ÔNG SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP 1925-1986 Biên Soạn : Tỉnh Tâm |
Chương I
- Sơ Lược Phần Tiểu Sử của Ông Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp
- Phế Dời Hành Đạo Lần I (Từ năm 1945-1957)
- Tạm Nghỉ Việc Đạo Để Lo Việc Đời
Chương II
- Trích Lục Các Mẫu Chuyện Liên Quan Đến Cuộc Đời của Ông Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp
Chương III
- Phần Thi Thơ của Ông Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp (Bút hiệu Quang Minh)
Chương IV
- Thánh Giáo, Công Văn Liên Quan Đến của Ông Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp
CHƯƠNG I
SƠ LƯỢC PHẦN TIỂU SỬ CỦA SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
Ông Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp sanh ngày 22 tháng 3 năm Ất Sửu (dl 10-05-1925), nguyên quán Thường Lạc (Châu Đốc).
Cha ông là Bùi Văn Ứng là Hương Cả và là Thầy Thuốc Bắc có tiếng trong vùng.
Mẹ ông là Bà Võ Thị Sành.
Hai Ông Bà cụ sanh được 7 người con:
1.Bùi Văn Nhựt sanh năm Canh Thân ngày 20-11-1911 hồi 5giờ rưỡi.
2.Bùi Thị Nguyễn sanh năm Qúi Hợi 14-4 hồi 4 giờ chiều.
3.Bùi Văn Tiếp sanh năm Ất Sửu (10-5-1925) ngày 22-3 hồi 12 giờ khuya.
4.Bùi Thị Lành sanh năm Đinh Mẹo ngày 26-7 hồi 11 giờ trưa.
5.Bùi Thị Lẽ sanh năm Canh Ngọ ngày 9-9-1930
6.Bùi Thị Nghiệm sanh năm Qúi Dậu ngày 12-12 hồi 5 giờ
7.Bùi Thị Nghiêm sanh năm Đinh Sữu ngày 9-8 hồi 11 giờ trưa.
Ông học hết lớp Nhì ban Tú Tài tại Lycéum Bassác Cần Thơ năm ông 20 tuổi (1945).
Cuộc đời của ông cũng lắm truân chuyên, chúng ta có thể nhận thấy nó được chia thành 3 giai đoạn:
I. PHẾ ĐỜI HÀNH ĐẠO LẦN I (Từ năm 1945-1957)
Năm 1945 ông về Tòa Thánh làm công quả thuộc Ban Kiến Trúc. Sau vì bịnh nên trở về Châu Đốc dưỡng bịnh.
Năm 1947 trở về Tòa Thánh thi Luật Sự. Sau khi đậu được Hội Thánh bổ đi Nam Vang hành sự được một năm rưỡi. Sau đó về Tòa Thánh làm Điều Tra Viên Phòng Thẩm Vấn dưới quyền Ngài Trần Khai Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh. Kế được bổ đi Pháp Chánh Lâm Đồng (Dalat) hành sự được một năm. Sau đó trở về Phòng Thẩm Vấn làm việc đến năm 1956.
Ông lập gia đình cùng Bà Trần Thị Ngươn năm ông 28 tuổi và từ đó hai ông bà lần lược sanh đặng 12 người con.
Khi Đức Hộ Pháp phát động phong trào Hòa Bình Chung Sống, ông có tham gia trong Ban Tuyên Huấn Miền Nam, hoạt động được vài năm thì chánh quyền Ngô Đình Diệm bố già, ông phải rời Tòa Thánh xuống Sài Gòn ẩn trốn.
II. TẠM NGHỈ VIỆC ĐẠO ĐỂ LO VIỆC ĐỜI (Từ năm 1958-1976)
Trong khoản thời gian ẩn trốn ở Sài Gòn ông có làm một cái đơn gởi về Bộ Pháp Chánh xin tạm nghỉ việc Đạo để lo kiếm tiền nuôi gia đình. Đơn của ông đã được chấp nhận.
Năm 1958 ông làm thư ký trạm xăng ESSO Hai Bà Trưng.
Năm 1970 ông chuyển qua làm Kế Toán Viên cho Hãng Dệt Liên Phương trong hai năm; kế trở lại trạm xăng cũ.
Khi Cách Mạng đến 30-4-1975 ông tiếp tục phục vụ tại trạm xăng ấy. Trạm Xăng lúc nầy được đổi tên lại là Trạm Xăng Số 1 thuộc công ty xăng dầu Miền Nam do chánh quyền Cách Mạng quản lý. Ông làm việc ở đây thêm trên một năm.
Để hiểu rõ thêm về giai đoạn nầy xin mời quí vị xem bài “Hai Mươi Năm Xuất Sải” do ông biên soạn. Trong bài ông diển tả rất tỉ mỉ từng chi tiết về cuộc đời của mình, cho nên chúng tôi sẽ không lập lại trong phần tiểu sử nầy.
III. PHẾ ĐỜI HÀNH ĐẠO LẦN II (Từ năm 1976-1986)
Ngày 15-04-1976 ông trở về Tòa Thánh xin phục chức Sĩ Tải để lập công bồi đức và được sự chấp thuận theo Thánh Lịnh Số 08/CQHTĐ-TL do Ngài Hồ Bảo Đạo Q. Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài ký ngày 21-4-1976.
Sau đây là những Công Văn, Thánh Lịnh của Hội Thánh thuyên bổ nhiệm vụ cho ông Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp:
1. Thánh Lịnh số 16/CQHTĐTL ngày 26-6 Bính Thình (22-7-1976) thuyên bổ nhiệm vụ Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện.
2. Công văn số 3334/CP ngày 13-8 Bính Thìn (6-9-1976) tham dự tổ chức cuộc bầu cử Chưởng Quản Phước Thiện; kết quả ông Chơn Nhơn Trần Minh Viên đắc cử với đa số thăm.
3. Công văn số 137/QCQHTĐ ngày 13-8 Bính Thìn (6-9-1976) cộng tác với Nông Viện Nam Nữ Phước Thiện, thâu hoàn các phần đất nội ô lại để canh tác tập thể hầu giúp cho Trại Đường Hội Thánh được có đủ lương thực nuôi nhơn sanh.
4. Công văn số 486/CQ.TM ngày 28-2 Đinh Tỵ (9-3-1977) hội thảo về trại hàng cấp tế đặt trong nội ô và lịnh phạt quì hương có vị Thượng Thống Công Viện Phước Thiện.
5. Công văn số 1549 ngày 2-9 Đinh Tỵ (14-10-1977) bàn thảo và góp ý 4 điểm mới do chánh quyền XHCN Tỉnh Tây Ninh nêu lên cùng Hội Thánh.
6. Công văn số 1566/CQ ngày 05-09- Đinh Tỵ (17-10-1977) mời dự kiến lễ ban hành Thánh Lịnh Quyền Chưởng Quản và Phó Chưởng Quản Phước Thiện (sau khi ông Chưởng Quản Trần Minh Viên qui vị).
Thêm vào phận sự Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài còn bổ ông vào những nhiệm vụ sau đây:
1.Thánh Lịnh số 004/Thiêng Liêng.CQ.HTĐ ngày 7-11-Đinh Tỵ (17-12-77) lãnh phận sự Buộc Án trong các phiên Hội Cộng Đồng đặc biệt.
2.Đạo Lịnh số 11/ĐL ngày 29-8 Mậu Ngũ (30-9-1978) thuyên bổ Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện kiêm Phó Trưởng Nhiệm Đạo Sử.
3.Tờ ủy nhiệm không số đề ngày 22-10 Mậu Ngũ (22-11-1978) tham gia Ban Hổn Hợp Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện để:
a. Nghiên cứu chỉnh đốn nội bộ của Đạo theo đường lối tôn giáo thuần túy…
b. Cứu xét các kiến nghị của Bàn Trị Sự…hầu đem ra cuộc khóan Đại Hội Thánh giải quyết.
Ngày 5-3-1979 ông bị chánh quyền XHCN bắt giam hết 2 tháng rưỡi vì tội “Tổ chức cuộc họp đông người bất hợp pháp”. Nhưng thực ra đó chỉ là cái cớ, vì thiên hạ ai cũng biết rằng ông là người chống lại chánh quyền mảnh liệt nhất về vụ “Bản Án” để bảo vệ thanh danh của Thầy mình nên họ bắt ông để trả thù.
Ngày 2-11-1986 ông đột ngột qui Tiên (Trước đó 2 tuần ông đang ở chơi nhà người bạn gần cửa số 3 nội ô Tòa Thánh thì bị tai biến).
Cái chết của ông để lại sự mến tiếc của đồng đạo khắp Châu Thành Thánh Địa, thiên hạ đi dự đám tang của ông rất đông.
CHƯƠNG II
TRÍCH LỤC CÁC MẪU CHUYỆN
LIÊN QUAN ĐẾN CUỘC ĐỜI
CỦA ÔNG SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
Để hiểu thêm về cuộc đời của ông cúng tôi xin trích lục một vài mẫu chuyện trong quyển “Những Cái Phàm Của Tôi” do ông biên soạn:
I. KỶ NIỆM CHÙA THÁP
Khi tôi thi đậu Luật Sự thì mới có 22 tuổi. Hội Thánh bổ đi Pháp Chánh Kiêm Biên làm việc dưới quyền của Thừa Sử Nguyễn Hượt Hải và Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi. Ông Hải thấy Luật Sự Đăng đi Hà Tiên hành sự ghé Nam Vang có sắm áo mão Tiểu Phục mà tôi thì chưa sắm nên ổng biểu tôi lấy đồ của ổng mướn thợ may 1 bộ để mặc cúng Thầy. Tôi nghe lời, bán chiếc xe đạp, sắm Tiểu Phục, đến rằm ông Hải biểu tôi mặc cúng.
Thật tôi có một cảm giác ngỡ ngàn áy náy khi nặc Thiên Phục lần đầu tiên. Khi đứng lúc đi cũng bợ ngợ, trông cho bãi đàn để lột nó ra.
Vừa lột ra tôi bị ông Lợi kêu rầy liền: “Ai cho phép tôi may đồ Thiên Phục mặc?”
Té ra mình đáng lẻ phải xin phép ổng rồi sẽ mặc mới đúng luật hơn vì mình dưới quyền hai ông mà mình chỉ được phép có một ông thì phần quấy về mình đã đành. Ông Lợi còn cho tôi câu hơi nặng: “Em không xứng đáng một vị Luật Sự của Hội Thánh”.
Tôi tức mình làm một bài thơ dài trả lời tại sao tôi may Thiên Phục và nói tại sao ông Lợi coi rẽ phẩm tước của Hội Thánh ban cho tôi.
Ông sùng gởi thơ về Bộ Pháp Chánh yêu cầu Ngài Khai Pháp triệu hồi tôi về Tòa Thánh để học Đạo.
Thế là nữa tháng sau tôi phải khăn gói về Thánh Địa. Tôi hỏi Ngài Khai Pháp tôi có tội gì mà triệu hồi tôi về thì Ngài trả lời: “Thượng cấp toi yêu cầu moi rút thì moi rút”.
Tôi đành ôm buồn thảm mà chịu phép.
Chừng một tháng sau, ông Hải gởi thơ cho Ngài Khai Pháp nói cần có tôi giúp ông nhiều việc ở Kiêm Biên nên Ngài Khai Pháp bổ tôi trở lại xứ Chùa Tháp.
Đã sắm Tiểu Phục, tôi còn sắm thêm Đại Phục, mão cao, áo rộng không còn ngại ngùn như thuở ban sơ vì Thiên Phục có Đức Hộ Pháp trấn Thần.
Thế là một thắng lợi mà đàn anh là ông Hải đã nâng đở tôi nên tôi kính nể ông như Thầy. Càng kính ông Hải bao nhiêu tôi càng phiền ông Lợi bấy nhiêu. Nhưng thời gian rồi cũng nguôi.
Khi Bà Hương Nhâm là vợ ông Lợi qua đời, tôi có đến Báo Ân Từ để cầu siêu Truyền Trạng Quốc thấy ông Lợi khóc miệng méo xẹo mới khích tôi: “Ê Toi đặt bài thi ông Lợi khóc vợ thử coi nào ?”
Tôi không hiểu tứ thơ nó ra hồi nào mà 4 câu đầu nghe hơi có hậu mà 4 câu sau mà toàn là móc lò. Vì thấy 1 bầy con nuôi quì để tan mà đọc kinh “Con tế mẹ” nên tôi mới hạ bút như sau:
Cõi thọ Hương Nhâm đã trở về,
Để ông Giám Lợi khóc lê mê.
Nợ duyên trăm tuổi chưa phai lợt,
Kiếp sống phù du bất não nề.
Quì tế tò vò, đoàn nhện nhện,
Cử tan vịt nước, đám le le.
Cù lao ơn nặng mang hồi nớ ?
Điếu mẹ câu kinh nghĩa xẳn lè.
Bởi “Ơn cúc dục cù lao mang nặng” nó làm tứ bài kinh mất ý nghĩa thâm thúy của nó. Có 9 tháng cưu mang, 3 năm bú mướm hồi nào mà cúc dục cù lao ? Toàn là con đẻ ngang hông như:
Tò vò mà nuôi con nhện,
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi.
Tò vò ngồi khóc tỉ ty.
Nhện ơi nhện hởi mày đi đường nào ?
Tại sao tôi lại làm thi trả thù ? vậy là phàm quá phải không các bạn ?
Sự thật tâm thần tôi không bao giờ có ý nghĩ trả thù, nhưng tại sao tôi cũng không biết mình lại tố ông Lợi quá nặng như thế.
II. ĐỤNG THIẾU TƯỚNG THÀNH
Năm 1945 tôi về Tòa Thánh. Thiếu Tướng Thành thấy mình có học khá muốn bắt qua Quân Đội để phục vụ nên cho Thiếu Tá Hồng thuyết phục. Hồng nói: “Thời loạn lạc nầy anh cầm cây viết rất uổng, phải cầm cây súng mới đúng phận của thanh niên thời loạn”. Tôi trả lời: “Trời sanh mỗi người có một sở trường và một sở đoản, không khi nào Trời cho 1 ngưới 2 món quí. Tôi thân yếu ớt nên ổng cho biết chút ít văn chương chớ bỏ tôi qua võ thì tôi không biết làm gì được”. Thế rồi thời gian cứ trôi qua, tôi còn gặp Thiếu Tướng Thành trong một trường hợp khá gay cấn.
Số là Quân Đội Cao Đài có tặng Đức Hộ Pháp một máy phát thanh (Emetteur) mà chưa có người biết sử dụng. Đức Ngài qua Hiệp Thiên Đài hỏi: “Đứa nào muốn đi học, Bần Đạo cho 2 đứa xuống xưởng radio học trong 3 tháng sẽ trở về”. Tôi và Tỷ xin tình nguyện đi. Ngài Khai Pháp không cho, viện lẽ là không có đủ nhân viên Pháp Chánh nên cho một mình tôi và Đầu Phòng Long đi.
Đến xưởng radio, họ biểu qua phòng tuyển lính để lập hồ sơ. Qua đó họ đưa 2 tờ tình nguyện nhập ngũ để 2 đứa ghi tên vô. Tôi không chịu ký tên và trình bày rằng: “Chúng tôi đi học radio chớ có xin nhập ngũ hồi nào mà biểu buộc phải ký tên nhập ngũ” . Thấy bắt chẹt tôi không được họ ra lịnh không cho dạy về radio.
Nhơn tướng Trình Minh Thế đánh một nhơn viên tên Quan ở xưởng radio về một lý do không chánh đáng, tôi đâm ra sợ, bữa nào nó sẽ lấy luật nhà binh mà đánh tới mình, chi bằng rút lui trước là hay hơn. Tôi bèn viết một bức thơ gởi Ngài Khai Pháp nhờ Ngài rút tôi về Bộ Pháp Chánh làm việc.
Tội nghiệp ông già cũng thương mình, gởi thơ can thiệp. Tôi được thoát xưởng radio sau gần 4 tháng chịu đựng, như chim sổ lồng vỗ cánh bay về rừng cũ.
Nhưng chưa hết, vài ngày sau có 1 cái thơ của Tổng Tư Lịnh Quân Đội đòi tôi phải trả tiền cơm trong thời gian ở xưởng là bảy trăm mấy chục đồng.
Tôi làm cái đơn kể rằng: Từ 1945 tôi về Tòa Thánh làm Thợ Sơn trong Ban Kiến Trúc thì ăn cơm của Hội Thánh, qua dạy Đạo Đức Học Đường cũng ăn cơm của Hội Thánh, kế làm Luật Sự Bộ Pháp Chánh cũng ăn cơm của Hội Thánh. Đời tôi đã dâng hết cho Đạo, tôi không làm việc chi tư riêng để đẻ ra một đồng nào. Thiết tưởng dầu cơm của Quân Đội thì cũng là cơm của Hội Thánh, nên tôi xin Bộ Tư Lịnh miễn số tiền ấy cho tôi. Đối với Quân Đội số bảy trăm mấy không thấm tháp vào đâu chớ đối với cá nhân tôi là 1 số tiền trọng đại….
Thấy đòi tiền cơm không được Thành đăm ra căm tức mới dâng lên Đức Hộ Pháp một thỉnh nguyện nữa, yêu cầu Đức Ngài định cho tôi một hình phạt vì lý do bỏ trường, không hiếu học. Trong thơ ấy tôi nhớ mãi một câu bất hủ: “Nếu thanh niên Việt Nam mà như Luật Sự Tiếp thì tiền đồ Tổ Quốc còn mong mõi gì”.
Đức Ngài phê một câu rất ngộ nghĩnh: “Tiếp nó có khôn thì nó học để nhờ thân nó, còn nó có dại thì thôi, chớ nó đâu có tội gì mà định hình phạt”.
