộ Pháp vừa
nói vừa đưa 2 bàn tay lên trước mặt các chức
sắc hiện diện. Một tháng sau được tin Thiếu
Tướng Trình Minh Thế bị chết trong lúc đang
đi thị sát mặt trận tại cầu Tân Thuận
SàiGòn, một cái chết vô cùng oan uổng mà không thể ngăn
chận được.
Hồi tưởng lại vào ngày
22-8-1946, vừa bước chân trở về đến Tòa
Thánh Tây Ninh sau 5 năm 2 tháng bị lưu đày ở hải
đảo Madagascar, đức Hộ Pháp vô cùng băng
khoăng về sự hiện diện của quân đội
Cao Đài trong nội ô Tòa Thánh. Trước một sự
việc đã rồi, chẳng biết phương cách nào
hơn nữa, giũa lằn tên mũi đạn của
Việt Minh kháng chiến và quân đội Pháp, lại có
thêm quân đội Cao Đài hiện đang đóng trong nội
ô Tòa Thánh Tầy Ninh. Đức Hộ Pháp từ từ
đưa quân đội Cao Đài ra khỏi nội ô Tòa
Thánh, là một quyết định không đơn giản
vì vận nước ngữa nghiêng tan tành trong khói lửa,
đảng phái phân tranh, cốt nhục tương tàn,
huynh đệ phân chia, tình thế còn nhiều gay cấn.
Đức Hộ Pháp ngõ lời khuyến cáo các cấp chỉ
huy quân đội tự vệ Cao Đài rằng: "các con là lửa Tam Muội, lửa
dữ trừ được bọn ma vương,
nhưng cũng có thể đốt thiêu luôn Tòa Thánh, nên Thầy
không cho các con ở trong nội ô Thánh Địa, hãy ra ngoại
vi đồn trú". Vì thế mà quân đội Cao
Đài phải rời khỏi Giáo Tông Đường Nội
ô Tòa Thánh, dời về đồn trú tại Giang Tân, cách xa
Đền Thánh độ 8 cây số. Có một vài vị chức
sắc vì quá lo ngại cho sự an ninh cùng tài sản của
bổn đạo khi quân đội Cao Đài đã rút ra khỏi
nội ô Tòa Thánh, nên đến yêu cầu đức Hộ
Pháp cho phép quân đội đóng trong Thánh Địa để
bảo vệ cơ sở hữu hiệu hơn, và an lòng
chúng sanh. Đức Hộ Pháp tươi cười
đáp: "Bần Đạo
đã đuổi chúng nó đi, ở đâu đó được
rồi! Ở đây có Bần Đạo, chúng nó là lửa
dữ, chớ nên để gần".
Lời tiên đoán khuyến cáo của
đức Hộ Pháp được ứng nghiệm vào 8
năm sau, là vào năm 1955 quân đội Cao Đài được
Quốc Gia hóa vô quân đội Quốc Gia Việt Nam. Đức
Hộ Pháp chỉnh đốn lại guồng máy đạo,
lo quảng bá chơn truyền bằng các buổi thuyết
đạo, tại Giảng Đài Đền Thánh, thuyết
minh giáo lý Cao Đài cho toàn cả chức sắc và bổn
đạo thấu rõ bí pháp của đạo, nêu cao
gương Thánh Đức, thắt chặt tình đồng
đạo, làm sáng danh Đại Đạo Kỳ Ba.
Đức Hộ Pháp biết rõ
hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam, một nước
nhược tiểu đang bị ngoại bang tranh giành quyền
lợi, đổi chác lẫn nhau trên bàn hội nghị
Génève 1954, người Mỹ muốn thay chân người
Pháp, nên vị cố vấn Đại Tá Lansdale đưa
ra kế hoạch thúc đẩy Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm phải sớm thẳng tay triệt hạ
các tôn giáo, đảng phái từng cộng tác với Pháp
trước kia, càng sám càng tốt. Chính Thiếu Tá Lucien
Comein, cùng 2 vị Trung Úy tin cậy là Joe Henrick và R. Philip có
trọng trách thực hiện cho kỳ được khẩu
lịnh: "phân hóa các lực
lượng võ trang Giáo Phái, đạt hiệu qủa cao,
có thể chuyển một phần ba (1/3) lực lượng
của Pháp thành lực lượng của Ngô Đinh Diệm".
Mưu kế được thực hiện, Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm mua chuộc và xúi giục Trung
Tướng Nguyễn Thành Phương nguyên là Tổng
Tư Lệnh quân đội Cao Đài đem quân về bao
vây Hộ Pháp Đường, thanh trừng nội bộ
gây khó khăn cho đức Hộ Pháp. Tiên đoán thủ
đoạn của ông Diệm, đức Hộ Pháp liền
phán dạy một chức sắc Hiệp Thiên Đài đi
SàiGòn gặp Trung Tướng Nguyễn Thành Phương tại
biệt thự số 13 đường Yên Đỗ,
SàiGòn, báo cho ông Phương biết rõ rằng: đừng
nghe lời đốc xúi của ông Diệm mà đem quân
đội về bao vây Tòa Thánh Tây Ninh, gây việc khó xử
trí cho đức Hộ Pháp, đó là mưu kế "trò phản thầy". Bảo
ông Diệm tự cho Quân đội Quốc Gia về chiếm
Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh đi, đức Hộ Pháp sẽ
có biện pháp đối phó rất dễ dàng. Đồng
thời, đức Hộ Pháp còn bảo một vị chức
sắc Hiệp Thiên Đài đến tận nhà Đại
Tá Nguyễn Văn Kiết nguyên là Thánh Vệ Trưởng
Tòa Thánh Tây Ninh để thông báo cho Đại Tá Kiết biết
rằng: "Đại Tá phải
thận trọng, đề phòng cho chính bản thân mình, vì Trung
Tướng Nguyễn Thành Phương định bắt
Đại Tá trước để tiện bề tiến
quân vào chiếm nội ô Toà Thánh, đó là mưu đồ của
Trung Tướng Nguyễn Thành Phương được
lệnh của ông Diệm đem quân về bao vây Tòa Thánh
Tây Ninh một ngày gần đây". (Và sau này Đại
Tá Kiết vẫn bị Trung Tướng Phương bắt),
cùng đi đến nhà Đại Tá Kiết có ông Sĩ Tải
Nguyễn Hữu Khoẻ là người hướng đưa
vị chức sắc Hiệp Thiên Đài đến tư
gia Đại Tá Kiết.
Vào dịp tết nguyên đáng
năm Ất Mùi (1955), đức Hộ Pháp có lời nhắc
nhở các chức sắc và toàn thể bổn đạo
nam nữ: "Đạo Cao
Đài vốn là một Đại Đạo của những
Tôn Giáo do đức Chí Tôn sáng lập trên đất nước
Việt Nam mấy chục năm nay để thống hợp
các Tôn Giáo, mà trước đây các bậc đại huynh,
các bậc đại Thánh đã tùy thời, tùy thể dựng
lên rãi rác khắp các phương trời để phổ
độ chúng sanh".
"Nói đến Tôn Giáo là nói đến nhân nghĩa,
đã là nhân nghĩa thì nhân nghĩa của nhà Phật Không
thể khác với nhân nghĩa của Cơ Đốc, mọi
con đường nhân nghĩa đều giống nhau, nhân
nghĩa chỉ có kẻ thù là bất nhân, bất nghĩa và
vô Tôn Giáo mà thôi.
Vậy thì các con đừng nên hẹp hòi câu chấp ở
cái "Ta" mà lấy làm lạk hi thấy bần đạo
ra lênh giúp đỡ đồng bào công Giáo xây dựng nhà thờ,
hoặc khi thấy các tín đồ công Giáo, Phật Giáo
đi lễ ở Đền Thánh.
Đại Đạo bao giờ
cũng bao la như biển cả, sẵn sàng tiếp
đón mọi dòng sông. Các con nên nhớ rằng trong nhân loại
ngày nay chỉ trừ những người vô đạo, tất
cả mọi người đều là anh, em của các
con, tất cả đều có đạo Cao Đài, vì
đạo Cao Đài gồm có Phật Giáo, Công Giáo, Lão Giáo,
Nho Giáo v.v... Sở dĩ đức Chí Tôn chọn đất
nước Việt Nam này làm Thánh Địa để phổ
độ chúng sanh kỳ ba, chỉ vì Việt Nam là nơi kết
hợp được tinh hoa của tất cả các nguồn
văn minh trên thế giới, Việt Nam là nơi tổng
hợp các ngành đạo đức: Nho, Lão, Thích và cũng
là nơi gặp gỡ của hai nền văn minh Đông
Tây.
Dân tộc Việt Nam với sức cần cù đã chịu
đựng nổi mấy ngàn năm ngoại thuộc mà vẫn
quật cường đấu tranh để tồn tại,
để đồng hóa cả tàn tích ngoại lai mà xây dựng
cho mình một nền văn minh, một ngôn ngữ riêng, một
quan niệm sống riêng. Một dân tộc như thế lẽ
dĩ nhiên phải có đủ đạo hạnh, đủ
năng lực để đảm nhiệm việc hướng
dẫn văn minh nhân loại sau này.
Các con hãy thành kính tạ ơn đức Chí Tôn và vui vẻ
nhận thấy thiên mạng bảo sanh, bằng con đường
nhân nghĩa để đưa nhân loại tới đại
đồng vậy. Các con hãy luôn luôn gắng sức, đức
Chí Tôn bao giờ cũng phù hộ những kẻ có lòng
đạo đức hiền lương. Nhưng muốn
làm tròn sứ mạng mà đức Chí Tôn giao phó, các con phải
bảo vệ sự tồn vọng của dân tộc Việt
Nam, chống lại bọn Ma Vương, bọn Sa Tăng
của thời đại, đang cố tiêu diệt dân tộc
Việt Nam để phá hoại nền Đại Đạo.
Bần đạo nhắc lại, các con phải thương
yêu giúp đỡ đồng bào miền bắc, cũng
như đồng bào miền nam, các con ở trong miền
nam này được may mắn hơn họ, vì 8 năm qua
Việt Minh ở đây còn yếu, họ đối xử
tử tế với các con. Còn ở ngoài Bắc chánh sách của
Tàu (Trung Quốc) đưa sang, Việt Minh đối xử
gay gắt hơn. Dân một nước phải coi như
anh em ruột thịt một nhà. Các con phải lo việc an
cư lạc nghiệp, nhường cơm xẻ áo cho
đồng bào, đùng chia rẻ Bắc Nam mà mắc mưu
ly gián của Ngoại Bang.
Hiệp định Génève 1954 đã giúp cho nước
Trung Cộng chiếm mất của các con gần một nửa
nước. Họ đang đồng hóa và cai trị những
anh, em các con còn đang bị kẹt ngoài bắc.
Bần đạo hơi tiếc cho ông Hồ Chí Minh vì
sai lầm đường lối, muốn phụng sự
dân tộc, mà thành ra phụng sự Nga, Tàu.
Nếu Việt Minh cứ mãi mãi là Việt Minh, đừng
biến đổi thành Việt cộng hay Việt Tàu, thì
chúng ta được an hưởng độc lập từ
lâu rồi!
Bần đạo ái ngại cho ông Hồ Chí Minh, vì nếu
cái đường lối sai lầm này cứ kéo dài mãi, thì
dân chúng Việt Nam phải nổi dậy hết để
chống lại ông ta. Vì nếu không, cả dân tộc sẽ
bị tiêu diệt bởi chánh sách đồng hóa và thống
trị của nước Tàu cộng kia!
Bổn phận của các con chiến sĩ trong quân
đội, lại càng nặng nề hơn, vì các con phải
lo phục quốc để giữ nước và giữ
đạo. Bần đạo mong các con càng ngày càng bỏ
được nhiều điều dở, học thêm những
điều hay, gắng chặc mối tình huynh đệ để
cứu dân, cứu nước.
Ngày xưa tham vọng xâm lăng của Hốt Tất
Liệt, của Càn Long đã bị đại bại, vì những
danh thần Nguyễn Trải, Ngô Thời Nhiệm, những
chiến tướng Trần Hưng Đạo, Quang Trung,
bần đạo tin rồi đây những tướng,
tá Tàu cộng như Trần Canh, Chu Đức cũng sẽ
biết tay của các con, vì các con là con cháu của những
kẻ chiến thắng, mà họ là con cháu của những
kẻ xâm lăng đã bị chiến bại.
Bần đạo cũng cần nhắc lại cho các
tín đồ trong đạo biết, các con sở dĩ được
sống yên ổn làm ăn là nhờ có sức chiến đấu
của quân đội, những kẻ đã đem xương
máu làm thành trì bảo vệ các con. Các con có bổn phận
biết ơn và cứu giúp họ, hãy coi họ là tình ruột
thịt "máu chảy ruột mềm, môi hở răng lạnh".
Bần đạo hứa sẽ tìm mọi dịp để
bày tỏ nguyện vọng của các con cho các dân tộc bạn
như Pháp và Mỹ biết rằng: các con chỉ muốn
được các nước bạn giúp đỡ các con
đương đầu với phe Tàu Cộng để
bảo vệ độc lập Việt Nam mà thôi, chứ
các con không muốn bị các nước bạn dùng các con chống
cộng, để duy trì quyền lợi bất chánh
đáng. Bần đạo sẽ nói cho người Pháp và
người Mỹ biết rằng: các nước bạn
viện trợ cho nước Việt Nam để chống
cộng, tức là bỏ tiền ra để xây bức
thành rào giữ ngôi vườn Đông Nam Á, các nước bạn
sẽ tìm lợi tức ở trong ngôi vườn sau này, chớ
không phải tìm lợi tức ở trong số tiền
đã bỏ ra xây thành, nếu Việt Nam này mất thì
Đông Nam Á cũng phải mất, thế giới Âu Mỹ
cũng không còn, khi kho người, kho lúa ở đây bị
rơi vào vòng kiểm soát của Nga, Tàu cộng."
Thiết nghĩ trong đêm giao thùa
30 tháng chạp năm Giáp Ngọ (1955) chào mừng xuân Ất
Mùi, đức Hộ Pháp đã để lời huấn
giáo căn dặn cả chức sắc và bổn đạo
nam nữ trên toàn quốc vài vấn đề đạo lý
và thế sự, mà người tín hữu Cao Đài hằng
ghi nhớ, những lời vàng tiếng ngọc của
đức Ngài. Nhất định lời vàng tiếng ngọc
này mãi mãi in sâu trong tâm trí của mồi tín đồ ngoan
đạo, và lưu truyền cho hậu thế đời
đời kiếp kiếp.
Công việc của đạo càng
ngày càng chồng chất chẳng hạn như lo cho đồng
bào có nơi sinh cư, có cơm ăn áo mặc, xúc tiến
công tác huấn luyện: công dân, giáo dục, vệ sinh, nuôi
cô nhi, giúp quả phụ, an ủi kẻ già yếu, trợ
giúp người khó khăn, cùng chăm lo việc xây chợ,
cất trường học, lập nhà dưỡng lão, bệnh
viện, nhà bảo sanh cùng khắp vùng thánh địa.
Đặc biệt một đại
hội nhân sanh, đại diện chức việc và bổn
đạo trên toàn quốc được khai mạc với
lời kêu gọi thống thiết của đức Ngài;
Con hạc đã hồi qui, nhìn không gian nhớ tổ, xem nước
hoa đổi vẻ thay màu, thảm thiết thay nổi
lòng tuông châu, đổ ngọc, rấp kêu cuối cùng một
tiếng nỉ non, giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi! Bức
tranh thê lương này, ai là kẻ tri kỷ, tri âm củng bần
đạo, ngoài chư hiền huynh, hiền muội đã
kiếm đặng ai.
Tuy nhiên đức Hộ Pháp không hề
lảng quên bổn phận một công dân yêu nước nồng
nàn, với đường lối bất di, bất dịch
là thống nhất lãnh thổ Việt Nam, thu hồi trọn
vẹn chủ quyền dân tộc và cương quyết giải
phóng quốc gia khỏi lệ thuộc trực tiếp hay
gián tiếp giữa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản,
nên chế độ Ngô Đình Diệm thúc đẩy Trung
Tướng Nguyễn Thành Phương đem quân lính về
thanh trừng Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh nhằm hạ
uy thế đức Hộ Pháp. Nhưng ông Phương
không dám trực tiếp xúc phạm đến uy danh của
đức Ngài. Ăn cơm chúa phải múa tối ngày, ông
Phương tránh né, bèn ủy nhiệm cho Thiếu Tướng
Lê Văn Tất, phó Tổng Tư Lệnh, đem quân đội
về bao vây Hộ Pháp Đường, nội ô Tòa Thánh
ngày 20 tháng 8 năm Ất Mùi (1955) gọi là thanh trừng Hội
Thánh.
Thiếu Tướng Lê Văn Tất
tuân lệnh Trung Tướng Nguyền Thành Phương
đem quân lính thân chinh đến Hộ Pháp Đường,
đe dọa cho lính đặt địa lôi giựt xập
Hộ Pháp Đường, đã bị Ngài Bảo Đạo
Hồ Tấn Khoa lên tiếng phản đối bằng một
lời nói danh thép: "Hãy bước
qua xác chết tôi, rồi mới vào Hộ Pháp Đường
được."
Một vết nhơ tủi nhục
của tình "Trò phản Thầy"
nhưng đức Hộ Pháp bình thản "hóa giải" cuộc khủng bố bao vây
Hộ Pháp Đường và nội ô Tòa Thánh vô cùng độc
đáo tế nhị. Không một tiếng súng nổ, mà mưu
đồ nhúng tay vào nội bộ Hội Thánh Cao Đài của
Ông Diệm hoàn toàn bị phá hỏng trước tinh thần
cương quyết phản đối của chức sắc
và bổn đạo nam nữ vì Thầy, vì Đạo nơi
vùng Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh, bắt buộc quân đội
phải tự rút lui có trật tự khỏi khuôn viên Tòa
Thánh một cách êm thấm.
Tiếp theo, bao nhiêu trò hề vu khống
hết sức thâm độc bôi lọ thanh danh đức
Hộ Pháp, đều bị bổn đạo vạch trần
phơi bày trước ánh sáng công lý Kẻ phản Thầy,
phản Đạo đã hiện nguyên hình, tạ tội
cùng Hội Thánh. Thánh Địa Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh trở
lại yên ấm như không có việc gì xảy ra cả.
Hội Thánh tiếp tục mở
thêm khóa Hạnh Đường đào tạo chức sắc
nam nữ đủ khả năng và đạo đức
thuyên bổ đi các tỉnh, quận, cùng rèn luyện một
số chức sắc ưu tú hướng dẫn các phái đoàn
Cao Đài tham dự đại hội Tôn Giáo Quốc Tế
khắp cả năm châu:
- 1928 - Đại Hội Quốc Tế
Thần Linh Học tại Londres (Anh Quốc) ngày 7/9/1928 -
11/9/1928 ( có 26 nước đến tham dự Congrès Spirite
International).
- 1934 - Đại Hội Thần Học
tại Tây Ban Nha (Barcelone).
- 1936 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc
Tế tại Anh Quốc (Landres).
- 1937 - Đại Hội Thần Ni Triết Học tại
Đức Quốc (Eglise Gnostiques D Alemagne).
- 1937 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Anh
Quốc (Londres).
- 1939 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Pháp
Quốc (Paris).
- 1948 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại Lausane.
- 1950 - Đại
Hội Thần Học tại Haywards Henth.
- 1951 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc Tế tại
Thụy Điển (Stockholm)
- 1952 - Đại Hội Tôn
Giáo Quốc Tế tại Bỉ Quốc
(Bruxelles).
- 1952 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc
Tế tại Maroc (Casablanca).
- 1954 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc
Tế tại Thụy sĩ (Montreux)
- 1955 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc
Tế tại Nhật Bổn (Baguio)
- 1965 - Đại Hội Thần
Linh Học Thế Giới tại Bĩ (Bruxelles)
- 1966 - Đại Hội Đại
Học LosBanos tại Phi Luật Tân (Bagio)
- 1975 - Đại Hội Tôn Giáo Quốc
Tế tại Ấn Độ (New Delhi)
Hiệp định Génève ngày
20-7-1954 không được tôn trọng, hoàn cảnh nước
Việt Nam lúc bây giờ rất đen tối, cả hai
chánh phủ Miền Nam và Miền Bắc Việt Nam đều
do Ngoại Bang yểm trợ. Chánh phủ Việt Nam Dân Chủ
cộng Hòa Miền Bắc do cụ Chủ Tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo, được sự yểm trợ
của khối cộng sản Quốc Tế mà Cường
Quốc trực tiếp là Nga và Trung Quốc. Chánh Phủ Việt
Nam Cộng Hòa Miền Nam do Tổng Thống Ngô Đình Diệm
lãnh đạo, được sự yểm trợ của
khối thế giới tự do mà Cường Quốc trực
tiếp là Tư Bản Mỹ.
Kể từ ngày Pháp và Việt Minh
ký kết hiệp định Génève 20-7-1954 tại Thụy
sĩ có 9 Cường Quốc (9 nước) ký tên tham dự
chia đôi đất nước Việt Nan làm 2 miền
Nam-Bắc chọn con sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 làm
ranh giới, cũng như trước kia thời Trịnh
- Nguyễn phân tranh, lấy con sông Gianh làm ranh giới (vào thế
kỷ thứ 17 - 1627).
Không thể khoanh tay ngồi nhìn cảnh
đồng bào bị Ngoại Bang áp đặt, gây cảnh
nồi da, xáo thịt, nên đức Hộ Pháp phải tìm
phương gở rối cho thế cuộc phải tự
lưu đày thể xác một lần nữa, là tự nguyện
qua sống lưu vong tại nước Cao Miên, một
nước Trung Lập, và là thành viên của 5 điểm SỐNG
CHUNG HÒA BÌNH của Thủ Tướng Nneru (Ấn Độ)
chủ xướng.
Sáng ngày mùng 5 tết năm Bính Thân
(16-2-1956) đức Hộ Pháp và một chức sắc rời
Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh lưu vong qua nước Cao
Miên, âu cũng là Thượng Đế đã an bày, thực
hiện theo đúng ý nguyện của Thượng Đế
bằng một chương trình đã tự định
trước, một chuyến đi lưu vong để bảo
vệ lập trường Trung Lập, tránh áp lực của
2 khối Cộng Sản và Tư Bản, đang tranh giành
quyền bá chủ trên thế giới.
Tại Phnom-Pênh, thủ đô nước
Cao Miên, đức Hộ Pháp để xướng bản
CƯƠNG LĨNH HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG, cốt để
giác ngộ quốc dân Việt Nam sớm biết thực dụng
quyền hành của dân, bởi cớ có 3 mục tiêu chánh yếu
là: Do Dân, Phục Vụ Dân, Lập Quyền Dân. Chỉ có
dân mới cứu vãn được tình thế nguy hại
cho tương lai Tổ quốc và giống nòi, chúng ta phải
bền giữ hòa bình, hạnh phúc, dù cho các nước Liệt
Cường Quốc Tế biến thiên thế nào, chúng ta cần
phải khôn ngoan hợp sức, nhất tâm, nhát trí bảo vệ
toàn vẹn hòa bình quốc nội của ta.
Ngày 15-3-Bính Thân (26-3-1956), đức
Hộ Pháp có gởi 2 bức thư cho cụ Chủ Tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo chánh phủ VNDCCH và Tổng Thống
Ngô Đình Diệm lãnh đạo chánh phủ VNCH. Kêu gọi
cuộc thi đua "Nhân Nghĩa" giữa 2 miền
Nam, Bắc Việt Nam.
Tiếc thay! Lúc bấy giờ vì ảnh
hưởng của ngoại bang quá ư nặng nề, nên
chánh phủ Miền Nam và Miền Bắc không có thẩm quyền
định đoạt đến vận mạng dân tộc
mình, chưa dám ngồi gần lại với nhau để
thảo luận đề nghị của đức Hộ
Pháp trình bày trong bản Cương Lĩnh chánh sách Hoà Bình
Chung Sống. Đồng thời, Đức Hộ Pháp có gởi
văn thơ số: 138/HP/VPHP. ngày 3/11/1956 thân gởi đến
các ông Đại Đức Tôn Giáo:
"Thời cuộc hôm nay lại đến một giai
đoạn khắc khe, rất nguy hiểm cho tương
lai số phận của Việt Nam là nước bị phân
đôi, chia 2 chủng tộc dưới ảnh hưởng
của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, gây cuộc
Nam-Bắc phân tranh, cốt nhục tương tàn, nồi
da xáo thịt.
Ngoại Bang mưu đồ lợi dụng
xương máu đồng bào Việt Nam đặng định
quyền bá chủ của họ.
Hiển nhiên giờ phút này, đồng bào Việt Nam ta
đã bị lệ thuộc của 2 khối Cộng Sản
và Tư Bản, chớ không có độc lập, tự do chi
cả, chánh phủ Miền Nam, cũng như chánh phủ Miền
Bắc đều bị lệ thuộc như nhau.
Rồi đây, nội chiến sẽ vì ngoại bang bùng
nổ mà ta không thể đề phòng được. Chúng
ta là người tu hành, các Chư Đại Đức
cũng thế, không thể khoanh tay ngồi đợi để
thấy cái thảm họa ấy. Bởi chiều theo thiên
ý, chúng ta phải tìm một phương pháp hay để chấm
dứt cuộc tương tàn, tương sát do mưu đồ
ngoại bang áp đặt tranh giành quyền lợi với
nhau.
Đương nhiên đồng bào 2 miền Nam và Bắc
đều là nạn nhân của 2 tư tưởng, của
quyền lực Quốc Gia và Cộng Sản mà cả đồng
bào chúng ta từ Nam chí Bắc đồng bị tiêm nhiễm
và xu thời theo 2 chánh sách, dân tâm bất nhất".
Ngoài ra đức Hộ Pháp còn gởi
đến ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc một giải
pháp hòa bình đại đồng thế giới, hầu
dung hoà 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm hiểu
biết nhau, tương nhượng để tồn tại
sống còn, phải thương yêu nhau như anh em ruột
thịt, tất cả đều là anh em trong một đại
gia đình cùng nhau chung sống hòa bình.
Máu của người Việt Nam
đã đổ trên mảnh đất tổ tiên, chịu
nạn ngoại quyền chi phối, là một điều
bất hạnh cho đồng bào Việt Nam phải gánh lấy
thảm họa nợ máu tiền khiên từ đời Chúa
Trịnh, Chúa Nguyễn lưu lại.
Thiết nghĩ, nếu chánh phủ
2 miền Nam-Bắc Việt Nam do cụ Chủ Tịch Hồ
Chí Minh và Tổng Thống Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ
có chút thẩm quyền quyết định vận mạng
non sông chủng tộc, cùng nhiệt tình thực hiện
chánh sách Hòa Bình Chung Sống "Thủy
Tổ" của chủ trương hòa giải, hòa hợp
dân tộc, thì mảnh đất quê hương cẩm tú
này đâu đến nổi điêu linh, lầm than thống
khổ. Nhất định đồng bào Việt Nam
đã hưởng được thanh bình, hạnh phúc từ
lâu rồi. Một bằng chứng hiển nhiên là sau khi Việt
Minh đại thắng trận Điện Biên Phủ, khí
thế đánh đuổi xâm lăng của toàn dân Việt
Nam từ Nam chí Bắc đang bùng lên sôi nồi, thừa sức
tiến lên giải phóng cả Miền Nam quá ư dễ
dàng, để nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Nhưng chánh phủ miền bắc lúc bấy giờ bị
ảnh hướng nặng nề của ngoại bang là
Trung Quốc, đã từng kinh nghiệm đặc quyền,
đặc lợi trên bàn hội nghị "Bàn Môn Điếm” năm 1953 chia đôi nước
Triều Tiên, với 2 chánh phủ Nam Triều Tiên và Bắc
Triều Tiên.
Mặc dù giải pháp dung hòa 2 khối
Cộng Sản và Tư Bản của đức Hộ
Pháp chưa được các cường quốc nhiệt
tình hưởng ứng, nhưng có nhiều cường quốc
rất lưu ý, chiếu cố, phúc đáp lại đức
Ngài với lời lẽ ân cần, tôn kính.
Đồng thời, nhiều biến
chuyển rất tốt đẹp và giải pháp hòa giải
2 khối Cộng Sản và Tư Bản từ từ lố
dạng không còn là tiếng gọi trong sa mạc như trước
đây. Trái lại, nó trở thành âm thanh vô cùng quen thuộc "Hòa Bình Chung Sống"
danh từ được thế giới thường nhắc
nhở đến, nhất là trong những cuộc biểu
tình khổng lồ của các quốc gia yêu chuộng hòa
bình, mà cả 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đều
nhận định không có kẻ thắng người thua.
Nếu nói giữa chủ nghĩa Cộng Sản và Tư Bản
không có vấn đề ai thắng ai thua, thì cũng có mặt
đúng và mặt chưa đúng!
Đúng trên khía cạnh không thể
thanh toán nhau bằng vũ lực, nếu cả hai đồng
đọ sức nhau bằng vũ khí hạt nhân, sẽ dẫn
tới thảm họa hủy diệt cả hai khối, cả
nhân loại.
Không đúng ở chổ xóa nhòa bản
chất xã hội, không dám tin tưởng con đường
mình đang đi. Giữa 2 hệ thống có thể vì cần
thiết để sống còn, phải hòa bình chung sống,
phải tự điều khiển mình để theo qui luật,
tự toàn thiện mình để tiếp cận với
chân lý.
Niềm phấn khởi cho nhân loại
trên thế giới là vào tháng 4 năm 1971, đại hội
Đảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ 24 tại Mạc
Tư Khoa đã long trọng quyết định hòa hoản
với Trung Quốc và giao hảo với Mỹ. Đó là triệu
chứng biến chuyển Quốc Tế đáng mừng
cho nhân loại. Kế tiếp vị lãnh đạo tối
cao Thiên Chúa Giáo, đức Giáo Hoàng Phao Lồ đệ lục
tuyên bố: xây dựng một xã hội anh em trên mặt
đất này.
Rồi tiếp theo phái đoàn thể
thao bóng bàn Mỹ, và 3 ký giả Mỹ được Trung
Quốc chánh thức mời viếng thăm Bắc Kinh. Sau
20 năm tuyệt giao, Trung Quốc và Mỹ đã bắt
đầu tiếp xúc lại. Cuộc tiếp đón phái
đoàn thể thao Mỹ rất nồng hậu, đủ
chứng tỏ cho quốc tế hiểu ngầm rằng: Cuộc
ban giao hi hửu này nhất định sẽ mang lại một
sự thỏa hiệp ngấm ngầm và thay đổi bất
ngờ của Mỹ đối với Đông
Dương, mà Việt Nam là vai tuồng chánh cần phải
giải quyết nhanh chóng và êm đẹp trên bàn hội nghị
thương lượng chớ không cần đến
vũ lực nữa.
Nhất là sự bắn tiếng
vô cùng sâu sắc của Thủ Tướng Chu Ân Lai trong buổi
tiếp tân phái đoàn bóng bàn Mỹ đã chứng tỏ dấu
hiệu chuyển hướng sau bao cuộc thí nghiệm bằng
xương máu "biển
người" trên mặt trận Điện Biên Phủ
Việt Nam, rồi tiếp đến mặt trận Triều
Tiên 1955. Các nước nhược tiểu khác đã thoát
khỏi nanh vuốt của tử thần qua một câu tuyên
bố ngắn gọn của Thủ Tướng Chu Ân Lai: "TỨ HẢI GIAI HUYNH ĐỆ".
Ngày 26-3-1956, đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc nêu lên chánh sách Hoà Bình Chung Sống với
quyết tâm cứu khổ cho nhân loại. Chính bản thân của
người tín hữu Cao Đài có lúc phải trả giá bằng
xương máu trong lao tù của Miền Nam Việt Nam để
góp phần thực thi chánh sách Hòa Bình Chung Sống, với kỳ
vọng nước nhà độc lập, tự do, thống
nhứt, thoát ra ngoài cuộc xung đột của 2 khối
Cộng Sản và Tư Bản đã thề quyết không sống
chung bầu trời, kẻ mất người còn.
Một phái đoàn chức sắc
và tín hữu Cao Đài tình nguyện lấp bằng sông Bến
Hải đã âm thầm đột nhập vĩ tuyến
17, vào ngày 17-4-Bính Thân (1956) để thượng lá cờ
trắng tại nhịp cầu thứ hai, cầu Hiền
Lương, Bến Hải và được gọi là "Cờ Nhan Uyên" tượng
trưng hòa bình. Việc làm này nhằm kêu gọi chánh phủ
2 miền Nam-Bắc Việt Nam hãy gạt bỏ những hiềm
khích, ngồi lại với nhau tìm một giải pháp thích
hợp cho đôi bên dung hòa lẫn nhau. Do vị trưởng
đoàn là Trung Tá Lê Văn Thoại đà hoàn thành xuất sắc
trách nhiệm, ngọn cờ trắng (bạch kỳ)
được phất phới tung bay trên cầu Hiền
Lương, Bến Hải, làm chấn động khắp
cả các tỉnh Miền Nam và Miền Bắc lúc bấy giờ,
gây nổi lo âu cho chánh phủ Miền Nam không ít.
Tại Miền Nam Việt Nam lúc bấy
giờ cả chức việc, chức sắc, bổn
đạo nam nữ đồng quyết tâm hưởng ứng
chánh sách Hòa Bình Chung Sống, nên một số đông Sĩ
Tải Hiệp Thiên Đài tình nguyện đảm nhiệm
trọng trách trong ban vận động CSHBSC Miền Nam, và
thành viên được cử vào ban vận động Miền
Nam được đệ trình lên Trung Ương.
Ngày 20-3-Bính Thân (30-4-1956) từ thủ
đô Phnom-Pênh, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc gởi
chứng thư cho từng thành viên trong ban vận động
với lời ưu ái nồng nàn.
"Những ai đã nhiệt tình ái quốc, ưu
hương để cứu vãn tình thế nguy ngập của
nước nhà, xin đem cả năng lực hợp tác,
cùng các đồng chí của Bần đạo thọ lãnh ủy
nhiệm thư này, hầu vì dân, phục vụ dân, và lập
quyền dân, đặng cho toàn dân đủ thẩm quyền
cứu nước".
Các thành viên trong ban vận động
CSHBCS Miền Nam Việt Nam, thọ lãnh "chứng thư" gồm có:
- Sĩ
Tải Nguyễn Minh Ngòi :
- Trưởng ban vận động CSHBCS.Miền Nam Việt
Nam.
-
Sĩ Tải Lê Quang Tấn :
- Tổng Thư ký!
-
Sĩ Tải Phạm Duy Nhung :
- Tuyên Huấn.
-
Sĩ Tải Huỳnh Văn Hương : - Thông Tin.
- Sĩ
Tải Nguyễn Văn Tú :
- Tài Chánh.
- Sĩ
Tải Trần Tấn Hợi :
- Kiểm Soát.
- Sĩ
Tải Nguyễn Ngọc Trân :
- Tổ Chức.
-
Sĩ Tải Nguyễn Thành Nguyên :
- Tổ Chức.
-
Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Tỷ : - Tổ Chức.
- Sĩ
Tải Nguyễn Hữu Khỏe :
- Liên Lạc.
Kế tiếp ngày 23-6-1956, đức Hộ Pháp chỉ
thị cho đại huynh Hiến Pháp Trương Hữu
Đức, đại diện Hội Thánh Cao Đài Tòa
Thánh Tây Ninh phải đến kiến diện Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm để biết rõ thêm thái
độ của chánh quyền Miền Nam lúc bấy giờ,
đối với Chánh sách Hòa Bình Chung sống do đức
Ngài chủ trương.
Một phái đoàn Hội Thánh được thành
lập gồm có: Quyền Thượng Chánh Phối Sư Thượng
Sáng Thanh, Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ Thanh, và Sĩ Tải
Lê Quang Tấn (đại diện cho đại huynh Hiến
Pháp) đến kiến diện Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm.
Đồng thời các ban vận động HBCS
trực thuộc của tỉnh, quận, xã đều
thành lập xong với tinh thần hy sinh cao cả, bảo
vệ giọt máu người Việt
Lòng tha thiết yêu chuộng hòa bình của người
tín hữu Cao Đài lại bị nghi ngờ là thân Cộng
Sản, làm tay sai cho Cộng Sản, để rồi bị
đàn áp, bắt bớ, giam cầm. Chủ trương nêu
cao ngọn cờ cứu khổ của đạo Cao Đài
là phải thương yêu nhau, công bình đối với
nhau như tình huynh đệ, anh em một nhà, không phân biệt
là Cộng Sản hay Tư Bản, mà chỉ biết nhìn
nhau là con chung một cha.
Tại Trung phần Miền Nam Việt Nam, công an mật
vụ chế độ Ngô Đình Cẩn ráo riết truy tầm
thủ phạm dám cả gan đột nhập cầu Hiền
Lương treo cờ trắng (bạch kỳ). Trở về
tới ranh giới tỉnh Quảng Trị, chẳng may cho
Trung Tá Lê Văn Thoại bị mật vụ của Ngô
Đình Cẩn chận bắt. Còn 3 anh: Nguyễn Văn Kỳ,
Nguyễn Quốc Đại và Nguyễn Văn Lợi thì
cũng bị công an mật vụ chận bắt tại bến
xe tỉnh Quảng Trị. Cả 4 anh Thoại, Kỳ,
Đại, Lợi đều được công an dẫn
giải về giam giữ tại Huế trên 3 năm mới
được trả tự do trở về Tòa Thánh Tây Ninh.
Thực hiện bổn phận người công
dân Việt
Long tu phiến quạt bợn sơn hà,
Như gián ma xử trấn quốc gia.
