CỦA NGÀI PHỐI SƯ THƯỢNG TRÍ THANH (1898-1961) Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp |
CHƯƠNG I. LAI LỊCH CỦA ÔNG PHỐI SƯ THƯỢNG TRÍ THANH
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ có giáng cơ cho ông Đạo hiệu là Nguyệt Quang.
Năm 1926 thọ phẩm Giáo Hữu.
Năm 1930 thăng lên Giáo Sư.
Ông bị bắt 4 phen, năm 1941 bị Pháp đày lên Sơn La (Bắc Việt) trong thời gian 5 năm.
Năm 1938 làm Quản Lý Hòa Viện.
Năm 1945 hợp tác Hãng Tàu Nitinan làm Tổng Chỉ Huy Quân Đội Cao Đài, có công trong công cuộc đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945.
Khi Đức Hộ Pháp hồi loan (1946) ông lảnh trách nhiệm Chủ Trưởng Cơ Quan Phổ Tế Trung Ương Tòa Thánh.
Năm 1947 ông có làm bài thi tự thuật:
Nhồi nắng tinh thần buổi Đạo khai,
Hai mươi năm lẻ nếm chua cay.
Ngục hình khổ hạnh thời gian trước,
Tòa Thánh an nhàn hiện buổi nay.
Luyện tánh trượng phu nâng thổ vỏ,
Trau tâm tuấn kiệt đợi Cao Đài.
Chặc gìn nhơn nghĩa lòng son sắc,
Hành Đạo công bình dạ thẳng ngay.
Nguyễn Quang
Thời gian từ năm 1946 đến 1961 tức 15 năm làm Chủ Trưởng Phổ Tế, ông sắp đặt cơ quan có qui củ, đặt cử Phổ Tế ở các Tỉnh, Quận, Làng, đến đâu cũng có nhân tài hoặc Tây học, hoặc Nho học. Ông thâu nhận người Đạo đức có khẩu khí, dẩn độ lắm nhơn sanh nhập vào cửa Đại Đạo.
Năm 1948 ông dược thuyên bổ Khâm Trấn Trung Tông Đạo. Vì thời cuộc chiến tranh Việt Quốc rất khốc liệt, ông phải trở về nắm lại cơ quan Phổ Tế.
Ông qui vị ngày mùng 5-10 Tân Sửu (12-11-1961) tại Tòa Thánh hưởng thọ 63 tuổi.
ĐIẾU VĂN CỦA PHẠM MÔN VÀ PHƯỚC THIỆN ĐỌC TRƯỚC PHẦN MỘ (1961)
Kính thưa Hội Thánh.
Kính chư Chức Sắc Thiên Phong, chư Chức Việc, Chư Đạo Hữu luỡng phái.
Hôm nay là ngày an táng Thánh cốt của Phối Sư Thượng Trí Thanh đến nơi an giấc ngàn thu, trước khi khỏa nắm đất nầy, tôi xin thay mặt cho toàn thể anh em thế hữu Phạm Môn và Phước Thiện có đôi lời chia buồn cùng tang gia hiếu quyến. Sau đây chúng tôi xin tỏ chút thâm tình để nhắc lại sở hành của Phối Sư đối với Phạm Môn buổi ban sơ.
Khi cửa Phạm Môn khai mở một thời gian thì có Trần Khai Pháp Chơn Quân, ông Giáo Sư Thái Gấm Thanh và Ngài Phối Sư đây đã lảnh hội được ý nghĩa của cơ quan cứu khổ của Đức Chí Tôn, ba Ngài đồng tình kết nghĩa thâm giao huyết thệ chung với anh em Phạm Môn để chung nâng ngọn cờ cứu khổ của Đức Chí Tôn cho ra thiệt tướng.
Buổi ấy Ngài cũng góp phần công cán một cách đắc lực, để hết tin thần gầy dựng cơ quan cho mau bành trướng. Tuy vậy Ngài còn nặng gánh lo phận sự giáo hóa bên Cửu Trùng Đài, nhưng về mặt tinh thần Ngài bao giờ cũng luôn luôn sát cánh cùng chung lưng với anh em Phạm Môn chỉ đến ngày cửa Phạm Môn bị đóng, Đức Hộ Pháp bị bắt và Chức Sắc bị đày lưu thì Ngài Phối Sư cũng chung chịu cảnh ngục hình lao khổ ấy.
Rất kỉnh thay tấm lòng trung thành Đạo đức của Ngài, đáng nêu danh trong Đạo Sử.