Êm vụ đó một thời gian, tôi đổi làm Pháp Chánh Lâm Đồng. Nghe Đức Hộ Pháp đến Đà Lạt để hội kiến với Quốc Trưởng Bảo Đại. Tôi họp Khâm Châu, Đầu Tộc và Bàn Trị Sự Nam Nữ hoạch định một chương trình tiếp rước. Ông Thành ra trước vài ngày, biểu phải làm theo chương trình của ổng. Tôi dạ dạ rồi khi Đức Ngài đến, tôi làm theo việc mà chúng tôi đã bàn tính.
Thành tức lắm mà không biết nói sao mới kêu Đầu Tộc Hương Kén mà rằng: “Luật Sự Tiếp coi vậy mà phách quá”.
Ở Thánh Địa có Thầy Giáo tên Vân Khanh là một tay lịch lãm, nhưng hay say rượu nên Thành không ưa. Không hiểu hai người xích mích thế nào mà một hôm gặp nhau, Vân Khanh nói xõ một câu làm Thành cứng họng. Khanh nói: “Trời sanh tôi vốn nhỏ thó người nên đi đâu người ta cũng kêu tôi là THẰNG THIẾU TƯỚNG; nhưng cũng có kẻ ghét tôi kêu tôi là KẺ TIỂU NHƠN”.
Thành biết Vân Khánh chưỡi xéo mình mà không bắt lỗi được.
Tôi hội ý đặt 1 câu đối để câu chuyện ấy thêm phần văn hoa bay bướm:
Lúc thạnh chúng kêu: “Ngài Thiếu Tướng”,
Còn suy người gọi: “Tiểu Nhơn Thằng”.
Thiết nghĩ lúc có giặc, nhứt là lúc Việt Minh đánh Tòa Thánh tết năm xưa (1946) người ta xông pha tên đạn, cái chết, cái sống may rũi trong nháy mắt, nhưng khi bình thì mình chê người ta là đần là vô học thức, là kém tao nhã, thiếu văn chương. Hỏi vậy có phàm không ?
Còn đây là trích lục một bài trong quyển: “Cố Hương Hồi Ký” do ông biên soạn:
III. CƠ ÔNG ĐỊA
Ở Trà Dư mỗi chiều người ta thường đến nhà anh Phó để xem cầu cơ. Cơ nầy làm bằng nắp ván hòm bằng trái tim, phía dưới có 3 hột đạn. Cũng có vẽ 24 chữ cái trên miếng ván lối 4 tất, 6 tất. Khi cầu thì 2 người để tay lên cơ rồi điển chuyển vận, chỉ từng chữ mà ráp vần. Ban đầu cầu cơ ma, những người xóm giềng chết về nói việc thường thức. Sau có một vị xưng Thanh Quan Địa Bồ Tát đến dạy việc lành dữ, khuyên tu hành. Thường người ngồi đồng là Tư Mục, Hai Phú, Út Sang và anh Phó. Chúng tôi nhận thấy những bài thi văn cũng thường nhưng đánh dấu được đặc tính của những người trong xóm.
Như Bà Ba Tại xin thi gia Đạo, Ông Địa cho:
Gia đình gẫm lại chẳng hề sao,
Một ngày ba bữa nhậu lao xao.
Mặc mầy mầy uống rượu
Mặc tao tao đánh bài.
Thật là đúng hoàn cảnh của Bà Tại, chồng bà là ông Xã Lập cứ nhậu say mèm tối ngày, còn bà thì đánh bài tứ sắc giải khuây. Nhà có của không sợ đói.
Ông Địa cho Bà Tư Thịnh là vợ của Thủ Bổn Ngà (bà chết chồng tái giá với ông Ngà) bài thi sau:
Gia đình gãy gánh chẳng bao lâu,
Cô liền chấp mối tợ mắc câu.
Hồi nào để đó chịu đèn dầu,
Chi bằng nhồi cám đặng móc câu.
Ông Địa cho ông thân tôi lúc đó làm Hương Quản:
Tấm lòng nhân ái tựa chàng Bao (Bao Công),
Muôn việc lớn lao dạ chẳng nao.
Công bình hai chữ đành nắm giữ,
Thị tứ dường bao có xá nào ?
Ông Địa cho Bà Thân Mẫu tôi một bài:
Gia đình danh dự cửa bực trên,
Nghĩa phải ngàn năm dạ chẳng quên.
Lòng thương huynh đệ dạ như mền,
Nhơn là số mạng của bề trên.
Ông Địa cho Dì Năm Tiếng bài như sau:
Gia đình gãy gánh thiệt là lâu,
Lòng cô chắc dạ tợ Khương Câu.
Dưỡng nuôi nhi tử lần hồi đại,
Phước đức trời cho hưởng dài lâu.
Có Chú Thu là người Tàu, cha chết lại hỏi xin thi, Ông Địa cho bài thi không ai hiểu gì, chừng hỏi nghĩa lại thì chữ Tàu nghĩa “Lý bế khao” nghĩa là họ Lý khóc cha. Bài ấy như vầy:
Lý bế khao, lý bế khao,
Gia đình phụ tử chẳng thấy nhau.
…………………………………
………………..cu lái khừ.
Chúng ta đừng tưởng ở cõi vô hình, các đấng không biết các thứ tiếng. Như vụ nầy mà cơ Ông Địa ở Trà Dư được nhiều người tin tưởng.
Riêng cá nhân Quang Minh năm 1945 có đến xin một bài về tương lai (lúc ấy 20 tuổi). Ông Địa cho:
Công danh ráng lập chớ thả trôi,
Mỗi việc cần lo chớ lôi thôi.
Sau đặng đắc thành danh chín bệ,
Công ơn phụ mẫu trả cho rồi.
Còn nhiều bài lắm nhưng chúng tôi không nhớ hết, chỉ còn biết là ông Địa đặt tên của mấy ông Hương Chức theo danh từ cổ như: Dương Bá Hư tên Từ Thứ, vì đương sống ở quê vợ. Cậu Út Sạng là Từ Mậu Công; Bảy Quốc là Quan Tư Đồ; ông thân tôi Hương Quản ứng là Bao Công.
Mỗi rằm, bao nhiêu người lui tới đông nghẹt nên họ hùn nhau cất một cái chùa gọi là chùa Ông Địa rất là tấp nập ở xứ Trà Dư. Lần lần chiến tranh đến đã đốt chùa và người cũng chạy tản mát hết.
IV. THAM GIA CHÁNH SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG
DO ĐỨC HỘ PHÁP KHỞI XƯỚNG
Sau đây chúng tôi xin trích một đoạn trong quyển: “Tịch Đạo Pháp Nhơn Luân Chi Đạo” hay Hồi Ký của Nguyễn Ngọc Trân tự Minh Nhựt (Cải Trạng Hiệp Thiên Đài) từ trang 60 đến trang 74. Trong đoạn nầy có nhắc đến ông Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp cùng tham gia trong chánh sách Hòa Bình Chung Sống, để chúng ta hiểu rõ thêm về cuộc đời của ông. Chúng tôi có sửa lại cách xưng hô chút ít cho phù hợp với bài viết còn nguyên bản và lời văn vẩn tôn trọng tác giả không hề dám thay đổi.
Đầu năm Đinh Dậu 1957
Hội Thánh chuẩn bị lễ Vía Đức Chí Tôn ngày mùng 9 tháng 01. Các ông trong Ban Vận Động Miền Nam nương tùng theo, phái người đi khắp địa phương cổ động mời tham dự đông đảo, làm nhiều Cộ Bông, vẽ thật nhiều biểu ngữ nói lên tôn chỉ của Đạo, của Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống và đề nghị rước Đức Hộ Pháp hồi loan cầm giềng mối Đạo. Ngài Thái và Ngọc Chánh Phối Sư tích cực giúp đỡ, cho mượn căn phòng trống thường dùng để họp trên lầu Nội Chánh, ít người tới lui, yên tịnh, anh em viết biểu ngữ có thể giữ kín nhẹm được.
Mọi người đều hăng say tích cực, làm suốt mấy ngày đêm, các ông quanh quẩn bên cạnh, sẵn sàng mau lẹ cung cấp vật liệu theo nhu cầu. Châu Thành Thánh Địa các Phận Đạo chưng nhiều cộ bông, chẳng hạn cộ “Hàng Hớn Bất Hàng Tào”- Gà Nhà Bôi Mặt Đá Nhau - Vua Phò Dư ở ác bị thiên tai hạn hán … Năm nay cuộc lễ có trên 30 cộ, nhiều cộ hơn hết so với những năm trước. Nhơn sanh về dự lễ cũng đông hơn, hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Vận Động Hòa Bình Chung Sống.
Đại diện chánh phủ trung ương, Chánh Quyền Tỉnh, ngoại giao đoàn, báo chí, thân hào nhân sĩ các địa phương, phái đoàn quay phim của Mỹ, ngoại quốc và trong nước, các tôn giáo bạn, những người được mời, đại đa số đều có mặt để dự lễ.
Thường niên, Ty Thông Tin cho Đạo mượn xe, có máy và loa truyền tin trong giờ hành lễ. Năm đó tình hình có vẻ thay đổi. Các ông trong ban tổ chức hoài nghi, sợ chánh quyền nêu lý do nầy khác để giờ chót từ chối, khiến cuộc lễ giảm phần long trọng, mất hào hứng. Ông Trân đi sài gòn mướn máy. Ngài Thái Chánh Phối Sư cho mượn xe SIMCA và cho tài xế Vệ lái đưa.
Ông Trân có hẹn với Ông Phổ bạn của ông, người đã thi rớt Luật Sự năm 1947, nay đang làm việc ở Bộ Thông Tin Sài Gòn. Ông hứa giúp đỡ giới thiệu dùm, nhưng chẳng nơi nào dám cho mướn các loại máy thông tin, truyền tin, sợ xảy ra việc mất trật tự an ninh, bị chịu trách nhiệm với chánh phủ.
Ông Phổ mạo hiểm lấy máy của Bộ cho mượn.
Đem về các ông bên ban tổ chức gắn loa hai bên khán đài từ Đền Thánh đến Báo Ân Từ thật đầy đủ, hơn của Ty cho mượn thường lệ trong các cuộc lễ những năm trước.
Quả đúng như điều tiên kiến, giờ chót Ty Thông Tin nêu lý do máy hư không cho mượn. Nhờ tiên liệu nên kết quả được như ý.
Sau đàn cúng Vía Đức Chí Tôn ở Đền Thánh bước ra, tất cả đều ngạc nhiên thấy rất nhiều biểu ngữ xuất hiện, treo dầy đặc trước Đền Thánh, hai bên khán đài. Chung quanh Đại Đồng Xã, dài theo Đại Lộ Phạm Hộ Pháp tới Báo Ân Từ.
Biểu ngữ viết trên popeline, vải trắng thật tốt, chữ Việt có, chữ Pháp có, chữ Anh cũng có, khác hẳn quang cảnh trước giờ cúng Đàn, lưa thưa trên dưới 10 biểu ngữ viết trên vải tấm và trần buồm.
Sáng mùng 9 hành lễ tại Đại Đồng Xã, bổn Đạo được xếp theo thứ tự, tỉnh nào theo tỉnh nấy, nhờ sanh hoạt trước có bản ghi rành rẽ chỗ đứng. Cộ diễn hành qua khán đài quan khách, ông Lễ Sanh Ngọc Lương Thanh được cử làm xướng ngôn viên, nhắc sự tích cùng dẫn giải từng cộ một, tiếp sau các cộ bổn Đạo tuần hành kéo đi trong trật tự, hô lên nhiều khẩu hiệu theo các biểu ngữ. Lộ trình đi từ Đông Khán Đài đến Chánh Môn, lộ Cao Thượng Phẩm, qua Tây Khán Đài đến trước Tòa Thánh thẳng tới Nữ Đầu Sư Đường, Giáo Tông Đường, Hiệp Thiên Đài, Hộ Pháp Đường và giải tán trước Báo Ân Từ.
Micro đặt một cái tại Đại Đồng Xã, gần Đông Khán Đài cho Xướng Ngôn Viên lúc hành lễ và một cái trên bao lơn Đền Thánh, để ông Trân dùng để điều hành bổn Đạo.
Ai cũng thấy rằng cuộc lễ tự nhiên biến thành cuộc biểu tình không lồ, trên 3 vạn người. Các phái đoàn phim, chụp ảnh, báo chí giúp gây được tiếng vang khả quan với quốc tế.
Nghe kể lại khi cộ gà diển hành qua khán đài, ông Trần Chánh Thành Tổng Giám Đốc và Công An hỏi:
- Gà nào là gà Miền Nam, gà nào là gà Miền Bắc?
Đại Uý Được nhờ có sáng kiến công cộ gà trong dịp nầy mà nổi danh, bị bắt đi tù cũng tại cộ gà nầy.
Có điều đáng tức cười là phái đoàn quay phim Mỹ tới Tòa Thánh mùng 8, dụng cụ, máy móc, y phục đều gởi tại nhà khách Giáo Tông Đường. Có cả sắc phục Hộ Pháp, Giáo Tông. Ban tổ chức chẳng rõ họ có ý đồ gì, đinh ninh rằng chánh quyền Công Giáo muốn dựng người lên làm Hộ Pháp và Giáo Tông gây rối cho Đạo nên hội ý cùng Trung Tá Đỗ Công Khanh, Chỉ Huy Cơ Thánh Vệ, khóa luôn cửa phòng không cho sử dụng sắc phục ấy.
Sau nầy được biết họ thực hiện cuốn phim “Un Ame1rican Tranquille” (Một Người Mỹ Trầm Lặng). Cuộc lễ bế mạc, anh chị em biểu tình vừa giải tán. Ban vận động ai lo việc nấy. Phần ông Trân mượn máy và loa tức cấp thu máy gọn gàng để lên xe SIMCA chở về Sài Gòn trả lại cho ông Phổ.
Thức mấy ngày đêm liên tiếp. lên xe là ngủ ngay, ngủ say sưa không còn biết gì nữa. Ông Trân đinh ninh rằng tài xế Vệ không bắt buộc phải thức nhiều mấy bửa trước, hẳn còn tỉnh táo để lái xe, không ngủ. Xe chạy gần đến đường Suối Sâu ông Vệ ngủ gậc để xe leo lề vượt các mương kiến, xe nhảy lưng tưng tưởng lật, ông Vệ cùng ông Trân đều hoảng hốt, cơn buồn ngủ biến mất ngay. Rất may ông Vệ kịp thời lái xe trở lại đường thẳng không gây tai nạn. Mọi việc được giải quyết một cách hoàn tất, đâu đó vẹn toàn. Rũi có bề gì ông Phố cũng liên đới gánh hậu quả.
Sau cuộc lễ “Hào Bình” (1957) Công An Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp, khủng bố Đạo. Ngay chiều mùng 9 tháng giêng, em Song học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định có công viết biểu ngữ suốt mấy ngày đêm, bị bắt ở ngoại ô gần cửa số 2 Tòa Thánh.
Nhàn Du khách sạn gần cửa số 3 nội ô bị chiếm làm văn phòng Ty Công An Tỉnh. Đầu tiên một số người thuộc cơ quan hành chánh bị bắt khai thác. Tiếp theo người của Phước Thiện lần lượt vào tù. Chính ông Trịnh Phong Cương, Đạo Nhơn Chưởng Quản Phước Thiện bị bắt trong đợt nầy, bị giam và chết trong ngục.
Không tìm ra chủ chốt sách động cuộc lễ, chánh quyền tỉnh bắt buộc Hội Thánh gia nộp thủ phạm, bằng không Hội Thánh phải chịu trách nhiệm.
Một phiên họp được triệu tập bất thường vào một buổi chiều tại Giáo Tông Đường với quyền chủ tọa của Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước. Nêu đề tài trên. Ngài Bảo Thế tuyên bố:
-Anh em ai ra tổ chức cuộc lễ, có gan làm có gan chịu mới anh hùng đừng để Hội Thánh gánh lấy trách nhiệm.
Ông Lê Quang Tấn nhận và xin để anh em chịu trách nhiệm. Ông Trân tiếp:
-Chúng tôi xin xung phong chịu vì không muốn Hội Thánh gánh lấy trách nhiệm, không phải ham tiếng anh hùng như Ngài Bảo Thế đã tặng. Xin hẹn sáng mai chúng tôi sẽ đưa người để cho Hội Thánh nạp cho chánh quyền.
Tối hôm đó anh em Sĩ Tải trong Ban Vận Động Miền Nam họp nhau tại Hiệp Thiên Đài bàn thảo. Ai nấy đều dành nhau đi tù, không ai muốn tự do nhìn anh em trong vòng lao lý. Ông Trân góp ý:
-Việc đi tù dể rồi, chỉ chịu đựng mấy ngày đầu bị điều tra khai thác. Khó là ở ngoài, tuy nói là tự do nhưng phải trốn lánh, tiếp tục làm nhiệm vụ chẳng lẻ vào tù hết, bỏ dang dở công viêc hay sao?
Ông Sĩ Tải Tiếp nói:
-Nói để ở ngoài tự do mà công an có chịu cho mình tự do hay không? Thà đi tù hết.
Ông Trân nói:
-Cái khó và cũng là cái khéo ở chổ đó. Làm thế nào cho được an toàn bản thân mà công chuyện không bị ngưng trệ phải tiến hành trôi chảy.
Nhiều bất đồng chung quanh ý kiến đi và ở, sau cùng anh em biểu quyết bốc thăm. Làm một số thăm ghi tên người có mặt, vo tròn đựng riêng một nón. Một số thăm trắng lẩn lộn thăm ghi chữ tù đựng riêng một nón khác. Số lương thăm đôi bên bằng nhau. Hai người được chọn bốc thăm.
Kết quả đặc biệt là anh em mang tên chữ T đứng đầu đều trúng thăm tù. Ngộ nghỉnh một điều là người bốc thăm trắng lại bị bắt trước, còn người bốc thăm tù thì vẫn được tự do trong giai đoạn đó. Khi cộng sản nắm chánh quyền, giáo đầu vào tù là những người có mang tên chữ T đứng trước.
