Quang Minh (sưu tầm) |
I. - TRƯỜNG HỢP VÀO CỬA HIỆP THIÊN
Năm 1956 / 1957 (Năm Đinh Dậu) Ban Vận Động HBCS tổ chức một lễ long trọng tại Đại Đồng Xã để ủng hộ Đức Hộ Pháp. Hội Thánh lúc ấy do Ngài Bảo Thế lĩnh cán không muốn xài đám Sĩ Tải cũ nên mở khoa thi Sĩ Tải, chọn một số người mới để dùng, nên Năm Anh có dịp nhảy vào. Ban đầu Anh tỏ ra Đạo đức, mềm mỏng dể dạy, hằng mặc đồ cũ, đi chơn không, giả đò tận tụy với nhiệm vụ nên được uy tín của bề trên. Anh được bổ đi Pháp Chánh Châu Đốc...
Phía bên Sĩ Tải cũ thì có 6 vị: Nhung, Hưởng, Ngời, Nguyên, Giãm bị kỹ luật, trục xuất ra khỏi Đạo. Trần Tấn Hợi bị giam đến chết trong khám cũng như Thừa Sử Phước cũng tử vì Đạo. Một số bị bố ráp chịu không thấu phải xuất bôn đi Nam Vang như: Trân, Trường, Khỏe, Cao. Chỉ còn lại Tỷ về Long Xuyên ẩn, Tiếp xuống Sài gòn ẩn, Vân trụ tại Vĩnh Long. Thế là Sĩ Tải cũ tịch ngòi. Bọn Năm Anh tự do hoạt động theo chỉ thị Ngô Đình Diệm chống HBCS, tức chống Đức Hộ Pháp.
Kế Đức Thượng Sanh về nắm quyền cứ đà đó mà hành động. Nhưng khi thấy dã tâm của Anh, quí ông Hợi, Kiết bố Anh về nhiều lẽ vô Đạo của y, chịu không nổi y phải tìm đường ra bưng, đầu CS để phá Đạo. Hội Thánh ra lịnh ngưng quyền chức Thừa Sử của Anh do Thánh Lịnh số 48/BPC/SL đính kèm.
Khi C.M thành công 30-4-1975. Anh về cũng chưa dám hóng hách. Có bữa đi cúng đàn, y mang dây Sắc lịnh cũng như Thời Quân vào đứng tại cấp dưới chổ Hiệp Thiên Đài. Ngài Khai Đạo lại gỡ Sắc lịnh y ra và khuyên không nên lạm dụng, phải bị Thiên Điều. Lần hồi y dựa hơi CS sách động mọi mặt để hạ lần quyền uy của Đạo. Anh chỉ Đạo MTTQ Tỉnh Tây Ninh ra thông tri số 1 để quản lý 42 cơ sở của Đạo, giải tán Hội Thánh Cữu Trùng, Hiệp Thiên, Phước Thiện, cấm cơ bút…
Một thời gian bị trích điểm rằng: Anh là Thừa Sữ giả, đã bị ngưng quyền mà còn mang danh Thừa Sử bất hợp pháp. Y lại lập Huấn Lịnh xin phục chức Thừa Sử. Huấn Lịnh đánh thành 7 bổn đệ lên Hội Đồng Chưởng Quản ký tên. Ngài Bảo Đạo bị bắt buộc phải ký. Nhưng Ngài chen vào Huấn Lịnh câu nầy: “Đã chánh thức là Chức Sắc của Đạo thì từ đây phải tùng luật Đạo và trong những phiên hội thảo giữa Đạo và chánh quyền, không còn tư cách đại diện chánh quyền để chất vấn và bắt chẹt Đạo”. 3-10 Nhâm Tuất (1982).
Một điều đáng lưu ý là Huấn Lịnh ký ngày 3-10 Nhâm Tuất (1982) mà phục chức kể từ 30-4-1945.
Được Huấn Lịnh thiên hạ đem mổ xẻ, y thấy thất lợi nên không ban hành. Lại lập Huấn Lịnh khác, không để Ngài Bảo Đạo ký tên mà để ông Thái Hiểu nhơn danh Hội Đồng Chưởng Quản ký. Như vậy càng bất hợp pháp hơn nữa. Vì một Chức Sắc Hiệp Thiên Đài mà phục chức do một Chức Sắc Cửu Trùng Đài ký thì trái với Đạo Nghị Định số 1 của Đạo (Đài nào xử Đài nấy). Việc nầy thiên hạ đều thấy cái dốt luật pháp của vị (Thừa Sử giả) không hiểu luật Đạo.