Hôm nay Ngài đặng công viên quả mản về phục lịnh dưới chơn Thầy, nhưng vì tình thệ hữu, nghĩa bạn đồng môn, chúng tôi chi xiết nổi ngậm ngùi thương tiếc !
Hởi ôi !
Cũng vẫn tưởng chung cùng lo nghiệp Đạo,
Nào dè Ngài xa lánh chốn trần ai.
Nặng tình thệ hữu, dạ luông ưu hoài,
Nhớ những lúc chen vai nơi cửa Phạm.
Gánh khổ đời từng chia vui sớt thảm,
Đem chơn truyền phổ biến khắp Đông Tây.
Vì nghe theo tiếng gọi của Đạo Thầy,
Nào quản cuộc đời gian lao khổ hạnh.
Nhìn non nước nổi buồn thêm quá chạnh,
Bước dìu đời nhớ khách tóc sương pha.
Ba mươi bốn năm nặng gánh Đạo nhà,
Sáu mươi mấy tuổi vội ra người Thiên cổ.
Nay Tiên vị Ngài về đã yên chổ,
Chốn Đạo trường thương tiếc dạ trung thành.
Đã biết rằng trong việc tử sanh,
Do mạng số nhưng tình hằng lưu luyến.
Hồn Ngài đặng vào chầu Linh Tiêu Điện,
Công nghiệp Ngài còn nêu tiếng ngàn năm.
Cả đoàn em cửa Đạo nguyện bồn tâm,
Noi gương trước đặng vun bồi cội phước.
Đường tiên tục giờ đây đành cách bước,
Chúng tôi đồng cầu nguyện Đức Chí Tôn.
Rưới hồng ân Ngài mát mẻ linh hồn,
Nơi cõi thọ đặng cao thăng phầm vị.
Ngài Thượng Phối Sư lánh bụi hồng,
Mây rầu man mác phủ non sông.
Tùng xưa hạc cũ Ngài yên giấc,
Nổi nhớ niềm thương lệ ứa tròng.
Cửa Phạm chia lìa tình thê hữu,
Hồn linh siêu thoát cảnh Hư Không.
Sáu mươi ba tuổi tròn Thiên mạng,
Bể khổ mừng nay bước khỏi vòng.
Hởi ôi ! Thương thay ! Kính thay !
Anh em thệ hữu Phạm Môn và Phước Thiện đồng kính điếu.
CHƯƠNG II. THI ĐIẾU ÔNG THƯỢNG TRÍ THANH
NGÀI HIẾN PHÁP
Thượng Trí Thanh nay rảnh nợ trần,
Phản hồi cựu vị hưởng Thiên ân.
Nhiều năm công nghiệp vun bồi Đạo,
Ít kẻ sánh tài phổ tế dân.
Thánh đức nêu gương đoàn hậu tấn,
Minh tâm kiến tánh kẻ tu thân.
Ngậm ngùi tưởng nhớ niềm thi hữu,
Kẻ ở người đi biệt cố nhân.
Thân Dân (1961)
ÔNG THÁI ĐẾN THANH
Kẻ còn người mất chạnh buồn thay,
Tri kỷ anh ôi ! thẹn phận hoài.
Nhớ thuở sum vầy tâm hiệp một,
Trông chừ phân rẽ trí chia hai.
Nghìn thu một giấc vô phiền nảo,
Muôn thuở đôi đường bất tái lai.
Bạn hỡi Nguyệt Quang sao vội thế ?
Lời nguyền đồng giữ luật Cao Đài.
Thông Quang
CHƠN NHƠN PHẠM NGỌC BỔN
Phối Sư hương trưởng sớm ly trần,
Tất dạ ai hoài bậc vĩ nhân.
Thể xác táng an về Cực Lạc,
Chơn hồn siêu thoát ngự đài vân.
Tam Kỳ âm đượm hàng Thiên Thánh.
Thất ức danh nêu ngọn bút Thần.
Sứ mạng dìu đời tròn trách nhiệm,
Du Tiên thắng cảnh hưởng hồng ân.
GIÁO HỮU NGỌC NHƯỢNG THANH
Nguyệt Quang huynh trưởng cảnh Tiên hồi,
Nợ Đạo dìu đời đến đây thôi.
Một kiếp công phu chưa phỉ nguyện,
Sáu ba tuổi thọ sớm về ngôi.
Gian truân công nghiệp đành cam chịu,
Khổ hạnh Nam phần chẳng bỏ trôi.
Cật lực hy sinh nơi cỏi tạm,
Tiêu diêu cảnh trí hưởng ân Trời.
