TIỂU SỬ BÀ GIÁO SƯ TRẦN KIM PHỤNG

(1880-1937)


CHƯƠNG I
LƯỢC TIỂU SỬ VÀ ĐIẾU VĂN
CHƯƠNG II
PHẦN THI THƠ CỦA BÀ TRẦN KIM PHỤNG
CHƯƠNG III
CÁC ĐÀN CƠ BÀ GIÁO SƯ HƯƠNG PHỤNG GIÁNG
Phụ lục:
MỘT VỤ TRÁO LÁ SỚ THỬ CƠ

 

Thay Lời Nói Đầu

Theo lời tường thuật của ông Giáo Hữu Thái Cảnh Thanh (kêu là Cảnh Điện Báo) Th́ Bà Trần Kim Phụng là chơn linh của Khổng Minh. Bà rất sáng suốt giải quyết những sự khó khăn của Đạo. Một khi Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp lên Nam Vang mở Đạo gặp việc khó khăn nào hai ông hỏi ư kiến của Bà th́ Bà giải quyết mau lẹ thỏa đáng.

Chồng bà là ông trưởng ṭa người Pháp tên là Martinique Batrya……Cũng do ông Cảnh cho biết chơn linh của ông nầy là Mạnh Hoạch. Theo truyện Tam Quốc Chí th́ Khổng Minh bắt được Mạnh Hoạch bảy lần đều tha, lần chót mới giết (Thất cầm Mạnh Hoạch).

Thời buổi Hạ Nguơn các chơn linh xuống thế đều phải trả cho hết quả mới về cảnh Thiêng Liêng. Thành thử Mạnh Hoạch tái kiếp để đ̣i cái quả mà Khổng Minh đă giết ḿnh, nên làm chồng c̣n Khổng Minh phải hoá nữ để cho xong quả kiếp.

Bà có biệt tài làm thi không cần suy nghĩ, thường kêu: “ Kư Cảnh đem giấy viết tôi đọc cho viết ”. Bà làm thi hay họa thi trong 5-10 phút là xong.

Sau khi bà ĺa đời thời gian lâu Bà không có giáng cơ. Một hôm Bà về cơ Đức Hộ Pháp hỏi nguyên do th́ Bà tiết lộ rằng bà được Chí Tôn phong Giáo Sư, nhưng thời gian lănh chức hành Đạo chưa bao nhiêu, chưa có công nghiệp xứng đáng với nền chánh giáo. V́ lẽ đó mà bà thẹn không giáng cơ. Nhơn dịp nầy Bà khuyên nữ phái ráng lập công bồi đức cho xứng đáng phẩm tước chớ chẳng phải lănh Thiên Phong, không hành Đạo mà về cỏi Hư Linh vẫn tự toại an nhàn.

 Quang Minh

       

  

CHƯƠNG I

LƯỢC TIỂU SỬ VÀ ĐIẾU VĂN

 

1.      SƠ LƯỢC TIỂU SỬ

Bà Giáo Sư Trần Hương Phụng nhũ danh Trần Kim Phụng, tục gọi là Cô Hai Hỏn, Đạo Hiệu Ứng Quân sanh trưởng tại Sài G̣n (Nam Kỳ), theo chồng là ông Batrya sinh sống ở Nam Vang (Cao Miên). Bà ngộ Đạo năm 1927 khi Đức Hộ Pháp khai mở Đạo đầu tiên tại Tần Quốc.

Đức Hộ Pháp lên Nam Vang muốn độ bà bằng văn chương, Đức Ngài gởi bà bài thi sau đây:

Nắm vóc đất vẽ tranh cḥi lủng,

Cầm mũi kim soi bụng Thái Sơn.

Biết người cái thế khai nguơn,

Làm chi đỗ lệ, để hờn non sông.

Bà chiêm nghiệm biết Thiên mạng của Đức Ngài nên xin thọ giáo theo Đạo Cao Đài.

Như thế chúng ta thấy các chơn linh cao trọng rất nhạy cảm về đường Đạo đức, hễ nghe tiếng chuông cảnh tỉnh th́ nhớ lại, thành tâm mà hối đầu hướng thiện ngay.

Ngày 22-9-1927 Bà đội sớ cầu xin nhập môn vào Đạo Cao Đài được Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ cho một bài thi chỉ ngay tên Bà.

Phụng đến bờ dương trỗi tiếng kêu,

Gió mê vừa tạc lạnh pḥng tiêu.

Đỡ nâng nhạc cả nhờ chúng thị,

Gánh nổi ngôi thiên tưởng Tiểu Kiều.

Mở mắt hồng nhan hờn đức kém,

Rạng mây thục nữ giận tài nhiều.

Bóng trăng khuất núi trời hầu tối,

Liệu thử phương hay trở bóng thiều.

Bà đắc phong Giáo Hữu ngày 30-9-1927, sau một thời gian Bà được thăng phẩm Giáo Sư.

Ngày 30-9-1927 được Đức Hớn Thọ Đ́nh Hầu (Quan Thánh Đế Quân) gián cơ dạy:

“…Phong Chí (tức ông Giáo Sư Thượng Bảy Thanh) cho Phụng hay rằng nhiều vị Thiên Phong Ṭa Thánh cầu khẩn Chí Tôn, nên ta phong cho nó chức Nữ Giáo Hữu”.