Rưới nước cam lồ lau xã tắc,
Múa gươm thần huệ dẹp can qua.
Niệm kinh Khổng Thánh thâu Mao Tưởng,
Phất phướng Nhan Uyên chận Mỹ Nga.
Thế giới hòa bình ai chủ xướng,
Thì dân nước Việt khải hoàn ca.
THĂNG
Bốn anh: Thoại, Kỳ, Đại,
Lợi đã hiên ngang, xem thường mọi hiểm nguy đột
nhập cầu Hiền Lương (vĩ tuyến 17) treo bạch
kỳ hoàn thành sứ mạng một tín hữu ngoan đạo
với 3 năm tù gẫm ra cũng có phần qúa đắt
đối với người tu sĩ Cao Đài.
Còn hiền huynh Giáo sư Thượng
Cao Thanh (Ma Tăng Cao) Khâm Trấn Đạo Thừa Thiên phải
bỏ mình trong ngục thất Huế với tội tình
nghi chứa chấp hướng dẫn 4 anh: Thoại, Kỳ,
Đại, Lợi đột nhập cầu Hiền Lương
(Bến Hải) ngày 17-7-Bính Thân (22-8-1956).
Đoàn tình nguyện của Trung Tá
Lê Văn Thoại quyết tâm lấp bằng vĩ tuyến
17 đã hoàn thành trọng trách đối với đồng
bào 2 miền Nam-Bắc Việt Nam. Quan trọng nhất là
ngọn bạch kỳ tượng trưng cho hoà bình đã
ngang nhiên tung bay trên cầu Hiền Lương, nhằm thức
tỉnh chánh quyền Nam-Bắc nhớ lại thảm họa
phân tranh của chúa Trịnh - Nguyễn còn lưu lại hầu
ngồi lại với nhau bàn bạc và tìm một giải
pháp dung hòa để bảo vệ giọt máu người
Việt Nam. Đừng vì ngoại bang mà đỗ máu một
cách vô cớ và cần phải khôn khéo tránh né mưu đồ
áp đặt của họ.
Đức Hộ Pháp đã nhiều
lần dẫn giải cho chức sắc và bổn đạo
biết rõ: dân tộc Việt Nam còn phải trả quả
kiếp nặng nề của tổ phụ trước
kia là Chúa Trịnh Chúa Nguyễn cho xong rồi mới có hòa
bình thật sự được!
Tuy nhiên, chẳng lẽ khoanh tay ngồi
chờ thảm họa đến, đức Ngài mớ tự
sửa đổi máy thiên cơ. Nhưng nào haỵ "vạn sự do thiên định".
Tại thủ đô Phnom Penh (Cao
Miên) đức Hộ Pháp ban lệnh cho hiền huynh Giáo Hữu
Thái Tây Thanh, một chức sắc Cửu Trùng Đài, một
liên lạc viên nổi tiếng của trấn đạo Tần
Quốc vượt biên giới từ Phnom Penh đến
Bet-Chay, rồi Tân Châu tới Châu Đốc và đi thẳng
về SàiGòn suông sẻ nhanh chóng để kịp tiếp
xúc với ban vận động Miền Nam chánh sách Hòa Bình
Chung Sống hầu chuyển mật thơ của đức
Hộ Pháp vào lúc 14 giờ ngày 18-2-1957.
Trưởng ban vận động
CSHBCS Miền Nam Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời tiếp
được mật lệnh của đức Hộ
Pháp chỉ định cho Sĩ Tải Lê Quang Tấn phải
vượt biên giới lên Phnom Penh với vị chức sắc
liên lạc viên Giáo Hữu Thái Tây Thanh khẩn cấp.
Tuân hành mật lệnh của
đức Hộ Pháp, Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời liền
triệu tập một buổi họp "khẩn" bất
thường của ban vận động Miền Nam.
Sĩ Tải Lê Quang Tấn tạm bàn giao trách vụ Tổng
Thư Ký cho sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời kiêm nhiệm
đảm nhận tạm thời cho Sĩ Tải Tấn
kịp "lên đường
vượt biên" lên Phnom Penh theo kế hoạch của
vị chức sắc liên lạc viên đã dự thảo.
Sĩ Tải Lê Quang Tấn chuẩn
bị lên đường với Giáo Hữu Thái Tây Thanh. Chỉ
trong 3 tiếng đồng hồ thì mọi việc đều
thu xếp xong. Các vị Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời,
sĩ Tải Bùi Văn Tiếp và Sĩ Tải Nguyễn Ngọc
Trân đại diện ban vận động Miền Nam
đồng tiễn đưa đến tận bến xe
SàiGòn - Châu Đốc (đường Kitchener, gần cầu
ông Lãnh SàiGòn). Sự tiễn biệt lúc bấy giờ hết
sức cấp bách, kẻ ở lại người ra
đi vô cùng quyến luyến, thắm đượm tình
huynh đệ gắng bó từ lâu, với những cái khoát
tay chia ly chào mừng thượng lộ bình an hết sức
cảm động bùi ngùi, khi chiếc xe đò SàiGòn - Châu
Đốc bắt đầu lăn bánh vào lúc 18 giờ ngày
18-2-1957.
Mãi lo chuyển giao phận sự Tổng
Thư Ký ban vận động Miền Nam cho Sĩ Tải
Nguyễn Minh Ngời tạm thời đảm nhận để
kịp lên xe vào lúc 18 giờ, sĩ Tải Tấn phải nhờ
sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân vui lòng đến báo tin
cho gia đình biết là Sĩ Tải Tấn đã lên
đường đi Châu Đốc vượt biên sang
Phnom Penh với Giáo Hữu Thái Tây Thanh theo lệnh đức
Hộ Pháp đã phán dạy.
Rời khỏi tỉnh Châu Đốc
với nhiều kinh nghiệm vượt biên giới, liên lạc
viên Thái Tây Thanh đã trải qua nhiều chặn đuờng
không kém phầm nguy hiểm. Nhất là phải qua một
con sông lớn chia hai địa phận Cao Miên và Việt
Nam. Chiếc xuồng chèo lắc lư vượt qua sông
Bet-Chay để sang phần đất Cao Miên là một
mưu trí sáng tạo của Giáo Hữu Thái Tây Thanh.
Khi tới địa phận Cao
Miên, cả hai người còn phải thay đổi nhiều
chuyến xe đò, họ đã chuẩn bị sẵn giấy
tờ hợp lệ lưu thông trên đất Cao Miên để
vượt qua các trạm gác dọc đường. Liên lạc
viên Thái Tây Thanh đã khéo léo đề phòng mọi sự bất
trắc, hầu đến Phnom Penh thông suốt an toàn, tới
Thánh Thất Cao Đài kịp giờ qui định cho
Sĩ Tải Lê Quang Tấn trình diện Đức Hộ
Pháp
Sĩ Tải Lê Quang Tấn đến
kiến diện Đức Hộ Pháp và trình bày các diễn
biến vừa qua của Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh và
sự phổ biến sâu rộng chánh Sách Hòa Bình Chung Sống
thành công tốt đẹp khắp cả Miền Nam Việt
Nam do quyết tâm của tòan thể chức sắc, chức
việc và bổn đạo nam nữ trên toàn quốc nhiệt
tình hưởng ứng và hoạt động hữu hiệu
của các tỉnh, quận, xã. Sau khi trình diện đức
Hộ Pháp xong, sĩ Tải Lê Quang Tấn nghiêm túc thực
hiện lời phán dạy: Cần ra trình diện chánh phủ
Hoàng Gia Cao Miên để xin tỵ nạn chánh trị tại
Phnom Penh, chờ qụyết định mới. Sĩ Tải
liền đến trình diện phòng cảnh sát đặc
biệt. (Police Spécial) và làm đúng thủ tục xin tỵ
nạn chánh trị tại thủ đô Phnom Penh.
Lúc bấy giờ, tại SàiGòn và
các tỉnh miền tây đang gặp nhiều khó khăn với
chánh quyền Miền Nam. Trưởng huynh chơn nhơn
Trịnh Phong Cương chưởng Quản Hội Thánh
Phước Thiện, Thừa Sử Phan Hữu Phước
trưởng phòng Bộ Pháp Chánh, Sĩ Tải Trần Tấn
Hợi liên lạc viên ban vận đông CSHBCS. Miền Nam,
Giáo Hữu Thượng Liên Thanh khâm châu đạo Chợ
Lớn, Giáo Sư Thượng Cao Thanh khâm trấn đạo
Thừa Thiên, Luật Sư Nguyễn Thị Nhãn Bộ Pháp
Chánh Tòa Thánh Tây Ninh v.v… đã hy sinh bỏ mình trong ngục thất,
và có trên hai ngàn chức sắc, chức việc, bổn
đạo nam nữ cùng bị băt bớ giam cầm
để tô điểm them Chính Sách Hòa Bình Chung Sống bằng
một tội danh vô cùng đơn giản: Cao Đài ăn
cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản.
Thiết nghĩ, chánh quyền Miền
Nam đã gay gắt: lên án hiệp định Génève 20-7-1954
là do Việt Minh ký kết với Pháp chia đôi đất
nước Việt Nam, và xem ngày 20-7-1954 là ngày "Quốc
Hận" của dân tộc Việt Nam, những
người Tín Hữu Cao Đào lại phổ biến sâu
rộng, cùng thành lập ban vận động CSHBCS khắp
các tỉnh, quận, xã trên toàn quốc.Trong khi Tổng Thống
Ngô Đình Diệm chủ trương triệt để
chống Cộng Sản, còn tín hữu Cao Đài Tòa Thánh Tây
Ninh lại đòi chung sống hòa bình. Có phải chăng là
muốn hòa bình chung sống với Cộng Sản nên mới
bị chế độ Ngô Đình Diệm khủng bố,
đàn áp, bắt bớ, giam cầm. Trái lại số các bộ
Việt Minh nằm vùng (không đi tập kết ra bắc)
thì lại im hơi lặng tiếng, mặc tình cho hiệp
định Génève không
được tôn trọng khi mà người tín hữu Cao
Đài lại tình nguyện lấp bằng vĩ tuyến
17, ngang nhiên đột nhập khu phi quân sự, thượng
bạch kỳ tại cầu Hiền Lương (Bến Hải)
không ngần ngại hiểm nguy!
Đang lưu vong tại Cao Miên, tiếp
nhận nhiều phúc báo và tường trình của Hội
Thánh và ban vận động CSHBCS Miền Nam cho biết rõ
về chế độ Ngô Đình Diệm thẳng tay
đàn áp Cao Đài, đức Hộ Pháp liền có văn
thư số 238/HP-VPHN ngày 28-2-1957 cho ông chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế kiểm
soát đình chiến tại Việt Nam (Président De Commission
Internationale De Contrôle Au Vietnam)
Xin tạm dịch một đoạn:
…………………… Tôi yêu cầu ông Chủ Tịch mở cuộc điều
tra tại chỗ và xin can thiệp trả tự do cho những
vị đã bị giam giữ.
Sĩ Tải Lê Quang Tấn tự
Trường, một chức sắc Cao Đài hiện ở
Tòa Thánh Tây Ninh (Miền Nam Việt Nam) là người đại
diện chánh thức của tôi có thể cung cấp cho Ủy
Hội Quốc Tế kiểm soát tại Việt Nam, những
chi tiết cần thiết trong việc tiến hành cuộc
điều tra được dễ dàng xác thực ……
Nguyên vin Pháp Ngữ: ……………Je vaus serai,
en conséquence torès reccjnnaissant de vouloir bien faire ouvrir des enquêtes
sur place et faire libérer le plutôt possible tous ces détenues.
Le Si Tai Lê Quang Tấn dit Trường,
Diguitaire Caodaiste damicilié actuellement au Saint-Siège Caodaique de Tây
Ninh (Sud Vietnam) est désigné comme notre Représentant officiel auprès de la
c.I.e. au Vietnam pour lui apporter toutes precisians nécessaires et facilliter
les enquêtes prescrites.
………………………………………………………………………………………………………………………………
Tiếp theo, ngày 23-6-1956, đức
Hộ Pháp tiếp được điện văn của
cụ Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Chánh Phủ Việt Nam
Dân Chủ cộng Hòa từ Hà Nội gởi đến
Phnom Penh với nội dung:
"Tôi trân trọng cám ơn bức điện văn cụ
gởi tôi ngày 26-4-1956 và thành thật cám ơn cụ đã tỏ
ý mong muốn nước Việt Nam ta được hòa bình
thống nhắt. Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ cộng
Hòa tòan dân ta từ Bắc chí Nam trong nước và ngoài nước
đều đang cương quyết và bền bỉ
đấu tranh để thực hiện nguyện vọng
tha thiết của dân tộc là làm cho nước Việt
Nam ta được hòa bình thống nhất độc lập
dân chủ và giàu mạnh.
Cuộc đấu tranh hiện nay của nhân dân ta tuy phải
khó khăn và phức tạp, song toàn dân đoàn kết một
lòng cương quyết phấn đấu cho nên nhất định
sẽ thắng lợi.
Tôi xin gởi cụ lời
chào trân trọng.
Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 1956
Hồ Chí Minh
Chủ Tịch nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa"
Đồng thời đức Hộ
Pháp cũng nhận được thư của ông Tổng
Thư Ký Liên Hiệp Quốc hoan nghinh đường lối
Hòa Bình Chung sống và giải pháp dung hòa 2 khối Cộng Sản
và Tư Bản sớm thực hiện hòa bình đại
đồng thế giới.
Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc
và phái đoàn Cao Đài lưu vong tại Cao Miên cũng gặp
nhiều trở ngại. Vì quyền lợi, vận mạng
của số đông kiều bào Cao Miên còn đang sống rải
rác ở các tỉnh: Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc
Liêu, Châu Đốc thuộc Miền Nam Việt Nam, bắt
buộc chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên phải làm vui lòng chế
độ Ngô Đinh Diệm trong sự ngoại giao của
2 nước Việt-Miên. Lúc bấy giờ Quốc Trưởng
Norodom Sihanouk rất tế nhị, không trực tiếp hội
đàm với đức Hộ Pháp như những lần
tiếp kiến đức Ngài trong năm 1950 và 1952 vô cùng
tôn kính, mà lại ủy nhiệm cho Thủ Tướng Pen
Nouth Chánh Phủ Hoàng Gia tiếp kiến phái đoàn Cao
Đài. Do đó đức Ngài chỉ định cho Đại
Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa hội đàm với
Thủ Tướng Pen Nouth.
Thấu rõ thân phận của
người lưu vong và từng kinh nghiệm 5 năm 2
tháng bị tù đày ở Phi Châu Madagascar vào những năm
1941 - 1946, đức Hộ Pháp thông cảm hoàn cảnh của
Quốc Trưởng Norodon Sihanouk lúc bấy giờ không thể
trực tiếp nghinh đón đức Ngài một cách
tưng bừng trọng thể như trước kia.
Tình đời là thế! Nhưng
vì sứ mạng của đức Chí Tôn giao phó, đức
Ngài không ngần ngại lìa xa Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh để
lưu vong qua Cao Miên, một nước Trung Lập hầu
tránh áp lực của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản
để đề xướng Chánh sách Hòa Bình Chung Sống,
bất chấp hiểm nguy đe dọa, và chấp nhận
mọi khổ đau tủi nhục của dân tộc bị
ngoại bang áp đặt chia đôi lãnh thổ….
Nỗi khổ tâm nhất của đức
Hộ Pháp lúc bấy giờ là thỉnh thoảng tiếp nhận
được điện tín hoặc phúc trình của Hội
Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh và ban vận động CSHBCS
Miền Nam báo cáo bổn đạo nơi tỉnh này, tỉnh
nọ bị đàn áp, bắt bớ giam cầm, và bỏ mình
trong ngục thất. Lòng ưu ái của đức Hộ Pháp
đối với số chức sắc, chức việc
và bổn đạo vô cùng sâu sắc, nhất là khi được
tin đồng đạo bị bắt bớ giam cầm. Cũng
như ở tại thủ đô Phnom Penh, Sĩ Tải Lê
Quang Tấn phải bị 3 tháng tù với tội danh: Đột
nhập vào nước Cao Miên bất hợp pháp. Vừa ra
khỏi khám đường, đức Ngài đã an ủi Sĩ
Tải Tấn với lời phán dạy hết sức xúc
động: "Nếu bần
đạo không bị bệnh con không bị kêu án 3 tháng tù đâu". Lời phán dạy của đức Ngài
chưa chấm dứt thì hai dòng lệ từ từ chảy
trên đôi má, khiến cho cả phái đoàn lưu vong hiện
diện không cầm được giọt lệ tự
nhiên tuông trào. Đức Ngài tiếp: "Bần đạo đã lớn tuổi rồi, không thể
lột da sống đời để lo cho các con mãi
được. Tương lai của đạo, của
đất nước Việt Nam đều do ở các con,
các con là đàn hậu tấn có trách nhiệm phải nối
tiếp, Bần đạo chỉ là người tiền
phong lo khai sáng nền đại đạo, đó chỉ là
bước đầu hy sinh lót đường mà thôi.
Tương lai của Đạo sau này sẽ thuộc
thẩm quyền của đàn hậu tấn chăm lo tô
điểm cho thiên hạ! Sứ mạng của đàn hậu
tấn là như vậy.
Ngày giờ nào có kẻ thất thế yếu cô, rách rưới
lang thang, đói cơm khát nước, khổ não tâm hồn,
không ai che chở bênh vực, chừng ấy nhiệm vụ
trọng yếu của các con là phải ra tay gánh vác. Đó
là cơ cứu khổ thực hiện…"
Đồng thời, đức Hộ
Pháp liền bảo vị Hành Thiện Nguyễn Văn Hiệu,
một ủy viên trung tín trong phái đoàn lưu vong: "Hiệu! Con vào lấy áo trường
y của Bần đạo đưa cho anh con, Sĩ Tải
Lê Quang Tấn để mặc vào đi trình diện bộ
an ninh chánh phủ Hoàng Gia." Vị Hành Thiện Nguyễn
Văn Hiệu tuân lời và đem áo trường y đến,
đức Ngài liền bảo: Sĩ Tải, Bần đạo
ban cho con bộ thiết giáp, con hãy mặc vào và cùng đi với
Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đến trình diện
với ông Kou Roun, Bộ Trưởng an ninh chánh phủ
Hoàng Gia Cao Miên để xin tỵ nạn chánh trị tại
Phnom Penh. Sĩ Tải Tấn cung kính tiếp nhận cái áo
của đức Hộ Pháp vừa ban cho, mặc vào xong
thì đại huynh Bảo Đạo Khoa cùng Sĩ Tải Tấn
lên xe đi thẳng đến bộ an ninh được
ông Benkabo Đổng Lý Văn Phòng Bộ An Ninh niềm nở
tiếp đón, và sẵn sàng ký giấy phép cho ty nạn
chánh trị tại Thủ Đô Phnom Penh (mỗi 3 tháng phải
đến trình diện xin gia hạn tiếp).
Ngày 6-5-Đinh Dậu (3-6-1957) đức
Hộ Pháp nhận được điện tín từ Tòa
Thánh Tây Ninh phúc báo hiền huynh Thừa Sử Phan Hữu
Phước đã bỏ xác tại trại giam Thủ Đức
(Miền Nam Việt Nam) vào lúc 23 giờ đêm 5-5-Đinh Dậu
do hiền huynh Giáo Sư Thượng Giải Thanh báo trình.
Đức Hộ Pháp cho mời
Trưởng Huynh Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh, khâm trấn
đạo Tần quốc lo thiết lễ truy điệu
cho cố Thừa Sử Phan Hữu Phước, vả
đức Ngài liền chỉ định cho hiền huynh
Đốc Nhạc Trần Thiện Niệm lo buổi lễ
Chèo Thuyền tại khách đình lúc 20 giờ đêm
6-5-Đinh Dậu (3-6-1957) rất long trọng. Trong thời
gian lưu vong tại Cao Miên, đây là lần đầu
tiên đức Hộ Pháp Đến chủ tọa buổi
lễ Chèo Thuyền Cố Thừa Sử Phan Hữu Phước
đượm tình ưu ái đối với một chức
sắc Hiệp Thiên Đài đã trọn hiến thân khổ
hạnh cùng nền Đại Đạo.
Bổn đạo nơi trấn
đạo Tần Quốc (Cao Miên) còn nhớ rõ, sau buổi
lễ chèo thuyền cố Thừa Sử Phan Hữu Phước,
đức Ngài cùng cả chức sắc trong phái đoàn
lưu vong và Hội Thánh Trấn Đạo cùng bổn
đạo nam nữ đồng đến Văn Phòng Khâm
Trấn Đạo dùng trà. Đức Ngài ngậm ngùi phán rằng:
"Thêm một đúa con trọn trung,
trọn hiếu đã trở về với Thầy Mẹ". Thừa sử Phan Hữu Phước từng
chịu khổ hạnh, gian lao thử thách, bị tù đày
ở Sơn La (Bắc Việt) trong thời kỳ Pháp thuộc,
rồi hôm nay vì đường lối Hòa Bình Chung Sống,
cố Thừa Sử Phan Hữu Phước đã trọn
hy sinh cả kiếp sống bỏ mình trong ngục thất
Miền Nam Việt Nam là một sự mất mát lớn lao
của Hội Thánh. Đồng thời, đức Ngài liền
nhìn qua số chức sắc trong phái đoàn lưu vong tại
Phnom Penh phán dạy tiếp: "Rồi
đây cả chức sắc, các con phải chịu thúc
phược dưới quyền Cộng Sản một thời
gian nữa."
Hiền huynh Tổng Giám Võ Văn Khuê
(một chức sắc trong phái đoàn lưu vong liền
đứng lên bạch đức Ngài: "Chúng con phải chịu thúc phược dưới quyền
Cộng sản một thời gian bao lâu?"
Đức Hộ Pháp đáp: "Bần đạo cho hiền đệ
một cái Mandat một triệu đồng, mả chư
hiền đệ xài mạnh tay quá thì một triệu
đồng sẽ hết sớm! Còn đức Chí Tôn cho họ
hưởng, mà họ không đạo đức, lại
còn tàn bạo quá thì đức Chí Tôn lấy lại sớm!
Chắc các chư hiền đệ và các con còn nhớ
bài Ngụ Đời của đức Lý Thái Bạch đã
giáng cơ chỉ dạy cho các con từ lâu rồi! Tại
sao các con không chịu đọc lại "Ngụ Đời"
của đức Lý Đại Tiên?
Những lời phán dạy của đức Lý Thái Bạch
đã "tiên đoán" ứng hiện đúng thế cuộc
của dân tộc việt Nam trong tương lai."
Thiết tưởng vào đêm 6-5-Đinh
Dậu (7-6-1957) đức Hộ Pháp đã tiên đoán trước
là dân tộc Việt Nam phải sống thúc phược
trong vòng Cộng Sản một thời gian.
Đức Ngài biết rõ luật
Thiên Điều đã định vậy, không sao tránh khỏi
được. Chẳng lẽ khoanh tay ngồi chờ thế
sự xảy đến, nên đức Hộ Pháp tự
nguyện nhập Trí Huệ Cung (nhập vào tịnh thất)
ngày 16-1-Tân Mão (21-2- 1951), kêu gọi con cái đức Chí Tôn,
nhất là Cửu Nhị-Ức Nguyên Nhân hãy tỉnh mộng,
mà nhìn lại nơi Trí Huệ Cung. Phải vào nơi cửa
này mới đạt đặng cơ giải thoát. Sau
đó mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng Sống,
mà đức Chí Tôn đã tạo dựng riêng biệt dành để
cho mọi người.
Thử hỏi đức Hộ
Pháp nhập tịnh để làm gì? Nghĩa lý gì mà ngày 21-2-
1951 phải nhập Trí Huệ Cung trong 3 tháng? Trí Huệ Cung
là một cơ quan tận độ chúng sanh như các bạn
đã biết. Quyền tận độ đã xuất hiện
nơi cửa đạo Cao Đài này. Nó không phải của
tư, của đặc biệt chúng ta, mà nó là của cả
thể nhân loại trên mặt địa càu này vậy!
Đức Chí Tôn đã đến
lập nền Đạo Cao Đài này do nơi chân lý tối
cao. Chính đức Chí Tôn đến để diệt mê tín
dị đoan và truyền bá một nền đạo chân
chính mà thôi. Nhân loại mê tín dị đoan đã nhiều rồi,
tinh thần loài người đã bị gạt gầm nhiều
rồi, bởi thế nên không thể bị gạt
được nữa.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
nhập vào Trí Huệ Cung, tịnh luyện trong 3 tháng. Qùi
dưới chân đức Chí Tôn thỉnh cầu nơi Ngài
cứu độ sanh mạng loài người, vì lẽ nhân
loại phạm Thiên Điều, bởi loài người
quá dữ gây oan nghiệt nơi mặt địa cầu
này đầy dẫy.
Nếu Chí Tôn không có đến hội
hiệp con cái của Ngài, lập cơ giải thoát độ
tận thì không phương cứu rỗi. Bằng cớ
hiển nhiên chúng ta đã thấy, vạn quốc xô nhau
đến con đường tử lộ. Bởi quả
kiếp, họ chỉ biết cái sống của họ mà
chẳng hiểu đến cái sống của người
khác, nhất là bạn đồng sanh của chúng ta, để
mắt coi họ giết không biết bao nhiêu, giết đặng
ăn, ăn đặng sống, sống đặng bao
nhiêu tuổi? Giỏi cho lắm kiếp sống của họ
cũng không quá 80 tuổi rồi chết, thử hỏi
như thế làm sao không gây oan nghiệt tội tình.
Các Tôn Giáo hiện hữu cũng tìm
phương cứu rỗi, với rất nhiều hình thức.
Cả toàn cầu vạn quốc cũng bày ra vạn quốc
thống nhất để tìm giải pháp duy trì hòa bình,
tránh cho khỏi nạn tàn sát lẫn nhau.
Ôi! ỷ tài ỷ tận! Lấy
trí khôn ngoan để tim cái chết!!! Cả quyền
năng cái sống thiêng liêng kia đã ban cho họ, họ lại
làm món lợi khí tàn diệt lấy họ đó là "bom nguyên tử". Họ
lấy trí khôn tìm ra cái chết chớ không phải tìm lấy
cái sống, coi mạng sống của người không ra
gì hết, không kể trời đất, đạo lý, luân
thường gì hết, không còn kể quả kiếp tội
ác, như thế chết cũng vừa! Rồi họ lại
tìm đủ cách để tránh tội, nhưng không qua mặt
được luật Thiên Điều. Thiên Điều
kia, họ không thể di chủ nó được, vi nó cầm
sinh mạng của họ, chết hay sống đều do
luật Thiên Điều mà thôi, họ không thể tìm bất
cứ phương pháp nào để giải quyết
được.
Để giải rõ hành tàng trong 3
tháng của đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã
nhập Trí Huệ Cung ngày 21-2-1951. Cái hành tàng đó đã quá
cũ kỷ chớ không mới lạ gì, hành tàng đó có từ
thời thượng cổ! Về mặt đạo, giống
như 40 ngày đức chúa Jesus ra ngoài sa mạc khẩn cầu
đức Chí Tôn ban bổ hồng ân cho toàn nhân loại
đặng đem cơ quan cứu thế của Ngài gieo
cho khắp xã hội nhân quần được hưởng.
Cũng giống như đức Phật Thích Ca vào vườn
Bồ Đề ngồi thiền tịnh đặng xin giải
thoát cho chúng sanh.
Về mặt thế, giống
như vua David, vì tội tình của nhân loại mà buổi nọ
ra đồng sa mạc cầu đạo, xin giải pháp cứu
khổ cho dân Israel, và giống như vua Hạ Võ mang hài gai,
đội nón lá, chịu phong trần đặng cầu
đảo cho quốc dân khỏi tội.
Cần nói rõ hành tàng cho vận mạng
của toàn thể nhân loại nói chung, và quốc dân việt
Nam nói riêng là nguyên nhân làm cho đức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc nhập vào Trí Huê Cung 3 tháng. Nơi chốn tịch mịch,
Ngài đã cầu khẩn với đức Chí Tôn ban hồng
ân đặc biệt đặng cứu rỗi lấy họ,
là đem cơ quan cứu khổ của Ngài để thực
hiện cho toàn thể nhân loại, nhất là sắc dân Việt
Nam yêu quí đồng chủng tộc cùng ông Phạm công Tắc.
Thiết nghĩ, một người
tượng trưng cho tinh thần đạo đức của
dân tộc Việt Nam như đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc đã có sứ mạng đem tinh thần đạo
đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa cải
hành tàng hung ác của đời cho thành giọt nước
thiêng liêng của đức Chí Tôn. Nước thiêng liêng
đạo đức của Ngài, dọn con đường
thánh đức sạch sẽ, ấy là nước chí thánh
của Ngài, cầm giọt cam lồ đem rưới khắp
toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi
mặt địa cầu này.
Cái định mạng của nhân
loại cũng như định mạng của toàn thể
quốc dân Việt Nam, trong giờ phút này ở trong tay
đức Chí Tôn. Luật nhân quả của nhân loại
chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc hòa bình
được!
Nền chân giáo của đức
Chí Tôn vẫn là đường ngay chánh, nhất định
về thể pháp chân truyền không hề mê hoặc ai cả.
Những phương pháp mê hoặc của thiên hạ về
đạo lý sẽ bị chân truyền của đức
Chí Tôn từ từ tiêu diệt hết.
Không có quyền năng thiêng liêng của
đức Chí Tôn, không ai cứu chửa tội tình của
nhân loại được! Cái mơ vọng của thiên hạ
chỉ đạt được khi mà khối chánh đức
của họ cao hơn phàm tâm của họ. Đến lúc
ấy hạnh phúc của họ mới có và cơ quan cứu
khổ của đức Chí Tôn mới thực hiện
được.
Đức Hộ Pháp nhập Trí Huệ
Cung "thiền định" trong 3 tháng cũng như
đức Lý Thái Bạch đã phán dạy trong đàn cơ
tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 5-2-1927 (năm Đinh Mão):
THÁI BẠCH
Hỉ chư đạo hữu, chư đạo muội,
chư chúng sanh, hảo hội hiệp.
Thảm cho nhân loại, khổ cho nhân loại!
Đời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia,
cũng đáng đó chút. Lão vì thương yêu nhân sanh, hội
10 ngày nơi Bạch Ngọc Kinh cải cho qua nạn nhân loại,
nhưng luật Thiên Điều chẳng dễ chi sửa
đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém
giết lẫn nhau, tới buổi bệnh chướng
sát hại.
Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng
chịu, lạy lục khẩn cầu, chư đạo hữu
đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như kẻ không hồn
thấy càng thảm thiết. Lão tưởng chằng cần
phải nói chi một nước nhỏ nhoi, đã đặng
danh Thánh Địa là nước Nam này, mà Lão xin không đặng
tội cho thành SàiGòn, Chợ Lớn, Gia Định, Huế,
Hải Phòng, Hà Nội thay. Thảm! Thảm! Thảm!
Đức Hộ Pháp đã nêu gương trong
sáng, suốt cả kiếp sanh đủ can đảm chấp
nhận mọi sự thử thách gian lao, bất luận từ
đâu đến, không một lời than van oán trách, thừa
sức chịu đựng mọi biến cố để
cứu vãn tình thế nguy hại cho tương lai tổ quốc
và giống nòi Việt
Kế tiếp đức Ngài còn nhận được
nhiều văn thơ của Hội Đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc, Hội Nhân Quyền Quốc Tế, và
lãnh đạo các cường quốc nhiệt tình hoan
nghinh Chánh sách Hòa Bình Chung Sống đại đồng thế
giới dung hòa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản:
- 21-04-1956 : |
International Comission for Supervisionand Control in Combodia. (Chủ Tịch ủy Hội Quốc Tế Kiềm
Soát Đình Chiến tại Cao Miên). |
- 24-04-1956 : |
Sir Winston Churchill Thủ
Tướng Anh Quốc, S.W.7 |
- 24-04-1956 : |
Norodom Sihanouk Upayuvareach du Cambođge (Quốc Trưởng
Norodom Sihanouk Cao Miên). |
- 24-04-1956 : |
President Guy Mollet (Tổng Thống Pháp Quốc). |
- 26-04-1956 : |
Ministre D'etat Pierre Mendes France.(Quốc Vụ Khanh Pháp Quốc
ấn ký). |
- 27-04-1956 : |
Felipe Polo
Martinex Valdés Tây Ban Nha |
- 02-05-1956 : |
Chef De Section
Departement Des Affaires Polique Et Du Conseil De
sécurité United Nations. (Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp
Quốc ấn ký). |
- 03-05-1956 : |
Haut Commissariat
Republique Francaise Au Cambodge. (Đại sứ
Pháp tại Cao Miên ấn ký). |
- 14-05-1956 : |
Division Des
Droits De L'homme United Nation. (Hội Nhân
Quyền Liên Hiệp Quốc ấn ký). |
- 16-05-1956 : |
Samdech Norodom Sihanouk Upayuvareach. (Quốc Trưởng Cao Miên Norodom Sihanouk ấn
ký). |
- 19-05-1956 : |
Office of The President of The (Tổng Thống Phi Luật Tân ấn ký). |
- 05-01-1957 : |
Sa Majeste Preah Bat Samdech Preah Norodom Surmarit Roi Du Cambodge. (Hoàng Đế Cao Miên ấn ký). |
Ngày 4-1-1958, cụ Tôn Đức Thắng, ủy
Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội
gởi văn thơ mời đức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc và phái đoàn Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh ra
viếng thăm đồng bào và bổn đạo Cao
Đài tại Hà Nội trong dịp tết Nguyên Đán Mậu
Tuất.
Phải chăng chánh sách Hòa Bình Chung Sống do đức
Hộ Pháp để xướng ngày 26-3-1956 đến nay
đã đượm bông trổ trái dung hòa được
2 khối Cộng Sản và Tư Bản gần gủi với
nhau, tương nhượng nhau để tồn tại,
ngõ hầu góp phần tháo gỡ nguy cơ tiêu diệt.
Một điểm mừng cho cả nhân loại là tiếng súng chiến tranh im bặt
và cường quốc trên thế giới đã bắt tay
làm "sứ đồ"
thay vì đánh nhau khốc liệt, nhất là các lực
lượng đối đầu nhau, kình chống nhau,
đã bắt đằu thảo luận chấm dứt sự
xung đột.
Những lời tuyên truyền, những luận
điệu công kích thóa mạ nhau không còn xuất hiện,
thay vào đó là những lời lẽ đầy thân ái chúc
tụng, những đề nghị hợp tác song
phương và đơn phương liên tiếp được
ký kết.
Qủa thật là một biến chuyển hi hửu,
ngoài sức tưởng tượng của nhân loại. Chỉ
mới vài năm trước đây thôi, còn dãy đày những
lò lửa, những hầm thuốc nổ, sẵn sàng nổ
tung bất kỳ lúc nào, mà gần đây nhiều cuộc
chiến tranh đang bước vào giai đoạn kết
thúc thật sự. Một bằng chứng hiển nhiên là nhiều
tên lửa chực chờ giết người đã bắt
đầu bị tháo gở và phá hủy. Đây là một
việc vui mừng cho cả nhân loại.
Một việc hi hửu nữa là 2 nhà lãnh đạo
tối cao: Nikhain Gorbachov Tổng bí thư Liên xô và Ronald
Reagan Tổng Thống Mỹ cơ hồ như bế tắc
trong cuộc gặp gỡ hội đàm đầu tiên vào
tháng 11 năm 1985. Trong vòng 40 năm qua 1945-1985, 2 nhà lãnh đạo
tối cao Liên xô và Mỹ trước đây chỉ có 12 lần
tiếp xúc hội đàm với nhau mà thôi. Hôm nay vì sứ mạng
sống còn của nhân loại trên thế giới, họ
đã ý thức trách nhiệm chung của họ nên chỉ trong
30 tháng qua 1985 - 1988 đã có 26 lần bộ trưởng ngoại
giao của 2 nước Mỹ và Liên Xô gặp gỡ nhau thảo
luận nhiều vấn đề quan hệ giữa
đôi bên, đưa đến cuộc gặp gỡ đầu
tiên tại Génève tháng 11, 1985, mà lại gặp khó khăn,
cơ hồ muốn bế tắc. Do đó Tổng Thống
R. Reagan mới đề nghị với Tổng Bí Thư
M. Gorbachov: Thôi chúng ta bắt tay làm Sứ Đồ tìm một
giải pháp thích hợp dung hòa đôi bên!
Huyền diệu thay! Nhờ quyết tâm tin tưởng
và chấp nhận làm Sứ Đồ để tìm một
giải pháp dung hòa, nên Tổng Thống Reagan và Tổng Bí
Thư Gorbachov mới ký kết được hiệp
ước đầu tiên vào tháng 11, 1985, khai thông cho các
đàm phán kế tiếp trong những năm sau này:
- Hội đàm lần thứ nhất tại
Génève tháng 11 năm 1985.
- " hai Reykjavid 10 1986
- " ba
- " tư
Đặc điềm của cuộc hội
đàm lần thứ tư tại Mạc Tư Khoa, lần
này lại xảy ra sự bất đồng giữa Tổng
Bí Thư Gorbachov và Tổng Thống Reagan cơ hồ
như muốn bế tắc, chẳng khác nào như buổi
gặp gỡ hội đàm lần đầu tiên tại
Génève năm 1985. Buổi họp đang căng thẳng thi Tổng
Bí Thư M. Gorbachov liền lên tiếng đề nghị với
Tổng Thống R. Reagan: Chúng ta nắm tay nhau làm "Sứ Đồ” lần
thứ 2, hầu tìm phương pháp dung hòa, giải quyết
vấn đề cho được thỏa hiệp cùng
nhau, và được sự đồng tình chấp nhận
của Tổng Thống R. Reagan. Nhờ vậy mà cuộc hội
đàm lần thứ tư tại Mạc Tư Khoa 1988 mới
thoát khỏi sự bế tắc, và đã đạt
được kết qủa tốt đẹp đúng
theo sự mong muốn của đôi bên vào ngày 29-5-1988 tại
Moscow.
