LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI

 

PHẦN THỨ NHỨT
TỪ T̉A THÁNH TÂY NINH ĐẾN MIÊN QUỐC
 1926 - 1937

 PHẦN THỨ HAI
NHỮNG CHUYỂN BIẾN QUAN TRỌNG (1932-1941)
KHÚC QUANH LỊCH SỬ (1941-1946)

 

@&?

Tác Giả : THƯỢNG VINH THANH
TRẦN QUANG VINH
Đạo Hiệu : HIỂN TRUNG
  
(1973)


do ông Đoàn Yến Thanh sưu tầm và đánh máy
 

MỤC LỤC:

 

- PHẦN THỨ NHỨT

TỪ T̉A THÁNH TÂY NINH ĐẾN MIÊN QUỐC (1926 - 1937)

TIỂU DẨN

I - TÍN NGƯỠNG CỔ  TRUYỀN CỦA DÂN TỘC CAO MIÊN.

II - ĐẠO  CAO ĐÀI LAN TRÀN ĐẾN MIÊN QUỐC.

III - ẢNH HƯỞNG ĐỨC TIN CỦA DÂN MIÊN ĐỐI VỚI CAO ĐÀI.

IV - THÁI ĐỘ CỦA CHÁNH PHỦ HOÀNG GIA CAO MIÊN.

V - HOÀNG GIA CAO MIÊN CẦU CỨU VỚI CHÁNH QUYỀN BẢO HỘ.

VI- CHÁNH QUYỀN BẢO HỘ RA CHỈ THỊ CẤM ĐẠO CAO ĐÀI.

VII- CÔNG AN CẢNH SÁT BAO VÂY THÁNH THẤT KIM BIÊN.

VIII- ẢNH HƯỞNG BẤT H̉A TẠI T̉A THÁNH LAN ĐẾN HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO.

IX- LỄ KHÁNH THÀNH THÁNH-THẤT KIM BIÊN (1937).

X- HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO ĐĂ THÀNH LẬP TẠI KIM BIÊN VÀ LAN  TRÀN SANG PHÁP QUỐC.

 

- PHẦN THỨ HAI

NHỮNG CHUYỂN BIẾN QUAN TRỌNG (1932-1941)
KHÚC QUANH LỊCH SỬ (1941-1946)

 

 

TIỂU DẨN

     Trong hai tập tài liệu trước viết xong từ mùa-thu năm Kỷ-Dậu (1969) với danh hiệu:

GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ KHAI ĐẠO TAI KIM BIÊN VÀ GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CAO ĐÀI TỪ NĂM (1932 TỚI 1940).

Cách thức đánh máy và tŕnh bày rất đơn sơ, văn tứ và ư thức không trọn chu đáo, Tác giả đă xem xét lại nhiều lần, nhận thấy có lắm chỗ sai lầm cần phải chỉnh-đốn nên cố tâm viết lại từng đoạn sắp xếp và tŕnh bày phần kỹ thuật cho đẹp hơn, để thay thế cho hai tập trước để tặng cho bạn Đạo Sở, nay rút gọn  lại thành một quyển sách dày, lắm công phu, cống hiến lần thứ nh́ để vào văn khố và THƯ VIỆN của BAN  ĐẠO SỬ T̉A-THÁNH TÂY-NINH.

Đây là thiện chí của tác giả ước mong sau cho trong BAN ĐẠO SỬ có đầy đủ nhân tài để nghiên cứu tỉ mỉ lại. Chỉnh Văn nếu cần rồi đệ tŕnh lên Hội-Thánh Kiểm duyệt và cho phép ấn tống nếu được xác nhận rằng các đoạn văn đă viết toàn là đúng với sự thật mà Tác Giả đă cố công cứu xét từ văn kiện một trong mấy mươi năm qua.

 

Ṭa Thánh Tây Ninh

 Ngày rằm tháng 8 năm Quí Sửu

(dl: 12-9-1973)

 

Tác giả kính cẩn

 

PHỐI SƯ THƯỢNG VINH THANH

 

TỰ : HIỂN TRUNG

 

( Kư Tên)

 

 

I.TÍN NGƯỞNG CỔ TRUYỀN CỦA DÂN TỘC CAO MIÊN

 

NƯỚC CAO MIÊN là một nước lân bang láng giềng, nằm về phía tây Miền Nam nước Việt.

DÂN TỘC CAO MIÊN, Đại đa số theo tín ngưỡng Cổ Truyền là Phật Giáo, Bởi Vương Quốc của họ rất tôn sùng, chiêm ngưỡng đời đời, có thể nói đó là Quốc Đạo của MIÊN QUỐC, mà trên hết có Vua Săi, dầu cho Quốc Vương đến Chùa, hay ngự tại triều mà gặp Vua Săi th́ cũng phải qú mọp lễ  bái, bởi cả nước tôn sùng  Vua Săi như vị Phật Sống.

 

II. ĐẠO CAO ĐÀI LAN TRÀN ĐẾN MIÊN QUỐC

 

Vào Mùa Đông năm Bính Dần (1926) Đạo Cao Đài  lại phổ thông hoằn hóa đến Cao Miên, chỉ trong một thời gian ngắn mà đă thu hoạch được nhiều kết quả khả quan trong dân tộc Miên.

Thổ dân Miên ngưỡng mộ Đạo Cao Đài nhờ sự tuyên truyền hữu hiệu của nhiều nhóm tín hữu qua lại biên giới MIÊN-VIỆT, họ nhận thức rằng nền Tôn Giáo nầy có một chơn lư cao siêu bao gồm cả Giáo Lư của NGŨ CHI TAM GIÁO, với bí truyền chấn hưng “PHẬT GIÁO”, Họ ư thức rằng: “TÂN TÔN GIÁO CAO ĐÀI”, do NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ  sáng tạo gom các Đạo Giáo lại làm một, trong ấy có Phật Giáo đứng đầu nên họ tự nguyện hoán cựu canh tân các tư tưởng cổ truyền của Dân Tộc họ.

Vả lại nhờ huyền diệu phi thường của ĐỨC THƯỢNG ĐẾ, ban cho họ khiến họ đầy đủ đức tin, nên bao nhiêu sự phong phú về tinh thần cũng như lễ nghi thờ phượng lại phù hợp với bản tánh tôn nghiêm cổ truyền của Dân Tộc họ, lại nửa các vị Sư Săi người miên họ Tôn sùng như Phật, nghe tin đồn tại TÂY-NINH mới nẩy sanh ra một TÂN ĐẠO GIÁO linh nghiệm, cũng v́ tánh hiếu kỳ nên họ rủ nhau đến Tổ Đ́nh T̉A-THÁNH TÂY-NINH, từng đoàn mỗi ngày một đông, dầu cho Sư Săi hay thường dân, họ cũng chung cùng nhau đi đến tận nơi lễ bái và làm công quả, phá rừng lập công với Trời Phật, Hơn nữa họ được các Chức Sắc và chư tín hữu Nam, Nữ trong Đạo tiếp đón họ và đăi đằng cơm nước kể nhau như anh em ruột thịt, làm cho họ cảm mến, gây được ảnh hưởng Đạo Đức dồi dào, khiến họ cảm thông mau chóng, rồi tự nhiên họ trở thành Môn Đệ đầu tiên của ĐẠO CAO ĐÀI, trở về xứ họ ở tận Biên giới Miên-Việt, phô trương lư thuyết mà họ đă học hỏi nơi các Chức Sắc ở Ṭa-Thánh.

Phần các Chức Sắc Ṭa-Thánh th́ có cảm tưởng đó là Ân Huệ của ĐỨC CHÍ TÔN ban cho mới khiến cho người Miên tự nguyện đi t́m Đạo, là một thời cơ thuận tiện để thỏa nguyện khao khác tinh thần về cuộc duy tân cải cách mà từ lâu người Việt có ư t́m tàng, mong mỏi gặp được dịp may hầu dung ḥa Tâm Lư giữa người Việt và người Miên mà trót một thế kỷ qua, hai Dân Tộc nầy chung chịu số phận với sự kềm hăm dưới ách bạo tàn thống trị của ngoại bang, không có lúc nào có quyền tự chủ.

 

III. ẢNH HƯỞNG ĐỨC TIN CỦA DÂN MIÊN ĐỐI VỚi CAO ĐÀI

 

Trước Ṭa-Thánh Tây-Ninh có một bửu tượng ĐỨC PHẬT TỔ  kỵ lân Mă. Mặt hướng về Nước Miên, đưa tay che trán dường như tiếp đón mong chờ cả Dân Tộc CAO-MIÊN, qui về Ṭa-Thánh hầu thọ hưởng ân thiên, và c̣n mong giải thoát nhân loại khỏi cảnh trần. Đó là Bửu Tượng của Thái Tử SĨ-ĐẠT-TA vừa rời khỏi Hoàng Cung của Vua Cha là: TỊNH PHẠN VƯƠNG HOÀNH ĐẾ  nước  TÂN THIÊN TRƯỚC (ẤN ĐỘ), Quyết tâm từ bỏ Điện Ngọc Ngai Vàng đi tầm chơn lư cao siêu, độ đời thoát khổ “Tứ Diệu Đề là sanh, lăo, bịnh, tử”  mà mọi người đều biết của Đức Phật.

Có một số người Miên rất đông, Tín ngưỡng Pho tượng Đức Phật Kỵ Mă đó, lại cho là Vị Thái-Tử của Nước Ḿnh đă chuyển hóa, nên Kỵ Mă hướng về Kinh Đô Miên-Quốc, để mong mỏi Dân Tộc Nước Tần hối đầu hướng thiện, hầu hoàn thành một kỷ nguyên mới mẻ, hưng  thạnh và Cao Thượng, tức là “Đời Thượng Nguơn Thánh Đức” đó vậy.

 

***

 

Việc phổ thông chơn lư tân truyền của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chưa có một ai ở thế gian nầy thấu đáo sự kỳ diệu của nó, sự kỳ diệu đó khiến cho dân Miên tự tâm mộ Đạo, khiến cho khi về đến Tổ Đ́nh đức  tin càng mạnh. Rồi tự nhiên họ xin Nhập Môn, t́nh nguyện thọ lănh Giáo Lư Cao Đài đem vô phổ thông khắp xứ, tiếng đồn gần xa, mọi người đều hướng về Toa-Thánh Tây-Ninh, rũ nhau đi đến có đoàn có lũ làm cho Chánh quyền Hoàng Gia rung động mà ban hành những biện pháp khắc khe cấm ngăn những người di chuyển của Thổ Dân về Ṭa-Thánh.

Trong Tỉnh Tây-Ninh có Núi Bà-Đen tục gọi là “ĐIỆN-BÀ” cách vùng Ṭa-Thánh lố 10 cây số ngàn về phía Bắc.

Trước khi có Đạo CAO ĐÀI, Nhơn Dân người Việt hay người Miên hằng đến viếng, trên núi có một ngôi chùa gọi là Chùa Bà, Thờ Bà “LINH SƠN THÁNH MẪU” rất linh thiêng, mỗi khi trong gia đ́nh có sự bất an, nhất là về bịnh hoạn, đến đó cầu nguyện. Tại nơi Điện Thờ có một thứ nước Thiên, những người thành tâm, hiến lễ bái khấn nguyện và thỉnh nước Thiên, đựng trong một cái ve đem về cho người bịnh uống, Sự Thiêng Liêng là có huyền diệu rơ ràng, chữa trị đủ cách không lành bịnh mà khi uống nước Thiên lại hết bịnh, cũng như trong gia đạo có việc khảo đảo sau khi lên Điện cầu nguyện trở về nhà mọi việc đều được ổn thỏa.

Sau khi có ĐẠO CAO ĐÀI, Thánh Địa được mở mang, vào mùa Thu Năm Canh-Dần (1950), ĐỨC LINH SƠN THÁNH MẨU Giáng Cơ tại TRÍ GIÁC CUNG, tức là ĐỀN THỜ PHẬT MẨU ở QUI THIỆN, cầu xin Đức HỘ PHÁP, Tiến dẫn Chơn Linh Bà “LƯ THỊ THIÊN HƯƠNG” được chuyển về Tổ Đ́nh hầu có thể siêu độ chúng sanh, trong cơ chuyển thế kỳ “Hạ Nguơn” Hoằn Khai Đại Đạo. Từ đây những người có ḷng tin tưởng nơi Bà, nhận thấy không cần thiết phải đi đến non cao khẩn bái, nên họ xin thỉnh nước thiêng tại “BÁT QUÁI HỒ”, T̉A-THÁNH TÂY-NINH, đem về trị bịnh cũng linh nghiệm và có hiệu quả như lúc trước. Nhân dịp nầy họ c̣n được măn nguyện về sự tiếp rước chu đáo, có nơi ăn chỗ ở, lại được lănh Kinh Sách đem về, tụng niệm trước Thiên Bàn nơi bổn gia của họ.

Nhơn Sanh phần đông thật thà chất phát và thật tâm tín ngưởng, nên họ hằng tới lui Tổ Đ́nh, dầu giàu hay dầu nghèo, mỗi khi đến họ đều đem lễ vật nhang đèn cúng kiến Trời Phật.

Bởi sự đi lại không ngừng của những người dân Miên Tâm Đạo, họ xem xứ Miên nối liền với Ṭa-thánh như h́nh với bóng.

Vào đầu mùa xuân Năm Đinh Măo (1927) họ càng tới lui tấp nập, mỗi ngày con số văng lai tăng lên gấp bội, thường là do sự hướng dẫn, của những vị Hương Chức  trong làng, và các vị Sư Săi của họ, hết đoàn nầy đi, đến đoàn khác đến, che lều dựng trại chung quanh Đền-Thánh, chiêm ngưỡng đêm ngày. Họ c̣n tham gia công quả vào việc khai hoang phá rừng, mở mang đường xá, trong Châu Vi Thánh Địa.

Những ngày Đại Lễ (Sóc Vọng và Ngày Vía) họ đều dâng hương hằng ngàn, hằng vạn người, bằng cớ là lúc ấy có bản  Phúc Tŕnh của Sở Tuần Cảnh đề ngày 2-6-1927, báo cáo với nhà đương quyền rằng, có hằng vạn người Cao Miên đến Lễ bái trước Chánh Điện T̉A-THÁNH CAO-ĐÀI, tại làng Long-Thành Tỉnh TÂY-NINH, Bái lễ trước Pho tượng Phật Tổ kỵ mă tại sân ĐẠI ĐỒNG XĂ. Cũng trong dịp nầy, có một vị sư săi người Miên đắc lịnh bí mật theo dơi và quan sát. Tổng số người đi dự lễ có thể đến ba chục ngàn người và c̣n báo cáo thêm rằng “Tinh Thần Tín Ngưởng Mộ Đạo rất Cao”. Họ đi chiêm bái mà lại có mang theo cơm gạo, thức ăn, tiền bạc để tự túc lâu ngày. Họ chỉ trở về quê hương khi nào gần cạn số lương thực và tiền bạc của họ mang theo.

Trước làn sóng người di chuyển xôn xao như thế, Chánh Quyền Tỉnh Tây Ninh đâm ra lo ngại sợ có cuộc biểu t́nh, hoặc sách động quần chúng, đem lính tráng đến giữ an ninh làm cho t́nh thế trở nên nghiêm trọng.

 

IV. THÁI ĐỘ CỦA CHÁNH PHỦ HOÀNG GIA CAO MIÊN

 

Tổng Trưởng Bộ Tôn của Chánh Phủ CAO MIÊN, rất bất b́nh với thái độ của các Sư Săi Miên và tự hỏi tại sao các vị nầy hướng dẫn một số Thổ Dân về T̉A-THÁNH TÂY-NINH, đem trọn tinh thần, tín ngưỡng về Tân Tôn Giáo Cao Đài, mà quên tục lệ Cổ Truyền. Nên Chánh Quyền Miên t́m phương chận đứng sự di chuyển của người bổn xứ họ, cấm chỉ vượt biên giới sang Tây-Ninh. Ông Tổng Trưởng Bộ Tôn Giáo ra một Thông Tri đề ngày 25-5-1927, đề cập tới Đạo Cao Đài Nguyên Văn bằng chữ Pháp dịch ra như sau :

“Sau khi nghiên cứu tận nơi rất kỷ lưỡng, ta nhận định rằng Tôn-Giáo Cao-Đài tạo dựng trong trường hợp bất chánh đáng trách, bởi họ lợi dụng Tôn Giáo để làm phương chăm, lường gạt Quốc Dân ta qui về Họ đặng lợi dụng ḷng tín ngưỡng đem quyền lợi riêng tư về cho nhóm của họ.

“Giáo Lư của Phật-Giáo mà cả dân Tộc Cao-Miên đả thấm nhuần và đang d́u đắt chúng ta đến tận thiện tận mỹ, Th́ ngoài Đạo-Phật của ta ra, không một Tôn-Giáo nào được đến choán chỗ trên quê hương chúng ta được.”

Thông Tri nầy kêu gọi dân chúng Miên Quốc nên hướng sự tín  ngưỡng trở về Phật Giáo cổ truyền và khuyến cáo Quốc Dân nên lưu ư đề pḥng sự nguy hiểm của Đạo Cao Đài, bởi Đạo nầy là người Việt Nam tạo ra khuynh hướng lật đổ các truyền thống cổ truyền của Vương Quốc.

Tháng 6 Năm 1927, có nhiều Huấn Thị rơ rệt hơn, gởi đến các vị Sư Săi nhắc đi nhắc lại rằng Chánh-Phủ Hoàng-Gia có bổn phận ngăn cấm Giáo-Lư Cao-Đài, V́ Giáo-Lư nầy trái với Bản Hiến Pháp Quốc  Gia, lại trái hẳn với những điều cấm răn của Phật Tổ, lại làm hoen ố tác phong của nhà Phật Tử.

Việc ngăn cấm nầy củng có đem lại sự kết quả phần nào sự văng lai của dân Miên suy giảm, nhưng cuộc di chuyển, từng đoàn người cũng c̣n tiếp tục âm thầm. Công cuộc phổ thông Chơn Giáo được thận trọng hơn, thay chiều đổi hướng, hoán cổ canh tân trong việc thờ phượng, lễ bái một cách rơ rệt.

Tiếp theo lại có biện pháp khắt khe quyết liệt hơn trong cuộc chặn đứng các cuộc di chuyển của Tần Nhơn, hướng về Biên Giao Lư Miên Việt, cấm hẳn các việc tuyên truyền, có ảnh hưởng tốt cho Tân Đạo Giáo. Bởi Xứ Cao Miên đặt dưới quyền bảo hộ của Chánh Phủ Pháp nên biện Pháp nầy dể dàng ban bố lan rộng đến Miền Nam nước Việt cũng như ở nước Miên.

Miền Nam Việt Nam là thuộc địa của Pháp, qui tùng Pháp chế của Pháp, nên hưởng được sự tự do tín ngưỡng rộng răi hơn, nước Miên là một Vương Quốc trong thể chế Bảo Hộ.

Bới thế nên Đạo Cao Đài bị công khai lên án là: “Tà-Giáo” do một sắc luật của Vua Cao Miên ban hành ngày 25-12-1926, tiếp theo đó lại có Sắc Chỉ thứ hai đề ngày 6-2-1927, ấn định h́nh phạt đối với Dân Miên nào nh́n nhận là đă Nhập Môn theo Đạo Cao Đài, hoặc có tham dự các cuộc lễ bái Quan Hôn, Tang Tế  của Đạo Cao Đài, mà Chánh Phủ Hoàng Gia không thừa nhận.

Sắc Chỉ c̣n tham chiếu điều thứ 15 của Ḥa Ước Bảo Hộ ngày 11-8-1963 và những Sắc Luật của Hoàng Gia đề ngày 21-11-1903, Ngày (6-8-1919) Ngày 31-12-1925, cũng như Sắc Luật mới của Nhà Vua đề ngày (1-4-1930) bổ túc các điều khoản nêu trên.

Tham chiếu điều thứ 149, 213 và 214 của Bộ H́nh Luật Cao-Miên th́ Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo là hai Tôn Giáo được phép tự do tín ngưỡng trong xứ Cao Miên.

C̣n TIN LÀNH chỉ được hành Đạo với điều kiện là người Tín Đồ TIN LÀNH GIÁO phải là người có Quốc Tịch Pháp mới được.

Bởi các cớ trên, nên gần ngót một năm, con số người Miên đến Ṭa-Thánh Tây-Ninh lần lần giảm bớt, trái lại việc phổ thông truyền giáo trên đất Miên vẫn tiếp tục có hiệu quả với sự khôn khéo và kín đáo của các nhà truyền giáo Cao Đài, hoặc Miên, hoặc Việt.

Hạ tuần tháng ba năm Đinh Măo (AVIRIL 1927) ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, đang làm Công Chức tại Sở Thương Chánh Saigon, Nhờ sự biến chuyển Thiêng Liêng của ĐỨC CHÍ TÔN đă báo trước, được thuyên chuyển lên Kim Biên mở Đạo, ở đậu tại nhà Ông CAO ĐỨC TRỌNG (sau lại ĐỨC CHÍ TÔN  giáng phong Ông Cao Đức Trọng vào hàng phẩm TIẾP ĐẠO là một Chức Sắc trong Thập Nhị Thời Quân.

Buổi ban sơ nhờ sự xây bàn cầu cơ mà quyến rủ được một số Anh-Em toàn là công tư Chức, hướng dẫn đức tin của họ về Tân Giáo Lư CAO ĐÀI.

Trong một đàn cơ vào lối tháng Năm 5 Dương Lịch Năm (1927), có một Đấng Thiêng Liêng Giáng Cơ xưng là: CHƯỞNG ĐẠO NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN hay VICTORHUGO, tức là nhà Đại Văn Hào Trứ Danh của Nước Pháp, mà ai ai cũng đều nghe danh.

Sau bao ngày liên tiếp, Đức Ngài Giáng Cơ dạy Đạo bằng những Thi Văn rất tài t́nh làm cho mọi người đều thán phục, Ngài mới cho biết rằng: Ngài Lănh Sắc Chỉ NGỌC HƯ CUNG, đến làm CHƯỞNG GIÁO hướng Đạo cho nhơn loại buổi Hạ Nguơn nầy, tạo lập Hội Thánh Ngoại Giáo (NISSIO ETRNGERE) và (THIÊN NHƠN H̉A ƯỚC).

Và từ đây nền tảng cuộc Truyền Giáo bắt đầu xây dựng dưới sự hướng dẫn của Ngài, mà mỗi khi giảng dạy, Ngài xưng Danh là: CHƯỞNG ĐẠO NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN hay là VICTOR HUGO.

Trở lại những biện pháp khắc khe do bao nhiêu Sắc Luật của Chánh Phủ Hoàng Gia, công cuộc phổ thong Chơn Giáo Cao Đài phải thay đổi chiều hướng, thay v́ ăn sâu vào quần chúng Cao Miên, các nhà truyền giáo cố tâm phổ thông trong hàng Việt Kiều ở rải rác trong toàn xứ Cao Miên, nhờ vậy mà né tránh những qui chế quá ư nghiêm nghị của Chánh Phủ Miên Triều. Duyên cớ là toàn thể Việt Kiều đang sanh sống tại Miên Quốc, nhất là tại Thủ Đô Nam Vang, đều là Công Dân ở Miền-Nam Việt-Nam, thuở Ấy gọi là: (Nam-Kỳ) Thuộc Địa của Pháp, hưởng qui chế Pháp cũng như những người Việt Nam khác, Phổ thông Đạo Giáo của họ. C̣n về phần Hoa Kiều th́ họ được thong thả về tư tưởng bởi không có qui chế nào ngăn cản họ nhập vào Đạo Giáo của họ ưa thích, Mặc dầu Chánh Phủ Hoàng Gia ra nhiều Sắc\ Luật nghiêm cấm công khai, thế mà qua năm Mậu Th́n (1928), Đạo Giáo Cao Đài mạnh mẻ lan tràn sâu rộng trên toàn lănh thổ Cao Miên.

Đầu tiên là trong tỉnh (PREYVENG) kế tiếp là Tỉnh (SVEYRIENG), giáp ranh Tỉnh Tây Ninh đă có hàng ngàn, hàng vạn người Việt- Kiều và Hoa Kiều nhập môn Cầu Đạo, đặc biệt có một điều là với sự bền tâm thiện chí, cố tránh mọi sự va chạm với Chánh Quyền  Miên, cũng như Pháp, các Chức Sắc Chức Việc và toàn thể Bổn Đạo tỏ vẻ không hề quan tâm đến Dân Chúng Cao Miên, mà chỉ chủ tâm lôi cuốn phần đông Việt Kiều và Hoa Kiều đem vào cửa Đạo. Với thái độ như vậy, Chánh Quyền Miên cũng hơi yên tâm một lúc.

Muốn cho dể dàng trong việc truyền giáo khắp nơi trong Miên Quốc, Chư Thiện Nam tín Nữ Hoa Việt có sáng kiến tự nhủ nhau mỗi người đồng tâm nhứt trí lập tờ Cam Đoan với Chánh Quyền Pháp cũng như với Chánh Quyền Hoàng Gia như sau:

“Chúng tôi đồng kư tên dưới đây là Chức Sắc và Chư Thiện Nam, Tín Nữ có Đạo Cao Đài hiện cư trú tại Vương Quốc Cao Miên, xin lấy danh dự long trọng cam kết với Chánh Quyền Bảo Hộ Pháp cũng như Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên rằng:

“Chúng tôi tự nguyện kể từ đây sanh hoạt theo một đời sống Đạo Đức, Nghĩa Nhân, đầy đủ Bác Ái Công B́nh, trọn tuân theo luật Pháp của Đại-Đạo Cao-Đài, mà nguồn cội tại T̉A-THÁNH TÂY-NINH, với sứ mạng cao thượng của các Đấng trọn lành nơi Cỏi Thiêng Liêng Hằng Sống là :

“QUI NGUYÊN TAM GIÁO, THỐNG HIỆP NGŨ CHI, HOẰNG KHAI ĐẠI ĐẠO, Khắp Năm Châu Thế Giới, Hầu tận độ chúng sanh chung hưởng cảnh Thái B́nh với một kỷ nguyên (ĐẠI ĐỒNG HUYNH ĐỆ).

“Chúng Tôi thành thật cam kết với Chánh Phủ rằng: Chúng Tôi không bao giờ vô t́nh hay cố ư làm một điều chi vi phạm đến sự Trị An Quốc Gia.

“Nếu chúng Tôi thất tín với Chánh Quyền th́ cả thảy chúng tôi chịu tội Tử H́nh y theo Quốc Pháp.”

***

Với những đàn cúng thường, hay thiết lễ tại các Tư Gia, nhờ sự Tổ Chức khôn khéo mà đem ảnh hưởng chơn lư phổ thông sâu rộng. mỗi khi có việc Quan Hôn, Tang Tế sự, th́ chủ gia thừa dịp mời bà con cùng thân bằng quyến thuộc đến tham dự đông đảo, nhờ sự tổ chức khôn khéo, ôn ḥa và thận trọng như thế mà mỗi dịp, đều có kết quả khả quan là lúc nào cũng có người đến xin nhập môn cầu Đạo.

Mặc nhiên Nhà Chức Trách ở Đô Thị cũng như ở tỉnh hằng phái người dọ thám để xem hành vi của Chức Sắc Truyền Giáo và Chư Đạo  Hữu mới Nhập Môn để mong thâu thập ít nhiều tin tức. Nhưng trong bao nhiêu báo cáo, Phúc Tŕnh của Mật Vụ, toàn là tin thất thiệt, cố ư thổi phồng mỗi việc để kiếm lời ban khen. Chẳng có một sự việc nào báo Cáo về CAO ĐÀI mà Chư Đạo Hữu hân-hạnh được Nhà Cầm Quyền đăi ngộ đúng đắn cả, bởi sự đối đăi hẹp ḥi ấy mà gây ảnh hưởng phản ứng trong tâm hồn quần chúng, và cũng do đó mà các Chức Sắc, Chức Việc càng thận trọng hơn trong việc Truyền Giáo Phổ Thông.

***

Danh nghĩa và Tôn Chỉ của Đạo Cao Đài lại càng lan rộng ra khắp Miền Tây Vương Quốc, ngoài hai tỉnh (FRY-VONG và SVAY-RIENG) giờ lại đến Tỉnh Tà-Keo và đáng kể nhứt, quan trọng nhứt là Trung Tâm Thủ Đô Nam Vang, Giáo Lư Cao Đài được phổ biến sâu rộng.

Nhờ vậy mà trong dịp lễ Thượng Nguơn, năm Kỷ Tỵ (1929) Người Miên trở lại đi tầm Đạo hướng vế T̉A-THÁNH TÂY-NINH, mặc dầu con số có kém hơn các năm về trước (tức năm 1926-1927) Nhà đương quyền Miên được báo động, cấp thời lo cản trở sự di chuyển của dân Miên, và dùng những biện pháp hành chánh khắc khe đối với ĐẠO CAO ĐÀI đương cơn phát triển.

Các Ty, Sở, An Ninh, T́nh Báo Quốc Pḥng đồng ấn định phương pháp đối phó, bằng cách ra Châu Tri, Bố Cáo cho toàn dân Miên để dụ họ phải trung thành với Giáo Lư Nhà Phật, không nên theo một Đạo Giáo nào mà Chánh Phủ cấm đoán. Ai biết hối ngộ sẽ được ưu đăi, ai cải lời sẻ bị trừng phạt. Nhưng phía dân chúng lại có phản ứng bằng cách tuyên truyền rằng ĐỨC PHẬT hiện ở Tây-Ninh. Bằng cớ là Pho Tượng của Thái Tử Sĩ Đạt Ta đă chuyển hóa, kỵ mă trước Tổ Đ́nh, ấy là vị cứu tinh giáng thế, mà từ lâu dân chúng Miên hằng mong đợi. V́ vậy người nầy rủ người kia, đồng hè nhau đi hành hương cúng Phật như mấy năm về trước.

Chánh Quyền Hoàng Gia thấy không thể khuyên nhũ bằng Châu Tri, Bố Cáo bèn ra lịnh cho lực lượng Cảnh Sát đứng ra ngăn chận làn sóng người Miên đương rời Vương Quốc, di chuyển đi hành hương nơi Tổ Đ́nh T̉A-THÁNH TÂY-NINH, số người di chuyển rất đông đảo, lính tráng chỉ áp đảo một phần nào thôi, c̣n bao nhiêu đều qua lọt biên giới.

Cùng lúc ấy không dễ ǵ xin phép cất tiểu Thánh-Thất trên đất Miên được, bởi kể vào đơn xin phép th́ đơn bị bát, muốn lướt được Chánh Quyền Địa Phương th́ phải ngụy trang, đục cột đẽo kèo một nơi nào đó, sắp đặt những món cần thiết trong việc cất nhà, rồi tối lại Chư Đạo Hữu ráp nhau dựng lên, lợp lá hay lợp thiết, làng xă hay biết, th́ đứng trước một việc đă rồi, đành lập Vi Bằng giải đến Quan Tỉnh, nơi nào dễ th́ biên phạt nhẹ một số tiền, chớ không hề bị bắt buộc dở nhà, bên trong nhà th́ lập Thiên Bàn cúng kiến, Chư Đạo Hữu hội họp dưới 20 người th́ không phạm luật, đó là tiêu chuẩn Thánh-Thất ngụy trang, rồi lần lượt thành thói quen, Làng Xă chỉ ḍm chừng chớ không làm khó. Kế hoạch nầy lan tràn trong các Tỉnh, nên nhiều nơi đă có Tiểu Thánh Thất là nơi hội họp cúng kiến.