Ngày 3-8-1928, Đức Quan Thánh Đế Quân giáng dạy:

“…Phụng, cười…, ta khen tâm Đạo Hiền Muội đó, ráng tỉnh lần giấc, muội lo chăm nom nẻo Thánh đặng lần về chốn cũ. Ta khuyên chớ có như vậy nữa, một ngày qua là một ngày khó kiếm, chớ chậm trễ mà chẳng kịp bước cùng chư nữ Tiên hội hiệp. Mấy lời nầy khá ghi nhớ mà lo vung trồng nền Đạo. Ta cấm chẳng cho chấp bút cầu cơ chi hết, cải lời th́ sẽ bị khổ, tà quyền đang buổi thạnh hành, ta không nói rơ, e chẳng có công chi, liệu mà ngừa. Tính sao cho trên thuận dưới ḥa mà bảo tồn nền Đạo th́ đặng chung vui ngày đắc quả…”

Ngày 30-6-1928 khi nhận chức Nữ Giáo Hữu, Bà lănh phận sự Phó Hội Trưởng Ban Cai Quản Hội Thánh Kiêm Biên.

Trong thời gian hành Đạo, Bà cùng phái đoàn Chức Sắc Ngoại Giáo châu lưu khắp nơi để Giáo Đạo từ Cao Miên dĩ chí Nam Kỳ. Bà làm thi thơ rất nhiều, dầu lúc chưa biết Đạo đến lúc khi biết Đạo, nhưng tiếc v́ thơ của Bà đă thất lạc theo thời gian, nên hôm nay chúng tôi chỉ gom góp được một số rất ít, ước mong sao những vị c̣n tại tiền có hành Đạo nơi Thánh Thất Kiêm Biên c̣n giữ thi thơ của Bà có dịp đóng góp vào sự nghiệp văn chương mà Bà đă từng lừng danh một nữ anh tài trong nghề thi thơ xướng họa.

Bà qui liễu ngày 27-9 năm Đinh Sửu (30-10-1937).

Bà được truy phong Phối Sư Hàm Phong.

Bà hành Đạo được 10 năm, hưởng thọ 57 tuổi.

 

2. BÀI ĐIẾU VĂN CỦA GIÁO SƯ THƯỢNG VINH THANH

Lúc Bà qui liễu, ông Giáo Sư Thượng Vinh Thanh Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo (Kiêm Biên) lúc bấy giờ có đọc bài điếu văn như sau:

 

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Thập Nhị Niên)

Hội Thánh Ngoại Giáo

Thánh thất Kiêm Biên ngày 27-9-Đinh Sửu (30-10-1937)

Bài điếu văn của Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo điếu Bà Giáo Sư Trần Kim Phụng.

Thưa cùng chư vị quan quí Chức, quí Ông, quí Bà, Đức Hộ Pháp, chư Chức Sắc Thiên Phong và chư Đạo Hữu Lưỡng Phái.

Đây là nơi an giấc ngàn thu của một người bạn yêu dấu chúng ta, tức là Bà Giáo Sư Trần Kim Phụng mới đặng truy phong lên Phối Sư Hàm Phong v́ người đă dày công với Đạo từ thuở ban sơ đến bây giờ.

Hiền Tỷ!

Em đây!

Ôi! Em không dè rằng ngày hôm nay, hệ ǵ đâu xui khiến mà Hiền Tỷ vội tách cơi trần, tầm đến cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống. Được cái tin buồn nầy chẳng riêng ǵ trong Đạo chúng ta, mà lẫn cả anh em các nơi mà  Hiền Tỷ đă giao t́nh bằng hữu chi giao kể từ đây đă đành vĩnh biệt.

Thưa Hiền Tỷ, chúng tôi là người sanh trưởng tại Sài G̣n, tuy sanh nhầm quí tộc của Nho phong nhưng người cùng lẫn lộn với hạng bần hèn, rồi lấy sự đau khổ của họ làm của ḿnh hằng gia tâm giúp đỡ.

Mới 16 tuổi đă sánh duyên cùng Montinur Batrya là một người Pháp mà rất yêu mến phong hóa của người Nam hơn hết. Trong mấy năm chung sống, người tạo đặng một cái gia đ́nh Pháp-Nam hiệp nhứt t́nh ái thuận ḥa. Tôi dám quả quyết rằng: Mai sau Pháp Nam được đề huề th́ công quả người trong ấy chẳng nhỏ.

Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn Đạo, nào dè đâu nửa chừng vội đứt dây oan.

Ôi! Linh phu của người sớm cỡi hạc du Tiên để lại bầy trẻ dại cho người gánh vác. Nổi chồng qui liễu, nổi gia thất quạnh hiu, dầu người sống sót đi nữa cũng đành gọi thác.

Từ đấy, cái chí quản giao của người ngày càng thêm nới rộng, cả hàng trí thức trong cơi Việt Thường nầy, phần nhiều đều biết danh cả, gặp lúc Đạo Trời khai mở tại Cao Miên nầy 1927 do nơi tay của Đức Hộ Pháp đem đến giao hột Thánh cốt ấy.

Hiền Tỷ của chúng tôi đă để biết bao nhiêu công lao đặng khảo cứu, chẳng phải cố tâm tầm Đạo, mà trái lại lầm tưởng rằng là tà quái bàn môn, nên chí quyết khám phá sự mê tín di truyền đă in sâu trong óc của người Nam ta từ thử nên hiến trọn xác hồn cho Đấng Tạo Công t́m phương sử dụng.