Từ vụ Đinh Văn Kíếp, vụ Phạm Ngoc Trảng, vụ Tám Ngoài, các vụ học tập 3 ngày, 10 ngày, nữa tháng, 1 tháng đều do Năm Anh vẽ vời điều động. Biết bao Chức Sắc, Chức Việc, Đạo Hữu thiệt mạng, khổ sở nơi ngục thất, gia đình ly tán, cửa Đạo suy vi cũng do một tay Năm Anh. Thật từ trước tới giờ hiếm có kẻ phản Đạo mà lại tán tận lương tâm như Năm Anh.
Có lần y đến tư gia tôi muốn thuyết phục tôi.
Y nói: “ Thời nầy là của XHCN chúng ta phải tùng đời mà hành Đạo”.
Tôi phản đối: “Đạo bao giờ cũng độc lập, Đức Chí Tôn làm chủ, Ngài không chịu dưới quyền ai. Đã bao phen chánh quyền Pháp, chánh quyền Nhựt rồi Mỹ cũng chưa hề buộc Đạo tùng đời. Nếu tùng đời thì thấp thỏi quá, mong chi làm chủ tinh thần nhơn loại”.
Anh thấy khó thuyết phục tôi, Anh đâm cáo, cho rằng các vị lãnh Đạo trước chỉ làm tay sai cho Pháp, Nhựt, Mỹ, chỉ làm chó săn cho thiên hạ.
Tôi gài thế: “Ủa anh nói sao lạ vậy. Từ năm anh vào cửa Hiệp Thiên, từ chức Sĩ Tải lên Truyền Trạng, lên Thừa Sử là hơn 10 năm, nếu anh nằm chung với đám chó săn thì anh cũng mang danh chó, tức anh là chó không hơn không kém”.
Kẹt thế Anh nói: “ Tôi lầm, tôi bị lợi dụng ….”
Té ra mình đi thuyết phục thiên hạ lại bị tiếng xấu là “kẻ chó”.
Tức lắm mà bị thất lý Anh không làm sao biện minh được rồi kiếu ra về.
II. THÁNH GIÁO LIÊN QUAN ĐẾN TRƯƠNG NGỌC ANH
Cung Đạo ngày 16-10 Ất Tỵ (8-9-1965)
Phò loan:
Hiến Pháp
Khai Đạo
HỘ PHÁP
Chào mấy bạn Thượng Sanh, Bảo Thế, Hiến Pháp, Hiến Thế, Khai Đạo và chư Hiền Đệ Hiệp Thiên.
Bần Đạo lấy làm hân hạnh được Đức Lý Đại Tiên giáng cơ để phong thưởng Chư Đệ.
Đọc danh sách Chức Sắc Hiệp Thiên Đài xin cầu thăng………..
1. Giám Đạo Nguyễn Văn Hợi: Mặc dù có công đáng khen, nhưng tánh chưa thuần nên Bần Đạo cho thăng nhứt cấp và phải chờ một năm để trau giồi phẩm hạnh thêm nữa rồi Bần Đạo sẽ định cho.
2. Thừa Sử Nguyễn Văn Kiết: Cũng thăng nhứt cấp và đợi một năm như Hợi.
3. Sĩ Tải Lê Minh Khuyên: Thăng nhứt cấp.
4. Sĩ Tải Trần Văn Ngôn: Thăng nhứt cấp nhưng phải lập công bồi đức thêm nữa.
5. Sĩ Tải Trương Ngọc Anh: Thăng nhứt cấp nhưng còn kém đức hạnh, phải cố gắng thêm nữa.
6. Sĩ Tải Lê Quang Tấn tự Trường: Thăng nhứt cấp sẽ định vị sau.
7. Luật Sự Lê Thị Liêm: Thăng ………….
Bạn Thượng Sanh hỏi gì không?
Thượng Sanh bạch:…………………..
THĂNG
* Thế thì ông Anh đã bị cảnh cáo “còn kém đức hạnh, phải cố gắng thêm”.