C̣n tại Thủ Đô Miên Quốc, Hội Thánh Ngoại Giáo dưới quyền Chủ Trưởng của Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH, có sứ mạng phải lo tạo dựng một ngôi Thánh Đường, cho trang nghiêm đồ sộ để qui tụ các Tinh Thần Đạo Giáo về đó, dự định cất Thánh-Thất Tại Kim- Biên, kéo dài từ năm (1930) đến năm (1937) mới xong và ăn lễ khánh thành.

Chánh Quyền Cao Miên rất lo ngại mà nhận thức các đơn vị truyền giáo của Cao Đài càng ngày càng bành trướng, nhưng theo qui chế bảo hộ, th́ những người công dân Nam Việt là người thuộc địa Pháp, ngoài ṿng qui chế của Hoàng Gia nên họ vẫn được tự do, trong việc truyền bá của họ.

  V. HOÀNG GIA CAO MIÊN CẦU CỨU VỚI CHÁNH QUYỀN BẢO HỘ

 Nhà Vua nhận thấy đă đến lúc khẩn trương cần phải bày tỏ công khai sự lo ngại của ḿnh, nên vào ngày 10-4-1929, Quốc Vương Cao Miên bèn gởi cho Quan Khâm Sứ Bảo Hộ một Thông Điệp tường  thuật về các biến chuyển nguy hiểm, trong vấn đề CAO ĐÀI, và yêu cầu Pháp áp dụng các quyền hạn đă kư kết trong ḥa ước, hầu có những an ninh, trợ lực Chánh Phủ Hoàng Gia, chận đứng các tiến triển của Đạo Giáo Cao Đài, không cho lan rộng vào khối Đức Tin của Phật Tử người Miên đang bị đe dọa.

Nhận được thông điệp của Nhà Vua, Quan Khâm Sứ Bảo Hộ liền thân hành đến hội đàm với bạn đồng liêu, là Quan Thống Đốc Nam Kỳ Saigon để tham khảo ư kiến, khi trở về Nam Vang, Quan Khâm sứ đến tŕnh bày cùng Quốc Vương về trách vụ khó khăn của Ông trong vấn đề Pháp lư như vầy:

“Tôn Giáo Cao Đài đă được Chánh Quyền Pháp chấp nhận cho Hoằng Hóa khắp Ngũ Châu do bức đơn Chánh Thức đề ngày 25 tháng 8 Năm Bính-Dần (dl: 29-9-1926) mà Pháp Triều đă nh́n nhận”.

Quốc Vương Cao Miên và Quan Khâm Sứ Bảo Hộ đành phải nh́n nhận Pháp Lư, nên có ra một quyết nghị chung chế giảm cho Đạo Cao Đài Hoằng Hóa trong số người Việt Nam trên lănh thổ Cao Miên, trừ dân bổn xứ là người (KHME). Tuy nhiên họ có tầm hạn chế việc tạo lập Thánh-Thất mà chỉ nh́n nhận số Thánh-Thất đang có trong đó thôi, không cho gia tăng, và cũng ngấm ngầm phá rối.

Trong một tờ Nhựt Báo “J,es Annales Coloniales” tạm dịch là (Sứ Thuộc Địa, Ông (Edoucrd NERON). Một nguyên lăo Nghị Viện của Quốc Hội Pháp, có viết một bài xả luận đề ngày 5-6-1928 ám chỉ giai-đoạn trên đây bằng Pháp-Văn trích đăng nguyên Văn sau-đây:

“Trong lúc gần đây những vị Lănh Đạo của một Tôn Giáo mới, tuyên truyền rằng, Dân Tộc Cao Miên có Tân Quốc Vương giáng lâm tại Ṭa-Thánh Cao-Đài ở Tỉnh Tây-Ninh (Nam-Kỳ), nên một  số dân Miên đáng kể, vơ trang đao kiếm đến triêm bái nơi đó ngót vạn người”.

Nghe như vậy Quan Thống Đốc Nam Kỳ (BLANCHARD DE LA BUOSSO) hiệp với Quan Khâm Sứ Đại Thần của Vua (MONIVONG), cùng với các Quan Giám Đốc Sở Mật Thám Nam Kỳ và Cao Miên lập thành một phái đoàn đến tận T̉A-THÁNH TÂY-NINH để quan-sát.

Ông (DE LA BROSSO) ư kiến với Đức Quyền Giáo Tông THƯỢNG TRUNG NHỰT, và xin nhờ Ngài đính chánh tin đồn trong tờ báo nói rằng: “Có v́ Tân Quốc Vương xuất hiện” đồng thời ngỏ ư buộc Đức Quyền Giáo Tông phải chịu trách nhiệm nếu có biến cố xảy ra do tin đồn ấy.

ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, không ngần ngại tuyên bố rằng: “Bần Đạo nhơn danh Giáo Tông ĐẠO CAO ĐÀI, lấy danh dự chịu mọi trách nhiệm về tin đồn mấy Ông vừa nói, đó là một điều mỉa mai, tôi tin không bao giờ có sự thật như vậy”.

Nhờ những lời Cam Kết rất cứng rắn ấy nên mọi người trong phái đoàn đều được an ḷng mà trở về nhiệm sở của họ, sự an ninh công cộng không thể bị xao động và cũng không có điều chi xảy ra liên quan tới tin đồn ấy.

Nắm được cơ hội thuận tiện nầy, ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, liền gởi cho toàn Đạo ở Nam Kỳ một bức thông điệp ban hành sự tự do tín ngưỡng. Về phía Cao-Miên, Ngài dạy Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH, Chủ Trưởng Ngoại Giáo, phải nương dịp nầy mà phổ biến khắp nơi trên Tần Quốc cho Chư Tín Hữu vững tâm truyền giáo.

Ông Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH, lịnh thông truyền cho toàn Đạo trong Miên Quốc, đồng thời cũng gởi thông báo cho các Quan Tham Biện Chủ Tỉnh và Chánh Quyền Cao Miên được Tường Tri.

Trong Thông Điệp, ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG khuyên nhũ chư Đạo Hữu lúc nào cũng phải tuân hành luật Pháp Quốc Gia, và tỏ vẻ Đạo Đức để nêu gương cho sanh chúng mà nền Đạo cũng được êm ấm đối với Chánh Quyền của mỗi Quốc Gia.

Trọn năm Kỷ Tỵ (1929) trôi qua, không một sự việc ǵ xảy ra đối với bức thông điệp trên, đằng khác Hội Thánh và các Chức Sắc Địa Phương hằng ra Châu Tri nhắc nhở toàn Đạo, Mọi Tín Hữu an phận Tu Hành, chẳng nên va chạm đến Pháp Luật, trong Đạo cũng như ngoài đời.

Nhờ sự tu chỉnh nội dung của Nền Hành Chánh Đạo. Nên mọi sự tiến triển điều ḥa, Nhơn Sanh Nhập Môn càng ngày càng đông mà được an ninh trật tự mọi nơi, làm cho Chánh Quyền được vững tâm mà để yên cho Chức Sắc Hành Đạo.

Trong Những cuộc Quan Hôn, Tang Tế  Sự, hoặc là lễ giỗ của Tổ Tiên nơi các Tư Gia của Đạo Hữu, đó là cơ hội thuận tiện để biểu dương tinh thần Bác Ái, thủ tục văng lai, Chư Chức Sắc, Chức Việc đứng ra lo lắng tổ chức các cuộc hành lễ trang nghiêm và cũng không quên xin phép với Chánh Quyền. Mỗi khi có cúng tế là cuộc hội họp rất đông đảo, có Nhạc Sỉ, Đồng Nhi luân phiên cúng kiến, kế tiếp tụng Kinh không dứt. Những dịp nầy như vậy cũng hiếm có, mà mỗi khi có là cơ hội lôi cuốn tinh thần Dân Chúng hiếu kỳ đến xem đông đảo, trật tự an ninh có phần náo nhiệt, nhưng nhờ sự tổ chức chu đáo nên không có sự ǵ xảy ra đáng tiếc.

***

Đây trở lại vụ tạo dựng Thánh Thất Kim Biên, Ông Giáo Sư  THƯỢNG BẢY THANH, Chủ Trưởng Hội-Thánh Ngoại-Giáo, sau khi t́m được một miếng đất gần Châu Thành, có giếng nước rộng bề dài khoảng (200 mét), bề ngàng khoảng (100 Mét) Của Ông (GROSLLER) là một người Pháp đương dùng làm rẫy nay không dùng nữa, nên nhường lại cho Bổn Đạo, một dịp rất may là người Pháp nầy lại là một Ông Chủ Sở của một Chức Sắc Cao-Đài là GIÁO HỮU THƯỢNG VINH THANH, Tức Là Ông Trần Quang Vinh (là Phối Sư hiện nay đó), Nên Ông nhường không, nghĩa là Ông hiến không bán, Bổn Đạo chỉ hoàn lại cho Ông một số bạc (Bốn trăm đồng Ông đào giếng Nước và xây Ciment) Ông có làm giấy hẳn ḥi.

Sau lại Chánh Quyền Pháp muốn làm khó cho Đạo có mời ông đến hỏi, có ư muốn xúi ông ấy lấy đất lại, Ông bèn trả lời rằng : “Đất của tôi, Tôi có quyền chuyển nhượng cho ai tự ư tôi, chỉ có thế thôi”. Nên miếng đất ấy trở nên của Đạo, mà Ông Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH thay mặt làm chủ.

Sở Đất nầy nằm ngay mặt tiền chạy dài theo đường (Fierre pasquier) mặt hậu có bưng, Phía Bắc và Phía Nam có hàng rào dày đặt trồng bằng cây tươi. Vị trí rất thuận tiện, cách Chợ Nam-Vang một cây số ngàn (1000 Mét).

Lúc ấy miếng đất c̣n trống, nên Hội-Thánh cho phép người Đạo Hữu hiến thân cất nhà lá ở chung quanh tùy theo chỉ số định, c̣n bên trong dài theo bưng cất Văn Pḥng Cửu Viện dài cỡ (30 mét), ngang 10 mét) phía sau là nhà cao cẳng tạm cho Ông Chủ Trưởng ở làm Việc, các nơi trống th́ trồng hàng bông, chính giữa miếng đất chừa một khoảng thật rộng để làm Thánh-Thất.

Công việc tạo tác là một việc thiết yếu nhứt, cần phải vận động tích cực, về mặt tài chánh hầu cung ứng vật liệu theo nhu cầu để mong kiến tạo một ngôi thờ xứng đáng.

Một mặt th́ Hội-Thánh Ngoại-Giáo những việc tŕnh diễn Văn Nghệ Cổ Ca, Đồng bào Việt Kiều đến xem đông nghẹt. Nhân dịp đó mà Hội-Thánh quyên góp được một số tiền đáng kể, nhưng không đủ. Mặt khác Châu Tri cho Toàn Đạo trong Xứ Miên, các Tỉnh Đạo đóng góp lần lần, phương tiện tài chánh đến đâu th́ mua vật liệu đến đó, c̣n công quả th́ khỏi nói, ai ai cũng muốn giúp cho có công với Đạo, nhờ vậy mà ngôi Thánh Đường đồ sộ được tạo dựng nơi ấy, nay biến thành trung tâm Thành Phố.

Cũng nên xác nhận rằng việc xin phép cất Thánh-Thất, gặp nhiều trở ngại, không một Chánh Quyền nào, Đô Thị cũng như Hành Chánh dám cấp giấy phép. Ông Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH, đi vận động khắp các nơi, từ Hoàng Gia đến Thị Xă, rốt cuộc cũng không được, có ai dám cho phép, v́ họ nghi ngại Cao Đài làm Chánh Trị rồi lôi cuốn công dân của họ.

Tuy nhiên việc ǵ đến sẽ đến, bị thúc giục rát quá, cấp bách quá, nên Ông Đô Trưởng bảo:

“Tôi không có quyền cho phép bằng giấy tờ, nhưng nhắm mắt để mấy ông làm, rồi hậu quả ra sao mấy ông chịu”.

Nhờ vậy mà Bổn Đạo làm càng, ráp nhau xây dựng gắp rút hoàn thành trong một thời gian kỷ lục.

Sau lại, Ông THƯỢNG BẢY THANH  cũng bị c̣ bót đ̣i hỏi, công việc kéo dài cho đến năm (1942) là năm Thánh-Thất bị Chánh Quyền trưng dụng rồi dở luôn.

Chánh Phủ Miên trưng dụng sở đất nầy và thế cho sở đất hiện tại Ở (FUOT SVAY-PREY) hộ Đệ Ngũ, Châu Thành Nam Vang mà Hiện nay ngôi Thánh Thất rất khang trang tọa lạc tại Số 226 đường (PHIAUV FREAK BAT FORODOM, PHNOM PENH).

                                               

 

VI. CHÁNH QUYỀN BẢO HỘ RA CHỈ THỊ CẤM ĐẠO CAO ĐÀI

 

Sau một thời gian không lâu tiếp theo bức thông điệp của Đức QUYỀN GIÁO TÔNG, mặc dầu nền Đạo đương êm đềm tiến triển, Chánh Phủ Hoàng Gia và Chánh Phủ Bảo Hộ tự nhiên thay đổi thái độ, băi bỏ chánh sách khoan hồng, đương đối xử với Đạo Giáo Cao Đài. Họ trở lại hiến chế  Cao Miên để áp đảo Việt Kiều trong vấn đề Tôn Giáo, bắt buộc  mỗi khi có tế lễ cúng kiến, dầu tại tư gia hay là trong Thánh-Thất, th́ phải xin phép Chánh Quyền. Đây là vào lối năm (1930) t́nh h́nh chung trong xứ không được yên tịnh.

Ngày 4-7-1930, Quan Khâm xứ Cao-Miên ra Chỉ thị cho các Quan Tham Biện Chủ Tỉnh. Nguyên văn  bản thông dịch như sau :

“Hiện nay có biến động, để ngăn ngừa mọi việc hội họp có thể gây rối và tổn thương chánh sách trị an, bổn chức nhứt định thủ tiêu Pháp Chế khoan hồng mà từ lâu đă áp dụng tương đối với Tôn Giáo CAO ĐÀI, cho đến khi có lịnh mới.

“Vậy Kể từ ngày ra Chỉ Thị nầy, Bổn Chức nghiêm cấm Đạo Cao Đài hành lễ  cúng kiến, bất luận dưới h́nh thức nào, lớn nhỏ cũng thế, nếu có ai c̣n tổ chức hành lễ cúng tế, th́ vị Công sứ Chủ Tỉnh có bổn phận ngăn ngừa nghiêm nhặt, không cho cuộc lễ đó xảy ra, nhưng không nên ngược đăi họ, trừ trường hợp họ bành trướng công khai giữa đường phố th́ nhà đương quyền phải cấm chỉ hẳn chẳng nên dung thứ.

“Nếu có xảy ra trường hợp như thế Bổn Chức yêu cầu các Giới Chức hăy lấy lư lịch của những người Chủ Trương Tổ Chức cuộc lễ ấy, rồi lập tức cấp báo bằng điện tín cho bổn sứ rơ liền. Bổn Chức sẽ có biện pháp đối phó bằng cách buộc họ phải tuân hành thủ tục hành chánh là trục ngoại họ ra khỏi lănh Thổ Cao Miên.

“Bổn Chức yêu cầu các quan Công Sứ Tỉnh phải ban hành sâu rộng chỉ thị nầy cho toàn thể dân chúng đều biết.”

 

***

Bởi thi hành Chỉ Thị trên đây của nhà đương cuộc, nên trong mấy tháng liền, và liên tục tới năm sau, đă xảy ra biết bao nhiêu sự rắc rối, bao nhiêu sự bắt bớ giam cầm rất nghiêm trọng và vô nhân Đạo. Do đó có nhiều mặt trận tranh đấu rất nhiệt t́nh trên mặt báo và tiếp theo sau, có những vụ can thiệp cấp bách của những Chánh Khách tên tuổi và của nhiều nhóm bất măn về đường lối của Chánh Phủ Pháp.

Báo Chí bên Pháp đă công khai, nhấn mạnh nhiều bài trong đề tài “Áp Chế Tôn Giáo” nêu rành từ sự việc của các nạn nhân, toàn là tín  đồ của Đạo Cao Đài.

Như vừa qua vài ngày 11-5-1930 tại Tỉnh Tà Keo có bà Góa Phụ Huỳnh Thị Trọng, Cúng Lễ Giỗ Tổ Tiên theo nghi thức Tôn Giáo Cao Đài, bị Nhà Cầm Quyền địa phương bắt giam, nhà cửa bị đập phá tan hoan, theo lịnh của Quan Chủ Tỉnh, sở tại đă mâu thuẫn cho phép bằng khẩu lịnh để sau nầy dể đính chánh.

Nạn Nhân sau khi được trả tự do, bèn làm đơn tố giác ra ṭa án, nội vụ có đầy đủ chứng cớ, kết cuộc Ṭa Thượng Thẩm Saigon chỉ cảnh cáo suôn Nhân Viên Công Lực thừa hành Chức Vụ. Quả có thi hành bổn phận ngoài ư định của Thượng Cấp, đập phá vỡ tan đồ thờ phượng cúng kiến, thiêu hủy Thánh Tượng đang thờ (Do Nghị Định ngày 16-4-1929) của Quan Khâm sứ bảo hộ mà không bị chi hết.

***

Một bức thư của Hội Nhân Quyền bên Pháp Quốc đề ngày 12-2-1932 gởi cho Tổng Trưởng Bộ Thuộc Địa đề cập đến trường hợp của một Hoa Kiều tên (TỀ-LIN), có Vợ Việt-Nam sanh được 3 đứa con, đă từng sanh sống tại Cao-Miên trên 20 Năm qua, đă bị trục xuất khỏi Đông-Dương, do nghị định của Quan Khâm sứ Bảo Hộ đề ngày 2-7-1929, chỉ v́ tội có tham dự lễ giỗ Tổ Tiên của một gia đ́nh có Đạo Cao Đài, mà cuộc cúng kiến gồm vỏn vẹn có 9 vị bà con thân quyến, hơn nữa là đă có giấy phép của Chánh Quyền địa phương kư cho.

Ngày 19-11-1930 Sở Cảnh Sát Đô Thành cho Nhân Viên đến Tịch-thâu, mà không cần hỏi giấy phép chuyên chở những Pho Tượng  Phật do Chư Đạo Hữu địa phương gởi hiến cho Đạo, khi một chiếc tàu (CHALOUPE) vừa cập bến để di chuyển đến Thánh-Thất Kim Biên.

Chẳng những như thế mà thôi, người ta c̣n mục kiến rơ ràng hơn những vụ lính tráng bao vây lục xét nhà cửa trong Châu Vi Thánh-Thất một cách phi pháp, không riêng v́ chủ trương đập phá Thánh Tượng và nghi thức thờ phượng mà lại c̣n thêm những vụ bắt bớ giam cầm tra khảo dă man nữa. Đây là một việc thử thách hi hữu rất nên trọng hệ mà không bao giờ cả tín đồ Đạo Cao Đài nơi đây xao lăng được.

 

 

VII. CÔNG AN CẢNH SÁT BAO VÂY THÁNH THẤT KIM BIÊN

 

Ông Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH, Chủ Trưởng Hội-Thánh Ngoại-Giáo, có vào đơn với Chánh Quyền xin phép thiết lễ cúng rằm Trung Nguơn, Tại Thánh-Thất Kim-Biên vào ngày 7 và 8 tháng 9 Năm 1930 (Canh Ngọ). Thay v́ từ chối hay cho phép, Chánh Quyền ra mật lịnh đề ngày 6-9-1930, cho Sở Công-An và Cảnh-Sát, đến bao vây Thánh-Thất, lục soát, và bắt tất cả những người ở trong nhà kể cả khách khứa.

Vụ bao vây và bắt bớ nầy đặt dưới quyền chỉ huy toàn quyền hành động của nhân viên Mật Thám (DESFRANCOIS) thi hành thủ đoạn đêm (7-9-1930) lúc 20 giờ 15.

Liền đó Ông Chủ Trưởng Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH (Lê Văn Bảy) và 97 Vị trong đó có cả Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu Nam, Nữ, ở các nhà chung quanh Thánh Đường, chờ đến giờ Tư (12 Giờ đêm) cúng Đại Đàn, 98 Vị Đạo Hữu bị bắt, dẫn ra đường sắp hàng hai dưới trận mưa tầm tả, đem về tống giam vào khám tất cả.

Măi đến hai ngày sau tức là ngày 9-9-1930, Ông Giáo Sư Chủ Trưởng, đang bị giam trong khám, mới được giấy cáo tri của Nhà Cầm Quyền cho biết là đơn xin phép của ông bị bát bỏ, nghĩa là không được phép cúng rằm Trung Nguơn, mà ngày rằm tức là đêm 7-9-1930 qua rồi.

Qua đến ngày thứ ba, tức là ngày 10-9-1930, tất cả đều được trả tự do trong ba ngày bị giam cầm, không một ai bị thẩm vấn cả, nhưng bị đưa ra Ṭa Án về Tội hội họp không xin phép.

Tại Phiên Ṭa ngày 20-5-1931 Ṭa Sơ Thẩm Nam Vang lên án các bị can như sau:

TUYÊN PHẠT

Ông LÊ VĂN BẢY, Giáo Sư Chủ Trưởng 200 quan tiền vạ; Chức Sắc Chức Việc 100 quan; Tín Đồ Nam, Nữ mỗi người 50 quan.

Ṭa Án c̣n nghiêm khắc tuyên bố giải tán Giáo Hội Cao Đài tại Cao Miên, v́ không thích hợp với Hiến chế hiện hành.

Trong bản án, Ông Chánh Án Ṭa Sơ Thẩm chiếu theo các điều khoản trong bộ h́nh luật, cấm các cuộc hội họp công khai quá 20 người mà không có giấy phép, và cũng căn cứ vào các qui điều pháp định trong Bộ H́nh Luật của Chánh Phủ Hoàng Gia và các Sắc Luật của Miên Triều Qui Định, sự hành lệ theo Tôn Giáo tại nước Cao Miên.

Về Phần bào chữa, Ông Trạng Sư Ṭa Thượng Thẩm Saigon (LORTAT-JACOB), Đă biện minh rơ rệt lư lẻ nội vụ và minh định rằng trước khi có cuộc lễ, Ông LÊ VĂN BẢY đă vào đơn xin phép đàng hoàng, nhưng trong lúc chờ đợi mọi người đều bị bắt trước giờ hành lễ, làm cho cuộc lễ bất thành, hơn nữa giấy cáo tri của nhà đương quyền bát đơn chỉ đem trao cho Ông LÊ VĂN BẢY hai ngày sau khi Ông đă bị bắt giam trong khám.

Sau khi bào chữa rất dài mà Ban Đạo Sử c̣n giữ đặng trong quyển (LES MARTYRS)  do LA FOI MOUVELIE, Ông Trạng Sư nhấn mạnh rằng :

  “Truy nă họ là bất hợp pháp và bất hợp hiến” hơn nửa Ông chứng minh rằng “Những Thân Chủ Tôi đều là những người Tâm Đạo”.

Ông LÊ VĂN BẢY, Chống án lên Ṭa Thượng Thẩm Saigon.

Trong Phiên xử ngày 7-11-1931, xác nhận bản án Ṭa Sơ Thẩm Nam Vang, nhưng chế giảm số tiền phạt vạ c̣n từ 100 quan trở xuống 16 quan, lại hưởng được án treo.

Vụ nầy Trạng Sư thượng tờ lên Ṭa Phá Án bị bát đơn, ngày 31-1-1932.

May thay cách vài tuần sau do một Đạo Luật Ân Xá của Quốc Hội Pháp đề ngày 16-12-1932 ban bố sự tư do, tín ngưỡng cho Đạo Cao Đài, nên các án tiết, các vụ phạt vạ có liên hệ đến các vụ hội họp lễ bái, các quyền Tự Do của Tín Đồ Cao Đài đều được ân xá. Nhờ sự vận động tại Pháp Quốc của: Giáo Hữu THƯỢNG VINH THANH, với sự can-thiệp của Hội Nhơn Quyền và nhiều Nghị Sĩ, nhiều báo chí đă dày công binh vực Đạo.

Về Vấn đề Ṭa Án cũng trong một lúc mà có việc mâu thuẫn xảy ra trong việc xử tụng, như ở Tỉnh Bạc Liêu Tín Đồ Cao Đài cũng nhóm họp cúng kiến, cũng bị bắt giải ṭa, đến ngày xét xử, Quan Chánh Án Ṭa Sơ Thẩm, với lư do là Đạo Giáo Cao Đài, không phải là một Hiệp Hội, nên tha bổng Nội vụ, Quan Biện Lư  Thượng Tố lên Ṭa Thượng Thẩm Saigon xác nhận bản án của Ṭa Sơ Thẩm Bạc Liêu nên miễn tố tất cả các can phạm.

***

Mặc dầu giới đương quyền dùng nhiều biện pháp khắt khe với Đạo Cao Đài Giáo, như đóng cửa Thánh-Thất, lục xét Tư-Gia, Cấm hẳn tụ họp bái lễ, chận đường tra xét giấy căn cước, những Chức Sắc Chức Việc, không hề nao núng, họ điềm nhiên tiếp tục, lo phổ thông truyền  giáo và khuyến khích chư Đạo Hữu trong việc Thờ Phượng cúng kiến. Họ vững tâm tiến bước là nhờ sự ủng hộ và bênh vực đúng pháp lư của các yến nhơn bên Pháp. Đáng kể nhất là: Trung-Tá (ALESIS ME1TOIS), Giáo Sư Văn Sĩ (GABEIOL GOBRON), Hai vị nầy đồng thời là Kư Giả viết những bài báo tố giác Chánh Phủ thuộc địa và Bảo Hộ với những bằng cớ) xác thực không phương chối cải. Về phần can thiệp trực tiếp với Chánh Phủ thuộc địa và Quốc Hội Pháp th́ nhờ có  HỘI NHƠN QUYỀN, những Nghị Sỉ Quốc Hội như Ông (MARIUS NOUTET) Ông HONRI  GUERHUT v.v…

Riêng tại Đông Dương hai ân nhân bênh vực Cao Đài Giáo là hai vị Trạng Sư Pháp: Ông LORTAT-JACON và Ông ROGOR L.SCAUX, Đóng Văn Pḥng Tại Nam Vang, mặc dầu nghề nghiệp là Trạng Sư, nhưng v́ chủ nghĩa cao thượng, không hề thọ lănh thù lao của Đạo, mặc dầu mỗi lần bào chữa hay chạy lo lắng tốn kém, Ông Bảy đến đền ơn, th́ hai ông vẫn từ khước thẳng thắng, cho rằng họ không có công chi mà họ chỉ làm bổn phận Nhơn Đạo và Thiêng Liêng cao cả mà lương tâm bảo làm.

Có một lần nọ Năm 1929 Ông Trạng Sư (LORTAT-JACOB). Măn nhiệm kỳ ba năm, trở về Pháp nghỉ 6 Tháng, trong lúc lưu lại Saigon, Ông ở lữ quán (Cemtinental). Một đêm nọ, có  Đức Quyền Giáo Tông   THƯỢNG TRUNG NHỰT, Giáo Sư Thượng Bảy Thanh, Giáo Hữu Thượng Vinh Thanh đến viếng, sau đôi câu chuyện hàn huyên, Đức Quyền Giáo Tông, trân trọng trao cho ông một bao thơ trong ấy có số bạc là Năm Ngàn đồng với những lời nói hết sứ khéo léo để đền ơn, nhưng Ông cũng từ chối, cương quyết từ chồi với những lời lẻ Đạo Đức.

Đó là một sự việc đúng mức như vậy trước mặt tác giả cuốn sử nầy, lúc ấy là: Giáo Hữu THƯỢNG VINH THANH, chứng minh là sự thật.

***

PHẢN ỨNG CUẢ HAI TỜ BÁO PHÁP

ĐỐI VỚI VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT GIÁO.

Tờ báo “IA GRIEFE” Số 36  xuất bản tại Pháp ngày 5-9-1931, và kế tiếp số 38 đề ngày 17-9-1931, tố cáo những biện pháp hẹp ḥi, đê tiện của Khâm Sứ Cao-Miên, đă thi hành thủ đoạn áp đảo và đe dọa Ông Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH, Chủ Trưởng Hội-Thánh Ngoại-Giáo, lại c̣n thêm tuyên bố cấm “Không thể để cho người không trung thành ngồi yên” (Ư Nghĩa là phải trung thành với Pháp Quốc).

Báo (LA GRIFFE), lại c̣n lên án thẳng tay về thái độ bất chánh của quan chức cai trị ở thuộc địa, đồng thời đă kích thẳng tay sự thành lập Cơ Quan gọi là “PHẬT GIÁO NGHIÊN CỨU VIỆN”, Do Nghị Định đề ngày 25-1-1930 của toàn quyền (PIERRE PASQUIER), Với mục kiến giả tạo là để nghiên cứu Phái Phật Giáo Tiểu Thừa, đem phổ  biến và áp dụng cho dân chúng Miên Quốc và Ai Lao, tuyên truyền cho tận nơi các sóc, các khum, các làng mạc xa-xôi hẻo-lánh. C̣n về thổ dân Miên mà ở Nam Việt th́ tuyên truyền cho người Miên cư ngụ trong những tỉnh Châu-Đốc, Sóc-Trăng, Trà Vinh v.v… là những nơi có nhiều dân Miên cư ngụ, bắt buộc họ phải theo Phật Giáo Tiểu Thừa, ngấm ngầm là không cho họ Nhập Môn theo CAO ĐÀI GIÁO.

Tờ báo c̣n nhấn mạnh rằng Phật Giáo Tiểu Thừa thành lập là một thủ đoạn đê hèn để đầu độc dân bị trị, cố t́nh thống nhứt Phật Giáo. Trong báo số 25 xuất bản Ngày 16-6-1932 Toàn-Quyền (PIERRE PASQUIER) Bị Tố cáo ngay là hám vọng làm Giáo Chủ Phật Giáo  Thống Nhất, để đối lập hẳn Đạo Cao Đài, định dùng quyền lực của ḿnh mà áp đảo Đức Quyền Giáo Tông  LÊ VĂN TRUNG, tức là áp đảo toàn cả ĐẠO CAO ĐÀI  vậy.

Tờ Báo “LE PROGRES CIVIQUE”, Số 614 đề ngày 16-12-1931, Xuất bản tại Pháp, đă kích và bêu xấu thái độ của Tổng Trưởng Bộ Thuộc Địa “PAUL REYNAVU” trong dịp nầy đi thị sát tại Đông  Dương, Ông cố ư thân hành đến viếng Trung Tâm “PHẬT GIÁO NGHIÊN CỨU VIỆN” tại NAM VANG, Ông tiếp xúc từng vị Sư Săi đến chào ông.