Ôi! Mười năm trường trải, lúc nền Đạo nơi đây bị chinh nghiên khảo đảo, do áp bức khó khăn, Hiền Tỷ của chúng tôi vẫn một ḷng khải khắng chẳng kể phận mỏng manh, thong dong truyền bá Đạo nên chi tinh thần Đạo đức của Nữ Phái nơi đây mới được vững vàng tiến bộ.

Trót một kiếp sanh 67 tuổi người chịu biết bao nhiêu sự đau đớn v́ Đạo v́ đời, ấy cũng đáng liệt vào hàng trung trinh liệt nữ mà từ xưa đến nay ít ai chịu như vậy.

Ôi! Hiền Tỷ yêu dấu ôi!

Ḱa những bạn chí thân c̣n đó,

Trỗi Đạo đời biết phó mặc ai.

Gánh giang san nặng trịu đôi vai,

Chị bao nở nay trao cho đoàn con dại.

Hay là giận bấy nhơn t́nh bỏ lại,

Đến Bửu Tŕ gọi mát tâm hồn.

Hay là hờn thế sự lắm bôn chôn,

Vào Trí Giác bảo tồn nguơn tánh.

Vài hàng tố trần Đạo hạnh,

Ít chén cơm chay,

Hiển linh xin chứng,

Hỡi ôi! Thương thay,

Hỡi ôi! Tiếc thay.

 

 

 

CHƯƠNG II

PHẦN THI THƠ CỦA BÀ TRẦN KIM PHỤNG

 

   1. Ngài Cao Tiếp Đạo làm bài Luận Cơ Đời:

Thay đổi tang thương tỷ cuộc đời,

Chuyển xây ṿng thế biết bao mươi.

Cợt tṛ uyển mộng, người khôn dại,

Thử thách nhơn gian tiếng khóc cười.

Lừa lọc khuôn linh đâu cũng thiệt,

Sắp bày cơ tạo há rằng chơi.

Vẫy vùng cho khỏi lằng vay trả,

Đến cửa vĩnh sanh mới thấy Trời.

                                  Huyền Quang

                                  (Cao Tiếp Đạo)

Họa Nguyên Vận:

Dám hỏi cùng ai cuộc ở đời,

Tẻ vui ḥa lẫn mấy nhiêu mươi.

Gặp thời tranh cạnh say rồi tỉnh,

Nói chuyện tang thương khóc gượng cười.

Hư thiệt tṛ đời mua cũng rẻ,

Lợi danh choán thế nghĩ mà chơi.

Nào ai muốn biết cơ mầu nhiệm,

Thử bước non cao thấy tột Trời.

                                   Ứng Quân

                     (Nữ Giáo Sư Trần Kim Phụng)

 

2.Ông Đặng Thúc Liêng một thi gia khi hay tin chồng bà Kim Phụng qua đời đă gởi cho bà một bài thi để ghẹo như vầy:

Xa nhắn hoa thơm tiếng đă từng,

Rằng nghe vắng vẽ cái vườn xuân.

Can giồng lá thắm thôi thời chớ…

Đón gió chim xanh há biểu đừng…

Cung quế đường xưa đà bật dấu,

Vườn đào lối cũ đă quen chưa.

Văn Quân nay gặp chàng Tư Mă,

Rồng nọ thêm vây, ráng mọc sừng.

                               Đặng Thúc Liêng

 

Bà họa lại:

Cái giọng năm ba cũng đă từng,

Xin đừng vẽ bướm cợt hoa xuân.

Bày lời Đỗng Trác ai ḱa chớ ?

Dỡ ngón Tương Như thiệp bảo đừng.

Bắt Phụng cỡi Rồng khen lớn mật,

Cấp non nhảy biển há quen chưng.

Làm thinh chẳng nói cho rằng ngổ,

Nói lại th́ mang tiếng sẽ sừng.

                               Trần Kim Phụng

 

3.Có một thi sĩ vô danh cũng ghẹo Bà:

Nầy hỡi nầy cô gái sắc tài !

Cầm kỳ thi họa chẳng thua ai ?

Chẳng hay tuổi Á bao lăm đẩy ?

Mà góa duyên Âu đă bấy chầy ?

Đẹp vẽ duyên nay c̣n đượm sắc,

Hương đưa liễu nhụy khắp cùng bay.

Thuyền kia dồn dập c̣n mờ mệt,

Nầy hỡi nầy cô gái sắc tài !

                                     Vô Danh

 

Bà họa lại:

Thôi chớ đon ren chữ sắc tài,

Giang sơn nầy hỡi thuộc về ai ?

Sá chi bồ liễu âu thân phận.

Để thẹn mày râu đă bấy chầy.

Gan óc để đâu nông nổi thế ?

Cánh hồng sao chẳng vẫy vùng bay ?

Cái cơ duyên nợ không chi lạ,

Thôi chớ đon ren chữ sắc tài.

Thật là tuyệt diệu, ông vô danh trách Bà lấy chồng Âu, bà hỏi lại phận nam nhi sao không chống Pháp để giải phóng cho nước nhà mà sao lại trách phận quần thoa yếm mang quần vận, vậy chớ tài an bang tế thế để nơi nào ?

 

4.Ông Trần Khải Sơ ở Sa Đéc có tặng bà đại ư táng tụng văn tài của nữ sĩ.