GIÁO HỮU NGỌC LƯỞNG THANH
Phối Sư Phổ Tế đã qui Thiên,
Mến đức cố nhân bậc triết hiền.
Chí cả thương đời Ngài khổ hạnh,
Tâm trung giúp Đạo buổi truân chuyên.
Giãi bày Giáo Lý thông chơn pháp,
Dìu dắc nhơn sanh đắc Chánh Truyền.
Tuổi sáu mươi ba công quả mãn,
Linh hồn toại hưởng cảnh non Tiên.
PHỐI SƯ THƯỢNG THIỆN THANH
Phối Sư, anh đã trở về ngôi,
Sứ mạng Thiêng Liêng vẹn vẽ rồi.
Tiên cảnh duyên xưa dầu tự toại,
Phàm trần bạn cũ luống bồi hồi.
Nhắc qua nổi khổ bùi ngùi nhớ,
Khêu lại lòng đau thảm thiết ôi !
Cầu nguyện siêu thăng miền Cực Lạc,
Hiển linh xin chứng tấc lòng tôi.
HUỆ NGÀN
Ông Thượng Trí Thanh đã tách trần,
Mất hàng Chức Sắc một thi nhân.
Gởi yên thể chất mồ ba thước,
Nhẹ cất chơn linh cảnh mấy tầng.
Nghiệp Đạo đã tròn tâm tận tụy,
Trường Tiên ắc rạng phẩm cao thăng.
Xót người Lan thất ra thiên cổ,
Nét mặt “ kỳ ai…” đượm mấy vần.
(Tài liệu điếu thi nầy trích nơi Đạo Đức Văn Đàn do ông Phối Sư Thái Đến Thanh làm Trưởng Ban ngày 9-10 Tân Sửu (16-11-1961)
CHƯƠNG III. THI THƠ CỦA ÔNG THƯỢNG TRÍ THANH
MỪNG ĐỨC THƯỢNG SANH VỀ HÀNH ĐẠO
Toàn Đạo hoan nghinh Đức Thượng Sanh,
Nay về Tòa Thánh bủa ân lành.
Phướng linh bảo hộ trang hiền ngỏ,
Phất Chủ quét tan lũ bạo hành.
Chỉnh đốn luật điều y Chánh Giáo,
Chấn hưng Đại Đạo rạng thinh danh.
Chuyển cơ tận độ hòa nhơn loại,
Sứ mạng Chí Tôn đã sẳn dành.
Phối Sư Thượng Trí Thanh
Ngày 15-4 Đinh Dậu (1957)
TỰ THUẬT
Nhồi nắng tinh thần buổi Đạo khai,
Hai mươi năm lẻ nếm chua cay.
Ngục hình khổ hạnh thời gian trước,
Tòa Thánh an nhàn hiện buổi nay.
Luyện tánh trượng phu nâng thổ võ,
Trao tâm tuấn kiệt đợi Cao Đài.
Chặc gìn nhơn nghĩa lòng son sắc,
Hành Đạo công bình dạ thẳng ngay.
Phối Sư Thượng Trí Thanh
1947
ĐỀ: THƯƠNG GHÉT
Thương mà vận ghét, ghét mà vận thương của Ngự Bình Thi Xã năm 1960.
THƯƠNG
Thương yêu chủng tộc không nên ghét,
Nam, Bắc , Trung cũng là nước Việt.
Huynh đệ thuận hòa chớ hại nhau,
Tinh thần giao hảo thù oan hết.
Đở nâng sanh chúng được no lành,
Dạy bảo hương dân đều hiểu biết.
Tổ nghiệp Lạc Hồng một Quốc Gia,
Thương thân thống hiệp đừng hơn thiệt.
GHÉT
Ghét người nòi giống nở không thương,
Đảnh Việt chia đôi bải chiến trường.
Tạo oán đồng bào giành lảnh thổ,
Gây thù huynh đệ hại quê hương.
Câm hờn độc lập nồi da xáo,
Tức tối hoàn đồ đẫm máu xương.
Thống nhứt ngoại xâm đào hố thẩm,
Bắc Nam tranh chấp khó hùng cường.
Phối Sư Thượng Trí Thanh
Đạo hiệu Nguyệt Quang
(Trích Văn Thi Hiệp Tuyển Quyển Nhì trang 24 của ông Huỳnh Văn Đến)
Đức Thượng Sanh có gởi Ngài Bảo Pháp bài sau đây tựa:
HOÀI HỮU
Xa xuôi chiều ngóng mấy vần mây,
Thắc thẻo dường như nhạn lạc bầy.