Ư chỉ bất chánh của Toàn Quyền (PIERRE PASQUIER), Thống Nhứt Phật Giáo lập thành “NGHIÊN CỨU VIỆN” theo sự nhận xét của Kư Giả Trung Tá “ALEXIS METOIS” Tác giả bài báo đă lật tẩy cả hai tà thuyết:

-TÀ THUYẾT THỨ NHỨT: Sự kiện Thống Nhứt, tự nó đă trái hẳn với các qui điều của nhà Phật.

-TÀ THUYẾT THỨ NH̀: Kế hoạch để thuyết phục các Sư Săi hiện đang bị lệ thuộc dưới quyền là nghịch hẳn triết lư hư không vô ngă của Phật Đạo.

Bởi vậy Ông Tổng Trưởng Thuộc  địa,”PAUL ROYNAUD” tiếp xúc với các Sư Săi là tự nhận “Ḿnh là tội nhơn ṭng phạm với những kẻ đi ngược giáo điều nhà Phật”.

Với việc trường hợp ngẫu nhiên như trên, nên lúc ấy là lúc Ông Khâm Sứ Cao Miên “LAVIT” đang nghỉ phép bên Pháp, tự nhiên có luồng du luận đồn đăi rằng: Ông sẻ bị thay thế tại Cao-Miên bằng một Ông Khâm Sứ khác, Đó là Ông: “SYLVESTRE”. Đây là một bằng chứng bất ḥa giữa quan lại Pháp, họ mới tạo ra tin đồn ấy, mà rồi tin đồn thành ra tin thật, Ông “SYLVESTRE”Thế cho Ông “LAVIT”.

***

Trong thời gian nầy, thời gian đưa đến cho Hội Thánh Cao Đài được nẩy nở ra Ngoại Quốc liên quan đến Phong Trào Canh Tân Đạo Giáo xứ Ba Tây (MOUVEMENT RÉFORMADOR AU BRESIL).

Giao tiếp với Thánh Đường của một Đạo Giáo bên Đức Quốc gọi là : “EGLISC CNOSTIQUE D’11CMAGNE” và c̣n chẳng bao lâu nữa Tôn Giáo Cao Đài sẽ có mặt tại Hội Nghị Tôn Giáo Quốc Tế (Chicago) Mỹ Quốc.

Trong quan trường, sự hành động của các quan chức lúc nầy cũng được thận trọng, họ cũng nên tránh va chạm tới Đạo Giáo Cao Đài, v́ mỗi khi chư tín hữu bị va chạm, là sẽ có cơ hội cho Hội Thánh kêu ca tranh tụng cho rằng: Chánh Quyền Áp -Đảo Tôn Giáo.

Về phía Tôn Giáo th́ Chư Tín Đồ vẫn dùng phương diện ôn ḥa để tránh sự khiêu khích, tuy nhiên họ vẫn xem thường những quyết định của Nhà Cầm Quyền Hành Chánh, cũng như Tư Pháp. Họ lo xây dựng Uy Tín trong khắp Quần Chúng, để cho Thế Giới thấy rằng Uy Quyền của Chánh Quyền Pháp áp dụng khắt khe đối với Đạo Cao Đài không hiệu quả nữa, v́ không có duyên cớ nào để họ đưa ra Ṭa Án được, Theo đức tin của họ có là nhờ huyền diệu Thiêng Liêng ban bố cho Hội Thánh  có đủ khả năng bảo vệ toàn Đạo.

Tại Cao-Miên, đa số Dân Miên c̣n trong ṿng cương tỏa của bao nhiêu Sắc Luật khắc khe, nên tránh liên hệ với Đạo CAO ĐÀI, chỉ c̣n có Việt-Kiều Hoa-Kiều tiếp tục Nhập Môn Cầu Đạo, cũng không kém phần quan trọng.

                                     

VIII. ẢNH HƯỞNG BẤT H̉A Ở T̉A THÁNH

    LOAN ĐẾN HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO

ĐẠO SỬ CAO ĐÀI, đi đến một giai đoạn biến chuyển: do sự tranh chấp quyền hành giữa Chức Sắc Đại Thiên Phong, làm Tại T̉A-THÁNH TÂY-NINH, cho giảm tinh thần hăng say Truyền Giáo, có ảnh hưởng đến Hội-Thánh Ngoại-Giáo ở Miên-Quốc, một giai đoạn trong những cuộc tranh chấp nầy có liên hệ đến Nền Đạo tại Nam-Vang.

Ông CHÁNH PHỐI SƯ NGỌC TRANG THANH (Tức Lê Bá Trang) mà trong toàn Đạo ai củng đều rơ biết hành vi tại Ṭa Thánh mưu đồ lật đổ ngôi vị của Anh Cả Đức Quyền Giáo Tông THƯỢNG TRUNG NHỰT. Trong vụ tranh giành một tập Hồ  Sơ có liên quan đến Nội Vụ mà Ông NGỌC TRANG THANH cho rằng Ông Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH, Chủ-Trưởng Hội-Thánh Ngoại-Giáo, đă đánh cấp v́ ông nầy phe đảng và binh vực  Đức Quyền Giáo Tông, nên đệ đơn ra ṭa đời Tố Cáo Ông Lê Văn Bảy (Tức là Ông Giáo-Sư Thượng-Bảy Thanh Chủ-Trưởng Hội-Thánh Ngoại-Giáo) về tội cưỡng đoạt hồ sơ, làm cho Ông nầy bị bắt giam hết mấy hôm, trong ṿng tháng tám năm Quí Dậu (1933), Đây là một vụ kiện tụng Giữa Chức Sắc với Chức Sắc, một hiện tượng gây xôn xao tâm năo của toàn thể Hội-Thánh và bổn Đạo.

Ông Lê Bá Trang lại nhơn danh chức vụ NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ, ra Châu Tri hiệu triệu trong việc thành lập “BAN CHỈNH ĐẠO” để đối phó với ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG.

Để làm sáng tỏ lập trường, ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT, liền Bổ Nhiệm Chức Sắc Trung Thành đi Châu Lưu khắp các tỉnh trong Nam Kỳ để tuyển chọn số Đạo Tâm Trung Thành với Chánh Giáo của ĐỨC CHÍ TÔN, và giải thích cho toàn đạo rơ chi tiết về vụ đồ mưu giục loạn của ông (Lê Bá Trang).

Nhờ biện pháp nầy mà trong bổn Đạo ai ai cũng rơ thấu mưu đồ của “Ông Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh” muốn lật đổ Đức Quyền Giáo Tông là bất chánh, nên toàn thể Tín đồ đều hưởng ứng uy tín về Đức Quyền Giáo Tông  THƯỢNG TRUNG NHỰT. Sự thành công vẻ vang nầy có tiếng dội ra ngoài cơi Đông Dương, nhứt là Pháp Quốc.

C̣n về vụ “VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT GIÁO”  Của Toàn quyền Pier PASQUICR  tại Kim Biên, th́ Ban Trị Sự của Viện có phái những vị truyền giáo đi khắp nước Miên và trong các tỉnh Nam Kỳ mà có nhiều Dân Miên cư ngụ, hô hào giảng giải về Phật Giáo Tiểu Thừa của “Nghiên Cứu Viện”.

Lại không quên khuyên nhủ đồng bào của họ đừng theo Tôn Giáo nào khác, Nhất là Tôn Giáo Cao Đài là một Đạo Giáo không phù hợp với Giáo Điều của Nhà Phật.

 

 

IX. LỂ KHÁNH THÀNH THÁNH THẤT KIM BIÊN

 

Sự tích Thánh-Thất Kim-Biên (Như đă tường thuật trong trang 24 tới tràng 27) đă trải qua biết bao trở ngại thăng trầm, biến thiên kể từ năm 1930 trở đi nhưng kết cuộc cũng h́nh thành tốt đẹp (Ảnh Thánh-Thất Kim-Biên được đăng trong Quyển LỊCH-SỬ CAO-ĐÀI. Bằng Pháp Văn tựa đề “HISTOIRE PHILOSOPHIE du CAODAI ISIE”  (Trang 176).

Măi đến Năm 1937 mới làm lễ Khánh Thành liên tiếp trong ba ngày 21-22-23- tháng 5.

Lúc Ấy Ông THƯỢNG VINH THANH (Đă Vinh Thăng Giáo Sư) đương quyền là Phó Chủ Trưởng Hội-Thánh Ngoại-Giáo, thay mặt Hội-Thánh, Đăng đàn đọc một bài diễn văn vang dội toàn cơi Đông-Dương lan đến Pháp Quốc mà có nhiều báo chí đăng tải. Những giai đoạn rất tế nhị của bài Diễn Văn có ghi rơ trong Quyển Lịch Sử và Triết Lư Đạo Cao -Đài mà Tác-Giả là  một Người Pháp, Ông “GABRIE1 GOBRON, Đắc Phong “ TIẾP DẨN ĐẠO NHƠN”  ngày 23-3-1932, nơi Trang 87 tới trang 109, có nhiều đoạn Văn đáng lưu ư bởi có tác dụng làm sáng tỏ tương lai của Đạo CAO ĐÀI, Như đoạn văn trích lục sau đây :

“Ngày Hôm nay Hội-Thánh Ngoại-Giáo CAO ĐÀI ăn Lễ Khánh Thành Thánh-Thất đầu tiên tại Thủ Đô Miên-Quốc, chúng tôi đă chọn ngày 22 Tháng 5 Dương Lịnh (22 Mai) là ngày kỷ niệm Đăng Tiên của Vị văn hào nước Pháp, một Đại Ân Nhân của Nhân Loại tức là Ông V I C T O R   H U G O mà từ năm 1927 tới nay Ngài là Đấng CHƯỞNG-GIÁO Thiêng-Liêng của chúng tôi hằng cảm mến để ghi dấu tất ḷng thành của chúng tôi đối với nước Pháp là nơi xuất thế của một bậc Vĩ Nhân mà chúng tôi đả thọ giáo triết lư cao siêu của Ngài, trong t́nh thương nhân loại. Chẳng những trong ngày giờ nầy, mà ngay từ khi chúng tôi c̣n là một sinh viên trong các trường của Pháp Quốc là một nước đầy tinh thần hào hiệp khoan dung và Nhân Đạo”.

Vào Năm 1937 Nước Pháp thay đổi đường lối Chánh Trị có ư thức áp dụng một thể chế khoan dung đối với các thuộc địa, Sang bằng những nổi bất công đă áp dụng từ trước, nên trong bài Diễn-Văn có lời chứng minh tỏ sự biết ơn như sau :

“Công Việc Phổ Thông ĐẠO CAO ĐÀI, từ đây được thung dung tự toại, sự tự do tín ngưỡng đă được ban bố, chúng tôi tỏ long biết ơn Nước Pháp, một Nước Pháp có ĐẠO CAO ĐÀI, một nước đàn anh có đức độ, có đầy đủ thiện chí dung ḥa trong t́nh thương Huynh Đệ với một tâm lư cao thượng, sẵn sàng d́u đường dẫn lối cho đàn em thiếu phương tiện nhưng đầy đủ phẩm hạnh hiện nay.

“Đối Với Nước Pháp nầy là một Quốc Gia Văn Minh tiến bộ, một nước đầy khích lệ tuyên dương giá trị tinh thần cao cả cho đại đồng, tin thần xây dựng, niềm ḥa ái cho toàn thế giới.

“Nên Chúng Tôi toàn thể Tín Hữu Cao Đài lấy ḷng cảm mến, trân trọng tỏ bày nơi đây sự tri ân nồng  hậu của chúng tôi.

“Trong nhiệm vụ phụng sự Tôn Chỉ Cao thượng Thiêng Liêng, trong khi phục vụ chơn lư đại đồng đương nhiên về h́nh thức, chúng tôi đă ḥa ḿnh với Dân Tộc Pháp, th́ tâm lư hiển nhiên gần gũi bên nhau cả tâm hồn. Do đó chúng tôi có cảm giác rằng, sẽ có nhiều liên quan mật thiết về sự đồng tâm nhứt trí giữa những con người đang sống với những người quá cố, có sự cảm giác chung thể  hiện trong tương lai của nhơn loại vậy”.

***

 

Lúc bấy giờ số tín đồ tại Miên-Quốc gồm lối ba bốn chục ngàn người đến năm 1951, tức là 15 Năm sau Hội-Thánh lập bộ Đạo, kiểm điểm nhân số chính thức trong toàn xứ Cao-Miên được (73.146 Vị) Đạo Hữu, gồm cả Nam Phụ, Lăo Ấu, phân tách ra số Việt-Kiều có (64.995), Số người Miên là (8.210).

Như thế là không ai có thể phủ-nhận được cái kết quả của một công cuộc đàn áp Đạo Cao Đài do quyền lực Bảo Hộ của Nước Pháp cũng như quyền lực của Chánh Phủ Hoàng Gia Miên. Hiện khi mục  kiến tổng số Tín Đồ Nhập Môn càng ngày càng tăng, so với tỷ lệ của con số tín đồ đă thâu hoạch tại Nam Kỳ đó vậy.

         

X. HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO

                

Sự thành lập Hội-Thánh Ngoại-Giáo của ĐẠO CAO ĐÀI, (Mission Etrangere du Caodaism)  Là do quyền năng Thiêng Liêng của Đức CHƯỞNG ĐẠO NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN hay là VICTOHUGO,  và đặt dưới quyền Bảo hộ Hữu H́nh của ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, vào Trung tuần Năm Đinh-Măo (1927).

Trung Tâm Lâm Thời cũng là Thánh-Thất tạm đặt tại đường (Lalande Callan), Nam Vang.

Những Chức Sắc Thiên Phong ban sơ được thọ phong trong một đàn cơ thiết lập tại Thánh-Thất tạm ở Nam-Vang vào đêm 29 tháng 6 Năm Đinh Măo (dl: 27-7-1927) do ĐỨC HỘ PHÁP  và Ông CAO ĐỨC TRỌNG Pḥ Loan (Ông Cao-Đức-Trọng lúc nấy chưa thọ Chức) ĐỨC CHÍ TÔN  giáng xưng danh:

 

NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ VIẾT CAO-ĐÀI

TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA-HA TÁT

Giáo-Đạo Nam-Phương

(Lời Thấy Phán)

THẦY MỪNG CÁC CON

BẢY, LẮM, SỰ - Thầy phong cho ba con Chức Giáo-Hữu.

CHỮ, VINH, CỦA - Thầy Phong cho con chức Lễ-Sanh.

(Và tiếp theo một đoạn văn xuôi Thầy dạy Đạo... Đoạn văn nầy Tác Giả không nhớ).

 

Trong bài Thánh Giáo, không thấy Đức Chí Tôn Phong Chức cho Ông CAO ĐỨC TRỌNG, Đức HỘ PHÁP bèn hỏi ? Bạch Thầy c̣n Em con, (TRỌNG) Sao Thầy không phong chức.

 

Thấy đáp : “TẮC sao con dại quá vậy, TRỌNG thuộc về Chi Đạo bên HIỆP THIÊN ĐÀI”.

 

Tác Giả có mặt Hầu Đàn, c̣n nhớ rơ sự diễn tiến của đàn cơn như vậy, nhưng quên hẳn đoạn văn xuôi của CHÍ TÔN dạy. Với thời gian bài Thánh Giáo nầy không c̣n là bởi lúc tác giả Vân lịnh ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG và ĐỨC LƯ ĐẠI TIÊN, ra hiệp tác với Nhựt Bổn để Cứu Nước, Cứu Đạo, rồi kế bị Pháp Bắt nên Tập Thánh Giáo rơi vào tay Công An Pháp và thất lạc luôn.

Muốn làm sáng tỏ bài Thánh Giáo trên đây, tác giả mạng phép giải ra đây cho rơ hơn:

Ba Vị Thầy Phong Chức GIÁO HỮU:

1/-Ông LÊ VĂN BẢY Làm việc hảng buôn AU FRERIT PARIS,

Sau đổi qua làm việc hảng “DENIS FRERES”.

2/- Ông NGUYỄN VĂN LẮM, Làm việc tại Đông Dương Ngân Hàng Chi Nhánh Nam Vang.

3/- Ông VƠ VĂN SỰ, Có tiệm Thuốc Bắc và pḥng Mạch tại đường Gallieni, Nam-Vang.

 Ba Vị Thầy Phong Chức LỄ SANH:

1/- Ông ĐẶNG TRUNG CHỮ, Kế Toán Viên hăng (ALLATINI)

2/- Ông TRẦN QUANG VINH, Thư Kư Ngạch Bảo Hộ.

3/- Ông PHAN KIM CỦA, Thầu Khoán Biển Hồ và Chủ xe đ̣.

 

Ông CAO ĐỨC TRỌNG, Làm việc tại Văn Pḥng Chưởng Khế Nam Vang, Tác Giả cần giải thích về trường hợp của Ông CAO ĐỨC TRỌNG.

Lúc Phong Chức cho mọi người, CHÍ TÔN không nhắc đến Ông CAO ĐỨC TRỌNG  là v́ Ông nầy đă có Thiên Phẩm trong Hàng Thập Nhị Thời Quân, Đức HỘ PHÁP không hiểu thấu nên mới hỏi ĐỨC CHÍ TÔN, nhờ vậy mới biết Ông là  “TIẾP ĐẠO”.

Buổi ban sơ ở Nam Kỳ, Thầy Phong Chức cho Thập Nhị Thời Quân là 12 Phẩm lớn bên Hiệp Thiên Đài, chỉ có 11 vị được chọn trong ba Chi  PHÁP, ĐẠO, THẾ mà trong Chi Đạo c̣n khuyết một vị trong Phẩm: TIẾP ĐẠO, đó là quyền năng Thiêng Liêng dành sẵn cho Ông CAO ĐỨC TRỌNG ở MIÊN QUỐC, một bí quyết mà người phàm ở thế gian nầy làm sau thấu rơ. Hơn nữa c̣n một bí quyết khác mà ít người để ư, nhờ ĐỨC HỘ PHÁP  chỉ truyền.

Tác Giả mới hiểu quyền năng Thiêng Liêng là vô đối, trong hàng Thập Nhị Thời Quân tức là có 12 Vị (12 Phẩm) nhưng lạ một điều là quyền năng Thiêng Liêng xây chuyển thế nào mà tuổi không trùng nhau nghĩa là 12 vị là 12 con giáp khác nhau:

TƯ, SỬU, DẦN, MẸO, TH̀N, TỴ, NGỌ, MÙI, THÂN, DẬU, TUẤT, HỢI.

 

Sau khi ĐỨC CHÍ TÔN phong, Tái Cầu, Đức Chưởng Đạo NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN, giáng đàn chấm phái :

-Ông LÊ VĂN BẢY: Phái Thượng, Thánh Danh Thượng Bảy Thanh.

-Ông NGUYỄN VĂN LẮM: Phái Thượng, Thánh Danh Thượng Lắm Thanh.

-Ông VƠ VĂN SỰ: Phái Ngọc, Thánh Danh Ngọc Sự Thanh.

-Ông ĐẶNG TRUNG CHỮ: Phái Thượng, Thánh Danh Thượng Chữ Thanh.

-Ông TRẦN QUANG VINH: Phái Thượng, Thánh Danh Thượng Vinh Thanh.

-Ông PHAN KIM CỦA: Phái Thái, Thánh Danh Thái Của Thanh.

 

Trong lúc Tác Giả viết đến đoạn nầy (Năm 1973) th́ trong sáu vị Chức Sắc đầu tiên, bốn Ông đă qui vị:

-Ông LÊ VĂN BẢY: qui vị tại Kim Biên ngày 10-1-năm Mậu-Tư (dl: 19-2-1948).

-Ông NGUYỄN VĂN LẮM: qui vị tại Châu Đốc (Không biết Ngày).

-Ông VƠ VĂN- SỰ: qui vị tại Ṭa Thánh năm 1969.

-Ông  ĐẶNG-TRUNG-CHỮ, Qui-Vị tại Chợ-Lớn Năm 1947.

-Hiện tại c̣n Ông TRẦN QUANG VINH, bị ngưng quyền chức, Tác Giả quyển lịch sử nầy.

-Ông NGUYỄN KIM CỦA: hiện là Giáo Sư. Khâm Trấn Kim Biên Tông Đạo.

Về Phái Nữ, sau lại lần lượt  Đức Chưởng Đạo Giáng Phong:

-Bà Góa Phụ (BATRYA): Nhũ Danh TRẦN KIM PHỤNG, đắc phong Giáo Hữu, sau thăng Giáo Sư.

-Bà LÊ VĂN BẢY: Nhũ Danh ĐẶNG THỊ HUÊ, đắc phong Giáo Hữu.

-Bà NGUYỄN THỊ HẠT: (Thân Mẫu Ông ĐẶNG TRUNG CHỮ) đắc phong Giáo Hữu.

-Bà HUỲNH THỊ TRỌNG: (Bạn của Ông Chữ) đắc phong Lễ Sanh sau thăng Giáo Hữu.

Với thời gian, bốn vị Phái Nữ trên đây đều qui vị.

Tuy nhiên liên tục trong bao nhiêu năm, có nhiều nguyên nhân Nam, Nữ Đắc Phong Chức Sắc thọ đến ngày nay, kẻ mất người c̣n, nhớ không thể xiết kể, trong số đó, Bà Đạo Nhơn VƠ HƯƠNG NHÂM là bạn của Ông Sĩ Tải HUỲNH HỮU LỢI, Bà Qui Vị Tại Ṭa-Thánh, c̣n Ông HUỲNH HỮU LỢI  hiện nay (Năm 1973) Thăng chức Cải Trạng.

-Ông  LÂM TÀI KHÍ, được thăng phẩm Phối Sư qui vị tại Cao Miên.

-Ông NGUYỄN HƯỢT HẢI, Sĩ Tải, qui vị tại (KOMPONG-TRABEK) và c̣n nhiều nữa không thể nhớ hết, xin kiếu lổi cùng chư vị thân nhân của những vị Chức Sắc quá cố đă dày công xây đắp nền Đại Đạo.

***

 

Trung Tâm Bộ của Hội-Thánh Ngoại-Giáo đặt giữa Thủ Đô Miên Quốc gồm đầy đủ Chức Sắc có thiện chí hoạt động rất đắc lực, trong thời gian kỷ lục. Đạo mới phôi thai vừa được một năm (1927-1928), mà số Tín Đồ Nam Nữ Nhập Môn lên tới 10.000 Người.

Nhờ sự sáng suốt trong lề lối kỹ thuật và sanh hoạt hữu hiệu, Chư Chức Sắc Thiên Phong lẫn Chức Việc trong toàn quốc đều được thăng cấp, đặc biệt trong ba năm sau.

-Ông LÊ VĂN BẢY: vinh thăng Giáo Sư (1933), đến năm (1938), mới chuyển về Ṭa-Thánh.

-Ông ĐẶNG TRUNG CHỮ: được thăng phẩm Phối Sư (1939).

-Ông TRẦN QUANG VINH: được thăng phẩm Phối Sư Năm (1948).

-Ông Giáo Sư LÊ VĂN BẢY, được Ṭa-Thánh Bổ Nhiệm làm Chủ-Trưởng Hội-Thánh Ngoại-Giáo từ năm 1927 tới Năm 1937 th́ Hội-Thánh phái đi truyền giáo bên Trung Hoa, Ông đến Vân Nam (YUNNAM) tạm lập một Văn Pḥng Truyền Giáo tại Vân Nam Phủ (YUNNAM FOU). V́ Ông không biết tiếng Trung-Hoa nên phải cần một Thông-Dịch-Viên, Ông hành sự nơi đây được một năm, nên chỉ có kết quà xoàng thôi, qua năm sau (1938) Ông được lịnh hồi hương và được Bổ Nhiệm luôn về Ṭa-Thánh.

-Ông CAO ĐỨC TRỌNG, được ĐỨC CHƯỞNG ĐẠO chỉ định thay thế địa vị Chủ-Trưởng Ngoại-Giáo.

Từ Năm 1937 đến năm 1941, Những Chức-Sắc Thiên Phong kể trên đây được Đức Chưởng Đạo tuần tự Bổ Nhiệm làm Hội-Thánh Ngoại-Giáo:

-Bà Giáo Sư   TRẦN THỊ KIM PHỤNG

-Ông Giáo Sư  ĐẶNG TRUNG CHỮ

-Ông Giáo Sư  TRẦN QUANG VINH

-Ông Giáo Sư  THÁI VĂN GẤM (Ṭa Thánh Bổ Nhiệm)

-Ông Giáo-Sư  TRẦN VĂN PHẤN (Ṭa Thánh Bổ Nhiệm).

Hạ Tuần tháng 7 Nam Tân Tỵ (1941) t́nh thế Đạo biến thiên, Ông Giáo Sư THƯỢNG BẢY THANH, tự trở về Kim-Biên tiếp tục cầm quyền Đạo, cho đến ngày Thánh-Thất bị Chánh-Phủ Bảo-Hộ xung công và phá dở  (1943).

Ông Giáo Sư THÁI GẤM THANH: là một trong số 6 vị Đại Thiên Phong bị Chánh Quyền Pháp bắt lưu đày tại đảo (MADAGASCAR)  và Qui Liễu nơi đó vào ngày 20 Tháng 8 Năm Nhâm Ngọ (Dl: 29-9-1942).

Ông Giáo Sư THÁI PHẤN THANH: cũng bị lưu đày sang (MADAGASCAR)  được trả tự do, hồi hương năm (1946), về Quê nhà tại Vũng Tàu, rồi đến ngụ tại G̣ Vấp và Qui-Vị Vào Năm (1965).

         

HOẠT-ĐỘNG TẠI PHÁP QUỐC

 Đầu mùa Xuân Năm Tân Mùi (1931) Chánh Phủ Bảo Hộ Pháp tại Cao Miên phái Ông TRẦN QUANG VINH (lúc bấy giờ Ông Thọ Phong Giáo Hữu) Sang Pháp Công Cán trong dịp đấu xảo Quốc Tế Thuộc Địa ở (VINCENNES-PARIS).

Thừa Cơ Hội Ông Truyền Giáo và Vận Động cho Đạo Cao Đài, được tự do Tín Ngưỡng ở Đông-Dương. Ông thuyết phục và gầy dựng được một số nhân vật tín ngưỡng ở Đông-Dương, Chánh khách Pháp có thiện chí với Đạo Cao Đài. Trong số ấy với 5 vị kể tên sau đây được thọ phong Chức Sắc vào năm (1832):

1/-TIẾP DẪN ĐẠO NHƠN: Ông Gaoriel Gobron, Giáo Sư Trung Học.

2/- Nữ Giáo Sư: FELICIEN CHALLAYE Bạn của  Ông Giáo Sư Đại Học (SORBONNE).

3/- Giáo Hữu: Ông Charles BELLAN, Cựu Tham Biện ở Đông Dương.

4/- Giáo Hữu: Ông Gabriel, ABADIE de LESTRAC, Luật Sự Ṭa-Án PARIS.

5/- Nữ Lễ Sanh: Bà Marguerite GOBRON, Sau thăng Giáo Hữu. (Bạn của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn GABRIEL GOBRON).

Ngoài ra, c̣n các vị ân nhân can thiệp cho sự tự do tín ngưỡng tại Đông Dương  đáng kể nhất là:

1/- Ông A1bert SARRAUT: Tổng Trưởng.

2/- Ông Alcxis METOIS: Trung Tá Quân Đội Pháp.

3/- Ông  Edouard DAIADIER: Tổng Trưởng và Cựu Thủ Tướng.

4/- Ông, Henri GUERNUP: Nghị sĩ Quốc hội, Cựu Tổng Trưởng. Tổng thư Kư Hội Nhân Quyền.

5/- Ông  Emile XAHN: Tổng Thư Kư Hội Nhân Quyền.

6/- Ông Ernest, OUEREY: Nghị Sĩ Quốc Hội Pháp Tại Nam Kỳ.

7/- Ông Eugene TOZZA: Luật Sư Ṭa Thượng Thẩm PaRis.

8/- Ông Fe licien CHALIKTE: Giáo Sư Đại Học (Sorbonne).

9/- Ông Marius NOUTET: Nghị Sĩ Quốc Hội Pháp, Bà Tổng Trưởng.

10/- Cô Marthe WILLIAMS: Nghị Viện Hội Nhân Quyền.

11/- Ông Paul RANADIER: Nghị Sĩ Quốc Hội Pháp.

12/- Ông Marc RUCART: Nghị Sĩ Quốc Hội Pháp.

13/- Ông  Jean PIOT: Nghị Sĩ Quốc Hội Pháp.

14/- Ông Jean Miche1 RENAITOUR: Nghị Sĩ Quốc Hội pháp.

15/- Ông VOIRIN:  Nhân Sĩ.

16/- Ông Andre PNILIP: Nhân Sĩ.

17/-Ông Jean IAFFRAI: Chủ Nhiệm Kiêm Chủ Bút Báo LA GRIFFE.

         

Ngoài ra tại Đông Dương c̣n bao nhiên nhân vật binh vực Cao Đài như Nhị Vị Trạng Sư:

-LORTA-JACOB: Trạng Sư Ṭa Thượng Thẩm Saigon đặt Văn Pḥng tại Nam Vang.

 -Rogor LASGAUX: Trạng Sư  -id-

Và ba quan Khâm Sứ  tại Miên Quốc là Ông RICHOMNE, Ông SYLVES TRE  Và Ông THIBAUDEAU, mặc dầu là Quan Bảo Hộ của Pháp Triều, nhưng ba Ông nầy để yên cho Đạo Cao Đài mà lắm lúc c̣n bênh vực là khác.

Tác Giả là người trong cuộc, xin nhấn mạnh rằng hai Ông, LASCAUX và LORTAT-JACOB, mặc dù là nghề nghiệp Trạng Sư, nhưng với một tâm hồn Cao Thượng, Hai Ông thường nói rằng lấy Lương Tâm và T́nh Thương Nhơn Loại mà bào chữa cho sự Bất Công, nên không bao giờ thọ một thù lao nào của Đạo. Tác Giả xin lấy hết Danh Dự và Lương Tâm mà chứng nhận sự nầy.

C̣n về phần Báo Chí, th́ có các báo sau đây liên tiếp bào chữa và tường thuật tất cả mọi sự áp chế Đạo Cao Đài:

1)- LA LIBRE OPINION-PARIS.

2)- CAHIER de le LICGUE, des DROITS de L’HOME-FARIS.

3)- La GRIFFE-PARIS.

4)- Le BRCGRES CIVIQEE-PARIS.

5)- Le FR.TERNISTE-LILLE (Nord).

6)- Le re1veil, OUVRIER – NANCY.

7)- Le SEMEUR-FAIAISE (Ca1Vados).

8)- L’AURORE MALGACHE-TAMANARIVE.

9)- GERMINAL-CROIX (Nord).

10)- La TRIPUNE INDOCHINOISE-SAIGON.