Chính Tổng Bí Thư M. Gorbachov không ngần ngại
tự thuật cho cả phóng viên báo chí quốc tế biết
rõ tại cuộc hội đàm lần thứ tư
29-4-1988, là đã 2 lần tự nguyện làm "Sứ Đồ" nên bản
thông cáo chung hôm nay mới có dịp ký kết trong bầu
không khí vui tươi, cởi mở của 2 phái đoàn Cộng
Sản và Tư Bản đã nắm tay nhau làm Sứ Đồ
trong 2 lần hội đàm tại Génève 1985 và 1988 vượt
qua mọi khó khăn cơ hồ như bế tắc. Nếu
Tổng Bí Thư M. Gorbachov không tự thuật những giao
kết của 2 nhà lãnh đạo tối cao nắm tay làm sứ
đồ để tìm giải pháp tương nhượng
nhau, thì cả thế giới chẳng một ai làm gì hiểu
biết sự việc hi hửu tình nguyện làm sứ
đồ của Tổng Bí Thư M. Gorbachov và Tổng Thống
R. Reagan, để đưa nhân loại thoát khỏi hiểm
họa diệt vong do chiến tranh nguyên tử đang
đe dọa.
Ngộ nghĩnh thay! Nhà lãnh đạo tối cao
khối Cộng Sản M. Gorbachov đã ý thức trách nhiệm
đối với nhân loại trên thế giới, nên sẵn
sàng tự nguyện làm "Sứ
Đồ" với Tổng Thống R. Reagan để
dung hòa tìm giải pháp hòa bình đại đồng-thế
giới. Đây là một diễm phúc lớn lao cho cả
nhân loại trên mặt địa cầu này, mà người
tín hữu Cao Đài có quyền tin tưởng rằng
Thượng Đế đã xoay chuyển thức tỉnh
Tổng Bí Thư M. Gorbachov và Tổng Thống R. Reagan để
đưa lần nhân loại đến sự thương
yêu và công bằng trong tình huynh đệ đại đồng.
Định nghĩa 2 tiếng Sứ Đồ vô
cùng thâm thúy đến vận mạng tương lai cho các
nước nhược tiểu và cả nhân loại
đang phập phồng lo sợ chiến tranh nguyên tử
sắp xảy ra trong mai hậu đã bắt đầu tin
tưởng 2 khối Cộng Sản và Tư Bản dung
hòa tương nhượng nhau trong tình thương của
Thượng Đế.
Kế tiếp, tình hình quốc tế biến chuyển
theo chiều hướng tốt đẹp của những
lời tuyên bố Tổng Bí Thư M. Gorbachov: Biến
gươm đao thành lưỡi cày. Thiết lập một
khu vực không có khí giới hạt nhân, khu vực Hòa Bình ở
Châu Á Thái Bình Dương.
Một thế giới không có vũ khí và bạo lực,
một thế giới mà mỗi dân tộc đều
được tự do lựa chọn con đường
phát triển lối sống của mình.
Người tín hữu Cao Đài rất hãnh diện
là có một vị lãnh đạo là cố Hộ Pháp Phạm
Công Tắc, trước đây 30 năm, không một ai ngờ
được là 26-3-1956, đức Ngài đã đề
xướng chánh sách Hòa Bình Chung Sống, ý thức 2 khối
Cộng Sản và Tư Bản đang đối nhau kịch
liệt, thề không đội trời chung, kẻ mất
người còn, thì làm sao tránh khỏi những lời phê
phán nông cạn, hẹp hòi, ích kỷ: "Làm gì dung hòa được 2 khối Cộng Sản
và Tư Bản, rất uổn công mò kim đáy giếng",
nhưng đã vô tình quên đi bài học lịch sử
trước kia, cũng vì quá nông cạn, vội vàng phán
đoán, phủ nhận sáng kiến của Bác Sĩ Kopemic ở
thế kỷ thứ 17, minh chứng quả đất xoay
quanh mặt trời.
Hân hạnh thay! Trên 30 năm qua, đức Hộ Pháp
đã tiên đoán 2 khối Cộng Sản và Tư Bản
nhất định phải dung hòa nhau để tồn tại
sống còn, và hôm nay đã trở thành hiện thực, mà cả
nhân loại trên hành tinh này không thể chối cải
được. Chính Tổng Bí Thư M. Gorbachov và Tổng
Thống R. Reagan đã 2 lần đóng vai tuồng "Sứ Đồ" để
hoàn thành tốt đẹp 4 lần hội đàm, tháo gở
ít nhiều sự hiềm khích trước kia, để
đi đến sự hiểu biết nhau, tương nhượng
nhau, đỡ phần âu lo cho nhân loại về chiến
tranh hạt nhân.
Với trọng trách của đức Thượng
Đế đã giao phó, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc,
chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên
và Cửu Trùng của nền Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh, đức Ngài hết Âu du
rồi Á du. Ngài đã từng hướng dẫn phái
đoàn Chức sắc Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh viếng
thăm Tổng Thống nước Triều Tiên, cùng
như thăm Tổng Thống Tưởng Giới Thạch
để phổ biến nền Đại Đạo ở
Á Châu, gây tình huynh đệ mật thiết với Nam Triều
Tiên và Đài Loan.
Để tưởng niệm công đức những
bậc anh hùng dân tộc đã trọn hy sinh vì dân vì Tổ
Quốc, đức Hộ Pháp đáp ứng đúng lời
di ngôn cuối cùng của Đức Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để điện hạ. Ngày 12-10-1954,
đức Ngài hướng đứa một phái đoàn chức
sắc sang Tokyo (Nhật Bổn) rước tro đức
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để từ
Đông Kinh về SàiGòn và quàng tại đền thờ
Đức Tổ Hùng Vương SàiGòn trong 3 ngày đêm liên
tiếp cho thân hào nhân sĩ, dân chúng, cùng ngoại giao
đoàn đến tưởng niệm công ơn bậc anh
hùng đã hy sinh thể xác nơi đất khách quê người.
Sau khi đồng bào đến tưởng niệm xong rồi,
Hội Thánh Cao Đài mới rướt tro đức Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để Điện Hạ về
Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh lo phần hương khói.
Thừa cơ hội đức Hộ Pháp đã
lưu vong qua nước Cao Miên, ngày 16-2-1956, Tổng Thống
Ngô Đình Diệm chỉ thị cho phó Tổng Thống
Nguyễn Ngọc Thơ hướng dẫn Tráng Củ và
Tráng Liệt (2 người con trai của đức Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để ở tại Huế)
cùng đi lên Tây Ninh hiệp với ông Tỉnh Trưởng
Tây Ninh là Nguyễn Văn Vàng làm áp lực cưởng chế
Hội Thánh Cao Đài, bức bách buộc phải giao
"tro đức Cường Để" cho Tráng Củ
và Tráng Liệt mang tro về Huế để thờ
phượng và lo phần hương khói.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại quá quan
tâm lo ngại đến chánh sách Hòa Bình Chung Sống đang
phát triển nhanh chóng trên khắp các tỉnh, quận, xã Miền
Nam Việt Nam, do chức sắc Hiệp Thiên Đài như:
Phạm Duy Nhung, Nguyễn Minh Ngòi, Huỳnh Văn
Hương, Nguyễn Thành Nguyên, Nguyễn văn Tú, Nguyễn
Ngọc Trân, Nguyễn Hữu Khỏe, Trần Tấn Hợi,
Bùi Văn Tiếp, Đồ Hoàng Giảm v.v. ., thuộc ban
vận động CSHBCS Miền Nam là một chướng
ngại lớn lao cho chế độ Ngô Đình Diệm
lúc bấy giờ. Do đó chánh quyền Miền Nam Việt
Nam mới ra tay trấn áp Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây
Ninh bằng biện pháp khống chế Hội Thánh phải
giao phần tro cốt đức Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để mà Hội Thánh đã lo phần
hương khói suốt một năm qua tại Báo Ân Từ
cho Tráng Củ và Tráng Liệt thỉnh đem về gia
đình ở Huế để thờ phượng, với
mưu đồ đào tận rễ, là không còn lưu lại
chút di tích chánh trị của Đức Cường Để
Điện Hạ còn sót lại tại vùng Thánh Địa
Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh.
Sau khi tỉnh trưởng Tây Ninh Nguyễn Văn
Vàng và Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ trấn
áp Hội Thánh trong buổi họp kéo dài gần 2 tiếng
đồng hồ, Đại Huynh Hiến Pháp Trương
Hữu Đức bực mình. Trên cương vị Đại
Diện Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh mà bị trấn
áp, Ngài Hiến Pháp liền cáo từ rời khỏi phòng họp
với lý do kém sức khỏe, nhường cho Hội Thánh
thảo luận vối phái đoàn Chánh Phủ do Phó Tổng
Thống Nguyễn Ngọc Thơ hướng dẫn.
Biết rõ sự rút lui của Ngài Hiến Pháp, Tỉnh Trưởng tỉnh
Tây Ninh Nguyễn Văn Vàng mới chấp nhận danh từ
Biên Nhận do Sĩ Tải Lê Quang Tấn đã đề
nghị buổi ban đầu, không còn bảo thủ danh từ
Giao Lãnh như trước nửa mà phải ghi rõ là tờ "Biên Nhận".
Việc tranh luận danh từ Giao Lãnh và Biên Nhận
được ngã ngũ là tờ Biên Nhận, và Hội
Thánh nhượng bộ cho phái đoàn Chánh Phủ lấy
tro của đức Cường Để đang
được lo phần hương khói tại Báo Ân Từ.
Sau khi Phái Đoàn Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc
Thơ làm áp lực Hội Thánh lấy tro đức Cường
Để tại Báo Ân Từ xong, thì đến Đền
Thánh vào bái lễ đức Chí Tôn. Khi Phái Đoàn vừa ra
khỏi Đền Thánh bước xuống tam cấp (các
nấc thang trước Đền Thánh) thì bị Sĩ Tải
Lê Quang Tấn chận lại với sự trợ lực
của Sĩ Tải Nguyễn
Ngọc Trân không cho Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ
bước lên xe. Bị bắt buộc, Phó Tổng Thống
Thơ phải ra lịnh cho Tỉnh Trưởng Vàng phải
trao cho một tờ Biên Nhận (theo đề nghị của
sĩ Tải Tấn) cầm làm bằng mới được
bước lên xe trở về SàiGòn. Thình lình bị sĩ Tải Tấn ngăn chận,
Phó Tổng Thống Thơ rất bực bội, tự ái,
lớn tiếng truyền lịnh: "Anh Vàng đưa cho họ một tờ biên nhận
đi."
Trước tình thế bắt buộc chẳng
đặng đừng, Tỉnh Trưởng Nguyễn
Văn Vàng phải trao cho sĩ Tải Lê Quang Tấn một
bản Biên Nhận ấn ký đã nhận phần tro của
đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để
để làm bằng. Đồng thời, Phó Tổng Thống
Thơ liền gọi Trung úy Trưởng Ty Công An Tây Ninh
đến bến cạnh vả chỉ thị cho Trung úy Phước
"Tôi gởỉ 2 vị này
cho anh" sự diễn tiến đã gây nhiều
dư luận xôn xao cho số chức sắc và bổn
đạo đứng chung quanh, nhất là lời chỉ
thị ngắn gọn của Phó Tổng Thống Thơ
bao gồm sự đe dọa sâu sắc cho số phận
của nhị vị Sĩ Tải Lê Quang Tấn và Nguyễn
Ngọc Trân.
Việc gì đến nhất định phải
đến, chỉ vì bảo thủ sỉ diện trước
chỗ đông người, Phó T.T.Thơ mới gởi Sĩ
Tải Tấn và Trân cho Trưởng Ty Công An Tây Ninh như
thế. Cả chức sắc hiện diện tin chắc rằng
tai họa sẽ ập đến cho nhị vị Sĩ Tải
Tấn và Trân.
Quả thật không sai, chỉ 3 ngày sau thi
Tỉnh Trưởng
Tây Ninh Nguyễn Văn
Vàng có thơ mời nhị vị Sĩ Tải Lê Quang
Tấn và Nguyễn Ngọc Trân đến Tòa Hành Chánh
Tỉnh Tây Ninh để thẩm vấn nhiều việc gay gắt, nhưng uy quyền Hội Thánh vẫn còn, nên mọi việc
đều được
xếp lại êm ấm.
Thiết nghĩ vào năm 1926 dân số
Tỉnh Tây Ninh chưa được 40.000 người.
Nhưng kể từ khi đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế hoằng khai nền Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trên nước
Việt Nam, lại chọn Tỉnh Tây Ninh để
kiến tạo ngôi Đền Thánh Cao Đài thì đồng
bào ở các Tỉnh ồ ạt qui tụ về Tòa Thánh Tây
Ninh càng thêm đông đảo, và dân số Tây Ninh tăng lên
trên 400.000 trong năm 1956.
Hồi tưởng lại, với 2 bàn
tay trắng, đức Hộ Pháp và một số Chức
sắc, Bổn Đạo "Tiền
Bối" đã vững niềm tin nơi đức
Cao Đài Thượng Đế, chẳng ngại gian lao
khổ cực, đã dày công khai sơn phá thạch,
đốn gốc phá chồi, biến 96 mẫu rừng
hoang vu đầy hùm beo ác thú trở thành một vùng Thánh
Địa trù phú. Nơi đây có một ngôi Đền
Thánh khang trang lộng lẫy, có thể sánh vai cùng các kỳ
quan thế giới, có nhiều dinh thự, văn phòng,
cơ sở, trung tiểu học, viện đại
học, dưỡng lão đường, cô nhi viện,
bệnh viện, Trí Huệ Cung,
Trí Giác Cung, Vạn Pháp Cung và lại thêm có một phi trường
nằm cạnh bốn Trí Huệ Cung, nhất nhất đều do sáng
kiến, hướng dẫn, đôn đốc sáng tạo
của Đức Hộ Pháp.
Du khách thập phương mỗi khi
đến viếng Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, không một ai
nghĩ rằng trước đây là một khu rừng
cấm hoang vu, không một ai lui tới khi mặt trời
bắt đầu xế bóng, mà hôm nay trở thành một
đô thị khách vãng lai tấp nập.
Một bằng chứng còn lưu
lại đối với các du khách và phái đoàn các Tôn Giáo,
là chỉ nhìn vào hàng cây cổ thụ trước Đền
Thánh mà từ trước đến giờ thưòng
gọi là “rừng thiên nhiên”,
một di tích lịch sử, khối đức tin mãnh
liệt của Bổn đạo Cao Đài. Không cơ khí, chỉ
2 bàn tay trắng, đã biến khu rừng cấm 96 mẫu
hoang vu trong thời gian kỷ
lục là 3 tháng đã trở thành phồn thịnh, với
những đại lộ thênh thang như Bình Dương
Đạo v.v... Dọc ngang những con đường
thẳng tấp, những cây cầu như Đoạn
Trần Kiều, Giải Khổ Kiều v.v... bao bọc
vùng Thánh Địa vói 20 Phận Đạo, nhà cửa
được xây cất ngay hàng thẳng lối dọc
theo các Phận Đạo thuộc ngoại ô Tòa Thánh xuyên
thẳng vào các cửa ra và vào Nội Ô Tòa Thánh. Ngoài ra
đức Hộ Pháp có sáng kiến tạo thành Đại
Lộ Chánh Môn, mà bổn đạo thường gọi là
Đại Lộ Xuyên Á, tức là Đại Lộ này sẽ
nối liền với các nước Châu Á trong tương
lai.
Điểm đặc biệt là các du
khách đến viếng Tòa Thánh Tây Ninh, một nơi không
thể quên được là "Chợ
Long Hoa" hay Long Hoa Thị chuyên bán đồ ăn chay
quanh năm suốt tháng. Nổi bậc nhất là sự mua
bán rất phải chẳng, không thách giá, và cân đo
lường sòng phẳng, nhã nhặn, vui vẻ và rất
mến chuộng khách hàng, bất luận từ đâu
đến, đó là niềm tự hào của tín hữu Cao
Đài tự bảo vệ thanh danh cho Long Hoa Thị mà các phái
đoàn du khách thường nhắc nhở khen ngợi: Chợ Long Hoa rất thanh
lịch, mẫu mực. Tiếng đồn vang dội
về Long Hoa Thị vẫn còn ghi đậm vào ký ức
các du khách vãng lai. Các tín hữu Cao Đài thuộc nhiều
thế hệ sanh ra lớn lên trong vùng Thánh Địa hào
hùng, đạo đức, không bao giờ xao lảng công
ơn đức Hộ Pháp đã dày công huấn giáo, rèn
luyện đi vào nề nếp và rất xứng danh Long Hoa
Thị, gương mẫu về thái độ lịch
sự, niềm nở, ân cần, nhiệt tình và trách
nhiệm trong việc giao tế với khách hàng. Đó là nét
đặc trưng nổi bật của Long Hoa Thị lúc
bấy giờ.
Đức Hộ Pháp thường
nhắc nhở và chỉ dẫn các Chức Sắc,
Chức Việc, Bổn Đạo về việc lập
công bồi đức trong nền Đại Đạo.
Chẳng những dành riêng cho hàng Chức Sắc Thiên Phong,
mà đức Chí Tôn còn chiếu cố cho cả môn
đệ, bất luận nam nữ mỗi người
đều có đức tin vững chắc nơi Thầy,
Mẹ cùng nhiệt tâm trọn hiến mảnh thân phàm vun
bồi công quả, nhất định sê đạt
được phẩm vị thiêng liêng của Chí Tôn đã
dành sẵn. Những gương trong sáng của Phối
Thánh Màng Và Bùi Ái Thoại mà toàn cả Bổn Đạo
đều biết rõ, chỉ là một "tín hữu công quả" thợ hồ,
thợ đấp vẽ, đã dày công qủa kiến
tạo ngôi Đền Thánh mà vẫn đạt
được Phẩm Phối Thánh, một phẩm vị
thiêng liêng cao trọng mà đức Chí Tôn đã dành sẵn
cho cả môn đệ hiếu thảo, khi thoát xác phàm.
Một truyền thống đặc
biệt của Tỉnh Tây Ninh mãi còn lưu lại là "trò nhớ ơn thầy"
mà đức Hộ Pháp hằng quan tâm gìn giữ, bảo
vệ với tinh thần "Tôn
sư trọng đạo", đức Hộ Pháp
đã nêu cao gương trong sáng mẫu mực của
người học trò, lúc nào cũng nhớ đến công
ơn ông thầy dày công huấn giáo, rèn luyện và đào
tạo mình trong lúc còn niên thiếu cho đến khi trở
thành người hữu dụng cho xã hội sau này.
Theo thông lệ hàng năm, mỗi
độ xuân về, Tết Nguyên Đán, đúng ngày mùng 3
Tết, mặc dù là một chức sắc lãnh đạo
Tôn Giáo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, đức Phạm Công
Tắc không quên bổn phận đối với ông
Thầy đã dạy minh học trước kia.
Đức Ngài mặc Quốc Phục, áo dài đen, chích
khăn đóng đen đúng theo phong tục tập quán
cổ truyền Việt Nam, thân hành đến tận nhà
ông Thầy dạy học trước kia là ông Đốc
Học Giảng để mừng tuổi ông Thầy
cũ, tỏ lời tôn kính và chúc mừng năm mới.
Chính vì điều này, đức Hộ Pháp đã lưu
lại tấm gương trong sáng cao đẹp cho 3 triệu
tín đồ hằng ghi nhớ "tôn
sư trọng đạo", và cho đồng bào
Tỉnh Tây Ninh "Trò nhớ
ơn thầy".
Vì lý tưởng sống cho muôn dân, cho
cả nhân loại bằng
chủ thuyết Hòa Bình Đại Đồng Thế
Giới, nhất là thảm cảnh lầm than thống
khỗ của đồng bào 2 miền Nam-Bắc Việt
Nam, cũng như bao nỗi thăng trầm của
đất nước, nên đức Hộ Pháp mới có
văn thư số: 21/HP-VPHN ngày 26-3-1956 gởi đến
cụ Hồ Chí Minh, Chủ Tịch nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa, và gởi đến cụ Ngô
Đình Diệm Tổng Thống nước Việt Nam
Cộng Hòa một chương trình thống nhất
đất nước Việt Nam. Văn thư này
đề cho 2 cụ trọn tâm nghiên cứu và tìm phương
pháp hay khéo bổ cứu vào mọi khuyết điểm,
hầu chánh phủ 2 miền Nam - Bắc có thể thực
hiện được. Để đáp ứng đúng
nguyện vọng của đồng bào trên toàn quốc,
nhất là kêu gọi lòng ái quốc nồng nàn của 2
cụ, bản văn thư kêu gọi hãy cương
quyết gạt bỏ mọi tư hiềm, thành kiến,
không để ngoại bang xâm nhập vào nội quyền
Việt Nam và tìm phương cứu nước.
Đức Hộ
Pháp đã tự nguyện hiến mảnh thân phàm làm con
tế vật phụng sự nhân loại, từng lãnh cái
khổ của muôn người làm cái khổ của chính mình,
để thắng khổ rồi giải khổ. Vì
thế mà đức Ngài thường nhắc nhở, giáo
huấn cả Chức Sắc và Bổn
Đạo: "Quyền luật nào
lập ra tại mặt địa cầu này mà không trái
với tâm lý của nhân loại thì nó sẽ tiến
triển theo sự tấn hóa của
nhân loại, đặng bảo tồn sanh mạng của
nhân loại cho được vĩnh viễn và hạnh
phúc. Ấy thế đạo của đời chân chánh
đó vậy!". Đức Ngài cũng thường
huấn giáo: "Đức Chí Tôn
đến hoằng khai nền Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ trên đất nước Việt
Nam, đức Chí Tôn không bắt buộc môn đệ
của Ngài làm gì quá sức mà chỉ bắt buộc môn
đệ của Ngài phải thực hiện cho ra
thiệt tướng sự thương yêu và quyền công
chánh nơi mặt thế này thì đạo Cao Đài
mới ra thiệt tưởng".
Niên kỷ càng cao sức phàm càng yếu
lại thêm chồng chất nỗi lo âu của đồng
bào 2 miền Nam - Bắc đang chia đôi, ngoại
quyền chi phối, bao nhiêu thảm cảnh của
đồng bào và Bổn đạo dồn dập,
đức Hộ Pháp qúa suy tư lo nghĩ nên thọ
bệnh áp huyết cao, phải vào nằm điều
trị tại bệnh viện Foundation Calmette Thủ Đô
Phnom Penh.
Đang nằm trên giường bệnh,
đức Ngài cho mời một số Chức Sắc Trấn
Đạo Tần Quốc tại Phnom Penh đến
tận giường bệnh để nghe những lời
phán dạy sau cùng: Bần Đạo qui thiên, tạm
gởi thể xác nơi đất Cao Miên một thời
gian, ngày nào nước nhà độc lập, thống
nhất, hoặc thực hiện đúng theo chánh sách hòa
bình, trung lập, mục phiêu đời sống của bần
đạo, thì mới đưa Liên Đài về Tòa Thánh
Tây Ninh.
Đại huynh Chánh Phối sư Thái Khí
Thanh, khâm trấn đạo Tần Quốc, đại
diện cho cả chức sắc nam nữ hiện diện
tôn kính đáp: đệ tử xin trọn tuân lệnh
đức Ngài. Đức Hộ Pháp tiếp: "Bần đạo tạm gởi thể
xác lại đất Cao Miên là bần đạo cùng
muốn chung chịu cảnh chia đôi của đồng
bào 2 miền Nam-Bắc. Bần đạo đã tiên
liệu rồi, việc phải đến sẽ
đến, nước nhà chưa thống nhất thì không
gấp gì hồi hương. Vậy phải bình tâm chờ
một thời gian nữa sẽ
thấy thiên cơ xoay chuyển có lợi cho Việt
thường về mặt tinh thần".
Đồng thời, đức Hộ
Pháp còn gởi cho quốc trưởng Norodom Sihanouk bức
di ngôn, và kính gởi đến Hoàng Thượng Norodom
Surmarit (Vua cha thái tử Sihanouk) hết sức thâm thúy thân tình
(cả hai bức thơ đều viết bằng Pháp Ngữ).
Xin tạm dịch bức di ngôn gởi
cho Quốc Trưởng Norodom Sihanouk ra Việt Ngữ:
Hộ
Pháp Phạm Công Tắc
Kính
gởi Hoàng Thân Norodom Sihanouk
Thưa Điện Hạ
Bần
đạo gởi
những dòng chữ này đến
Điện Hạ trên giường bệnh của bần đạo
(bệnh viện Calmette). Sức khỏe của bần
đạo càng ngày càng suy giảm và bần đạo
nghĩ không còn sống bao lâu nữa.
Vậy
bần đạo gởi những dòng chữ này để
cám ơn Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia đã dành
cho bần đạo với đoàn tùy tùng và cho tất
cả tín đồ Cao Đài của bần đạo
sự khoản đãi rộng rãi và sự dễ dãi.
Bần
đạo thành tâm cầu nguyện Thượng Đế
Cao Đài và Phật Tổ ban hồng ân che chở cho
Vương Quốc Cao Miên và Điện Hạ để
chóng thực hiện và nhất là thành công vẻ vang Chánh
Sách Hòa Bình, Trung Lập và Chung Sống. Chánh sách đặc
biệt và ưu ái của bần đạo, mà chưa
thể thực được.
Bần
đạo thành tâm ước mong rằng tổ quốc
thân yêu của chúng tôi, nước Việt Nam, có thể
đeo đuổi Chánh Sách ấy trong một ngày gần
đây. Tay bắt tay cùng đi với nước Cao Miên
trong đường lối thương yêu và cộng
đồng giữa hai dân tộc Miên - việt.
Bần
đạo sẽ hoàn toàn sung sướng được
yết kiến lần cuối cùng với Điện
Hạ, để tỏ bày tất cả những lời cám
ơn của bần đạo, nhưng bần đạo
không biết sức khỏe của bần đạo còn
chờ được hay không ngày trở về của
Điện Hạ.
Dù
sao tình thân hữu thâm niên của chúng ta, nhân danh lòng
thương yêu và tình huynh đệ giữa hai dân tộc
Miên Việt, và nhất là nhân danh tương lai bất
khả phân ly của 2 nước chúng ta Cao Miên và Việt Nam.
Bần
đạo cung kính xin Điện Hạ như một ân
huệ cuối cùng đặc biệt cho Thánh Thất Cao
Đài chúng tôi khỏi phải chịu dưới lệnh
phá hủy, để giữ kỷ niệm độc
nhất của bần đạo trên đất Cao Miên.
Để
giúp Điện Hạ có một ý tưởng đúng
đắn về tình hình qua, bần đạo trân
trọng gởi đến Điện Hạ bản sao
đơn thỉnh nguyện của bần đạo
vừa chuyển đệ đến Hoàng Thượng.
Bần
đạo phải thoát kiếp nơi đây. Bần
đạo xin yêu cầu Điện Hạ cho phép bần
đạo tạm gởi thi hài ở nơi đất Cao Miên, dưới
sự bảo vệ tối cao của Hoàng Gia Cao Miên. Ngày
nào tổ quốc thân yêu của chúng tôi là nước
Việt Nam được thống nhất và theo Chánh sách
Hòa Bình Trung Lập mục phiêu đời sống của
bần đạo, tín đồ của chúng tôi sẽ di thi
hài về Tòa Thánh Tây Ninh.
Bần
đạo khẩn cầu Điện Hạ và Chánh Phủ
Hoàng Gia, sau khi bần đạo thoát xác, dành cho đoàn tùy
tùng và cả thiện nam tín nữ của bần
đạo sự khoản đãi rộng rãi, và sự
dễ dãi như trước để tu hành theo Tôn Giáo
của chúng tôi.
Biết
rằng Điện Hạ sẽ chiếu cố
đến đơn thỉnh cầu này, bần
đạo sẽ thanh thản nhắm mắt đem theo cái
kỷ niệm dịu dàng nhất trong đời của
bần đạo.
Cung
kính xin Điện Hạ chấp thuận lòng tri ân vĩnh
Viễn của bần
đạo.
Phnom
Penh, ngày 14 tháng 5 năm 1959.
HỘ - PHÁP
( Ẩn Ký )
PHẠM CÔNG TẮC
226, Phlauv Preah Bat Norodom à
Phnom Penh.
Di ngôn của đức Hộ Pháp
biểu lộ khí phách hào hùng, sống phụng sự cho nòi
giống, cho nhân loại, thác-kỳ vọng ngày thanh bình cho
đất nước Việt Nam.
Mặc dù đang, nằm trên
giường bệnh, đức Ngài gọi từng
chức sắc đến căn dặn từng chi
tiết, trách nhiệm của mỗi chức sắc,
nhất là hướng dẫn những chức sắc tùy
tùng trong đoàn lưu vong nhiều điều cần
thiết trong mai hậu.
Lại thêm một việc thận
trọng chưa từng có, là sau khi gởi bức thơ di
ngôn chuyển đệ lên Quốc Trưởng Norodom
Sihanouk vào ngày 14-5-1959, do Sĩ Tải Lê Quang Tấn ghi vào "sổ chuyển giao"
và chính tay Sĩ Tải Tấn đã đem vào Hoàng Cung nhận lãnh, ký tên vào sổ chuyển giao hẳn
hòi, song đức Ngài còn bảo mời Trưởng Huynh
Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh khâm trấn Đạo
Tần Quốc đến tận giường phán dạy:
"ngày thứ bảy là ngày Hoàng Thượng
Norodom Surmarit tiếp kiến thần dân Cao Miên theo thông
lệ vào thứ bảy hàng tuần, Hiền Đệ và
Giáo Hữu Thái Đồng Thanh hãy vào Hoàng cung bái kiến
Hoàng Thượng Surmarit dâng bức di ngôn của bần đạo đến
tận tay Hoàng Thượng tường lãm".
Tuân lịnh đức Ngài, Trưởng
Huynh Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh và Giáo Hữu Thái
Đồng Thanh đã đến Hoàng Cung vào sáng ngày thứ bảy,
được ban tổ
chức sắp xếp nhị vị qùi vào hàng thứ 3 trong số người Cao
Miên đang qùi chờ vua Surmarit giá lâm tiếp kiến
thần dân trong nước.
Đặc biệt thay! Đức vua Norodom
Surmarit vừa đến sân chầu, thấy thần dân
đang qùi chờ đợi mà lại có 2 vị chức
sắc Cao Đài mặc sắc phục trắng, nên
đức Hoàng Thượng Surmarit liền đi thẳng
đến nhị vị Thái Khí Thanh và Thái Đổng Thanh
tiếp nhận bức di ngôn, và liền mở ra xem và phán
dạy: "về thưa
lại với đức Hộ Pháp, Hoàng Thượng
đã nhận được bức di ngôn và chấp
nhận hết những lời yêu cầu."
Trưởng Huynh Chánh Phối Sư Thái
Khí Thanh và Giáo Hữu Thái Đổng Thanh bái lễ Hoàng
Thượng kiếu từ ra khỏi Hoàng Cung đi
thẳng đến bệnh viện Calmette kính trình với
đức Hộ Pháp là nhị vị đã làm xong sứ
mạng của đức Ngài đã giao phó.
Sau khi phán dạy cả chức sắc
nam nữ suốt những ngày sau cùng tại bệnh viện
Calmette, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui thiên
tại bệnh viện thủ đô Phnom Penh vào lúc 13
giờ 30 chiều nhằm ngày Ĩ7-5-1959, nhất là 50 ngàn
tín hữu Cao Đài tại Cao Miên
vô cùng xúc động khi được tin đức Ngài
đã thoát xác, và thể xác được đưa về Thánh Thất Cao
Đài, thuộc Trấn Đạo Tần Quốc (Toul Sway
Prey) Quận 5, Thủ Đô Phnom Penh để lo phần
tang lễ, hưởng thọ 70 tuổi.
Đức Hộ Pháp qui thiên để
lại trong lòng nhân thế một niềm thương
tiếc vô cùng tuyệt đối. Ba triệu con tim cùng
chung nhịp đập đều hướng về Thủ
Đô Phnom Pênh, tưởng niệm công ơn bậc
tối cao đã trọn hiến mảnh thân phàm phục
vụ cho nhân loại. May
mắn thay 50 ngàn tín hữu Cao Đài tại Cao Miên có
diễm phúc tề tựu về Thánh Thất Phnom Penh "thọ tang" suốt 10
ngày đêm túc trực bên cạnh Liên Đài của đức
Ngài niệm kinh cầu nguyện, mỏ chuông không dứt
tiếng.
Ngoài ra đại diện các Tôn Giáo
từ các tỉnh xa xôi Siemriep, Kompongthom, Kopong Cham, Soayrieng,
Pursat, Takeo, Kampot, Mimot, Kratié, Battambang v.v... đồng
đến chia buồn Hội Thánh và bái lễ chào vĩnh
biệt đức Ngài với những tràng hoa lưu
niệm vô cùng sâu sắc thắm đượm tình đoàn
kết Tôn Giáo. Đồng thời các ngoại giao đoàn
tại Thủ Đô Phnom Penh, nhất là các đại
sứ của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản
đã tiếp nhận được bản cương
Lĩnh Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống của đức Ngài
đã đề xướng vào ngày 26-3-1956 đều có
nhiệt tình cao đẹp chiếu cố đến
đặt tràng hoa tưởng niệm trước Liên
Đài, chào vĩnh biệt bậc vĩ nhân thế kỷ
20, đã trọn hy sinh phục vụ hòa bình cho nhân
loại.
Điểm nổi bật trong tang
lễ là sự hiện diện của Thủ Tướng
Pen Nouth, đại diện Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Hiên
hướng dẫn một phái đoàn đến phân ưu
cùng Hội Thánh, đặt vòng hoa tưởng niệm và
bái lễ trước Liên Đài đức Ngài rất trân
trọng.
Một phái đoàn Phật Giáo,
đại diện cho đức Sải Cả, đến
trì kinh, đặt vòng hoa phân ưu, và tiễn đưa
Liên Đài đức Ngài nhập Bửu Tháp để
đáp lại tình luyến tiếc vói đức Hộ Pháp
trong 2 chuyến từ Toà Thánh Tây Ninh đến tham dự
những buổi lễ Phật Giáo tại Phnom Penh
trước kia, cùng đàm đạo thân mật. Nên
nhớ vào những năm 1950 - 1952 đức Sải
Cả Phật Giáo Cao Miên đã 2 lần mời đức
Hộ Pháp đến hội kiến.
Còn tại miền Bắc Việt Nam,
nữ Giáo sư Hương Dư, đại diện
Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tại Thánh Thất Cao
Đài Hà Nội thiết lễ "tưởng
niệm'' rất trọng thể có đại diện
Chánh Phủ Miền Bắc VNDCCH đến dự.
Cao qúi thay! Sau một thời gian đi
công du ở Hải Ngoại vừa mới trở về
tới Thủ Đô Phnom Penh, đức Quốc
Trưởng Norodom Sihanouk, chủ tọa một buổi
họp báo trước sự hiện diện của các
phóng viên, ký giả quốc tế và ông Tổng
Trưởng Bộ Thông Tin Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên.
Quốc Trưởng Norodom Sihanouk có trả lời một
câu phỏng vấn của ông Giang Kim, chủ nhiệm
nhật báo Hữu Nghị phát hành tại Thủ Đô Phnom
Penh như sau:
"Tôi
rất tiếc ngày trở về nước, không
được hội kiến với đức Hộ
Pháp lần chót. Khi trở về thì đức Ngài đã
mất. Tôi sẽ hoàn toàn chấp nhận những lời
đề nghị của đức Hộ Pháp, và xin
nhờ nhà báo chuyển tới bổn đạo Cao Đài
là tôi đã ra lệnh cho Chánh Phủ thi hành đúng theo
lời yêu cầu của đức Hộ Pháp."
Riêng phần Chức Sắc và bổn
đạo tại Miền Nam còn bị chế độ
khắc khe, không cho Hội Thánh và bổn đạo cử
hành tang lễ. Giọt nước mắt của
người tín đồ ngoan đạo đã bị
bạo quyền cấm chảy, càng làm nứt nỡ bao con
tim của những tín hữu đã trọn hiếu
thảo trung thành với đức Hộ Pháp.
Tuy nhiên với lòng trung kiên, nhẫn
nhục tuyệt vời của Chức Sắc và Bổn
Đạo nam nữ vẫn âm thầm lặng lẽ,
bất chấp hiểm nguy cử hành tang lễ đức
Hộ Pháp vô cùng trọng thể. Mãi đến cuối
năm 1963, sau khi luật đào thải tự nhiên chấm
dứt một chế độ, kỷ niệm qui thiên của
đức Hộ Pháp được Hội Thánh Cao Đài
Tòa Thánh Tây Ninh chánh thức ban hành cho các Thánh Thất trên toàn
quốc đồng thiết lễ "Qui Thiên" để tưởng nhớ công
đức đức Ngài hết sức long trọng vào
ngày mùng 10 tháng 4 âm lịch hàng năm.
Đức Hộ Pháp đã vì mục
đích cứu đời, cứu vớt chúng sanh mà đã
xem thường mạng sống cá nhân, trọn hy sinh
cả kiếp sanh, bỏ xác nơi đất khách quê
người, để cùng chung chịu cảnh chia đôi
của đồng bào 2 miền Nam - Bắc Việt Nam.