Bấy lâu nghe tiếng sấm vang tai,

May mắn hôm nay thấy đặng tài.

Da tuyết tóc mây đời có một,

Miệng thêu ḷng gấm, gái không hai.

Tạ Nương vinh liễu không nhường gót,

Tô Thị hồ văn khó sánh tài.

Gặp gỡ t́nh cờ ḷng kính tặng,

Phước duyên toàn vẹn chúc trang đài.

                                  Trần Khải Sơ

 

Bà họa lại:

Tiếng ngọc lời vàng đă chán tai,

Sa giang dễ thấy bậc anh tài.

Tước kinh lịch sự già nên một,

Quyền được nhơn t́nh thế chẳng hai.

Bảy bước thi hành khan tót bực,

Năm xe văn khẩm đă bày vai.

Dưới đời ít kẻ b́ cho kịp,

Phong nhă thôi thôi dọa các đài.

                                   Trần Kim Phụng

 

5.Có ông Hồ Xuân Lang đi Nam Vang chơi, chê xứ nầy không có cảnh đẹp, cũng thiếu bực văn chương, thiếu tay cầm kỳ, có làm bài sau:

Nam Vang phong cảnh có chi hay ?

Tài tử phong lưu chẳng mấy người.

Uống rượu chung t́nh e thiếu bợm,

Găy đàn lưu thủy chẳng siêng tay.

Nghe ma đọc phú thêm buồn măi,

Mời quỉ chơi cờ giăi muộn đây.

Ước đặng ít người ra đối diện,

Nhọc ḷng Gia Cát đợi lâu nay.

                                Hồ Xuân Lan

Bà họa lại:

Thoạt nghe tiếng nói, hủy chà hay !

Nẻo tắc đường quan cũng gọi tài.

Chưa hăn dại khôn hầu nể mặt,

Cho tường cao thấp sẽ nhường tay.

Văn chương lối Hán ḱa ai đó ?

Thao lược bên đường hiếm kẻ đây !

Múa chớ khoe khoan tài trí ẻ !

Cửa Ban thường lại thế xưa nay….

                                 Trần Kim Phụng

 

Câu văn chương lối Hán nào ẩn ư chê Hồ Văn Lan là thấp thỏi lại có nghĩa tục nhục mạ một cách tài t́nh. Câu chót nói ông Lan nhè múa hát trước cửa Lỗ Ban mà khóc văn trước Khổng Thánh th́ nó đau đớn sâu sắc đến tột bực, thật đáng phục tài.

 

 6. Các bài thi do Bà sáng tác:

              TIỂN BẠN

Cá nhạn từ đây rẽ nước mây,

Nh́n non sông luống những châu mày.

C̣i reo giục khách lời tan hiệp,

Rượu rót đưa người lúc tỉnh say.

Trăng dọi nhấp nhô lằn sóng bạc,

Mưa phùn láy phái giọt sầu xây.

Cái mùi ly biệt ai từng nếm,

Nếm thử rồi ai cũng thế nầy.

                         Trần Kim Phụng

 

CHÚC TÂN HÔN

Dâu Nam Giang, rễ Đỗng Sàng,

Tơ nguyệt săn bền mối tạo đoan.

Hiệp bạn trăm năm gầy sự nghiệp,

Chung lưng một gánh nợ giang san.

Câu tùng phận gái nên dày vặn,

Chữ nghĩa đàn trai hỡi vẹn toàn.

Duyên trẻ phỉ nguyền xuôi bạn cũng,

Tṛ đời gương Đạo cả phô trang.

                              Trần Kim Phụng

 

 CHÚC HÔN

Tần Tấn hôm nay hiệp một nhà,

Phú Đời hạnh Đạo kết nhân gia.

Tuồng đời tua vẽ màu Đời đậm,

Cửa Đạo thanh cao nét Đạo ḷa.

Gái Tấn khá già tṛn đức bốn,

Trai Tần bền giữ vẹn giềng ba.

Nhúm nhen ấm áp ḷ hương lửa,

Chung gánh giang sơn chớ nại hà.

    Giáo Sư Trần Kim Phụng (1932)

 

CHÚC LĂO TÂN HÔN

(Bài nầy cảm tác trong việc hôn nhơn của Thầy Bảy Phạm Văn Ngọ (Hiệp Thiên Đài) sánh duyên cùng Cô Sáu Hương Vàng).

Dâu hăm tám, rễ bốn mươi à!

Duyên phận đời nào dám sánh qua.

Lớn tuổi người thêm dày dặn nghĩa,

Nhiều năm quế lại sổ săn da.

Duyên vầy lăo bạn nương thời thế,

May đẻ con trai nối nghiệp nhà.

Trối kệ thị phi dư mấy triệu,

Trải tài đức bốn vững giềng ba.

Trần Kim Phụng

 

             KHÓC CHỒNG

Bến tục đă từng giải tuyết sương,

Bồng lai nay gởi tấm cang trường.

Trổi ca hờn thiếu khua sanh ngọc,

Chớp bóng giận v́ thiếu mảnh gương.

Lần giải đồng tâm ai những nhớ,

Hoài t́nh tri kỷ kẻ ngồi thương.

Trông mây hỏi bạn ôi c̣n nhớ,

Cái nghĩa cùng nhau xẻ mấy đường.