 

Với sự ủng hộ và bênh vực nhiệt t́nh của bao nhiêu nhân vật, Chánh Khách và Báo Chí, Đạo Cao Đài hưởng được chế độ khoan hồng của Chánh Phủ Pháp, do cuộc đồng thanh quyết nghị của Quốc Hội Pháp vào khoản tháng 2 Năm 1932. Tiếp theo đó là sự tự do tín ngưỡng cho Đạo Cao Đài, được ban bố trên toàn cơi Đông Dương. Đó là kết quả của thời gian tranh-đấu, Kiên Nhẫn và chịu khổ của Toàn Đạo, ít ra cũng nhiều năm liên-tục.

Cuối Mùa Đông Năm Tân -Mùi (1931) Ông TRẦN QUANG VINH  tức HIỂN TRUNG, đă măn hạn công cán tại Pháp Quốc trở về tới Saigon vào ngày 30 tháng 12 Năm 1931.

Lúc Tàu cặp bến Nhà Rồng th́ có: ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG-TRUNG-NHỰT, ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, Ông Chánh Phối Sư THÁI THƠ THANH, Ông Bảo Văn- Pháp Quân CAO QUỲNH DIÊU, Ông Giáo Hữu THƯỢNG TUY THANH (Tức là ông Từ Huệ), Ông Giáo Hữu THÁI GẤM THANH, đón tiếp mừng rỡ.

Chiều lại sau bữa tiệc do Ông THÁI THƠ THANH khoản đăi tại Tư Gia của ông ở Tân Định, ĐỨC HỘ PHÁP  có nhă ư thiết lập một đàn cơ trên lầu ba, trước Thiên Bàn có đủ mặt các vị kể trên.

ĐỨC HỘ PHÁP và Ông BẢO VĂN PHÁP QUÂN Pḥ Loan, Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn Giáng Cơ tỏ vẻ vui mừng và bảo HIỂN TRUNG, đưa đầu vào bàn cơ, Ngọc Cơ úp  trên đầu Hiển Trung tỏ vẻ ban ơn. Bài Cơ bằng Pháp Văn có đăng tải trong quyển sách “LESMESSAGES SFIRITES” Trang 63, và trong Quyển “BỔ TÚC HỒI KƯ” của PHỐI SƯ THƯỢNG VINH THANH, có phiên dịch ra Việt Văn.

Đêm mùng chín tháng giêng Năm Nhâm Thân (Dl: 14-2-1932)  Giáo Hữu THƯỢNG VINH THANH, Về Ṭa-Thánh hầu lễ Vía ĐỨC CHÍ TÔN, măn đàn là 4 giờ sáng. Chư Chức Sắc và Chư Đạo Hữu, đứng bài bản, Nam Tả, Nữ Hữu. ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG  bèn dạy: Giáo-Hữu THƯỢNG VINH THANH, Đănh Lễ Thầy rồi giới thiệu Công Tác của Đạo ở Pháp Quốc, trên tay Anh Cả th́ cầm một tập hồ sơ đưa lên cao và tuyên bố rằng: Đây là tất cả công việc của Em “THƯỢNG VINH THANH”, lo cho Đạo tại Pháp, nhờ đó mà ngày nay nền Đạo mới được Chánh Phủ Pháp ban bố sự tự do tín ngưỡng trên toàn cơi Đông Dương và ân xá tất cả tù tội và phạt vạ.

ĐỨC QUYỂN GIÁO TÔNG tuyên dương công trạng của Giáo Hữu THƯỢNG VINH THANH tại giữa Đền-Thánh, không tiếc lời khen ngợi. Trong lúc ấy Anh Cả đọc lớn bốn câu văn dạy Đạo của Bát Nương Giáng tại Ṭa-Thánh rút trong một bài “Trường-Thiên” Ngày 18 Tháng 9 Năm Canh-Ngọ (dl: 8-11-1930), Do ĐỨC HỘ PHÁP và Ngài BẢO VĂN PHÁP QUÂN Pḥ Loan, Sĩ Tải Phạm Văn Ngọ Hầu bút như sau :

          “Nếu có kẻ an bang tái thế.

          “Qú mà nghinh lấy lễ trọng người.

          “Cỗi thân ra mănh áo tơi,

          “Che mưa đỡ nắng cho đời nguy nan.

 

Đọc xong bốn câu văn, Anh Cả liền qú xuống, Đức Hộ Pháp cũng qú luôn và toàn cà Đàn noi gương hai Anh lớn đều qú tất cả.

Giáo Hữu THƯỢNG VINH THANH, đứng trước một hoàn cảnh bất ngờ lấy làm bối rối, không biết làm thế nào hơn là qú mọp xuống trước mặt Anh Cả lạy hai lạy rồi đứng dậy kính cẩn đa tạ Anh Cả, ĐỨC HỘ PHÁP  và toàn cả Đàn Tiền, luôn tiện lượt thuật sơ qua công tác đă làm tại Pháp Quốc.

Trên đây là một đoạn Lịch Sử mà Tác Già là một Chức Sắc thủ vai tuồng chánh ghi lại với tất cả sự trung kiên và thành thật.

 

Lưu Ư Chư Đọc Giả: Giai-Đoạn trên đây “Giáo Hữu THƯỢNG VINH THANH, đi truyền giáo và hoạt động tại Pháp Quốc đă có đăng tải từ chi tiết trong “Quyển Bổ-túc Hồi-Kư” của Phối-Sư THƯỢNG-VINH-THANH, (Năm 1973).

***

Để tỏ long Tri Ân các vị Ân Nhân của Đạo đă kể trong quyển sử nầy, nên nhân dịp ăn lễ Khánh Thành Thánh Thất Kim Biên Ngày 22-3-1937. Hội-Thánh Ngoại-Giáo có long trọng tạo dựng một bia đá cẩm thạch với chữ mạ vàng, ghi sâu danh các Nhân Sĩ Chánh Khách Tiên Phong của Pháp Quốc đă có tấm dạ nhiệt thành với ḷng thương nhơn loại ủng hộ Đạo Cao Đài được thành công trọn vẹn để lưu niệm đời đời.

 

 KẾT LUẬN

 Đoạn Lịch Sử nầy ghi nhận những trở ngại mà các bậc tiền nhân đă gặp phải trong buổi nền Đạo mới phôi thai từ Năm 1926 trên đất Miên, một giai đoạn thử thách hiển nhiên mà toàn cả thế gian đều biết.

Sự tranh đấu sống c̣n của ĐẠO CAO ĐÀI, đặng kết quả mỹ măn và đă thành công là nhờ tài Lănh Đạo của ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG và ĐỨC HỘ PHÁP nên HỘI-THÁNH NGOẠI-GIÁO mới tồn tại đến ngày hôm nay.

Tác-Giả chỉ ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe với tất cả sự trung thực và cũng căn cứ vào những tài liệu lưu trữ tại Văn Khố của Miên Triều và Văn Khố của Chánh Phủ Bảo Hộ Pháp Quốc tại Kim Biên.

T̉A-THÁNH TÂY-NINH, Mùa Thu Năm Kỷ  Dậu (1969),

Tác Giả Chỉnh Lại, Cũng vào mùa Thu, Năm Quí Sửu (1973).

 

(Kư-Tên)

      TRẦN-QUANG-VINH

 

 

LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI

 PHẦN THỨ HAI
NHỮNG CHUYỂN BIẾN QUAN TRỌNG (1932-1941)
KHÚC QUANH LỊCH SỬ (1941-1946)

 

@&?

Tác Giả : THƯỢNG VINH THANH
TRẦN QUANG VINH
Đạo Hiệu : HIỂN TRUNG
  
(1973)


do ông Đoàn Yến Thanh sưu tầm và đánh máy

 

MỤC LỤC:

I – HÀNH VI CỦA HAI ÔNG CHÁNH PHỐI SƯ THƯỢNG TƯƠNG THANH (Nguyễn Ngọc Tương) và NGỌC TRANG THANH (Lê Bá Trang).

II- ĐỨC HỘ PHÁP TẠO LẬP PHẠM MÔN.

III - NHỮNG SỰ TRANH CHẤP VÀ CHỐNG ĐỐI LẪN NHAU TẠI T̉A THÁNH.

IV- SỰ THĂNG TIẾN CỦA ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC (1934-1940).

V – KHÚC QUANH LỊCH SỬ: ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC và 5 Vị Chức Sắc Đại Thiên Phong Bị Chánh Quyền Pháp Bắt lưu đày.

     A)- Thái Độ Chư Chức Sắc sau ngày ĐỨC HỘ PHÁP THỌ NẠN.

     B)- Sự Hoạt Động của Hai Vị Chức Sắc HIỆP THIÊN ĐÀI.

VI – TOÀN ĐẠO HIỆP TÁC VỚI QUÂN ĐỘI NHỰT BỔN LẬT ĐỔ CHÁNH QUYỀN ĐÔNG DƯƠNG  (Đêm 9-3-1945).

VII - TIỂU SỬ VÀ DI NGÔN CỦA ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC.

 

I. HÀNH VI CỦA HAI ÔNG CHÁNH PHỐI SƯ THƯỢNG TƯƠNG THANH (Nguyễn Ngọc Tương),

và NGỌC TRANG THANH (Lê Bá Trang)

 

Để Thống Nhứt nền Hành Chánh Đạo, Ông Nguyễn Ngọc Tương, đương quyển Thượng Chánh Phối Sư tại Ṭa Thánh Tây Ninh (Năm 1932) cố gắng bài trừ nạn chia phe phân phái xem có ṃi nguy hiểm do Ông Phối Sư THÁI CA THANH (Nguyễn Văn Ca) Cựu Đốc Phủ Sứ về hưu) đả tách rời Ṭa Thánh về lập một Chi Phái ở Mỹ Tho, Ông Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh triệu tập một phiên ṭa đặng xử ông THÁI CA THANH, có hành vi Nghịch Đạo Pháp.

Thế rồi một nghị định đề ngày 25 tháng 6 Năm 1932, Chiếu theo bản án của phiên ṭa nói trên, Ngưng Quyền Chức ông THÁI CA THANH, trong một thời hạn là 3 Năm và khai trừ khỏi Hội Thánh, h́nh phạt nầy được thông báo cho toàn Đạo.

Tiếp theo Hội Thánh phái nhiều Chức Sắc lănh trách vụ, đi viếng các Thánh Thất để nung đúc tinh thần của toàn Đạo, chư Đạo Hữu đồng thời giải thích cho họ hiểu rằng: Triết lư và chơn tướng của ĐẠO CAO ĐÀI chỉ do nơi nguồn cội tại Ṭa Thánh Tây Ninh mà thôi. Song song với vụ trên, Chư Vị Giáo Hữu đương cầm quyền Hành Chánh tại các Tỉnh đều được lịnh mời về Ṭa Thánh để dự khóa Tu Nghiệp.

Một phái đoàn Chức Sắc Hội Thánh đến yết kiến Ông Ernest, (OUTREY), Nghị Sĩ Quốc Hội Pháp nhờ Ông nầy can thiệp với Chánh Phủ Pháp cho Đạo Cao Đài được tự do tín ngưỡng. Phái Đoàn Hội Thánh không quên nhấn mạnh lưu ư Ông Nghị Sĩ, Đại Diện một Thuộc Quốc tạ Hạ Nghị Viện Pháp, rơ thấu Tôn Chỉ của Đạo Cao Đài khác hẳn với hành tàng của Cộng Sản đă từng gây tang tóc, máu đổ xương rơi tại mấy vùng ở Đông Dương trong khoản năm (1930-1931).

Ông Nghị Sĩ hứa sẽ thỏa măn yêu sách của phái đoàn bằng cách vận động cho tất cả Dân Việt Nam có Đạo Cao Đài được sự ân hưởng tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ hợp hiến.

Qua ngày hôm sau Báo “La Tribune Indcchinoisc” Tại Saigon có tường thuật lại một cách trung thực cuộc tiếp xúc nầy, Đồng-thời Tờ Cao Đài Tạp Chí (Larevue Cacdafste) kỳ tháng 6 Năm 1952 củng đă ca ngợi cử chỉ đoan chánh của Nghị Sĩ Outrey. Thái độ khoan hồng nầy được Hạ Nghị Viện Pháp xác nhận trong văn thơ đề ngày 18-7-1932, gởi Ông Gabriel Gobron, là một trong các vị ân nhân nhiệt t́nh bênh vực cho Đạo Cao Đài.

Trong Văn-Thơ có đoạn viết :

“Hiển nhiên tôi có đ̣i hỏi cho những Tín Đồ Cao Đài ở Nam Kỳ một chế độ Tự Do hơn trước.

“Sự thật, từ lâu tôi có ác cảm đối với họ, tôi cũng từng yêu cầu chánh quyền theo dơi họ một cách nghiêm khắc, nhưng đến ngày nay, tôi có đủ lư lẻ để nh́n nhận rằng: những Phúc-Tŕnh gởi đến tôi báo cáo về Đạo Cao Đài, nếu không hoàn toàn là gian dối th́ ít ra củng có thêu dệt một cách quá đáng. Giờ đây tôi được biết rơ nhiều người Việt Nam có Đạo Cao Đài, đứng vào bậc thượng lưu  trí thức ở trong xứ đă từng chứng tỏ ḷng trung thành đối với nước Pháp đó là động lực thúc đẩy tôi tuyên bố trước mặt họ là tôi quyết tâm đ̣i hỏi một thể chế Tự Do Tín Ngưỡng cho Tôn Giáo Của Họ”.

Đồng thời có nhiều thành tích từ hải ngoại bênh vực giới Chức Sắc cao cấp lănh đạo tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh về công cuộc phổ thông Giáo Lư.

Tại Pháp Quốc, Đạo Cao Đài được sự ủng hộ của Hội Nhơn Quyền, các cơ quan Thần Linh Học, các báo chí có thái độ ôn ḥa như:

La Libre Opinion (Tự Do Ngôn Luận).

Le Frogrès Civique (Dân Tiến).

Le Griffe (Móng Nhọn).

          Vu (Thấy).

Le Fraterniste ( Huynh-Đệ, tại Lille).

Le Réveil Ouvrier (Tỉnh Giấc Lao Động, tại Nancy).

Le Semeur( Người Gieo Giống, tại Falaise).

Germinal ( Nẩy mầm của Nhà xuất bản Miền Bắc Nước Pháp).

Giáo Sư LÊ VĂN BẢY làm giấy ủy nhiệm cho người thay mặt Ông đi dự Hội Thần Linh Học Quốc Tế tạ Luân Đôn (Londres) và đây là lần đầu tiên  tiếng nói của Đạo Cao Đài mới được nghe thấy trong một Hội Nghị Quốc Tế.

Tại Đức Quốc đă có giấy liên lạc liên quan mật thiết với Đại Thánh Đường GNOSTIQUE  (Egliso Gnostique d’Allemagne) mà Đức Chưởng Giáo Quản Khu là ông: GOLDWIN Được tặng thường Cao Đẳng Huân Chương Khoa Học Huyền Bí, lại viết thư cho  Đức Quyền Giáo Tông THƯỢNG TRUNG NHỰT, yêu cầu cho Ông được rơ thấu Tôn Chỉ và Giáo Lư Của Đạo Cao Đài  để truyền bá trong nước.

Một Cựu Tham Biện Chủ-Tỉnh tại Đông Dương, Ông Charles BELLAN, Tự Nguyện đứng ra bảo vệ nền Tôn-Giáo.

Năm (1933) Ṭa Thánh Tây Ninh phái người đi dự Đại Hội Quốc Tế THẦN LINH HỌC tại CHICAGO” Mỹ Quốc.

Tuy nhiên hoàn cảnh Ṭa Thánh Tây Ninh lại không mấy khả quan, chỉ hưởng được mấy năm thịnh vượng, rồi tiếp liền theo đó là giai đoạn kinh tế khủng hoảng trầm trọng toàn Đông Dương từ năm 1930, không khỏi ảnh hưởng tới Ṭa Thánh Tây Ninh, mà số tài nguyên hiện có không đủ sức tiếp tục các công tác dự trù.

Diện Tích đất đai của Ṭa Thánh lúc ban Sơ là 96 Mẫu Tây, trên thực tế đă được mở rộng gấp ba lần là nhờ công lao của Chư Tín Đồ khai khẩn những khu rừng hoang vu chung quanh vùng, hoặc đă mua lại đất Lâm Sản của những chủ khác.

Nền Kinh Tế kiệt quệ, mọi việc sinh hoạt đều ngưng trệ làm cho người ngoại quốc đến viếng Ṭa Thánh có cảm tưởng đến một vùng xác sơ nghèo khổ và khốn đốn.

T́nh trạng như thế nầy không thể thu hút được đông khách hành hương du ngoạn, con số đă sụt bớt lần, đồng thời số tiền hỉ cúng cũng giảm theo.

Thiên phóng sự của Kư Giả (Geoges PEYNOND ) Đăng trong tạp chí ILLUSTRATION Số: 4748 Ngày 3-3-1934 tả cảnh u buồn Của Ṭa Thánh  VaTiCan Việt Nam như Sau:

“Đây là một Địa Cảnh gồm nào là Chùa Chiền, Thư Viện, Cốt Tượng, Mồ Mả, Miếu Tháp, Văn Pḥng Làm việc, nơi thông công cùng các Đấng Thiêng Liêng, các sở ruộng rẫy, các lối đi nhỏ hẹp làm cho khách in trí đó là một cảnh vật tiêu sơ khốn khổ hầu như hoang phế. Kinh tế dường như kiệt quệ. Nhà điện không chạy nữa, máy móc nằm yên trên một gộc đá. Các Cơ Sở ruộng rẩy, với những cuộc khai hoang, h́nh như ngưng hoạt động.

“Nơi Chánh Điện, Sự tiếp đón Khách Khứa vô cùng lễ độ. Vài gă Thanh Niên có vẻ mệt nhọc v́ chay lạt hoặc v́ thái quá trong trai giới, đang làm lụng vất vả uể oải, vào công việc nhẹ nhàng đứng dậy chào khách khi chúng tôi đi ngang qua đó.”

Những nổi khó khăn về vật chất chưa đủ giải thích cảnh thương  tâm nầy, thêm vào đó là lột cuộc tranh chấp Quyền Hành Giữa Chức Sắc Cao Cấp. Việc tranh chấp quyết liệt đến mức độ xảy ra vào năm 1933.

Chúng ta thử phát họa ra đây nếp sanh hoạt của Tín Đồ Cao Đài:

Vào Năm 1931-1932 Chánh Quyền Pháp dùng thế lực ngăn chận Bổn Đạo không cho hội họp cúng kiến không quá 20  người, lại c̣n đưa ra lắm biện pháp cấm giảng Đạo v́ cho đó là có tánh cách làm rối cuộc trị an công cộng. Hơn nữa là theo dơi hành vi xê dịch của Chức-Sắc, ngăn cản các cuộc di cư của Tín Đồ Trung Thành về cư trú vùng Ṭa Thánh. Nếu cần th́ nhà cầm quyền cho lính Cảnh Sát, đến giải tán, các cuộc hội họp cúng kiến không có xin phép, hoặc bắt bớ để truy tố ra Ṭa Án, và cuối cùng là đưa ra ngục, đóng cửa những Thánh Thất không có giấy phép xin khai mở hợp lệ.

Năm 1932 Ṭa-Thánh Tây Ninh kiểm soát trong khắp các Tỉnh Nam Kỳ 128 cái Thánh Thất, phần đông xây cất trong các Tỉnh: Mỹ Tho, Bến Tre, Chợ Lớn, Gia Định.

Thông thường biện pháp đóng cửa Thánh Thất không gây ra phần phản ứng rắc rối, Chánh-Quyền đem áp dụng tại các Tĩnh Miền Tây nhiều hơn các nơi khác.

Hồi Tháng 3 năm 1931 trong Quận Cà Mau có hai cuộc hội họp cùng kiến Qui Tụ, mỗi nơi trên 200 Đạo Hữu không xin phép. Cảnh Sát đến giải tán và bắt 81 người trong số  đó có 48 vị tín đồ bị giam vào khám.

Tại Rạch Giá  những cuộc hội họp cúng kiến như thế củng bị báo cáo lên Thượng Cấp.

Nhiều Phúc Tŕnh Cơ Quan Hành Chánh trong mấy tháng tiếp theo đó cho biết sự bành trướng của Giáo Phái Cao Đài và việc tranh chấp quyền hành trong hàng Chức Sắc thuộc hệ thống Ṭa Thánh Tây Ninh. Có phải chú trọng đến vấn đề Qui Nhứt, đồng thời bảo thủ số Đạo Hữu trung kiên hơn là thâu thập thêm người mới.

Trong ṿng tháng 8, tháng 9 Quyền Hành Chánh Địa Phương Tỉnh Sa Đéc và Vĩnh Long, đóng cửa nhiều Thánh Thất là v́ tại Vĩnh Long cũng như tại Rạch Giá và Thủ Dầu Một việc truyền bá Giáo Lư Cao Đài có vẻ hoạt động mạnh mẻ vào khoản cuối năm 1951.

Ông Chánh Phối Sư THƯỢNG TƯƠNG THANH, tận dụng mọi thủ đoạn vận động bên Chánh Quyền đặng tranh thủ ưu thế tự do hơn phái Tây Ninh, Ông lập những Tờ Thỉnh Nguyện của Tín Đồ tỏ dạ trung thành với Chánh Quyền Pháp. Cam kết rằng mọi hoạt động của Ông chỉ có mục đích duy nhứt trong phạm vi Tôn Giáo thuần túy.

Tháng 11 Năm 1951, Chánh Phối Sư THƯỢNG TƯƠNG THANH, để lên Quan Thống Đốc Nam Kỳ một tờ Cam Kết với (15,000 chữ kư) của Chức sắc và Tín Đồ về phái của Ông, cam đoan với Chánh-Phủ là không hề làm diều chi gây rối an ninh trật tự công cộng, để xin cho bổn đạo được tự do cúng kiến các kỳ lễ vía trong các Thánh Thất.

Sau cuộc hội nghị với quan Chủ Tỉnh và Quan Thống Đốc, Ông Chánh Phối Sư THƯỢNG TƯƠNG THANH, được hồi đáp như sau :

“Với sự chấp thuận của Phủ Toàn Quyền v́ chứng tớ cam kết, Chánh Phủ không thể cho phép một cách tổng quát các cuộc nhóm họp ŕnh rang, mặc dù với những Văn Kiện kêu ca về lượng khoan hồng, thảy đều có quan hệ trực tiếp đến nền an ninh trật tự của Nhà Nước.”

Tuy Nhiên Ông được phép cử Hành Lể Giáng Sinh (NOEL) tại Ṭa Thánh Tây Ninh, Chư Tín-Đồ và Dân-Chúng đến dự đông đảo, trong số có một phái đoàn Cao Miên có vẻ sang trọng rất được chú ư.

***

T́nh h́nh khẩn trương chỉ phát hiện từ năm 1932.

ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT, lần hồi ra mặt nhờ  ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, để cũng cố được uy thế trong lúc Ông Chánh Phối Sư NGUYỄN NGỌC TƯƠNG, t́m cách nương tựa Chánh Quyền để đối phó với hành động chia phe phân phái của Ông Chánh Phối Sư THÁI CA THANH  mà Ṭa Đạo đă lên án, loại trừ, đồng thời nghiêm thái độ với các chi phái khác.

***

Thật vậy Ông Cựu Hội Đồng Quản Hạt VƠ VĂN THƠM, Tại Cần Thơ cố gắng qui tụ chung quanh ông một số tín đồ, không chịu tùng Ṭa Thánh Tây Ninh, c̣n Ông Cựu Đốc Phủ Nguyễn Văn Ca, đối với toàn khối tín hữu chính thống, đă tự ông tỏ ra là một địch thủ đáng sợ. Ông Ca hoạt động bành trướng mạnh mẻ về miền Tây, đặc biệt là tại Rạch Giá nhờ có sự trợ lực của Ông Đốc-Phủ TRẦN NGUYÊN LƯỢNG”.

Tại Trà Vinh, bào huynh Ông là Y Sĩ chánh ngạch Nguyễn Văn Phấn mà hành động khiến Chánh Quyền lưu ư vào khoản tháng 3 Năm 1932; những tuyên Ngôn của Ông PHẤN có dụng ư làm cho người ta tin tưởng rằng có một ḿnh ông có thể ḥa giải được các Chi Phái Miền Tây với Ṭa Thánh Tây Ninh mà thôi, Ông có cử chỉ khiêu khích chánh quyền địa phương để cố tạo cho ông một uy thế huyền ảo có thể đưa ông lên tới một địa vị trọng yếu đứng hàng đầu trong nền Đạo. Ví như vào tháng 3 Năm 1932, Ông khai mở một cái Thánh Thất bất hợp pháp để khuyến rủ chư Tín đồ hội họp cúng kiến trong khi Chánh Quyền đă ra lịnh cấm các sự tu-họp quá 20 người, Ông cho Tín Đồ Nhập Đàn mỗi lần 3 người vào bái lễ, xong rồi rút ra ngoài để nhường chỗ cho ba người khác vào cúng lạy cho đến khi hết số Đạo Hữu tựu họp.

Khắp nơi, việc hoạt động truyền giáo có ṃi ráo riết có phải chăng đây là v́ mục đích tranh giành ảnh hưởng giữa các Chi Phái hơn là v́ Đạo Tâm tín ngưỡng.

Đại Khái người ta không quên những kết quả thắng lợi tại Pháp Quốc và Đức Quốc; bằng chứng cụ thể là một số Văn Thơ trao đổi, qua lại giữ Ṭa-Thánh Tây-Ninh với các đô thị lớn bên Âu Châu do Ông NGUYỄN VĂN KHANH (Dân Tây) tức là : Páu Marchet (1) Giám Đốc Nhựt Báo “Le Phero Indochinois” (Đàn rọi Dông-Dương) vừa trao cho Cảnh Sát Trưởng Địa Phương ngày 20 tháng 9 Năm 1932.

***

Mấy tháng trôi qua, Hai ông Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang đă mất một phần ảnh hưởng quan trọng.

ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT và ĐỨC HỘ PHÁP, lướt qua cơn giông tố buổi đầu.

 

…………………..

(1)            Số Văn Kiện nầy làm nổi bậc các Danh Nhân Chánh Khách Như Ông Henri Guernut, Nghị Sĩ Tỉnh Kisne, Ông Emile Kahn, Tổng Thư Kư Hội Nhân Quyền, các Văn Kiện can thiệp đều gởi đến Ông Tổng Trưởng Bộ Thuộc Địa là Ông: A1bert Sarrautm, để xin chánh thức nh́n nhận Đạo Cao Đài.

Từ Đức Quốc, Ông Go1vwin, Viết thư cho Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt xem như là một “ĐỨC-THÁNH-CHA” để ca tụng Công-Đức.

 

Bây giờ đă thành công và tiếp tục chấp chưởng quyền hành nền Đạo cho đến lúc xảy ra hai biến cố quan trọng có ảnh hưởng lớn lao trong toàn Đạo đó là:

1- ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT Đăng Tiên, vào ngày 13 Tháng 10 Năm Giáp-Tuất (8-11-1934).

2- ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, bị thực dân Pháp bắt đày ra hải đảo MADAGASCA (Phi-Châu) Ngày Mùng 4 Tháng 6 Nhuần Tân Tỵ ( 27-7-1941).

  

          II.   ĐỨC  HỘ PHÁP TẠO LẬP PHẠM MÔN

     Lúc bấy giờ (Năm 1933) Trường Đạo chia ra hai khuynh hướng rơ rệt:

Một Thành phần xu-hướng theo hai Ông Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương và Ông Lê Bá Trang bị mất ảnh hưởng và tín nhiệm tại Ṭa Thánh.

Một phần khác lại là phần đông có Đạo tâm có khuynh hướng Tu Chơn, cầu tiến trung kiên, nguyện ở lại Ṭa Thánh, dưới sự lănh Đạo của ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT  và ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC. Trên thực tế, Đức Quyền Giáo Tông càng ngày càng sát cánh với Đức Hộ Pháp và nương theo uy thế của ông nầy tiến bước.

Đức Hộ Pháp nương theo gương giáo hóa, của Đức KHỔNG PHU TỬ, lập KHỔNG-MÔN, để tạo thành một cơ Sở “PHẠM-MÔN” gồm một số thiện tín trọn dạ trung thành cùng Ngài. Số tín đồ gia Nhập PHẠM MÔN tăng rất nhanh, gồm (500 Vị), xem như một tập thể Cộng Sản Đạo Đức mà những Đạo Sở đều sẵn ḷng phát nguyện hiến dâng tất cả sự nghiệp, sanh mạng và tài sản cho nền sanh hoạt cộng đồng. Mọi người tập trung tài lực thành quả lao công để chia sớt nhau những nhu cầu hằng bửa để chung sống với nhau như công thức của Ông (FOURRIER) là : (TẤT CẢ CHO MỘT, MỘT CHO TẤT CẢ)  hay nói một cách khác là : “NHỨT BỔN TÁN VẠN THÙ, VẠN THÙ QUI NHỨT BỔN”.

Các môn Đồ nầy xem như đàn con trong một gia-đ́nh đặt dưới sự lănh đạo của một Cha Già là: ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC mà mọi người đều suy tôn là “SƯ PHỤ”.

Họ được ràng buộc chặt chẻ với nhau bằng “Huyết Thệ” và được thọ truyền Bí Pháp mà h́nh thành một nhóm cẩn mật, trọn tâm thần tin tưởng nơi sự hướng dẫn của ĐỨC SƯ PHỤ  để lập công bồi đức.

Có dư luận xuyên tạc rằng Đức Ngài đi sái Chơn Truyền của Đạo bởi sở hành trái với tôn chỉ đại đồng.

 

 

III. NHỮNG VỤ TRANH CHẤP 

VÀ CHỐNG ĐỐI LẪN NHAU TẠI T̉A THÁNH

 

Hai vị Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh, không chống đối nổi với phong trào càng ngày càng thắng lợi của  ĐỨC-QUYỀN GIÁO-TÔNG  và ĐỨC HỘ-PHÁP, đành phải  đi viện binh để làm hậu thuẫn; Đây là Ông NGUYỄN PHAN LONG, Hội Đồng Quản Hạt, một Chánh Trị gia lại là chủ bút, hiện đang nổi tiếng là một nhà trí thức bậc nhất nh́ ở Nam Kỳ. Ông chịu đứng về phe hai ông Chánh Phối Sư, Ba Ông đồng hiệp nhau với một số Tín Đồ thuộc phe hai Ông ở Ṭa Thánh, triệu tập một Đại Hội ngày 11-11-1932 cốt để chiếu theo chương tŕnh nghị sự mà tuyên án Ông Chánh Phối Sư THÁI CA THANH là chia phe phân phái và chỉ trích  sự phát hiện Cơ Sở PHẠM MÔN, của ĐỨC HỘ PHÁP.  Số Đạo Hữu tụ tập về Ṭa Thánh trong dịp nầy cũng đông trót ngàn người. bởi có sự mời mọc của hai Ông Chánh Phối Sư, mà kết cuộc phiên họp phải đ́nh lại, bởi v́ Ông Chánh Phối Sư NGUYỄN NGỌC TƯƠNG lâm bịnh không đến được.

Những sự chống đối lẫn nhau đến hồi quyết liệt.