Một tiệc trà bánh đơn sơ đạm bạc bày ra, anh em trao đổi tâm tình, ký thác, an ủi, khích lệ lẫn nhau và sau rốt giã biệt nhau trong tình cảm đậm đà thắm thiết, bùi ngùi luyến ái, để sáng hôm sau kẻ đi tù, người ở lại làm nhiệm vụ.
Trước khi chia tay ông Trân có ý kiến: Trước tình hình nghiêm trọng đề nghị anh em vào nghỉ đêm ở nội ô cho an toàn. Đa số không tán thành cho rằng: chưa đến lúc phải lo ngại. Riêng ông Lê Quang Tấn đêm đó nghỉ tại Nội Chánh, phòng Ngài Phối Sư Ngọc Non Thanh, ông Trân ngủ chung phòng với Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ Thanh.
Việc xảy đến đúng như tiên đoán, mới 9 giờ, tin báo Phạm Duy Nhung bị bắt, công an tìm bắt ông Trân, ở chung vách với Nhung mà không gặp. Công an tìm đến ông Hưởng nhưng ông Hưởng vắng nhà. Đến 11 giờ lại có tin báo tiếp là ông Hưởng đi chơi cờ tướng về bị bắt ngay tại cửa. Công an núp chờ sẵn tại bụi Thiên Tuế trước nhà.
Đêm đó Chức Sắc Cửu Trùng Đài lớn nhỏ, ở Nội Chánh đều xót xa với tinh thần thương mến hai ông Nhung, Hưởng và lo ngại cho những người còn lại đang ở ngoài. Dầu rằng trong tư thế sẵn sàng chấp nhận nhưng trước cuộc diện như thế làm sao không lo được? Chương trình nạp mình để Hội Thánh giao cho chánh quyền bị gãy đổ, bổn phận chưa xong, hành trình sẽ tính sao trong những ngày tới? chẳng thể bỏ dở dang nữa chừng. Làm thế nào để khỏi hoài công Đức Hộ Pháp đã tin tưởng giao nhiệm vụ -cấp thiết hơn khi trời chưa sáng, giải quyết ngay nơi ăn chốn ở thê nào cho ổn, khả dỉ gọi là an toàn…suốt đêm hai ông không ngủ được, ngổn ngan trăm mối tơ vò.
Đồng hồ điểm 4 giờ mà vẫn chưa tìm lối thoát. Ông Tấn định xin tạm trú ở Nữ Đầu Sư Đường, ông Trân thấy bất tiện vì chổ ở toàn nữ phái ở. Sau cùng quyết định vào Hộ Pháp Đường. Anh em yên lặng cử động nhẹ nhàng để khỏi bị phát hiện, ngặt nổi mấy con chó ở Hộ Pháp Đường sủa vang nên các ông càng thêm lo ngại. Ông Quản Gia (không nhớ tên) chạy vội ra lên tiếng hỏi:
-Ai? Ai?
Ông Trân xưng danh xong, ông Quản Gia nói:
-Tưởng ai chớ có Sĩ Tải Ngời mới vô đây.
Các ông mừng thấy an tâm phần nào, hài hước thốt lên:
-Những tư tưởng lớn lại gặp nhau.
Anh em lặng lẻ theo gót ông Quản Gia, mở cửa hậu vào, bước ngay vô phòng ngủ tầng dưới Hộ Pháp Đường, thấy có mặt anh Ngời và nhạc sĩ Đảnh. Một chút sau nhạc sĩ Đãnh rời khỏi nơi đó. Do ý kiến của ông Trân vì Đảnh không đủ tin cậy, Sĩ Tải Tiếp và Sĩ Tải Tỷ đến. Các ông lúc nầy gồm 5 người: Nguyễn Minh Ngời, Lê Quang Tấn, Bùi Văn Tiếp, Nguyễn Ngọc Tỷ và Nguyễn Ngọc Trân thay đổi hẳng nếp sống từ đó. Hằng ngày cơm ăn hai bữa, ông Quản Gia giúp đở mang đến tại chổ, có tủ lạnh tấm douche, vệ sinh cầu máy, có báo cũ Paris-Math để xem, điều đáng buồn cười là nhà luôn luôn đóng kín cửa không người nào dám chường mặt ra. Cùng nhau lẫn trốn mà dám nói là “Tư tưởng lớn gặp nhau”.
Nhớ thương ông Tả Phan Quân Trang Văn Giáo, lúc còn làm việc chung tại Bộ Pháp Chánh, ông đoán mò rằng anh em Sĩ Tải có hoạt động bí mật mà không nói ra, vì thương nên sợ anh em bị nạn, thường khuyên dứt gần xa. Qúa hăng say trong đường lối, anh em chấp nhận mọi nguy hiểm khó khăn, đôi khi nông nổi thốt nhiều lời mích lòng, nhưng ông không giận. Lúc vào nằm ở Hộ Pháp Đường, ông biết được nên lén lút đến thăm, mang theo nảy chuối già, cây nhà lá vườn, biểu anh em dùng lấy thảo. Các ông Sĩ Tải rất cảm động và ghi nhớ mãi tấm chân tình của ông, của ít lòng nhiều là thế.
Ông Giám Đạo Nguyễn Văn Hợi và ông Lễ Sanh Ngọc Lương Thanh cũng vào thăm, trò chuyện khá lâu mới chia tay.
Trong dịp nầy ông Lương cho ông Trân biết là bản thân ông cũng bị bắt ở Nhàn Du Khách Sạn vừa được thả về. Công An hâm bắt ông Trân dữ lắm. Họ nói:
-Nếu bắt được thằng Trân sẽ đánh dần cho nó mềm xương cho nó giỏi đi thưa.
Ông Lương quá lo sợ, xuất tiền nhờ Lê Văn Xã (sau nầy là Hiền Tài Ban Thế Đạo, đắc phong Giáo Hữu luôn) lo lót, khi nào bắt được ông Trân đừng tra khảo, chờ giải quyết sau.
Số là trước đó mấy tháng ông Ngời bị bắt giam ở Nhàn Du Khách Sạn cả tuần lễ. Ông Trân đề nghị với Ngài Hiến Pháp kiện ra Tòa, chiếu Hiến Pháp yêu cầu can thiệp. Ngài Hiến Pháp chấp thuận, ông Giám Đạo Nguyễn Văn Hợi được giao nhiệm vụ cầm thơ đưa ngay tòa án. Mấy hôm sau ông Ngời được trả tự do, công an biết nguyên do cố oán là vì vậy.
Tuy lánh nạn ở Hộ Pháp Đường, các ông Sĩ Tải vẫn tổ chức kín đáo, liên lạc ra vào, công việc vẫn tiến hành trôi chảy, có phúc trình lên Đức Hộ Pháp, phát hành bản Thông Tin Hòa Bình Chung Sống, tóm lại không gián đoạn phận sự.
Các ông Sĩ Tải luôn nắm vững tình hình. Không nhớ rõ ở Hộ Pháp Đường được bao lâu. Bên ngoài ngày càng khó khăn nghiêm trọng, e ở lâu không tiện, phải rời Tòa Thánh càng sớm càng tốt. Ngại nổi có nhiều điểm chỉ viên, mật báo, công an, từ cửa số 2, số 3, số 4 nội ô đến cửa số 7 ngoại ô, phần lớn là con Chức Sắc con em của Đạo muốn cầu thân cầu thế thường đêm tập hợp đờn ca, xướng hát, ăn nhậu với công an. Họ biết mặt anh em Sĩ Tải hầu hết, ló ra có thể bị bắt ngay. Anh em lấy làm khó nghĩ, sau cùng nhớ đến ông Lễ Sanh Ngọc Hạnh Thanh thuộc Ban Vận Động tỉnh Tây Ninh có xe hàng thường lên xuống Sài Gòn, các ông Sĩ Tải cho liên lạc và được thỏa thuận ngày giờ, địa điểm xe đến rước. Hẹn 8 giờ tối rước tại cửa nhà ông Giáo Hữu Ngọc Thiệp Thanh, chợ Từ Bi (nhà ông Phối Sư Nhã ở hiện giờ).
Các ông Sĩ Tải mỗi người cậy liên lạc về gia đình xin tiền bỏ túi, lấy quần áo thêm, chuẩn bị một chuyến đi dài hạn. Lo vì bổn phận đương nhiên phải lo: không biết ông Lễ Sanh Hạnh có giữ đúng hẹn hay không, đi đường có được suông sẻ an toàn hay không?
Anh em cả năm người đến Sài Gòn sẽ ngụ nơi nào? Đủ chuyện lo nghỉ, phập phòng chờ giờ định mệnh điểm.
……………………………………………………………………………….
Trời sẩm tối, Sĩ Tải Tỷ về nhà để từ giả cha và chị, chờ mãi đến giờ khởi hành, Sĩ Tải Tỷ không trở lại, anh em còn 4 người vẫn phải ra đi.
Thương ông Quản Gia rất tận tình, chu đáo lo cho anh em. Ông tình nguyện một mình đi trước, dọ đường trong đêm tối thấy ổn, trở lại hướng dẩn anh em ra khỏi Hộ Pháp Đường, nhảy rào băng qua vườn cao su, nay là Bá Huê Viên đến đường hàng trúc, lần ra đầu lộ dầu tới Từ Bi lối 8:05.
Thấy chưa có xe các ông Sĩ Tải càng lo thêm, không biết ông Lễ Sanh có y hẹn chăng?-tập trung 5 người ngoài lộ trong đêm tối lúc tình hình đang căng thẳng e bị tình nghi và sợ bị lộ, các ông thẳng đến nhà ông Giáo Hữu Thiệp, đi luôn ra phía cửa hậu kêu cửa. Ông Thiệp chưa ngủ vội mở cửa mời vào, tắt đèn nói chuyện trong bóng tối. Chừng đó ông Quản Gia mới từ giả anh em với những lời chúc lành trước khi trở lại Hộ Pháp Đường.
Không nhớ rõ ông Quản Gia là ai, tên gì, mãi đến bây giờ hỏi mãi cũng không ra, thật là một khuyết điểm to lớn không nói được nên lời, cũng không thể hiện được tấc lòng tri ân, thật là điều đáng tiếc và cũng thật là đáng trách!
Chờ khoản ½ giờ, xe tới anh em chia tay vội vàng từ giã ông Giáo Hữu Thiệp rồi nôn nã lên xe.
Anh Hạnh sắp xếp cũng khá chu đáo, xe chở bột mì và võ chai lave, nước ngọt, đựng toàn bao bố, bao chất xung quanh thùng xe, ở giữa chừa chỗ 4 ông ngồi, rồi chồng các bao khác phủ lên, bít lại, thoáng nhìn vào không thể biết được. Xe bắt đầu lăng bánh, chạy theo lộ trình Truông Mít, Bàu Đồn, Trãng Bàng, đến ngã ba Bàu Năng, xe dừng lại trạm kiểm soát. Vẫn biết thông thường muốn được dễ dải nhanh nhẹn đở mất ngày giờ nghề làm xe khéo ngoại giao và biết điều với các trạm kiểm soát, lo lót hối lộ là xong, tuy vậy các ông bên trong có tịch, dấu mình giữa hàng hóa vẫn phập phồng lo sợ, luôn luôn âm thầm cầu nguyện.
Qua trạm suông sẽ, chạy một quảng xa, xe dừng lại để anh em bước ra đặng xếp bao thứ tự lại. Bột dính cùng mặt mũi, áo quần, nơi nào cũng dính ít nhiều, anh em dùng mouchoir phủi, không làm sao hết sạch, khi xuống Sài Gòn xuống xe cũng còn phủi tiếp.
Lúc đó một giờ khuya xe đậu gần ngả bảy Chợ Lớn. Các ông Sĩ Tải ngồi quán cóc bên đường giải lao, mừng được thoát hiểm thật sự, lại thêm chuyện cạnh bên có một thanh niên ngồi cũng uống trà tự xưng là công an được lệnh đổi đi Tây Ninh, chờ sáng đáp xe đi nhận nhiệm sở mới. Các ông Sĩ Tải chấm dứt câu chuyện sớm rồi đến ngụ nhà Sĩ Tải Lê Văn Đôi.
Việc kiếm mướn nhà, ông Ngời không tán thành ở chung đông, rũi có gì là bị bắt chung hết một lượt. Anh chọn nhà một Chức Việc Bàn Trị Sự ở Bình Thới Chợ Lớn. Sĩ Tải Tiếp ở trọ nhà Bác ở đường Gia Long Sài Gòn, còn Sĩ Tải Trân mướn nhà ở xóm lao động chợ Hòa Hưng, đường vào khám Chí Hòa ở chung với ông Sĩ Tải Tấn, tự lo việc nấu nướng, ăn uống tự sắm sửa nồi niêu chén bát.
Việc ăn ở tạm ổn định, không biết làm sao sinh sống, lúc nhỏ đi học vừa ra trường bắt tay làm việc Đạo, chẳng có nghề gì trong tay, ở không ăn xài mãi của kho xài cũng không xuể. Gia đình nghèo có phương nào cung cấp lâu dài được? ông Tấn đồng ý nhờ trường dạy láy xe lo cho bằng lái rồi mướn taxi chạy, có đồng ra đồng vào mới mong lo việc chung lâu dài được. Thay vì đóng tiền cọ có bằng lái rồi mới trả tất, hai anh em đưa đủ số một lần một, sợ để sẵn tiền trong túi xài hết, lúc cần không có để trả gây phiền phức.
Mặt khác anh em cậy người đem phúc trình lên Đức Hộ Pháp. Liên lạc mang về ngoài các chỉ thị có một bức thư Đức Hộ Pháp gởi ho cháu ruột tên Phạm Trung Hiếu, trước kia là Thanh Tra Chánh Trị Đạo ở Thánh Thất Đô Thành Sài Gòn, gởi gấm nhờ giúp đở các ông Sĩ Tải.
Ông Tấn sợ bị sa lưới công an, sợ bị thủ tiêu vì trong bức thư Đức Hộ Pháp gởi Liên Hiệp Quốc, yêu cầu can thiệp vụ chánh quyền Ngô Đình Diệm khủng bố đàn áp Đạo , ông Tấn được nêu tên làm nhân chứng. Ông Giáo Hữu Thái Tây Thanh được lệnh về rước ông Tấn đi Phnom Penh. Còn lại ba anh em, ông Trân ở riêng một mình.
Hai ông Ngời và Tiếp chưa biết ông Phạm Trung Hiếu, ông Trân đã tiếp xúc nhiều lần nhưng khi ông Hiếu dời nhà về Bình Tiên, ông Trân không rõ địa chỉ. Định nhờ ông Giáo Hữu Thượng Liền Thanh, Khâm Châu Đạo Đường Nhơn, Chợ Lớn hướng dẫn, ông Trân cậy người nhờ ông đến nhà Bà Lường Muối, Chánh Trị Sự Đường Nhơn ở đường Vĩnh Viễn để bàn tính. Vì chuyện chung ông Liền rất vui vẻ nhận lời. Lúc đầu ông Trân định đi với ông Liền, bàn qua tính lại một hồi, ông Ngời là Trưởng Ban thay mặt hợp lý hơn. Bà Chánh Trị Sự Lường Muối đãi bánh mì, ca cao sữa.
Điểm tâm xong, ông Giáo Hữu Thượng Liền Thanh và Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời từ giã mang thơ đi. Ông Tiếp và ông Trân chúc lành hai ông rồi nằm nhà chờ. Chờ đến chiều không thấy hai ông trở lại, phần chủ quan không nghĩ xa, ông Tiếp về nhà Bác ông, ông Trân đi dọ tin tức. Không biết phải nhờ ai dọ giùm, vợ ông Liền cũng đang trông mà không biết nhà ông Hiếu. Ông Trân không dám vào văn phòng Thánh Thất, chạy tìm nhà quen, chỗ nầy, chỗ nọ, không ai biết nhà ông Hiếu ở đâu cả, rất lo âu, 7-8 giờ tối mới về đến nhà. Đêm đó ngủ không yên mà dại dột không chịu dời chổ ở để đảm bảo an toàn, 4:30 sáng, ông Trân đạp xe vào Chợ Lớn, lẩn quẩn mấy chỗ tìm hỏi hôm trước, coi có tin mới không. Đi mua báo xem có bị tai nạn giao thông không? Bụng lại mong hai ông bị tai nạn giao thông đã đưa vào bệnh viện, anh em gặp lại nhau mừng rỡ, hàn huyên vui vẻ phĩ tình. Nhưng cũng nghĩ nếu hai ông đã bị bắt, khổ cho hai ông biết chừng nào.
Chẳng có tin gì hơn, ông Trân nghi quyết hai ông đã bị bắt, chạy vội về nhà toan dọn đồ tẩu thoát. Lúc đó mới ân hận, trách mình quá nông cạn, dại dột chủ quan, không nghĩ xa, hành động quá muộn màng!!!
Đường vào nhà là con hẻm độc Đạo, lúc mới dọn đến, ông Trân dọ biết hết các ngách nhỏ có lối đi trong xóm từ các phía vào, từ sau chợ Hòa Hưng dẫn tới nhà. Ông Trân không đi đường chánh mà vòng lên phía chợ Hòa Hưng trở lùi lại, không vội vào nhà, đứng xa khoản năm bảy chục mét nép nhìn sang thấy cửa nhà còn đóng, ống khóa lũng lẳng trước cửa, ông Trân có phần an tâm dẫn xe vào đinh ninh là chưa muộn. Vừa đến cổng rào, cháu Nguyệt cựu Giáo Nhi ở Tòa Thánh, có chồng về ở khích vách nhà ông Trân mướn, nhìn thấy ông Trân vội kêu lên:
-Cậu Bảy đi đâu mới về? - Cậu Năm Ngời bị bắt dẫn về xét nhà cậu vừa mới ra.
Ông Trân chẳng còn nghe gì nữa và cũng chẳng muốn nghe thêm, đã đoán biết tất cả rồi!! tính toán quá muộn!! trễ mất rồi!!!