Thật đúng là một bậc vĩ nhân của thế
kỷ 20, làm hồi chuông cảnh tỉnh, giác ngộ
dục vọng con người trên mặt thế này.
Đức Ngài đã lưu lại tấm gương trong
sáng, khiêm tốn, đạo đức cao đẹp
tuyệt đối để phụng sự nhân loại
tiến đến hòa bình và đại đồng thế
giới, tức là soi đường dẫn lốỉ
cho nhân loại tiến bước trên đường
tận thiện, tận mỹ trong tình huynh đệ nhìn
nhau một cha chung.
Tổ phụ ta thường bảo: sống
có cái nhà, thác có cái mồ. Song, đức Hộ Pháp tôn kính
của chúng ta qui thiên nơi đất lạ quê
người chỉ có cái Liên Đài trơ trọi với
gió sương mứa nắng! Âu cũng là do thiên ý đã an
bày!!!
Lại thêm một huyền diệu thiêng
liêng làm chấn động cả thế giới về
cuộc qui thiên của đức Hộ Pháp xuất
hiện tại Pháp Quốc, do nữ đồng tử
Sarah Bartel tiếp nhận và ghi chú những lời trên không
trung về việc thoát xác của vị giáo chủ toàn
cầu của đạo Cao Đài là đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc (Báo Le
Lien số: 4, tháng Juin năm 1959, trang 30), đã giáng cơ mà nữ đồng tử Sarah Bartel
ghi chép:
"
Để thống nhất tất cả đệ tử
thần linh trên toàn quốc.
Rền
than nhưng
vẫn hy vọng!
Cùng chư vị
thần linh ở
phương tây
Chúng
ta có một bổn phận đối với anh, chị
chúng ta ở Phương Đông và Cực Đông, là
bổn phận hợp tinh thần trong việc hợp tác
huynh đệ đề tìm biết rõ về vô hình."
Một tiếng nói trên không trung nói
với chúng ta như vầy:
Nếu
đạo đức đem lại một đời
sống hạnh phúc là vì đạo đức là một tình
thương yêu cao cả, thì tình thương yêu chỉ là
một với tình thương yêu cả nhân loại và
cả hư vô.
"Tiếng
nói đó là tiếng nói nào mà người ta càng nghe tỏ rõ
khi lỗ tai phàm không thể nghe rõ? Tiếng nói đó là tiếng
nói nào mà nó ở ngoài vật thể, và ở ngàn nơi trên
thế giới địa hoàn, mà những tấm lòng yên
lặng và mở rộng dẫu ở Phương Đông
cũng như ở Phương Tây, hoặc như ở
Phương Bắc như ở Phương Nam, để
chờ tiếp nhận những lời Thánh Giáo giống
nhau đề cạn tỏ sự hòa hợp của
tầm hồn.
"Đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc vừa mới thoát xác ngày 17 -5-1959 hồi 13 giờ
30 phút (giờ Cao Miên) tại bệnh viện Calmette,
Thủ Đô Phnom Penh. Đúng
giờ định thì những Thiên Thần cầm lộng
vàng đến tiếp rước Ngài, còn các hung thần
thi bị đuổi đi xa tịt mù, đóng thành một
lằn đen xa thẳm, như đóng khuôn cho một
cảnh giới Thiên Đàn mở rộng thêm mãi.
Nhiều
đấng vô hình mặc thiên phục đỏ, tốp
khác thì mặc thiên phục xanh, còn tốp khác thì mặc
thiên phục vàng, và cũng còn hàng ngàn những vị
mặc thiên phục trắng.
Những
vị mặc sắc phục trắng nói rằng: độ
lượng là mối tình thương yêu đặt mình
chúng ta trọn vẹn để phục vụ tình bác ái.
Sau
rốt những vị mặc sắc phục đỏ
tuyên bố: sức lực mới là tình thương yêu giúp
chúng ta gánh chịu tất cả mọi khó khăn cho cái gì
mà ta yêu mến.
Bốn
tốp ấy đã nói rồi thì ''tiếng nói" của tất cả các tiếng nói ở
trong tâm của mỗi người, dầu ở nơi
thiên giới hay ở địa giới, hoặc ở
trung giới. Tiếng nói ấy đã nói: Trong bốn màu
hợp lại thành một.
Người
đã hạ mình xuống nơi hạ giới làm một
Giáo Chủ tốt Hộ Pháp Phạm Công Tắc Hãy trở
về lòng của ta là tiếng nói của tất cả
tiếng nói.
Từ
ngày 27-5-1959, hồi 7 giờ thì trong
cả mặt thế, trong các giới tất cả những người ở trong
đại cơ quan đồng
tử đều được nhận thấy, và nghe rõ
tất cả những việc mà tôi đã ghi chép y như
trên
Chứng chắc thật!
Bà Sarah Bartel Đồng tử
Nhà số: 20, đường Alibert Paris 10ème
ĐI ĐỂN BÁT QUÁI ĐÀI
(La tour à 8 faces)
''Tin tức vừa mới tiếp
nhận về vụ Thoát xác của đức Giáo Chủ Cao Đài” mà trung tâm
hiện giờ ở Kim Biên.
Tôi xin ghi chép y nguyên văn cho tất
cả độc gỉa tạp chí Le Lien.
TIẾNG
NÓI.-
''Đúng
ngày mùng 5 tháng 5, nhằm ngày 10-6-1959 là đúng 70 năm tôi
ở trong một thi phàm xác thịt. Đúng ngày đó thì tôi
đã ngồi trong một cái hòm hình bát giác (Liên Đài), và
từ trong đó tôi nhìn thấy hàng ngàn và hàng ngàn những
tín đồ diễn ngang, tất cả từ chục ngàn
người khác, mỗi người đều
được biết "dấu hiệu" để
về sau nhìn biết được họ khi ngày giờ
đã đến."
Tiếng nói tiếp theo với một
giọng buồn trong một lúc
''Có
những người có thể đến được
nhưng lại không đến, có những người
rất muốn đến mà lại không đến
được. Những người sau này (tức là
những người muốn mà không thể đến
được), tôi cũng ban cho một "dấu
hiệu” từ trong Liên Đài bát giác của tôi."
Tiếng nói tiếp,-
"Đức
Hoàng Thượng và Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên đã làm
những gì phải làm, để chứng tỏ lòng khoan
hồng hiểu biết và tình huynh đệ cao với
cử chỉ cao thượng ấy, đức Hoàng
Thượng đáp lời một bức thơ mà tôi
rất cung kính viết và gởi đến Hoàng
Thượng 3 ngày trước khi linh hồn tôi rời
thể xác. Nhưng cõi vô vi tôi vẫn thấy và nghe
được."
Đến đây
tiếng nói lặng thinh, và tôi chờ mãi coi có tiếp theo không mà chẳng
thấy. Vậy, đây có phải là một tin "thông công" hay không?
Tôi có chiêm bao hay không? Trong đó có những
chi tiết mà tôi rất vui vẻ để kiềm soát
lại:
- Cái hòm bát giác?
- Hình thể người quá vãng liệm
để ngồi?
- Bức thơ gởi trước 3 ngày
khỉ thóat xác?
Tờ tạp chí Le Lien này dược
phát hành, gởi đi khắp hoàn cầu, có lẽ nó
cũng đến xứ Cao Miên. Nếu bên xứ ấy, hoặc
nơi nào khác, có vị nào được, xin viết
thơ cho tôi biết thêm việc này, để bác bỏ hay
công nhận những điều mà tôi thiệt thà ghi chép
nơi đây. Tôỉ đề lời cám
ơn trước!
Bà Sarah Bartel
20, Rue Alibert Paris 10ème.
LẠI
THÊM MỘT BÀI BÁO NGỌAI QUỐC
(Sau khi nghiên cứu huyền diệu
thiêng liêng đăng như sau)
"Sự
kinh nghiệm và xét đoán của đài Thiên Văn và Thông Thiên Học bên Pháp. Theo
thơ của ông Olion và Thánh Giáo của bà Sarah Bartel cho
biết: ngày rước Thánh có đủ chư: Phật,
Thánh, Tiên ngự, thì có ông mặc áo đẹp, sắc
phục có khôi giáp về đồng ngự, và có cả
chư Phật, Tiên, Thánh, Thần đến chầu
chực đón rước chào mừng chơn linh ấy
về "đến"
Nữ đồng tử Sarah Bartel ghi
đúng sự thật, vì trước khi đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc qui thiên, trước 3 ngày
đức Ngài còn nằm trên giường bệnh tại
bệnh viện Calmette. Đức Ngài còn ký tên trong bức di
ngôn gởi đến Hoàng Thượng Norodom Sumarit
(Đức vua cha, thân phụ của thái tử Norodom
Sihanouk) mà hai vị Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh và Giáo
Hữu Thái Đổng Thanh thân hành vào Hoàng cung chuyển
đệ lên Hoàng Thượng.
Vì sao trước giờ phút qui thiên,
thoát xác nơi đất Cao Miên mà đức Hộ Pháp
vẫn còn ghi nhớ ngôi Thánh Thất bị Tòa Án Thượng
Thẩm Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên chuẩn phê y án Tòa Sở
Thẩm phán định: Phá hủy ngôi Thánh Thất Cao Đài, (do ấn lịnh xét xử ngày
13-3-1957 của Tòa Sơ Thẩm).
Cần ghi nhớ trước kia ngôi
Thánh Thất Cao Đài tại Phnom Penh được xây
cất trên phần đất tọa lạc tại số
37 Đại Lộ Pierre Pasquier (Phnom penh) vào năm 1930. Mãi
đến năm 1954 Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên trưng dụng
phần đất này để kiến tạo Nhà Thú Y Quân
Đội Hoàng Gia.
Vì lợi ích qui hoạch,
Chánh Phủ Cao Miên đã đến thương
lượng với Hội Thánh, nên Hội
Thánh Cao Đài tại Phnom Penh đồng ý chuyển
nhượng để đổi lấy 3 phần
đất tại Toul Sway Prey, thuộc quận 5, Thủ
Đô Phnom Penh do công văn số: 4882/BA ấn ký ngày
20-10-1954.
Đến ngày 21-2-1955 Hội Thánh
Trấn Đạo Tần Quốc tại Phnom Penh
đệ đơn xin phép Chánh Phủ Hoàng Gia kiến
tạo ngôi Thánh Thất Cao Đài trên phần đất
vừa được Chánh Phủ chuyển nhượng, để
có nơi thờ phượng với đồ án kiến
trúc bằng cây ván, lợp ngói
và đã được Đốc Lý Thành Phố Phnom Penh
phê chuẩn chấp nhận giấy phép số: 557/GV
đề ngày 17-6-1955.
Công tác xây cất ngôi Thánh Thất bắt
đầu khởi hành đúng theo giấy phép số 557/GV
đế ngày 17-6-1955 thì ngày 16-2-1956 đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc và phái đoàn Chức Sắc tùy tùng
lưu vong tới Cao Miên (Phnom Penh). Đức Ngài liền
hướng dẫn Hội Thánh Cao Đài Trấn
Đạo Tần Quốc phải đệ trình lên Chánh
Phủ Hoàng Gia đồ án xây cất ngôi Thánh Thất bầng béton cốt sắt.
Hiền Huynh Giám Đạo Huỳnh Hữu Lợi phụ
trách lo xin phép đệ trình đồ án lên Chánh Phủ.
Được biết thâm ý của
Luật sư Blaquierre muốn bảo vệ quyền
lợi cho Chánh Phủ Hoàng Gia, nên Luật sư Khing See
liền bước ra hành lang Tòa Án nói nhỏ với Sĩ
Tải Lê Quang Tấn biết rõ lời tố cáo của Luật
Sư Blaquierre, và Sĩ Tải Tấn liền rỉ tai cho
Chức Việc và Bổn Đạo
từ từ rút lui khỏi Tòa Án lên 2 chiếc xe Bus
đề trở về Thánh Thất, chỉ còn 20 vị chức
sắc và chức việc nam nữ tượng trưng
tham dự phiên xử mà thôi.
Đến khi Ông Luật sư Blaquierre
hướng đứa ông Chánh Án Tòa Thượng Thẩm
bước ra bên ngoài Tòa Án để quan sát, thì chỉ còn
thấy có 20 vị Cao Đài mặc sắc phục
trắng, gây ngạc nhiên, lúng túng cho Luật-sư Blaquierre
đã tố cáo không đứng sự thật.
Phiên xử của Tòa Án Thượng
Thẩm cũng phán định: "chuẩn
phê y án Tòa Sơ Thẩm, Hội Thánh phải triệt
hạ ngôi Thánh Thất Cao Đài".
Hội Thánh đã đệ đơn
thỉnh nguyện lên Chánh Phủ Hoàng Gia xin nhờ cứu
xét khoan hồng, song chưa có kết quả. Cho mãi
đến ngày 14-5-1959, đang nằm trên giường
bệnh tại bệnh viện Calmette, đức Hộ
Pháp mới có bức di ngôn gởi đến Quốc
Trưởng Norodom Sihanouk và Hoàng Thượng Surmarit. Đồng
thời, Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn
Khoa đã gởi một tối hậu thư cho Chánh
Phủ Hoàng Gia Cao Miên, một bức thư đã ghi vào sử
Đạo Cao Đài vào năm 1958 vói đại ý: nếu Thánh Thất Cao Đài
bị triệt hạ theo án lệnh, thi Đại Huynh
Bảo Đạo tự nguyện tuyệt thực tử
tiết theo ngôi Thánh Thất. Điều này đã gây
nhiều dư luận sôi nổi trong Chánh Phủ Hoàng Gia
một thời.
Cao quý thay, đức Hộ Pháp biết
trước phải thoát xác nơi đất Cao Miên, mà
đức Ngài vẫn lo cho ngôi Thánh Thất Cao Đài
tại Phnom Penh khỏi phải thi hành án lệnh là
triệt hạ ngôi Thánh Thất. Sau ngày 17-5-1959 đức
Ngài qui thiên thì Hoàng Thượng Norodom Surmarit có văn
thư mời Hội Thánh Cao Đài Tần Quốc và phái
đoàn chức sắc lưu vong vào Hoàng Cung.
Vua Norodom Surmarit tiếp đón phái
đoàn Hội Thánh trên lầu Hoàng Cung hết sức
nồng hậu, Hoàng Thượng đến bắt tay
từng người, hỏi thăm sức khỏe và
mời an tọa trên bộ Salon (bốn ghế đối
diện nhau). Hoàng Thượng Surmarit liền hỏi
thăm Đại Huynh Thái Chánh Phối sư Thái Khí Thanh
khâm trấn đạo Tần Quốc trước (vì
Đại Huynh Thái Khí Thanh rất giỏi Miên Ngữ) và
chỉ dẫn Đại Huynh
dâng đơn thỉnh cầu lên Hoàng Thượng xin
cứu xét lại án lệnh, để Hoàng Thượng
phán lệnh cho Tòa Án Thương Thẩm: Tạm ngưng thi hành án lệnh của Tòa
Thượng Thẩm.
Kế tiếp, Hoàng Thượng hỏi
thăm Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa
(bằng tiếng Pháp) và cuộc sinh sống của số
chức sắc trong phái đoàn lưu vong còn tạm trú
nơi đất Cao Miên.
Tiếp theo Hoàng Thượng Surmarit
hỏi Sĩ Tải Lê Quang Tấn đi tu hồi nào mà còn
trẻ quá vậy? Thừa dịp đáp lời xong, Sĩ
Tải Tấn trình bày khẩn cầu Hoàng Thượng
khoan hồng đặc ân; xóa bỏ án lệnh trong hồ
sơ của Tòa Sơ Thầm Phnom Penh về vụ đã
phạt Sĩ Tải Lê Quang Tấn 3 tháng tù vào năm 1957
về tội xâm nhập nước Cao Miên bất hợp
pháp, bởi một tu sĩ mà phải bị mang án 3 tháng tù
trong hồ sơ thì thật khổ tâm chua xót cho
người tu sĩ mỗi khi có việc cần. Phải
sao lục án tòa. Hoàng Thượng phán dạy: Làm đơn
chuyển đệ lên Hoàng Thượng xin ân xá xóa bỏ
bản án 3 tháng tù, để Hoàng Thượng chuyển
đến Tòa Thượng Thẩm ra lệnh cho Tòa Án
sơ Thẩm xét xử lại.
Vinh hạnh thay! Sau 3 tháng chuyền
đơn thỉnh cầu lên Hoàng Thượng, thì cuối
năm 1959 tiếp được lệnh Tòa Án Sơ
Thẩm mời đến dự phiên xử án, và
được Tòa Sơ Thẩm hủy bỏ án phạt 3
tháng tù vào năm 1957 (mặc dù Sĩ Tải Tấn đã
thụ án 3 tháng tù rồi, nhưng đến khi sao lục
hồ sơ Tòa Án thì được ghi là "không án tiết").
Một huyền diệu thiêng liêng
xuất hiện ở Pháp Quốc sau khi đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc qui thiên ngày 17-5-1959 tại Phnom Penh
thì nữ đồng tử Sarah Bartel ghi nhận: Tiếng
Nói Trên Không Trung đã được báo Le Lien ấn hành vào
tháng 6-1959 tường thuật rõ ràng, khắp thế
giới đều biết rõ ràng đức Ngài
được liệm ngồi trong Liên Đài (tức là
được liệm ngồi trong 1 cái hòm bát giác, 8 góc vào
lúc 22 giờ đêm ngày 17-5-1959 trước sự hiện
diện của vị cảnh sát trưởng quận 5,
Thủ Đô Phnom Penh, và chức sắc nam nữ tại
Trấn Đạo Tần Quốc.
Điểm đặc biệt không kém
phần băng khoăng lo lắng cho chức sắc và
bổn đạo, vì đức Hộ Pháp đã qui thiên mà
cả Hội Thánh không một ai được biết
nghi tiết lễ an táng đức Ngài như thế nào?
Đại Huynh Bảo Đạo Hồ
Tấn Khoa và Sĩ Tải Bùi Quang Cao liền phò loan thính
đức Ngài giáng cơ chỉ dẫn nghi tiết "lễ tế điện"
trong khi thể xác chưa tẩm liệm, đức Ngài giáng
cơ chỉ dẫn từng chi tiết lễ an táng và cho
một bài thi để tế điện:
Trót
đã bao năm ở xứ người,
Đem
thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ
đâu vạn sự do thiên định,
Tuổi
đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ
tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn
nhìn cội đạo lắm chơi vơi
Rồi
đây ai đến cầm chân pháp,
Tô
điểm non sông đạo lẫn đời.
Nhờ tiếp nhận được
sự chỉ dẫn về nghi tiết và bài thi trên,
đồng nhi và lễ sĩ mới biết để "thài" và đăng
điện trong buổi tang lễ. Ngoài ra Sĩ Tải Bùi
Quang Cao (thơ ký đặc biệt của đức Ngài)
một chức sắc Hiệp Thiên Đài trong phái đoàn
lưu vong, và cũng là một chuyên viên quay phim và chụp
ảnh của phái đoàn lưa vong, đã lưu lại
nhiều hình ảnh trong buổi tang lễ của
Đức Ngài. Cuốn phim do Sĩ Tải quay trong khi các
Tôn Giáo bạn, Ngoại Giao đoàn tại Thủ Đô
Phnom Penh, và phái đoàn Phật Giáo Cao Miên đến
đặt tràng hoa vĩnh biệt cùng tiễn đưa
Liên Đài nhập Bửu Tháp, là một kỷ niệm vô
giá lưu lại cho bổn đạo ở Thánh
Địa Tòa Thánh Tây Ninh không được vinh hạnh
góp phần chung lo buổi tang lễ của đức Ngài
tại Phnom Penh.
Với
trách nhiệm Hộ Pháp, chưởng quản nhị
hữu hình đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng, đức
Ngài chẳng quản tuổi cao sức yếu, nhiệt
tình rèn luyện đào tạo một số chức sắc
nam nữ ưu tú, đầy đủ khả năng và
tinh thần để góp mặt trong mọi công tác xã
hội từ thiện cùng các Tôn Giáo bạn. Nhất là
giữ vững niềm tin trước mọi thử thách
phong ba bão táp vẫn một lòng tuyệt đối trung
thành với Hội Thánh, chí hiếu với Chí Tôn và Phật
Mẫu, để tiếp nối con đường
đạo đức do "Tôn
Sư Hộ Pháp" và các bậc
chức sắc đàn anh đã hy sinh vạch sẵn Từ
Bi, Bác Ái, Công Bình rạng danh Đại Đạo.
Đức
Ngài qui thiên ngày 17-5-1959 và Liên Đài đức Ngài vẫn
còn lưu lại trên nước Cao Miên cho đến ngày
hôm nay do Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, chức
sắc, bổn đạo đồng tuyệt đối
tôn kính lời di ngôn đã gởi cho Hoàng Thân Norodom Sihanouk
ngày 14-5-1959.
Thương
tiếc thay! Một danh nhân lịch sử đã rời
khỏi cỏi trần.
Một bậc vĩ nhân hết sức nhiệt tình tận
tụy với nhân loại bằng Chánh Sách Hòa Bình Chung
Sống, bác ái đại đồng với chủ
tương "bất bạo động" của Đức Hộ Pháp đã làm cho người
không đồng quan điểm đem lòng kính mộ, mặc
dù lòng hy sinh tuyệt đối của đức Ngài
chưa trọn vẹn tiếp đón ngày vinh quang của
đất nước Việt Nam, nhưng hàng triệu con
tim cùng chung nhịp đập đều tưởng niệm
đến công ơn của đức Ngài.
Tôn kính thay! Đức Hộ Pháp là một
cứu tinh, bậc thông suốt
huyền vi màu nhiệm của Thượng Đế, nên
đã mạnh dạng đề xướng Chánh Sách Hòa Bình Chung sống vào ngày 26-3-1956 để
cứu vãng nhân loại tránh cuộc tự sát, khỏi
nạn diệt vong. Đức Hộ Pháp còn biết rõ 2
khối Cộng Sản và Tư Bản hiện diện trên
mặt thế này là do
thiên cơ tiền định, không tránh khỏi được sự tranh chấp
quyền bá chủ thế giới, huynh đệ
tương tàn, nhân loại phải lầm than thống
khổ.
Nỗi khổ tâm của đức Ngài, một vị lãnh đạo Tôn
Giáo Cao Đài, được biết trước cuộc
nội chiến sắp khởi diễn mà chẳng biết
cách nàosửa được máy thiên cơ. Đức Ngài
phải nhập "Tịnh
Thất" vào Trí Huệ Cung thiền tịnh ngày
16-1-Tân Mão (1951) để khẩn nguyện Thượng
Đế ban đặc ân cho dân tộc việt Nam thoát
khỏi cảnh áp đặt của ngoại bang, cũng
như đã nhiều lần, đức Ngài cầu
khẩn cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Tổng
Thống Ngô Đình Diệm dẹp bỏ mọi tị
hiềm, nhưng cũng không hoán cải được
thời thế, bởi số đã định.
Suốt 3 tháng đức Ngài khép mình trong
Tịnh Thất Trí Huệ Cung khẩn nguyện
Thượng Đế ban huyền diệu thiêng liêng
cảm hoá 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm
hiểu biết nhau là con chung của Thượng
Đế.
Những lời phán dạy của
đức Ngài đã cảm hóa trên 3 triện tín hữu Cao
Đài, để lại cảm tình chan chứa cho nhân
loại, một "danh"
thiên niên vạn cổ, đây là danh của đấng "cứu thế”.
Đức Ngài không ngần ngại
chịu khổ nhục đã chỉ dẫn cho đời
biết những điều lầm lạc về sự
chia rẽ. Nhân loại đừng phân biệt màu da sắc
tóc mà hãy nên tương thân, tương ái.
Ngày 17-5-1959 là một ngày u buồn,
ảm đạm cho Bổn đạo Cao Đài ở
Quốc Nội cũng như ở Hải Ngoại, và
cũng là ngày long trọng ghi vào lịch sử Đông
Phương, một kỷ niệm sâu sạc của
Quốc Dân Việt Nam đã nêu cao "gương trong sáng không chút bụi trần
tượng trưng cho Quốc Hồn Quốc Túy, một
phương thức bất bạo động, một nhà
lãnh đạo Tôn Giáo suốt đời tận tụy
với Quốc Đạo" công bằng, từ bi, bác ái, cùng ung
đúc lòng ái quốc trong trái tim người Việt Nam.
Đức Hộ Pháp biết rõ mọi
biến cố "trận
chiến" trên thế giới là lẽ dĩ nhiên,
tiền định không sao tránh khỏi, nhưng
đức Ngài có phận sự thiêng liêng là chỉ
đường dẫn lối cho kẻ bị áp chế
từ chỗ bất hoà, bất bình đến chỗ
hợp quần, đoàn kết.
Đáng tôn kính thay! Đáng sùng bái thay!
Một vĩ nhân trọn hy sinh cả kiếp sanh cho Chánh
Sách Hòa Bình Chung sống mà đức Ngài đã long trọng
xác nhận với Quốc Trưởng Norodom Sihanouk: mục phiêu đời sống
của bần đạo.
Thiết nghĩ ngày qui thiên của
đức Hộ Pháp 17-5-1959, trùng hợp ngày lễ chư
Thánh giáng linh của Công Giáo (Pentecôte) mà đức Ngài đã
dùng huyền diệu thiêng liêng ứng linh cho nữ
Đồng Tử Sarah Bartel tại Pháp Quốc tiếp
nhận ghi chép TIẾNG NÓI TRÊN KHÔNG TRUNG như thế!
Sự trở về của đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc không lặng lẽ như bao
sự trở về của chúng sanh, sự trở về
của đức Ngài là một biến cố cho nhân
loại, sự tang chế của thời kỳ mạt
Pháp.
Chính đức Hộ Pháp đã chia
xẻ phần đau khổ của đồng bào 2
Miền Nam - Bắc Việt Nam bằng chủ trương
"Hòa Bình Chung Sống",
và đem đến cho toàn thể nhân loại sự
dịu mát trong lành của nền hòa bình đại
đồng thế giới lần lần trở thành
hiện thực.
Niềm vinh hạnh vô biên cho
người tín hữu Cạo Đài có quyền hãnh
diện là 35 năm về trước, tức là ngày
26-3-1956 đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, lãnh
đạo Tôn Giáo Cao Đài đã có sáng kiến đề
xướng Chánh Sách Hòa Bình Chung sống, vạch
đường chỉ lối cho 2 khối Cộng Sản
và Tư Bản phải tương nhượng nhau, vì
tất cả đều là con chung của Thương Đế.
Đức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc, chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài,
Hiệp Thiên và Cửu Trùng đã thoát xác qui thiên ngày 17-5-1959 tại Phnom Penh đã
để lại cho bao sự mến tiếc, tôn kính, phụng thờ của 3
triệu tín đồ Cao Đài hằng ghi nhớ lời
huấn giáo của đức Ngài:
"Bần
đạo chỉ sợ toàn thể thanh thiếu niên sau này
sẽ khinh khi các bậc đàng anh không đáng mặt.
Nếu
chẳng đi đến trường thầy mà đạt thủ địa vị
mình thì chẳng ai đi đến nơi nào khác mà
đắc đạo bao giờ!
Mặc
ai sang trọng ở trường đời, ta cứ theo
Chí Tôn thì đại nghiệp không mất, quả quyết
đứa con nào của Người, trọn trung, trọn
hiếu với người và Hội Thánh là hình thể của
Người tại thế gian này, thì không bao giờ
thất nghiệp và thất phận."
Mãn Thu, 19 tháng 09 năm Kỷ Tỵ
(DL. Ngày 18 tháng 10 năm 1989)
Thừa Sử: LÊ QUANG TẤN
Thánh Thất Cao Đài SàiGòn
891 Trần Hung Đạo, Quận 5
Thành Phố Hồ Chi Minh.
THE
BIOGRAPHY OF HIS HOLINESS HO PHAP PHAM CONG TAC, THE CAODAISM HEAD OF TAY NINH
HOLY SEE
The His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac governing Two Material
Palaces: the Hiep Thien Dai and Cuu Trung Dai (Palace of Divine Alliance and
Divine Palace of Nine Planes) has sacrificed his incarnation for all human
beings, it expresses a Divine Mission of a Great Man on 20th century
to give a caution for human’s desire on this earth, to guide the human beings
unify races for state, for religions and He has initiated the Peaceful Policy
of Coexisting to reconcile two Southern and Northern Religions of Vietnam to
avoid division imposed by foreign countries, and to harmonize Communist block
and Capital block which have taken an oath in a death-feud, to understand each
other to yield each other to obtain the Peace, Freedom, Democracy.
THE BIOGRAPHY OF HIS
HOLINESS HO PHAP
Mr. Pham Cong Tac was born on 5th May. Canh Dan year
(Tiger year – 21st Jun. 1890) at Binh Lap hamlet, Chau Thanh
District, Tan An province (Nowadays, it is Long An province), the eighth child
of Mr. Pham Cong Thien and Mrs. La Thi Duong at An Hoa with native region
belonging to Trang Bang district, Tay Ninh province.
When he was young, He was very hard in learning, going to school on
in time, under causing love of his teachers and friends in same class. In his
family, he was famous in being obedient, dutiful child for parents, in making
concessions and respecting for younger and older brothers and sisters. When
growing up in a dependent situation of
The plan of going abroad was successful in three times to
In 1920, he worked at Saigon Customs Service and was married with
Ms. Nguyen Thi Nhieu and born two children Pham Thi Thieu and Pham Tan Tranh.
After that, he moved to Cai Nhum, Qui Nhon and returned to
Replying on wise and upright nature, he held many important
positions, he always helped poor people, and never took advantage of position
to seek for individual interest.
At that time, the official salary was limited. With willing moral
spirit, his friend named Tran Chon Thanh visited to let him know that there was
a poor family next his home which was worthily pitiful in Khanh Hoi. That
family had two girls Nguyen Thi Cam and Nguyen Thi Hong swindled to leave home
by a procurer. Mr. Thanh suggested him for method to help that pitiful family.
He did not hersitated to give Mr. Thanh an amount of money saved for long time
with a hearty speech that Mr. Thanh had to discuss with that procurer to save
two girls to be out of the whorehouse. Mr. Pham Cong Tac has helped two girls
to turn over the path and reunite with their family and to live and work
honestly. With his honest nature, he always did in righteousness and zeal, and
also asked his friends to help by heart to help poor and pitiful people
readily.
His will trended to situation of nation, of race oppressed by
people due fame and wealth. They never cared life and death of other ones, they
just knew the joy of their body and their wife and children only.
The gold and money life has made people sunk in material prison.
Boring feelings for fugitive life, he appealed to his dear friends to discuss
about the spiritually automatic writing apparatus for séance to invite souls to
respond to poem together so that they could learn the divine world with purpose
to forget everything to enjoy the noble happiness. They sometimes set up
ceremonies, sometimes-recited poems, sometimes responded to poems.
THE CAODAISM HEAD OF
GREAT WAY – THIRD PERIOD
– UNIVERSAL SALVATION
Mr. Pham Cong Tac wanted to study mystery of invisible world, he
established ceremonies of spiritually automatic writing apparatus for séance to
study. This form has been applied for a long time on over the world, it is just
different about use aspect due to custom and habit of each race.
The spiritually automatic writing apparatus for séance is a final stage
of spiritual communication between creator and human belonging spiritual
aspect. This is a medium for invisible superiors to teach all human beings, a
brilliant torch to take human to the sublime world. The spiritually automatic
writing apparatus for séance is a very sharp two-edged sword, people must see
the method of apply, in contrary, it is extremely dangerous. If the mediums of
a séance lack of guidance, practice, and belief of their mission or making
corrupt use of unrighteous plan, many troubles will be caused for all issues
and aspects.
The spiritually automatic writing apparatus for séance appeared in
18th century in the Occidental region and developed to become
Spiritualism (Le Spiritisme).
On September 1853, Mrs. Decibardin visited Great Writor Victor Hugo
at the
At night, 13 September 1853, there was a soul descending to talk
with Mr. Victor Hugo congenially and to give many fluent speeches and said
that: “Believe in the universe monad!”.
This is an invisible concept appearing an invisible world in
In
At that time in
Mr. Pham Cong Tac with: Mr. Cao Quynh Cu, Cao Hoai Sang, Nguyen
Trung Hau, Truong Huu Duc, Cao Quynh Dieu, Vo
On 6 June At Suu year (26-7-1925), a invisible soul descend and
called name by himself as Cao Quynh Luong making present people very pleased
for foremost Mr. Cao Quynh Cu (Mr. Cao Quynh Luong calls Mr. Cao Quynh Cu as an
uncle). Mr. Cu asked: “If you are really
Cao Quynh Luong, you must know everybody here. You call name of each one here
if it is right”. After Mr. Cu ended his speech, the table knocked as a
reply: Dieu, Tac, Sang, Duc, Nguyen, Hau. Mr. Cu recognized the correct
determination of each name in order (Especially, called in order), that made
him secure in belief more about the invisible world. After that, Mr. Cu asked
Mr. Luong to invite his grandfather as Mr. Cao Quynh Tuan for attendance (Mr.
Cao Quynh Tuan is Mr. Cao Quynh Cu’s father).
After a short rest, they continued to celebrate the séance. Mr. Cao
Quynh Tuan descended down table, it made they very surprised. Mr. Cu stood up
and folded hands to kindly spoke to the soul: When you died, my old and young
brothers were still young and my brother was still young. Now you may give a
narrative poem for generation adore. With no demur, the table moved and gave a
poem:
Leaving earth when being
over fifty,
You were about ten years
old.
All advices and love
given,
Advising for heart due
to love.
Soul replies on the
invisible world,
Very unoccupied in the
divine world.
Watching good wife in
senile status,
Giving recommendations
for meeting.
I would like to
ascend.
(The provisional
explanation)
The narrative poem of Mr. Cao Quynh Tuan made present persons there
touched. Mr. could avoid his tears. From that time, they did not disregard
celebration of séance any more, they did not consider as a play as before,
moreover they respected very much for each séance.
At night of Saturday of 10th June At Suu year
(30-7-1925), they went to Mr. Cao Hoai Sang’s home to continue for séances. The
table moved lightly and fast in strange state. The table of séance knocked : “died due to love”. Hearing words of “died due to love”, they became
frightened. Only Mr. Cao Quynh Cu was unruffled to ask: “Male or female?” The soul replied: “Doan Ngoc Que, girl”
The name and surname is same to name of Mr. Dieu’s friend. Mr. Cao
Quynh Cu asked for a narrative poem. The séance table moved lightly and gave a
poem:
There is no one to give
confidence to,
Wasting beauty and
talent because of bad fate.
Thinking fortune would
come for aristocracy,
Suddenly, falling to
divine world due to fate.
Heart with sorrow for
native country,
No more for life of a
girl.,
Repeated lovesickness as
a burden,
There is no one to give
confidence to
(The provisional explanation)
Two narrative poems of Mr. Cao Quynh Tuan and Ms. Doan Ngoc Que had
a great value to destroy their doubt and negation toward invisible world at
that time. In contrary, it also helped them have respectful belief to the
mystery of invisible world. Due to very famous verses, they responded to Doan
Ngoc Que’s poem interestingly. As they could response to a soul with very
fluent verses, this made him more interested in celebrating séance every night
to study more about the invisible world. The more they got in touch with souls
such as Doan Ngoc Que, the more they respected.
However, they wanted to know the Doan Ngoc Que’s origin, the girl “died due to love”. The soul fast
answered: Formerly, lived at Cho Lon, learnt at Dam school.
At the last week of August, At Suu year (1925), they celebrate a
séance to invite Ms. Doan Ngoc Que to study more things about the invisible
world according to their long wishes.
Ms. Doan Ngoc Que guided them secrets toward invisible world to
meeting their ardent wish. They concurrently suggested to strike up a
friendship with her.
Ms. Doan Ngoc Que accepted
and friendly called them:
Mr. Cao Huynh Cu, oldest brother
Mr. Pham Cong Tac, second brother
Mr. Cao Hoai Sang, third brother
And Ms. Doan Ngoc Que called herself as fourth young sister.
As being stricken a friendship as brothers and sisters, Mr. Cao
Quynh Cu did not hersitate to ask her real name, however she did not reveal her
real name. After all, they always insisted, she pleased them and the séance
table moved and knocked three abbreviated letters: V.T.L.
Mr. Cao Quynh Cu continued to ask: where is your grave at the
moment?
Ms. Doan Ngoc Que answered: At the moment, the grave is at the Ba
Lon cemetery (Phuong General Chief) at the seven concerns of
They tried to find out the origin of Ms. Doan Ngoc Que with her
real name abbreviated by three letters V.T.L.
In order to know the reality or unreality, on Sunday, Mr. Cu. Tac,
Sang made an appointment at the
There was no doubt, three of them prayed with incense to soul of
Ms. Vuong Thi Le and then went back. However, they still queried if souls could
descend daytime. They also wanted to ask Ms. Doan Ngoc Que some things.
When going home, they immediately celebrated a séance at 9am. Ms.
Doan Ngoc Que descended down the séance table to let them know clearly that the
grave that they visited this morning was her grave. This event made them much
more surprised because without question, Ms. Doan Ngoc Que met their wish in
that séance.
The evidence that they could not deny was an issue that people
could contact with invisible souls. It means that they discovered an issue that
just a few people know mystery of invisible world.
In order to temper their spirit and belief, one day, Ms. Vuong Thi
Le descended to guide about moral, religious aspect. She deliberated to
introduce her talented female friend to three of them, named Hon Lien Bach.
Under introduction, Mr. Cao Hoai Sang wanted to try at the talent of female
poet and wrote an examination “Seeing off
passion for husband”. She was not tardy to give a poet:
Advice in the long
paramour,
Loved carved by gold,
stone in hundreds of year.