                           Trần Kim Phụng

 

  BỨC TRANH

Khen ai khéo họa rất nên xinh,

Cảnh vật đa đoan tượng ngũ h́nh.

Tấc giấy dám thâu trời đất rộng,

Ng̣i lông đạm tỏa núi sông in.

Nước non giả dạng khoe màu bích,

Cây cỏ hoa ḥe điểm sắc xinh.

Năm tháng đi về đâu có biết,

Chẳng màng sương tuyết chú thơ sinh.

Trần Kim Phụng

 

TRỜI MƯA

Bên trời cuộn cuộn cụm mây đoanh,

Ngoài mái mưa trông giọt mảnh manh.

Đỏng đảnh ngọc treo đầy chót lá,

Lao xao châu đổ khắp đầu nhành.

Gọi nhuần đất Thuấn hoa đua nở,

Mát mẻ suông Nghiêu gió thổi gành.

Từ đấy sởn sơ muôn vật khắp,

Thuận ḥa thời tiết cảm khuôn xanh.

Trần Kim Phụng

 

TỰ THUẬT(Quả Sầu Riêng)

Này thương cho trái trái gai gai,

Căn dặn về ăn phải nhớ dai.

Vật mọn v́ t́nh xin gắng tưởng,

Người cam thọ nghĩa dể đâu sai.

Đợi ḷng bận bịu ḷng chưa dứt,

Bốn mắt trắng trưng mắt đoái hoài.

Dập dă cảnh t́nh khi trở bước,

Sầu riêng luống để chẳng mời ai.

Trần Kim Phụng

 

7. Nhóm Tuyệt Cóc và Tiên Thiên về phá Ṭa Thánh Bà Trần Kim Phụng chống lại bằng văn chương rất nặng nề:

Mồ cha tám kiếp lũ gian manh,

Năm tối đồ mưu phá Đạo lành.

Khảo Phật trầy da không thấy mở,

Làm tôi phản chúa đáng ghê danh.

Đốt kinh, hủy báng người tu niệm,

Quyết sách đón ngăn kẻ học hành.

Quỉ giận, Thần Hờn, Trời Đất ghét,

Há dung tánh mạng gă tồn sanh.

                           Ứng Quân

                Giáo Sư Trần Kim Phụng

 

8. Bà Giáo Sư Hương Phụng cùng Giáo Hữu Thái Đến Thanh vâng lịnh Đức Hộ Pháp đi hành Đạo trên vùng Soài Nang ( Róm pong chuang ) Biển Hồ năm 1937 xe chạy cập triền núi Tà Lơn. Bà Trần ứng khẩu trước cảnh trời chiều:

TẢ CẢNH TRỜI CHIỀU

Hương phụng: Cảnh lịch khen ai khéo vẽ vời,

                        Nước non qua lại mấy ngàn khơi.

Thái Đến:        Một bầu thế giới khinh khinh rộng,

                        Đôi dăy càn khôn rộng rộng ngời.

Hương Phụng: Màn sáng xê xang h́nh gấm trải,

                        Rừng ṭng tịch mịch bức tranh phơi.

Thái Đến:        Vạn bang thế sự do Thiên tạo,

                        Khách tục ḱa ai có biết thời.

 

9.Trong câu chuyện đàm thoại văn chương với nhóm báo chí Sài G̣n, họ chỉ bức tranh làm đề tài, mỗi người làm một bài, bài của Bà được chấm hạng nhất.

Nhân thi hữu đến thăm tại tư gia Bà Trần Kim Phụng, khi ra về có làm thi:

 

GIĂ BẠN 

Cùng nhau bàn bạc chỉ đêm nay,

Rạng sáng dương quan, tớ trở hài.

Tức cảnh phân tŕnh thơ gượng tả,

Cảm t́nh lănh ư nhạn hồi lai.

Khêu đèn ứng đối thâu canh vắng,

Nh́n khách tương giao trọng nghĩa dài.

Mỗi mỗi vẽ vào trong trí nhớ,

Dầu xa muôn dặm tưởng không phai.

Hà Thủy (Pursal) 

Bà Trần Kim Phụng họa:

Nước bèo tan hiệp lẽ xưa nay,

Bận bịu làm chi lúc trổi hài.

Nam Bắc tuy nhiên rằng cách bức,

Non sông c̣n giống thuở tương lai.

Thơ đưa rượu tiển câu thù tạc,

Kẻ ở người đi, dậm vấn dài.

Tri kỷ dễ tầm đâu có nữa,

Ngại ǵ nghĩa lợt với t́nh phai?

 

10. Nơi quyển “Chí Sĩ Nguyễn Quang Diệu -Thi Ca Và Cuộc Sống” của tác giả Nguyễn Văn Hậu trang 92 có viết đoạn như vầy:

Người ta c̣n kể chuyện ngâm họa sôi nổi giữa Thầy Minh, nữ sĩ Trần Kim Phụng  và cụ Nguyễn Quang Diệu chuyện khá vui xin phép được nhắc lại: Nữ sĩ Trần Kim Phụng tức cô hai Hỏn mà ở miền Nam nhiều người biết tiếng hay thơ, trước kia từng lưu lạc nhiều nơi …. Năm ấy nữ sĩ đi tu và được xung vào phái đoàn truyền Đạo từ Kiêm Biên xuống Tân Châu.