Lòng não nuột vô cùng, nhanh nhẹn hấp tấp trở xe đạp về phía chợ Hòa Hưng, chạy thật nhanh đúng là để tẩu thoát, chậm chạp có thể sa cơ. Đạp xe tới Ngả Tư Bảy Hiền, theo đường Nguyễn Văn Thoại, tới trường đua Phú Thọ, trở ra Ngả Bảy, đến nhà người anh cô cậu, nói mấy câu bất tường rồi quầy quả đi tiếp.
Ông Trân đáp xe về Rạch Kiến, xin ở tạm nhà người cậu ruột thứ 5 ở xã Long Hòa. Buồn cười là trên đường đi cả lúc ngồi trên xe Rạch Kiến, ông Trân thấy người nào cũng có vẽ là công an, nghĩ người nào cũng theo dõi mình, hành khách sao lại có cái nhìn hình như tò mò, tọc mạch, tưởng chừng như ai cũng biết mình là kẻ đang chạy trốn. Cố trấn tỉnh, giữ vẻ tự nhiên nhưng lòng vẫn lo sợ, sanh lắm hoài nghi. Cũng đáng thương hại!!
Ông Trân ở nhà ông Cậu, không việc làm, tuổi tác lại cách biệt quá xa. Cậu cháu không trao đổi tâm tình nhiều, lòng lại thắt thẻo lo âu, nghĩ rằng ai cũng biết việc của mình nên ông Trân thường lánh mặt, nằm võng trong buồng, vớ vẫn nghĩ suy và ưu tư phiền muộn. Ông Trân thầm nghĩ, kể cũng định số, lẽ ra phận hẫm hiu phải là của mình, giờ chót xoay qua anh Ngời gánh chịu. Anh Liền vô can tự nhiên bị vạ lây…Nếu mình về sớm một chút độ nữa giờ thôi, hay là nếu đi hẽm chánh như thường lệ về nhà, biết đâu giờ nầy đã nằm khám rồi và thân thể sẽ bị tra tấn ra sao, làm sao biết được?
Ông Ngời và ông Liền ra sao? Càng nghĩ càng thương ông Ngời nhiều. Ông Trân không phiền trách tí nào mà rất cảm ơn ông. Nếu ông có ý không tốt hoặc tinh thần yếu đuối, vừa bị tra tấn hỏi cung, ông dẫn công an về nhà ông Trân làm sao thoát khỏi? ông ráng chịu đựng suốt ngày, thêm một đêm, đến khi sức cùng lực tận, không chịu nổi mới dẫn lính xét nhà. Ông Ngời hy sinh quá nhiều. Tội nghiệp!!!. Hai anh ra sao? Ông Trân nghĩ lại lánh mặt về đồng có phần hợp lý.
Tránh đi là hiệu sách nhất thời nhưng ở lâu nhà ông cậu sao được? ông coi cũng có vẽ lo sợ nhưng vì thương, ép lòng cho ông Trân ở. Ông Trân nghĩ bằng mọi giá phải đi Phnom Penh. Vượt biên một mình mặc dầu cũng biết hướng, nhưng chưa đi lần nào ông Trân cũng thấy khó. Muôn bề thắc mắc, trăm mối tơ vò! Ông Trân quyết định chờ ít hôm tinh thần ổn định về Sài Gòn sẽ tính sau.
Tuần lễ sắp trôi qua, ông Trân đạp xe đi Long Khê, quận Gò Đen Chợ Lớn thăm người chị ruột, mục đích mượn vài ngàn đồng, chuẩn bị đi Phnom Penth, bằng mọi cách phải đi. Ngày hôm sau về tới Sài Gòn, ông Trân lo mấy việc: thứ nhất tìm hỏi tình trạng của hai ông Liên và Ngời. Được nghe kể lại từ lúc rời khỏi Đền Thánh ông Ngời chưa có tin về gia đình, vợ ông ở nhà lo lắng tìm thăm để biết sức khỏe và sự ăn ở ra sao? Vừa đến Thánh Thất máy đá Chợ Lớn. đúng lúc xe công an chở ông Ngời Tới. Sau những ngày bị tra tấn, tướng diện thay đổi, vợ ông không nhìn ra chồng. Ông Ngời kêu vợ bị công an nạt rầy. Bà nhìn lại nhận diện ra chồng. Bà khóc quá. Phần ông Liền không có tin mới. Trường hợp bị bắt xảy ra như sau: Khi đem thơ đến nhà ông Phạm Trung Hiếu, hai ông được mời vào phòng khách như bình thường. Lúc vào đề và trao thơ, ông Hiếu hỏi:
-Có ai cùng đi với hai anh em không? Nếu có nên mời hết vô. Đừng ngại.
Thấy ông Hiếu có vẻ niềm nở, hai anh em cám ơn, thật tình đáp chỉ có hai người thôi, không còn ai khác nữa.
Ông Hiếu hỏi gặn lại:
-Thật không?
Được xác nhận là thật, ông hiếu bèn gọi con đóng cửa rào và bảo kêu lính bắt.
Ông Liền thấy cơ nguy lo cho việc chung bị đổ vỡ liền nói:
-Đây là bức thư của Đức Hộ Pháp, chú ruột của Ngài, chính Đức Hộ Pháp tự tay viết, nếu Ngài tin thì tin, còn không tin xin xé hủy, cho anh em chúng tôi về.
Ông Hiếu cương quyết:
-Đâu được, đã đến đây rồi, muốn ra phải có công an hay cảnh sát dẫn ra mới được chớ.
Hai ông Liền và Ngời bị bắt trong trường hợp như vậy.
Lúc lưu vong ở Nam Vang, ông Trân được biết thêm là ông Giáo Hữu Thượng Liền Thanh bị giam và bị chết trong tù. Đức Thượng Sanh cầm quyền Đạo tại Tòa Thánh gián cấp xuống Lễ Sanh. Đức Hộ Pháp dùng quyền Chí Tôn tại thế, thủ tiêu Thánh Lệnh của Đức Thượng Sanh để giữ nguyên phẩm Giáo Hữu của ông Liền.
Việc thứ hai là báo tin cho Đức Hộ Pháp rõ, thơ không gởi ngay chùa, sợ bị kiểm duyệt, gởi theo địa chỉ Etablissemeut Frey, hãng buôn chổ anh Lê Sơn Trân làm, nhờ ông Khỏe chuyển lên Đức Hộ Pháp. Lời văn viết khéo, khách bàng quan xem qua không thể đoán được. Chỉ người trong cuộc mới hiểu thôi.
Việc thứ ba là tin về nhà xin gởi bộ quần áo cũ, còn bỏ lại lúc ra đi, để có thay đổi.
Việc thứ tư là đến trường dạy láy xe, cầu may xin rút tiền lại chút ít, nếu được đở khổ hơn. Kế hoạch hành nghề lái taxi không thể thự hiện, bởi còn ở Sài Gòn lâu không có đủ thời gian thi lấy bằng lái. Mon men tới trường, từ phía trong ông chủ trường nhìn thấy, bước ra tận cửa hỏi:
-Mấy hôm nay ông đi đâu? Không thấy đến. Ông có làm gì không mà cảnh sát tới đây tìm ông.
Ông Trân quay xe rút lui nhanh, không nghĩ đến việc trả lời. Ông hiểu rằng lúc xét nhà, công an lấy được biên nhận của trường ghi tên lúc đóng tiền nên tìm bắt.
Thế là hai anh em chịu mất chung 5.000 đồng, số bạc cũng khá to theo thời giá. Riêng ông Trân bị mất tất cả mền mùng, giầy dép, nồi nêu chén bát, vật dụng trong nhà vì không dám trở lại lấy, sợ có người thấy mặt tri hô kêu lính bắt.
Thời gian chờ tin Nam Vang trả lời, buồn bực lo âu…ông Trân đi coi cốt Trạng ở đường Dương Tấn Bửu, gần chợ Trương Minh Giảng. Nghe đồn cốt Trạng nói đúng lắm. Ông tìm đến đã thấy có đông người chờ đợi, tiền tổ đặt trên bàn. Một người độ 50 tuổi ngồi trên ghế phía sau bàn. Khi Trạng nhập cốt, bóc tiền quẻ của ai nấy nhận, cốt Trạng sẽ nói, giải đáp những điều muốn hỏi. Nếu thấy chưa đủ cần hỏi thêm, cốt Trạng sẽ trả lời tiếp. Ông Trân cũng đặt tiền như mọi người. Trong lúc chờ tới phiên ông nghe thiên hạ khen nức nở Trạng nói đúng những điều bí mật muốn dấu, như chuyện buôn lậu, lấy trộm của công, làm công an mà không được cấp súng, quẻ ở tù …khiến đương sự yêu cầu đừng tiết lộ, sợ bị hại, có mặt đông người đủ mọi thành phần, không tin ai được. Ông Trân hy vọng được trả lời chính xác việc cần hỏi. Ráng tin để chờ.
Khi cầm tới tiền của ông Trân cốt Trạng hỏi và nói luôn:
-Tiền nầy của ai? Quẻ nầy ứng điềm đi xa. Tại sao tính đi xa vậy? sao không ở đây mà xin đi làm chi? Đi được chớ có sao đâu.
Ông Trân nói:
-Cậu Trạng là người khuất mặt, hẳn đủ sáng suốt, đã biết rồi còn hỏi làm chi. Tôi muốn biết dự tính của tôi có thành hay không? Và sớm muộn thế nào? Xin cho biết bấy nhiêu thôi.
Cốt Trạng trả lời:
-Thành chớ sao không thành. Thơ của cậu Nam đã tới nơi rồi, đã tính cho người đi rước cậu Nam. Về lo chuẩn bị đặng đi. Không đầy một tuần lễ nữa sẽ có tin.
Ông Trân hỏi:
-Người đi tìm rước làm sao có thể gặp được? nhà ở trước đã dời đi rồi, làm sao biết chổ ở mới mà tìm?
Cốt Trạng quả quyết:
-Trạng nói vậy cứ yên chí chờ. Nếu đúng tuần lễ không có tin thì đến đây đạp bỏ bàn thờ Trạng.
Nghi nghi hoặc hoặc, làm sao trọn tin được? Biết rằng nếu cho người đến đón, ông Giáo Hữu Thái Tây Thanh sẽ được chọn, bởi ông có đi nhiều lần, rành đường đi nước bước. Mà đã đổi địa chỉ làm sao biết? ông Trân rầu lo vô cùng.
Mấy hôm sau Bà xã của ông đến thăm mang theo quần áo cũ như ông đã dặn, có bồng Tuyết Mai, đứa con gái duy nhất, tuổi sắp được 3 tháng.
Sau 4,5 ngày chờ đợi, hy vọng lời cốt Trạng ứng hiện. Độ 2 giờ trưa, ông Trân đang nằm trên gác nhà ông Sĩ Tải Đôi, mái lợp tole, oi ả nóng bức, không ngủ được, thình lình ông Sĩ Tải Tiếp đến kêu:
-Trân, toa chuẩn bị đồ đi Nam Vang.
Ông Trân cười trả lời:
-Chơi hoài bạn. Giờ nầy đi đâu đó?
Ông Sĩ Tải Tiếp nói:
-Hôm nay tự nhiên không ngủ được, Mỏa mặc đồ ra khỏi nhà gần 1 giờ trưa. Thấy nắng quá không biết phải đi đâu mà cũng không muốn trở vào nhà, lẩn thẩn đi không định hướng. Mỏa vụt có ý nghĩ vô bến xe Pétrus Ký chơi. Vừa đến bến thấy xe Châu Đốc xuống, Mỏa chạy ra coi có ai quen ở xứ đến không, bất ngờ thấy ông Ba Tây. Ông kêu hỏi Toa hiện giờ ở đâu, nhắn dùm bảo Toa ngày mốt đi Nam Vang, Đức Hộ Pháp sai về rước, ông Tây đi luôn về Tòa Thánh có việc, mốt trở lại hẹn gặp nhau tại bến xe lúc 7 giờ tối.
Chừng đó ông Trân mới tin lời ông Tiếp là sự thật, mới thấy lời Trạng là nói đúng. Ông Trân còn tin mảnh liệt hơn là “Nhứt ẩm, nhứt trát gia do tiền định”. Tất cả, tất cả đều định trước không sai.
Thế là ông Trân được qua Nam Vang một cách an toàn để diện kiến Đức Hộ Pháp.
V. ĐIỀM CHIÊM BAO LẠ
Đoạn nầy trích trong quyển “Sơ Lược Tiểu Sử Hữu Phan Quân Lê Văn Thoại”.
Ngày mồng 1-10 Bính Dần (1986), lối 5 giờ sáng ông chiêm bao thấy ông và ông Thoại đến nhà Đức Thượng Sanh dự lễ Thượng Tượng. Nhà rất mới giống villa có lầu. Ông Thoại thì mặc đồ Chí Thiện, ông mặc đồ tiểu phục. Ông nghe Đức Thượng Sanh khảy đàn Piano trên lầu, bản nhạc rất hay.
Sáng mùng 2 cúng Mẹo, ông thuật lại điềm chiêm bao.
Ông Thoại bàn là điềm tốt: Đức Thượng Sanh là Chủ của Nhơn Sanh đang đờn, là hòa. Có lẽ đời sẽ hòa với Đạo. Còn Thượng Tượng là nhơn sanh sẽ tôn sùng Đức Chí Tôn trong cảnh Đời Đạo tương đắc. Lại lúc 5 giờ sáng là giờ bình minh sẽ đến. Đó là điềm tốt. Còn ông Thoại mặc đồ Chí Thiện cũng không chi lạ, vì Chức Sắc họ chưa xứng đáng với phẩm vị Thiêng Liêng ban cho. Như Ngài Khai Pháp được Đức Hộ Pháp phong phẩm Tân Dân của Phước Thiện, Ngài mừng húm. Nay ông Thoại được mặc đồ Chí Thiện trọn lành thì là điềm rất tốt. Có lẻ, từ tháng 10 Bính Dần thời điểm Khai Đạo của Đức Chí Tôn được tái diễn sau 61 năm đáo tuế. Đó là điềm lành lố dạng báo tin ngày xán lạn sẽ huy hoàng.
Đến ngày 2-11 Bính Dần (1986), ông Sĩ Tải Tiếp đã qui vị sau khi bị tai biến trong vòng khoảng 10 ngày, tức là sau khi ông nằm mộng thấy Đức Thượng Sanh được khoảng 2 tuần.
CHƯƠNG III
PHẦN THI THƠ CỦA SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
Bút hiệu Quang Minh
Sau đây là những bài thơ được trích ra từ quyển “Quang Minh Thi Tập” do ông sáng tác. Thơ thì ông sáng tác rất nhiều chúng tôi chỉ chọn lọc một số bài tiêu biểu và tránh trùng lập những bài đã có trong những bài viết khác, chẳng hạn: Hai Mươi Năm Xuất Sải, Pháp Chánh Bí Sử…
Lời tựa trong quyền “Quang Minh Thi Tập” là một bài thơ tứ tuyệt như sau:
Sự nghiệp tôi nay đếm được gì?
Đoàn con cả chục ít vần thi.
Tuy nghèo thanh thản thong dong trí,
Lặp Đức, Công , Ngôn, gắng kịp thì.
Quang Minh
QUÊ TÔI
Tôi ở Trà Dư xóm bún ngon,
Thú vui thuở bé hẳn nay còn?
Sãi trâu khấp khểnh qua đồng lúa,
Đào dế lom khom gốc mạ non.
Đốt cỏ, lượm rùa săn chuột cống,
Trèo cây hái trái bắt chim non.
Trống trường ấp vịnh đâu văng vẵng,
Tình luyến quê hương hối thúc dồn.
TRÀ DƯ QUÊ CŨ
Quê tôi ở tận Trà Dư,
Thuộc làng Thường Lạc lúa dư đầy đồng.
Bắp khoai, mè đậu luôn trồng,
Cá xơi ngán miệng, tôm trông quá nhiều.
Trai thanh gái lịch dập dìu,
Quần hồng áo tía mỗi chiều thướt tha.
Thiên thời địa lợi nhơn hòa,
Người người vui sống, ngày ngày ấm no.
Đùng một độ chiến tranh bủa khắp,
Ruộng vườn hoang nhà sập cửa tan.
Lửa binh ngất ngất đẫy tràn,
Cõng con, cõng vợ dân làng tản cư.
Mến thay ấp vịnh Trà Dư,
Còn đâu thứ bún ngon như râu rồng?
Còn đâu tiếng sáo mục đồng?
Giọng hò dân cấy ngân trong đêm trường.
Còn đâu tiếng trống học đường,
Tiếng còi đò dọc thường thường ngân nga.
Nhớ quê đề bút gọi là:
Tình tôi lưu luyến xứ Trà Dư luôn.
MỪNG PHỤC CHỨC SĨ TẢI
Nhắm hướng rừng thung quyết trở chơn,
Hai mươi năm lẻ chí chưa sờn.
Cửa quyền công chánh tô nguồn ái,
Khuôn luật thương yêu xóa cội hờn.
Chán ngán tuồng đời bày giả cảnh,
Mến nhìn phép Đạo dựng nên nhơn.
Hạc về quê cũ tung tăng múa,
Hiệp phố mừng châu đã phục hườn.
1-5-1976
HỌC GÌ?
Trò Tiên ngồi học với Thầy ma,
Nghe lý điêu ngoa của mị tà.
Giáo lãnh thân Tây kiêm Nhựt, Mỹ,
Môn đồ bám ngụy lẫn Miên-Hoa.
Cưởng thâu cơ sở nuôi hồn nước,
Quản lý công sưu dựng nghiệp nhà.
Động Bích, Côn Lôn đôi nẻo rõ,
Dầu qua đại võng, vướng Thiên La.
20-11-1978
GIÁM KHẢO TRƯỜNG THI
Giám khảo vô thần hượt thí sinh,
Trò thi Thầy lạ mới công bình.