Stepping with melancholy
under current of time,
Speeches sad and missing
handed over moon.
Waiting days in shadow
by clouds,
Living alone at long
night,
Springs passing in
solitary passion,
Who understands the
appointment.
(Provisional
explanation)
Ms. Hon Lien Bach concurrently gave a continuous poet named: “Missing Husband”:
Remembering time of
separation,
Seeing each other with
four drops of tear.
Doleful with sad sky and
clouds,
Melancholy sea with
water lovesick dye.
Remembering the meeting
in solitary,
No banquet for long time
of separation.
Recommendations replied
on good friends,
Song of swallow of old
garden reminiscing.
(Provisional explanation)
Two poems of Ms. Hon Lien Bach given on 5 August At Suu year (22nd-8-1925)
made three of them very interested in responding to poem between the visible
world and invisible world. They were very crazy about refined spirit on this
earth.
A rare issue happened: the remour spreaded everywhere that Ms.
Vuong Thi Le descended via a séance, made the family of Ms. Vuong Thi Le
believe to go to Mr. Cao Quynh Cu’s house in order study the reality. They
wanted to attend the celebration of séance. They could not refuse suggestion
and two strange visitors called themselves as relatives of Ms. Vuong Thi Le and
attended the séance.
When Ms. Vuong Thi Le descended down the séance table, Mr. Cao
Quynh Cu asked: fourth young sister, do you know two strange visitors? She
immediately replied:
“Lost from Elysium at decadence”
(Note: In Vietnamese, the verse contains two words: Nguyen and
Vong. These are two names of strange visitors)
Two strange visitors heard name of Nguyen and Hung as their name
prayed with incense by a verse:
“Burning incense to show happiness”
Ms. Le responded continuously the poem:
“Many days for meeting due to confidence”
Mr. Nguyen and Hung continued with last verse:
“Affected to remember young age”.
The great inspiration happening between living people and souls of
invisible created a great poem:
“Lost from Elysium at decadence
Burning incense to show happiness
Many days for meeting due to confidence
Affected to remember young age”.
Such as mysterious event, it helped Mr. Cu, Tac, Sang be overjoyed
toward celebrating séance. The miraculous mystery was touched by three of them
in responding to poem every night, it made them untried, they felt passionate
much more.
At the last week of July At Suu year (1925), Mr. Pham Cong Tac with
reliable friends assembled to celebrate the séance, there was a soul descending
without calling his name, however he gave a poem:
Peppery chili, peppery due to chill in resentful thought,
Salty salt in three years long lasting.
Travelling and stopping here,
No acceptance to follow anyone.
(Provisional explanation)
When receiving this poem, three of them: Mr. Cu, Tac, Sang insisted
to know soul’s name. However, the Invisible Superior denied and called himself
as A. Ă. Â only. They were very surprised and deliberated to study at this
Invisible Superior A. Ă. Â, however he did not reveal his name. This made
them meditate themselves and feel strange for this Invisible Superior. From
that time, no one dared to ask his origin any more.
Until to the first week of August At Suu year (1925), once Mr. A.
Ă. Â descended to teach Mr. Cu, Tac, Sang: Do not ask my origin any more,
especially for national issues, politics, divine mechanism. I will often
descend to respond to poem together. Concurrently, he asked three of them to
prepare “vegetarian party” at the
fifteenth of lunar August, At Suu year (1925) to respectfully welcome Dieu Tri
Kim Mau (MOTHER BUDDHA) and 9 fairies such as a party for living people.
However, the party was required to be pure. They did not know way of organizing
party, they discussed and invited Ms. Vuong Thi Le for her guidance. Ms. Le
descended down a séance to guide everything for way of order of solemn chairs,
table and also revealed that she was the seventh Fairy of Dieu Tri Cung.
The Seventh Fairy
descended to guide three of them that they had to pray by heart and fasted
within 3 days, to clean the home, to celebrate the ceremony solemnly to
respectfully welcome Duc Dieu Tri Kim Mau. Besides, she also asked each one to
compose a poem and had to find the Great Gem Apparatus of Séance to
respectfully invite Dieu Tri Kim Mau in ceremony.
For Great Gem Apparatus of séance, three of them did not know its
appearance. The Seventh Fairy immediately drew its image for them and also
explained clearly its origin. It was created from the image of Bac Dau Star.
She also guided way of uses.
With thoughtful guidance of Seventh Fairy, three of them were very
animated to wait for the fifteenth of lunar August to know many strange things
in invisible world.
How lucky! How mysterious! While they did not know how to find the
Great Gem Apparatus to catch the time determined, accidentally on person told them
that Mr. Phan Van Ty had it. Moreover, Mr. Ty often went to Mr. Cao Quynh Cu’s
home to talk and acknowledged that the slowness in using séance table if it was
compared with Great Gem Apparatus but Mr. Ty did not dare to give his opinion
at that time.
He was asked to lend it, he accepted happily, but he had to go to
Mr. Au Kich’s home to take back, where has kept the Great Gem Apparatus for
long time. All wonders, worries were managed easily by Mr. Ty. Mr. Ty took the
Great Gem Apparatus to Mr. Cao Quynh Cu’s home on time.
Are all things due to the predestination of divine mystery? After
three-day purely vegetarian time, at the mid-autumn, bright moon, cool wind of
the fifteenth of lunar August At Suu year, Mr. Cao Quynh Cu’s home was
decorated solemnly.
A solemn table put in the middle of house with a white carpet on
the table surface. On the table, colorful flowers were very nice. Around the
table, there were splendid 9 tea cups and 9 alcohol cups. Besides, around the
table, there were 9 cane chairs covered by white cloth. If visitor coming to
see, they would compliment entertainment
solemnly, they would not think that the party would be prepared for 9
Fairies.
Near to 12am at night, Mr. Cao Quynh Cu, Pham Cong Tac, Cao Hoai
Sang, Cao Quynh Dieu, Nguyen Trung Hau, Truong Huu Duc, Vo
After praying, they begun burning aloe wood. Mr. Cu and Tac sat
down to hold the Gem Apparatus. The Gem Apparatus moved strongly and fast. Duc
Dieu Tri Kim Mau descended down with salute to present people and taught about
morality, way of religious cultivation, also promised to descend often to teach
Mr. Cu, Tac, Sang.
Duc Dieu Tri Kim Mau ceded the Gem Apparatus for 9 Fairies. 9
Fairies gradually descended down with salute to them. Especially, before
sitting to attend the party, the Seventh Fairy descended to ask three of them
to have to held a concert to offer to Duc Dieu Tri Kim Mau and 9 Fairies
(because they were good at music). Then they had to recite their ready poem.
The party was going to begin, Seventh Fairy asked three of them to
sit down same table to enjoy the party with Fairies, however three of them
denied, they did not dare to sit down same table. The Seventh Fairy invited
many times, three of them had to take three chairs put after 9 ready chairs,
then they sat to attend the party with 9 Fairies.
The banquet on fifteenth of lunar August At Suu year (1925) may be
considered as the first banquet between living people and 9 Fairies, named Hoi
Yen Dieu Tri Cung. Nowadays, with annual routine, the fifteenth of lunar August
of every year coming, the Caodaism Sacerdotal Council of Tay Ninh Holy See
always organizes the Great Ceremony of Hoi yen Dieu Tri Cung at the MOTHER
BUDDA Temple very solemnly and to commemorate Duc Dieu Tri Kim Mau and Nine
Fairies with great pains guide Dignitaries of Hiep Thien Dai (Palace of Divine
Alliance) in the beginning of embryo Great Way.
There is a rare issue happening that toward the world and all
previous Religions, there has not been any banquet organized with invisible
souls. That banquet just happens in the Caodaism only.
This is also a favour for
The wishes of Mr. Cu, Tac, Sang were sympathized, Mr. A. Ă. Â
descended down to reveal the miraculous mystery in invisible world gradually
for three of them for foremost future situation of
Events which are necessary will have to happen naturally. At night
of 27th October At Suu year, Duc Dieu Tri Kim Mau descended down to
teach: three of them must “Petition to
the GOD for a Religion”. On 1st November At Suu year (18th
December 1925), it made three of them amazed because they had been enjoying the
time of responding to poems between living people and Fairies, between the
visible world and invisible world night by night to study things belonging
invisible world. When hearing the phrase : “Petition
to the GOD for a Religion”, three of them felt worried and very afraid
because they had never thought they would have spread the religion. However,
the guidance of Mr. A. Ă. Â trained them to understand thoroughly useful
morality for the future.
At night of 1st November At Suu year (18 December 1925),
three of them worn black long dress with a black turban on head solemnly stood
at the middle of yard with 9 incense sticks in hands and prayed that: we are
Cao Quynh Cu, Pham Cong Tac, Cao Hoai Sang bowed down to the GOD to be blessed
for three of us in order to give up the wrong way to return to right way in
front of compatriots coming around. There was a difficult thing that at the
time of taking an oath, three of them could not know who Mr. A. Ă. Â was.
They just obeyed the order of Mr. A. Ă. Â to carry out.
At 12am, three of them smoked by aloe wood to be pure, to sit at
the séance table. The Gem Apparatus of séance moved lightly, Mr. A. Ă. Â
descended to teach: “SUPREME BEING as
Caodaism Immortal – Great Bodhisattva – Mahasattva. If you want to be taught
Tao by ME, you must call ME as “MASTER”
from this time in calling conveniently, and I call you as “children”. I want you to propagate the
The His Holiness CAODAISM GOD taught: “For everything, I stay next to you, on condition that you agree to do
by your heart, there is nothing happening”. Three of them agreed and
petitioned to His Holiness Caodaism about way of worship.
After ceremony “Petition to
the GOD for a Religion”, Mr. Cu, Tac, Sang respected His Holiness CAODAISM
GOD very much and took care of cultivating nature and heart, of morality hard.
The rumour spreaded everywhere that there was the GOD descending
the earth to found the Great Way-Third Period-Universal Salvation. This event
drew a new step of progress for Caodaism founded on
“Not to differentiate the name to be in the same roof,
Going with same Religion, it means getting one FATHER.
Keeping the benevolence and righteousness of one hundred years,
Teaching together one word harmony.
Before mysteries showed by His Holiness Caodaism in guiding Mr. Cu,
Tac, Sang in recent time created an absolutely respectful belief to His
Holiness Caodaism.
The Noel came (24th December-1925), three of them
celebrated a séance and His Holiness CAODAISM GOD descended to teach:
“Thousand years, the God manages the Universe,
Leading the religious life to rejoice the Holy Favour.
Mysterious Religion is blessed on over the world,
Name will be kept handled down forever.
Tonight, you have to be happy because it
is a day I went to the earth to preach in
At night on 18th January 1926,
His Holiness CAODAISM GOD descended to teach: Mr. Pham Cong Tac and Mr. Cao
Quynh Cu had to take the Great Gem Apparatus of séance to the house of Mr. Le
Van Trung (Upper House Council at the Testard street, Cho Lon) and to hold the
apparatus of séance so that His Holiness CAODAISM GOD taught Mr. Le Van Trung.
This is a very difficult issue for Mr. Cu and Tac because they had eve known
Mr. Le Van Trung. Moreover, Mr. Le Van Trung was a very superior and ascendancy
officer. Due to the strong belief, two of them obeyed the holy order of His
Holiness Caodaism. How honorable! Two of them has just entered the house, the
servant replied to Mr. Trung that there were two strange visitors coming. Mr.
Trung immediately welcomed and invited the visitors. Mr. Cu and Tac began to
report about the event of His Holiness Caodaism teaching to come here to teach
Mr. Trung. He had just heard two words Caodaism, he was very glad to listen
attentively, for each speech of report by interesting and respectful spirit. He
agreed to celebrate a séance at his house without any hesitance.
After the friendly meeting and discussion
under the consideration of Mr. Le Van Trung, that helped Mr. Pham Cong tac
respected His Holiness Caodaism more. At the fist time, Mr. Pham Cong Tac was
nervous when entering Mr. Trung’s house. However, after contacting Mr. Trung,
Mr. Tac recognized that Mr. Trung also respected His Holiness Caodaism and Mr.
Trung also showed the friendship to Mr. Cu and Tac as mutual brothers.
After that, Mr. Le Van Trung decorated
his house, set up an altar, bought incense, lamp, flower, tea, alcohol
thoughtfully to wait one day to perfectfully welcome His Holiness Caodaism
descending down. On the fifteenth of December At Suu year (1925), one séance
was cerebrated very solemnly at Mr. Trung’s house under his absolute respect
trained for long time. His Holiness Caodaism descended to teach: “I have asked Ly Thai Bach to guide you for
long time for séances at Cho Lon. Trung! Do with your whole heart! The life
is also due to MASTER, the death is also to MASTER, the success is also due to
MASTER, you use your wisdom to consider it.
One sky, one earth, one personal house,
Guiding human beings into good path.
Holding the heaven mechanism to save man,
Be glorious for humanity to become an immortal.
The teachings of His Holiness of Caodaism
were carried out seriously by Mr. Le Van Trung. He impressed on his memory and
never ignored missions. Foremost mystery of His Holiness Caodaism was blessed
for Mr. Trung to have good eyesight from his blind eyes. His eyes had been
blind for long time that famous physicians always treated his eyes
whole-heartedly but there was no result. Nowadays, according to the divine
mystery of favour of His Holiness Caodaism, he could recover the status of his
eyes. That was a divine mystery, an encouragement that Mr.Trung always
remembered forever. Therefore, His Holiness Caodaism taught: “Trung! You should reply on your eyes to
considerate…”. With the belief for His Holiness Caodaism, Mr. Trung was
determined to arrange his home issues and to apply the resigned form for
position of Upper House Council, to volunteer to leave life for serving the
Tao. That is an action happening rarely in the officialdom. He Mr. Le Van Trung
cooperated with Mr. Pham Cong Tac, Cao Huynh Cu, Cao Hoai Sang to go around
provinces to preach in salvation policy. He gradually became a superior
dignitary of Caodaism Sacerdotal Council of Tay Ninh Holy See. His Holiness
Caodaism concurrently taught more: “Trung!
You must forward opening MY new religion founded in third period under Caodaism
name with using the Divine Eye representing the GOD under religious name
On February in 1926, Mr. Pham Cong Tac
and Mr. Trung, Cu, Sang, Hau, Duc went to the house No.: 110 Boudais street,
Saigon to reply on the help of Mr. Ngo Minh Chieu about guiding more to worship
the Divine Eye that the revelation was for Mr. Chieu seeing the Divine Eye
representing the GOG in 1921. Mr. Chieu drew the Divine Eye to respect and
worship. Under the séance, two groups of the GOD had a change to meet in a friendship as
brothers at the house of Mr. Chieu and to assign the responsibility in
propagating the
His Holiness CAODAISM GOD is the lord of
universe. He loves
The Great Way-Third Period-Universal
Salvation named as Caodaism founded on Vietnam is not a random but it is due to
the Divine Book determined under a very secret and mysterious cause that the
earthly mind can not examine while previous Religions have ever showed
predictions proving that the GOD, the LORD of Universe would found a New
Religion named Caodaism.
Only boundless love of His Holiness
Caodaism just created an advantage situation for two Caodaism groups under the
same training to absolutely obey His Holiness Caodaism’s teachings.
At the Eve of New Year of Binh Dan year
(18th February 1926), according to the order of His Holiness
CAODAISM GOD, Mr. Ngo Minh Chieu with Mr. Cao Quynh Cu and Mr. Pham Cong Tac
had to take the Gem Apparatus of séance to go to each house of fist disciples
so that His Holiness Caodaism gave a spring poem to each one to predict their
moral nature. Firstly, they went to Mr. Vo Van Sang’s house. After the host had
burnt incense and prayed, Mr. Tac and Cu held the séance apparatus, His
Holiness Caodaism descended to give a poem:
New citizen happily sees new year,
Third Period-Universal Salvation with good men.
Intend to follow the true doctrine by heart,
Ascend heaven by living on earth in naturally.
After the poem given by His Holiness
CAODAISM GOD, Mr. Ngo Minh Chieu expressed congratulations of new year for Mr.
Vo Van Sang’s family, then took leave of Mr. Sang to go to houses of other
disciples. In that way, Mr. Chieu, Cu, Tac went to one by one so that His
Holiness Caodaism descended the séance apparatus to teach with congratulations
of new year for each family. They had to go to 12 families enough of Caodaism
disciples in order to go back. The disciple families always received precious
speeches of His Holiness Caodaism for teachings and predictions for the future
of religious life of each disciple just by a short, profoundly meaningful and
subtle poem.
On 11th March Binh Dan (14 April
1926), Mr. Pham Cong Tac was nominated as a position “Ho Gia Tien Dong Ta Co
Dao Si” with Mr. Cao Quynh Cu, Cao Hoai Sang,…by His Holiness Caodaism. Mr. Cu,
Tac, Sang, Dieu, Hau, Duc,…had to respect Mr. le Van Trung as a brother and had
to respect Mr. Ngo Minh Chieu as an eldest brother. His Holiness Caidai GOD
taught:
“Disciples!
Listen!
Chieu had promised to preach the To to save living beings, now you must
carry out your promise to guide MY disciples into the moral way till their
foundation of religion. Should not deny! You must represent ME to teach them.
Listen and obey!
Bang, Sang, Giang, Quy! Try to cultivate yourself about the moral path to
preach all living beings. Listen and obey!
Đao! You must attend here to help Trung. Listen and obey!”
Mr. Đao respectfully replied: “MASTER! I have to take care of Minh Ly
Council”.
His Holiness CAODAISM GOD taught: “same origin, it replies on your decision, do
blame MASTER later!”.
“Duc!
Practice the séance apparatus, Hau! Practice the séance apparatus to follow
brothers to preach other ones later. Listen and obey!”.
Are the teachings of His Holiness Caidai GOD a
divine order of nominating first disciples with different duties for each
disciple of two Caodaism groups trained by His Holiness CAODAISM GOD for long
since to unify together to take care of one responsibility in preaching Great
Way to make the name of Great Way-Third Period-Universal Salvation brilliant.
That is really a divine order of nomination
of His Holiness CAODAISM GOD. The first disciples did not deny without
envy. They just absolutely obeyed the divine mysteries given. Number of people
following Caodaism increased manifold to cause worries for dignitaries because
there was no place of worship and no legality in preaching easily in provinces.
Therefore, they celebrated a séance for teachings of His Holiness CAODAISM GOD.
His Holiness CAODAISM GOD taught: “You go
to Gia Hai pagoda to meet Nhu Nhan monk to be satisfied”. According to the
teaching, a Caodaism Dignitary delegation was appointed to meet Nhu Nhan Monk
with a warn entertainment. The issue was expressed in detail, Nhu Nhan Monk
agreed to lend the Go Ken Pagoda (Tu Lam Tu which was building in Tay Ninh
province was in stage of finishing wall and tiling brick. When finishing, it
could be used). The elder brother Chanh Phoi Su (Principal Archbishop) Thai Tho
Thanh undertook responsibility of amending Go Ken pagoda considered as a
On
29th September 1926, Mr. Pham Cong Tac with first disciples
including 27 persons signed (on behalf of 247 persons attending in assembly) on
the petition form of opening
At
that time, the
Disciples
took care of amending, painting the Go Ken pagoda (Tay Ninh) solemnly daytime
and at night to catch the day of Inaugural Celebration for Go Ken Caodaism
Temple on the fifteenth day of October Binh Dan year (16th November
1926). From the 1st October Binh Dan year, the Caodaism Sacerdotal
Council gave an injunction for all Dignitaries of provinces to provisionally
stop preaching in order to assemble to the Go Ken Caodaism Temple (Tay Ninh) to
take care of great inaugural Celebration and to commemorate the day of founding
Great Way-Third Period-Universal Salvation. About this memory, His Holiness
CAODAISM GOD taught:
“Children!
I have founded a
I combine
Three Religions to found the New Law, in this fifteenth of the lunar October,
there is great ceremony of Three Religions at the
The revision of rites and
worship according to Third Period - Universe Salvation also appears from that,
know clearly!
I gather
Five Branches[1] to make one with the
primary intention to gather you together in MY Religion to enter one house. I
am a father administrating all, understand!
From this
time, in this Southern country, just one truthful Religion is MY Religion only
that I come to found for you , called “NATIONAL RELIGION”, understand!
I have to
force you to unite efforts to take care of religion, know!
From there,
you will be harder, because I assign the obligation for each disciple, if not,
you envy together as dividend of camp and branch, those are great guilt to ME,
listen!
You must stop everything to take care the
great ceremony together”
When receiving the precious speeches
of His Holiness CAODAISM GOD with teachings and guidance for each facts,
thousands of Caodaism disciples co-acknowledged the importance of fifteenth of
October, Binh Dan year as a great ceremony of First Anniversary of Opening
Great Way-Third Period-Universal Salvation in
His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac often reminded disciples: “The Caodaism is founded for
His Holiness Ho Phap replied for one question of His Holiness
CAODAISM GOD: “MASTER! Ask me to be Lao
Tzu or Jesus or Sakyamuni, I can do it. I am just Pham Cong Tac only. I think
that for talentless, immoral nature, I do not stop to follow MASTER, however I
think it is still not useful for MASTER”.
His Holiness CAODAISM GOD taught: “Tac, if I use the nature of Pham Cong Tac to found the religion, what
do you think?”
His Holiness Ho Phap respectfully replied: “If it is possible…”
His Holiness CAODAISM GOD continued to teach: “I come to found a National Religion for
After hearing, the spirit of His Holiness Ho Phap seemed to wander
among space because of hearing a thing that he have ever wished. His Holiness
Ho Phap could not refused because two word National Religion with many powers
was really for
From this time, races are
not divided into three regions,
I gather you in one roof.
After South and North then preach missionary on other foreign countries,
The power of truthful religion will be managed by ME only.
First verse: not about
division of three religions of
Second verse: the MASTER
governs the power in unifying Three Religions as a True Doctrine-National
Religion. It is not only for
Third verse: The great way
is preached in South, Middle and North, then preached abroad.
Fourth verse: His Holiness
CAODAISM GOD governs
The Caodaism Sacerdotal
Council intended the inauguration of Go Ken Temple within 3 days because of
ability of limited finance, they did not dare to invite many visitors.
Moreover, the Colonial French kept track to prevent in causing troubles. But
the Great Ceremony of Inauguration
lasted naturally over 3 months. The compatriots, democratic
personalities, intellectuals, journalists, full of ranks, full of belief ranks
and conceptions converged to Go Ken Temple to contemplate the ceremony of
worshiping His Holiness CAODAISM GOD and concurrently welcomed new religion
just founded in
Concurrently, the colonial
French incited Buddhists to hurriedly submit to expel the Caodaism Sacerdotal
Council out of Go Ken pagoda. They purposefully made the Caodaism disciples
fallen into the toxic and deep forest, poisonous atmosphere to be consumed strength
gradually with poisonous intention of eradicating rebels raising in future.
Facing on pressure of expelling out of Go Ken pagoda, while the Sacerdotal
Council was worrying in moving, His Holiness CAODAISM GOD and His Holiness Ly
Tai Pei descended to teach: “Sacerdotal
Council, go to Ca Na pond, Long Thanh commune (
His Holiness Ly Tai Pei
descended to teach: “Nowadays, I
determined to leave Go Ken pagoda, you must return this pagoda to them.
However, before returning to them, you must build a
The
The conference of way of finding Long Tuyen Kiem under the guidance
of Eighth Immortal of Jade Lake Palace ended: found a delegation including 36
strong dignitaries, sub-dignitaries and disciples volunteering to use canoe.
The retinue had Elder Brother Le Van Trung, Nguyen Van Chuong (after that, he
became a Finance Manager of Religious Province of My Tho. Mr. Le Van Trung
became a Manager of Charity Body of mankind). On 6am, His Holiness Ho Phap
guide whole delegation into Kho Hien Trang Temle to kowtow SUPREME BEING to
pray about journey of finding Long Tuyen Kiem successfully. After breakfast, on
8am of 28th February Ky Ty year (27 April 1929), His Holiness and delegation
went by 12 canoes directly alongside a river to the Thay yen market and stopped at Lang Cat. Whole delegation disembarked
and splited trees, reeds, Malabar almond trees to create a path to Lan mountain
which had just raised up the face of earth. The guide going first had to hold a
long string so that the delegation behind could gradually follow up the trace
because of grass and tree growing over head of people, they could not see
together. Just about 700 meters (as the crow flies), the delegation had to
overcame slowly and hardly by passing a mud maquis with alum water. They had to
spent about one hour to go to the hillock of Lan mountan. His Holiness asked to
take a rest for a séance, whole delegation prayed to Superiors by their
heart for delegation soon finding the
position of Long Tuyen cached. The retinue was digging deeply within one hour
hardly. Until they touched the hard stone, they continued to dig through the
layer of hard stone with their will. After that, they gained one pot like a
thing of people eating betel, one rust knife edge, 6 Chinese chesses made by
elephant’s tusk, 6 zinc coins belonging Minh Mang king dynasty. Whole
delegation felt glad and they determined to find Long Tuyen Kiem. Nobody told
nobody, they tried to dig more and gained one leaden box with estimated 9
inches of length. The pleasure was wordless after gaining the box over face of
earth. It was washed cleanly. His Holiness Ho Phap taught: Long Tuyen Kiem
inside the box. His Holiness Ho Phap gave an order to cover carefully to take
back Holy See. His Holiness concurrently nominated the delegation to dig a
waterway from the top of Tram Sap through the top of Long Tuyen Kiem in order
to exterminate the charm of Geographical Shaman of China. While the delegation
was digging the waterway, His Holiness taught: “Today is memorial date of
In the independent circle of France in 1929, His Holiness Ho Phap
could do an extraordinary and rare thing on the earth that he led the Caodaism
delegation in finding Long Tuyen Kiem at Lan mountain and predicted solemnly
that: “Vietnam race will have appearance
of many talents, the slavish regime will be gradually removed to destroy the
cang without dependence”. At that time, the declaration of His Holiness Ho
Phap showed the patriotism heart in front of danger of colonial
On June 1927, His Holiness Ho Phap had a journey to
On 16th June 1928, the daily newspaper of France Les Annales
Coloniales published an item of Parliamentarian Edward Neron, Nauteloire with
information: “there will have a new king for
Mr. De La Brosse, the Governor of Southern Vietnam, he also
represented for Monivong king of
This is the trick of colonial
On 1st July 1931, the magazine Midi Colonial published a news: “one
real danger for administration in
On 25th February 1932, His Holiness nominated a Caodaism Dignitary
delegation to meet Mr. Erney Oustrey for his help to interfere to the French
government so that the Caodaism Religion could be free in belief as his item
published on the magazine Midi Colonial dated 18th July 1931.
Moreover, at that time, the colonial
- Mr. Bonvicini, Opinion newspaper.
- Mr. Vabols, Courrier De Saigon newspaper.
- Reporter of
- Lawyer Diep
Those poisonous schemes had not happened yet for true doctrine of
SUPREME BEING, they suffered a defeat by Divine Power of SUPREME BEING with a
person holding law solemnly such as His Holiness Ho Phap.
On 9th October Quy Dau year (26th November 1933), one more play
happened. Under external support, Giao Huu[10] Thuong Bo
Thanh joined hands to canvass 800 “ghost” delegates to found Hoi Nhan Sanh[11] suddenly
with a scheme to disturb when kowtowing SUPREME BEING. The Disciples detached
not to let them enter Holy See, therefore 800 “ghost” delegates endured
kowtowing on the yard to do rites even two persons Le Sanh (Student Priest of
Taoism) Thuong Thich Thanh and Chanh tri Su (Principal Sub-dignitary) Nguyen
Van Hoi helped with their enthusiasm, the doors of Tay Ninh Holy See were still
close, therefore no ghost could enter the Holy See. Is it due to the Divine
Order dated 28th July 1933 of Caodaism of Tay Ninh Holy See issued to stop
power of two persons Dau Su Thuong Tuong Thanh (Cardinal of Taoism), Dau Su
Ngoc Trang Thanh (Cardinal of Confucianism) and is it a reason that Priest
Thuong Bo Thanh disturbed on 26th November 1933? The Student Priest Thuong
Thich Thanh and Principal sub-dignitary Nguyen Van Hoi were pitiable victims under sorcerer hands
inciting that all dignitaries and disciples in Holy Land of Tay Ninh Holy See
always understood thoroughly. At that time, some Dignitaries of Hiep Thien Dai
(
First time, His Holiness gave an order to canvass 500 workers and
volunteers. Especially, His Holiness asked them to “Take an oath” submitting to
Sacerdotal Council that joiners, painter, masons and volunteers did not get
married to maintain chastity during time of building the Holy See. His Holiness
Ho Phap ordered to begin building the Holy See with pleasure of Sacerdotal
Council and all male and female Disciples on 1st November Binh Ty year (14th
December 1935). There was a worthily attentional point that for the work of
Holy See, there was no anticipated fund, no designed diagram, no architect. It
was just replied on guidance of His Holiness Ly Tai Pei descending to teach His
Holiness Ho Phap for each part of Holy See, then His Holiness Ho Phap guided
workers an volunteers. The Holy See was gradually completed. The Elder Sister
Lam Huong Thanh spoke to His Holiness Ho Phap: “I tell you truly, I have nothing now”. After some minutes of
thinking, the Elder Sister went right to a room to take a small iron box
containing full gold and diamond inside (jewellery given by her mother and
relative) and gave to His Holiness Ho Phap with speech: “You use it provisionally to build the Holy See”. If that jewellery
of gold and diamond was pawned somewhere with an amount one
hundred thousand VND. His Holiness Ho Phap thought that if this jewellery
could be pawned, and when redeeming back, he did not know how to do that. They
smiled together and the Elder Sister encouraged His Holiness Ho Phap: “There is the divine mystery of SUPREME BEING
above. There is the belief of HIS male and female children. You try building
the Holy See without this jewellery, believe in SUPREME BEING to continue to
build if it can be successful”.
His Holiness
Ho Phap resigned to go back with empty hands, however His Holiness Ho Phap
still believed in SUPREME BEING steadily to continue guiding workers for
building each part of Holy See and His Holiness Ho Phap did not forget
reminding that all Dignitaries and Workers had to use sparingly to take full
advantage of piece of brick. Due to economy of using materials, it made
Disciples have strong beliefs. Especially, compatriots of provinces with good
heart enthusiastically contributed service and merit and unanimously took care
of building the Holy See. This expressed the spirit of great unity, the
absolute sacrifice because of MASTER, because of the Religion. All Dignitaries
and Workers did not worried difficulties and privation of rice. They had to eat
rice gruel and vegetables day by day with no moan, they determined to complete
the Holy See soon in order satisfy the pressing wish of human beings
waiting.
Three years passed quickly, the work of
building the Holy See was going to be complete, the Governor-General Pierre
Pasquier gave an order to restrict the travel of Caodaism disciple, to restrict
kowtowing to cause an impasse of preaching and to cause the difficulty in
building the Holy See. In front of unjust actions of French government in
Indochina, His Holiness Ho Phap and Sacerdotal Council sent the complaint right
to Mr. Georges Mandel – Chief-General of Colonial Department to state the
Caodaism issue repressed and persecuted and requested him to pay attention for
these issues and permitted that Caodaism preached freely, freely built the Holy
See and freely kowtowed under name Great Way-Third Period-Universal Salvation.
His Holiness Ho Phap’s complaint was greatly effective. According to the
Chief-General Georges Mandel’s approval, he ordered the Governor-General in
Indochina in
It is thought that, Caodaism Religion did
anything wrong while the Governor-General Pierre Pasquier purposefully
repressed and destroy Caodaism, after all he had to endure a pitiful disaster.
That is a fate for him because he created a bad seed, he had to received a bad
result. The creator law is brilliant that no one can avoid that truth. The
colonial French saw the death of Governor-General to draw a lesson in using
power.
Under influence of two powers, Caodaism
Disciples had to gradually left Religion to avoid difficulties in daily life.
The Sacerdotal Council could contact with Disciples strictly as before. That
was the secret attention of colonial French applied to divide the
His Holiness shouldered bravely revenges
to preserve the material image of SUPREME BEING on the earth, to carry out love
completely. Whoever offended the Ambassadors of GOD would get a bad
consequence.
On 19th December 1931, the
daily newspaper “Progrès Civique”
smartly published on first pages: “After
The
French: “Après la France, LÁllemagne a
été la premìere à faire un bon accueil au CAODAISME. Par consequent, il faut
les laisser tranquilles, non pas seulement pour le principe par humanité et par
le respect des lois francaises mais aussi par sagesse politique, parce que leun
persecution ne pourrait que faire naitre un autre movement qui, lui, risquerait
d1être dangerous”.
His Holiness Ho Phap often reminded
Disciples: “The Caodaism can not be a
tool, a chess of any body. The position of Caodaism is the eternal, perpetual
position standing ahead and above to guide the earth, to guide human beings according
to three standards: Mercy, Love, Justice.
His Holiness predicted the danger coming to Caodaism Sacerdotal
Council of Tay Ninh Holy See. The time passed quickly. On 12th June
Canh Thin year (16 July 1940) His Holiness Ho Phap chose Elder Brother Bishop
Thai Khi Thanh (Lam Tai Khi) to be on behalf of Him when His Holiness Ho Phap
was absent. His Holiness taught morality and dark situation of Caodaism in the
future and gave a guidance: “If the
Sacerdotal Council unluckily faces on a danger, you[12]
remember to raise the Religious Flag and Chinese Flag on offices and houses in
inner Holy See of
Moreover, Elder Brother Bishop Thai Khi Thanh was friendly
acquainted with President Tuong Gioi Thach.
The Prediction of His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac happened correctly.
In 1946, the French Troop took advantage of occupied situation at
Facing on violent attacks of French Troop, it made Disciples afraid
to run into inner Holy See to seek shelter fully. For this reason, the Elder
Brother Thai Khi Thanh and Si Tai (Archivist) Nguyen Huot Hai appeared with one
Caodaism Flag and one Chinese Flag hung at the door of
At that time, a Jeep car of French Troop came to the door of
The Jeep car stopped at the door of
The Major asked: “Is there
any documentary to prove that you are the owner of Caodaism of
The Bishop Thai Khi Thanh answered: “I have enough documents
assigned by His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac, the Head of Caodaism of Tay
Ninh Holy See so that I may lead the Caodaism when His Holiness is absent”. The
Elder Brother Bishop Thai Khi Thanh’s reply made the Archivist Hai very
surprised. However, the Archivist Hai still interpreted same to the speech of
Bishop Thai Khi Thanh so that the French Major could hear clearly.
Bishop Thai Khi Thanh returned Inner Holy See to take the Assigned
Documentary to submit to the French Major.
Seeing the Elder Brother Bishop Thai Khi Thanh going hurriedly to
the Inner Holy See, the French Major followed and invited Bishop Thai Khi Thanh
to the car. They went together on the car. The French Major was very tender
that the Major stopped the car, then invited the Bishop Thai Khi Thanh, then
drove the car by himself and sat equally. The French diver sat with the
Archivist Hai behind.
When going to the office, the Bishop Thai Khi Thanh came out
hurriedly and called: “is there any one
to take me a knife?”. It caused a fear for the Archivist Nguyen Huot Hai
that why the Bishop Thai Khi Thanh wanted to do with noisy sound to need a
knife. Luckily, the Major and driver did not understand Vietnamese because they
were Frenches, no trouble happened.
The Gentle Brother Bishop Thai Khi
Thanh immediately opened the room door, took a pillow and cut out to take an
envelope containing the Divine Order of ASSIGNMENT signed by His Holiness Pham
Ho Phap.
The Archivist Nguyen Huot Hai became
secure when seeing the signature of His Holiness HO PHAP with a stamp. He
happily interpreted the Divine Order to the French Major correctly.
When the French Major saw the Divine Order
of assignment of His Holiness Pham Ho Phap signed to confirm that the Bishop
Thai Khi Thanh was the Leader of Caodaism of Tay Ninh Holy See, he shaked hands
happily with the Bishop.
On 16th June 1940, the Governor-General of Indochina
Decoux gave an order to the colonial French to close the Tay Ninh Holy See and
After His Holiness Quyen Giao Tong Thuong Trung Nhut departed the
life on 19 November 1934, there were many troubles continuously happening in
the inner Sacerdotal Council. The other Caodaism Branches went to Tay Ninh Holy
See under the support of colonial French, they overpowered the Sacerdotal
Council about many aspects, however His Holiness Ho Phap still operated the
Boat of Great Way calmly to overcome all obstacles until the day that the
Sacerdotal Council of Cuu Trung Dai (Palace of Nine Divine Planes) and Assembly
of All Creatures suggested His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac to supremely
govern Two Material Palaces: Hiep Thien Dai (Palace of Divine Alliance) and Cuu
Trung Dai on 6th November Giap Tuat year (12th December
1934). In the stage of obstacle, the Sacerdotal Council was divided seriously
because the colonial French incited and support Caodaism Branches.
One clear memory of 14 May Tan Ty year (4th June 1941),
the French Investigators entered the Inner Holy See to arrest His Holiness Ho
Phap Pham Cong Tac then to take to Girinh (Central part of Vietnam). On 17 June
Tan Ty year (11th July 1941), French Investigators suddenly broke
into the Inner Holy See second time to arrest Great Brother Khai Phap Tran Duy
Nghia (Juridical Reformer), the Quyen Thai Chanh Phoi Su Thai Phan Thanh
(Interim Principal Archbishop of Buddhism Branch), Quyen Ngoc Chanh Phoi Su
Ngoc Trang Thanh (Interim Principal Archbishop of Saint Branch), Bishop Thai
Gam Thanh, Si Tai Do Quang Hien (Archivist) then to take to Saigon and
confined. Until 27th July 1941, Five Great and Friendly Dignitaries
of Pham Ho Phap could meet His Holiness Ho Phap on the way to seaway vessel at
the Nha Rong port with 12 Political Prisoners to increase 18 Political
Prisoners. They were taken to Madagascar in Africa. After many days on the sea,
18 Political Prisoners were taken to Comores prison belonging Northern
Madagascar and they met 11 Vietnam Political Prisoners. Totally, there were 29
persons including Communist Party Members accept for Nguyen The Truyen, Nguyen
The Song belonging International Members and 6 Caodaism Dignitaries.