Vắng khách hãy còn xơ xác quạng,
Chờ người sầu vẫn chập chồng xây.
Chuông ngân luống nhắc lời giao ước,
Trống giục càng mong buổi hiệp vầy.
Đợi bạn thuyền từ chưa tách bến,
Nhớ nhau xin cạn chút niềm tây.
Huệ Giác
19-2 Kỹ Hợi (17-1-1960)
ÔNG THƯỢNG TRÍ THANH HỌA
Khiến xuôi chạnh nhớ ngấm tranh mây,
Buồn nổi chung chiên lại rẽ bầy.
Pháp Chánh trông người cân đúng lý,
Công bình đợi Đấng thẩm quyền xây.
Tuồng đời hơn thiệt phân xa cách,
Cửa Đạo thương yêu hiệp hội vầy.
Chỉnh đốn nội dung theo luật lệ,
Giao truyền Đại Đạo khắp Đông Tây.
Nguyệt Quang
Nhơn lễ cầu siêu Nhị Cửu Tuần của Lễ Sanh Ngọc Hoài Thanh ngày 28-8 Bính Tuất (1946). Ông Thượng Trí Thanh có làm bài thi tưởng niệm như sau:
Bớ Ngọc Hoài Thanh bớ Ngọc Hoài Thanh,
Trần hoàn những tưởng ở lâu dài.
Lời nguyền chung thủy đây như một,
Trái hẹn âm dương đó rẽ hai.
Nợ nước vẫn còn đương báo đáp,
Nghiệp nhà đào tạo buổi tương lai.
Cớ nào vội tách nơi Bồng Đảo,
Tiếp giáng Ngọc Cơ khá tỏ bày.
(Văn Thi Hiệp Tuyển Q.II trang 53)
Đức Hộ Pháp xướng bài Tân Niên Khai Bút ngày 3-1 Bính Thân (1956)
Vẫn gánh non sông đến tuổi già,
Đòn tâm làm mạnh thế tài ba.
Đôi phen kiên nhẫn dìu hồn nước,
Lắm lúc truân chuyên giữ Đạo nhà.
Tính đức cổ truyền trừ giặc loạn,
Nghĩa nhân pháp hữu dẹp can qua.
Hồng nhân đã sẵn làm thao lược,
Ích quốc an dân dụng chữ hòa.
Phạm Hộ Pháp
ÔNG THƯỢNG TRÍ THANH HỌA
Chống vững giang san chẳng nệ già,
Đã từng phấn đấu lướt phong ba.
Thủy chung bồi đấp nền Thiên Đạo,
Bao quản công phu dựng nghiệp nhà.
Cơ Đạo thanh bình ngày sắp đến,
Tuồng đời loạn lạc buổi vừa qua.
Thiên thời đại lợi nơi ta sẳn,
Còn đợi vạn linh biết thuận hòa.
Nguyệt Quang
MỪNG ĐỨC HỘ PHÁP HỒI LOAN
Đào tạo Tổ Đình cảnh tốt tươi,
Điểm tô xã tắc cũng tay người.
Độ đời, đời bạc lưng tròng cảm,
Cứu chúng, chúng khinh chíp miệng cười.
Phát phối tha ban quyền quỉ khiến,
Phản hồi cố quốc khiến Trời xuôi.
Xa thơ, Bát Nhã cương lèo nắm,
Huy động nhân tâm chỉ dụng lời.
Nguyệt Quang
CẢM TÁC
Nhơn buổi tiệc tiển ông Trí hành Đạo Trung Tông ngày 14-5 Mậu Tý (1948)
Tiệc mừng vầy hiệp buổi hôm nay,
Truyền Đạo Trung Tông nhớ tưởng hoài.
Tiếng kệ qui tâm trang tuấn kiệt,
Câu kinh hiệp chí bậc thiên tài.
Khuyên người hung bạo nên hiền ngõ,
Độ kẻ bất lương đặng thảo ngay.
Tạm rẽ Trung, Nam vì sứ mạng,
Đỡ nâng Đời Đạo phận làm trai.
Nguyệt Quang
TÚC SỰ
Ngảnh mặt phồn hoa lướt ngựa xe,
Chẳng ham phú quí đắm hơi chè.
Dựng cờ nhơn nghĩa chiêu hồn tục,
Phất phướng từ bi tỉnh mộng hòe.
Lánh bải hồng trần vui cửa Phạm,
Êm chơn Bồng Đảo hứng vườn tre.
Đỉnh chung giả cuộc trò nhân sự,
Bước Đạo dìu nhau chớ sụt sè.