Vàng mười lửa thử không phai sắc,
Tâm chính mà trêu mới rõ tình.
Đề khó đáp hay cao hạng đậu,
Đức dầy khảo nặng đáng công thành.
Gắn gìn thiết giáp cho lành lẻ,
Đến buổi về Thầy mới hiển vinh.
1978
TRƯA NGỒI VƯỜN MÍT
Bên tai cu gáy cảnh trời trưa,
Vườn mít ngồi chơi hứng gió lùa.
Khoái khẩu lưỡi lừa khoanh khế ngọt,
Thỏa lòng miệng ngốn miếng xoài chua.
Tòn ten nụ mít mong say quả,
Lủng lẳng bông cao ước được mùa.
Hàng trúc xanh um oằn dợn sóng,
Nhắc nơi ẩn dật Bảy Hiền xưa.
1979
BẾ THIỀN MÔN
Hắc khí Kim Quang phủ ngút trời,
Khiến trang thức giả phải cười khơi.
Cả trăm Chức Sắc đi ngồi khám,
Vài chục ngôi nhà bị tịch thâu.
Ấn tín nộp giao nào hết Đạo?
Tước quyền giải thể tởm cho đời.
Võ vì mà đánh bằng chơn tướng,
Mở khóa trật chìa, vặn mãi thôi.
12-6-1980
KIẾN ĂN CÁ, CÁ ĂN KIẾN
Kiến rơi xuống nước, cá xơi liền,
Cá nhảy lên bờ, kiến xúm khiên.
Được được thua thua đâu dể luận,
Chẳng qua thất thế phải nằm yên.
26-2-1973
NHÌN ẢNH CŨ
Từ tuổi hai mươi tôi giống anh,
Giống như khuôn đúc, đẹp như tranh.
Môi cười chúm chím vui nguồn sống,
Má phệ, vai u, tóc mướt xanh.
Lần lựa tôi anh khác dáng nhau,
Răng thưa má lỏm mắt sâu sâu.
Da dùng tóc điểm lâm râm trắng,
Cơn gió lùa qua cũng muốn nhào.
Nhưng đó là so việc hữu hình,
Chứ bàn dị biệt của tâm linh.
Thuở nào bạch diện thư sinh ngáo,
Nay đã trầm ngâm kẻ hữu tình.
Biết chống cường quyền, dẹp bất công,
Biết noi khí phách giống Tiên Rồng.
Biết đem trí tuệ làm gươm báo,
Biết hướng đi lên cảnh đại đồng.
Biết trãi tình thương yêu vạn chủng,
Biết tầm yếu lý máy Huyền Khung.
Biết dâng hồn xác Thiêng Liêng định,
Biết phép siêu sanh chốn đảo bồng.
19-3-1981
TỔ ẤM
Lụi đụi mà ta đã bốn con,
Ba trai một gái thảy vuông tròn.
Chí Thành, Chí Bửu nay đi học,
Hòa ngọng, Hải Đường hát véo von.
Đỏ đẻ đứa kheo tài học tập,
Cà kê kẻ mét trận roi đòn.
Dễ chi ai được mà ta được,
Mụ nớ còn son trớn hãy còn.
Hãy còn hai gái một cu tèo,
Bảy đứa mà lo cũng đủ nghèo.
Ánh Nguyệt, Chi Lan lưng tấm thớt,
Chí Tòng nhỏ thó tựa dưa đèo.
Mừng vài đứa lớn ham lo học,
Vui đám lòng tong đỡ nhóc nheo.
Nằm xuống một bầy vây đấm bóp,
Tình ta khuây khỏa lúc còn eo.
Eo tiền, eo bạc chẳng eo con,
Thêm út Phi Long má phỉnh tròn.
Ba chị bao quanh rình nựng nhẹ,
Bốn anh lẩn quẩn lén hôn ngon.
Cười duyên con bé pha trò lửng,
Đánh giấm thằng cu tạo cảnh ồn.
Phật Mẫu cho nhiều xin nhỏ phước,
Trai nên xuất chúng gái siêu quần.
Quần xoa đã bốn chữa vừa sao,
Thêm đóa Thủy Tiên nhị ngọt ngào.
Trên có Phi Long hằng rưới nước,
Dưới nhờ Xuân Thảo dậm tươi màu.
Đêm Chi Lan ướp bưng mùi xạ,
Sáng Hải Đường xoa ửng má đào.
Hòa khí tiết xuân năm sắc trổ,
Thành vườn Thượng Uyển Bửu chi hoa.
Hoa khai Nhâm Tý đặng trai xinh,
Gặp lúc nhà an đặng Chí Bình.
Đầu hói mắt rơm như dũng sĩ,
Đích đôi chân tượng tướng nhà binh.
Hào con đã đủ cầu đừng nữa,
Hào của còn eo thỉnh triệu nghìn.
Con đủ của đầy tu đúng lúc,
Thỏa lòng sở nguyện bấy lâu xin.
Sinh út Ngọc Diêu đặng mạnh lành,
Lớn lên ngoan Đạo học thành danh.
Cõi Trời thông suốt đường lui tới,
Thế giới châu du rõ ngọn ngành.
Văn ước tuyệt luân dường Thị Điểm,
Võ cầu xuất chúng tợ Lê Chân.
Đạo noi hạnh đức Lâm Hương Huyện,
Danh đáng lưu truyền với sử xanh.
Sanh út Thanh Loan nhỏ thó người,
Mặt dài tráng rộng miệng cười tươi.
Ngón tay đậm đuột dường thư thái,
Bàn cẳng điểm son, dáng thảnh thơi.
Bảy gái về già thôi nhậu lết,
Bốn trai dưỡng lão khỏe trên đời.
Đứa chi chút đỉnh xài sao hết,
Con cháu vầy đông ấy phước Trời.
20-11-1977
*GHI CHÚ: Những chữ được bôi đen là các tên của các thành viên trong gia đình.
KHÓC THẦY
Trãi mấy năm qua vắng bóng Thầy,
Lệ lòng tuôn chảy, hiếm khi khuây.
Ba thu Miên Quốc lưu vong khổ,
Năm hạ trời Phi thảm ải đày.
Thầy liễu: câu kinh không được tụng.
Thầy qui: Tang chế chẳng cho may.
Oán chi cái Đấng siêu nhân ấy?
Nở khảo tâm linh lẫn thể hài.
18-5-1967
NHỚ THẦY (Vía Đức Hộ Pháp)
Hai mốt năm qua vắng bóng Thầy,
Môn sanh ba triệu một lòng ngay.
“Hòa Bình” buổi Diệm nêu cao mặt,
“Bản Án” thời Minh chống thẳng tay.
Thế lực càng đè càng quật khởi,
Đạo tâm lấn ép lắm hận thay.
Đức tin vững chắc đường non thái,
Lấp bể dời sông cũng có ngày.
10-4-Canh Thân
1980
NHỚ NGHIỆP XƯA
Ai vào Pháp Chánh thấy lưa thưa,
Cũng nhớ đến hồi cực thạnh xưa.
Chưởng Quản Phao lồ (1) cân đúng mực,
Đoàn em Sĩ Tải trổ tài vừa,
Cửu Trùng tấp nập khai công nghiệp.
Phước Thiện thường xuyên hiến chuối dừa,
Được trát Tòa mời ai cũng khiếp,
Mực giăng, Đức Hộ thẳng đường cưa.
15-6-1967
(1)Phao lồ là Ngài Khai Pháp
CẢNH TRAI ĐƯỜNG TÒA THÁNH
Đở dạ là nhờ ở chốn mô?
Đi thẳng Trai Đường bớ Cậu, Cô.
Mắm đậu, đọt lang, cơi nhóc đĩa,
Canh mì, rau má múc đầy tô.
Ngọt bùi chẳng quản cao lương vị,
Cay đắng nài chi hạ tiện đồ.
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hiển,
Xá chi cá mắm, thịt tôm khô.
1948
TẢ HAI CHẬU TỬ TRƯỚC
Nhìn hai chậu trúc, gẫm đời mình,
Hữu chí vô thời phải ẩn danh.
Thiếu nước khiến cây trơ sắc bạc,
Không phân nên lá kém màu xanh.
Qua mùa nắng hạ trài trài gốc,
Đến tiết mưa thu mịch mịch cành.
Người cổ còn ghi “Quân tử trước”,
Bảy Hiền ẩn chốn lánh công khanh.
23-4-1979
VỊNH ÔNG LẢNH
Một mình Ông Lãnh biết bao Bà?
Bà Rá, Bà Đen ở chốn xa.
Bà Chiểu hằng thờ ông Tổng Duyệt,
Bà Bầu chửa mãi chẳng khai hoa.
Bà Tàng sanh đặng năm ba gái,
Thị Vải, Thị Đàm …vẫn một cha.
Ba Cụm, Bảy Sào là cháu ngoại,
Đích tôn đếm vạn, vợ ôi là…
1963
TẢ CÁI GỐI
Mềm mại, tròn vo, trắng mập lù,
Ai chê ghét tớ vốn ngân đù (ngu đần).
Dưới lưng ấp ủ vài thơ mật,
Trong áo tùy thân một lá phù.
Trướng gấm tâm tu đâu dể liệu,
Màn loan sầu mộng khó toan trù.
Ước ngày hoa chúc chung chăn gối,
Mặc sức vầy vui thú võng dù.
KHÓC CHA
Cha về Tiên Cảnh đã an phần,
Để trẻ bơ vơ giữa bến trần.
Quyến thuộc tiếc thương tuôn suối lệ,
Thôn lân mến đức kể công ân.
Hương-Quan Thần nhận trang liêm khiết,
Phổ-Tế Thánh nhìn kẻ đoạt ngôn.
Cõi thọ cầu thăng cao phẩm vị,
Đường tu con nguyện nối theo chơn.
18-2-1970
KHÓC MẸ
Mẹ về con ở luống đau lòng,
Tuổi bảy mươi lăm khổ chập chồng.
Nhục thể đành vùi nơi lữ đại,
Chơn linh mong thoát chốn non bồng.
Đoàn con bảy đứa nuôi nên vóc,
Công khó nghìn cân chửa trả xong.
Cõi thọ cậy cha an ủi mẹ,
Cúc côi phận trẻ lệ tuôn giòng.
1975
NHỚ THẦY
Trọn phận làm Sư đã dạy người,
Thầy tô vẽ Đạo đậm màu tươi.
Xa thơ chưa cán lằn vôi đến,
Bát Nhã đà qua Bỉ Ngạn rồi.
Cõi thọ Thầy hằng vui cảnh trí,
Đường trần Đệ Tử mãi chơi vơi.
Lời vàng tiếng ngọc còn văng vẳng,
Lập Đức, Công, Ngôn, giúp Đạo đời.
15-4-1972
MỪNG LÀNH BỊNH
Những tưởng nương mây tách bụi hồng,
Nào hay thuyền khẩm, thoát cơn giông.
Mừng ơn cúc dục còn ơn trả,
Vui nghiệp huyền không vịnh bước lần.
Đức bạc nguyền dân phò Đại Đạo,
Tài hèn thệ hiến trợ non sông.
Non sông còn khổ ta còn phận,
Có tiết đông thiên, rõ chí tòng.
1957
TẢ TỔ ĐÌNH
Bạch Ngọc Kinh đâu hiện chốn nầy?
Hay nơi Tiên, Phật hội rồng mây?
Cửu Trùng sen nở trăm muôn búp,
Bát Quái rồng đoan biết mấy bầy.
Vòi vọi Lầu Chuông trên chữ Vạn,
Thênh thang Chánh Điện giữa hàng Ngai.
Rằm ngươn đông nghẹt mười phương đến,
Chiêm bái cha chung thảy gọi Thầy.
1950
ÔNG LÁI ĐÒ
Ráng lết gân xanh đẫy lộn phèo,
Nghỉ tay trổi giọng hát trong reo.
Côn Lôn sơn đảnh thưa người đến,
Động Bích môn quan hiếm kẻ trèo.
Mặt nước trăng vàng xao xuyến liệng,
Nền trời ngọc trắng lửng lơ treo.
Gọi đò đêm vắng, ai tri kỷ?
Tháo rốc ruột tầm, phỉ chí reo.
30-3-1977
SA NẶC VẤN SĨ ĐẠT TA
Dám khuyên Sĩ Đạt hãy gò cương,
Hơn thiệt thân phân khá hãng tường.
Ngôi cả bao đành từ lợi lộc,
Hầu xinh sao nở đoạn tơ vương.
Vào rừng kiếm Đạo mong gì gặp,
Lên núi tìm chơn dễ thấu đường?
Chi bẳng về cung an dưỡng phước,
Cha con, chồng vợ ngập tình thương.
Sa Nặc khuyên ta nhiễm tánh phàm,
Giá me thúc dục trống Lôi Âm.
Lẻ đời trường thọ không trăm tuổi,
Lý Đạo hằng sanh quá ức năm.
Danh lợi phù du ai nở luyến,
Vinh hoa bào ảnh lẻ nào ham?
Chơn như đắc vị ta nguyền cứu,
Những kẻ cư trần hữu phật tâm.
16-11-1975
HỌA BÀI VÀO THU
Văng vẳng xa đưa vút tiếng đàn,
Ngô đồng lãy lá báo thu sang.
Xòe tay, sen hứng làn sương bạc,
Xõa tóc, liễu phơi ngọn gió vàng.
Nhịp phách gõ câu “Đồng vấn nguyệt”,
Giọng hò gợi bản “Phượng cầu hoàng”.
Trăng trong, sao tỏ, trời xanh thẵm,
Lai láng hồn thơ trải dậm ngàn.
03-11-1978
TRI ÂN
Chung đậu thâm tình giúp đỡ nhau.
Cảm thông khổ cảnh dạ quên nào.
Một đồng cơn đói hơn vàng bạc,
Ít chục lòng nhân hóa ngọc châu.
Hạc bị trói chân đành phận thấp,
Diều toan vỗ cánh lượn tầng cao.
Chín trùng lồng lộng nguyền bay thấu,
Muôn một đáp đền nghĩa cố giao.
28-6-1979
Thọ ơn chẳng lẻ cứ làm thinh,
Cảm tạ đôi câu đáp thậm tình.
Bước thế đở chơn cơn vị ngộ,
Đường tu dẫn lối buổi nhàn vinh.
Nhiễu điều phủ giá gương thêm đẹp,
Em ngã anh nâng nghĩa vẫn xinh.
Ân Thánh cầu ban trang bố đức,
Kẻ bồi âm chất, kẻ hy sinh.
17-12-197
CHƯƠNG IV
THÁNH GIÁO, CÔNG VĂN
LIÊN QUAN ĐẾN SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
I.THÁNH GIÁO TIẾT LỘ CĂN KIẾP CỦA CÁC VỊ SĨ TẢI
Phò Loan 22-1 Tân Mão (1951)
Thừa Sử Hợi Giám Đạo Nguyễn Huợt Hải
Luật Sự Nhung
Xin chào quí bạn.
Tôi có được một tin quan trọng cho quí bạn, nhưng hôm 18 rồi nói ra bất tiện nên lại để đêm nay.
Nơi Ngọc Hư Cung đã quyết định lập đủ oai quyền cho quí bạn hầu nắm giữ chơn truyền trong cơn biến chuyển sắp đến mà chính tôi phải chịu phần đảm đương.
Có một điều rất hay là từ đây chư vị Thời Quân đã hiểu ra chân giá trị của Chức Sắc tiểu cấp Hiệp Thiên Đài là dường bao. Điều ấy chính tôi đã giúp cho quí bạn.
Nói về địa phương, từ đây chẳng còn sợ điều khó dễ như trước nữa. Quí bạn sẽ thưởng thức được nhiều điều hay trong hành trình sấp tới. Sau thời gian Đức Hộ Pháp nhập Trí Huệ Cung, quí bạn sẽ được hưởng trọn Thiên ân.
…………………
Cher Trường, toi về dưới nhà moi thì nói moi đã được nhẹ nhàng thân thể. Biểu ma femme vui chứ. Chứ khóc chẳng ích chi. Việc nhà thì cứ tính theo như trước, rất cám ơn đó.
Quí bạn thưa với Ngài Khai Đạo rằng sự thật quả y như vậy, vì cùng chung máu mủ lúc trước. Ngài Khai Đạo là anh cả, đến ông Phối Sư Khí, đến tôi, đến ông Lợi, còn cô Nhâm là em út. Tiền kiếp đã tạo nên Phật Vị, song vì ông Lợi và bà Nhâm còn bị mắc thệ cùng nhau nên kiếp này tái sanh làm vợ chồng.
-Trân bạch: Phải người Việt không?
-Không, kiếp trước của chúng tôi là người Ấn Độ……
Đó là do sự thay đổi hình xác, thọ bẩm khí Hậu Thiên của cha mẹ hữu hình nên Phật tánh đã bị lu mờ đi, chỉ có linh tâm đôi khi còn nhớ chút ít thôi.
Quí bạn cũng đều có nguyên căn rực rỡ, nhưng chẳng dám lộ Thiên Cơ.
Bạn Hưởng, Khỏe, Du chúng ta là học trò của Đức Nhàn Âm. Tôi xin nói cho quí bạn được rõ, ở trong mỗi cung, mỗi động đều có đủ các đẳng Chơn Linh đến học hỏi, chỉ trừ chư Tiên Trưởng là nhất định mà thôi.
-Thừa Sử Hợi bạch…..
-Học trò Nhàn Âm Động là :Hưởng, Khỏe, Du, Thêm tức Chương.
Bạch Vân Động: Thừa Sử Hợi, Trân, Nhung, Vân, Khen, Trường, Đôi.
Hiệp Thiên Đài Hóa: Tô, Hợi (Luật Sự), Đúng, Cẫm. Còn Tiếp ở Lôi Âm Tự, Tỷ là đồng tử Bạch Vân.