The French Governor-General of Indochina imperiously declared to
the Press Reporters: “Should I have listed them to the Holy Martyr, by the an
occasion of a vessel of Station Soldiers Diogo Saury of Madagascar, I send Mr.
Pham Cong Tac and His retinue to reside eternally!” The satirized and haughty
speech of French Governor in Indochina obviously revealed the real nature of
destroying policy toward Caodaism Religion that 6 Dignitaries mentioned were
victims.
The daily life of 29 Vietnam Political Prisoners at the Noay Leva
Comorres prison contained the humanity without discrimination about Religion,
Party. They just considered together as miserable persons under French Colony
Governor. However, in the dependent prison, their spirits became nervous with
discussions about Nation-Communist, but everything ended under an affable concession
well.
The world situation changed rapidly. In 1942, this number of
Political Prisoners was changed into the South of Madagascar. The Chief of
Prison, Major Freydier took 27 prisoners (two persons died) on the truck to
leave the Noay Leva Comorres from the North to South of Madagascar in six days
of daytime and night under fearsomeness. Two trucks carried 27 Vietnam
Political prisons. They had to cross a river by a ferry-boat to coffee and
sugar cane plantation of Frenches to stop at the Voutrouzou prison. The Major
Preydier ordered 27 Political Prisoners to enter the Voutrouzou of Southern
Madagascar. The life seemed better than the Noay Leva Comorres prison of
Northern Madagascar.
On January of 1943, the Major Freydier welcomed the United Kingdom
Officer Delegation visiting the Communist Political prison with the friendly
welcome of Party Members of Communist within one hour. In addition, 4 Party
Members le giang, hoang huu nam, dinh cong hoat and nguyen van ngoc left the
Voutrouzou prison.
The international situation changed rapidly. The French Governor
exiled under the de gaulle Leader handing over the Madagascar Isle to United
Kindom Government.
Under the United Kindom Government, the daily life of 27 Vietnam
prisons became better than French Government.
Soviet Union drove Germany out Leninggrad. After three weeks, one
Allied Military Delegation under the Delegation Chief of United Kingdom Officer
went to the Voutrouzou prison and kindly contacted the Members of Communist
such as Le Giang, Hoang Huu Nam, Nguyen Van Ngoc, Dinh Cong Hoat. The meeting
between the Allied Military Troop and 4 Communists at the Voutrouzou prison
lasted 4 hours with a seminar. The Allied Military Troop went back with 4
Political Prisoners Le Giang, Hoang Huu Nam, Nguyen Van Ngoc, Dinh Cong Hoat.
Four Communists Le Giang, Hoang Huu Nam, Nguyen Van Ngoc, Dinh Cong
Hoat were taken to learn a Military Course at the Calcutta in India by the
Allied Military Troop. These members were taken to the Indochina in September
1944 by the Allied Military Troop, in order to parachute suddenly to the War
Zone of Cao Bang province of Northern Vietnam to contact with the French
Resistance against the Japanese Fascist with a purpose releasing French
Soldiers kept at the war zone of Cao Bang province by the Japanese Troop.
Later on, it was known that the Party Member Le Quang was assigned
as a first Director of People Police of Ho Chi Minh Government. It was also
said that Mr. Le giang was promoted to the French Highest Member of Vietnam –
Democracy – Republic.
Among 27 Political Prisoners living at the Voutrouzou prison, His
Holiness Ho Phap Pham Cong Tac was an affectionate person because His Holiness
Ho Phap had many initiatives helping Compatriots of Madagascar still living
backward without knowledge of using the rice motor as used in Vietnam
conveniently. They stopped way of old way used by Madagascar Compatriots.
The Madagascar Compatriots were in drought danger toward dry wells,
His Holiness Ho Phap showed the Compatriots with method of taking water from
revulet by bamboo culinders joined at mountain side right into their village.
They could overcome the drought.
The Madagascar Compatriots had been living the regime of French
Domination and at the moment, the United Kingdom was administrating. For that
reason, the Provisional Government of Madagascar sympathized 23 Vietnam
prisoners in Madagascar very much. They wanted these persons to return Vietnam
soon with their family. Therefore, the Minister of Diplomatic Department of
Madagascar used to mention and remind the French Ambassador at Madagascar to
take car of means for 23 Political Prisoners to leave Madagascar as soon as
possible.
Until midyear of 1946, there was a French business vessel arrived
at the Military Port Diego Saurez to take 23 Political Prisoners to Vietnam.
His Holiness Ho Phap’s sufferings at that time was about His 6
junior Dignitaries exiled at MADAGASCAR in 1941. When going back to Vietnam, 4
juniors could go back, other Bishop Thai Gam Thanh and Archivist Do Quang Hien
died in strange land with their bone at the Madagascar Isle.
The business vessel taking 23 Political Prisoners just arrived at
the Saint Jacques (Nowadays, it is Vung Tau), the French Government of
Cap-Saint-Jacques province went to reach the station to welcome His Holiness HO
PHAP for mainland. 22 Political Prisoners were taken to Nha Rong Station of
Saigon.
His Holiness HO PHAP took a rest for three days to wait the Saigon
airplane to take His Holiness HO PHAP from Vung Tau to Saigon discreetly
without information for SACERDOTAL COUNCIL and Disciples. However, the
SACERDOTAL COUNCIL got news and immediately appointed some Dignitaries to go to
Saigon welcome His Holiness HO PHAP coming back. His Holiness HO PHAP resided
provisionally at the Archivist NGUYEN VAN HOI’s house.
The FRENCH Government worried much that Caodaism Disciple would
demonstrate against FRANCE when His Holiness went back to Saigon. Therefore,
they discreetly took His Holiness HO PHAP to the personal house of Archivist
NGUYEN VAN HOI at the Colonee Grimand street (Peaceful Market, Saigon).
Hearing sound of car in front of house, the Dignitaries welcoming
His Holiness HO PHAP, appointed by SACERDOTAL COUNCIL ran out to meet His
Holiness HO PHAP. TEACHER and STUDENTS embraced each other happily in drops of
tear without speaking in touched passion after 5 year, 3 months, 2 days.
His Holiness stayed provisionally at the Archivist NGUYEN VAN HOI’s
house to wait the Elephant Voyage (there was only one voyage from Saigon to Tay
Ninh celebrated by FRENCH Troop) to go with the FRENCH Troop because on the way
from Saigon to Tay Ninh, Viet Minh often stopped and burned cars continuously.
His Holiness HO PHAP went back to Tay Ninh Holy See on 22 June 1946
welcome by Dignitaries and Disciples fully after many distant years. At the
Central Temple of Tay Ninh Holy See, seeing compatriots and disciples living
under two dangers of FRANCE and Viet Minh with intermediate Caodaism Soldiers
made His Holiness very broken-hearted. When His Holiness went back Tay Ninh
Holy See, ten thousand Disciples, male and female Dignitaries and Caodaism
Troop welcomed His Holiness Ho Phap solemnly. His Holiness moaned that: “lack 1 year, 10 month, maybe the suffering
of Vietnam race ends, we can not change the law of divine justice. That is a
certain thing”.
Whole Sacerdotal Council and Disciples could not understand
thoroughly the “prediction” about
fortune of Vietnam after 5 years, 3 months, 2 days in prison in Madagascar of
Africa. Did His Holiness Ho Phap predict for Sacerdotal Council, Dignitaries,
male and female Disciples to know that: His Holiness will have to endure one
more suffering in exile and will the carnal body in foreign country as Van
Vuong had to endure the suffering accident in 7 year in Vu Ly and founded Chau
dynasty. On 16th February 1956, His Holiness had to endure one more
suffering accident, His Holiness volunteered secretly left the Tay Ninh Holy
See with some confidential dignitaries to go to Cambodia where His Holiness has
ever suggested the Policy of “Coexist peacefully” to harmonize two parties
Communism and Capitalism that both of them were children of SUPREME BEING, they
had to soon love together and yielded in brothers relation. His Holiness did so
and departed the life on 17th May 1959 with His last words: “I endure the situation of national division
of Southern and Northern Vietnam, I have predicted already, what needs to
happen will happen, the motherland is not still in union, there is nothing to
return hurriedly. Therefore, be calm to wait a distance to see the divine
mechanism changing, making advantage for Vietnam about Spirit aspect”.
His Holiness usually reminded and taught Disciples: “Nowadays, SUPREME BEING, the SUPREME GOD
comes to found Caodaism Religion. It means to bring here a high see and great
belief on this earth to create foundation of Great Way-Third by replying on low
race in Orient named Vietnam to match with prediction “Tao comes from Orient”,
to be similar to Divine will of pampering in noble nature to found Caodaism
Sacerdotal Council named a Image of MASTER in order to hold the club of thunder
drum to call souls, to hold steadily pestle of White Jade Drum to release gas
in order to fix mind so that it makes SUPREME BEING’s children awoken to see
together to return the old roof. Although the MASTER papers nobly to create an
example for Sacerdotal Council. Expectedly, it is examined that the MAASTER
avoids a humble body of life of a man. The MASTER comes this earth with a
divine, mysterious form. There is no image but it can make us see, there is no
voice but it can make us hear. The MASTER hands over us whole HIS power to
operate the Religious knot. That power impacts on the Religion very much. The
MASTER uses the conscience miracle, the love power to make the humankind see
MASTER clearly so that they acknowledge together in the MASTER’s Divine Favour
to love peacefully in union: “Union Peace! Union Peace!” are two gem speeches
of MASTER put in the heart of each man. We know the union peace, then to create
the union peace for society, then to make a brilliant example to spread that
noble thought on over the world and humankind to be enjoyed the concord union
peace. That is the greatest and the most significant responsibility that the
MASTER has assigned us. If we do not consider the importance of that
responsibility because of position and fame, interest in hate, in denying
MASTER, betraying friends, are we worthy to be a child, a slave of MASTER?
The MASTER worries the
earthly heart, secular nature of man, HE has set up the strict law to force
whole Sacerdotal Council to assembly to be a great family. About the law, there
is the New Code. About the dharma, there is the Religious Constitution. About
the power, there is Three-Religion Court. Those are the clarion, stick, divine
fence which are driving whole flock of believer in unifying. How pitiful! The
tender of believer does not know the way of whistling, the flock of believer
does not scare the stick, the fence is so sparse that the wolf brings MASTER’s
believer away and tears the body to pieces!
As the Sacerdotal
Council has not become a Sacerdotal Council in the true sense. The nominated
dignitaries are unuseful with a shadow without an image such an extent that
MASTER’s body does not have enough power to operate the Divine Plan to fight
against the devil planning in damage. For the Divine Messages of MASTER
teaching us from the beginning time until now, it has become the true dharma,
new dharma while the human beings have not understood thoroughly. Many
disciples replying the nominated position use evil heart to degrade, not to
preach the good speeches causing the pious believers to miss the true way. If
the Religious mechanism is like this, we will have no hope in carrying out
doctrine of universal salvation for human beings and in founding the good image
of Caodaism. The Caodaism has the material dharma as an external appearance,
and it has the secret dharma as the content while the material dharma cannot be
done from 3 items from 10 items and nobody understands the secret dharma thoroughly.
This issue makes Caodaism unavailable in front of human beings, the belief more
and more reduces so that other Religions criticize the true doctrine of
Caodaism that the enthusiastic and pious people are reserved for truth and
falsity. For that reason, many Immortals, Buddhas descending in Europe have
predicted the true doctrine of Religion. Only the steady people with good cause
enter the gate of Caodaism. The trial for Caodaismm is really happening so.
I think that we have
received a great responsibility in religious life. If we do not have a capable
heart to examine ourselves, there is no way to examine the other ones. I tell
clearly that it is due to our faithful heart, which is still weak not to use
the just heart to operate the true religion with timidity in order to be a bad
sample for people. The fame, faction with personal power are also from that.
Our body has two persons: Self, Dignitary nominated named a salve of MASTER.
For us, even we beaten to a pulp for a superfluous life, there is nothing
damage, there is just the damage for divine duty. If we do not know the dignity
to fulfill that duty to preserve the general property of all human beings named
the present religion-Caodaism, how serious is the sin in front of the MASTER?
Therefore, we must
cooperate strength together not let determinedly any one break our power
because our power is the power of MASTER even the Sacerdotal Council has just
one disciple, the Sacerdotal Council must reserve the power of Sacerdotal
Council due to each situation to preserve the Religious Flag of MASTER named
the Holy See. We try to carve a superb Caodaism in the top of East in Vietnam
as a brilliant light in union peace of whole world”.
It is thought that over 50 years, His Holiness Ho Phap taught:
recommend all dignitaries and male and female disciples to love and unite
together, behave fairly to preserve the work of real Great Way. His prediction
is forever remembered in mind of each Caodaism disciple eternally…The main
purpose of Caodaism is to take care of freedom, happiness for all people. For
that noble reason, His Holiness has sacrificed. Due to unfairness, SUPREME
BEING descended in a séance to teach: “whenever
unfairness still happens on this earth, the Religion is not complete yet”.
His Holiness Ho Phap always taught dignitaries and disciples:
I. METHOD OF TRAINING THE SELF
TO ENTER THE THIRD GREAT WAY-THIRD PERIOD-UNIVERSAL SALVATION
·
Be closely related to all beings,
to seek the source of all living creatures and spirits.
·
Be graceful and tolerant.
·
Be free in your mind, never selfish.
·
Be serene, do not be influenced by bad or good
luck/karma,
sorrow or joy - ultimate being, accept happiness and sorrow ,
but do not let the poisonous barbs of happiness and sorrow
permeate your true nature.
·
Be generous, considerate and forgiving.
·
Be cheerful, moderate, self controlled
and decisive.
·
Conscience is the principle for all.
·
Have filial piety to God and the Holy
Mother.
II. METHOD OF
CULTIVATING THE HEART-MIND
AS IT IS THE IMAGE GOD'S CONSCIENCE
·
Faith and wisdom are the most valuable
treasure;
anything else is wasteful.
·
Those who hate their enemies
cannot be calm and impartial persons.
·
Those who do not hate will win over their
enemies.
·
Hatred is the greatest sorrow of human
beings.
Therefore, a true person (good person) never thinks of it or avoids it.
·
Overcome your anger so that you do not
enrage others.
·
Use good to overcome evil.
·
Use kindness to overcome cruelty.
·
Be generous to overcome selfishness.
·
Use right to overcome wrong.
·
That is the Magic Sword of Wisdom.
III. METHOD OF
TRAINING
THE PHYSICAL BODY AND THE MIND
·
Eat pure food.
·
Think pure thoughts.
·
Have a strong faith in God and the Holy
Mother.
·
Love immensely.
·
All this is the key to open the door
of BAT-QUAI-DAI[13] rightly
in this earthly life.
Due to the happiness of human beings, His Holiness Ho Phap
determined to carry out the love, justice, altruism and world concord. The
Caodaism Disciples have completely sacrificed their body from the beginning
time to present due to that purpose only. We want the Caodaism to be available
on this earth while we have not reached that purpose yet, it means that the
work of transplanting rice on the stone. Facing on the troublous situation of
Vietnam country at that time, the compatriots were fighting for power, the Caodaism
Disciples were living under two bullet lines of France and Vietminh. With
responsibility of Ho Phap[14] Supremely Governing Two
Material Palaces, the Palace of Divine Palace and the Palace of Nine Divine,
His Holiness Ho Phap convoked the Great People Assembly in order to make the
Great Way – Third Period – Universal Salvation prosperous and to restore the
power of All Creatures.
On the Great Ceremony of SUPREME BEING, 9 January Dinh Hoi year
(1947), His Holiness solemnly reminded Dignitaries and taught disciples: “Do not let foreigners enter the inner power
of
It is considered for first agreement on 6th March 1945 signed
between Ho Chu Tich and Sainterry, the French Government did not solve sincerely
the problem of Vietnam at the Agreement, the French Government should have
discussed with the government of Republic Democratic Vietnam leaded by Ho Chi
Minh, and should have held at Paris but the French Government avoided to hold
at Foutainebleau for discussion and the Foutainebleau agreement was signed on
14 September 1946 between Chief-General of foreign department Mr. Marius Noutet
and Ho Chi Minh of government of Republic Democratic Vietnam. In next step, the
French Government ordered the French troop in
His Holiness could not keep silent facing on the gunfire of France
and Viet Minh fighting, His Holiness Ho Phap sent a Letter to President Ho Chi
Minh to re-consider the order of “scorched-earth
resistance” because the China was a large country with crowed citizens,
Vietnam was very narrow. On 12th August Dinh Hoi year (1947), His
Holiness Ho Phap visited Truong Qui Thien[15] (Tri Giac Cung[16]) managed by Elder Brother
Dinh Cong Tru. His Holiness Ho Phap saw a white flag hung on the palace, His
Holiness Ho Phap immediately explained for Elder Brother Dinh Cong Tru: “the meaning of white flag is the symbol of
peace, however the white flag is only used when the races in a nation fight
together violently without method of solving, the flag in that situation should
be used to be suitable in its meaning”.
His
Holiness reminded the history of Nhan Hoi named Nhan
Due to patriotism and love of people, due
to perish and peace of fatherland and race, His Holiness Ho Phap could not be
calm to let foreign countries intrigue imposing and trampling compatriots.
Therefore, after hearing Viet Minh signing the agreement for dividing the
Vietnam Map in two in Geneve Agreement 1954 with 17th parallel as a
border, His Holiness Ho Phap immediately wrote a letter without seal to the
President Ho Chi Minh in order to state the opinion and to tell that Vietnam
could not be divided in two, all national citizens did not endure the civil war
imposed by foreign countries like the civil war of Nguyen King and Trinh King
happening before. With serious mission assigned by His Holiness Caodaism, His
Holiness Ho Phap had a special mission how to remove the domination for race
and to preserve the Vietnam Map.
His Holiness Ho Phap has known the
intrigue of foreign countries in imposing the division in two of
It was thought that in the beginning of
1949, His Holiness Ho Phap sent a official letter to express to French
Ambassador and Top-Ranking General Blaizot clearly about the Neutral Path of
Caodaism in future by returning weapon of Caodaism Troop as soon as possible,
this also proved that the innate Neutral standpoint and it was an action taking
much danger.
Receiving the news
The Caodaism disciple cannot forget the
prediction and teaching of His Holiness Ho Phap: “SUPREME BEING comes this
earth to found a True Religion in
The concord society is not illusional, it
will be founded surely by GOD’s will, not by weapon, violence or blood. It must
be by wisdom, evolution level, morality and concord spirit of man. Everything
is from the same origin named Buddhism, Saviour, Taoism, Confucianism, or other
Religious Heads were assigned by the GOD with a mission of descending earth in
different stages in different regions to preach the Tao, to enlighten races of
world about the good, morality in order to return to the GO. Superiors have
descended everywhere on over the world. Moreover, in 1926, SUPREME BEING
descended in a séance to teach “I do not only come to you now in a small race –
Vietnam, but I had ordered many Souls to descend earth, when they hear the
sound of whistle, those Souls will return to unite MASTER”.
The Innocence epoch is the cycle of
concord world, this society is created by people who know to love, respect each
other, consider as mutual brothers with no discrimination of skin color, race,
religion or glass. The man of this society must have the high level of moral
spirit and heart of mercy, love.
With Caodaism, the harmony is the
guideline, the fight is the purpose to be ruined. Therefore, His Holiness Ho
Phap often reminded “Dignitaries and male and female Disciples should raise
the saving flag of “no fight, success comes naturally”. Whenever the male and
female Sacerdotal Council still think of Me, I just petition for one thing that
you unify strength together to keep all political Religion bodies in order to
change the world. But alas! The Sacerdotal Council does not undertake its
function. How is this serious disaster solved just with some positions
of Palace of Nine Divine Planes? Is that teaching a prediction for Caodaism
fate in future?
On 18th April Giap Ngo year (20th May 1954),
His Holiness Ho Phap guided a dignitary delegation of Sacerdotal Council of Tay
Ninh Holy See departing from the Tan Son Nhat airport (Saigon) at 9am to go to
Paris to discuss with French President René Coty at the Elysées palace. The
Caodaism Sacerdotal Council delegation took a rest at the Georges V. hotel
where His Holiness Ho Phap kept company with many Vietnamese and French
statesmen coming to inquire His Holiness Ho Phap’s health in friendly and
sympathized relation. At 14pm of 24th May 1954, the Prisedent Laniel
kept company and discussed friendly with His Holiness Ho Phap at theMatignon
Palace of Paris.
At 15pm of 27th May 1954, the Minister Mecheri on behalf
of French President Réne Coty went right to the Georges V. hotel to welcome His
Holiness Ho Phap and forwarded the invitation of President that at 18pm 30’ of
28th May 1954, the President Réne Coty would see His Holiness Ho
Phap at the Elysées palace.
In the afternoon, His Holiness Ho Phap and retinue left the Georges
V. hotel to go to Elysées palace, they were welcomed deeply by Ministry Mecheri
with the protocol of national visitor, then to invite His Holiness Ho Phap and
delegation to residence of Elysées palace.
The sound of clock on the wall gave signal 18:30pm, the President
Réne Coty stepped into the living room to shake hands with His Holiness Ho Phap
and retinue. The President concurrently invited his fellow-workers at the
President Palace to introduce themselves one by one to the Dignitary
delegation.
The discussion happened friendly. The President Réne Coty promised
with His Holiness Ho Phap that he would discuss with Prime Minister Laniel in
order to soon sign a France-Vietnam agreement to hand over the independence for
Vietnam country.
After meeting and friendly discussion, the President invited His
Holiness Ho Phap and delegation to go to a party room for a vegetarian meal.
The vegetarian meal at the
Even the Prime Minister had been reminded by President, the Prime
Minister Laniel was smart to purposefully delay to wait 5th May Giap
Ngo year (4th June 1954), the birthday of His Holiness Ho Phap, the
Prime Minister Laniel signed two agreements for returning the independent
sovereignty for Vietnam country to the Prime Minister Buu Loc belonging the
government of Republic Vietnam.
At 19pm at night of 4th June 1954, Vietnamese and French
visitors went in succession to attend the birthday of His Holiness Ho Phap held
at the Georges V. hotel. The Prime Minister Laniel stated to His Holiness Ho
Phap that he had signed two agreements for returning the independent
sovereignty for Vietnam country as promise of President Rén Coty at the Elys ées
28th May 1954 and he also formulated to His Holiness Ho Phap: the
reason of signing agreement for returning the returning the independent
sovereignty for Vietnam country happened
lately because the French Government wanted to give a “souvenir” to welcome the birthday of His Holiness Ho Phap. That
diplomatic method of French Government was very delicate for Caodaism Leader,
the person was ominous with a theory “No
fight, success comes naturally”.
The political situation of
Within one hour, Nguyen An My guided Mr. Tran Thanh Ha, the General
Secretary of delegation of Republic Democratic Vietnam going to Régina hotel to
welcome His Holiness Ho Phap and forwarded the inviting His Holiness Ho Phap
and delegation to go to Versoix office.
According to Mr. Tran Thanh Ha’s invitation, the Elder Brother Bao
Dao Ho Tan Khoa[17]
went to the Versoix office under welcome of Major-General Thanh Son (He was
Nguyen Van Tay, a military member of delegation of Republic Democratic Vietnam)
with attendance of Lawyer Pahn Anh, Doctor Le Van Chanh. The unique meeting of
Major-General Thanh Son and Bao Dao Ho Tan Khoa happened after many years from
1945 at Chau Doc base of Western South of Vietnam, they suddenly met together
in foreign country. The Major-General Thanh Son and Elder Brother Bao Dao
(Religious Conservator) felt touched and embraced together warmly with drops of
tears.
It was not incidental for meetings discussed and contacted between
2 delegations: The Government of Republic Democratic Vietnam and Caodaism
Delegation on 28th June 1954 under Lawyer Phan Anh and Elder Brother
Bao Dao Leaders of delegations. These meetings were held carefully by Mr. Tran
Thanh Ha, Nguyen An My by smartly inviting Caodaism delegation at the La Perle
Du Lac park to take to Versoix office in order to avoid being monitored by
latent Polices of Switzerland.
The Caodaism Delegation and Delegation of Republic Democratic
Vietnam continuously spent effervescent meetings from 28th June 1954
to 5th July 1954. However, the core was not revealed that the
delegation of Republic Democratic Vietnam of Hanoi just discussed with the boss
of Southern Vietnam named French only, not to know the attendance of Doctor
Tran Van Do – the delegation Leader of Republic Vietnam Government of Saigon.
Therefore, in one continuous week for discussion between two parties of
Republic Democratic Vietnam Delegation and Caodaism Delegation did not collect
any hopeful result. His Holiness Ho Phap assigned Lawyer Tran Van Tuyen and
Major-General Pham Xuan Thai to choose an opulent restaurant to invite the
Republic Democratic Vietnam Delegation taking a friendly meal in order to repay
the Hanoi Delegation inviting Caodaism Delegation for previous meetings at the
Versoix office.
Mr. Tran Thanh Ha, the Contact General Secretary of Republic
Democratic Vietnam Delegation went to Régina hotel to visit His Holiness Ho
Phap to stated that Prime Minister Pham Van Dong and Republic Democratic
Vietnam Delegation were not convenient to attend outer party out of Versoix
hotel and asked His Holiness Ho Phap’s sympathy then also forwared the
invitation of Prime Minister Pham Van Dong to His Holiness Ho Phap to attend
the a friendly meal with Prime Minister at the Versoix office. His Holiness Ho
Phap expressed thanks and denied the meal but accepted to discuss with Prime
Minister Pham Van Dong at 19pm of 5th July 1954 at the Versoix
office (Le Cèdre hotel was for Hanoi delegation, arranged by Switzerland
Government).
In order to avoid the watch of Switzerland Special Police, His
Holiness Ho Phap and retinue left Régina hotel by two carriages for La Perle Du
Lac park, two cars of Tran Thanh Ha and Nguyen An My were ready to invite the
delegation to go to Versoiz office. Two cars had just stopped at the Versoiz
office at 21pm of 5th July 1954, the rain started to drop. However,
the Prime Minister Pham Van Dong and Hanoi Government Delegation went right to
car to welcome His Holiness Ho Phap friendly. The Prime Minister Pham Van Dong
embraced His Holiness Ho Phap and guided whole delegation to the living room of
Versoiz office. The Prime Minister Pham Van Dong stayed on the same long chair
right to portrait of President Ho Chi Minh. Mr. Lawyer Phan Anh sat on the
right of His Holiness Ho Phap’s right hand, Mr. Viet Phuong sat to write
shorthand and report after back of Lawyer Phan Anh. Mr. Bao The[18] Le Thien Phuoc sat on the
left of Prime Minister Pham Van Dong’s left hand. People sitting around and
contrarily the chair of His Holiness Ho Phap and Prime Minister Pham Van Dong
included: Tran Cong Cuong, Minister of Industrial and Trade Department, Doctor
Le Van Chanh, Religious Conservator Ho Tan Khoa, Tran Thanh Ha, Nguyen An My,
Major-General Pham Xuan Thai, Lawyer Tran Van Tuyen (later, Deputy Prime
Minister of South).
To begin the meeting, His Holiness Ho Phap said: “The compatriots are very grateful to Viet
Minh’s resistance but the liberation of
The conference happened in open-hearted atmosphere. Before ending,
the Prime Minister Pham Van Dong invited His Holiness Ho Phap and Caodaism
Sacerdotal Council delegation to have a vegetarian rice-gruel and pastry in
next room. At the friendly party, His Holiness Ho Phap said to Prime Minister:
“Ban Dao[19]
have built a
Before His Holiness Ho Phap and delegation said goodbye to leave,
the Prime Minister Pham Van Dong had embraced His Holiness Ho Phap warmly and
friendly. The delegation left the Versoioz office by car to go back
At 9am of 6th July 1954, the deputy leader of French
delegation at Geneve Agreement visited His Holiness Ho Phap at the
There was an unique event happening in the second meeting of Geneve
Agreement at 15pm of 6th July 1954, Mr. Bao The (Secular
Conservator) Le Thien Phuoc was assigned by His Holiness Ho Phap to attend the
meeting to know more situation in the conference. According to normal meetings,
Mr. Bao The (Secular Conservator) Le Thien Phuoc wears the religious dress of
Dignitary of Palace of Divine Alliance, as meetings at Versoiz office. However,
on that day of attending Geneve Agreement, especially, His Holiness Ho Phap
permitted Mr. Secular Conservator to wear the western clothes. That was the
first time that there was a Caodaism dignitary attending the Geneve Agreement
as a participator wearing the western clothes. Therefore, the organization
board arranged a seat for Mr. Secular Conservator next to the delegation of
Southern Vietnam Government. It was thought that from the opening time of
Geneve Agreement with many meetings, but two Government delegations of Southern
and
There were many continuous meetings happening at the Geneve hall,
but that was the first time that two Government Delegations of two Southern and
Northern religions happily greeted together, this caused a tumult for
international reporters and journalists attending to get information because
from the beginning time to this time of Geneve Agreement, they graced one
unique event at 15pm of 6th July 1954. This is a significant remembrance
that people forget difficultly with the intermediate delegation of Caodaism
making advantages for two Southern and Northern Delegations to have chances for
future situation.
The cool wind fanning to the meeting hall dispelled boring
atmosphere of previous meetings of two Southern and Northern delegations of
It was known that
After the Caodaism Delegation had left Geneve to return Southern
Vietnam, in Saigon, the President Ngo Dinh Diem was supported and guided by the
American Consultant Major-General Landsdale to eradicate Religions, Parties who
had ever cooperated with
As His Holiness Ho Phap wanted to rescued the imposed situation of
His Holiness Ho Phap knew clearly that the disaster for Vietnam
race was from Prime Minister Chu An Lai (China) and French Prime Minister
Pierre Mendes discussing secretly at the Geneve Agreement regardless of warning
of British Prime Minister Churchill and America Prime Minister Eisenhower
meeting at the White Palace on 10th July 1954 to appeal: “Do not accept to stop shooting in Indochina
with a very high price”.
His Holiness Ho Phap could not keep silent to wait mutual disaster
coming, it forces the Leader of Caodaism, His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac
had to appeal to Religions and Parties to unite into to found “NATIONAL FORCE UNION FRONT” named as a Cao
Thien Hoa Binh Front (including Caodaism, Catholicism, Hoa Hao Buddhism, Binh
Xuyen) as a unique bloc to directly negotiate with the Government of Ha Noi Republic
Democratic Vietnam in order avoid the imposed scheme of foreign countries
carrying out toward inner right of Vietnam.
“All schemes from man,
success due to GOD”, the Foreign
countries incited the President Ngo Dinh Diem severely destroyed the National Force Union Front, and also
severely destroyed Religions, Parties to cause the race union to go the end of
path seriously.
“MUST CHOOSE A PATH
The At Mui year is going to come, on behalf of
eternal CAODAI CREATOR, Ban Dao (I) send this message to all human beings to
appeal to government leaders leading races to consider the event smarter. The
humankind always seeks a path in creating a peaceful, happy life but they never
obtain it because they do not obey the fate from the GOD…Nowadays, the
humankind is spending a spiritual crisis but they must still question “Where is
the path of life?” On this earth, there is nothing immutable. According to
Heaven law, everything always progresses. The society of man must progress
naturally according to that law.
Two theories are
contrary together:
The first theory named
“Democratic” praise the help and respect of humane values of countries, and
preserve good and beauty. How good for that theory! But it lacks the sincerity
because the book of human right, which has been complimented recently by United
Nations, has not been carried out yet.
The second theory named
as Communism inciting the proletarian class to do against the capitalism class,
advocates in destroying unfair things of society and promises to divide
properties in balance however, due to the atheistic theory and dictatorial
action, it becomes very strict.
Now, two sides of
Communism and Capitalism have went ahead of fighting because two Theories
promise to create a better life for humankind compared with previous life.
There is one thing that we can see thoroughly that both sides have not reached
the peace and happiness. In contrary, he humankind has still been splited
because of continuous fifths without any exit way. Whole humankind worries and
asked that: How does the world become while both blocs have prepared weapons
with a fierce demolishment, is it going to the death path? The real events of
Asian Countries such as
Ban Dao (I) kindly
express to French people and Vietnamese compatriots essentially taking direct
relation. For French, Ban Dao can say and declare to the world that: In 80
years of living mutually, two races of France and Vietnam have spent much
suffering in two great war in 1914-1918 and 1939-1945. French! You also
understand foremost that
For Vietnamese people
and leaders of Northern and
You cannot forget the
happiness of
The leaders of Southern
and Northern Governments, why do you still hesitate something toward union
praising an example to found one unique provisional government to leave off the
influence of foreign countries with attendance of components belonging to all
political, Religious trends in order to go to the General Election of whole
Vietnam? All citizens will remember your graces. In that way with your precious
examples, you will be well-known people who have save the foremost
Before finishing this letter,
Ban Dao (I) faithfully pray to our CAODAI SUPREME BEING to give us a new year
leaving off the interminable dream to go ahead the brilliant light and truth of
GOD in order to choose a happy path. The fight for existence leads to the
suffering, perished war containing the death. In contrary, the mutual help for
existence by loving in relation of brothers, union in justice and concord will
be a condition creating the peaceful, creative, happy, free cooperation. Each
of us can freely chooses a Path”.
The Caodaism
disciple can not forget the cause of Old Lieutenant-General Tran Quang Vinh,
the Generalissimo of Caodaism Troop, the Chief-General of National Security of
Southern Region who was hijacked, sentenced with death judgment, imprisoned at
Ba Den mountain of Tay Ninh with burning his car by Major-General Nguyen Trinh
Minh The. His Holiness Ho Phap knew bad news, He ordered the Major-General
Trinh Minh The to have to immediately release Tran Quang Vinh.
Trinh Minh The had a daring and inhumane behavior that the Major-General Trinh
Minh The distributed leaflet of sentencing Tran Quang Vinh heavily. Now, he was
forced to release Tran Quang Vinh immediately, this impacted on the prestige of
famous Leader on the Ba Den mountain. Therefore, there was no method, the
Major-General Trinh Minh The petitioned His Holiness Ho Phap to ask the
Dignitaries of Palace of Divine Alliance to go to Ba Den mountain with “Counter-Investigation”
toward the death sentence of Tran Quang Vinh. Under His Holiness Ho Phap’s
acceptance, the Major-General The ordered the Major DON to welcome the
Dignitaries of Palace of Divine Alliance by a Union Battalion. The Commissary
of Justice Phan Huu Phuoc and Si Tai (Archivist) Le Quang Tan assigned by His
Holiness Ho Phap went to the Commander Department of Union Caodaism Troop to
take the oral deposition of Mr. Tran Quang Vinh.
In order to avoid the attention of French Government in Tay Ninh province, the
Chief of Holy Protector Lieutenant-Colonel Pham Ngoc Tran operated a Squad to
escort the Commissary of Justice Phan Huu Phuoc and the Archivist Le Quang Tan
from the Gate of Institute Conciliation of Inner Tay Ninh Holy See to the foot
of Ba Den mountain then to hand over to the Major Don belonging the Union
Caodaism Troop to take two Dignitaries to the Commander Department at Ba Den
mountain peacefully.
Under warm welcome of Major-General Trinh Minh The at the Commander Department
of Union Caodaism Troop, the Commissary of Justice Phuoc and Archivist Tan took
a rest to wait Mr. Tran Quang Vinh.
In the next day, according to the first assignment, the Archivist Tan and
Lieutenant Tran Van Thuong, the Attaché of Major-General Trinh Minh The went to
a very firm cavern which was the shelter place of Major-General The each time
of mopping up and dropping bomb of French Troop. After 10 minutes of order for
taking Mr. Tran Quang Vinh to hand over to the Lieutenant Thuong into the stone
cavern to meet the Archivist Tan for oral deposition.
How pitiful for Mr. Tran Quang Vinh enduring the forest fever for many months
with a thin and pale face! Pitifully, he has not ever met the Major-General
The. The Archivist Tan immediately the oral deposition of Mr. Tran Quang Vinh
by writing question on paper and Mr. Tran Quang Vinh also answered by writing
on paper without speaking way because the Major-General The had set up
tape-recorder at table. The Archivist wrote by shorthand letters that a few
people could read and understand to ovoid being stopped by staff of
Major-General The to take it on the way to Holy See without knowledge for
shorthand letters.
Due to that way, the information of Counter-Investigation was taken to
Holy See to submit to His Holiness perfectly.
After getting the oral deposition of Counter-Investigation, the
Archivist Tan and the Lieutenant Thuong went back the Commander Department to
meet the Commissary of Justice Phan Huu Phuoc to discuss in order to say
goodbye to the Major-General Trinh Minh The for going back Holy See to reply
the situation to His Holiness Ho Phap.
After reading the report of “counter-investigation” of Death Sentence for Tran
Quang Vinh, His Holiness Ho Phap immediately ordered to buy Aralene medicine of
treating the forest fever and a bottle of Rhum wine sent to Mr. Tran Quang Vinh
to use to wait the sentenced date of Court.