Nào cuộc tranh chấp về ngôi thứ và quyền lợi, thêm phần Đạo Hữu ly tán trước mắt Chánh Phủ,  v́ sự kiện nầy mà đến ngày 18-1-1933 hai Ông Chánh Phối Sư TƯƠNG và TRANG, Công khai không nh́n nhận số tín đồ ở Tỉnh Châu Đốc tố cáo nhân viên Mật Thám đến phá rối họ trong một cuộc nhóm họp cúng kiến có xin phép.

Hai Ông ra tờ Hiệu Triệu kêu gọi tín Đồ Cao Đài phải trọn dâng lịnh và phục tùng Pháp Chánh Truyền, bất luận trong một hoàn cảnh nào.

Ngược lại, ĐỨC HỘ PHÁP CƯƠNG QUYẾT, tỏ nguyện vọng được quyền tự chủ trong sự tự do tín ngưỡng trong bao nhiêu bài diễn văn của Ngài, hàm súc nhiều điển tích có ư nghĩa sâu xa làm cho các nhà đương quyền càng lo sợ.

***

T̉A-ÁN CẢM-GIÁC

 

Tại Tỉnh Bạc Liêu xảy ra một cuộc hội họp cúng kiến của 80 vị tín đồ Cao Đài trong Thánh Thất mà không có xin phép, Cảnh Sát Công An tới bao vây bắt, lập Vi Bằng giải ra Ṭa Án. Đến ngày xử tụng, Ông Chánh Án Ṭa Sơ Thẩm Bạc Liêu, trái với sự mong muốn của Chánh Quyền Địa Phương, Tuyên Bố giữa Ṭa là Tha bổng  tất cả  với lư do sau đây:

“Xét rằng các điều khoản: 291, 292 và 294, trong bộ h́nh luật canh cải hiện hành không nhầm những cuộc nhóm họp quá 20 người, Đạo Cao Đài không phải là “Hiệp Hội” mà là một Tôn Giáo.

Bản Quyết Nghị nầy làm cho mọi người ngạc nhiên dầu là Chánh Quyền hay là can phạm.

Qua tháng sau, Ṭa Thượng Thẩm Saigon thừa nhận bản án trên đây của Ṭa Sơ Thẩm Bạc Liêu.

Do sự kiện nầy mà Quan Thống Đốc Nam Kỳ ”KRAUTHEIMER”, để lời kết luận trong bản  phúc tŕnh tháng ba nói về t́nh h́nh Chánh Trị như vầy:

“Chánh Phủ càng ngày càng mất quyền sau khi đă tŕnh bày trong bản phúc báo về tháng trước rằng,:

“Nếu có nhiều bản án mà Ṭa-xử có ư nghĩa một chiều như thế th́ e rằng sau đây Chánh-Phủ phải thiếu một biện-pháp để đối phó với Đạo Cao-Đài”.

***

SAU CUỘC SUY TÔN ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG

 

Hai Vị Chánh Phối Sư  NGUYỄN NGỌC TƯƠNG và LÊ BÁ TRANG, bị loại ra khỏi Ṭa-Thánh.

Vào cuối tháng ba Năm 1933 cuộc lễ đăng điện để suy tôn Ngài Đầu Sư THƯỢNG TRUNG NHỰT, lên Phẩm QUYỀN GIÁO TÔNG, do chỉ định thứ nh́,  ĐỨC LƯ GIÁO TÔNG  và ĐỨC HỘ-PHÁP lập tại T̉A-THÁNH TÂY-NINH, Ngày mùng 3 tháng 10 Năm Canh Ngọ (Dl: 22-11-1930), Diễn ra Tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh với một quyết định vang dội.

Hai Vị Chánh Phối Sư THƯỢNG TƯƠNG THANH (Nguyễn-Ngọc Tương) và NGỌC TRANG THANH (Lê Bá Trang) bị loại trừ khỏi quyền hành chấp chưởng trong Hội Thánh.

Thế là từ đây, hai vị Đại Thiên Phong nầy đă mất hết quyền hành tại Ṭa Thánh: Ông Trang th́ rút về Quê quán, c̣n Ông Tương th́ viết thư cho Quan Thống Đốc Nam Kỳ với giọng nói ít nhiều chua cay như sau:

“Tôi được người ta cho tự do rời khỏi các quyền hành chấp chưởng bấy lâu, giờ đây tôi lấy làm bất măn với bầu không khí nặng nề  làm cho tôi nghẹt thở tại nơi nầy.”

Ông báo tin cho Quan Thống Đốc rơ là Ông rời khỏi Ṭa-Thánh Tây-Ninh, dứt khoát chức trách và quyền hạn hữu-h́nh, đặng trở về một Thánh-Thất lo phần việc Thiêng Liêng, quan hệ với phẩm tước của Ông.

      ÔNG CHÁNH PHỐI SƯ NGỌC TRANG THANH 

MƯU ĐỒ KHÔI PHỤC QUYỀN HÀNH

 

Đầu tháng tư năm (1933) t́nh trạng tại Ṭa Thánh xoay chiều một cách bất thường.

Ông Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh tổ chức một phiên họp với 7 vị Chức Sắc Thiên Phong trong đó có Ông, Ông được đắc thăm với 6 lá phiếu làm hậu thuẫn, đứng ra là tố cáo ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG rằng cầm quyền trong 7 năm qua là lợi dụng địa vị để ḅn rút tiền bạc của Chư Đạo Hữu, bán đất của Hội Thánh và làm nhiều điều tổn thương cho Đạo. Cuộc hội họp của 7 vị Chức-Sắc nầy lập Vi Bằng buộc ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, phải chịu phục lịnh họ, hay là từ Quyền chức trong thời hạn 8 ngày và tuyên bố cuộc lễ suy tôn ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG trước đây là bất hợp pháp, mặc dầu có nghị định thứ hai của ĐỨC LƯ GIÁO TÔNG và ĐỨC HỘ PHÁP ấn định.

Tuy nhiên Đức Quyền Giáo Tông vẫn trầm tỉnh, để cho sự việc trôi qua, biết rằng với một Hội nghị như thế không cắt quyền cắt chức ai được, nhứt là một chức vị “QUYỂN GIÁO-TÔNG” không phải là một việc chơi mà ai muốn cắt lúc nào cũng được.

***

 

ÔNG CHÁNH PHỐI SƯ NGỌC TRANG THANH TRIỆU TẬP HỘI “ QUYỀN VẠN LINH, VỚI HẬU THUẪN CỦA ÔNG NGUYỄN PHAN LONG

 

Thấy không làm ǵ được nên ngày 11 tháng 6 Năm 1933, Ông Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh tự quyền triệu tập Hội “QUYỀN-VẠN LINH” gồm các cơ quan trong Đạo với ư định mời Đức Quyến Giáo Tông, ra lịnh đóng cửa Ṭa Thánh. Ông Chánh Phối Sư NGỌC TRANG THANH, ra lịnh khác, tông cửa vào (Lúc Ấy là Đền Thánh Tạm) Truyền cho thuộc hạ của Ông khiên bàn ghé sắp đặt cuộc hội họp, giữa khoản Cửu Trùng Đài, Ông toa rập với phe của Ông NGUYỄN PHAN LONG ngồi ghế Chủ Tọa trong lúc ông nầy mặc âu phục, chưa hề biết luật Đạo là ǵ.

Ông Chánh Phối Sư NGỌC TRANG THANH, thừa dịp nầy tuyên bố trước mặt trót (500 Tín Đồ phe Ông là buộc  ĐỨC QUYỀN  GIÁO TÔNG, phải ra trước phiên họp để trả lời một cuộc truy tố quan trọng.

Lúc Ông Trang phái người đi mời ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG đến dự nhóm th́ Đức Ngài hồi đáp rằng: “Không hề nh́n nhận quyền hạn của một cuộc hội nhóm bất thường, bất ngờ và bất hợp pháp như thế”. Tuy nhiên Đức Ngài cũng phái Ông TIẾP THẾ LÊ THẾ VĨNH, và Ông GIÁO SƯ THƯỢNG BẢY THANH thay mặt đối thủ.

Trong lúc ấy giữa Cung Điện Cửu Trùng Đài, đương phiên nhóm họp, th́ bất th́nh ĺnh có một Chức Sắc Phái NỮ, Bà GIÁO SƯ HỒ HƯƠNG LỰ (Sau nầy bà được vinh thăng tới Đầu Sư) Tức là Thân mẫu của hai vị Đại Thiên Phong CAO THƯỢNG SANH, và CAO TIẾP ĐẠO, Phía ngoài cửa Đền-Thánh bước vào, tay nương gậy, bà la lối lớn tiếng, Phản đối cái hội Bất-hợp-pháp nầy, nhứt là Bà không tiết lời phản đối Ông NGUYỄN PHAN LONG, là người không có Đạo Cao Đài, mang Âu Phục mà dám ngồi ghế Chủ Tọa giữa Đền-Thánh hội nhóm quá thất lễ.

V́ Bà là một Chức-Sắc phái Nữ già cả, trong Hội Nghị không ai dám phản kháng lại Bà, mặc dầu xôn xao nhưng im lặng, Bà la lối lớn tiếng bắt buột hội phái giải-tán, nên cuộc họp bất thành, rồi mọi người lần lượt rút ra khỏi Đền Thánh.

Ư Định của cuộc họp nầy là lợi dụng chữ “Quyền-Vạn-Linh” đặng để truất quyền của Anh-Cả, Nhưng mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên, kết cuộc ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG  vẫn c̣n Quyền Hành nguyên vẹn.

***

 

THANH-THẾ CỦA ÔNG NGUYỄN PHAN LONG

 

Đây cũng nên giải thích tại sao Ông Chánh Phối Sư NGỌC TRANG THANH dùng Ông NGUYỄN PHAN LONG làm hậu thuẫn cho ông, ủng hộ cho ông trong việc tranh chấp quyền hành tại Ṭa Thánh.

Ông Nguyễn Phan Long là người như thế nào?

Ông Nguyễn Phan Long là một nhà “CÔNG PHÁP HỌC” một lănh tụ Quốc Gia, từng được đắc cử Hội Đồng Quảng Hạt tại Nam Kỳ, Chủ Nhiệm Nhựt Báo “ĐUỐC NHÀ NAM”, Kiêm Giám Đốc Chánh Trị với Ông “BÙI QUANG CHIÊU” trong Nhựt Báo Pháp Văn “Le TRIBUNE INDOCHINOISE” (Diễn Đàn Đông Dương) là một cơ Quan chánh trị công khai hoạt động của đảng Lập Hiến Đông Dương thành lập từ năm 1923.

Sau Đệ Nhị Thế Chiến Ông NGUYỄN PHAN LONG, điểu khiển một trong các nhựt báo lớn tại Saigon, tờ “VIỆT THANH”  Năm 1947.

Ngày 9-9-1947 Ông  Chủ Gia phái đoàn 24 nhân sĩ được phái sang Hương Cảng (HONGKONG)  để yết kiến cụ Hoàng Bảo Đại.

Tháng Giêng năm 1950, Ông được Hoàng Bảo Đại chỉ định làm Thủ Tướng, thành lập Chánh Phủ Việt Nam.

Nội các Ông NGUYỄN PHAN LONG chỉ thành h́nh được ba tháng rồi để nhường lại nội các  cho Ông TRẦN VĂN HỮU.

Với thanh thế kể trên, chỉ kể thành tích trước Đệ Nhị Thế Chiến, Ông Nguyễn Phan Long mà hiệp với Ông Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh, củng là một tay đối thủ lợi hai để chống đối với ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, nhưng cũng vô hiệu quả, như chư đọc già đả mục kiến ở các khoản trên.

Trong vụ tranh chấp c̣n ba nhân vật là:  Chức Sắc Đại Thiên Phong, nên kể ra đây cho biết hành vi của mỗi vị:

1)- Ông Chánh Phối Sư THƯỢNG TƯƠNG THANH, làm màu từ bi đạo đức tuân theo Thánh ư ĐỨC CHÍ TÔN nên yên phận.

2)- Ông Thái Chánh Phối Sư THÁI THƠ THANH (Nguyễn Ngọc Thơ).

3)- Bà Đầu Sư LÂM HƯƠNG THANH.

Hai vị nầy không theo dơi kịp thời thế biến chuyển nên bị lôi cuốn, khi th́ thiên về bên nầy, lúc nghe theo bên kia.

C̣n  phần ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC th́ người ta quyết đoán rằng Đức Ngài nhờ có Thánh Giáo dạy đứng ra ngoài ṿng cuộc tranh chấp trong giai đoạn nầy.

 

THUYÊN CHUYỂN CHỨC SẮC

Người ta có cảm tưởng rằng, trong xứ Nam Kỳ lúc bấy giờ là một sân khấu của một cuộc thuyên chuyển Chức Sắc Cao Đài thuộc khuynh hướng, đặc biệt là tại các tỉnh Miền Tây, làm cho phần đông tín đồ hoang mang dao động và làm cho đức tin cũng bị sức mẻ một phấn nào.

Ông LATAPIE người Pháp, được ĐỨC CHÍ TÔN ân phong chức Giáo Sư, là một cựu công chức ủng hộ ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, đi hành đạo khắp nơi trong các tỉnh Nam Kỳ tỏ cho người bổn xứ hiểu rằng Ông là một Chức Sắc Cao Đài đă được Chánh Phủ Pháp tín nhiệm để hổ trợ cho ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG được thắng thế hơn các phe phái đối phương kém khả năng và Đạo Đức.

Rút kinh nghiệm trong cuộc biến cố ngày 11-6-1933, ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG  bèn tổ chức một ban Bảo Thể trung kiên để bảo-vệ Ṭa-Thánh Tây-Ninh, và Ngài cương quyết ra lịnh khai trừ, trục xuất, ngưng quyền liên tiếp những phần tử phản lại chơn truyền.

Nhờ thiện cảm và sự ủng hộ của giới người Pháp, tiếng vang có ảnh hưởng tốt cho Ṭa-Thánh đă lan tràn các Tỉnh, làm cho người ta bàn tán về việc Ông NGUYỄN PHAN LONG, hậu thuẫn cho Ông Lê Bá Trang là chỉ có mục đích vận động chánh trị và cốt yếu làm gia tăng số đọc giả cho tờ Báo ĐUỐC NHÀ NAM, mà Ông là Chủ Nhiệm.

Ngày 16-9-1933, trong Tờ Phúc Tŕnh gởi về Chánh Quốc cho toàn quyền Đông Dương có đoạn viết về t́nh h́nh xáo trộn chung tại Nam Kỳ, chưa bao giờ khó phân tách như hiện nay.

Cuộc tranh chấp Đạo Giáo tràn sang Miên Quốc, nơi mà Viện Phật Giáo Tại Nam Vang, giao phó trách-nhiệm cho những vị tuyên giáo đi vận động khắp trong xứ để cảnh cáo Dân Miên không cho theo Đạo Cao Đài mà Giáo Lư không phù hợp với Giáo Điều thuần tuư của Phật Giáo.

Rồi cuộc tranh chấp phe phái lại quay sang Trung Kỳ, nơi mà ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG  Huấn Thị cho tất cả tín đồ Miền Trung. Nhất là tại “Huế”  để nâng cao tŕnh độ dân trí nơi đây và dự định gởi ra đó một phái đoàn truyền giáo.

Về phía Ông C.P.S LÊ BÁ TRANG, th́ ông tung ra những Châu-Tri bố cáo khắp nơi để hạ uy tín đối phương.

Với sự cộng tác chặt chẻ của Ông Chánh Phối Sư NGUYỄN NGỌC TƯƠNG và Ông NGUYỄN PHAN LONG, Ông mở cuộc vận động công khai với Chánh Phủ cầu xin ủng hộ ông trong việc phục  hưng nền Đạo, và đủ quyền chỉnh lư vài vị Lănh Đạo đối lập vớ Ông. Ông lại xin Chánh Phủ nh́n nhận số tín đồ  theo phe ông, cho phép ông hoạt động trong các Thánh Thất có lập danh sách đàng hoàng.

Ông c̣n lưu ư Chánh Quyền về những Thánh Giáo có thể làm nguy hại cho sự an ninh công cộng của nhà nước.

Để trả lời về cuộc tấn công trên đây của Ông Chánh Phối Sư LÊ BÁ TRANG, Ngày 20-9-1933 ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG  lưu-ư nhà cầm-quyền phải có biện pháp thích nghi đối với hành tàng, của những chi phái giả tạo vũ khí  để hâm dọa những ai không theo họ, họ cố t́nh chia phe phân phái phá rối cuộc trị an.

Ông Chánh Phối Sư LÊ BÁ TRANG c̣n gởi cáo trạng đến Biện Lư Cuộc tố cáo Ông Giáo Sư LÊ VĂN BẢY ở Nam Vang về tội, sang đoạt hồ sơ trong vụ chống đối với ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG tại Ṭa Thánh. Ông LÊ VĂN BẢY, bị Ṭa Án câu lưu hết mấy hôm buộc phải hoàn trả tập tái liệu ấy lại.

Một vụ tố cáo tương tự đối với ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, nhưng ṭa xét ra là toàn lời vu khống.

Cũng với mục đích mưu hại ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, Nên Biện Lư Cuộc Tây Ninh phải cứu xét từ lá đơn, nào là vụ đ̣i nợ, biểu thủ tiền nhơn công, giả mạo căn cước buôn bán đất lừa phỉnh…

Trong số đơn trạng, có lộn tờ tố cáo ĐỨC-QUYỀN GIÁO-TÔNG, lạm dụng số tiền mua sở đất của Ông CAPIFALI và ESBELETTE, giá đất gấp đôi so với số tiền ông đă trả cho chủ đất hồi lúc mới trở về Ṭa-Thánh năm 1931.

Ngày 3-9-1933, có đến 70 lá đơn như thế tố cáo Đức Ngài.

Bất Thần một Chức Sắc qui vị tại Toà-Thánh.

ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG quàng linh cửu vị nầy tại trụ sở của Ông LÊ BÁ TRANG, trong thời gian là 6 ngày, bị tố cáo vệ sinh công cộng ngày 29-10-193, Đức Ngài bị phạt 5 quan tiền vạ.

Do tờ tường tŕnh về vụ sĩ nhục khiến danh dự nhân phẩm của ngài bị tổn thương quá đáng, một hội cộng đồng do phe đối lập tạo dựng, tuyên bố lư do bất lực của Ngài.

Ngưng tất cả quyền hành tối cao của Ngài, và buộc Ngài từ chức. Nhưng sự kiện ấy không có hiệu lực chi cả, mặc dầu họ buộc Ngài phải giao quyền lănh đạo nền Tôn Giáo cho ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, là Chức Sắc bảo tồn luật pháp Chơn Truyền, và ba vị Đầu Sư: THƯỢNG TƯƠNG THANH, NGỌC TRANG THANH THÁI THƠ THANH, với Bà Chánh Phối Sư LÂM HƯƠNG THANH, để ông đi dưỡng trí. Quyết nghị trên không có hiệu lực chi cả.

Được toàn khối PHẠM MÔN  của ĐỨC HỘ PHÁP tổ chức ủng hộ ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, làm cho đối phương kinh hồn v́ tự nhận thấy phe ḿnh yếu thế nên:

Ông Chánh Phối Sư LÊ BÁ TRANG, tách rời T̉A-THÁNH.

Ông Chánh-Phối-Sư NGUYỄN NGỌC TƯƠNG, cũng nối gót theo sau, cả hai Ông trở về An Hội (Bến Tre)  và thành lập một chi phái mới.

***

ÔNG CHÁNH PHỐI SƯ THƯỢNG TƯƠNG THANH HOẠT ĐỘNG TẠI BẾN TRE TỰ XƯNG LÀ GIÁO TÔNG VÀ THÀNH LẬP BAN CHỈNH ĐẠO

Tại An Hội trong Tỉnh Bến Tre, Ông Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương lănh đạo, trước nhứt là lo chống đối Ṭa-Thánh Tây-Ninh nhưng vô hiệu quả.

Sau hi ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG đăng tiên, Ông NGUYỄN NGỌC TƯƠNG mới tự xưng là Giáo Tông mà trong bổn Đạo gọi là “GIÁO-TÔNG BẾN-TRE”, Ông đảm đương việc cải tổ một bộ máy hành chánh mới mẻ do ông chấp chưởng quyền hành, quyết tâm tranh  thủ công việc thống nhứt các Chi Phái do đó mà “BAN CHỈNH ĐẠO” được thành h́nh đặt dưới quyền Chưởng Quản của Ông.

-Ông Chánh Phối Sư LÊ BÁ TRANG khuất tịch năm (1936).

-Ông Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương  sẽ có vài cuộc biến thiên, số 50 cái Thánh Thất có giấy phép trước kia đă biến thành “Nhà Tịnh” mà ông luôn luôn bảo thủ cho đến ngày ông thất lộc vào tháng 8 Năm 1951.

Lúc bấy giờ một người con trai của Ông Tên: NGUYỄN NGỌC THƯƠNG thay ông cầm đầu một nhóm Tín đồ của Ông lối 15 Ngàn người, thêm một số tín đồ cỡ 60 ngàn người thuộc các nhóm khác.

 

T̀NH H̀NH Ở T̉A-THÁNH NĂM 1934

 

Tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh, ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT, vẫn ung dung làm chủ t́nh h́nh.

Tháng 2 Năm 1934, Ông tiếp một phái đoàn Thanh Tra Lao Động, Cứu Trợ Quốc Tế gồm các yếu nhơn danh tiếng là:

 - Ông PERI, Nghị Sĩ Quốc Hội Pháp.

 - Ông BRUNEAU, Tổng Thư Kư Liên Minh Kỹ Thuật Dệt.

- Ông CHAINTRON, hiệu BARTHEL Chủ bút Nhựt Báo LA DEEENSE.

 

***

 

Trước đó vài hôm, Ngày 13-2-1934, v́ chưa kịp nộp tiền phạt vạ Tư Pháp, ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG bị bắt câu lưu, và được trả tự do sau khi nộp phạt. Tiếp theo đó, v́ lẽ Ngài là một Nhân Vật trong xứ, một Thượng Hội Đồng, đă được thưởng “BẮT ĐẨU BỘI TINH” mà bị làm nhục với một sự phạt vạ nhỏ nhen như thế, nên Ngài gửi trả Huy Chương Cao Đảng ấy lại cho Tổng Thống Pháp.

Từ Đây ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, gia công với Hội Thánh chỉnh đốn nền Đạo trong lúc hai ông Chức Sắc Đại Thiên Phong là Nhị Vị Chánh Phối Sư, THƯỢNG TƯƠNG THANH và NGỌC TRANG THANH bỏ nhiệm sở.

 Cuộc tranh chấp với Ṭa-Thánh được chấm dứt kể từ ngày nầy.

 

ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG ĐĂNG TIÊN

Ngày 28-3-1934 lại xảy ra hai vụ án phạt vạ nữa:

- ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG bị phạt 200 quan, về tội mở cửa một ngôi trường họ để dạy trẻ con trong Nộ Ô Ṭa-Thánh mà không xin được phép.

- ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, bị phạt 100 quan tiền vạ về tội mở Trường Y Dược để lo thuốc men săn sóc chư Đạo Hữu trong lúc đau ốm.

V́ quá lao tâm nhọc trí với bao nhiêu sự thử thách, mà chư đọc giả đă mục kiến, ĐỨC QUYỀN GIÁ TÔNG kiệt sức nhóm bịnh trong một thời gian ngắn và qui liễu tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh ngày 10 Tháng 10 Năm Giáp Tuất (8-11-1934).

  

IV. SỰ THẲNG TIẾN CỦA ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC TỪ NĂM 1934 - 1940

     Giữa t́nh trạng khẩn trương tại Ṭa-Thánh, ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT lại đăng-tiên, thật là một biến chuyển hết sức quan trọng, lại thêm vào đấy một hoàn cảnh rất bi đát mà toàn Đạo đều chịu ảnh hưởng.

Đây nhắc lại những năm vừa qua ai cũng nh́n thấy cái nạn chia phái càng ngày càng nẩy nở, cuộc tranh chấp nội bộ càng gia tăng, những khó khăn về vật chất càng khổ sở, ḷng nhiệt thành mộ Đạo của phần đông tín đồ buổi ban sơ, nhường chỗ cho sự uể oải, chán nản và lo âu trong tâm hồn, nên việc truyền giáo đă gặp những chướng-ngại, đủ thứ ở Việt-Nam, c̣n tại các xứ bảo hộ th́ Đạo Cao Đài bị cấm hẳn.

Tất cả những sự kiện trên đây khiến cho việc tuyển trạch một GIÁO TÔNG kế vị không thể thực hiện được.

***

ÔNG NGUYỄN NGỌC TƯƠNG ĐẮC CỬ GIÁO TÔNG BẾN TRE

 

Tại Bến Tre một nhóm lối vài ba trăm người Tín Đồ hội nhóm lo chọn người kế vị GIÁO TÔNG, với sự hám vọng và cũng là v́ sự tín ngưỡng của họ, họ Cầu Cơ Thỉnh Giáo các Đấng Thiêng Liêng, không gặp đều phản ứng trái ngược, nên Ông NGUYỄN NGỌC TƯƠNG, nương theo sự thuận lợi nầy tổ chức cuộc bầu cử Nội Bộ với kết quả của một số thuộc hạ bỏ thăm ưng thuận, Ông bèn tự xưng đắc cử GIÁO TÔNG, thay thế cho Đức quyền Giáo Tông vừa Qui Vị.

Lẻ dỉ nhiên việc đơn phương bầu cử “Giáo-Tông” như thế là lạm-quyền, không noi theo Chơn Truyền Luật Pháp của nền Đạo, lại chứng minh sự phàn loạn chống đối Ṭa-Thánh Tây-Ninh.

Cuộc tranh chấp quyền hành đến hồi quyết liệt.

Khi Phái Đoàn Đại Diện cho Ông “Tân Giáo Tông NGUYỄN NGỌC TƯƠNG”, đến hành tŕnh xin dự tang lễ Đức Quyền Giáo Tông THƯỢNG TRUNG NHỰT, tức th́ vấp phải một phản ứng rơ ràng: Bị từ chối một cách khéo léo, Phái Đoàn Bến Tre chỉ được phép đến lễ bái Liên Đài đang quàng trên Cửu Trùng Thiên giữa sân Đại Đồng Xă, rồi rút lui.

Cái hố  phân cách chưa lúc nào bị đào sâu như lúc nầy.

 

ĐÁM TANG CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG

 Cùng Khắp xứ Nam-Kỳ, Trung-Kỳ, Cao-Miên và Ai-Lao có trên ba vạn Tín đồ Nam, Nữ  qui tụ về Ṭa-Thánh để tang, mỗi người trên đầu đều chít khăn tang trắng, mọi cuộc tế lễ sắp đặt có chương tŕnh rất nghiêm trang. Trong Đền-Thánh th́ Chư Đạo Hữu, Đồng Nhi Nam,Và Nữ luân phiên nhau tụng kinh, ngày đêm không dứt. Trên Cửu Trùng Thiên,  chung quanh Liên Đài th́ Chức Sắc luân phiên đứng hầu, dưới Pḥng Trù th́ dọn cơm liên tục, làm thế nào trong trong ba vạn người phải có ăn mỗi ngày hai bữa cơm cho đủ, cuộc tế lễ trong ṿng một tuần lễ.

Dưới mắt một người Việt Nam hoặc một Tín Đồ Cao Đài th́ sự lễ nghi long trọng vẫn là thường t́nh, nhưng chúng ta đặt cuộc lễ dưới mắt của một người ngoại quốc để họ mô tả những điều mắt thấy tai nghe có lẻ thiết thực hơn.

Đây cảm tưởng của một kư giả người Pháp:

Kư giả nầy tên JEAN DRSENNE đến Ṭa-Thánh bốn ngày sau khi Đức Quyền Giáo Tông đăng Tiên, và Liên Đài  đă đem quàng trên Cửu Trùng Thiên, ở thêm Ṭa Thánh  ba ngày nữa  để dự cho đến khi măn cuộc lễ.

Kư giả viết trong tờ nhựt báo “GRIUGOIRE” phát hành tại PARIS, phát họa lại cảnh nghiêm trang hi hữu chưa hề bao giờ người ta thấy. Dưới đây là một bài bào bằng Pháp Văn dịch ra Việt Ngữ:

“… Nào là những đoàn người từ các nơi xa gần đi bằng xe hơi, xe cam nhong, xe ḅ, xe đạp, nào là ghe thuyền, chở đầy tín đồ đàn ông, đàn bà, con nít thảy thảy đều quyết chí đi mau tới  Ṭa-Thánh đặng thọ tang, có người lại bịt khăn trắng trước khi thọ lễ.

“Suốt ngày đêm, mọi người gồm cả Nam Phụ Lăo Ấu luân phiên nhau lập thành hành ngũ chỉnh tề đến lễ bái trước Liên Đài h́nh bát giác, trong ấy thể xác được tẩn liệm cẩn thận, bằng cách ngồi kiết già, y như thể thức của ĐỨC HỘ PHÁP đang tọa thiền nhập định.

“Về tế lễ ban đêm, khi Thượng Thống Lễ Viện sắp đặt trật tự cho Chức Sắc, Chức Việc và Chư Đạo Hữu đứng có hàng ngũ chỉnh tề trên những kệ ván đặt chung quanh Cửu Trùng Thiên. Trước Liên Đài th́ hàng lớp có trật tự qú giữa sân vái van th́ thầm tiếng dội ra, làm như người ta có cảm tưởng như tiếng sóng bủa trên gành ở phương xa vọng lại khi trầm khi bổng, một giọng bi ai thống thiết như xé nát tâm can,  ai bi năo nuột, đó là những lời cầu nguyện thốt ra tiếng th́ thầm tưởng niệm vong linh của người quá vảng, một giọng khẩn vái đều đều, tỏ ḷng mến tiết đau thương. Những khấn nguyện ŕ rào ấy th́nh ĺnh bị áp hẳn bởi một âm thanh ḥa điệu của đoàn phụ nữ và Đồng Nhi tụng kinh cầu siêu, nhịp nhàng như tiếng hát oán than trầm bổng, khiến cho thính giả xúc động đến rợn người.

“Một chập sau khi măn lễ, đoàn người lần lượt rút lui, Sân Đại Đồng Xă trở về cảnh trống trải của màng đêm vũ trụ trên nền trời tím thảm, các v́ tinh tú thay phiên nhau nhấp nháy, các ngọn đuốc bằng mủ dầu chai soi sáng chung quanh đài với những làn khói đen theo chiều gió mùa Đông lạnh buốt.

“Bấy giờ chỉ c̣n lại có 36 Vị Chức Sắc Phái Thượng chầu chung quanh Liên Đài, họ xem thường mỏi mệt rét lạnh giữa tiết Đông.

“Qua ngày thứ ba là ngày lễ An Táng chánh thức, Số Tín Đồ Nam, Nữ đă đông lại c̣n đông hơn theo phong tục mà nhứt là thủ tục CAO ĐÀI  th́ mọi người đều y phục áo dái trắng, đầu bịt khăn trắng để tang xen lẫn với những Chức Sắc mặc áo rộng màu xanh (Phái Thượng), màu đỏ (Phái Ngọc), màu vàng (Phái-Thái).

“Dưới ánh sáng ban mai trong nền trời quang đăng, trên Liên Đài có gắn một đóa hoa sen lớn trải cánh hồng điều, hấp dẫn nhản quang của tất cả mọi người.