Ở Phổ Hiền Cung: Giãm, Nguyên, Nên, Tú, Tất, Ngời.
Bạn Phước nhờ bạn vui nhắc Ngời với nghe.
Khoe là nhơn viên của Cửu Nương.
Các Cung các Động là nơi thâu học trò. Mỗi lần họ tái kiếp để lập công, nhưng tùy phận sự mà chia ra.
Thừa Sử Phước bạch: Do nơi Tiên Trưởng chia ?
-Chư vị Tiên Trưởng chia ra tùy theo sự lập vị của mỗi chơn linh.
Xin kiếu.
Phò Loan
Nhung, Nguyên Tái Cầu
Lúc nãy Ngài Khai Đạo trông tin trả lời mà mấy toi không nói dùm luôn đây, moi nói cho hết chuyện, vì lúc nãy Nhung mệt nên yếu thần, mất điển. Còn sót Thơ và Cao là chơn linh ở Huyền Không Động, Phước ở Bạch Vân Động.
Mấy toi thấy toàn là những chơn linh theo lãnh trọng trách, vì cớ nên ở vào Đài Hiệp Thiên đây làm bộ máy giữ gìn chơn truyền của Đức Chí Tôn, đặng cho nhơn sanh được trọn đường đi trên bước Đạo. Nhiệm vụ ấy coi nên trọng thể. Vì thế nếu tròn phận sự là đắc vị liền, còn đi sái ngã là bị trọng tội. Ở nơi cảnh vô hình, những gương phản chiếu hành vi của tụi mình rõ hơn hết. Nếu biết rằng trong mỗi thời cúng, cổ pháp mà chúng mình đeo trên nê huờn cung nó tố giác hay xưng công của mình. Vậy nên mỗi hành động đều ghi liền tại Bát Quái Đài, xin mấy toi rằng làm cho rỡ danh mới khỏi thẹn.
Còn việc Ngài Khai Đạo hỏi thì tên của ông Khí và của moi ổng đã biết. Tên của ông Lợi là Brahma Hitch nhơn vào lúc năm 752, đệ tử của dòng Brahma Darwa. Trong kiến họ tại đây không còn ai nữa. Nhung định thần chút nữa để họa thi.
Cảnh tục tay chia luống nhớ rầu,
Tình huynh nghĩa đệ mấy trăng thâu.
Đêm khuya nhìn ngọn hoa đăng cạn,
Trống nhặt nhớ hình nhạn bút sâu.
Một thuở tương rau nên hiệp mặt,
Đôi khi muối tuyết đã chung đầu.
Hữu vô hai ngã đành ly biệt,
Đệ trở Thiên Cung bởi lịnh chầu.
Nam Dương.
II. THƯ XIN GIẢM ÁN CHO 6 VỊ SĨ TẢI BỊ HỘI THÁNH PHẠT
Kính Bẩm Hội Thánh HIỆP THIÊN ĐÀI
(Nhờ sự chuyển đạt của Ngài Hiến Pháp,
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh)
Tòa Thánh Tây Ninh
Thưa Hội Thánh,
Chúng tôi ký tên dưới đây là là những Chức Sắc tiểu cấp của Hiệp Thiên Đài, hoặc vì thời cuộc, hoặc vì gia cảnh, không thể tiếp tục hành Đạo được, nhưng luôn luôn hướng về Tổ Đình để theo dõi sự tiếng triển nền chánh giáo của Đức Chí Tôn.
Xin kính trình Hội Thánh việc sau đây:
Nguyên hơn một năm qua, chúng tôi thấy trên báo chương có đăng Sắc Lịnh số 23/SL đề ngày 11-3-1965 thâu quyền chức và trục xuất ra khỏi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ sáu vị Sĩ Tải kể tên sau đây vì lý do tổ chức đàn cơ có tánh cách cầm quyền Hội Thánh và truyền bá bất hợp pháp:
1. Phạm Duy Nhung
2. Nguyễn Minh Ngời
3. Nguyễn Văn Tú
4. Đỗ Hoàng Giãm
5. Huỳnh Văn Hưởng
6. Nguyễn Thành Nguyên
Về pháp lý chúng tôi không thể binh vực cái gọi là Thiên Lịnh của Sĩ Tải Phạm Duy Nhung được. Vì Chí Tôn khi khai Đạo đã có qui định rành mạch nơi Pháp Chánh Truyền rằng: Ngài chọn Giáo Tông và Hộ Pháp là hai vị Thiên Mạng thay mặt Ngài nơi mặt thế nầy để dìu dắt nhơn sanh trên đường Đạo và đường đời. Dưới quyền Hộ Pháp có Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân. Dưới quyền Giáo Tông có Chưởng Pháp, Đầu Sư, Phối Sư. v.v…
Chẳng lẻ nay lại có một vị Thiên Mạng Phạm Duy Nhung ở phẩm Sĩ Tải lại buộc vài vị Thời Quân bên Hiệp Thiên Đài và Đầu Sư, Phối Sư bên Cửu Trùng Đài phải tùng Thiên phẩm ấy.
Đó là một điều hết sức phi pháp và giả dối của Kim Quang Sứ để dắt dẫn anh em trên đường lầm lạc.
Hội Thánh đã ra lịnh trục xuất theo tinh thần Thánh Lịnh số 21/TL ngày 22-2-Tân Mão (29-3-1951) là đúng lẽ, không còn kiêu ca gì hết.
Đó là nói trên phương diện pháp lý.
Nhưng chúng tôi nhận thấy, trong hơn một năm rồi, những bạn lầm lẫn ấy đã phải thống khổ tâm hồn khi nghĩ đến tương lai của kiếp sanh mình.
Có lẻ Quí Ngài hiểu rõ hơn chúng tôi về mặt vô vi rằng: Không có hình phạt nào nặng hơn án Trục Xuất, vì linh hồn khi về Thiêng Liêng không được nhìn nhận; bao nhiêu công nghiệp đã lập trong kiếp sanh là phải trôi theo dòng nước.
Xét cho kỹ, nếu Đức Hộ Pháp không xuất ngoại, nếu thời cuộc không đảo lộn thì những bạn nói trên là nhũng kẻ xứng đáng nối chí đàn anh mà bảo vệ luật pháp của nền Đại Đạo sau nầy. Nhắc lại thời gian qua, từ Ngài Đức Hộ Pháp ở đảo Phi Châu về cố quốc, những bạn ấy đã kịp bước theo sự trưởng thành của nền Đại Đạo mà lập công bồi đức.
Sĩ Tải Hưởng đã được Ngài Khai Pháp cho là vị Chức Sắc gương mẫu về hạnh đức nên chọn một bức ảnh của Hưởng mặc Đại Phục in nơi quyển Histoire du Cadaisme.
Sĩ Tải Ngời đã tỏ ra ngoan Đạo và chơn tài nên Ngài Khai Pháp không thuyên bổ đi tỉnh mà giữ lại Tòa Thánh để làm Bí Thư cho Ngài. Ngài hằng khen Ngời giữa buổi tiệc có đông đảo Chức Sắc: “Ngời est un très bon rédacteur”.
Nhung, Tú, Giãm tuy không xuất sắc lắm, nhưng cũng làm tròn bổ phận khi được thuyên chuyển hành Đạo khắp các tỉnh Miền Nam, Miền Trung hoặc lãnh trách nhiện tại Trung Ương Bộ Pháp Chánh.
Hơn nữa, hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Hộ Pháp từ Kim Biên gởi về, sáu bạn ấy đã có nhiều công cán cho việc vận động cho nền hòa bình xứ sở. Họ đã bị đày ải nhiều phen, chịu bao điều gian khổ, nhưng được may mắn hơn những vị khác là còn mạnh giỏi về gặp lại gia đình, khỏi phải bị bỏ thân nơi ngục lạnh như Thừa Sử Phan Hữu Phước, Sĩ Tải Trần Tấn Hợi, Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương, Giáo Hữu Ngọc Liềng Thanh…
Chúng tôi không dám đòi hỏi nhiều ở Qúi Ngài, chúng tôi chỉ gợi mối từ tâm sẵn có của Đàn Anh đối với đàn em dại, vì một phút lỗi lầm mà phải phạm luật Đạo.
Chúng tôi chỉ yêu cầu Qúi Ngài giảm án cho sáu bạn của chúng tôi để họ còn giữ phận một tín đồ của nền Đại Đạo.
Còn vấn đề phục chức hay thăng cấp là tùy ở sự giác ngộ của các bạn ấy sau nầy, chúng tôi không dám bàn tới.
Bao nhiêu ý kiến, cúi xin Hội Thánh mở lượng bao dung, chúng tôi lấy làm đa tạ.
Nay kính bạch.
Sài Gòn ngày 5 tháng 5 Bính Ngọ
(23 Juin 1966)
Sĩ Tải: Bùi Văn Tiếp
Nguyễn Văn Cẩm
Lê Văn Khen
Lê Văn Thêm
Võ Nhàn Du
Nguyễn Hữu Khỏe
Đinh Côn Ảnh
Lê Thị Khoe
Lê Văn Tất
Lê Văn Đôi
(Đồng ký tên)
III. CÔNG VĂN CỦA HIẾN PHÁP TRƯƠNG HỮU ĐỨC
GỞI SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP.
HIỆP THIÊN ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
VĂN PHÒNG (Ngũ thập tam niên)
BỘ PHÁP CHÁNH Tòa Thánh –Tây Ninh
…………………. ………………………………………….
Số 23-PC/LT
Ngày 4 tháng 5 năm Mậu Thân
(30-5-1968)
HIẾN PHÁP CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Gởi Hiền Hữu Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp.
Hiền Hữu,
Tôi xin có lời nhắc lại, thời gian trôi qua khá dài, vì thời cuộc biến thiên, vì cơ Đạo bị ảnh hưởng với ách nước nạn dân, mà nhiều vị Chức Sắc phải tùy cơ day trở, thành thử đến giờ nầy cũng chưa trở lại tiếp tục sứ mạng Thiêng Liêng giao phó.
Để hợp thức hóa tình trạng từng vị Chức Sắc theo Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài đã qui định, tôi xin mời chư Hiền Hữu tái lãnh nhiệm vụ hành Đạo.
Xin quí Hiền Hữu lưu ý rằng, Chức Sắc Hiệp Thiên Đài có bổn phận nắm giữ Luật Pháp Chơn Truyền cho nền chánh giáo, nên nghĩa vụ càng yếu trọng, thì vai tuồng cần phải tiêu biểu cho sự hướng dẫn các cơ quan liên đới điều hành phục vụ cho đại nghiệp Đạo.
Tôi rất trông nơi tấm lòng sốt sắng và tinh thần kỷ luật của quí Hiền Hữu.
Nay kính
Hiến Pháp
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(Ấn Ký)
IV. THƠ HỒI ĐÁP CỦA SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
Sài Gòn ngày 15 tháng 5 năm Mậu Thân
(10 Juin 1968)
…………………………………………………
Kính gởi Ngài Hiến Pháp,
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh Tòa Thánh Tây Ninh.
Thưa Đại Huynh,
Tiếp được văn thơ số 23.PC/LT đề ngày mùng 4 tháng 5 Mậu Thân (30-5-1968), tôi Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp, lấy làm cảm kích đến sự nhắc nhở của Đàn Anh về sự lập công bồi đức với nền Đại Đạo.
Nhưng vì hoàn cảnh gia đình không người đảm đang, lại thêm một bầy con dại phải nuôi dưỡng, nên tôi không thể phế đời trong lúc nầy được. Để hợp thức hóa tình trạng, tôi rất buồn mà đệ đơn nầy xin gởi chức lại cho Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
Tôi hằng ước mong và cầu nguyện cho ngày trở lại được càng sớm càng tốt, để khỏi phí bỏ một quảng đời mà tôi thấy đầy lạnh nhạt và tư lự.
Mong Ngài nhận nơi đây tấm lòng tôn kính của tôi.
Nay Kính
Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp
V. SẮC LỊNH CHẤP NHẬN ĐƠN TỪ CHỨC CỦA SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
HIỆP THIÊN ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
VĂN PHÒNG (Tứ thập tứ niên)
BỘ PHÁP CHÁNH Tòa Thánh –Tây Ninh
………………. ………………………………………….
Số 08-SL/BPC
HIẾN PHÁP HIỆP THIÊN ĐÀI
CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền;
Chiếu Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài ngày ….tháng 2 năm NhâmThân (21-3-1932).
Chiếu Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài, ngày mùng 8 tháng 1 năm Nâm Thìn (20-1-1964) và Hiến Pháp bổ túc ngày 27 tháng 2 năm Ất Tỵ (29-3-1965).
Chiếu Đạo Lịnh số 2/ĐL ngày mùng 3 tháng 2 năm Giáp Thìn (16-3-1964) giao nhiệm vụ Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh cho vị Thời Quân Hiến Pháp.
Chiếu đơn xin từ chức của Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp đề ngày 15 tháng 5 năm Mậu Thân (10-6-1968) vì lý do gia cảnh; nên:
SẮC LỊNH
ĐIỀU THỨ NHỨT.-Chấp thuận cho vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp sanh năm 1925 tại Làng Thường Lạc Tỉnh An Giang được từ chức Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài, kể từ ngày ký tên Sắc Lịnh nầy.
ĐIỀU THỨ NHÌ.-Khi nào việc gia đình thu xếp xong nếu đương sự muốn tiếp tục hành Đạo lập công bồi đức, được quyền xin phục chức; nhưng phải có Pháp Chánh minh tra.
ĐIỀU THỨ BA.-Sắc Lịnh nầy được ban hành cho các cơ quan Chánh Trị Đạo.
ĐIỀU THỨ TƯ.-Vị Cải Trạng, Trưởng Văn Phòng Bộ Pháp Chánh lãnh thi hành và ban hành Sắc Lịnh nầy.
Tòa Thánh ngày 27 tháng 10 năm Mậu Thân
(dl 16-12-1968)
HIẾN PHÁP
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(Ấn Ký)
PHÊ KIẾN:
THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
(Ấn Ký)
VI. THƯ MỜI CỦA NGÀI HỒ BẢO ĐẠO
HIỆP THIÊN ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
VĂN PHÒNG (Ngũ thập nhứt niên)
BẢO ĐẠO Tòa Thánh –Tây Ninh
………………. ………………………………………….
Số 16-Bần Đạo.TT.
BẢO ĐAO HIỆP THIÊN ĐÀI
Kính gởi Hiền Hữu Sĩ Tải BÙI VĂN TIẾP,
Kính Hiền Hữu,
Được lịnh trên cho biết chư Chức Sắc Hiệp Thiên Đài đã từng khổ công hoạt động cho đường lối; nay đặng lịnh Đức Hộ Pháp cho về hầu lịnh, nên tôi xin tin cho Hiền Hữu rõ biết để kịp thời về đãi lịnh Đức Ngài vào chiều ngày 29 tháng 3 Bính Thìn (dl. 28-4-1976).
Hiệp Thiên Đài, ngày 4-3-Bính Thìn
(dl. 13-4-1976)
Bảo Đạo
HỒ TẤN KHOA
(Ấn Ký)
VII. THÁNH LỊNH PHỤC CHỨC SĨ TÀI BÙI VĂN TIẾP
VĂN PHÒNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
CHƯỞNG QUẢN (Ngũ thập nhứt niên)
HIỆP THIÊN ĐÀI Tòa Thánh –Tây Ninh
………………… ………………………………………….
Số 08/CQHTĐTL
Q.CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Chiếu Tân Luật Pháp Chánh Truyền;
Chiếu Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 2 năm Nhâm Thân (21-3-1932);
Chiếu Hiến Pháp Chức Sắc Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 11 năm Bính Ngọ (26-12-1966);
Chiếu Thánh Giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng một tháng 3 năm Bính Thìn (31-3-1976), Đức Hộ Pháp chấp nhận vị Thời Quân Bảo Đạo cầm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài;
Chiếu đơn xin phục chức Sĩ Tải của vị Bùi Văn Tiếp, đề ngày 15 tháng 2 năm Bính Thìn (15-3-1976), có sự minh tra và đề nghị của Pháp Chánh được Hội Thánh Hiệp Thiên Đài chấp thuận trong phiên họp ngày 20 tháng 3 năm Bính Thìn (19-4-1976); nên:
THÁNH LỊNH
ĐIỀU THỨ NHỨT.-Phục chức Sĩ Tải cho vị Bùi Văn Tiếp sanh năm 1925 tại Tường Lạc (Châu Đốc) kể từ ngày ký tên Thánh Lệnh nầy.
ĐIỀU THỨ NHÌ.-Vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp tùng lịnh Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh và thi hành phận sự.
ĐIỀU THỨ BA.-Vị Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh cùng các cơ quan chánh trị Đạo tùy nhiệm vụ lãnh thi hành và ban hành Thánh Lịnh nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 22 tháng 3 Bính Thìn
(dl 21-04-1976)
Bảo Đạo HỒ TẤN KHOA
(Ấn Ký)
VIII. TỜ TẠM BỔ SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP HÀNH SỰ TẠI VĂN PHÒNG BỘ PHÁP CHÁNH.
HIỆP THIÊN ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
VĂN PHÒNG (Ngũ thập nhứt niên)
BỘ PHÁP CHÁNH Tòa Thánh –Tây Ninh
…………………… ………………………………………….
Số 15-SL/BPC
TỜ TẠM BỔ
Vì nhu cầu cho đến khi có lịnh mới;
TẠM BỔ
Vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp, sanh năm 1925 tại xã Thường Lạc, Quận Hồng Ngự, Tỉnh Châu Đốc, hành sự tại Văn Phòng Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Đặc Trách:
-Văn Thơ, Diễn Văn, Điếu Văn …v.v…
-Bộ Chơn Dung của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài.
-Hồ Sơ tư của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài.