The Major-General Trinh Minh The summoned a sentenced trial for
Tran Quang Vinh solemnly at the foot of Ba Den mountain. A rare event happening
that Bao Dao Ho Tan Khoa (Religious Conservator), an excellent Governor
graduated from the
The Archbishop Thuong Vinh Thanh was permitted to participate
political activity. The Caodaism Sacerdotal Council arranged the disease
treatment for Mr. Thuong Vinh Thanh by going to
After Geneve Agreement signed on 20th July 1954, the
order of stopping of shooting became effective whole
His Holiness Ho Phap Taught: “Major-General
Trinh Minh The guides the Union Troops to go to areas to replace the bases of
Viet Minh troops leaving off to regrouping”. According to the order of His
Holiness Ho Phap, the Union Troops garrisoned in Eastern provinces, Dong Thap
Muoi, and Western South of Vietnam. There was a clash with force of Hoa Hao
Buddhism leaded by Major-General Le Quang Vinh named military of Ba Cut in Chau
Doc province. However, due to smart concession and mutual arrangement, two
sides avoided the fight by shoot.
After that, the Colonel Lansdale, the consultant of Prime Minister
of Ngo Dinh Diem went right to the high command of union troop at the Ba Den
mountain to discuss with the Major-General Trinh Minh The, and also persuaded
the Major-General Trinh Minh The to cooperate with Mr. Ngo Dinh Diem – the lead
of Vietnam Republic government. The Colonel Lansdale smartly promised to make
Mr. Trinh Minh The accept to welcome Doctor Chuong – the Health Department of
Southern Vietnam Government visiting the Union Base so that they discussed
conditions for Union Troops cooperating
with the Government of Ngo Dinh Diem. Before cooperating with President Ngo Dinh
Diem, the Major-General Trinh Minh The guided some officers in Advising
Department to go to Tri Hue Cung (Enlightenment Palace) to visit His Holiness
Ho Phap to petition His Holiness to go to Saigon to do as a chairman of
ceremony of Union Troops cooperation with the Government of Republic Vietnam.
His Holiness taught: “Ban Dao (I) cannot
witness your death! You do not obey my order,
manage your issue by yourself!”
The ceremony of welcoming
the Union Troops joining into the national troop was held solemnly. Mr. Trinh
Minh The was given the army rank of Major-General of Vietnam Nation Troop in
front of ambassadors of many nations and Ministers of Ngo Dinh Diem Government.
It was remembered clearly that one day, His Holiness Ho Phap
visited Dignitaries of Twelve Zodiacal Dignitaries of Palace of Divine
Alliance, His Holiness Ho Phap attentively discussed with Mr. Bao The (Secular
Conservator) Le Thien Phuoc, Bao Dao (Religious Conservator) Ho Tan Khoa, Hien
Phap (Religious Constitution) Truong Huu Duc, Khai Dao (Religious Reformer)
Pham Tan Dai, Tiep Phap (Judicial Legislator) Truong Van Trang,… and many
dignitaries of Palace of Divine Alliance including Thua Su (Commissary of
Justice), Truyen Trang (Clerk of Court), Si Tai (Archivist), Luat Su (Judicial
Agent) (over 30 persons). His Holiness Ho Phap said: “Major-General Trinh Minh The thought wrongly that he was full-fledged
to be able to freely fly with life but his political ability was still bad, he
will be harmed surely! If that does not happen, you can bind two hands of
BanDao (I). When saying, His Holiness Ho Phap praised his hands in front of
dignitaries staying there”. One month passed, the Major-General Trinh Minh
The killed when he was inspecting the base at the Tan Thuan
It is remembered on 22nd August 1946, when reaching the
destination of Tay Ninh Holy See after 5 years, 2 months of exile in
was very anxious about
existence of Caodaism Troop in the inner Holy See. Facing on a bygone event,
His Holiness Ho Phap did not know any better way toward the ammunitions of
resistance Vietminh and French Troop and one more Caodaism Troop garrisoning in
the inner Tay Ninh Holy See. His Holiness Ho Phap gradually moved the Caodaism
Troop out of inner Holy See. This is not a simple decision because of national
situation reduced in the fire and smoke of war, of party fight, of internecine
fight, of division of bother relation, of very thorny situation of nation. His
Holiness Ho Phap recommended commanders of Caodaism Troop that: “You are fierce Samsadhi Fire disposing of
Demon Kind but it can burn the Holy See. Consequently, I (Master) do not let
you stay in the inner Holy See, you go out of Holy See to garrisoning”.
Therefore, the Caodaism Troop had to leave off Giao Tong Duong (Pope Office)
belonging the inner Holy See to garrison at Giang Tan about 8km from Holy See.
Some dignitaries worried about security and property of Caodaism with
withdrawal of Caodaism Troop, therefore they petition to His Holiness to let
the Caodaism Troop garrison in inner
The warning prediction of His Holiness Ho Phap happened after
years, in 1955, the Caodaism Troop was nationalized to become the Vietnam
Nation Troop. His Holiness Ho Phap amended the religious system to preach the
true doctrine of Caodaism by sections of teaching Tao at the pulpit in Holy See
regarding to Caodaism doctrine for all dignitaries and disciples so that they
could understand thoroughly the secret dharma of Caodaism in order to prove the
Holy sample, to tighten the relation of co-religionist, to make the Great
Way-Third Period brilliant.
His
Holiness Ho Phap knew the situation of
Therefore, the Lieutenant-General
Nguyen Thanh Phuong was fallen into the plan of Consultant Ngo Dinh Nhu and
Doctor Tran Kim Tuyen (Secret Agent of Prime Minister Palace). They discreetly
took the Members of Recovering Independence Organization demonstrating in
deposing the Chief of State Bao Dai. This caused many difficulties for His
Holiness Ho Phap.
Plan of deposing successfully, the
Lieutenant-General Phuong was immediately fallen into the trap of Nhu and Tuyen
asking Polices to surround the villa of Lieutenant-General Phuong at 113 Yen Do
street of Saigon to examine then to seize some illegal cars collected by the
Major-General Trinh Minh The in the attack toward Binh Xuyen Troop at the Y
bridge that Binh Xuyen Troop left. At that time, they were attacked suddenly
without repulse, they left those cars to go to Sat forest because they did not
think the Major-General Trinh Minh The obeyed Ngo Dinh Diem to betray. A bitter
lesson for Major-General Le Van Vien that he had to run to the Sat forest at
his elderly age.
The Lieutenant-General Nguyen Thanh
Phuong was invited for a sentence to keeping illegal cars. He managed with many
ways not to be sentenced, Lieutenant-General PHUONG accepted to let everything
run without any condition that he did not remind the position of Prime Minister
promised by deceptive mouth.
The Lieutenant-General Phuong denied
discreetly until he died at his personal home in Cho Lon.
How pitiful for the death of
Lieutenant-General Phuong! The truck carrying his coffin from Cho Lon to Tay
Ninh for burying suddenly burnt. The coffin had to be moved into other truck to
Tay Ninh. Another trouble also happened that the truck could not be run to the
Inner Holy See because when the Lieutenant-General Phuong was living, he had a
disagreement toward the Government of Tay Ninh Province. The truck could not
run into the Inner Holy See to pray according Caodaism Ritual, it had to run
directly to the Graveyard to be buried.
Is this the karma that the
Lieutenant-General Nguyen Thanh Phuong obeyed the incited speech of President
Ngo Dinh Diem in taking Caodaism Troop to purge Caodaism Dignitaries of Holy
Land at Tay Ninh Holy See in 1935?
There was a smart thing that the
Lieutenant-General Phuong did not dare to command Caodaism Troop to surround Ho
Phap Office but he ordered the Major-General LE VAN TAT to do. As the Si Tai
(Archivist) Le Quang Tan obeyed His Holiness Ho Phap to warn that the
Lieutenant-General Nguyen Thanh Phuong could not lead the Caodaism Troop to
purge, he should let the National Troop of President Ngo Dinh Diem lead Troop
to surround His Holiness Ho Phap because in that way, His Holiness Ho Phap
easier coped with being surrounded under treatment of Teacher-Student
sentiment.
The Major-General Le Van Tat was fought
against by the Supervisor Vo Van Khue leading. The Major-General Le Van Tat
scared to withdraw troops discreetly out of
Under the instruction of Lieutenant
Nguyen Thanh Phuong, the Major-General Le Van Tat took Caodaism Troop to
surround the Ho Phap Office to cause a stir to make Disciples in the
It matches with Vietnamese proverb: “Fish without salt becomes rotten, child contradicting parents will be
spoilt in all ways”.
In the spring of At Mui year (1955), the His Holiness Ho Phap
governing Two Visible Palaces As The Tiptop Governor of Caodaism gave a letter
in new year festival: “I (master) pray to
SUPREME BEING to bless for all disciples and soldiers with a new year under
promotion of religious conduct, under good health, prosperous life to serve
humankind of great way. I pray that soldier disciples died may be gone beyond
the cycle of death and rebirth with enjoyment at the paradise”.
“By
the way, I (Master) want to remind you Some Issues of Morality and World
Situation. The Caodaism is essentially a
However, in order
to fulfill your Mission assigned by SUPREME BEING, you must fight to protect
the existence of Vietnam Race to fight the Demon King, Satan of this epoch,
which are trying to destroy the Race of Vietnam to destroy the Great Way. Thus,
I want to recommend world situations to you.
I remind that you
must love and help Compatriots of Southern and Northern regions. You living
here are still luckier because Viet Minh has been still weak for 80 years. They
have still behaved to you kindly. For Northern region, the Chinese Communist
policy was carried out in
The citizens in a
country must behave as brothers and sisters in same roof. You must take care of
living and working in peace and also sharing rice and clothes for your
Compatriots. You must not discriminate the North or the South to be tricked by
Dividing Campaign from Foreign country. The Geneve Convention signed in 1954
helps the Chinese Communist possess a near half of
The mission of
Soldiers of Caodaism Troop is still onerous in protecting Country and Religion.
I (Master) wish you to more and more give up bad things to learn good things in
order join Brotherhood to save Country and Citizens.
Formerly, the
invasion ambition of Hot Tat Liet of Can Long were defeated by Celebrities
Nguyen Trai, Ngo Thoi
I believe that
Tycoons of Chinese Communist such as Tran Canh,
I also need to
remind Disciples in Caodaism to know that you can live peacefully and work
because you are depended on Troop with strength of fighting, who used their
blood and bone as bastion to protect you. You have a mission of thanking and
helping them. Consider them in blood relation: Blood is thicker than water –
lips are open, teeth will be cold.
I (Master) promise
to seek all affair to express your wishes to other Races such as French Race,
America Race so that they may know: “You just want helps of foreign countries
to face on the Chinese Communist in order to protect the Independence of
Vietnam only, you do not want other countries to fight the Communist in order
to maintain the unjust interest of
foreign countries.
I (Master) will
tell them to build a wall in order to protect the garden in advance, not to
seek for interest from money of building. If
In front of the
Divine Altar for New Year, I pray again that you and your family may enjoy a
new year in much blessing.
The
It is thought that at the night of new year of 30th
December Giap Ngo year (1955) going to At Mui year, His Holiness Ho Phap gave
teachings to all dignitaries and disciples about morality, standard and world
situation that Caodaism Disciples always remember these precious speeches
forever in their mind. These precious surely engraved deeply on mind of pious
Disciples and handed over for next generation forever.
The religious works were much more and more such as taking care of
living place for compatriots with enough rice and clothes, such as carrying out
training: citizen, education, sanitation, feeding orphan, helping widow,
comforting old and morbidity people, helping people facing sufferings, building
market and school, building old people’s home and building hospital, maternity
hospital on over the holy land.
Especially, the General Assembly of Human Beings was opened with
attendance of sub-dignitaries and disciples on over nation under the sorrow
call of His Holiness Ho Phap: “The crane
has returned, miss ancestor when watching space, watch the change of water and
follower, how pitiful for sentiment with tears under the bitterly final and
hurried call pushing the intimate friend’s feedback. Alas! For this mournful
picture, who is the intimate friend with Ban Dao (I/Poor Monk)? I can not find
any one else except you, gentle brothers and younger sisters”.
His Holiness Ho Phap never forgot the responsibility of a very
patriotic citizen with an immutable theory. That was to unify
The Sacerdotal Council continued to hold course of Hanh Duong[20] to train male and female
dignitaries with enough moral ability assigned to provinces and districts and
to train excellent dignitaries for Caodaism delegation attending the Great
Assembly of International Religions on over the world:
- 1928 – International Great Assembly to Theology in Londres
(British) on 7th September 1928 to 11th September 1928
(26 countries.
- 1934 - Great Assembly to Theology in Barcelone of
- 1936 – Great Assembly of International Religion in Londres of
British.
- 1937 – Great Assembly of Philosophy Animism in
- 1937 – Great Assembly of International Religion in Londres of
British.
- 1939 - Great Assembly of International Religion in France (
- 1948 - Great Assembly of International Religion in Lausane.
- 1950 - Great Assembly of Theology in Haywards Henth.
- 1951 - Great Assembly of International Religion in
- 1952 - Great Assembly of International Religion in Bruxelles of
- 1952 - Great Assembly of International Religion in
- 1954 - Great Assembly of International Religion in Montreux of
- 1955 - Great Assembly of International Religion in
- 1965 - Great Assembly of International Theology in Bruxelles of
- 1966 – Great Assembly of University Losbanos in Bagio of
- 1975 - Great Assembly of International Religion in
The Geneve Agreement dated 20th July 1954 was not
carried out fully. The situation of
From the time of Geneve Agreement
dated 20th July 1954, signed in
His Holiness Ho Phap could not only watch Foreign Countries
inciting and imposing to cause fights. Therefore, His Holiness Ho Phap found a
method to remove the complicated situation, He afterward exiled by himself one
more time to live in Cambodia – a Neutral Nation named as a member of five
standard of “CO-EXISTING PEACFULLY” promoted by Prime Minister Nneru of India.
In the morning of 5th January Binh Than year according
to lunar calendar (16th February 1956), His Holiness Ho Phap and
some dignitaries left the Holy See of Tay Ninh to exile to
In
On 15th March Binh Than year (26th March
1956), His Holiness Ho Phap sent two letters to President Ho Chi Minh, the
leader of Republic Democratic Vietnam Government and President Ngo Dinh Diem,
the leader of Democratic Vietnam Government to call for emulation examination
of “Humanity” between religions of Southern
and
How unfortunate! At that time, due to deep influence of foreign
countries, two governments of North and South of Vietnam could have no power to
determine their race fate, they did not dare to sit closely to discuss the
suggestion of His Holiness Ho Phap stated in the Political Grogram of Existing
Peacefully. Concurrently, His Holiness Ho Phap also sent a letter
No.138/HP/VPHP dated 3rd November 1956 to Venerable of Religions:
“The present situation is
reaching the harsh and dangerous stage for future fate of
The foreign countries
contemplated to take advantage of Vietnamese compatriots in competing their
suzerainty.
At this time, the
Vietnamese compatriot is dependent on two blocs of Capitalism and Communism of
course without independence and freedom. The Southern Government and Northern
Government also depend on them in same situation.
Eventually, the inner
war will break out due to the foreign countries that we cannot take
precautions. We are priests, you are too, we cannot keep silent to watch that
disaster coming because according to GOD’s will, we must seek a good method to
end the situation of destroying under the scheme of foreign countries imposing
the mutual fight.
Naturally, the
compatriots of two regions of Northern and
Besides, His Holiness Ho Phap also gave the General Secretary of
United Nations a the Method of International Concord Peace in order to harmony
two blocs of Capitalism and Communism in soon understanding together, in making
concessions to exist, in loving together as blood brothers under one great roof
with complete peace.
“Vietnamese blood has bled in
the ancestor land in enduring foreign power. That is a misfortune for
Vietnamese race due to the previous blood disaster from the dynasty of Trinh
and Nguyen King”.
It is thought that if the governments of two regions of Southern
and Northern Vietnam under President Ho Chi Minh and President Ngo Dinh Diem
had a little bit of power to decide the fate of race and nation and
enthusiastically carried out the Policy of Co-existing Peacefully – the
Progenitor of peaceful policy and concord race, this animal fatherland would
not fall into decay in sufferings, the Vietnamese compatriots would
determinedly have peace and mercy long since. One obvious evidence can prove
that after Viet Minh had won the fight of Dien Bien Phu, the momentum of
driving off invaders of whole Vietnamese compatriots from South to North became
very enthusiastic with over strength to release the Southern Vietnam easily so
that
Even the method of harmonizing two blocs of Capitalism and
Communism of His Holiness Ho Phap was not advocated enthusiastically by
powerful countries, many powerful countries paid attention much, considered and
answered His Holiness Ho Phap by warm and respectful reply.
Moreover, many good changes gradually appeared. The method of
harmonizing two blocs of Capitalism and Communism was not a call from desert.
In contrary, it became a very habitual sound “Co-existing peacefully”, a noun often reminded by people on the
world. Especially, it was more and more valuable according to demonstrations of
countries loving peace. Two blocs of Capitalism and Communism are not the win
between two blocs, each bloc also has its correct aspect and incorrect aspect.
The correct aspect is for no way to solve by force. If two blocs
fight together by nuclear weapon, the disaster will destroy two blocs and all
human beings.
The incorrect aspect is to wipe the society substance, they do not
believe on which way that they are going. Two systems are due to necessary of
living, they must co-exist peacefully, must control themselves toward rule, must
complete themselves to reach the truth.
The encouragement for humankind came world. On April 1971, 24th General Assembly of Russia Communism was held in Mosco with a
declaration about détente with
In next, the table-tennis sport delegation of
With foremost speech of Prime Minister Chu An Lai in welcoming
On 26th March 1956, His Holiness Ho Phap showed the
Policy of Co-existing Peacefully with determination to save humankind. The
Caodaism disciples sometimes had to pay by blood in prison of
The Caodaism dignitary and disciple delegation volunteered to fill
in the Ben Hai river, discreetly went to the 17th parallel on 17th
April Binh Than year (1956) to hang a white flag at the second span of Hien
Luong
In the
On the 20th March Binh Than year (30 April 1956), one
letter was sent by His Holiness Ho Phap from
“Whoever
enthusiastically loves nation ardently in saving the dangerous situation of
nation, please contribute whole strength for cooperation with My (Ban
Dao/I/Poor Monk) comrades to receive this credentials due to people, due to
service for people, due to setting up rights for people so that all people have
enough rights to save nation.
The members in the
campaign board of Policy of Co-existing Peacefully of
- Si Tai (Archivist)
Nguyen Minh Ngoi: Chief of campaign board of Policy of Co-existing Peacefully.
- Si Tai (Archivist) Le
Quang Tan: General Secretary.
- Si Tai (Archivist)
Pham Duy Nhung: Propaganda-Instruction.
- Si Tai (Archivist)
Huynh Van Huong: Information.
- Si Tai (Archivist)
Nguyen Van Tu: Finance.
- Si Tai (Archivist)
Tran Tan Hoi: Inspector.
- Si Tai (Archivist)
Nguyen Ngoc Tran: Organization.
- Si Tai (Archivist)
Nguyen Thanh Nguyen: Organization.
- Si Tai (Archivist)
Nguyen Ngoc Ty: Organization.
- Si Tai (Archivist)
Nguyen Huu Khoe: Contact”.
On 23rd June 1956, His Holiness Ho Phap assigned the Elder Brother
Hien Phap (Religious Constitution) Truong Huu Duc on behalf of Caodaism
Sacerdotal Council of Tay Ninh Holy See to take an audience to President Ngo
Dinh Diem in order to know more attitude of Southern Government at that time
for Policy of Co-existing Peacefully advocated by His Holiness Ho Phap.
One delegation of Sacerdotal Council was founded: Quyen Thuong
Chanh Phoi Su[21]
Thuong Sang Thanh, Thai Chanh Phoi Su[22] Thai Bo Thanh, Si Tai
(Archivist) Le Quang Tan (on behalf of Elder Brother Hien Phap[23]) to go to take an
audience toward President Ngo Dinh Diem.
Concurrently, the campaign boards of Policy of Co-existing
Peacefully belonging provinces, districts, towns were founded readily with an
elevated spirit in protect the drop of blood of Vietnamese to avoid shedding
groundlessly. This made Southern Government of Vietnam worried and very fretty.
From that reason, in some places, disciples were arrested in provinces with a
theory policy “eating National rice but
adoring Communist ghost”.
The ardent heart for peace of Caodaism disciples was distrusted
that they were relative to Communist as lackey for Communist and then they were
arrested, repressed and confined. The guideline praising the lag of save of
Caodaism is to have to love together, to have to be just as brothers in same
roof with no discrimination for Capitalism or Communism, to have to consider as
brothers with a same father.
In the Middle Vietnam, the police inspector of Ngo Dinh Can dynasty
hurriedly founded the culprit who dared to suddenly broke the Hien Luong bridge
to hung the white flag. On the way of returning, in Quang tri province, the
Lieutenant-Colonel Le Van Thoai was arrested by the police inspector of Ngo Dinh
Can suddenly. About three brothers, Nguyen Van Ky, Nguyen Quoc Dai, Nguyen Van
Loi were also arrested at Quang Tri coach station. Four brothers
They carried out the responsibility of Vietnamese citizen and
absolutely believed in the divine poem given by Cao Thuong Pham dated 23rd
April 1931:
“Long Tu Phien[24]fans
stir of mountain and river,
As Gian Ma Xu Pestle
defensing nation.
Sprinkling holy water to
purify the state,
Brandishing sword of
holy wisdom to quell a revolt.
Chanting Confucianism
sutra to collect Mao Tuong[25],
Waggling Nhan
Who promotes the
peaceful policy for world?
Then, Vietnamese people
can sing a song of victory.
ASCEND.
Four brothers:
The gentle elder brother Giao Su Thuong Cao Thanh[26] (Ma Cao Tang), the
Religious Governor of Thua Thien Hue province died in the prison with the crime
“conceal” in guiding four brothers
The volunteer delegation of Lieutenant-Colonel Le Van Thoai
determinedly leveled 17th parallel, this completed the significant mission
toward two-religion compatriots of Northern and
His Holiness Ho Phap explained for dignitaries and disciples to
know thoroughly: “The Vietnamese race
must continue to pay the serious debt of Trinh-Nguyen ancestors, then we will
have the real peace!”.
However, he should not have watched without doing something for
disaster happening, His Holiness Ho Phap changed the divine mechanism but “all things are decided by GOD”.
In the Phnom Penh capital of
Cambodia, His Holiness Ho Phap gave an order
for gentle elder brother Giao Huu (Priest of Buddhism) Thai Tay Thanh, a
dignitary of Cuu Trung Dai (Palace of Nine Divine Planes), a famous contact man
of the Cambodia Governor of Religious Province to crossed directly, fast,
smoothly the Phnom Penh border to Bet-Chay, to Tan Chau of Chau Doc province of
Vietnam to Saigon so that he could contact with the campaign board of Policy of
Co-existing Peacefully of South in order to gave the secret letter in time 14pm
18th February 1957.
The chief of campaign board of Policy of Co-existing Peacefully of
South, the Si Tai (Archivist) Nguyen Minh Ngoi received the secret letter of
His Holiness Ho Phap, he assigned Si Tai (Archivist) Le Quang Tan to have to urgently
cross the border to
Obeying the order of His Holiness Ho Phap, the Si Tai (Archivist)
Nguyen Minh Ngoi convened an urgent unnormal meeting of campaign board of South.
The Si Tai (Archivist) Le Quang Tan provisionally handed over the position of
General Secretary for Si Tai (Archivist) Nguyen Minh Ngoi so that the Si Tai
(Archivist) Le Quang Tan could cross border to
The Si Tai (Archivist) Le Quang Tan prepared to go with Giao Huu
Thai Tay Thanh within 3 hours for arranging everything. The Si Tai Nguyen Minh
Ngoi, Si Tai Bui Van Tiep, Si Tai Nguyen Ngoc Tran on behalf of Southern
campaign board saw off at the Saigon-Chau Doc coach station (
The Si Tai Le Quang Tan was busy in taking care of handing over
provisionally the position of General Secretary for Si Tai Nguyen Minh Ngoi to
catch the time of 18pm, Si Tai Le Quang Tan had to requested the help of Si Tai
Nguyen Ngoc Tran to inform his family that he had to cross border to Phnom Penh
with Giao Huu Thai Tay Thanh according the order of His Holiness Ho Phap.
When leaving off Chau Doc province with many experiences of
crossing border, the contact man Thai Tay Thanh spent many dangerous stages.
Especially, they had to cross a large river as a border of
When reaching the
Si Tai Le Quang Tan went to His Holiness Ho Phap for audience to
state all Religious situations at Tay Ninh Holy See and state the successful
spreading of Policy of Co-existing Peacefully on over the Southern region of
Vietnam due to the enthusiastic determination of all male and female dignitaries,
sub-dignitaries and disciples on over the nation with effective activities from
provinces, districts, towns, villages. After the audience, Si Tai Le Quang Tan carried
out seriously the teaching of His Holiness Ho Phap: “you take an audience with
At that time, in Saigon and Western provinces of
It is thought that the Southern Government severely accused the
Geneve Agreement signed on 20th July 1954 by Viet Minh and France in
dividing
His Holiness Ho Phap was in exile in
One section translated: “…………….I
request the Chairman to found a local investigation and intervene to free
persons confined.
Si Tai Le Quang Tan
named as Truong – a Caodaism dignitary in Tay Ninh Holy See (Southern Vietnam)
is my principal representative who can provide the necessary information for
International Control toward Vietnam in carrying out a investigation easily and
exactly………………”
The verbatim verse: “……Je
vous serai, a consequence très recommaisnant de vouloir bien faire……faire
libérer le plutôt possible tous ces detenues.
Le Si Tai Le Quang Tan
dit Truong, Diguitaire Caodaiste domicilíe actuellement au Saint-Sìege
Caodaique de Tay Ninh (Sud Vietnam) est déssigné comme notre Représentant
official auprès de la C.I.C au Vietnam pour lui apporter toutes precisions
necessaries et facilliter les en wuêtes prescrites.
…………………………”.
The next even was for one letter sent from President Ho Chi Minh –
the President of Republic Democratic Vietnam Government in
“I kindly thank for your
message dated 26th April 1956 and faithfully thank your intention of
peaceful union for
Even the present fight
of our people is still difficult and complicated, however all people unite
determinedly by one heart to strive. Consequently, it will surely reach the
success.
Yours sincerely,
Ho Chi Minh
President of Republic Democratic
His Holiness Ho Phap concurrently received a letter of General
Secretary of United Nations by acclaiming the path of POCEP and method of
harmonizing two blocs of Capitalism and Communism in soon carrying out the
peaceful and concord foundation of world.
His Holiness Ho Phap and exile delegation of Caodaism in
Understanding thoroughly situation of a person in exile with
experience for 5 years, 2 months in prison in
That is the way of world. As His Holiness shouldered the mission assigned
by SUPREME BEING, His Holiness did not hesitate to leave the Centre Holy See of
Tay Ninh in exile to Cambodia – a Neutral Nation in order to avoid pressure of
two blocs of Capitalism and Communism to promote a POCEP regardless of dangers
and he accepted all sufferings and disgraces for race toward fatherland divided
by foreign countries.
At that time, the most broken-hearted thing of His Holiness Ho Phap
was to receive the messages or reports of Caodaism Sacerdotal Council of Tay
Ninh Holy See and campaign board of POCEP of South regarding to reporting the
confinement, arrest and death situation of disciples of provinces. The deep love
of His Holiness Ho Phap was for dignitaries, sub-dignitaries, disciples.
Especially, it was for situation of confinement such as a situation of Si Tai
(Archivist) Le Quang Tan confined for 3 months in
The Religious future
will reply on the authority of next generation taking care and embroidering
everything for people! The mission of next generation is in that way.
Whenever, there are
people who are alone and helpless, poor, wandered, hungry for rice and thirsty
for water, miserable for spirit with nobody unholding, at that time, your
important duty is to shoulder them. That is to carry out the path of saving…”
His Holiness Ho Phap concurrently asked Hanh Thien[29] Nguyen van Hieu – a pious
attaché of exile delegation: “Hieu, you
went inside to take My Dress and handed over your brother Si Tai Le Quang Tan
to wear for presenting himself the security department of Royal Government”. Hanh
Thien Nguyen Van Hieu obeyed and brought the Dress. His Holiness Ho Phap
immediately asked: “Si Tai, Ban Dao/I
give you an armored dress, wear it and go with Bao Dao Ho Tan Khoa to present
to Mr. Kou Roun – the Chief of security department of Cambodia Royal Government
to petition for living as a politic refugee in Phnom Penh”. Si Tai Tan
respectfully received the dress of His Holiness Ho Phap and worn it, then left
with Bao Dao (Religious Conservator) Ho Tan Khoa to see Mr. Benkabo. They were
welcomed warmly by Mr. Benkado – Commanding Officer of Security Department and
he was happy to sign the documents for living in political refuge reason in
Phnom Penh capital (each three-month, have to present to extend).
On 6th May Dinh Dau year (3rd June 1957), His Holiness
Ho Phap received the news of message reported by elder brother Giao Su (Bishop) Thuong Giai
Thanh that the elder brother Thua Su Phan Huu Phuoc died at the Thu Duc prison
(Southern Vietnam) on 23pm of 6th May Dinh Dau year.
His Holiness Ho Phap asked to invite elder brother Thai Chanh Phoi
Su Thai Khi Thanh[30] - the Religious Region
Governor of China to celebrate the ceremony for Thua Su Phan Huu Phuoc and His
Holiness also assigned elder brother Doc Nhac[31] Tran Thien Niem to handle
“Rowing a Boat”[32]
ceremony at the Khach Dinh (House of funeral) on 20pm of 6th May
Dinh Dau year (3rd June 1957) solemnly. Through the time of exile in
The Disciples of Cambodia could remember clearly that after the
“Rowing Boat” ceremony of Commissary of Justice Phan Huu Phuoc, His Holiness Ho
Phap with all dignitaries of exile delegation and Sacerdotal Council of
Religious Region and male and female disciples went to the Religious Region
Office to drink tea. His Holiness Ho Phap taught with compassion: “One more loyal and dutiful child has returned to Master and Mother. The
Commissary of Justice Phan Huu Phuoc has ever endured sufferings, arduousness, and
obstacles in prison in Son La of
The elder brother General Observer Vo Van Khue – a dignitary of
exile delegation immediately stood up and respectfully asked: “How long will we have to endure the
Communist power?”.
His Holiness Ho Phap answered: “Ban
Dao/I give you one million, you spend
much and fast, that amount will end soon! And SUPREME BEING let them enjoy the
favour, however they are not virtuous but they are very cruel, then SUPREME
BEING will take it back soon!
You still perhaps
remember the Allegory of His Holiness Ly-Tai-Pei given to teach you for long
time! Why don’t you read the “Allegory” of Ly Great Immortal again?”
The teachings of His Holiness Ly-Tai-Pei had predicted the future
situations of Vietnamese race happening correctly.
It was thought that at night of 6th May Dinh Dau year (7th
June 1957), His Holiness Ho Phap predicted that Vietnamese race would have to
live under Communist power for a period.
His Holiness Ho Phap knew the divine law determined with no way of
avoiding. He could not keep silent to watch the situation. Therefore His
Holiness Ho Phap founded entered the Tri Hue Cung (Wisdom Palace) to meditate
on 16th January Tan Mao year (21st February 1951) in
order to call the children of SUPREME BEING, foremost 9,200,000 Men of Origin
Soul so that they could be enlightened to watch the Enlightenment Palace and
they had to enter that door in order to obtain the deliverance mechanism. After
that, they could enter the Divine Door of Eternal Life founded separately for
each person by SUPREME BEING.
There is a question asked that what purpose does His Holiness Ho
Phap meditate? What is the meaning of meditation of His Holiness Ho Phap for 3
months on 21st February 1951?
“I have heard a very anomalous
rumour of life. I stand on the preaching hall to essentially interpret the
meaning of entering the
I would like all children
of SUPREME BEING to know that: Caodai
Religion founded by SUPREME BEING is due to the supreme truth. The SUPREME
BEING came himself to exterminate the superstition and to give a true doctrine
only.
It has two possessive
powers on this earth. All life and death activities are controlled by the
system of two powers. About our carnal body,
it has a limitation of life. The birth, grow process, old status, death never
avoid that natural law. Nobody can overcome that law. The natural law has a
limitation, rule standard for our life on this earth. About our soul, it ought to be controlled by its
power system that its owner is the GREAT MERCY FATHER named the GOD or SUPREME
BEING.
The humankind has much
superstition, humankind’s spirit is mixed with much swindle. Consequently, it
may not be swindled any more. There are two those powers, there is not any
other law. We just live in two those powers. Beside them, everything is false.
I (Poor Monk) enter the
I enter the Trí Huệ
Cung (
With evidence truth, we
can see that all nations are fighting into the death path. Due to their karma,
they just know their life, they never know other one’s life, especially
regarding to our friends living with us. We watch and see that they have killed
innumerable people to find foods. They eat to live. When can they live until?
Their best life may not be over eighty years old then to die. That is the
season in causing the bond of karma, sin of incarnation.
The current Religions try
to seek a method to deal with a specific way. If they cannot deal it, they
hurriedly seek another way. All nations also organize a Union Organization to a
method in order to uphold the peace. They seek a method to prevent fighting, killing
together.
Alas! Just reply on the
talent, intelligence to seek a death. All divine powers have been giving to
them, they have been using them as a weapon to kill them by themselves. That is
the atom. They use their intelligence to seek their death, not to seek a life.
They disregard their life, they know nothing about the ethics, they ignore the
sins and karma. Their death is worthy.
Then they seek all ways
to shirk those sins, however they never overcome the Heaven Law. They never handle that Heaven Law because that law
holds their life. The death and life are operated by the Heaven Law. They
cannot find a method to prevent that law.
Let’s see that I kneel
for three months at the legs of SUPREME BEING, cry, petition to HIM for saving
the humankind. All male and female children of SUPREME BEING also try to help
Me for three months. I kindly ask you an issue when I enter the dim palace to
be mutual with the SUPREME BEING that you try to pray to contribute your
strength.
I try to remember an
issue: “Please let your compatriots and
the human beings on this earth be released. That is lucky thing!!!”.
I meditate in the palace
as I just put a radio in the palace. The success or failure are replied on all
children’s spirit of the SUPREME BEING.
Consequently, I interpret
thoroughly what I have done for three months. That action is old, not new. The
action to Religious aspect is similar to 40 days of Jesus Christ going to the
desert to pray to the SUPREME BEING for blessing all human beings so that Jesus
Christ’s deliverance mechanism for the world could be spreaded on over
societies with favour, it is also similar to the Sakyamuni Buddha going to the
snowbell garden to meditate in order to petition to the GOD regarding the
release for all living beings.
About the earthly aspect,
it is similar to the David king thinking about humankind’s sin and going to the
desert to pray for a method to delivery the
It is similar to Hạ
Võ king wearing the thorn shoes, a straw hat to withstand tiredness in order to
pray for his national people out of their sins.
I want to say that the
invisible actions and karma of all human beings and Vietnamese have caused Me
to have to withstand for three months in the dim place in order to pray to the
SUPREME BEING to bless with special favour for them by founding the HIS
deliverance mechanism appeared really for all human beings, and My special
beloved compatriot named Vietnam race.
We try querying that a
person represents a spirit of a race named
Alas! For high ambition
of this period, everyone wants to carry out. The success or failure is depended
on their right. The petitioner is different, the giver is different.
Harmfully, the
humankind’s karma from the time of creation of this earth, I do not know when
they can protect their life on the evolvement and release path. I have caused
many sins without many charities. Why isn’t there a blood catastrophe?
If we see back the
history within tens of year of beginning 20th century to 1951, the humankind
did not have a peaceful and happy time. They just lived under the mutual kill
and destruction. If there was that divine power: Nobody could release the sins
of humankind, I surely assert that.
We do not love humankind
more than the father who born his children. The person bearing their body and
souls is GREAT MERCY FATHER. HE holds the humankind’s life however, HE cannot
release the humankind’s sins, and HE just endures to fold HIS hands and to shed
tears because of the humankind’s karma. The SUPREME BEING cannot HIMSELF have
any way to modify. If there were a way to modify, I would not enter the
Luckily! Replying on
religious heart of all HIS Holy Body and all male and female children, special
young children had made the SUPREME BEING touched, there fore HE permitted Me to meet the Divine Power 4
times within 3 months.
I want to say that: the
humankind’s fate and the fate of
The law of causality of
the humankind has been able to create a joy yet.
The desirability of
people can reach good result or cannot, it may be done when their mass of
Divine Virtue can be greater than their carnal heart. At their time, they can
reach their happy time and the SUPREME BEING’s release mechanism can appeared”.
It
is necessary to tell whole humankind in general meaning, and Vietnamese race in
personal meaning about the true action toward the reason making His Holiness Ho
Phap enter the Wisdom Papace within 3 months. At the dark palce, He prayed to
SUPREME BEING to be given special favour to save humankind by applying His
deliverance mechanism for whole humnakind, foremost Vietnamese race of His
Holiness Pham Cong Tac.
It is thought that the person representing moral spirit of
Vietnamese race such as His Holiness Pham Cong Tac had a divine mission to release
the miseries of humankind by that moral spirit, to amend the cruel action of
world to become the divine drops of water of SUPREME BEING. The divine water
will make the holy path clean. That is His supremely holy drop of water used to
sprinkle for all His children named all living beings on this earth.
The determined fate of humankind as well as the determined fate of
whole Vietnamese race is in the SUPREME BEING’s hands at this time. If the law
of cause and effect of humankind were not out of, there would not have any
peace and happiness.
The true religion of SUPREME BEING was still a straight path. It
does not determinedly charm any body for true doctrine. The charming methods of
other people about axiom will be gradually destroyed by true doctrine of
SUPREME BEING.