Nguyệt Quang
HÀNH ĐẠO HUẾ CẢM TÁC
Hữu duyên may gặp hội đời nầy,
Phú quí cân đai tợ đám mây.
Đạo đức trao tâm về Cực Lạc,
Tu hành sửa tánh lại Phương Tây.
Bạo tàn hưng thạnh theo giờ phút,
Chân võ an khương mãi tháng ngày.
Giành giựt đỉnh chung phường diệt chủng,
Tai ương khắp chốn ngẫm châu mày.
Nguyệt Quang
SỐNG VỀ ĐẠO
Lánh nẽo trần ai trổi dậm voi,
Nâu sòng cửa Phạm đã nên mòi.
Động Đào nhàn lạc xem hoa nở,
Cảnh lạc sầu bi ngấm cội còi.
Khổng Tử nhân luân ghi tạc mãi,
Lão Đam tu kỹ phép truyền roi.
Trau giồi xác tục nên hình Thánh,
Mộng ảo tuồng đời gẫm tựa thoi.
Nguyệt Quang
ĐẠI ĐOÀN KẾT
(Nhơn Bắc Du, Đức Hộ Pháp tỏ ý tại Hà Nội năm 1950 kêu gọi đồng bào đoàn kết).
Non nước hồn thiêng đã tỉnh dần,
Xuân thu xưa nay đổi thu xuân.
Nam Phong đỡ vững xa thơ Hán,
Bắc tục xô nghiêng đảnh nghiệp Tần.
Bác ái là đề thi tiến hóa,
Nghĩa nhân ấy mục định duy tân.
Thiên thời đại lợi đôi điều sẵn,
Chỉ thiếu hòa nhân để hiệp quần.
Phạm Hộ Pháp
ÔNG THƯỢNG TRÍ HỌA
Cứu đời cam lộ rưới chan nhuần,
Thiên mạng thừa hành báo hiếu ân.
Bốn biển làm nhà trang dị tục,
Năm châu lập nghiệp khách phong trần.
Trau tâm bác ái noi hiền triết,
Luyện tánh từ bi học Thánh nhân.
Dìu dẫn chúng sanh mau thoát khổ,
Thung dung cửa Phạm định chơn Thần.
Nguyệt Quang
ĐỒNG TÂM
Đức Hộ Pháp Tặng Ngài Tiếp Đạo ngày 3-1 Nhâm Thân (1952)
Chúng ta từ thử bạn đồng tâm,
Dìu bước nhơn sanh khỏi lạc lầm.
Gương huệ sáng soi đường Thánh Chúa,
Từ bi mở rộng cửa Thiền Lâm.
Hồn nho tỉnh mộng lìa phường tục,
Phép Đạo giác mê sửa nết phàm.
Chấp phướng tiêu diêu toan cứu khổ,
Chúng ta từ thử bạn đồng tâm.
Phạm Hộ Pháp
ÔNG THƯỢNG TRÍ HỌA
Chung cùng hành Đạo ái hòa tâm,
Luật pháp trọn vâng tránh lỗi lầm.
Sứ mạng hòa dân miền thị trấn,
Hiền tài cứu chúng chốn sơn lâm.
Ma Ha rữa sạch, ngần tâm Thánh,
Phất Chủ quét tan, sạch tánh phàm.
Dìu bước vạn linh qua bể khổ,
Chung cùng hành Đạo ấy hòa tâm.
Nguyệt Quang
ĐIẾU NGÀI TIẾP ĐẠO
Rảnh rồi công quả lại non Tiên,
Tiếp Đạo Chơn Quân vẹn mối giềng.
Tần Quốc ngoại giao ra sức chống,
Việt Nam Tòa Thánh đỗ cơn nghiên.
Phò cơ thi phú hòa Tôn Giáo,
Phật giáng Tân Kinh hiệp cửa Thiền.
Phổ biến Cao Đài tròn trách nhiệm,
Ngọc Hư bái mạng hưởng tiền duyên.
HỌA THI CỦA BÁT NƯƠNG
Đạo triều suy thạnh đã bao lần,
Đất Việt nhờ Trời đặng thấy lân.
Hội Thánh trừ tà khua trống sấm,
Xuân thu lập chánh động chuông ngân.
Thư hùng rạch nước an thiên hạ,
Ma Xữ đính ngôi phẩm Thánh Thần.
Bảo thủ chơn truyền hòa vận chủng,
Tồ Đình qui tụ Hội Long Vân.
Nguyệt Quang
Quang Minh (sưu tầm)