“Rồi bổng nhiên tiếng êm diệu của dàn nhạc bổn xứ trổi lên như khóc, như than qua những giọng lệ tức tưởi, tiếng vang dội của đoàn kèn làm biểu lộ những nổi bi ai thống thiết của toàn những người đi dự lễ.

Bà góa phụ LÊ VĂN TRUNG tiến lên trước Liên Đài Thờ, có mấy vị Chức sắc d́u đỡ.

“Tiếng Âm nhạc trổi lên theo nghi lễ, tám vị Lễ Sĩ mặc sắc phục Vàng, Xanh, Đỏ, tiến từ bước một với bộ điệu rập ràng khoan nhặt tùy theo nhịp của tiếng đàn, tiếng trống, trên hai tay họ bưng nhang, đèn, hoa quả, rượu, trà đưa ngang lên trán. Đó là lễ dâng Tam Bửu tượng trưng cho ba món báu là : TINH, KHÍ, THẦN.

“Và đây là lễ bái rất trang nghiêm, tôn kính của toàn thể tín đồ trước Liên Đài. Ngắm nh́n quang cảnh ấy có thể nói họ là những người theo cổ tục không ai bằng, họ vẫn có tinh thần trung kiên với truyền  thống Tổ Phụ không đâu hơn. Tuy nhiên ở Đông Dương, thuyết Canh Tân Chủ Nghĩa vẫn sống chung được ân hậu với Cổ Truyền là nhờ sự ôn ḥa trung thứ của thuyết Qui Nguyên Thượng Cổ vậy.

“Ai có biết chiếc bàn tṛn để giữa kệ trên Cửu Trùng Thiên để làm chi chăng? Đó là nơi Hộ Pháp và Ba vị Đại Thiên Phong đứng lên đọc ai điếu. Trên bàn ấy có đặt sẵn một máy thu băng, và phát thanh. Trước nhứt là Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, kế đó là ba vị Chức Sắc Cao Cấp, đại diện cho các Cơ Quan của Đạo, lần lượt đọc bài ai điếu với giọng mến thương, nhắc lại bao nhiêu công nghiệp trong vĩ văng của một bậc Vĩ Nhân đă v́ đời mà tận tụy, và cả kiếp sanh đầy gian nan khổ hạnh. Nhứt là bài diễn văn tuyệt bút của ĐỨC HỘ-PHÁP, hàm súc nhiều  ư nghĩa bi thương bóng bẩy và kích thích tinh thần đối với thế hệ mai sau. Toàn thể đám tang im phăng phắc trong bầu không khí trầm lặng, chú ư nghe từ câu văn giọng đọc qua làn sóng phát thanh vang dội khắp cả núi rừng đất Việt.

“Thế là xong, chiếc Liên Đài có hoa sen tươi thắm ấy được kiệu trên lưng con Long Mă để toàn Đạo đưa Đức Ngài đến nơi an nghỉ ngh́n thu mà Hội Thánh đă chu tất sẵn, giờ dây xác thể của ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG LÊ VĂN TRUNG không c̣n nữa, nhưng nền Đạo Cao Đài  vẫn tiếp tục hoạ -động và chiến thắng.”

Đến đây là chấm dứt bài tường thuật về cảm tưởng của Kư Giả JEAN DORSENNE.

 

***

Những ngọn đuốc soi sáng chung quanh Liên Đài của  Đức Quyền Giáo Tông  đă tắt hẳn, duy có cuộc tranh chấp không chút phai mờ. Mặc dầu tŕnh độ và Chức Phẩm cách biệt nhau, nhưng tại bốn địa phương sau dây đă chứng minh sự hoạt động đáng kể:

Tại Ṭa-Thánh th́ Hội-Thánh lo chấn chỉnh nội bộ một cách chính chắn, sắp xếp chức phẩm nào vào nhiệm vụ nấy, với tài dung người một cách đặc sắc, ngôi sao của ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC chiếu sáng phi thường. Các Cơ quan Đạo Tuyên bố  tín nhiệm và đồng tôn Đức Ngài làm lănh đạo tối cao, lại nữa các cuộc tiếp xúc của Ngài với bà MONNLER (Tức là  bà LÂM HƯƠNG THANH, một nhà quyền qui cao sang, giàu ḷng từ bi quảng đại, khiến cho bà trở nên “Ân-Nhân”, của nền Đạo bằng cách trợ giúp tài sản và đứng tên xin phép khai mở phạm vi Thánh Địa.

Tại Bến Tre Ông Giáo Tông NGUYỄN NGỌC TƯƠNG, Cố vận Động bằng đủ mọi cách để tự xưng ḿnh là người chánh thức kế vị  ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT. Tuy có một số Chức Sắc theo giúp đỡ Ông trong việc điều hành cơ quan Hành Chánh-Đạo, Ông Giáo Tông “TƯƠNG” có vẻ lo ngại cho việc Tổ Chức không được chu đáo, nên lắm lúc Ông đồ theo cách hoạt động của các Thánh-đường Thiên Chúa Giáo, rồi chỉnh đi chỉnh lại không tiến bộ chút nào.

Tại Mỹ Tho Ông Phối Sư THÁI CA THANH (Nguyễn Văn Ca, cựu Đốc Phủ Sứ), tách rời Ṭa-Thánh cũng khá lâu, cũng lo hoạt động tranh đấu để bành trướng thế lực cho phái của Ông, phái nầy thờ “Trái Tim”.

Tại Cần Thơ, Ông VƠ VĂN THƠM  có ảo vọng lôi cuốn chư Đạo Hữu ở Miền Tây Nam Kỳ theo về phe của Ông.

***

 

Như Thế là các vị trí cũng như hoàn cảnh của số Tín Đồ theo về Ṭa-Thánh Tây-Ninh bị đe dọa và phong tỏa khắp nơi, cũng nhân v́ ngày 19 Tháng 3 năm Giáp-Tuất (2-5-1934) “Cái Phiên Ṭa Tam Giáo, do các chi phái phản loạn tổ chức đă tuyên bố giải-tán “PHẠM-MÔN”.

Bản án nầy không ban hành được v́ ĐỨC HỘ-PHÁP sẵn có đại  chí và thông minh hoạt bát, không hề nhượng bộ, mà nhứt định tiến tới từ bước một, Đứng trước bao nhiêu tín hữu Đạo Tâm có chí nguyện hy sinh, ĐỨC HỘ PHÁP  đề xướng  nguyện vọng tha thiết của Đức Ngài  là phải làm thế nào khuếch trương mối Đạo, đồng thời vận động thống nhứt ư chí toàn cơi Đông Dương. Đức Ngài chứng tỏ là một nhà Triết học thông minh đại tài hay về “Vật lực luận”. Nhờ có Ông TIẾP THẾ LÊ THẾ VĨNH trợ-lực, nên ĐỨC HỘ-PHÁP không ngần-ngại đối phó ngang hành với Chánh Phủ Thuộc Địa Pháp. Không phải ḷn cúi như các Chi Phái khác mỗi khi làm việc chi  đều đệ đơn xin phép, mà Đức-Ngài cứ tự tiện xây cất Ṭa-Thánh và các Thánh-Thất, mở-rộng cửa cho Chư Đạo Hữu tu-họp cúng kiến mà không cần xin phép nhà cầm quyền. Đức Ngài chỉ gởi Văn Thư đến các quan chức có trách nhiệm cố ư nhắc nhở họ thi hành quyền tự do tín ngưỡng, mà chính Hương Chức trong làng ít được thấu hiểu, do đó mà nhà chức trách thường hay vi phạm.

Với tư cách Đại Diện cho Hôi Thánh, ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC đă nắm được ưu thế hành động tự tin đứng vững địa vị tối cao.

Công tác xây dựng mở mang của Hội-Thánh Tây-Ninh  càng ngày được dể dàng hơn bởi các biến chuyển vừa qua, bên Chánh Quốc Pháp, mặt trận b́nh dân Pháp lên cầm quyền, đường lối Chánh-Trị mới không khỏi có ảnh hưởng đến Đông-Dương.

Cuối năm (1934) Quan Toàn Quyền Pháp Rene ROBIN, ban cho Đạo Cao Đài quyền tự do tín ngưỡng và tự do hành đạo, bài bỏ hẳn chế độ bắt buộc phải xin phép trước mỗi khi xây cấy Thánh Thất mới.

Báo chí được tin trên, bèn đăng tải với mhững lời ca ngợi nồng  nhiệt. Nhựt báo bằng Pháp Văn  LA TRBUNE INDOCHINOISE (Diễn Đàn Đông-Dương) viết bài ca tụng có đoạn nói:

“Chính ḿnh Ông ROBIN  đă ban bố chế độ khoan hồng cho Toàn Dân bổn xứ nói chung, mà đạt biệt nhứt là toàn thể Tín Đồ Cao Đài không khỏi nhận chân t́nh  chính trị cao cả và tri ân của ông vậy.”

“Tuy nhiên Nghị-định đề cập đến quyền Tự do Tín ngưỡng ấy minh xác rằng:

“Chỉ có dân chúng thuộc địa như ở Nam-Kỳ và các Thành Phố Hà Nội, Hải Pḥng và Đà Nẵng (Tourane) mới được hưởng thụ quyền tự do tín ngưỡng, Trái lại dân chúng đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp như ở Bắc Việt, Trung Việt, Ai Lao, và Cao Miên th́ người dân không được hưởng quyền tự do nói trên.”

***

Giờ đây ĐẠO CAO ĐÀI thuộc hệ thống T̉A THÁNH TÂY NINH, có một sắc diện mới-mẻ, ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, nắm vững quyền Hội-Thánh, với nấy ngàn Chức Sắc Thiên Phong, Chức Việc để chấn chỉnh va điều ḥa Tổ Chức Hành Chánh Đạo, trong nước và ngoài nước y theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và Chơn Truyền Chánh Pháp của Đạo.

Đức Ngài cho tái thiết lại T̉A NỘI CHÁNH CỬU TRÙNG ĐÀI, Gồm Cửu Viện ba phái: ”THÁI, THƯỢNG, NGỌC” mỗi viện đều có văn pḥng riêng.

 

T̉A NỘI CHÁNH CỬU TRÙNG ĐÀI

 

 PHÁI THÁI: do THÁI CHÁNH PHỐI SƯ điều khiển ba viện:

a- HỘ VIỆN chuyên về phần thâu xuất tài chánh, giữ ǵn tài sản của Đạo.

b- LƯƠNG VIỆN : Chuyên lo lương thực, vận động Gạo Lúa tích trữ để nuôi tất cả Chức Sắc và Đạo Hữu hiến thân làm Công-Quả.

c- CÔNG VIỆN: Tuyển chọn và tập trung các công thợ chuyên môn xây cất các dinh thự nhà cửa, Thợ Sơn, Thợ Đắp Vẽ, Thợ Mộc, mở mang đường xá, cống rănh.

 

 PHÁI THƯỢNG : Do THƯỢNG CHÁNH PHỐI SƯ  điều khiển  gồm có ba viện:

a- HỌC-VIỆN : Đào tạo Đạo Đức Học Đường, Xây dựng thêm trường ốc, cốt giáo hóa con em trong Đạo, đào tạo các mầm non nhằm kế chí cho đàn Anh trong tương lai.

b- Y-VIỆN: Chuyên lo Tổ chức Dưỡng Đường, đào tạo Y Tá, Điều Dưỡng, thâu thập Y Sĩ để chăm lo sức khỏe cho Chư Tín Hữu điều trị các căn bịnh với những phương tiện Y Khoa.

c- NÔNG-VIỆN: Chuyên lo canh tác ruộng rẫy, tổ chức các cơ sở về nông nghiệp để nuôi những người hiến thân làm công quả.

 

PHÁI NGỌC : Do NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ điều khiển, gồm có ba viện:

a- H̉A-VIỆN: là Cơ quan ǵn giữ an ninh trật tự  trong Châu Vi Thánh Địa, ḥa giải mọi việc tranh tụng, trong hàng Chức Việc và Đạo Hữu.

b- LẠI-VIỆN : Trông nom về nhân sự, về Hành Chánh, thuyên bổ Chức Sắc đi hành Đạo khắp nơi trong nước và ngoài nước.

c- LỄ-VIỆN: Chuyên lo các nghi lễ cúng kiến hằng ngày, các ngày vía và sóc vọng, có “Ban Tiếp Tân” đón rước quan khách viếng thăm Ṭa-Thánh.

 

***

 

TRẤN ĐẠO & CHÂU ĐẠO

     Lúc Bấy giờ Hội-Thánh Tây-Ninh phân số 20 Tỉnh Thành trong Xứ Nam Kỳ thành 5 Trấn Đạo Như hồi xưa. Mỗi Trấn đặt một vị Giáo Sư cầm đầu gọi là: KHÂM TRẤN ĐẠO.

Mỗi Tỉnh ở ngoài đời th́ trong Đạo gọi là: CHÂU ĐẠO; dưới quyền của một vị Giáo Hữu gọi là: KHÂM CHÂU ĐẠO.

Đây các TRẤN ĐẠO, CHÂU ĐẠO theo hệ thống Ṭa-Thánh Tây-Ninh:

-TRẤN ĐẠO AN GIANG gồm 5 Châu Đạo: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Bạc Liêu.

-TRẤN ĐẠO LONG HỒ gồm 5 Châu Đạo: Cần Thơ, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng.

-TRẤN ĐẠO GIA ĐỊNH gồm 4 Châu Đạo: Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Tây Ninh.

-TRÂN ĐẠO BIÊN H̉A gồm 3 Châu Đạo: Biên Ḥa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một.

-TRẤN ĐẠO ĐỊNH TƯỜNG gồm 3 Châu Đạo: Mỹ Tho, G̣ Công, Bến Tre.

 

Ngoài ra trong mỗi Trấn Đạo, nếu cần th́ mỗi Châu Đạo có đặt một Chức Sắc HIỆP THIÊN ĐÀI, để trông nom vế Luật Pháp Chơn Truyền.

 

HIỆP THIÊN ĐÀI

         

HIỆP THIÊN ĐÀI, đặt dưới quyền Chưởng Quản của ĐỨC HỘ PHÁP, phân ra ba cơ quan như sau:

A/- BỘ PHÁP CHÁNH: Chuyên giữ ǵn Luật Pháp Chơn Truyền của Đạo, điều tra và xử đoán các việc tranh tụng trong cửa Đạo.

B/- CƠ QUAN PHƯỚC THIỆN:

Chuyên về các việc tạo dựng: Lương Điền, Thương Măi, Công Nghệ. Đài thọ chu đáo cho các Dưỡng Đường, Nhà Bảo Sanh, Dưỡng Lăo, Cô Nhi, Quả Phụ cứu giúp cho đời người bớt đau khổ về vật chất, bảo bọc những kẻ cô thế tật nguyền. Ngoài ra Cơ Quan Phước Thiện, hiệp với Lễ Viện Hành Chánh lo về mọi việc Tế Lễ trong Đạo.

C/-CƠ THÁNH VỆ VÀ BẢO THỂ: Chịu trách nhiệm về an ninh trật tự, trong Châu Vi Thánh Địa, canh gát tuần pḥng, ngăn ngừa những kẻ gian manh, trộm cướp, bảo vệ Chức Sắc Hội-Thánh tại các dinh thự của mỗi Cơ Quan.

                    

NỀN ĐẠO SUNG TÚC TRỞ LẠI

 

Các cuộc tạo tác cơ sở xây dựng đă bị ngưng trệ một thới gian, nay có cơ hội hoạt động mạnh trở lại, nhứt là trong vùng Nội Ô Thánh Địa.

Ở Tỉnh, các Thánh Thất mở rộng cửa đón tiếp tất cả Chư Đạo Hữu và khách khứa đến lễ bái càng ngày càng đông.

Ṭa-Thánh Tây-Ninh thường xuyên thuyên bổ Chức Sắc trấn  nhậm các Tỉnh, các Quận, các Thánh Thất kèm theo trách vụ Phổ Tế, Phổ Độ Nhơn Sanh Tu Hành, quảng bá Giáo Lư Đại Đạo, đồng thời kiểm soát và chăm nom số Tín Đồ Trung Kiên với Tôn Chỉ.

Với sự phân công bổ nhiệm của Hội-Thánh ủy thác cho hàng Phẩm Giáo Sư, Giáo Hữu đi Hành Đạo Địa Phương, có qui định ranh giới quyền hạn đành rành, họ cố gắng lo tṛn trọng trách của bề trên phú  thác, họ hoạt động rất có hiệu quả nên nguồn máy Hành Chánh càng thêm vững chắc.

 

                   CAO ĐÀI GIÁO ĐĂ THÀNH CÔNG

 

V́ từ đây chỉ c̣n điều chỉnh về mặt tiểu tiết nữa thôi.

 

 

LỂ TIỂU TƯỜNG CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG

ĐẠI HỘI NHƠN SANH TÍN NHIỆM VÀ TRAO QUYỀN LĂNH ĐẠO TỐI CAO CHO ĐỨC HỘ PHÁP

 

Tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh kể từ Ngày 13 đến rằm tháng 10 Năm Ất Hợi, (8 tới 10-11-1935) là Lễ Tiểu Tường ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT, Thiện Nam, Tín Nữ, Quan Khách ở các Tỉnh và khắp nơi trong xứ tựu về Ṭa-Thánh Rất đông đảo.

Cuộc lễ Tiểu Tường vừa xong, tiếp đến ngày  16 và 17 tháng 10 Năm Ất Hợi (Dl: 11,12 tháng 11-1935) Là Ngày Đại Hội Nhơn Sanh  và Hội-Thánh nhóm chung nhau, để tuyển trạch người kế vị cho ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG.

Mặc dầu không có Thánh Giáo nào chỉ dạy cho biết Thánh Ư của ĐỨC CHÍ TÔN, và trong bầu không khí Tôn Nghiêm và trọng hệ nầy, ai cũng hướng về ĐỨC HỘ PHÁP. Ngặt nổi ĐỨC HỘ PHÁP theo Pháp Chánh Truyền là người ǵn giữ Luật Pháp Của Đạo, là vị Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, kiêm Chưởng Quản Chi Pháp, th́ không có lănh trách nhiệm Giáo Tông.

Toàn Đại Hội Đồng Nhơn Sanh và Hội-Thánh, Sau khi thảo luận, đồng thanh chấp thuận biện pháp sau đây:

-Trong lúc chờ đợi có Giáo Tông chánh vị, th́ Hội đặc tín nhiệm nơi ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, và yêu cầu Đức Ngài đứng lên lèo lái con Thuyền Đạo.

Đây là giải pháp tạm thời để cho Đức Ngài, Nắm hai quyền HIỆP THIÊN ĐÀI và CỬU TRUNG ĐÀI, cho đến khi có Đầu Sư Chánh Vị.

Thế thường người ta thường mục kiến trường hợp tạm thời với thời gian vô định “VẨN LÀ THIỆT THỌ VẬY”.

Trên thực tế với bao nhiêu phá rối và đánh đỗ của các Chi Phái, với bao nhiêu vụ áp bức của Chánh Quyền  Pháp bắt lưu đày,  Đức Ngài suốt thời gian Đệ Nhị Thế Chiến cho đến ngày nay, chỉ một ḿnh Đức Ngài, HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, đă trở thành một Giáo Chủ  Hữu h́nh của nền ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ T̉A-THÁNH TÂY-NINH vậy.

Với tư thế xứng đáng vào hang phẩm tối cao, tối trọng ĐỨC HỘ PHÁP vượt qua tất cả các trở  ngại gây hấn, đứng đầu là cuộc khuấy rối của bao nhiêu Chi Phái, đạp bao nhiêu chướng ngại. Kể từ trước đến năm 1939, Ngôi Sao của Đức Ngài càng sáng tỏ, uy tín gia tăng trong toàn Đạo, nhờ thế mà công cuộc tổ chức chấn hưng nền Đạo đặt trên nền tảng vững chắc.

***

 

Những năm trước Đệ Nhị Thế Chiến thỉnh thoảng xảy ra những vụ xung đột giữa Quyền Đạo và Quyền Đời. t́nh thế khủng hoảng mới lại xuất hiện. Sau ngày Quan Toàn Quyền (Remne ROBIN) rời khỏi Đông-Dương (Dl: 13-11-1939) Chánh Quyền Thuộc Địa trở lại tấn công nền Đạo một cách rơ rệt, nhưng nhờ sự can thiệp của Ông Trưởng Thuộc Địa Georges MANDEL, kịp thời chận đứng sự đàn áp trong năm 1940 cho tới giữa năm 1941, nên việc áp chế được châm giảm một lúc.

Thật Vậy, Quyền Hạn của ĐỨC HỘ PHÁP chỉ đóng khung trong Toàn Đạo thuộc Ṭa-Thánh Tây-Ninh mà thôi, c̣n các Chi Phái mà chúng ta đă thấy nẩy nở ra trước đây vẫn ở trong chế độ tự lập tự trị mà ganh hiềm Ṭa-Thánh. Sự tranh chấp bất ḥa vẫn xảy ra làm cho người ta cảm tưởng rằng: Nền Đạo Cao Đài đang sống trong thời Đại Vô Chánh Phủ, nguyện vọng Thống Nhứt của mọi người không thực hiện được v́ những phe nầy chỉ muốn phe kia tùng phục ḿnh, rốt cuộc chẵn có Chi Phái nào chịu nhẫn nhượng cho nhau.

 

NGUYỆN VỌNG THỐNG NHỨT

Nguyện vọng Thống Nhứt được cụ thể hóa từ năm (1933) chung quanh vùng Cầu Kho (Saigon) bằng một cuộc hội nhóm để t́m đất thỏa hiệp gồm những Đạo Hữu có địa vị quan trọng như Ông Phủ VƯƠNG QUANG KỲ, Giáo Sư TRẦN VĂN QUẾ, Kư Giả NGUYỄN PHAN LONG, Hiệu Trưởng ĐOÀN VĂN BẢN, Cựu Hội Đồng Quản Hạt CAO TRIỀU PHÁT, Đốc Phủ Sứ NGUYỄN VĂN KIÊM, Huyện Hàm NGUYỄN VĂN DƯỚC, Chủ Doanh Nghiệp PHAN TRƯỜNG MẠNH, Giám Thị Nhà Ga NGUYỄN VĂN PHÙNG, Thư Kư Sở Mật Thám VƠ VĂN TƯƠNG.

Song những cuộc Hội đàm của các nhân vật trên đây chẳng vượt qua khỏi ṿng thương nghị, đàm đạo, thảo luận rồi đâu vẩn nằm yên đó.

 

CAO ĐÀI TỔNG HỘI: PHÁI ÔNG NGUYỄN PHAN-LONG

 

Ba Năm sau, vào năm 1936, Phái Cao Đài Tổng Hội, tự phát xuất một cuộc vận động  thống nhứt các Chi Phái.

Do Một bài Thánh Giáo, Nhóm Cao Đài Tổng Hội tiếp xúc các Chi phái, ra lịnh cho Ông Giáo Lănh NGUYỄN VĂN HIÊN, thuộc phái CHƠN MINH LƯ (Ṭa Thánh Trung Giang), phải giao liên với Ông ĐOÀN VĂN BẢN, Thuộc Thánh Thất Cầu Kho và Ông CAO TRIỀU PHÁT, Chưởng Pháp Cai Quản Thánh Thất “CAO THƯỢNG BỬU T̉A” (Ṭa Thánh Hậu Giang) song không đi đến Thống Nhứt được, mặc dầu trong mấy năm dài, các Chi Phái vẫn chịu khó và cố tâm t́m phương dung hợp .

***

Ông NGUYỄN PHAN LONG, lấy tư cách Hội Đồng Quản Hạt  làm Cố Vấn nền Tôn Giáo, can-thiệp với Quan Thống Đốc (KRAUTHSIMER) xin mở cửa lại số 92 cái Thánh-Thất đặt dưới quyền Cai Quản của Ông “PHÓ GIÁO LĂNH” NGUYỄN NGỌC TƯƠNG, lúc Ông đang cầm quyền Chánh Phối Sư, Quyền Đầu Sư đứng tên làm chủ tất cả các Thánh-Thất thuộc Ṭa-Thánh Tây-Ninh, rồi xảy ra các cuộc tranh chấp cho tới ngày ông rút về Bến Tre.

 Ông NGUYỄN PHAN LONG cảm nghỉ rằng với uy thế ông đă tạo, và giúp đỡ nhiều Đạo Hữu bấy lâu nay Ông có thể thực hiện được công tác liên ḥa rộng rải chung quanh ông, có phải chăng nhờ thế mà ông được cử làm Chủ Tịch của “CAO-ĐÀI TỔNG-HỘI”?

Về việc Ông xin giao trả các Thánh-Thất, Ông chỉ thành công một phần nào đó thôi, c̣n những Thánh-Thất thuộc về Ṭa-Thánh Tây-Ninh, th́ vẫn đứng ngoài ṿng ảnh hưởng ấy.

Trong Tập San CAO-ĐÀI GIÁO LƯ, Số Noel (1950) Trang 85 với Tựa đề “T̉A-THÁNH TÂY-NINH KHÔNG THỪA NHẬN” có một đoạn viết như sau :

“Nhờ sự kiên tŕ nhẫn nại với bao nhiêu kinh nghiệm rút rỉa ngoài đời, với sự tế nhị trong trường ngoại giao “Ông NGUYỄN PHAN LONG” đă qui tựu một số cộng sự viên trung thành và tận tụy, sau một thời gian tương đối ngắn ngũi, nhiều chi phái tập trung lại chung quanh ông, thành lập “TRUNG TÂM CAO-ĐÀI HUYNH ĐỆ’’ mà Giáo Lư chỉ đứng vững với những bài phiên luận suôn.

“Dưới quyền điều-khiển của Ông, sau ba năm nổ lực, nhóm nầy truyền bá Giáo Lư Cao-Đài ra tới Miền Trung Việt. Đà Nẵng, Tam Quan và khóa ṿng hoạt động, với 12 Trụ Sở làm chi nhánh gọi là “LONG-VÂN CHI-HỘI”         nơi nhóm hợp để t́m phương thống nhứt.

“Năm Mậu Dần (1938) nhóm Tín Đồ Cầu Kho (Sai G̣n) có thiện- chí tổ chức “Lễ kỷ niệm ngày thành Đạo” dưới quyền Chủ Tọa của “CAO-ĐÀI TỔNG-HỘI”  nhân-dịp nầy chư Đạo Hữu các nơi Bắc, Trung, Nam, Cao-Miên, và Ai-Lao, được mời về nhóm họp một phiên họp khoán Đại Hội Nghị để giải quyết vấn đề thống nhất tinh thần và Đại Đồng Giáo Lư. Số tín đồ tựu họp khá đông, các bài thuyết giáo được phát thanh đầy đủ.”

Tuy sự hoạt Động có phần chu đáo, nhưng không làm tổn-thương nổi uy thế của Ṭa-Thánh Tây-Ninh.

Cũng trong năm nầy (1938), sau kỳ Đại Hội một thời gian ngắn, có lịnh Thiêng Liêng do nơi “CAO-ĐÀI TỔNG-HỘI” ban hành tuyên bố giải tán tất cả 12 Chi Hội LONG-VÂN.

Sự tuyên bố nầy  gợi ra hai nhận định chính xác :

- Một mặt cuộc tranh đấu của LONG-VÂN-HỘI  chỉ đe dọa quyền hành của HỘI-THÁNH TÂY-NINH nhưng không lay chuyển nổi.

Hậu quả liền theo đó là trong đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng giêng năm Mậu Dần (DL: 7-8 Pe1vrier 1938), một bài Thánh Giáo xác nhận, ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC là : CHƯỞNG QUẢN NHỊ HỮU H̀NH ĐÀI HIỆP-THIÊN VÀ CỬU-TRÙNG, làm cho gia tăng cương vị của ĐỨC HỘ PHÁP. Chung qui sự thất bại hoàn  toàn của Phái Ông NGUYỄN PHAN LONG đă rơ rệt.

Mặc khác Tập San “CAO-ĐÀI GIÁO-LƯ” Số 8 Tháng 6 và tháng 7 Năm 1949, nơi trang 339 có nhắc:

“Cuộc hội họp của 12 Chi hội LONG-VÂN có tánh cách quá khích với ảo vọng chống đối Ṭa-Thánh Tây-Ninh khiến các nhà đương quyền chú ư theo dơi và nghi ngờ sẽ có rối loạn. V́ lẽ ấy một số Trụ Sở  bị Chánh  Quyền đóng cửa, một số tín đồ bị bắt điều tra.”

***

         

Ngày 23 Tháng 7 năm Canh Th́n (Dl: 26-8-1940), có 16 Thánh-Thất, trong số 79 c̣n lại, kể cả Đền-Thánh Tây-Ninh cũng bị đóng cửa theo lịnh của Chánh Phủ v́ không có giấy phép. Ngoài ra các nhà Sở Phước Thiện cũng bị t́nh nghi là nơi làm quốc sự của Đạo Cao-Đài, nơi nào bị đóng cửa đều bị khám xét cẩn mật, nhứt là tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh, Chánh Quyền tịch thâu các sổ sách chứng minh sự hoạt động của nền Đạo kể sau đây :

Bộ Đạo Bản Đồ Tổ Chức, Sổ Nhật kư Công Văn, gởi đi và nhận  được, Giấy Thông Hành đi Hành Đạo, Phúc Tŕnh có định kỳ 3 Tháng, 6 Tháng và hằng năm, dự án, thâu xuất, sổ kết toán, Châu Tri, Bố Cáo, Huấn Lịnh, Nghị Định, Tờ Thuyên Bổ Chức Sắc, Tờ Ban Khen, Nghị Quyết trục Xuất (vụ Ông Tương, Ông Trang), Bản án các phiên xử Ṭa Đạo (Pháp Chánh) v.v...

Các Công Văn đều có đóng dấu chứng minh đó là những Văn Kiện Đạo làm Chánh Trị đề theo kiểu mẫu của Nhà Nước, Đây là một Tổ Chức Quốc Sự núp dưới bóng Đạo để mưu đồ Lập Quốc đợi thời cơ thay thế Chánh Quyền Pháp tại Đông Dương.

Lẻ dĩ nhiên Cơ Quan Hành Chánh Đạo bị ngưng trệ.

Toàn Đạo phẫn uất lănh đạm với hành tàng của Chánh Quyền, nhưng với kiên nhẫn khép ḿnh trong ṿng trật tự an ninh.

Vài tháng sau, các phong trào cách mạng Chống Pháp nổi lên khắp xứ, trong khoản tháng 10 tháng 11 Năm 1940, trong vùng Lạng-Sơn Cao-Bằng, trong giải Núi Đông-Triều ngoài Bắc-Việt. Tại Miền-Nam Việt Nam , Cuộc Cách-Mạng Chống Pháp cũng nổi lên  tại các Tỉnh Tân An, Mỹ Tho, Cao Lănh. Lần thứ nhứt Dân Thôn quê dựng cờ đỏ sao vàng của Cộng-Sản.