Thầy Minh một nho sĩ ở Cao Lănh, trước đă từng nghe danh Trần Kim Phụng nhưng chưa biết mặt lại vốn không thích mối Đạo mà nữ sĩ Trần Kim Phụng đang theo, nay t́nh cờ gặp nữ sĩ đứng ra truyền bá, có ư không bằng ḷng nên chất vấn rồi công kích thẳng tay.

Sau một hồi biện bác cải cọ, Thầy Minh đưa ra một bài thơ tỏ ư châm chọc và không muốn nữ sĩ làm công việc ấy nữa. Mời bạn xem bài xướng của Thầy Minh.

Tai vẫn từng nghe mắt chữa từng,

Hôm nay gặp gở xiết chi mừng.

Ḷng mong rơ thấu lời vàng đá,

Chuyện khéo gây nên tiếng sẽ sừng.

Mở Đạo đă toan d́u dắt nẻo,

Bức mây nở để động lay rừng.

Chờ thôi lở vỡ đường lui tới,

Quài quả lên yên bước ngập ngừng.

Nữ sĩ bèn họa lại bài Thầy Minh, bài họa chơi ngược khiến Thầy Minh phải đỏ mặt.

Kẻ tục người thanh gặp mới từng,

Dở buồn, dở giận, dở vui mừng.

Say sưa nể bợm khoe ḿnh ốc,

Sè sụt th́ ông đỗ vận sừng.

Chát chúa không phân loài điệu vị,

Mịt mù nào tỏ đám máy rừng.

Cợt tṛ nghỉ nổi cơn cười lạnh,

Lấp lửng làng văn bước lại ngừng.

Trời ! Kim Phụng mỉa ḿnh “đồ vận sừng” và chê văn chẳng suông câu? phải

Lấp Lững làng văn bước lại ngừng”.

Hai đàng đang cải nhau th́ cụ Nguyễn Quang Diệu tới cụ hỏi ra rồi giảng ḥa và sau đó họa trao nữ sĩ một bài khuyên theo con đường cách mạng.

Nghe nói mây mưa giấc đă từng,

V́ ai tỉnh ngộ khiến ta mừng.

Năo nề lúc trước thân tê phấn,

Hồi hộp chuyện sao xác đội sừng.

Đài kiến đôi phen vùi lắp bụi,

Đường gai hoa nở mở thông rừng.

Con đường giải phóng thênh thang đấy,

Gót ngọc khuyên ai bước chớ ngừng.

 

Nữ sĩ xem và chịu cụ là người có học và cao hạnh đáng xưng lên bậc đàn anh.

 

11. Bà Giáo Sư Trần Kim Phụng ở Nam Vang đi xuống quận Tân Châu (Châu Đốc) đi qua làng Thường Phước, v́ có các ông thông chức ước mong gặp Bà để xướng họa văn thi cho biết tài năng của Bà.

Lúc thuyền cập bến, Bà Giáo Sư bước lên đường th́ thấy mấy người đứng trước sân đông đảo, lại có người say rượu diễu cợt, kiêu ngạo v́ thấy Bà đầu quấn tóc theo người Huế.

 Có ư buồn, Bà vừa vào nhà ngồi yên th́ vị Hương Chức (Hương Cả) khởi xướng lên một bài thi:

CHÚC MỪNG

Mặn tiếng lâu nay biết mấy lần,

Duyên may mừng đặng gặp cô Trần.

Lời vàng dấu diếm phong nhiều lớp,

Tiếng bạo xô bồ đặng mấy phân.

Cảm nổi thua buồn ngồi lặng chỗ,

V́ đâu lóng nhóng đứng đầy sân.

Phú thi xướng họa chưa nên cuộc,

Quang cảnh gây ra nghĩa chẳng thân.

    Hương Cả Nhiên

Họa:

Rấp đem mối Đạo đến trao lần,

Bợm bịch phường say dám tố Trần.

Đứa dại ồn ào không thổ lộ,

Người khôn ngơ ngẩn chẳng cân phân.

Làng văn tha xă ngồi trong tỉnh,

Quỉ xác ma hồn loạn trước sân.

Thường phước phi thường câu xử sự,

Lễ c̣n chưa vẹn lệ là thân.

Trần Kim Phụng

 

12. Có một nữ sĩ ở Tân Châu (Châu Đốc) hâm mộ thi phú lên Nam Vang đặng học thi với Bà Trần Kim Phụng, lúc trở về có các nhà văn thi xướng họa vui chơi rồi sau đó có ư trêu ghẹo, cô nọ ứng đối chua cay chạm tự ái. Các anh thi sĩ nói rằng: “Cô lên Nam Vang rước Bà Lê Sơn Thánh Mẫu xuống đây họa thi với chúng tôi…”

Cô nọ gởi thơ lên Nam Vang tường tŕnh mọi việc, Bà Trần không đi xuống được nên hồi âm và gởi bài thi phản đối bốn câu:

Thánh Mẫu Lê Sơn chẳng phải ai,

Thần thông Giáo hóa nữ anh tài.

Đường trào rực rỡ canh Phàn Thị,

Chém gă Trương Phàm chẳng gớm tay.

 

13. Báo Đuốc Nhà Nam t́m Bà Trần Kim Phụng:

Bà Trần Kim Phụng ở đâu xa,

Sao chẳng nghe thi phú nữa cà!

Hay đă dời chơn Thiên Trước Quốc,

Hoặc ngồi lần chuỗi Phật Di Đà.