Tòa Thánh ngày 28 tháng 03 Bính Thìn
(dl 27-04-1976)
X.L.T.V Bộ Pháp Chánh
Cải Trạng Hiệp Thiên Đài
NGUYỄN MINH NHỰT
(Ấn Ký)
IX. SẮC LỊNH BỔ NHIỆM SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP LÃNH TRÁCH NHIỆM
“TRƯỞNG PHÒNG NHÂN VIÊN BỘ PHÁP CHÁNH”.
HIỆP THIÊN ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
VĂN PHÒNG (Ngũ thập nhứt niên)
BỘ PHÁP CHÁNH Tòa Thánh –Tây Ninh
………………… ………………………………………….
Số: 17-BPC/SL
CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Chiếu Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 2 năm Nhâm Thân (29-3-1932);
Chiếu Hiến Pháp chức sắc Hiệp Thiên Đài ngày 16 tháng 11 năm Bính Ngọ (27-12-1966);
Chiếu Thánh Lịnh số 07/Q.CQ.HTĐ/TL ngày 17 tháng 3 năm Bính Thìn (20-4-1976) và vi bằng phiên họp Hội Thánh Hiệp Thiên Đài ngày 17 tháng năm năm Bính Thìn (14-6-1976) giao cho Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt Xử Lý Thường Vụ và trọn quyền thay mặt Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh;
Chiếu tờ tạm bổ số 15-SL/BPC ngày 28 tháng 3 năm Bính Thìn (27-4-1976) bổ nhiệm vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp tại Bộ Pháp Chánh ;
Nghĩ vì hồ sơ tư của Chức Sắc cần điều chỉnh theo thủ tục; nên:
SẮC LỊNH
ĐIỀU THỨ NHỨT.-Bổ nhiệm để điều chỉnh hồ sơ vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp sanh năm 1925 tại Thường Lạc, Quận Hồng Ngự, Tỉnh Châu Đốc lãnh trách nhiệm Trưởng Phòng Nhân Viên Bộ Pháp Chánh.
ĐIỀU THỨ NHÌ.-Vị Sĩ Tải trên đây tùng lịnh Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh mà thi hành bổn phận.
ĐIỀU THỨ BA.-Quản Văn Phòng Bộ Pháp Chánh lãnh thi hành và ban hành Sắc Lịnh nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 19 tháng 5 năm Bính Thìn
(16-6-1976)
T.M Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh
Xử Lý Thường Vụ
Cải Trạng
NGUYỄN MINH NHỰT
(Ấn Ký)
X. SẮC LỊNH BỔ NHIỆM SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
PHỤ TRÁCH NƠI VĂN PHÒNG QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI.
VĂN PHÒNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
BỘ PHÁP CHÁNH (Ngũ thập nhứt niên)
Số:23/BPC/SL Tòa Thánh –Tây Ninh
………………………………………….
CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Chiếu Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài, ngày rằm tháng 2 năm Bính Thân (dl 29-3-1932).
Chiếu Hiến Pháp Chức Sắc Hiệp Thiên Đài ngày 16 tháng 11 năm Bính Ngọ (dl 27-12-1966).
Chiếu Thánh Lịnh số:7/Q.CQ/HTĐ/Thiêng Liêng ngày 17 tháng 3 năm Bính Thìn (dl 20-4-1976), và vi bằng phiên họp Hội Thánh Hiệp Thiên Đài ngày 17 tháng 5 Bính Thìn (14-6-1976) giao cho Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt Quản Lý Thường Vụ được quyền thay mặt Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh.
Chiếu Thánh Lịnh số: 08/CQ-HTĐ/TL ngày 22 tháng 3 Bính Thìn (dl 21-4-1976) của Đại Huynh Q.Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài phục chức Sĩ Tải cho vị Bùi Văn Tiếp.
Chiếu nhu cầu nên:
SẮC LỊNH
ĐIỀU THỨ NHỨT:-Bổ nhiệm vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp sanh năm 1925 tại Thường Lạc Quận Hồng Ngự, Tỉnh Châu Đốc phụ trách nơi văn phòng Qu. Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
ĐIỀU THỨ NHÌ:-Vị Sĩ Tải trên đây tùng lịnh thượng cấp mà thi hành nhiệm vụ .
ĐIỀU THỨ BA:-Các văn kiện liên hệ đến việc tạm bổ vị Sĩ Tải tại Bộ Pháp Chánh đều hết hiệu lực kể từ ngày nay.
ĐIỀU THỨ TƯ:-Quản Văn Phòng Bộ Pháp Chánh lãnh thi hành và ban hành sắc lịnh nầy cho toàn các cơ quan chánh trị Đạo.
Tòa Thánh ngày 4 tháng 4 năm Bính Thìn
(30-6-1976)
Xử Lý Thường Vụ Bộ Pháp Chánh
Cải Trạng
NGUYỄN MINH NHỰT
(Ấn Ký)
PHÊ CHUẨN
Qu.Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
BẢO ĐẠO HỒ TẤN KHOA
(Ấn Ký)
XI. THÁNH LỊNH THUYÊN BỔ SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP LÃNH NHIỆM VỤ
“ĐẶC TRÁCH TƯ VẤN PHƯỚC THIỆN”
VĂN PHÒNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
CHƯỞNG QUẢN (Ngũ thập nhứt niên)
HIỆP THIÊN ĐÀI Tòa Thánh –Tây Ninh
………………… ………………………………………….
Số 16/CQ.HTĐ-TL
Q.CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Chiếu Tân Luật Pháp Chánh Truyền;
Chiếu Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 2 năm Mậu Thân (21-3-1932);
Chiếu Hiến Pháp Chức Sắc Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 11 năm Bính Ngọ (26-12-1966);
Chiếu Thánh Giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 1 tháng 3 Bính Thìn (31-3-1976), Đức Hộ Pháp chấp nhận vị Thời Quân Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài ;
Chiếu Thánh Lịnh số 13/TL.CQHTĐ ngày 4-6-Bính Thìn (30-6-1976) về việc không còn tồn tại nhiệm vụ Thống Quản Hội Thánh Phước Thiện;
Nghĩ vì có sự yêu cầu của nhị vị Phó Chưởng Quản Phước Thiện xin có một Chức Sắc Hiệp Thiên Đài Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện để giúp hay cho cơ quan nầy trong buổi hiện thời;
Nghĩ vì cơ quan Phước Thiện cần được chấn hưng theo luật định để tiến triển, nên:
THÁNH LỊNH
ĐIỀU THỨ NHỨT.-Thuyên bổ vị Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài Bùi Văn Tiếp sanh năm 1925 tại Thường Lạc (Châu Đốc) lãnh nhiệm vụ “ ĐẶC TRÁCH TƯ VẤN PHƯỚC THIỆN” kể từ ngày ký tên Thánh Lịnh nầy.
ĐIỀU THỨ NHÌ.-Vị Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện trên đây phải tùng lịnh của vị Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài mà hành sự.
ĐIỀU THỨ BA.-Vị Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài Bùi Văn Tiếp nhị vị Phó Chưởng Quản Phước Thiện và nhị vị Chưởng Quản Nữ Phái Phước Thiện tùy nhiện vụ lãnh ban hành và ban Thánh Lịnh nầy.
Tòa Thánh ngày 26 tháng 6 Bính Thìn
(dl 22-7-1976)
BẢO ĐẠO HỒ TẤN KHOA
(Ấn Ký)
XII. TỜ PHÚC TRÌNH CỦA VĂN PHÒNG HỘI THÁNH PHƯỚC THIỆN VẤN NGÀI HỒ BẢO ĐẠO
VỀ CHỨC VỤ “ĐẶC TRÁCH TƯ VẤN PHƯỚC THIỆN” CỦA SĨ TẢI TIẾP.
HỘI THÁNH PHƯỚC THIỆN ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Văn Phòng (Ngũ thập nhứt niên)
Phó Chưởng Quản Phước Thiện Tòa Thánh –Tây Ninh
………………………………… ………………………………………….
Số 3113/PCQ/PT
PHÚC TRÌNH
Kính dâng lên Ngài Bảo Đạo, Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài .
Chánh ý: Thỉnh giáo về chức vụ Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện.
Kính Đại Huynh,
Để thi hành và ban hành Thánh Lịnh số 16/TL ngày 26 tháng 6 Bính Thìn (dl 22-7-1976) của Đại Huynh thuyên bổ vị Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài Bùi Văn Tiếp lãnh nhiệm vụ: “ĐẶC TRÁCH TƯ VẤN PHƯỚC THIỆN”.
Trân trọng xin thỉnh giáo Đại Huynh các khoản sau đây am tường hầu thực hành cho thật chính xác:
1.Nhiệm vụ Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện khi hành sự giúp cho Phước Thiện những việc chi theo hệ thống nào?
2.Có liên hệ vầ mặt hành chánh Phước Thiện không?
3.Có thẩm quyền dự hội Thượng và Hạ bán niên hoặc hội thường lệ của Hội Thánh với tư cách nào? Khi phát biểu hoặc đề nghị.
4.Văn phòng Đặc Trách Tư Vấn đặt tại Hội Thánh Phước Thiện hay nơi nào để tiện sắp xếp?
5.Về nghi lễ tiếp rước ông Đặc Trách Tư Vấn, Hội Thánh Phước Thiện phải áp dụng nghi tiết như thế nào cho hợp lệ?
Kính Đại Huynh,
Hội Thánh Phước Thiện phải triệt để thi hành Thánh Lịnh thượng quyền để tôn nghiêm uy quyền Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
Tuy nhiên không tránh được sự dư luận cho rằng chức Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài nên hành sự nơi Hiệp Thiên Đài để lo bảo vệ luật pháp chơn truyền nền Đại Đạo.
Cầu xin Đại Huynh từ bi chỉ giáo cho Hội Thánh Phước Thiện chúng tôi biết rõ các khoản để thi hành cho chu đáo.
Thành kính ghi ơn.
Kính dâng.
Tòa Thánh ngày 8 tháng 7 năm Bính Thìn
(dl 3-8-1976)
Đệ Nhứt Phó Chưởng Quản
CHƠN NHƠN
TRẦN MINH VIÊN
(Ấn Ký)
Đệ Nhị Phó Chưởng Quản
CHƠN NHƠN
TRẦN VĂN LỢI
(Ấn Ký)
XIII. CÔNG VĂN TRẢ LỜI CỦA NGÀI BẢO ĐẠO HỒ TẤN KHOA VỀ TỜ PHÚC TRÌNH.
VĂN PHÒNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
CHƯỞNG QUẢN (Ngũ thập nhứt niên)
HIỆP THIÊN ĐÀI Tòa Thánh –Tây Ninh
……………………. ………………………………………….
Số 97/CQ.HTĐ-TL
Q.CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Kính gởi nhị vị Hiền Hữu Đệ I và Đệ II,
Phó Chưởng Quản Phước Thiện Nam Phái.
Trích yếu: v/v nhiệm vụ Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện.
Kính nhị vị Hiền Hữu,
Do theo phúc trình số 3113/PCQ/PT/ ngày 6 tháng 7 Bính Thìn (3-8-1976), tôi xin giải thích thêm về các khoản theo thứ tự như sau:
1.-Đã gọi là Tư Vấn Phước Thiện thì vị Chức Sắc được Đặc Trách lãnh nhiệm vụ trên có phận sự tìm mọi ý kiến hay khéo, mọi sáng kiến xây dựng và thiết thực của mình để giúp vào việc tiến triển của cơ quan nầy. Trong nhiệm vụ điều hành cơ quan, Hội Thánh Phước Thiện khi cần có sự góp ý thì vị Tư Vấn phải tận dụng mọi sáng kiến xây dựng để đóng góp vào.
-Vị nầy hành sự trực tiếp với Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, nhưng liên quan mật thiết với Chưởng Quản (Phước Thiện) và Cửu Viện Phước Thiện Nam Nữ.
2.-Đã là Tư Vấn thì không có quyền trực tiếp can thiệp vào việc hành chánh nội bộ của Hội Thánh Phước Thiện.
3.-Trong các cuộc hội nói chung, Hội Thánh Phước Thiện thấy cần có sự đóng góp ý kiến để giúp hay cho cuộc hội thảo, thì nên cho mời vị Đặc Trách Tư Vấn cùng dự, và vị nầy cần phải đến để cùng nhau hội ý thảo luận để cuối cùng đem lại kết quả tốt đẹp cho phiên họp.
4.-Để có sự gần gủi, liên lạc mau chóng và chặc chẻ trong lúc hành sự, Văn phòng Đặc Trách Tư Vấn nên đặt bên cạnh Hội Thánh Phước Thiện và Hội Thánh sẽ trọn quyền tùy phương tiện mà sắp đặt.
5.-Trong tình liên giao và để dể cảm thông trong buổi đầu gặp gở và sự thân mật cần thiết, Hội Thánh Phước Thiện tùy nghi trong đơn giản, để sắp đặt hầu tránh sự ngỡ ngàng cho nhau là đủ và nếu cần giới thiệu cho các cơ quan hay bộ phận trực thuộc Hội Thánh Phước Thiện để hiểu biết và thông cảm nhau.
-Nhận thấy trong giai đoạn mới nầy, cơ quan Phước Thiện cần duyệt lại hướng đi cho đúng theo đường hướng của Đức Hộ Pháp đã qui định buổi đầu trong Đạo Luật năm Mậu Dần (1938) vì muốn có thêm những ý kiến góp phần vào việc xây dựng cơ nghiệp cao quí trên, nên tôi đã chiết ra và cử một Chức Sắc Hiệp Thiên Đài có am hiểu về luật pháp Đạo và có ý chí xây dựng, đến góp phần với ý chí nhiệm vụ tư vấn.
Vã lại Chức Sắc Hiệp Thiên Đài hiện hữu có nhiệm vụ hành sự trong các cơ quan thuộc ba chi Pháp, Đạo, Thế của Hiệp Thiên Đài do trọn Quyền của Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài cắt đặt chớ chẳng phải đơn thuần làm việc nơi Bộ Pháp Chánh của Chi Pháp mà thôi như thường tình lầm hiểu, cũng như tôi vừa mới bổ một Chức Sắc Hiệp Thiên Đài qua làm việc Chi Thế ở Ban Thế Đạo. Cơ quan Phước Thiện thuộc Chi Đạo và việc thuyên bổ Chức Sắc Hiệp Thiên Đài dù ở cấp bực nào, hành sự nơi ấy là việc thường sự không có điều chi để thắc mắc.
Nhị vị Hiền Hữu lưu tâm và giải thích cho Chức Sắc trong Hội Thánh Phước Thiện rõ biết và tôi ước mong sao trong tình thế khó khăng hiện nay mà cơ Đạo phải chuyển mình qua giai đoạn mới, chúng ta tất cả từ lớn chí nhỏ phải cố gắn đặt sự tồn vong của đại nghiệp Đạo lên trên mọi tự ái cá nhân cùng nhau chung tâm hiệp sức để bảo tồn đại nghiệp.
Đó là sự mong muốn thiết tha của Đức Hộ Pháp và nếu chúng ta làm đặng như trên mới thật sự là môn đệ trung thành của Đức Ngài và ngày kia khi chúng ta trở về cõi Thiêng Liêng khỏi ân hận và hổ thẹn gặp lại Đức Ngài.
Tôi tin tưởng nơi quyết tâm thiện chí của cấp lãnh Đạo cũng như toàn thể tín hữu hiến thân cho Phước Thiện để vượt qua khúc quanh lịch sử của Đạo tiến đến mức vinh quang rực rỡ hơn, nêu cao ngọn cờ cứu khổ trong đời sống lan rộng và tập thể sinh hoạt.
Nay kính
Tòa Thánh ngày 11 tháng 7 Bính Thìn (dl. 6-8-1976)
BẢO ĐẠO HỒ TẤN KHOA
(Ấn Ký)
XIV. DIỄN VĂN NHẬN CHỨC ĐẶC TRÁCH TƯ VẤN PHƯỚC THIỆN
CỦA SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
Ngày…….Tháng……Năm 1976
Bạch Hội Thánh,
Kính thưa Đại Huynh Bảo Đạo,
Kính thưa Đại Huynh Ngọc Đầu Sư,
Kính thưa chư Chức Sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện Nam Nữ.
Hôm nay tôi đắc lịnh Hội Thánh Hiệp Thiên Đài thuyên bổ qua Phước Thiện với phận sự Đặc Trách Tư Vấn. Thật là vinh hạnh và cũng là một gánh nặng trong bước đường hành Đạo của tôi.
Từ thuở Đức Hộ Pháp còn sanh tiền cho đến nay, cũng đã bao lần cơ quan Phước Thiện đặt dưới sự dẩn dắt của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài với phẩm vị Thời Quân như: Ngài Trần Khai Pháp, Ngài Tiếp Pháp, Ngài Khai Đạo và sau rốt Ngài Hiến Đạo. Nay phẩm Thời Quân đã khuyết chỉ còn Đại Huynh Bảo Đạo thống lãnh 3 chi Pháp, Đạo, Thế. Vậy thế nào có người ở cương vị ấy đặng lèo láy cơ quan Phước Thiện.
Chiếu Thánh Lịnh số 16/CQ.HTĐ.TL/ Đề ngày 22-7-1976 trách vụ của tôi chỉ làm nhịp cầu nối liền giữa Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện.
Đã mang nhiệm vụ nơi mình, tôi nguyện trước Hội Thánh sẽ đem hết tâm chí và năng lực ra cộng tác với quí Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Sở Phước Thiện làm tròn trọng trách của Hiệp Thiên Đài giao phó.
Tôi xin mạng phép nhắc qua cách lập vị mà Đức Hộ Pháp hằng dạy chúng ta trong ba con đường của Đại Đạo.
-Con đường thứ nhứt là lập vị nơi Cửu Trùng Đài.
-Con đường thứ hai là lập vị nơi Phước Thiện.
-Con đường thứ ba là lập vị nơi cửa Tu Chơn.
Vậy trong ba cửa ấy, nếu chúng ta thi hành trọn vẹn phận sự của mình thì phẩm vị Thiêng Liêng chắc chắn sẽ đoạt đặng, cao hoặc thấp tùy công quả nhiều hay ít.