Tháng Giêng Năm 1941, ở Miền-Bắc Trung-Việt, khắp mọi nơi nhứt là tại vùng đồ lương dân tâm quá xao xuyến đ̣i hỏi quyền tự do làm cho Chánh Quyền Pháp phải sử dụng lối đàn áp khắt khe và bắt bớ để văn hồi an ninh công cộng.

Đối với Chánh Quyền toàn thể Tín Đồ trung thành với Ṭa-Thánh Tây-Ninh đều xa lánh những thành phần phá rối Chánh-Phủ, Họ không quên lưu ư Chánh Quyền rằng hễ nơi nào có Đạo Cao-Đài th́ Cộng Sàn không phương lan tràn đến được.

Những hoạt động Chánh Trị của các phong trào cứ tiếp diễn, trong những tin tức thâu thập được, đă có đề cập đến một số nhân vật ở Tỉnh Tây-Ninh.

Quan Toàn Quyền liền áp dụng biện pháp cứng rắn hy vọng chấm dứt các hành động mà Ông cho rằng phá rối cuộc trị an công cộng.

 

  

V. KHÚC QUANH LỊCH SỬ

CỦA ĐẠO CAO-ĐÀI

 

ĐỨC HỘ PHÁP THỌ NẠN

NĂM VỊ CHỨC SẮC THIÊN PHONG BỊ PHÁP BẮT LƯU ĐÀY

 Ngày nùng 4 tháng 6 Nhuần, Năm Tân-Tỵ (Dl: 27-7-1941). ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC Bị nhà cầm quyền Pháp bắt đày đi Sơn La canh giữ nghiêm nhặt tại mỗi nơi bí mật để chờ lịnh phán quyết cuối cùng, Những Đạo Hữu trung thành và thân nhân cố gắng chạy các nơi ḍ la tin tức, song không được kết quả chi.

Đến Ngày 11 Tháng 7 Năm Tân-Tỵ (Dl: 2-9-1941), Năm Vị Chức Sắc Đại Thiên Phong sau đây cũng bị bắt chung số phận và dẫn giải đến Djiring là một Quận nhỏ ở vùng Cao Nguyên Miền Nam Trung Việt:

1-Ông, KHAI PHÁP TRẦN DUY NGHĨA, Thời Quân Hiệp Thiên Đài (Phẩm nầy tương đương với Đầu Sư Cửu Trùng Đài) bị bắt tại Saigon.

2-Ông TRẦN VĂN PHẤN, Giáo Sư THÁI PHẤN THANH) Chủ Trưởng Hội-Thánh Ngoại-Giáo Cao Đài tại Nam Vang, bị Bắt tại Thủ Đô nầy.

3- Ông NGUYỄN THẾ TRỌNG, Ngọc Chánh Phối Sư bị bắt tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh.

4- Ông THÁI VĂN GẤM (Giáo Sư THÁI GẤM THANH), liễu Đạo tại Karianga MADAGACAR, Ngày 20 tháng 8 Năm Nhâm Ngọ (29-9-1942).

5- Ông ĐỖ QUANG HIỂN, Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài, Bí Thư của ĐỨC HỘ PHÁP, tử  tại Karianga, ngày 14 Tháng 4 Năm 1943 ( Al- Ngày 10 Tháng 3 Năm Quí-Mùi).

Ba Ông, TRỌNG, GẤM và HIỂN, đều bị bắt tại Ṭa-Thánh.

Vị Chức sắc thứ 6 là Ông ĐẶNG TRUNG CHỮ, Chánh Phối Sư tránh khỏi sự truy nă của Chánh Quyền Pháp suốt thời gian Đệ Nhị Thế Chiến, Ông tham gia việc Đạo một cách miễn cưỡng và cuối cùng Ông bị Việt Minh ám sát tạ Phú Lâm (Chợ-Lớn) vào tháng 5 Dương Lịch 1947.

Ngày rằm tháng 7 Năm Tân-Tỵ (dl: 6-9-1941), Sáu Vị Chức-Sắc Đại Thiên Phong c̣n có mặt tại Saigon, cũng trong ngày nầy, tất cả đều bi đưa một cách bí mật xuống một chiếc Tàu “S/S Cao TOURANE” tàu nhổ neo tách bến và từ đây, họ phải chịu số phận Tù-Đày.

Ngày 30-9-1941 (Âm Lịch Mùng 10 Tháng 8 năm Tân-Tỵ), 6 Vị Đại Thiên phong đến (TAMATAVE)  để rồi 4 hôm sau tàu cập bến (Diego Suarez) và bị giam vào khám ở thị trấn nầy được 4 ngày, tiếp theo 4 ngày nữa ở tại (ANALALAVA)  Nơi đây một chiếc tàu Xà-Lúp chở 6 vị đến (MOSSI-LEVE) để câu lưu 8 tháng.

Đến năn 1943 và 1944, tất cả đều sống trong cảnh lao tù tại (KACIANGO), là nơi mà hai Ông THÁI VĂN GẤM và ĐỔ QUANG HIỂN từ trần v́ bịnh.

Năm 1945, 4 vị c̣n sống sót được dời đến địa điểm (STRONDIEULA)

Năm 1946, đi (BELTROKA) Ở Phía Nam đảo MADAGACAR 4 tháng.

Từ tháng 7 Dương Lịch Năm 1946 họ bị di chuyển đến thị trấn (ANTSIRABE) qua Thủ Đô (TANANARIVE), Sau rốt đến hải cảng (TAMATAVE), là nơi mà tất cả được chờ ngày hồi hương.

ĐỨC HỘ PHÁP, được hồi hương trước và tới Saigon ngày 26 tháng 7 năm Bính Tuất (dl: 22-08-1946).

Sau lại 3 vị Chức Sắc c̣n sống sót là Khai Pháp TRẦN DUY NGHĨA, Ngọc Chánh Phối Sư NGUYỄN THẾ TRỌNG và Giáo Sư TRẦN VĂN PHẤN, được một chiếc hạm Pháp đưa về đến Saigon ngày 29-11-1946.

***

Nhưng giờ đây chúng ta hăy xem lại  tại Việt Nam, cái tin vang dội và những cuộc bắt bớ quan trọng kể trên đă phát sanh  và cảm giác như thế nào mà hậu quả của nó ra sao?

 

Cái tin Đức Hộ Pháp PHẠM CÔNG TẮC bị bắt gây náo loạn kinh khủng và gieo rắc một mối hổn loạn vô cùng rộng giữa các giới Tín Đồ CAO ĐÀI GIÁO, toàn Đạo đều nhận định rằng:

Tiền Đồ của Đại Đạo Cao-Đài đă đến hồi quá ư đen tối, một Chức Sắc hiện diện tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh lúc nầy càng đắn đo với số phận, lo ngại về An Ninh bản thân ḿnh hơn la lo lắng vận mạng của Đạo, họ liền rời khỏi Thánh-Địa, những Chức-Sắc c̣n ở lại có tinh thần can đảm hơn, Quyết định tiếp tục cầm giềng mối Đạo, và ǵn giữ tài sản của Hội-Thánh.

  

                            

A.THÁI ĐỘ CỦA CHƯ CHỨC SẮC HIỆN DIỆN TẠI T̉A-THÁNH

 Để được an toàn trong t́nh thế khẩn trương các Chức Sắc hiện diện nơi Ṭa-Thánh, bèn hội thảo một kế hoạch như sau:

 

Trước tiên là Không nh́n nhận Quyền Chưởng Quản Nhị Hữu H́nh Đài của ĐỨC HỘ PHÁP để biện minh với Chánh Phủ Pháp, là số Chức Sắc hiện diện không theo đường lối chánh trị của Đức Hộ Pháp.

Kế tiếp là thành lập quyền Quản Trị duy nhứt giao cho ba vị Chánh Phối Sư toàn quyền điều khiển nền Đạo. (Hiệp Thiên Đài không được đề cập đến, có nghĩa là đặt dưới quyển điều khiển của Hội-Thánh Cửu Trùng Đài).

Ngày 16 Tháng 6 nhuần Tân Tỵ (Dl: 8-8-1941) trước sự hiện diện của hai vị Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, là Luật Sự PHAN HỮU PHƯỚC và VƠ VĂN NHƠN, Hội Thánh Cửu Trùng Đài  hội nhóm một phiên họp bất thường. Ông Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh tŕnh ra giữa Hội một bản Vi Bằng đánh máy sẵn, trong ấy thay v́ ghi rơ sự thật “ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC bị Chánh Quyền Pháp bắt đem đi biệt tích. Lại bóp méo ghi rằng: “Nghĩ v́ Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc vô cớ vắng mặt tại T̉A-THÁNH….”

Sau khi giải thích lư do là Hội Thánh đấu điệu với nhà cầm quyền Pháp để cho nền Đạo được yên, Ông NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ mời toàn hội kư tên vào Vi Bằng.

Thế là Toàn Hội đồng Kư Tên, nhưng liền sau đó có một phản ứng mănh liệt của hai vị Luật Sự Hiệp Thiên Đài.

Nhận thấy có ư đồ mờ ám vi phạm Luật Pháp Chơn Truyền của nền Đạo nên hai vị Luật Sự, nhơn danh Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, yêu cầu Hội-Thánh cho mượn bảng Vi-Bằng để điều chỉnh những chỗ Vi Hiến Nhưng Ông Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh không cho.

Sau những lời qua tiếng lại và cũng v́ nóng ḷng biết rơ mưu đồ c̣n dự tính làm hại đến Thanh Danh Hội-Thánh, nên Luật Sự VƠ VĂN NHƠN với tay lên bàn lấy Vi-Bằng (4 bản) xé tan nát.

Thế là Kế Hoạch của Hội-Thánh bị đổ vỡ.

Sự việc trên đây xảy ra 12 ngày sau khi ĐỨC HỘ PHÁP bị bắt.

***

Ngày 11 Tháng 7 Năm Tân Tỵ (2-9-1941) có tin Chư Vị Thiên Phong bị bắt, bị Chánh Quyền Pháp dẫn đi biệt tích, v́ t́nh thế quá ư khẩn trương, nên Hội-Thánh Nghị Quyết giao vận mạng của nền Đạo cho Ông Quản Lư Ḥa-Viện là Giáo-Sư THƯỢNG TRÍ THANH (Nguyễn Văn Trí) Thay mạt Hội-Thánh Cầm Quyền Đạo Tại Ṭa-Thánh.

Ngày 6 Tháng 8 Năm Tân-Tỵ (26-9-1941) Quan Tham-Biện Chủ Tỉnh Tây-Ninh, và Ông Chủ Quận Châu Thành Tây Ninh LÊ VĂN HUÊ, đến Ṭa-Thánh Giáp mặt Ông Giáo Sư TRÍ, và hẹn cho Ông 24 tiếng đồng hồ phải rời khỏi Ṭa-Thánh đặng qua ngày hôm sau có một trung đoàn quân sĩ Pháp đến chiếm đóng. Một sự hổn loạn mới mẻ kinh hoàng hơn tiếp diễn. Chức Sắc, Chức Việc và bao nhiêu Tín Đồ Nam, Nữ, lại phải một phen nữa tức cấp rời khỏi Ṭa-Thánh để t́m nơi trú  ẩn.

Từ ngày ĐỨC HỘ PHÁP bị bắt đi biệt tích  và biệt tin tức đến nay có hơn một tháng, Chư Chức Sắc Đại Thiên Phong, c̣n lại công cử nhau thay phiên cầm giềng mối Đạo. Mặc dầu các phiên nhóm không được hợp với Pháp Luật Chơn truyền Đại Đạo, Nhà Cầm Quyền Pháp tiếp tục bắt bớ một cách phi lư chẳng có lịnh của Biện Lư hay Ṭa Án nào cả. Các cuộc bắt bớ khám xét, đóng cửa các Thánh Thất, các cơ sở Phước Thiện ngày càng gia tăng, cho đến việc chiếm đóng T̉A-THÁNH, là những hành tàng áp bức Đạo đến mức tột độ, giữa t́nh trạng nghiêm trọng như thế. Lịch Sử ĐẠO CAO ĐÀI đang phải gặp thời kỳ Đau đớn nhứt, đen tối nhứt, kể từ ngày Khai Đạo cho đến nay.

Sự thật tại vùng T̉A-THÁNH TÂY-NINH lúc bấy giờ, không một ai nghe thấy Chức Sắc đương cầm quyền Hội-Thánh bí mật nhóm họp nhau để bàn thảo kế hoạch, đối phó với t́nh thế, mà trái lại im hơi lặng tiếng, chẳng có thái độ chi bày giải với Chánh Quyền Pháp, khả dĩ khiến họ phải suy nghĩ: đó là một phản ứng của CAO-ĐÀI, mặc dầu là một phản ứng tiêu cực.

 

B. SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA HAI CHỨC SẮC HIỆP THIÊN ĐÀI

 Thất vọng về Nội Bộ Chánh Trị Đạo, v́ tinh thần Hội-Thánh quá ư khủng hoảng có thể gây thêm hoang mang cho  Toàn Đạo Hữu ở các tỉnh khi họ nghe được tin ĐỨC HỘ PHÁP  bị bắt lại càng chán nản về cách xử thế đối ngoại của Hội-Thánh, nên Hai vị: PHAN HỮU PHƯỚC và VỎ VĂN NHƠN, đem các lư do trên đây tâm sự với hai Ông Lễ Sanh THƯỢNG TƯ THANH (Nguyễn Văn Tư), và NGỌC HOÀI THANH (Trương Văn Hoài) là hai vị Chức Sắc có tinh thần Đạo Đức Cách Mạng, với mục đích là gây mối tinh thần bất khuất, t́m mưu đối phó với các vụ đàn áp của Chánh Phủ đương quyền Pháp.

Bốn vị Chức Sắc: PHƯỚC, NHƠN, TƯ, HOÀI, đồng lập thệ trung thành với đường lối của ĐỨC HỘ PHÁP Phạm Công Tắc,  rồi hai Ông Lễ Sanh Tư và Hoài bận việc phải về Long Xuyên và Rạch Giá, mấy tuần qua, hai vị Luật Sự Phước và Nhơn phải đi ẩn dật một nơi xa Ṭa-Thánh, dự thảo những Công Văn kể sau:

A/- Thông Tri báo tin cho toàn Đạo Cao Đài, ở Đông Dương (Nam, Trung, Bắc, Cao-Miên và Ai-Lao) rơ biết ngày giờ ĐỨC HỘ PHÁP Giáo Chủ Đạo Cao Đài, ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ, bị nhà đương quyền Pháp bắc vô cớ và các tin tức quan trọng vừa xảy ra tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh. Xin lưu ư Toàn Đạo hăy b́nh tỉnh theo dơi t́nh h́nh Đạo đang lúc biến thiên.

B/- Thơ gởi cho Bộ Tư Lệnh Nhựt-Bổn vừa đóng Tổng Hành Dinh tại Pḥng Thương Măi Saigon, để báo tin về cách đối xử của Chánh Phủ Pháp với Đạo Cao Đài, Đồng thời yêu cầu Bộ Tư Lệnh Nhựt có nghĩa vụ làm sáng tỏ vấn đề tại sao? ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC Giáo Chủ Đạo Cao Đài bị bắt cóc.

C/-Thơ gởi cho các Ṭa Lănh Sự Ngoại Quốc hiện diện tại Saigon, yêu cầu can thiệp với Chánh Quyền Pháp tại Đông-Dương, nên v́ danh dự chung là Cường Quốc Văn Minh, mà làm sáng tỏ vấn đề trên đây.

D/-Nhiều Văn Thư gởi cho Toàn Quyền Đông Dương là Ông Decoux Quan Thống Đốc Nam Kỳ, các quan Khâm Sứ Bảo Hộ, Giám- Đốc Các Sở Mật Thám Trung, Nam, Bắc Việt Nam, Lào, và Cao Miên, đại ư thẳng thắng và cương quyết phàn kháng Chánh Sách Thuộc Địa hũ lậu của Thực Dân Pháp tại Đông-Dương, đă vô t́nh làm mất ḷng Dân Bổn Xứ, vi phạm nặng nề sự tự do tín ngưỡng và Hành Đạo của Tôn Giáo Cao Đài, gây phẫn uất trong quần chúng.

Lại tố cáo chế độ hèn nhát của các nhà đương quyền thay mặt Chánh Quốc Pháp, cũng bôi lọ  nền văn minh của Thiên Chúa Giáo tại Đông Nam Á.

Sự bắt cóc ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, Giáo Chủ Cao Đài Giáo và các Chức Sắc Thiên Phong, đă ghi vào lịch sử nhơn loại một vết đen tối v́ không chịu tuyên-bố lư do, không đem họ ra trước pháp đ́nh để ánh sáng công lư soi được tỏ rạng hầu phá tan các sự mờ ám để trấn an dân chúng, đồng thời giữ danh dự và thể thống cho nước Pháp.

E/- Gởi cho các báo chí và một số nhân sĩ ái quốc trong nước, mỗi nơi một Hồ Sơ gồm các bản văn của hai vị Luật Sự Hiệp Thiên Đài, đă gởi cho các nhà cầm quyền Pháp, Bộ Tham Mưu Quân Đội Nhự Bổn, Lănh Sự Ngoại Quốc để báo động và yêu cầu can thiệp với Chánh Quyền Pháp.

Hai Vị Luật Sự PHAN HỮU PHƯỚC và VƠ VĂN NHƠN c̣n phái nhiều tín hữu trung kiên mang các Hồ Sơ trên, đi khắp nơi tuyên truyền các giới Đạo và Đời, với mục đích gây phong trào “ Phản kháng bất bạo động” gây phản ứng khắp xứ, góp ư thức về một cuộc cách mạng chống chánh quyền Pháp đang bột phát.

***

Sau khi gởi xong các văn thơ, hai vị Luật Sự trên đây lại viết thơ ngay cho Ông Giám Đốc Sở Mật Thám Trung Ương Saigon đường  Catinat (Tức là đường Tự Do ngày nay).  Xin hẹn ngày đến gặp mặt để yêu cầu Chánh Quyền cho biết:

1)- Lư do bắt ĐỨC HỘ PHÁP, hiện câu lưu tại đâu để cho toàn Đạo Hữu được rơ.

2)- ĐỨC HỘ-PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, Giáo Chủ Cao Đài Giáo ngày nay có phải chịu số phận như Đức Chúa JESUS CHRIST ngày xưa chăng?

3)- Xin Chánh Phủ Vui Ḷng cho phép hai vị Luật Sự Hiệp Thiên Đài là: PHAN HỮU PHƯỚC và VƠ VĂN NHƠN, được theo Đức Giáo Chủ hầu giúp đỡ Ngài trong buổi đồ lưu.

Đúng Ngày giờ hứa hẹn, hai vị Luật Sự đến Sở Mật Thám Trung Ương, được ông Giám Đốc tiếp tại Văn Pḥng của Ông trên lầu (Lúc ra đi hai vị Luật Sự có cho Ông Giáo Thiện Gấm tháp tùng, nhưng không để ông vào Văn Pḥng mà Ông chỉ có phận sự ở ngoài đường, cách xa 100 mét để ngóng tin tức mà thôi.

Vừa bước lên lầu, th́ gặp Ông Phó Giám Đốc một người Pháp râu ŕa to tướng c̣n trẻ, với nét mặt hầm hằm sát khí, trợn mắt đe dọa Luật Sự Nhơn (đang là một Thanh Niên nhỏ tuổi hơn Ông Phước), Nhơn vẫn b́nh tỉnh thẳng thắng lễ độ cà cương nghị đáp ứng, độ 15 phút sau th́ Ông Chánh Giám Đốc, tuổi tác hơn ông Phó, với tư-cách nhă nhặn, ôn ḥa và lịch sự, mời hai Ông Luật Sự ngồi đối diện, rồi ông chậm răi khởi đầu:

“- Chúng tôi có tiếp được tất cả Văn Thư của Nhị Vị Luật Sự và hiểu được Tâm Đạo chánh đáng của Nhị Vị, chỉ v́ lư do đặc biệt và Chánh trị buổi nầy mà Chánh Phủ Pháp phải đem giữ ĐỨC HỘ PHÁP ở một nơi an toàn, v́ có lịnh bề trên không được tiết lộ, song Đức Ngài được đối đăi tử tế, sức khỏe được chăm sóc chu đáo, Chánh Phủ Pháp không bao giờ hà khắc đối với Ngài. Xin Nhị Vị Chức Sắc cứ yên tâm mà vui ḷng về cho toàn  bổn Đạo được rơ như vậy. Nhị Vị cứ về Hành Đạo tự do như từ trước đến nay, chúng tôi chỉ khuyên trong Đạo chẳng nên làm điều chi bạo động, làm mất trật tự an ninh của Chánh Phủ mà thôi.

“- C̣n việc hai ông muốn xin theo ĐỨC HỘ PHÁP, th́ không được v́ chúng tôi được lịnh thượng cấp, chỉ mời một ḿnh ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC mà thôi. Vậy hai Ông cứ an tâm vui ḷng trở về Ṭa Thánh , cho toàn Đạo được rơ.

Cuộc tiếp xúc với Ông Giám Đốc sở mật thám Trung Ương thay mặt chánh quyền Pháp kéo dài đến 1 giờ đồng hồ, để nhiều lời an ủi vỗ về, tỏ thái độ một nhà chánh trị khôn khéo.

Hai Vị Luật Sự  PHƯỚC và NHƠN về T̉A THÁNH, liền viết Thông Tri tường thuật cuộc tiếp xúc với Chánh Phủ cho toàn Đạo được rơ như trên, song không quên nhấn mạnh sự bất măn về tâm lư của toàn Đạo đối với hành động bắt ĐỨC HỘ PHÁP. Hai Ông nhứt định phải t́m cho ra chỗ giam ĐỨC HỘ PHÁP, liền đi đến chi nhánh ṭa soạn Báo (ASAHI)  của Nhựt Bổn tại Saigon để giao cho họ một số Văn Thơ đă gởi cho các nhà đương quyền Pháp và Ngoại Quốc với tư cách thông tin, trước là làm quen, rồi để lời nhờ Ban Giám Đốc Ṭa Soạn nầy giới thiệu qua. Bộ Tư Lệnh Quân Đội Nhựt vừa đóng Tổng Hành Dinh, tại Pḥng Thương Măi Bến Chương Dương Saigon, là một khu biệt lập, Chung Quanh có Biện Tây (Cảnh Sát Pháp tại Đô Thành) Ngày đêm canh gát nghiêm nhặt để ngăn ngừa dân chúng  đi lại giao dịch với Nhựt Bổn.

Hai Vị Luật Sự PHƯỚC và NHƠN, mặc Tiểu Phục Hiệp Thiên Đài, công nhiên lướt qua hang rào Cảnh Sát, đi  thẳng đến Tổng Hành Dinh Nhựt, nhờ có sự Giới Thiệu của Ban Giám Đốc Chi Nhánh của Ṭa soan Nhựt Báo ASAHI hai vị Luật Sự được tiếp đón ngay và mời thẳng lên Văn Pḥng trên lầu.

Ông Đại Tá Tư Lịnh Chỉ Huy Quân Đội Nhựt Hoàng tại Miền Nam rất lưu ư các Văn Thư của Hai Ông PHƯỚC và NHƠN, Nghiêm chỉnh trao đổi ư kiến về thời cuộc. Cuối cùng Đại Tá trao cho Nhị Vị Luật Sự một bản tin tức tối mật của Ban Gián Điệp Nhựt Phủ Toàn Quyền báo cáo cho ông được rơ tỉ mỉ về vụ Chánh Phủ Pháp Bắt ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, và 5 Vị Đại Thiên Phong của CAO ĐÀI T̉A-THÁNH TÂY-NINH. Bản báo-cáo như sau :

“Do lịnh tối cao của Toàn Quyền Đông-Dương là Ông DECOUX, ra lịnh cho sở mật thám Saigon  bắt Ông PHẠM CÔNG TẮC, v́ lư do t́nh nghi làm Quốc Sự có nguy hại đến nền cai trị của Chánh Quyền Pháp, Lúc mới bị bắt, Ông TẮC đươc đưa một cách bí mật đến Sơn-La, (Bắc-Kỳ) để câu lưu và canh chừng nghiêm nhặt, sau một tháng câu lưu tại (Sơn-La), là một địa điểm đầy rừng thiên nước độc, khí hậu rất xấu thuộc vùng sơn cước thượng du Bắc Việt, Ông PHẠM CÔNG TẮC được di chuyển trở về Saigon, Chánh Quyền Pháp dấu kính Ông ở dưới một chiếc Sà Lang (Chaland) để chờ bắt thêm 5 vị Chức Sắc yếu trọng của Đạo Cao Đài là các Ông: TRẦN DUY NGHĨA, NGUYỄN THẾ TRỌNG, TRẦN VĂN PHẤN, THÁI VĂN GẤM, và ĐỖ QUANG HIỂN, để rồi sang qua một chiếc tàu lớn, chở 6 Ông qua (MADAGASCAR), câu lưu họ nơi đó một thời gian vô hạn định…”.

Xem bản tin tối mật xong, hai vị Luật-Sự PHƯỚC và NHƠN, yêu cầu Bộ Tư Lệnh Nhựt can thiệp giúp Đạo… th́ Đại Tá Quân Đội Nhựt đáp đại cương rằng:

“Chánh Phủ Nhựt-Bổn mới vừa kư Hiệp Ước với Chánh Phủ Pháp tại Đông Dương về việc Quân Sự mà thôi, c̣n việc bắt ĐỨC HỘ PHÁP, các Chức Sắc Cao Cấp khác của Đạo th́ thuộc nội bộ Chánh Trị của Pháp, Theo nguyên tắc kư kết th́ Bộ Tư Lệnh Quân Đội Nhựt chúng tôi không có quyền can thiệp. Tuy nhiên, chúng tôi rất lưu ư theo dơi, hiện giờ chúng tôi xin Quí Ông thông cảm và ẩn nhẫn chờ thời cơ thuận tiện, v́ quyền hạn chúng tôi chưa cho phép hành động khác hơn, Và chúng tôi xin cám ơn về tin tức quan trọng nấy mà hai Ông Luật Sự có nhă ư cho chúng tôi được rơ….Chúng tôi mong được có sự cộng tác mật thiết giữa chúng ta, Nhựt-Bổn và Việt-Nam v́ quyền lợi chung của giống da vàng trong khối Đại-Đông-Á.”

Cuộc Hội Đàm với Đại Tá Tư Lệnh Quân Đội Nhựt Hoàng ở Miền Nam kéo dài hai tiếng đồng hồ trong bầu không khí tín cẩn và thân mật.

***

Từ giả Bộ Tư Lệnh Nhựt Bổn, hai vị Luật Sự an nhiên vượt qua hàng rào Cảnh Sát Pháp để trở về Ṭa Thánh  báo cáo mọi tin tức đă thâu thập được về phía Chánh Quyền Pháp cũng như tin tối mật của Bộ Tư Lệnh Quân Đội Nhựt cho Gia Đ́nh ĐỨC HỘ PHÁP và số Chức Sắc c̣n hiện diện tại Ṭa-Thánh biết. Song rất ít người tin rằng những thành quả truy t́m tin ĐỨC HỘ PHÁP và 5 vị Đại Thiên Phong bị bắt biệt tâm tích cho đến nay lại được hai vị Luật Sự PHƯỚC và NHƠN Khám phá ra sự thật.

E Ngại về các hoạt động cương trực của hai vị luât sự sẽ mang lại hậu quả nguy hiểm bất an cho Hội Thánh, và rất căm phẫn về việc Luật Sự NHƠN xé vi bằng phiên nhóm Ngày 16 tháng 6 nhuần Tân-Tỵ vừa rồi, nên Ông Giáo Sư THƯỢNG TRÍ THANH, đương kiêm Quản Lư Ḥa-Viện, vừa được chư Chức Sắc Nam, Nữ c̣n lại Ở Ṭa Thánh tôn lên nắm quyền nơi Thánh Địa, Triệu tập một phiên  nhóm. Chức sắc Hội Thánh quyết định trục xuất hai vị Luật Sự PHAN HỮU PHƯỚC và VƠ VĂN NHƠN ra khỏi ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Nghị định trục xuất nầy ban hành trong toàn đạo khắp cả Nam, Trung, Bắc và đệ tŕnh cho chánh quyền Pháp tường tri, cốt yếu không nh́n nhận hai Luật Sự Hiệp Thiên Đài chẳng chịu tùng quyền Hội Thánh nên Ṭa Thánh Tây Ninh không chịu trách nhiệm về các hoạt động của PHƯỚC và NHƠN.

Đă từ lâu hai vị Luật Sự nầy ra tạm trú ngoài Châu Thành Thánh Địa để phản đối thái độ bất hảo của Chánh Quyền Pháp tại Đông Dương. Sau khi gởi xong các Văn Kiện đi các nơi và t́m ra tin tức ĐỨC HỘ PHÁP và 5 Vị Đại Thiên Phong bị bắt  đày lưu nơi hải ngoại rồi. Khi Hai Ông PHƯỚC VÀ NHƠN trở lại lập Văn Pḥng tại Ngoại Ô Ṭa Thánh nơi nhà Ông Phó Quản Lư Công Viện Phước Thiện là Ông HUỲNH VĂN LIÊN, để tiếp-tục công khai tiến hành việc Đạo.

Nhận thấy công việc hoạt động của PHƯỚC và NHƠN, gây cảnh hưởng bất lợi cho sự cai trị của Thực Dân. Một mặt Chức Sắc Hội Thánh không công nhận, một mặt chánh quyền theo dơi hằng ngày, thấy số Chức Việc, Đạo Hữu trung thành với ĐỨC HỘ PHÁP, tới lui hưởng ứng mănh liệt, Ông Chánh Chủ Tỉnh Tây Ninh ra lịnh cho Ông Quan Chủ Quận Châu Thành  LÂM VĂN HUÊ  mời hai vị đến Văn Pḥng  rồi tống giam vào khám (nơi mà Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung-Nhựt bị giam 48 tiếng đồng hồ hồi năm 1934), giam đến ngày thứ ba, Ông Phó Chủ Tỉnh cho mời hai vị Luật Sự đến Văn Pḥng Ṭa Hành Chánh Tỉnh để phủ hủy và cũng để đe dọa (Bởi hai vị Luật Sự cũng gởi cho Chủ Tỉnh Tây Ninh và Hội Thánh tất cả Hồ Sơ Công Văn đả gởi đi các nơi như kể trên để tường-tri.

Được trả tự do, hai vị Luật Sự PHƯỚC và NHƠN  không chịu trở về Ṭa-Thánh, định ở lại đ̣i Chánh Quyền cấp giấy tống giam và ghi rơ lư do bắt bớ và giấy trả tự do hợp pháp. Giằng co măi, biết rằng không thâu thập được kết quả nên hai vị Luật Sự đành từ giả với lời yêu cầu: “Chánh Quyền nên làm việc đúng đắng, tôn trọng tự do tín ngưỡng đă ban hành đối với Đạo Cao Đài”, rồi trở về Văn Pḥng làm việc Đạo theo chương tŕnh dự liệu.