Dĩa nghiên ráo mực khuyên mài nữa,

Cây bút khô lông sẽ chấm mà.

Nếu muốn thành Tiên khoan cởi hạc,

Bợ trần chưa dứt khó xong a.

 

Họa vận:

Non nước ngơ cùng bậu bạn xa,

Cá nhàn thong thả ngại chi cà.

Làng thơ tạo khác chiều vui vẻ,

Ngấm cảnh làng quê cũng đă đà.

Gẫm cuộc lợi danh thêm chán nhỉ,

Say mùi Đạo đức thoảng như mà.

Rạch ṛi chân lư ba kỳ độ,

Thức mộng trần hoàn tỉnh mộng a.

Trần Kim Phụng

 

 

CHƯƠNG III

CÁC ĐÀN CƠ BÀ GIÁO SƯ HƯƠNG PHỤNG GIÁNG

 

1.Đàn cơ ngày 30 – mars – 1941

Giáo Sư Hương Phụng

Chào ông Khai Đạo, anh Sĩ Tải, ba anh Cửu Trùng và em Hai.

Chị hồi c̣n tại thế chị muốn t́m kiếm em đặng độ em đi với chị một con đường, ngặt t́m kiếm không ra manh mối. Nay chị về Thiêng Liêng chị trông thấy em biết đường Đạo đức chơn chánh mà lập công th́ chị mừng biết bao cho kể xiết.

Em từ đây nếu như có việc chi buồn hoặc việc chi bí yếu th́ kêu chị, chị chỉ giáo cho.

Em có căn quả lớn ngày sau em có phần hơn người ta. Em vừa biết Đạo tiếc thay chị đă ly trần song chị có tŕu mến em về buổi trước nên có t́nh nguyện theo hộ em.

-Ngọc Đạt: xin chị độ dẫn ông già em vào cửa Đạo.

Để mặc chị toan liệu, để chị cầu nguyện xin các Đấng Thiêng Liêng đặt cho em một cái tên Thánh để dễ bề tu niệm.

Chị khuyên em ráng học cho biết chữ Quốc Ngữ đặng dễ cho em xem kinh coi sách một ḿnh ở nhà khỏi cần ai.

Ráng, có chị bố hóa cho.

Thôi chị tạm thăm em mấy lời khá nhớ nghe. Ông Khai Đạo tại sao lên Kim Biên không ghé thăm em.

-Trí Thanh nói:……………..) (1)

À lúc nầy em có một chuyện muốn cậy ông, vậy ông sẵn ḷng chăng.

-Sẵn ḷng.

Em có một người em yêu dấu là em Hai đây. Vậy kể từ đây em cậy ông ngó chừng dùm nghe.

-Trí Thanh nói:…………

À việc đó không chứng cớ ai, nay có đủ mặt đây th́ ông liệu.

-Trí Thanh nói:………….

Được kỳ tới sẽ nói nhiều, em xin kiếu.

 

 

(1)      Trí Thanh là Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đăi

 

 

2.Đàn cơ ngày 25 mai 1941 à 11h

 

Giáo Sư Hương Phụng

Chào mấy anh lớn, chào em Hai. Chị hứa cầu xin cho em nhưng các Đấng buộc chị phải tiếp dẫn, xong chị v́ nhiều phận sự, vậy chị khuyên em ráng lập công đức trước đi, thế nào chị cũng nài xin cho em được chị mới an dạ. Chị để một vị Thần theo hằng ngày để xua đuổi những tà thần theo cám dỗ em. Em cứ an tâm công phu.

-Xin chị giáng tâm cho em thức tỉnh chớ em không được minh mẫn.

Được ráng nghe, việc ấy em cầu nơi lịnh bà Cửu Vị Tiên Nương miễn ḿnh lo trù nghĩ làm âm chất th́ thần minh ủng hộ. Xin chào mấy vị, em xin kiếu.

Thăng

 

3.Đàn cơ ngày 2-2-1939 tại Tà Keo (Cao Miên)

 Vào năm 1939, lúc Đức Hộ Pháp cùng phái đoàn Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài đi viếng Đế Thiên Đế Thích, Bà Trần Kim Phụng giáng cơ chỉ dẫn sự tích từng cung điện của những vị đắc Đạo khi xưa nơi cảnh trí nầy. Tại điện Tà Keo ngày 2-2-1939 Bà có giáng cơ:

Pḥ Loan:Hộ Pháp, Cao Tiếp Đạo.

Hầu Đàn: Giáo Sư Thái Phấn Thanh, Trương Chữ Thanh, Hương Nhiều, Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển, Huỳnh Hữu Lợi, Hương Tranh, Phạm Hồ Cầm.

 

TRẦN HƯƠNG PHỤNG

Chào Hộ Pháp và mấy chị em.

Cha chả là mừng, từ khi qui liễu đến giờ không có đánh dây lược, không tu huưt nên mấy bạn tưởng cho Hương Phụng nầy đă lưu linh, lưu địa, thất lạc tha phương rồi. Không, các em ôi! Dưới bóng của Từ Bi, sự tự do trọn vẹn chớ chẳng như khi trước nữa, đă hăm ngục chịu h́nh các tội chướng thuở xưa ngày nay hỏi lên các Đấng Thiêng Liêng đă quên hẳn.