Có một điều tôi muốn nói lên để tránh những thắc mắc nếu có là Đại Huynh Bảo Đạo bổ một phẩm nhỏ của Hiệp Thiên Đài lãnh một trọng trách bên Phước Thiện. Tôi xin trích một đoạn nơi Pháp Chánh Truyền nói về Hiệp Thiên Đài để nói về điều nầy:
“Thầy không quyết định trách nhiệm của mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, bởi cớ mà gây nên lắm điều trắc trở trong phẩm trật của Thiên phong, nghĩa là để tự nhiên cho cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài lập vị mình cho xứng đáng cùng phẩm định”.
Hiện mang phẩm nhỏ với đức bạc tài sơ, tôi thiết tha mong sự ủng hộ trực tiếp hoặc gián tiếp của quí Chức Sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, và nhứt là Phước Thiện giúp đở tôi trong nhiệm vụ mới hầu tô điểm Phước Thiện sao cho đúng nghĩa là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, bảo bộc những kẻ tật nguyền cô độc, dốt nát ít oi, hoặc giúp tay cho bên hành chánh thi hành luật pháp cho đặng dể dàng trọn vẹn. Đó là chúng ta đã thành tâm góp công trong việc duy trì Đạo nghiệp do Đức Hộ Pháp đã dày công tạo dựng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn.
Chúng ta cố gắn làm sao cho miệng thế không còn điều nào có thể trích điểm chúng ta đặng. Chúng ta hãy tận dụng mọi khả năng để:
Người dùng hết trí,
Vật dùng hết sức,
Đất không bỏ hoang.
Khi điều kiện vật chất đã đủ trong nội bộ, cái thặng dư ta sẽ giúp đở các cơ quan trong cửa Đạo, rồi lầ đến hàng gắn các đổ vỡ của đời do chiến tranh gây nên, dần dần tạo đặng hạnh phúc cho toàn sanh chúng, biến cõi trần khổ nầy thành thiên đường tại thế.
Ấy mới đúng là làm PHƯỚC,
Ấy mới nhầm câu vi THIỆN.
Điều trọng yếu là nếu ta tạo được đại nghiệp mà thiếu tình yêu thương chân thật trong lòng của Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu thì sự nghiệp ấy càng không bổ ích chi cho dời lẫn Đạo.
Thêm vào tình yêu ái ruột thịt ấy, còn sự công bình định phận cho kẻ hữu công, người hữu tội. Thưởng phạt phân minh thì trên đường lập vị ai ai cũng tranh đua nhau trong đường công quả.
Khi công dầy, đức đủ, ngôn lập thì phẩm tước phải ký gởi lại cho Hội Thánh mà trở về cảnh tịch mịch, khép mình ra khỏi thúc phước thế tình, gởi thân nơi cõi tu chơn, nơi cảnh tịnh anh nhàn thân tự toại.
Đó là con đường thứ ba của Đại Đạo mà Đức Hộ Pháp hằng mong Chức Sắc Phước Thiện tại thế cho ra thiệt tướng.
Trước khi dứt lời, tôi xin cúi đầu cảm tạ Đại Huynh Bảo Đạo, Đại Huynh Ngọc Đầu Sư cùng Qúi Chức Sắc Lưởng Đài hiện diện làm tăng phần trang nghiêm cho buổi lễ hôm nay.
Nay Kính
Tòa Thánh Tây Ninh ngày…tháng….năm 1976
Sĩ Tải
BÙI VĂN TIẾP
XV. ĐẠO LỊNH THUYÊN BỔ SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
“ĐẶC TRÁCH TƯ VẤN PHƯỚC THIỆN KIÊM PHÓ TRƯỞNG NHIỆM ĐẠO SỬ
VĂN PHÒNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
CHƯỞNG QUẢN (Ngũ thập tam niên)
HIỆP THIÊN ĐÀI Tòa Thánh –Tây Ninh
………………… ………………………………………….
Số 011/ĐL
Q.CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền;
Chiếu Đạo Luật ngày rằm tháng Giêng Mậu Dần (14-2-1938);
Chiếu Hiến Pháp Chức Sắc Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 11 Bính Ngọ (26-12-1966);
Chếu Thánh Giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 1 tháng 3 năm Bính Thìn (31-1-1976) Đức Hộ Pháp chấp nhận Thời Quân Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài ;
Chiếu Đạo Lịnh số 2/ĐL ngày 14 tháng 8 năm Nhâm Dần (12-91962) giao phó nhiệm vụ Đạo Sử cho vị Thời Quân Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài ;
Chiếu Thánh Thơ số 49/ĐS/Tòa Thánh ngày 13-8-Mậu Ngũ (dl 14-09-1978) của Nhị Vị Thượng và Ngọc Đầu Sư Cửu Trùng Đài xin giao trọn Ban Đạo Sử lại cho Hội Thánh Hiệp Thiên Đài chọn bổ Chức Sắc đảm trách thay thế Chức Sắc Cửu Trùng Đài trở về hành sự nơi Cửu Trùng Đài.
Chiếu Vi Bằng số 006/VB phiên hợp ngày 25-8-Mậu Ngũ (26-9-1978) Hội Thánh Hiệp Thiên Đài chấp nhận và đề cử chư Chức Sắc Hiệp Thiên Đài đảm nhận với chức vụ Trưởng Nhiệm, Phó Trưởng Nhiệm Đạo Sử; nên:
ĐẠO LỊNH
ĐIỀU THỨ NHỨT.-Thuyên bổ vị Sĩ Tải Võ Thành Quốc sanh năm 1911 Châu Hòa, Bảo Lộc (Bến Tre) Cố Vấn Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài kiêmTrưởng Nhiệm Đạo Sử.
-Vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp, sanh năm 1925 Thường Lạc (Châu Đốc) Đặc Trách Tư Vấn Phước Thiện Kiêm Phó Trưởng Nhiệm Đạo Sử.
ĐIẾU THỨ NHÌ.-Nhị vị Trưởng Nhiệm, Phó Trưởng Nhiệm trên đây trọn quyền sắp đặt các việc sưu tầm tài liệu về Sử Đạo cũng như Phòng Thư Viện. Ngày nào thấy cần phải có thêm một số Chức Sắc có khả năng phụ trách thì đề nghị lên Quyền Chưởng Quản Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài quyết định sau khi thỉnh ý Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
ĐIỀU THỨ BA.-Giao hồi tất cả Chức Sắc Cửu Trùng Đài hiện đang hành sự nơi đây trở về hành sự nơi Cửu Trùng Đài sau khi giao lãnh chu đáo cho vị Tân Trưởng Nhiệm Đạo Sử.
ĐIỀU THỨ TƯ.-Vị Quyền Chưởng Quản Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài. Nhị vị Trưởng Nhiệm, Phó Trưởng Nhiệm Đạo Sử lãnh ban hành và thi hành Đạo lịnh nầy.
Tòa Thánh ngày 19 tháng 8 Mậu Ngũ
(dl 30-9-1978)
BẢO ĐẠO HỒ TẤN KHOA
(Ấn Ký)
XVI. THÁNH LỊNH BỔ NHIỆM SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP LẢNH PHẬN SỰ
“BUỘC ÁN” TRONG CÁC PHIÊN HỘI CỘNG ĐỒNG ĐẶC BIỆT.
VĂN PHÒNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
CHƯỞNG QUẢN (Ngũ thập tam niên)
HIỆP THIÊN ĐÀI Tòa Thánh –Tây Ninh
…………………… ………………………………………….
Số 004/TL/CQ-HTĐ
Q.CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Chiếu Tân Luật Pháp Chánh Truyền;
Chiếu Đạo Luật ngày rằm tháng giêng năm Mậu Dần (dl 14-2-1938);
Chiếu Hiến Pháp Chức Sắc Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 11 năm Bính Ngọ (dl 26-12-1966);
Chiếu Thánh Giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 1 tháng 3 Bính Thìn (31-3-1976) Đức Hộ Pháp chấp nhận vị Thời Quân Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài;
Chiếu Phúc Nghị số 67/Bộ Pháp Chánh/QCQHTĐ đề ngày 14 tháng 10 Đinh Tỵ (24-11-1977) của Quyền Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh xin đề cử vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp lãnh phận sự Buộc Án trong các phiên hội cộng đồng đặc biệt; nên:
THÁNH LỊNH
ĐIỀU THỨ NHỨT.-Bổ nhiệm vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp sanh năm 1925 tại Thường Lạc (Châu Đôc) lãnh phận sự Buộc Án trong các phiên hội cộng đồng đặc biệt. Trong khi hành sự được buộc dây Sắc Lịnh thả nổi theo trách vụ của mình.
ĐIỀU THỨ NHÌ.-Vị Sĩ Tải trên đây phải tuân y Luật Pháp Chơn Truyền Thập Hình Đức Lý Giáo Tông mà thi hành cho tòan nhiệm vụ.
ĐIỀU THỨ BA.-Quyền Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Chủ Tọa Hội Cộng Đồng Đặc Biệt và vị Sĩ Tải Buộc Án lãnh thi hành và tùy nhiệm vụ ban hành Thánh Lịnh nầy.
Tòa Thánh, ngày 7 tháng 11 Đinh Tỵ
(DL 17-12-1977)
BẢO ĐẠO HỒ TẤN KHOA
(Ấn Ký)
XVII. GIẤY CHỨNG NHẬN SĨ TẢI BÙI VĂN TIẾP
ĐẠI DIỆN HIỆP THIÊN ĐÀI TẠI PHẬN ĐẠO ĐỆ NHỨT VÀ ĐỆ NHỊ.
HỘI ĐỒNG CHƯỞNG QUẢN ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
PHÒNG NHÂN SỰ (Ngũ thập ngũ niên)
SỐ:04/HTĐ-CN Tòa Thánh –Tây Ninh
………………………………………….
GIẤY CHỨNG NHẬN
Chiếu Đạo Lịnh số:01/Hội Thánh-ĐL ngày 4-2 Kỷ Mùi (dl.01-03-1979) qui định Hiệp Thiên Đài có nhiệm vụ bảo vệ Giáo Pháp Chơn Truyền của Đạo.
Chiếu Huấn Lịnh số 021/HĐCQ-NL, ngày 24 tháng 6 Kỷ Mùi (dl 01.01.1979) bổ nhiệm Cải Trạng Nguyễn Thành Tất lãnh phận sự Trưởng Phòng Nhân Sự Hiệp Thiên Đài.
Chiếu Vi Bằng số 01/PNC-VB ngày 1 tháng 12 Kỷ Mùi (dl 18-01-1980) chuyển nhiệm Chức Sắc Hiệp Thiên Đài từ Trung Ương đến địa phương, được Đại Huynh Bảo Đạo Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài chấp nhận, do bút phê số 042/QCQ-HTĐ, ngày 18 tháng 12 Kỷ Mùi (dl 04-02-1980).
Nghĩ vì theo Đạo Lịnh số 01/Hội Thánh-ĐL kể trên, Bộ Pháp Chánh đã được giải thể; nên:
CHỨNG NHẬN
ĐIỀU THỨ NHỨT.-Vị Sĩ Tải Bùi Văn Tiếp, sinh năm 1925 tại Thường Lạc (Châu Đốc) trước đây Đại Diện Bộ Pháp Chánh nay chuyển nhiệm Đại Diện Hiệp Thiên Đài tại phận Đạo Đệ Nhứt và Đệ Nhị.
ĐIỀU THỨ NHÌ.- Vị Sĩ Tải giữ vạ vô tư. Đại diện Hiệp Thiên Đài trên đây có nhiệm vụ bảo vệ Pháp Luật Chơn Truyền của Đạo cùng dìu đở Chức Sắc Cửu Trùng Đài và Chức Sắc Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng từ phàm chất ra Thánh chất, thực hành cơ cứu khổ cho ra thiệt tướng, để tiến lên đời Thánh Đức, Đại Đồng Huynh Đệ.
ĐIỀU THỨ BA.-Vị Đại Diện Hiệp Thiên Đài trên đây phải tùng lịnh Hội Đồng Chưởng Quản, xuyên qua Trưởng Phòng Nhân Sự và Từ Hàn Hội Đồng Chưởng Quản mà hành sự.
Tòa Thánh ngày 12 tháng giêng Canh Thân
(dl 27-02-1980)
Trưởng Phòng Nhân Sự HTĐ
Cải Trạng NGUYỄN THÀNH TẤT
(Ấn Ký)
Phê chuẩn:
Hội Đồng Chưởng Quản
Qu.Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
Bảo Đạo HỒ TẤN KHOA
(Ấn Ký)
THAY LỜI KẾT
Có một danh nhân nào đó đã viết như thế nầy: “Khi mới chào đời, ta cất tiếng khóc trong khi mọi người thân chung quanh tươi cười. Ta hãy sống như thế nào để khi từ giã vĩnh viễn cõi đời, mọi người khóc còn mình thì mỉm cười ra đi”. Trong trường hợp nầy ta thấy ông đã mỉm cười ra đi một cách nhẹ nhàng thông qua một bài thơ ông nhắn nhũ lại cho gia đình khi ông đã về Tiên cảnh. Bài thơ nầy được ông Hữu Phan Quân Lê Văn Thoại lúc ấy còn sống trao lại cho gia đình ông, bài thơ như sau:
Âm dương tuy cách cũng chung Trời,
Quán tục dời chơn được thảnh thơi.
Bần ái Hòa thanh Thành xá lợi,
Bửu, Đường, Bình, Nguyệt huệ Tiên thời.
Bon chen dưới thế vai oằn oại,
Tầm Ngọc sử Tiên góp sự đời.
Tiếp vận Quang Minh Loan tiếng ngọc,
Trung gian Thoại-Tiếp gởi đôi lời.
1988
Quang Minh
Về văn xuôi thì ông sưu tầm và biên soạn rất nhiều, rất tiếc là cũng bị thất lạc một số. Mong rằng khi đọc qua phần tiểu sử nầy, Qúi Vị nào có lưu những tài liệu liên quan đến ông xin cùng đóng góp vào Tủ Sách Đại Đạo để tủ sách ngày càng phong phú hơn.
Theo lời kể của gia đình thì vào những ngày gần cuối cuộc đời, hình như ông linh cảm được điều đó nên sức làm việc của ông càng dữ dội hơn. Ông thức rất khuya để viết và viết, vợ ông sợ ảnh hưởng đến sức khỏe nên khuyên ngủ sớm. Nhưng được vài ngày rồi ông lại tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Chúng ta để ý thấy những tác phẩm của ông hoàng thành trong 1986 rất là nhiều. Tức là sức viết của ông năm đó rất là dữ dội. Cũng nên nhớ là thời kỳ đó điện đóm rất là hiếm, một tuần chỉ có điện một vài ngày, và điện thì nhà nước chạy bằng máy dầu nên điện rất yếu. Bàn làm việc của ông chỉ là một cái rương để đồ đặt trên gác cây, khi viết bài ông phải ngồi dưới sàn gác mà viết, không có ghế. Nóc nhà thì sát đầu nơi ông làm việc nên ban ngày rất nóng. Ban đêm với ngọn đèn dầu loe lét, ông ngồi cậm cụi viết và viết, từ tháng nầy qua tháng nọ, để cho ra đời những tác phẩm rất có giá trị cho nền Đại Đạo.
Thời đó gia đình ông rất nghèo, từ khi ông nghỉ việc ở Sài Gòn về nguồn thu nhập chính của gia đình giờ đây chỉ còn phụ thuộc vào việc buôn bán gạo của vợ ông và sự hy sinh cao cả sự nghiệp học hành của người con trai thứ ba đang học Đại Học ở Sài Gòn bỏ về mở tiệm sửa xe đạp tại nhà để kiếm đồng ra đồng vào. Gia đình tuy nghèo nhưng được cái các con của ông học hành rất giõi. Giờ đây có người là Kỹ Sư, có người là Bác Sĩ và nổi tiếng nhất là người con trai thứ hai của ông hiện là Giáo Sư Tiến Sĩ ngành nông nghiệp rất có tiếng cả trong và ngoài nước nhất là vùng lúa Đồng Bằng Sông Cữu Long.
Ông bắt đầu nổi tiếng, rất có uy tín trong đạo vì đã cùng các vị Chức Sắc bên Hiệp Thiên Đài bảo vệ thanh danh của Đức Hộ Pháp khi chánh quyền bắt các vị Chức Sắc trong đạo học vụ “Bản Án” nhầm hạ bệ uy tính của Đức Ngài. Ông với biệt tài ăn nói lưu loát, kiến thức vững vàng đã làm cho các vị điều khiển lớp học là Tư Tịnh, Bảy Phú phải lúng túng, đến nổi có lúc Tư Tịnh phải nói: “Tôi lạy anh mà anh Tiếp”. Câu nói ấy được đồn đi cả châu thành Thánh Địa thì ông Tư Tịnh còn mặt mũi nào mà điều khiển lớp học nữa.
Trước khi vào giáo đầu học vụ “Bản Án” ông Tiếp còn có một câu nói nổi tiếng là “Tố ai thì tố, chớ tố Thầy tôi tôi nhứt định không tố”, hay câu: “Con chim trong lồng hót không trung thực” ám chỉ chánh quyền đem hai bài phát biểu của 2 ông Hợi và Kiết được viết trong lúc bị chánh quyền cưởng chế ở trong tù ra phổ biến tuyên truyền là lời nói không trung thực.
Đến nổi Năm Anh lúc đó rất có quyền lực trong tay đến nhà tư của ông để thuyết phục ông, bị ông chưởi khéo là “đồ chó” rồi lủi thủi ra về một cách ấm ức.
Tánh ông là vậy đó, rất thẳng thắng, không sợ cường quyền mặc dù sau vụ “Bản Án” chánh quyền kiếm cớ bắt nhốt ông hết 2 tháng rưỡi. Sau khi ra tù ông vẫn sống cống hiến hết mình vì đạo.
Soạn xong tháng 8 năm 2010
TỈNH TÂM