Cương quyết đem hết tất cả khả năng để chống lại sự kinh hải do Chánh Quyền Pháp nhẫn tâm đàn áp, gieo hoang mang cho toàn Đạo, Khủng bố toàn dân, hai vị Luật Sự thản nhiên tiếp tục hoạt động, càng ngày càng có thêm sự hưởng ứng, của các phần tử trung kiên, bất  khuất ở các tỉnh về, Văn Pḥng của Luật Sự lănh công tác, công việc vừa bộc phát, như ngọn lửa mới vừa nhen nhúm th́ Chánh Quyền Pháp lại dập tắc ngay.

Ngày 15 tháng 12 Năm 1941 (Nhuần 25/10 Tân-Tỵ) Hai vị Luật Sự PHAN HỮU PHƯỚC và VƠ VĂN NHƠN, bị Sở Mật Thám Saigon đến bao vây Văn Pḥng tại Ngoại Ô Thánh Địa lúc 4 giờ sáng, tịch thâu tất cả tài liệu và bắt đi biệt tích, Ông Giáo-Sư THƯỢNG TRÍ THANH, đang nắm chủ Quyền Thánh-Địa củng bị bắt một lượt với Phước Nhơn, cả ba bị đem dấu kín trong ba tháng đầu tại Hội -Xuân (thuộc Tỉnh Thanh Hóa) giáp với Ai-Lao. Qua Tết Nguyên Đán Năm Giáp Ngọ (Tháng 2 DL 1942), ba Ông Phước, Nhơn và Trí bị đưa về Nhà Lao Thanh Hóa Tỉnh Lỵ Ở Bắc Trung-Kỳ một tháng, tra tấn lấy khẩu cung xong rồi đem lưu đày tại Sơn-La, hạ tuần tháng 2 Dương Lịch (1945), kế tiếp di chuyển lên Lai Châu một Tỉnh giáp Biên Giới phía Nam Trung-Hoa. Cho đến Thượng tuần tháng 4 (DL: 1945), Lúc nầy Quân Đội Pháp bị Quân Đội Nhựt Bổn đánh bại, phải bỏ xứ Việt-Nam Chạy thoát thân, nên đoàn tù Chánh Trị Phạm gồm đủ các thành phần Đảng phái: Cộng Sản, Quốc Gia, Tôn Giáo, Chống chế độ Phong Kiến… mới được giải thoát tại tỉnh Lai Châu.

Sau vụ Bắt hai vị Luật Sự Phước và Nhơn và Giáo Sư Trí th́ c̣n lại hai vị Giáo Sư Tuốc và Chất mỗi tháng chỉ đi viếng thăm Ṭa Thánh Tây Ninh một lần để rồi về quê nhà ôm theo bao nhiêu tủi hận v́ đả chứng kiến những cảnh tồi bại, đang phá hoại thuần phong mỹ tục của toàn Đạo đă từng công phu khổ hạnh để xây dựng.

C̣n Ông Phối Sư THƯỢNG CHỮ THANH (ĐẶNG TRUNG-CHỮ),  là một Chức Sắc Cao Cấp, có nhiệm vụ chánh-thức Giao Dịch với Chánh Phủ điều khiển nền Đạo, th́ đào nhiệm đi ẩn trốn rất kín đáo trong Chợ Lớn.

Ngày 21Tháng 12 Năm 1942, mùng 7 tháng giêng năm Nhâm Ngọ Ông ra mặt nhờ xe Ô Tô của Ông Giáo Sư THƯỢNG VINH THANH, (Trần Quan Vinh) đang là một Công Chức tại Nam Vang, nhân dịp tết về Sai-G̣n, rước Ông lên Kim-Biên lánh-nạn, thay v́ làm gương mẫu với tinh thần hy sinh phục vụ cho toàn Đạo Hữu đang trông đợi nơi ông, Ông trở lại gieo rắt thêm những sự sợ hải kinh hoàng cho Chư Thiện-Nam Tín Nữ.

T́nh h́nh Chánh Trị càng khẩn trương, Đạo Cao Đài ở Kim Biên, gặp nhiều khó khăn, Ông CHỮ trốn sang vọng các sáu tháng sau khi trờ về Nam Vang.

***

 

Như thế kể từ Năm 1942 các hoạt động của Đạo Cao Đài  đă thật sự ngưng hẳn tại Nam Kỳ, Các Thánh Thất cơ sở Phước Thiện đều bị đóng cửa, Nhân Viên Công Lực Sở Mật Thám, với những điềm chỉ viên săn tin cho Pháp luôn luôn ŕnh rập ngày đêm, Số Thiện Nam, Tín Nữ trung  kiên với Đạo muốn cúng kiến th́ chỉ thật hành tại tư gia hoặc khi cần thông tin với nhau th́ phải hết sức thận trọng và bí mật.

 

 

VI. TOÀN ĐẠO CAO ĐÀI HIỆP TÁC

VỚI QUÂN ĐỘI NHỰT ĐẢO CHÁNH PHÁP TRONG ĐÊM 9-3-1945

 Với tin ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, Giáo Chủ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và một số Chức Sắc Đại Thiên Phong đang cầm quyền yếu trọng của Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh bị bắt đi biệt tích, Chánh Phủ Thực Dân Pháp thời ấy đă ngang nhiên vi phạm công khai quyền tự do tín ngưỡng và hành Đạo mà Quan Toàn Quyền ROBIN đă công bố cho Đạo CAO ĐÀI Từ Năm 1934.

Bị đàn áp đến cực độ, nên tinh thần bất khuất của khối Tín Đồ CAO ĐÀI dầu kiên tâm nhẫn nại đến đâu, cũng phải có phản ứng tương đương, càng bị đàn áp, càng mất chủ quyền, nên toàn Đạo cũng như toàn dân càng khao khát, Tự Do, Độc Lập cho bản thân họ và cho Tổ Quốc của Họ bấy nhiêu. Huống chi nền Đạo Cao Đài bị đàn áp trực tiếp đến cực độ, th́ sự căm hờn phẫn uất đối với Chánh Quyền Pháp đă bộc phát trong ḷng Toàn Đạo và Toàn Dân cũng lên đến cực độ. T́nh trạng ấy đă gây ư thức cho tất cả chư Tín Hữu giác ngộ, toàn dân thức tỉnh, nên Chư Tín Đồ Cao Đài phải cương quyết đứng lên khởi nghĩa, phất cờ tranh đấu chống Pháp, để khôi phục nền Độc Lập cho Quốc Gia, khôi phục tự do tín ngưỡng cho Đạo Giáo hầu xây dựng xă hội lành -mạnh cho Dân Tộc một nước tự chủ và phú cường.

 

***

 

Kịp khi Quân Đội Nhựt Bổn kư kết với Pháp đóng quân ở Đông Dương, đang t́m những lực lượng hợp tác, đồ mưu lật đổ Chánh Quyền Pháp, th́ Hai Ông LỂ SANH NGỌC HOÀI- THANH (Trương Văn Hoài)  Và THƯỢNG TƯ THANH (Nguyễn Văn Tư) là hai người trước đây đă thề nguyền  với hai Luật Sự PHƯỚC và NHƠN, liên lạc với Nam Vang thương lượng với Ông Giáo Sư THƯỢNG VINH THANH (Trần-Quang-Vinh), t́m phương hợp tác với Quân Đội Thiên Hoàng hầu có xây dựng phong trào “PHỤC-QUỐC”.

May thay, lúc ấy Ông TRẦN QUANG VINH nghỉ việc ở Nam Vang đă về Long Xuyên trú ngụ, nên một nhóm anh em bèn tổ chức Cầu Cơ lần đầu tiên tại Long Xuyên, đêm 28 Tháng 10 Năm 1942 do Giáo Hữu THÁI ĐẾN THANH và Lễ Sanh NGỌC HOÀI THANH Pḥ Loan, ĐỨC LƯ ĐẠI TIÊN, và ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT, giáng dạy phải hợp tác với Nhựt Bổn mới mong gở ách nô lệ cho Dân Tộc Việt Nam được trong thới gian 20 ngày. Ông Giáo Sư THƯỢNG VINH THANH ngồi chờ đợi một nhóm Chức Sắc có thiện chí mà Ông đă phái người đi mời.

Đến ngày 17 tháng 11 Năm 1942, Có một số Chức Sắc Huynh Đệ hưởng ứng, nên đêm ấy có Đàn Cơ tại tư gia Ông TRẦN QUANG VINH, với sự hiện-diện của Giáo Sư ĐỨC, Giáo Sư NON, Giáo Sư VINH, Giáo Hữu ĐẾN, Giáo Hữu CAO, Giáo Hữu HÀO, Lễ Sanh HOAI, Lễ Sanh TƯ, Lể Sanh SÁNG (B́nh Định) tất cả là: 9 vị (Là Cửu-Thiên-Khai-Hóa).

ĐỨC LƯ ĐẠI TIÊN và ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG, Giáng dạy và  thúc giục  phải mau đi hợp tác với Nhựt Bổn.

 

V́ có lịnh Anh Cả QUYỀN GIÁO TÔNG, nên ngày hôm sau: 18 Tháng 11 Năm 1942, nhóm Anh Em đều giải tán, kẻ đi Saigon người đi các tỉnh để vận động.

Chỉ một thời gian ngắn ngủi, nhờ quyền năng của Thiêng Liêng  xây chuyển, nên cơ hội hợp tác đắc thành. Chức Sắc và Đạo Hữu các nơi nườm nượp đi Saigon để cộng tác và nhơn một phiên nhóm Chức Sắc có sự hiện diện của hai vị Sĩ Quan Nhựt Bổn, Tất cả đồng thanh yêu cầu Ông TRẦN QUANG VINH, làm Đại Biểu cho Đạo Cao Đài.

Từ đây, mọi việc giao thiệp với Bộ Tư Lệnh Quân Đội Nhựt  Hoàng, và Lèo lái con thuyền PHỤC QUỐC, đều do Ông Đại Biểu đảm trách.

Nhờ sự đoàn kết của toàn Đạo “NHỨT HÔ BÁ ỨNG” và sự “HỢP TÁC” hữu hiệu, nên kết quả đem đến Đảo Chánh Pháp: đêm 9 tháng 3 năm 1945, mở màng Giải Phóng cho Dân Tộc Việt Nam bị đô hộ dưới ách thống trị của Thực Dân Pháp trót 80 năm.

 

CAO ĐÀI ĐĂ THÀNH CÔNG

ĐỨC HỘ PHÁP VÀ 3 VỊ ĐẠI THIÊN PHONG ĐƯỢC TRẢ TỰ DO

 

Thế là sự nghiệp Cách Mạng tranh đấu giải ách nô lệ cho Đạo Cao Đài và cho Toàn Dân Việt-Nam đă thành công rực rỡ.

Nhờ dịp nầy mà Ông Giáo Sư Đại Biểu, yêu sách Chánh Phủ Pháp phải trả tự do cho Đức Hộ Pháp PHẠM CÔNG TẮC với 3 vị Đại Thiên Phong c̣n sống sót đang bị đồ lưu nơi hải đảo MADAGASCAR. Chánh Phủ  Pháp phải nhượng bộ.

ĐỨC HỘ PHÁP được hồi hương, về đến Sài G̣n ngày 26 Tháng 7 Nam Bính Tuất (22-8-1946).

Ba vị Chức Sắc c̣n sống sót là: Khai Pháp TRẦN DUY NGHĨA, Chánh Phối Sư: NGUYỄN THẾ TRỌNG và Giáo Sư TRẦN VĂN PHẤN, được một chiến hạm Pháp đưa về đến Saigon ngày mùng 6 Tháng 11 Năm Bính Tuất (29-11-1946).

Kể từ đây Đức Ngài tiếp tục cầm giềng mối Đạo, lo Phục Hưng Đại Nghiệp Đạo cho đến khi đăng Tiên tại Nam Vang (Cam-Bốt) Ngày mùng 10 Tháng 4 Năm Kỷ Hợi (17-5-1959).

 

Ṭa Thánh Tây Ninh, mùa thu năm KỶ Dậu (1969)

Tác giả chỉnh lại cũng vào mùa thu năm Qúi Sửu (1973)

 

       VII.TIỂU SỬ ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC

     ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, Sanh Ngày 5 tháng 5 Năm Canh Dần ( 21-6-1890). Tại Làng B́nh Lập, Tỉnh Tân An.

Phụ thân là Ông PHẠM CÔNG THIỆN, Người Đạo Gia Tô, Mẫu Thân Ngài là Bà: LA THỊ ĐƯỜNG, theo Phật-Giáo.

Ngài đă được Phụ Thân đưa đi làm lễ rửa tội tại Nhà Thờ Thiên Chúa.

Thuở thiếu niên Ngài học tại Saigon, rồi qua trường Trung Học Mỹ Tho, đến năm 20 tuổi, Ngài thi đậu, được vào ngạch Thương Chánh và lập gia đ́nh, Ngài Kết hôn với Bà NGUYỄN THỊ NHIỀU, Sinh quán tại Làng Tân Phú, Quận Bến Lức, Tỉnh Chợ Lớn, Là Ái Nữ của Ông: NGUYỄN VĂN PHƯỚC và Bà LÊ THỊ BƯỞI.

Ngài làm việc tại Saigon được một ít lâu, rồi đổi đi Cái Nhum, thuộc Tỉnh Vĩnh-Long.

Ba Năm sau, Ngài được thuyên chuyển ra Hưng Thạnh (Qui Nhơn) Trung Kỳ, ở tại đây được 5 năm rồi lại đổi về Saigon.

Là một Công Chức Ngài rất thích nghiên cứu về “THẦN LINH HỌC” và tham dự nhiều nhóm truyền giáo tại Việt Nam, theo phái “Thiền Lâm” và Đạo Thiên Chúa. Ngài có tánh Nhân Đức, Nhân Từ, Quảng Đại, lại giao thiệp rộng, nên Ngài được quen thân trong nhiều giới, Ngài thích giải trí bằng thi phú văn chương và âm nhạc.

Khoảng Năm 1924-1925, Ngài thường đi lại với Ông CAO HUỲNH CƯ, CAO HOÀI SANG, và nhiều nhân vật khác nổi tiếng ở Saigon.

Ngoài giờ làm việc, Ngài thích họp các bạn thân lại để cầu thỉnh các đấng Thiêng Liêng đặng xin ban cho thi phú. Việc thỉnh giáo xin thi phú đều đặng thỏa măn, cho đến lúc các Đấng trọn lành giáng cơ chỉ dạy các Ngài con đường phải tiến tới thành lập một Tôn Giáo mới. Đó là sứ mạng Thiêng Liêng của các Ngài đă được vạch ra từ lúc bấy giờ.

Vào Năm 1926, trong một Đàn Cơ quan trọng tại nhà Ông LÊ VĂN TRUNG, Ngài được THƯỢNG ĐẾ phong làm HỘ PHÁP (Bảo Vệ Luật Pháp) c̣n các bạn của Ngài đều được phong vào hàng Chức Sắc.

Nhân dịp được Chánh Phủ cho nghỉ phép 6 tháng. ĐỨC HỘ PHÁP  liền mở màn sinh hoạt thuần túy theo Đạo Giáo, nơi Chùa Từ Lâm Tự tại G̣ Kén (nguyên là một ngôi Chùa Phật thuộc Tỉnh Tây Ninh).

 Theo Thiên ư của ĐỨC CHÍ TÔN đă cho biết trước, khi măn phép, liền có Nghị Định của Thương Chánh Trung Ương Hà Nội thuyên bổ Ngài lên Nam Vang vào hạ tuần tháng 3 Năm Đinh-Măo (1927).

Khoản cuối Năm 1926, Chùa Từ Lâm Tự bị lấy lại trong lúc ĐỨC HỘ PHÁP vắng mặt, th́ hai vị Đại Thiên Phong THƯỢNG TRUNG NHỰT (Lê Văn Trung), CAO THƯỢNG PHẨM (Cao Huỳnh Cư) và Chư Vị Chức Sắc Cao Cấp thay thế Đức Ngài quán xuyến mọi việc. Di chuyền Tổ Chức ĐẠO CAO-ĐÀI về làng Long Thành Tây Ninh, tuân hành đúng theo lịnh của ĐỨC LƯ ĐẠI TIÊN, để tạo lập Ṭa Thánh.

Trong thời gian 8 Tháng lưu trú tại xứ Miên, được hiệp tác với Ông CAO TIẾP ĐẠO (Cao Đức Trọng), ĐỨC HỘ PHÁP mở cuộc truyền giáo Phổ Độ dân chúng Miên và Việt Kiều.

Cùng lúc ấy Ngài Được thăng bật Tham Tá, mà cũng chính là lúc công việc Đạo càng đa đoan, Ngài vào đơn xin đổi về Nam Kỳ, nhưng vô hiệu quả. Sau đó trong gia đ́nh Ngài ở Tây Ninh có một đứa con gái của Ngài lâm bịnh nặng, mà Bác Sĩ không sao chữa trị nổi, nên Ngài xin Từ-Chức, đồng thời bỏ sở làm, trở vế Tây Ninh vào thượng tuần tháng giêng năm 1928. Đứa con bịnh đă chết. Chánh phủ ra Nghị Định ngày (11-4-1928) Giải Chức Ngài v́ lư do phế vong phận sự. Thế là từ đây, Ngài được thong thả hoạt động về mặt Đạo Giáo theo Sở thích của Ngài.

ĐỨC HỘ PHÁP bèn đem hết năng lực để bành trướng nền Đạo. Số Tín Đồ các nơi tựu về theo Ngài rất đông đảo, khiến Ngài trở thành một mối lo âu thường xuyên của Nhà Cầm Quyền Pháp.

Đạo Cao Đài đến đây c̣n phải vượt qua nhiều cơn thử thách nghiêm trọng. Một số tín đồ ở Cầu Kho (Saigon), cố ư chống đối Ngài, Đáng kể là Đạo Hữu (Tư-Mắt) đă nhiều phen đe dọa  đuổi Đức Hộ Pháp và Cao Thượng Phẩm ra khỏi Ṭa Thánh.

Đức Hộ Pháp đành cam chịu biết bao trận khảo thí ngặt nghèo, cho đến đổi phải buộc ḷng rời khỏi Ṭa Thánh, đi ẩn cư từ nơi nầy sang nơi khác. Khi th́ Ngài ở Thủ Đức, lúc Tại Mỹ Tho, nhưng không bao giờ Ngài xao lảng khuếch trương nền Đạo. Trong Tỉnh Mỹ Tho, Ngài tạo dựng Ngôi Tiểu Thánh Đường lấy tên là: THÁNH THẤT KHỔ HIỀN TRANG, để Chư Đạo Hữu sùng bái ĐỨC CHÍ TÔN, cho đến khi ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM liễu Đạo Năm (1929).

Chính lúc nầy tại Ṭa Thánh toàn thể Chức Sắc nhận thấy không c̣n ai có khả năng lèo lài con thuyền Đạo, nên phái một số Chức Sắc trong Hội Thánh đi yêu cầu ĐỨC HỘ PHÁP Trở vế cấm giềng mối Đạo.

Ngày mùng 5 tháng 3 Năm 1929, trước mặt một số đông tín đồ Nam, Nữ, Đức Ngài đọc một bài Thuyết Đạo, giảng giải về nguồn gốc ĐẠO CAO ĐÀI, rất được thính giả ái mộ, và từ đó uy thế của Ngài càng tăng rơ rệt. Ngài cầm quyền CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI, Kiêm nhiệm điều khiển Ban Lễ Nhạc và BỘ PHÁP CHÁNH. Ảnh hưởng của Ngài càng lan rộng trong những năm kế tiếp. Ngài đủ quyền năng Thông Công cùng các đấng Thiêng Liêng và nhờ vậy mà Ngài đă thành công rực rỡ  trong tài lănh Đạo của Ngài.

Đức Ngài phải đem hết tâm lực đối phó một cách rất chua cay với các Chi Phái phản nghịch của Nền Chơn Giáo, đồng Thời Đức Ngài cố gắng đem hết khả năng vào công cuộc Kiến Thiết Ngôi Đền Thánh đương xây cất.

Năm 1940 Đạo Cao Đài chạm phải nhiều khó khăn nghiêm trọng hơn.

Năm 1941 Các Công Tác xây cất Đền Thánh đều bị ngưng lại.

Ngày 4 Tháng 6 Nhuần Tân-Tỵ ( Chủ-Nhật 27-7-1941) ĐỨC HỘ PHÁP bị Chánh Quyền Pháp Bắt di câu lưu. Ban đầu họ  đưa Ngài đến Djiring (Trung-Kỳ), rồi giải đến Sơn-La ( Miền Thượng-Du Bắc-Việt) và sau cùng chở Ngài qua tận Madagascar (Phi-Châu), để rồi chịu số phận tù đày hơn 5 năm biệt xứ.

Ngày 26 tháng 7 B́nh Tuất (22-8-1946), Đức Ngài được đưa về Việt Nam, trả tự do tại Saigon. Nh́n thấy Quê Hương Tổ Quốc  bị chiến tranh tàn khốc, tâm can Ngài rất đau xót thảm năo.

Nhưng với nghị lực cương quyết cứu văn t́nh thế đen tối cho dân, cho nước, giữa lúc khói tỏa đạn bay do đoàn quân viễn chinh Pháp tái chiếm Đông Dương, gây cảnh thịt rơi máu đỗ của ṇi giống đang chống nạn Ngoại-Xâm. Đức Ngài liền Triệu tập “Hội Nhơn Sanh” tái thủ quyền bính, ngày đêm lo chỉnh đốn nội bộ, khôi phục quyền hành cho Hội-Thánh, thống nhứt các Đảng Phái, thành lập Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia làm hậu thuẫn cho Giải Pháp “BẢO ĐẠI” để tranh đấu buộc nước Pháp phải trao trả chủ quyền Độc Lập lại cho Việt Nam do Cựu Hoàng Bảo Đại nắm quyền “QUỐC TRƯỞNG”.

Tham vọng xâm lăng của Thực Dân Pháp bị thất bại trước sự kháng chiến anh dũng của Toàn Dân Việt Nam trong Năm (1954) tại “ĐIỆN BIÊN PHỦ”, Pháp bèn thương thuyết với Việt Minh mang danh nghĩa kháng chiến, để chia đôi đất nước  tại vĩ tuyến 17 bởi Hiệp Định “GENEVE”, Kư kết giữa hai phe ngày 20 tháng 7 Năm 1954, lấy sông Bến Hải làm ranh giới.

Từ vĩ tuyến 17 đỗ ra Ải Nam Quan, thuộc Chánh Quyền Việt Minh, theo ảnh hưởng Cộng Sản; từ Bến-Hải đổ vô đến Mũi Cà Mau, Thuộc Chánh Quyền Quốc Gia.

Năm 1955 QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI, bị Thủ Tướng NGÔ-Đ̀NH DIỆM truất phế, ảnh hưởng của Pháp tại Miền Nam được Tư Bản Mỹ thay thế.

Từ đây Dân Việt chia làm hai khối: Một nữa Ở Miên Bắc bị lệ thuộc Cộng Sản Nga-Tàu,  một mặt nữa tại Miên Nam bị Tư Bản Mỹ thao túng. Cuộc tranh chấp bị ảnh hưởng của Cộng Sản, Tư Bản thúc đẩy dân Việt vào cảnh cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt, tài diễn tấn tuồng  TRỊNH NGUYỄN Phân Tranh trong Lịch Sử nước nhà.

Với ư định gở cho kỳ được ách nô lệ mà Đồng Bào đang mang nặng, một gọng sắt của Tư Bản ở Miền Nam, một cùm thép của Cộng Sản ở Miền Bắc, c̣n nguy hại gấp mấy lần Pháp đô hộ trước kia. Đứng trước cảnh thảm sát giống ṇi do ngoại lai xúi giục, hơn nữa bị thúc phược dưới chế độ độc tài phản bội của Nhà Ngô. ĐỨC HỘ PHÁP bèn lưu vong qua Cam-Pu-Chia (Cam-Pốt) Ngày 5 tháng Giêng Năm Bính-Thân (16-2-1956) là xứ trung lập, mới có đủ phương tiện đề xướng Chánh Sách “H̉A B̀NH CHUNG SỐNG” hầu chấm dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa giữa giống ṇi. Đức Ngài gửi cho Liên Hiệp Quốc, các Đại Cường Quốc và Chánh Phủ hai Miền Nam Bắc Việt-Nam nhiều Thông Điệp, kêu gọi đem t́nh thương xóa bỏ hận thù, đem Bát-Ái Công-B́nh làm phương châm giao tế, danh dự, mỗi Thông-Điệp điều kèm theo bản Cương Lỉnh” gồm có 3 phần trọng yếu :

1)-Thống Nhứt Lănh Thổ và Khối Dân Tộc Việt Nam với phương pháp ôn ḥa.

2)- Tránh mọi xâm phạm Nội Quyền Việt Nam.

3)- Xây Dựng Ḥa B́nh, Hạnh Phúc và Tự Do Dân Chủ cho Toàn Dân.

Nội dung Bản Cương Lỉnh làm nhiều giai đoạn và chi tiết rơ ràng, nếu được các phe lâm chiến biết nghe theo sáng kiến của Đức Ngài th́ cảnh tang tóc tại bán đảo Đông Dương đă không làm ng̣i cho thế chiến thứ ba vậy.

ĐỨC HỘ PHÁP, một Vĩ Nhân của thế kỷ thứ 20, suốt kiếp sanh tận tụy Thể Thiên Hành Hóa lấy Đạo Cứu Đời, Cứu Khổ cho Nhơn Loại.

Ba ngày trước khi lâm chung Đức Ngài c̣n gởi cho Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên để lời Di Chúc rằng:

“Ngày nào Tổ Quốc thân yêu của chúng tôi, Nước Việt Nam của chúng tôi, được Độc Lập và Thống Nhứt th́ chừng ấy Tín Đồ của Chúng tôi sẽ di thi hài của Bần Đạo về T̉A-THÁNH TÂY-NINH”.

ĐỨC HỘ PHÁP Qui Thiên Ngày mùng 10 Tháng 4 Năm Kỷ Hợi (17-5-1959) hưởng thọ 70 Tuổi.

Ngài đă làm xong sứ mạng Thiêng Liêng tối trọng đại, của một Đấng Giáo Chủ thay trời độ thế.

 

Viết xong Tại Ṭa-Thánh Tây-Ninh Mùa Thu Năm Kỷ Dậu (1969)

Kư tên

Trần Quang Vinh

 

  

DI NGÔN CỦA ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC

 Bản Di Ngôn chính tay Đức Hộ Pháp viết bằng Pháp Văn ba ngày trước khi qui Thiên. Đây là bản thông dịch ra Việt Ngữ để cho Chư Tín Hữu có thể hiểu đặng.

  

ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

T̉A-THÁNH TÂY-NINH

…………………………..

 

Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Giáo Chủ Đạo Cao Đài

Kính gừi cho

Hoàng Tử Norodom Sihanouk Sandach Upayuareaach

 

Thưa Hoàng Tử,

Bần Đạo gởi những ḍng chữ nầy đến Hoàng Tử trong lúc nằm tại giường bịnh (Dưỡng Đường Calmette). Sức khỏe của Bần Đạo càng ngày càng suy giảm và Bần Đạo nghĩ không c̣n có thể sống bao lâu nữa.

Vậy Bần Đạo xin gửi lần cuối cùng đến Hoàng Tử và Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên tất cả lời cảm tạ chơn thành về sự khoán đăi rộng răi mà Hoàng Tử và Chánh Phủ Hoàng Gia dành cho bản thân Bần Đạo, cho đoàn tùy tùng và cho cà Tín Đồ của Bần Đạo.

Bần Đạo thành tâm cầu nguyện Đức Thượng Đế Cao Đài và Đức Phật Tổ ban hồng ân che chở cho Vương Quốc Cao Miên và cho bản thân Hoàng Tử sớm được b́nh phục sức khỏe và nhứt là thực hiện vẻ vang Chánh Sách Ḥa B́nh Trung Lập và Ḥa B́nh Chung Sống, chánh sách đặc biệt ưu ái mà Bần Đạo đă phí tổn sức lực, sức khỏe trọn đời mà Bần Đạo không thực hiện được.

Bần Đạo thành tâm ước mong cho Tổ Quốc thân yêu của chúng tôi, nước Việt Nam , có thể đeo đuổi chánh sách ấy ngày gần đây và tay nắm tay cùng đi với nước Cao Miên trong t́nh thương ḥa ái giữa các sắc dân, đặc biệt là giữa hai dân tộc Miên Việt.

Bần Đạo rất hân hạnh, nếu được yết kiến Hoàng Tử lần cuối cùng để tỏ bằng lời nói sự biết ơn của Bần Đạo, nhưng không biết sức của Bần Đạo có c̣n chờ được ngày về của Hoàng Tử hay chăng?

Dầu sao, nhơn danh Tín Hữu của chúng ta, nhơn danh t́nh thương và t́nh huynh đệ giữa hai dân tộc Miên Việt, và nhứt là nhơn danh tương lai không rời của hai nước chúng ta Cao Miên và Việt Nam, Bần Đạo hết sức thành khẩn yêu cầu Hoàng Tử một ân huệ đặc biệt và cuối cùng là ban ân cho Thánh Thất của chúng tôi đang có lịnh phá hủy để có thể lưu kỷ niệm độc nhứt cho những ngày lưu trú của Bần Đạo tại Cao Miên.

Để Hoàng Tử có thể nhận định một cách xác thật việc đă qua, Bần Đạo kính gửi cho đây một bảng sao tờ thỉnh nguyện mà Bần Đạo vừa đệ tŕnh cho Đức Vua.

Phần khác, nếu Bần Đạo thoát kiếp nơi đây, Bần Đạo kính cẩn khẩn cầu Hoàng Tử cho phép Bần Đạo tạm gửi thi hài nơi đất Miên, dưới sự bảo vệ tối cao của nhà Vua, của Hoàng Tử và Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên. Ngày nào Tổ Quốc thân yêu của chúng tôi, nước Việt Nam sẽ thống nhứt hoặc sẽ theo cùng Chánh Sách Ḥa B́nh và trung lập là mục tiêu đời sống của Bần Đạo th́ Tín Đồ của chúng tôi sẽ di thi hài của Bần Đạo về Ṭa Thánh Tây Ninh.

Bần Đạo lại khẩn cầu Hoàng Tử và Chánh Phủ Hoàng Gia, sau khi Bần Đạo thoát xác, dành cho đoàn tùy tùng và Tín Đồ của Bần Đạo việc cư trú rộng lượng và mọi sự dễ dải trong việc tu hành theo tôn giáo của chúng tôi.

Biết rằng Hoàng Tử sẽ chấp nhận đơn th́nh cầu nầy, Bần Đạo  yên ḷng nhắm mắt và đem theo kỷ niệm êm đềm nhứt trong đời Bần Đạo với sự cung kính cầu xin Hoàng Tử nhận nơi đây ḷng tri ân vĩnh viễn của Bần Đạo.

  NAM VANG, ngày 14- 5- 1959

HỘ PHÁP

Kư tên: PHẠM CÔNG TẮC

Số 226 Phlauv Préah Bat Nordon Phnom-Penh

 

Phiên dịch y bản Pháp Văn đính hậu

Ṭa Thánh Tây Ninh, mùa thu năm Kỷ Dậu (1969)

 Trần Quang Vinh

 

 

Top of Page

      HOME