Không, Chí Tôn chưa từng biết gạt đời, đă đưa tay tận độ v́ nhờ đó mà tội đặng siêu thăng, nhưng chỉnh hổ với Cửu Nương v́ không đủ công hành Đạo, địa vị thấp thỏi yếu hèn nên hổ ngươi vắng mặt.

Thưa Hộ Pháp, xin Ngài tưởng t́nh thăm viếng mấy đứa con tôi, dạy dỗ nó dùm th́ tôi nguyện ngậm vành kết cỏ.

Dạ thưa nơi đây là Kisovarman là một vị Điện Hạ bị biếm xuống hàng lệ thứ nên lập cảnh tu nầy, nhưng nhà vua ghét nên không cho ai kêu tên Điện Hạ chỉ gọi là Tà Keo mà thôi, v́ cớ nên nêu danh ấy lại đến giờ.

Tám, Hai, chị mừng hai em. Lụy…

Thăng

 

4. Đàn cơ tại Ban tial sray

 

TRẦN HƯƠNG PHỤNG

Cười…chỗ nầy đây Hộ Pháp là nhà tu của Công Chúa Annamadiara là con thứ ba của Assovarman, không cải giá khi Đại Tướng Nanlongchiase tử trận khi thâu phục nước Chàm. Ở góa đến 84 tuổi đoạt Đạo. Tháp giữa là thờ ba mẹ của Người, c̣n mấy tháp chung quanh đều là thân nhân của nhà vua cả thảy.

Cười…thật là khéo quá há!

Thăng

 

5. Sau đây là Thánh Giáo của Bát Nương nói đến nguyên căn của Bà Trần Kim Phụng lúc nầy Bà chưa qui Tiên.

Phạm Môn ngày 10/11-6 Nhâm Thân (13/14 Juillet 1932)

Pḥ loan: Hộ Pháp-Tiếp Đạo               

          BÁT NƯƠNG

Chào mừng mấy anh và chị Ứng Quân.

Chị nghe em:

Quán tục bấy chừ đặng thảnh thơi,

Phân ranh ở thế khổ theo đời.

Trái oan vấn vít nhành khuê cát,

Duyên phận đeo đai đóa ngọc bồi.

Lửa kiếp hương c̣n thơm cửa Phật,

Nước duyên gọt răi ước cung Trời.

Đem thân ra khỏi phồn ba cảnh,

Dầu phải dầu than cũng hạp mùi.

Mấy người đàn ông, em ít ưa làm quen nên không cho chi hết, họ vô duyên quá. Ứng Quân à, họ nói lén em hoài, nên em phát ghét.

Thôi em từ giă chị Ứng Quân, c̣n anh Trọng muốn hỏi th́ đợi họ về nhà mà hỏi. Em chào Nhị Tỷ.

Thăng

(Bài Thánh Giáo nầy của ông Phối Sư Thượng Cảnh Thanh tặng).

 

 

 

 Phụ lục:

MỘT VỤ TRÁO LÁ SỚ THỬ CƠ

 

    Trong quyển Hồi Kư Bổ Túc của ông Phối Sư Thượng Vinh Thanh, trang 7 có đoạn như vầy:

“ Một đêm nọ, có bà góa phụ Trần Kim Phụng là người đàn bà sang trọng, có tên tuổi lại là một thi sĩ ở Nam Vang mà ai ai cũng đều kính nể, đến hầu đàn mà lại có tư ư muốn thử cho biết sự thiệt hư. Bà cũng vào trước đàn cơ qú lạy như mọi người, dâng sớ xin thi. Trong Đàn th́ đông đảo, mỗi người đội một lá sớ, ḷng thành cầu khẩn. Lúc mới vào đàn c̣n đang lộn xộn, kẻ đứng người qú, bổng dưng có ông bạn quen tới Huỳnh Đ́nh Thới, kế toán viên hăng buôn, cố ư đến thử sự linh thiên của Đàn cơ, ông ḷn ra phía sau của Bà Trần Kim Phụng đă qú và đổi lá sớ trên đầu, ông lén tráo lá sớ của ông để tráo vào lá sớ của bà mà bà không hay, cũng không ai để ư, rồi ông qú xuống đó đội lá sớ của Bà Trần Kim Phụng.

Khi cơ giáng ban một bài thi bát cú cho Bà Trần Kim Phụng th́ do ông Huỳnh Đ́nh Thới đội dâng, chữ đầu của bài thi là “ Phụng” (Phụng đến bồ dương trỗi tiếng kêu…) tác giả chỉ nhớ câu đầu của bài thi, c̣n trong ư tứ bài thi toàn là chuyện của Bà Trần Kim Phụng

Rồi đến lược ông Trần Đ́nh Thới mà lá sớ lại do Bà Trần Kim Phụng đội dâng, cơ giáng cho 1 bài thi bát cú có tên “Thới” đứng đầu mà ư tứ và sự việc đều đúng với sở cầm mà ông Thới đă viết trong lá sớ. Khi băi đàn đem thi ra đọc lại, ông Thới mới thú thật là ông tráo lá sớ của ông cho Bà Trần Kim Phụng để thử xem cơ thiệt hay giă. Chừng ấy ông mới bái phục sự linh hiển của Thiêng Liêng.”

   

( Tài liệu trên hoàn thành có sự góp sức của Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng,  Phối Sư Thượng Cảnh Thanh).     

Ṭa Thánh Tây Ninh,  tháng 5-1985

Quang Minh