Without divine power of SUPREME BEING, nobody can cure humankind’s
crimes! The people’s wish only can be obtained when their true virtue is higher
than their vulgar heart. At that time, the happiness will come and the
deliverance mechanism of SUPREME BEING will be carried out.
His Holiness Ho Phap entering the
“THAI BACH (李白)
Greet disciples, younger
sisters, human beings! Good meeting!
How distressed for human
beings! How miserable for human beings!
Human beings
are very cruel, those crimes, those punishments are just adequate a little.
Because of My love for human beings, I joined the meeting during teen days at
His Holiness
Ho Phap has set a brilliant example for whole life by full braveness to accept
all hard trials everywhere without his moan or lament. He has gone with over
strength to endure all upheavals in order to save serious situations of
national future and Vietnamese race.
Afterward, His Holiness Ho Phap received many letters of Security
Council of United Nations, International Organization for Human Right and
Leaders of powerful countries under acclaim for POCEP, for universal concord
harmonizing two blocs of Communism and Capitalism:
- 21st April 1956: International Commission for Supervisor Control in
- 24th April
1956: Prime Minister Winston Churchill of British.
- 24th April 1956: Mr. Norodom Sihanouk – State Head of
- 24th April 1956: Mr. Guy Mollet – Prime Minister of
- 26th April 1956: Mr. Pierre Mendes belonging
Department of National Affair
- 27th April 1956: Mr. Felipe Polo Martinex Vald és of
- 2nd May 1956: signed by Security Council of United
Nations.
- 3rd May 1956: signed by French Ambassador in
- 14th May 1956: signed by Commision of Human Right of
United Nations.
- 16th May 1956: signed by Mr. State Head of
- 19th May 1956: signed by Prime Minister of
Philippines.
5th January 1957: signed by Cambodian King.
On 4th January 1958, Mr. Ton Duc Thang – Nation Front
Centre Committee of Hanoi sent a letter to invite His Holiness Ho Phap Pham
Cong Tac and Caodaism Sacerdotal Council of Tay Ninh Holy See to go to visit compatriots
and Caodaism disciples in Hanoi on occasion of New Year festival of Mau Tuat.
Is the POCEP of His Holiness Ho Phap on 26th March 1956
blossoming to harmonize two blocs of Communism and Capitalism closely in
concession to exist, in order to remove latent extermination?
The pleasure was for humankind that the gunshot of war was stopped and
powerful countries of world shaked hands instead of fighting fiercely.
Especially, confronted forces have begun discussing to end conflicts.
Propaganda or criticized speeches abusing together have disappeared.
They were replaced by affectionate speeches, congratulations. The Suggestions
of bilateral and unilateral cooperation were signed continuously. That was a
rare change over fancy of humankind. Some year ago, there had been many hotbeds
of war, explosive cellars exploding readily any time. However, at the recent
time, many wars were going to end really. With an evidence, many rockets going
to kill humankind were begun to be removed and destroyed. This is a pleased
event for humankind.
There was a rare event happening more that to highest leaders: Mr.
Nikhain Gorbachov – General Secretary of
How mysterious! Due to the determination, belief and acceptance of
harmony to find a reconciled method, the President Reagan and General Secretary
Gorbachov could sign a first treatment on November 1985 to begin next discussions:
- First discussion in Genève on November 19/85.
- Second discussion in Reykjavid on October 1986.
- Third discussion in
- Fourth discussion in
The characteristics of fourth discussion in Moscow, a disagreement
happened between General Secretary Gorbachov and President Reagan threatening
into a standstill like the situation of first discussion un Genève in 1985. The
meeting was passing tensely, General Secretary M. Gorbachov expressed to
suggest to Mr. President R. Reagan: “We
shake hands second time to find other harmonized method leading a mutual agreement”,
President R. Reagan accepted that. The discussion in
General Secretary M. Gorbarchov did not just hesitate to report to
all international reporters and journalists about the real situation of fourth
discussion on 29th May 1988 which was the second time of volunteer
spirit of two sides causing an occasion of signing a treatment happily and
expansively. Two delegations of Communism and Capitalism shook hands in two
discussions in Genève in 1985 and 1988 overcoming serious stalemates. If the
General Sacretary M. Gorbachov did not report narratively about contracts of
two sides of highest leaders under mutual concession, whole world would never
know a rare event of volunteer of General Secretary M. Gorbachov and President
R. Reagan in order to escape the destroyed disaster due to atom war
threatening.
How strange! The highest leader of Communism M. Gorbachov has been
aware of responsibility toward humankind. Therefore, he readily volunteered to
find a harmonized and concord method for world with President R. Reagan. This
is a great bliss for whole humankind of this earth that Caodaism disciples have
right to believe that the GOD has made General Secretary M. Gorbachov and
President R. Reagan aware so that the humankind can lead to the love and
justice under concord brothers.
The word “Messenger” is defined profoundly for future destiny of
weak countries and whole humankind worrying the atom war going to happen that
nowadays two blocs of Communism and Capitalism made concession under mutual brothers
of GOD.
Next event, the international situation changed into the good trend
from the declaration of General Secretary M. Gorbachov: “Change weapons into ploughshare, found an area without nuclear weapon –
a peaceful area in Pacific Ocean
There would have no weapon, violence on the earth on which each
race would have a right to develop their path of life.
The Caodaism disciples are very proud of one leader such as late
His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac. Before 30 years, nobody could think that on
26th March 1956, His Holiness Ho Phap promoted POCEP while two blocs
of Communism and Capitalism were opposing strictly against with oaths of no
roof. The idea of harmonizing two blocs of Communism and Capitalism would
become useless via insular and mean criticism. They forgot the previous history
lesson that due to the hurried determination of denying the initiative of
Doctor Kopernic at the 17th century proving that the earth turned
around the sun.
What an honour! His Holiness Ho Phap has predicted for 30 years
that two blocs of Communism and Capitalism would determinedly harmonize
mutually to existing that nowadays the fact comes that nobody on over the world
can deny it. The General Secretary M. Gorbachov and President R. Reagan acted
as “Messengers” to complete four times of discussion in order solve previous hating
leading into the mutual appreciation helping humankind out of worry of nuclear
war.
Due to significant duty assigned by the GOD, His Holiness Ho Phap –
Supreme Governor of
In order to commemorate the merits of race heroes dying due to the
country, His Holiness Ho Phap acted as the last will of His Holiness Ky Ngoai
Hau Cuong De King. On 12th October 1954, His Holiness Ho Phap took a
dignitary delegation into Tokyo of Japan to take back the bone-ask of His
Holiness Ky Ngoai Hau Cuong De from Dong Kinh to Saigon and put at the Saigon
Hung Vuong Altar within continuous three days so that celebrities,
intellectuals, people and foreign delegations went to commemorate heroes dying
in other land. After compatriots had commemorated, Caodaism Sacerdotal Council
took the bone ash of His Holiness Ngoai Hau Cuong De King to Tay Ninh Holy See
for worship.
The President Ngo Dinh Diem used an occasion of leave for Cambodia
of His Holiness on 16th January 1956, Ngo Dinh Diem instructed Deputy
President Nguyen Ngoc Tho guided Trang Cu and Trang Liet (two sons of His
Holiness Ky Ngoai Hau Cuong De in Hue) to Tay Ninh in order to cooperated with the
Chief of Tay Ninh province named as Nguyen Van Vang caused pressure and coerced
Caodaism Sacerdotal Council toward handing over the bone-ash of Cuong De to
Trang Cu and Trang Liet so that they would take it to Hue for worship.
The President Ngo Dinh Diem was very interested and worried in
POCEP developing strongly on over provinces, districts, towns of Southern
Vietnam controlled by dignitaries of Palace of Divine Alliance such as: Pham
Duy Nhung, Nguyen Minh Ngoi, Huynh Van Huong, Nguyen Thanh Nguyen, Nguyen Van
Tu, Nguyen Ngoc Tran, Nguyen Huu Khoe, Tran Tan Hoi, Bui Van Tiep, Do Hoang
Giam,…belonging to the campaign board of POCEP of Southern Vietnam. This was a
great obstacle for Ngo Dinh Diem regime at that time. Therefore, the government
of Southern Vietnam carried out suppressing Caodaism Sacerdotal Council of Tay
Ninh Holy See by dominating Caodaism Sacerdotal Council to hand over the
bone-ash of Cuong De to Trang Cu and Trang Liet for worship in Hue that
Caodaism Sacerdotal Council has been worshiping for one year at the Bao An
Duong (Temple of Gratitude). They got an intrigue to destroy everything for
vestige of His Holiness Cuong De King in
After the Chief of Tay Ninh province Nguyen Van Vang and Deputy
President Nguyen Ngoc Tho suppressed the Sacerdotal Council in a meeting
lasting 2 hours, the elder brother Hien Phap (Religious Constitution) Truong
Huu Duc felt angry. With position of behalf of Caodaism Sacerdotal Council of
Tay Ninh Holy See, he was suppressed, the Religious Constitution Truong Huu Duc
left the meeting room with reason of weak health to let Sacerdotal Council
discuss with the Government delegation under guidance of Deputy President
Nguyen Ngoc Tho.
They knew clearly about retire of Religious Constitution Truong Huu
Duc, the Chief of Tay Ninh province Nguyen Van Vang just accepted the word “Receipt”
suggested by Commissary of Justice Le Quang Tan at the beginning time, to
persist the noun “Deliver” used before. They had to write clearly “Receipt”
paper.
The discussion for nouns “Receipt” and “Deliver” has been completed
by “Receipt” paper and the Sacerdotal Council yielded the Government delegation
for taking bone-ash of His Holiness Cuong De King worshipped at the
After delegation of Deputy President Nguyen Ngoc Tho had suppressed
the Sacerdotal Council about taking bone-ash of His Holiness Cuong De at
Facing on the constrained situation, the Chief of province Nguyen
Van Vang had to hand over Archivist Le Quang Tan a receipt certifying that the
bone-ash of His Holiness Ky Ngoai Hau Cuong De. The Deputy President Nguyen
Ngoc Tho concurrently called Lieutenant Chief of Police of Tay Ninh province to
stay closely, and asked the Lieutenant Phuoc: “I consign two persons to you”. The event made a tumult for
dignitaries and disciples around with a short instruction of Deputy President
Tho including profound threat for two Archivist Le Quang Tan and Nguyen Ngoc
Tran.
Whatever must happen will happen naturally. Because of face in
front of crowded people, the Deputy President Tho just consigned the Archivist Le
Quang Tan and Nguyen Ngoc Tran to Chief Police of Tay Ninh province in that
way. All dignitaries thought that the accident would happen to two Archivists
Tan and Tran.
Actually, three days lasted, the Chief of Police of Tay Ninh
province Nguyen Van Vang invited two Archivists Le Quang Tan and Nguyen Ngoc
Tran to Administration Department of Tay Ninh province to question many hot
affairs. However, the power of Sacerdotal Council was still strong, everything
elapsed smoothly.
It was thought that in 1926, population of Tay Ninh province did
not reached 40,000 persons. However, when opening Great Way-Third
Period-Universal Salvation by SUPREME BEING in
With two empty hands, His Holiness Ho Phap and some Dignitaries and
Disciples named as “forebear” positively believed in Caodaism GOD regardless of
hard miseries to take great pain of cleaning stones and trees in order to
change 96 wild forest hectares with cruel animals into a populous and rich Holy
Land with a splendid and luxurious Holy See containing many palaces, offices,
services, schools, university institute, old people service, orphan service,
hospital, Wisdom Palace, Enlightenment Palace, Dharma Palace,… which can be
compared with world wonders. Especially, everything was created and guided by
His Holiness Ho Phap.
When travelers visit the Caodaism Tay Ninh Holy See, nobody thinks
that this was ever a wild forest with no step when the sun declined. Nowadays,
it is a crowded town with many nonresident people.
There is an evidence for travelers and religious delegations that
we can see a line of ancient trees in front of Holy See named as “
There is a special affair for traveler visiting Holy See. Nobody
can forget the Flower Dragon Market always selling vegetarian foods only. The
remarkable point is about the suitable price, suitable measurement with
happiness and modest attitude for customers regardless of people coming
anywhere. That is a pride of Caodaism Disciples in protecting good repute of
Flower Dragon Market that tourist delegations often praise: “The Flower Dragon Market is very elegant,
model”. The rumour about Flower Dragon Market always engrave in travelers. The
Caodaism Disciples belonging many generations growing up in magnanimous and
pious Holy Land never neglected service of His Holiness Ho Phap taking great
pains to train and arrange everything in order to be worthy as “Flower Dragon
Town” with standard model of politeness, of cordiality, of consideration, of
responsibility in communicating with customers. That was a remarkable point of
Flower Dragon Market at that time.
His Holiness Ho Phap often reminded and instructed Dignitaries,
Sub-dignitaries and Disciples about making merit in the
A special tradition of “Student
thanks Teacher” of Tay Ninh province is still handed down that His Holiness
Ho Phap always took care and preserved it. With a spirit “Respect teacher and virtuous person”, His Holiness Ho Phap praised
that sample and spirit of a student always thanking graces of His teacher with
hard train from young age to a useful man for society.
According to yearly custom for each new year coming, on 3 of New
Year of lunar calendar, even His Holiness Ho Phap was a Dignitary leading
Caodaism of Tay Ninh Holy See, His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac did not
forget the duty of a student for His teacher teaching him before. His Holiness
Ho Phap worn a National Dress named as long and black dress, worn a black
turban went to His last teacher named as Provincial Education Officer Giang in
order to congratulate to His teacher in new year with respect. For this point,
His Holiness Ho Phap handed over a brilliant and noble sample for 3 millions of
disciples for “Respect teacher and
virtuous person” and compatriots of Tay Ninh province about “Student thanks Teacher”.
Due to living ideal for people, for whole humankind by a Peaceful
Theory and Concord World, foremost plight of compatriots of two regions of
Southern and Northern Vietnam, His Holiness Ho Phap composed a letter No.
21/HP-VPHN dated 26th March 1956 to Mr. Ho Chi Minh – President of Republic
Democratic Vietnam and Mr. Ngo Dinh Diem – President of Democratic Vietnam,
containing a program of unifying Vietnam. That letter was sent to two persons
so that they could study and find a helpful method and they could complement something
into gaps so that governments of two regions of Southern and
His Holiness Ho Phap spontaneously sacrificed His carnal body to
serve humankind by shouldering all miseries of people in order to win misery
and release misery. Therefore, His Holiness Ho Phap usually reminded, taught
all Dignitaries and Disciples: “If power
and law founded on this earth are not contrary to psychology of humankind, they
will progress according to evolution of humankind to preserve life of humankind
in order to be eternal and happy. Actually, the Tao of life contains a reality
in that way!”. His Holiness Ho Phap also taught: “the SUPREME BEING comes to found the Great Way-Third Period-Universal
Salvation in Vietnam, SUPREME BEING does not force HIS disciples to do
something beyond their capacity, SUPREME BEING only forces HIS disciples to
make the love and justice natural on this earth. In that way, the Caodaism will
become real in its physiognomy”.
As the age was older and older, the strength was weaker and weaker
with worry about compatriots of two regions of Southern and
On the bed in hospital, His Holiness Ho Phap invited Dignitaries
belong Religious Province of Cambodia in
The elder brother Archbishop Thai Khi Thanh – Religious Region of
Cambodia on behalf of all male and female dignitaries respectfully replied: “disciple, I completely obey Your order”. His Holiness Ho Phap continued to say: “Ban Dao/I provisionally leave this carnal
body in
His Holiness Ho Phap
concurrently sent a profound and friendly letter to Head of State Norodom
Sihanouk a last word and to the King Norodom Surmarit (Father King of prince
Sianouk) (Both letters were written by French).
The provisional translation of last word sent to Head of State
Norodom Sihanouk:
Dear Young Royal Highness,
I/Poor
Monk send these speeches to Young Royal Highness when I am on the sick-bed of
the Cainotte hospital. My heath more and more declines and I think that I will
not be able to live for long time.
Therefore,
I send these final speeches to Young Royal Highness and the Royal Government of
Cambodia with faithful thanks toward the liberal treatment of Young Royal
Highness and the Royal Government given to Me and the retinue, all My
Disciples.
I
respectfully pray the CAO DAI SUPREME BEING and the Sakyamuni Buddha to bless
With
whole My heart, I wish that our beloved motherland –
I
will be quietly pleased to kindly visit Young Royal Highness in final time with
My thanks expressed. However, I do not know I can wait until the arrival date
of Young Royal Highness with My weak health.
However,
due to our close and senior friendship and on behalf of love and the friendship
between the Cambodia race and Vietnam race, and on behalf of undivided future
of both nations Cambodia and Vietnam, I kindly petition Young Royal Highness
with the special and final favour for the our Temple without being destroyed in
order to keep as My a unique souvenir in the Cambodia.
To
help you – Young Royal Highness have a true conception about the situation
passing, I respectfully send you Young Royal Highness the copy of My petition
sent to the Majesty.
I
have to leave this earth here, I kindly petition that you – Young Royal
Highness permit Me to consign the corpse in the
I
respectfully petition Young Royal Highness and Royal Government that after I
die, please let Retinue and all My Male and Female Followers be easy in
behavior as before so that they can lead Religious life according to our
eligious way.
I
have known that Young Royal Highness would deign this petition. I will close
eyes peacefully and will bring the sweetest memories in My life. I kindly
petition that Young Royal Highness accept My eternal grace.
Pnom-Penh, 14th May 1959
HO PHAP SEALED AND SIGNED
PHAM CONG TAC
The last word of His Holiness Ho Phap expresses a magnanimous
uprightness for serving humankind when living, aspiration for peace of
Even He was on sick-bed, He call one by one of dignitaries to
recommend detail of all affairs, responsibility of each dignitary. Especially,
His Holiness Ho Phap guided retinue dignitaries of exile delegation many
necessary affairs for future situations.
One careful event which had not ever happened happened that after
sending the letter of last word to Head of State Norodom Sihanouk on 14th
May 1959 recorded in “Hand-over Notebook” by the Archivist Le Quang Tan in
journey to
They obeyed His Holiness Ho Phap, the elder brother Principal
Archbishop Thai Khi Thanh and Priest Thai Dong Thanh went to the
How special! The Norodom Sumarit King just arrived at the audience
courtyard. He saw people kowtowing with two Caodaism Dignitaries in white dress.
He immediately went to Mr. Thai Khi Thanh and Thai Dong Thanh to receive the
last word then to open and say: “Go back
and reply to His Holiness Ho Phap, the King has received the last word and
accepted all requests”.
The elder brother Principal Archbishop Thai Khi Thanh and Priest
Thai Dong Thanh bowed good-bye the King to leave the
After His Holiness Ho Phap had taught male and female dignitaries
in final days continuously, His Holiness Ho Phap returned to Heaven from the
hospital in
The return to Heaven of His Holiness Ho Phap engraved an absolute
regret in heart of Caodaism Disciples. Three millions of heart with a rthythm
of heart were directed toward Phnom Penh Capital to commemorate the merit of
supreme leader sacrificing completely his carnal body to serve humankind.
50,000 Caodaism disciples in
Beside, the representatives of other Religions from distant
provinces such as Siemriep, Kompongthom, Kopong Cham, Soayrieng, Pursat, Takeo,
Kapot, Miot, Kratíe, Battambang,…came to condole with the Sacerdotal Council
and parted forever from His Holiness with wreath of commemorative flower
containing profound union in Religious relation. The Diplomatic delegations in
Phnom Penh Capital concurrently also came to commemorated His Holiness Ho Phap
with nice flowers from receiving the political program of POCEP of His Holiness
Ho Phap and parted forever from a great man of 20th century
completely sacrificing to serve the peace for humankind.
There was a remarkable point in funeral that there was the attendance
of Prime Minister Pen Nouth behalf of Cambodia Royal Government guiding a
delegation to came to condole with the Sacerdotal Council and put a wreath of commemorative
flower and did rite in front of Lotus Throne of His Holiness Ho Phap solemnly.
A Buddhism delegation on behalf of all monks and nuns came to chant
and put a wreath of commemorative flower
to condole and attend the ceremonial of Lotus Throne entering the Precious
Tower in order to reciprocate two journeys of His Holiness Ho Phap from Tay
Ninh Holy See to previous Buddhism ceremonials in Phnom Penh with deep
conversion about dharma. In 1950-1952, all Cambodia Buddhists invited His
Holiness Ho Phap twice for meeting with exchange of views.
In the Northern Vietnam,
female Bishop Huong Du on behalf of Caodaism Sacerdotal Council of Tay Ninh
Holy See at the
How noble! After a foreign journey, he had just come back Phnom
Penh Capital, the Head of State Norodom Sihanouk attended a press conference as
a chairman with international journalists and Chief of Information Department of
Cambodia Royal Government. The Head of State Norodom Sihanouk answered a
question of Mr. Giang Kim – director of Huu Nghi daily newspaper pressed in
“I regret my return the
country that I can not meet His Holiness Ho Phap in the last time. When
returning, He has left. I will completely accept requests of His Holiness Ho
Phap. I would like you to pass to Caodaism Disciples that I have given an order
to Government to carry out requests of His Holiness Ho Phap correctly”.
For Dignitaries and
disciples of
However, with wonderfully loyal and patient hearts of male and
female Dignitaries and Disciples, they discreetly celebrated the funeral of His
Holiness Ho Phap solemnly regardless of dangers. Until end of 1963, the elimination
rule ended a regime naturally, therefore the commemoration of His Holiness Ho
Phap returning the Heaven was promulgated formally for all Temples on over the
country by Caodaism Sacerdotal Council of Tay Ninh Holy See in order to
celebrate a rite of “Returning the Heaven” to commemorate the merit on 10
April. Thus, this day is chosen to yearly commemoration.
His Holiness Ho Phap was due to purpose of saving earth, of saving
human beings that he disregarded His body by completely sacrificing His life and
after all, He left in other country in order to endure the situation of
division in two of Southern and Northern Regions with compatriots. He was a
great man of 20th century in ringing a bell of awaking the people’s
desire on this earth. His Holiness Ho Phap is a brilliant, noble, moral and
extremely high example serving humankind to lead to the peace and concord
world. It means to enlighten the path for humankind to step on the perfectly
good and path in relation of brothers with one same father.
Our ancestors often remind: “There
is a house when living, a grave when dying”. However, our venerated His
Holiness Ho Phap returned to Heaven in the strange region with a simple Lotus
Throne in wind, dew, rain and sunlight. The GOD will would rather preordain that.
There was a divine mystery making a stir for the world happening in
“To unify al lspirit disciple on over country”
“Groan but hope!”
“With spirits in West”
“We have a duty for our
Eastern brothers and sisters and Eastern pole. That is the duty cooperating
spirit, cooperating brothers in order to know invisible world clearly”
One voice in space
speaks to us as the following:
“If the morality gives a
happy life because the morality is a noble love, the love will be same to love
for all humankind and universe”.
“What is that voice that
people hear clearer and clearer while the carnal ears can not hear? What is
that voice outside objects and it exists at thousand places of world that quiet
and spacious hearts in West, East or
North and South are waiting to receive the same Divine Messages to expound
profoundly the harmony of heart?”
His Holiness Ho Phap
Pham Cong Tac just left the carnal body on 17th May 1959 in
“Many invisible
superiors wear red divine dress. Other group wears green divine dress. In
addition, one other group wears yellow divine dress. There are also thousand
superiors wearing white divine dress”.
“The superiors wearing
white divine dress say that: the clemency is a knot of love to set up us to
serve the compassion completely”.
“After all, the
superiors wearing red dress declare: strength is the love to help us endure all
sufferings for all things that we love them”.
“Four groups finish
speaking, “voice” of all voices in heart of each person regardless of living in
heaven or earth or medium world speaks: Four colors combines in one”.
“He has debased Himself
to go to earth to become a good Head Ho Phap Pham Cong Tac! Come back to my
heart – the voice of all voices”.
From 27th May
1959, at 7am, all glasses on whole earth belongs to great organ of medium
receive and hear all things clearly that I have recorded as above”.
Surely confirm!
Mrs. Sarah Bartel Medium
House No. 20,
GOING TO
(La tour à 8 faces)
“New news has just been
received about return of Caodaism Head, spreading from the central of Kim
Bien”.
I would like to record
the unchanged content for all readers of Le Lien newspaper.
VOICE –
“On the punctual 5th
May of calendar, 10th June 1959, it has been 70 years that I had
been living in a carnal body. On the punctual day, I sat in an octagonal coffin
(Lotus Throne). From there, I saw thousands and thousands of disciples passing.
All ten thousands of other ones also knew the “sign” in order to recognize them
later when the time comes”.
“The continuous voice
with a sad sound in a while”
“There are people who
can come, but they do not come. There are people wanting to come, but they cannot
come. For the next people (people wanting to come can not come), I also give
them a” sign” from my octagonal Lotus Throne”.
The voice continues:
“The His Holiness King
and Cambodia Royal Government have done things which are needed to be done in
order to express tolerant heart understanding noble relation of brothers. With
that noble gesture, His Holiness King replied to a letter sent respectfully by
Me three days ago before my soul left the carnal body. However, in the
invisible, I can hear and see”.
At this time, the voice
kept silent, I was waiting for next voice but I did not hear. Therefore, is
this information of “spiritual communication”?
Did I dream? Among them,
there are details that I feel happy to recheck:
- The octagonal coffin?
- The carnal body
shrouded in sitting position?
- The letter was sent 3
days ago before leaving the body?
This Le Lien newspaper
was pressed on over the world. It perhaps appeared in
Mrs. Sarah Bartel
20, Rue Alibert Paris 10 ème.
ONE MORE FOREIGN
ARTICALE
(After studying divine
mystery)
“For the experience and
examination of Observatory and Theosophy Service in France, according to the
letter of Mr. Olion and Divine Messages of Mrs. Sarah Bartel: on the date of
welcoming Saint, there were full of: Buddhas, Saints, Immortals attending,
there was a man wearing nice dress with helmet and cuirass to be seated in
medium position. There were Buddhas, Immortals, Saints, Deities went to valet
and welcome that Soul’s “return”.
The female medium Sarah Bartel recorded correctly because before
His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac returned to Heaven, 3 days ago, His Holiness
Ho Phap had still lied on a sick-bed at the Calmette hospital. His Holiness had
signed on the letter of last word sending to His Holiness King Norodom Surmarit
(father of prince Norodom Sihanouk) that two persons Principal Archbishop Thai
Khi Thanh and Priest Thai Dong Thanh went to the
Before the time of returning to Heaven, why had His Holiness Ho
Phap remembered the Temple approved with the first case by the Highest Court of
Cambodia Royal Government: to destroy the
Caodaism Temple (order sentenced on 13th March 1957 of First Case Court).
Before, the
Due to benefit of project, Cambodia Government negotiated with
Sacerdotal Council. Therefore, the Caodaism Sacerdotal Council in Pnom Penh
agreed to transfer in order to exchange for 03 pieces of land in Tou Sway Prey
belonging district 5, Phnom Penh Capital according to correspondence No.:
4882/BA signed on 20th October 1954.
Until 21st February 1955, the Cambodia Sacerdotal
Council belonging Religious Region in
The plan of building
Many upheavals happened for this
Under the attention of lawyer Blaquierre in protecting the
interests of Royal Government, the lawyer Khing See stepped out a gallery of
Court to speak in a low voice to Archivist Le Quang Tan about report of lawyer
Blaquierre. The Archivist Le Quang Tan immediately spoke in a low voice to
sub-dignitaries and disciples leaving the court gradually by two buses to the
Until the lawyer Blaquierre took the Tribunal President of
The result of
The Sacerdotal Council had submitted to petition to the Royal
Government for help with a charity, however the result was being waited. Until
14th May 1959, on the sick-bed of Calmete hospital, His Holiness Ho
Phap sent a letter to Head of State Norodom Sihanouk and King Surmarit.
Concurrently, the Elder brother Bao Dao (Religious Conservator) Ho Tan Khoa sent
an ultimatum to Royal Government of Cambodia. The letter was recorded to the
Caodaism history in 1958 with content: “If
How noble! His Holiness Ho Phap had known that His Holiness Ho Phap
would leave the carnal in
The King Norodom Surmarit welcomed the Sacerdotal Council
delegation on a floor of
The next, the King asked Elder Brother Religious Conservator Ho Tan
Khoa by French about life of dignitary belonging exile delegation in
The King Surmarit also asked
the Archivist Le Quang Tan: when have you lead a religious life but you are too
young? On occasion of replying, the Archivist Tan stated his petition to the
King with a charity to abolish a trial in documentary of
How respectable! After three months of sending a letter to the
King, end of 1959, He was invited for judgment of
A divine mystery appeared in France after His Holiness Ho Phap Pham
Cong Tac returned to Heaven on 17th May 1959 in Phnom Penh, the
female medium Sarah Bartel recorded: “The
Voice in Space has been pressed by Le Lien newspaper on June 1959 reporting
clearly that everybody on over the world
knows clearly that His Holiness was shrouded in sitting position in Lotus
Throne (Shrouded in sitting position in an
Octagonal coffin, 8 angles) on 22pm of 17th May 1959 with
attendance of Chief of Police of District 5, Phnom Penh Capital and male and
female dignitaries, disciples belonging Religious Region of Cambodia”.
The anxious worry of dignitaries and disciples was that nobody of
Sacerdotal Council knew ceremonials of funeral for His Holiness Ho Phap’s
return to Heaven.
The Elder Brother Religious Conservator Ho Tan Khoa and Archivist
Bui Quang Cao immediately celebrated a séance to invite His Holiness Ho Phap to
guide ceremonials of “making offerings” when
the carnal body was not shrouded. His Holiness Ho Phap descended in the séance
to teach detail of funeral with a poem:
“Living in other place
for three years lasting,
Exchanging merry time by
the body.
Unexpected, everything
has been determined by GOD,
It is enough for seventy
years old.
It is a pity for carnal
force to overcome,
Being sad to lonely see
the knot of Religion.
Who will come to hold
the True Doctrine later on,
To beautify the
motherland in Religion and Life”.
Depending on guidance of ceremonials and a poem, the children of
chorus and Le Si (Acolyte of ceremony) could know to “declaim slowly” and offerings in the funeral. Beside, the Archivist
Bui Quang Cao – a special secretary of His Holiness Ho Phap – a Dignitary of
Palace of Divine Alliance in exile delegation – an expert of filming and making
photo of exile delegation could created many pictures in funeral of His
Holiness Ho Phap. One film roll created by the Archivist for other Religions,
Foreign Affair Delegation of Phnom Penh Capital and Cambodia Buddhism
delegation coming to put a flower garland to part forever for His Holiness Ho
Phap entering the Precious Tower is an invaluable keepsake for disciple in Holy
Land of Tay Ninh Holy See who could not have a honour of contributing to care
of His Holiness Ho Phap’s funeral in Phnom
Penh.
With Ho Phap mission supremely governing two visible palaces,
His Holiness Ho Phap returned to Heaven on 17th May 1959
and His Lotus Throne was still in
What a pity! A great man of history had left the earth. The great
man was very enthusiastic and dedicated with POCEP. The concord love toward the
guideline “Non-violence” of His
Holiness Ho Phap made people with different opinion respectful. Even His
absolute sacrifice had not been complete to welcome the glorious date of
How respectfully! His Holiness Ho Phap is a perspicacious,
mysterious and magic saviour of GOD. Therefore, He had initiated the POCEP bravely
on 26 March 1956 to save humankind in avoiding the mutual kill. His Holiness Ho
Phap also knew clearly that two blocs of Communism and Capitalism on this earth
was due to the GOD’s will that we could not avoid the conflict for international
dominator power, fight of brothers leading to miserable situation.
Although His Holiness Ho Phap – Caodaism Leader could know the
civil war, which was going to begin, he could not do any thing to change the
divine mechanism. That was the worry in His heart. His Holiness Ho Phap had to
enter the “Meditation Hall” in Wisdom Palace to take meditation on 16 January
Tan Mao year (1951) in order to petition to the GOD to give a favour for
Vietnamese race in order to escape out of imposed actions of foreign countries.
His Holiness Ho Phap entreated President Ho Chi Minh and President Ngo Dinh
Diem in discarding hates but there was no change for that situation because of
destiny determined.
His Holiness Ho Phap was in the Meditation Hall –
His Holiness Ho Phap’s teaching converted over millions of Caodaism
disciples. He handed over a suffuse passion to humankind with an aeon “glory”. That is the glory of “SAVIOUR”.
His Holiness did not hesitated to endure the disgraces and miseries
in order to teach humankind to know the error of division that the humankind should
not discriminate the color skin, they should love mutually.
The 17th May 1959 was a sorrowful day for Caodaism
disciples in country and overseas, a ceremonial day recorded in the Oriental
history under a profound remembrance of Vietnam praising “brilliant example without carnal dust” to represent the National
Soul and National Essence with “National
Religion” in mercy, love, justice. That tempered the patriotic passion in
Vietnamese hearts.
His Holiness Ho Phap could know clearly that the detail of international
war would happen naturally and determinedly without method to avoid it.
However, His Holiness Ho Phap had a divine mission to show and guide the path
for oppressed people from the disharmony and discontent into the union.
What an honour! How worshipful! The great man completely sacrificed
his life for POCEP and solemnly confirmed with Head of State Norodom Sihanouk:
“My purpose of life”.
The His Holiness Ho Phap’s date 17th May 1959 of return
to Heaven coincided with the ceremonial date of Saint descending belonging
Catholicism (Pentecote), therefore His Holiness Ho Phap used the divine mystery
telling the female Medium Sarah Bartel in France in order to receive and record
THE VOICE IN THE SPACE in that way.
The return of His Holiness Ho Phap was not quiet like other returns
of human beings. His return was an event of humankind, a funeral ritual of Pascimadharma
period.
His Holiness Ho Phap shared the miseries of two-region compatriots
of Vietnam by the POCEP. His Holiness Ho Phap gave humankind the peaceful
foundation of sweet and cool then, the concord world gradually became real.
The Caodaism disciples can be boundlessly honorable and proud
because 35 years ago, on 26th March 1956, His Holiness Ho Phap Pham
Cong Tac leading Caodaism had an initiative with a POCEP showing the path for
two blocs of Communism and Capitalism in order to yield mutually because of
brothers of same GOD.
His Holiness Ho Phap Pham Cong Tac governing Two Visible Palaces –
Palace of Divine Alliance and Palace of Nine Planes returned to Heaven on 17th
May 1959 in Phnom Penh Capital of Cambodia taking many regrets, respects,
worships of three millions of Caodaism disciple who always remember His
teachings:
“Ban Dao/I/Poor Monk am only afraid that the future teenagers will despise
elder people without meritoriousness”.
“If there is no acceptance to come to the MASTER’s school in order
to obtain the throne, they will never obtain their throne by going to other
places”.
“Let other people be swanky on the earthly path, we just follow
SUPREME BEING, the great work will not be lost. It is sure that whoever is
completely loyal to HIM, to the Sacerdotal Council named as HIS body on this
earth, will never lose the work and honour”.
End
of Autumn, 19th September Ky Ty year
(18th
October 1989)
Commissary
of Justice: LE QUANG TAN
Saigon
Caodaism Temple
891
Tran Hung Dao street, District 5
Ho
Chi Minh City
Bản dịch Anh Ngữ này là bản thảo chờ
Hội Thánh kiểm duyệt, bổ khuyết. Khi sửa chữa
hoàn chỉnh, bản quyền sẽ dâng lên Hội Thánh.
K ỷ niệm mùa hoa Đạo
Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, 2012
Khai Tâm Quách Minh Chương
[1] “Five Branches are Humanity Doctrine, Deity Doctrine, Saint Doctrine (Confucianism, Immortal Doctrine (Taoism), Buddhism.
[2] His Holiness Ho Phap calles Himself as “Poor Monk”.
[3]
The Palace of
[4] It is an ancient and precious sword, the legend has it that it was very sharp, it could cut everything as cutting mud.
[5] “Chon Nhon” is one of positions of Dignitaries of Charity Body of Caodaism. Chon Nhon position is the Saint throne in invisible world.
[6]
The
[7]
The General Assembly of
[8] An Assembly of All Beings.
[9] The Interim Pope.
[10] Priest belonging Cuu Trung Dai (Palace of Nine Divine Planes).
[11] Great Assembly of Humanity.
[12] His Holiness calls Mr. Giao Su (Bishop) Thai Khi Thanh as a younger brother.
[13]
The
[14] Conservator for Dharma.
[15]
[16]
The
[17] Religious Conservator (Bao Dao) Ho Tan Khoa, one of twelve Zodical Dignitaries of Palace of Divine Alliance.
[18] Secular Conservator (Bao The) Le Thien Phuoc, one of twelve Zodical Dignitaries of Palace of Divine Alliance.
[19] One personal pronoun is “I”. Its meaning is “Poor Monk”.
[20]
The
[21] The Interim Principal Archbishop of Taoism branch.
[22] The Principal Archbishop of Buddhism branch,
[23] Religious Constitution.
[24] Long Tu Phiến of His Holiness Cao Thượng Phẩm is a magic fan made by dragon beards. There is no dragon beard on the earth, so that fan was made by 36 feathers of white stork.
[25] “Mao” refers to Prime Minister Mao Trach Dong (毛澤東). “Tuong” refers to Tuong Gioi Thach ( 蔣介石).
[26] Bipshop of Taoism.
[27] It is name of dignitary of Co Quan Phuoc Thien (Charity Body). The dignitary is appointed by Sacerdotal Council with divine position “Saint”.
[28] Policy of Co-existing Peacefully.
[29] Doing good.
[30] Archbishop of Taoism Thai Khi Thanh.
[31] “Doc Nhac” is a position belonging to Music Department of Caodaism.
[32] “Rowing a Boat”: rowing the Wisdom Boat under the invisible meaning. This refers a ceremony held in Caodaism rites.