III. SẮC LỊNH
Hiệp Thiên Đài ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Văn phòng Bộ Pháp Chánh TỨ THẬP BÁT NIÊN
Số 48/BPC/SL Tòa Thánh Tây Ninh
Khai Đạo Hiệp Thiên Đài
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh
Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,
Chiếu Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài ngày rằm tháng 2 năm Nhâm Thân (21-3-1932).
Chiếu Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài ngày mùng 8 tháng giêng năm Giáp Thìn (20-2-1964) và Hiến Pháp bổ túc ngày 27-2 Ất Tỵ (29-3-1965)
Chiếu Thánh Lịnh số 3/TL ngày 26-5 Tân Hợi (18-6-1971) giao nhiệm vụ Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh cho vị Thời Quân Khai Đạo.
Chiếu sắc lịnh số 37/BPC/SL ngày 29 tháng giêng Qúi Sữu (3-3-1973) chấp thuận cho phép vị Thừa Sử Trương Ngọc Anh nghỉ một tháng để trị bịnh;
Chiếu vi bằng số 5/BPC/VB ngày 11-5 Qúi Sữu (11-6-1973) của Bộ Pháp Chánh toàn hội yêu cầu tạm ngưng quyền chức của vị Thừa Sử Trương Ngọc Anh về tội phế phận;
Chiếu lời phê số 183/LPCQHTĐ ngày 21-5 Qúi Sửu (21-6-1975) của Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài chấp thuận theo lời yêu cầu của Bộ Pháp Chánh nên:
SẮC LỊNH
Điều thứ nhứt: Tạm ngưng quyền chức vị Thừa Sử Trương Ngọc Anh sanh năm 1930 tại làng Hiệp Mỹ tỉnh Bến Tre kể từ ngày ký tên Sắc Lịnh nầy cho đến khi có lịnh mới.
Điều thứ nhì: Những Sắc Lịnh liên hệ với đương sự từ trước không còn hiệu lực nữa.
Điều thứ ba: Vị Chưởng Ấn Trưởng Văn Phòng Bộ Pháp Chánh lảnh thi hành và ban hành Sắc Lịnh nầy cho các cơ quan chánh trị Đạo.
Phê Hiến Tòa Thánh ngày 21-5 Qúi Sửu
Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài (21-6-1973)
Hiến Pháp Khai Đạo
Trương Hữu Đức (Ký tên và đóng dấu)
(Ký tên và đóng dấu)
IV. THẬP ĐIỀU
Từ ngày 13-8-1976 đến 17-8-1976, chánh quyền XHCN tỉnh Tây Ninh có triệu tập Chức Sắc từ phẩm Lễ Sanh cùng hàng phẩm tương đương đổ lên, cộng với công quả nội ô Tòa Thánh để học tập Nghị Quyết 24.
Trương Ngọc Anh có tuyên bố những điều vi phạm đến nền Đại Đạo như sau:
1. Số tín đồ Cao Đài năm 1976 chỉ còn 670.000 chớ không phải 3 triệu người như đã tuyên truyền
2. Đạo không còn nói việc sống chung với phe nào tất cả.
3. Bất chiến tự nhiên thành là giả thuyết, vì chỉ có đánh mới có thắng.
4. Tất cả Chức Sắc và Đạo Hữu phải tham gia cách mạng, không thể nói mình vì phế đời mà không thể tham gia được.
5. Tam tùng tứ đức là phong kiến, đồi trụy.
6. Tam cang ngũ thường là bỉ ổ, quan liêu.
7. Phê bình Thánh Ngôn: “Nếu các con không tự lực Thầy không thể bồng ẩm các con lên địa vị cao sang được”. Anh cho tự lực là làm ra của cải, cày, cấy để nuôi sống.
8. Có thực mới giựt được Đạo nghĩa là có ăn mới làm Đạo được.
9. Bài Thánh Giáo “Thượng Hạ nhị thiên xử địa hòan” cho Bảo Đại, ông Anh cho là ủng hộ phong kiến tức là ủng hộ bù nhìn Bảo Đại.
10. Tân Luật có đoạn: “Nếu gia đình không con nối hậu thì người đàn ông được cưới vợ lẽ”. Tại sao không cho người đàn bà có chồng bé, như vậy là bất công hiếp người đàn bà.
Đó là 10 điều được ghi nhận, chúng tôi xin tạm đặt danh từ “Thập Điều của Trương Ngọc Anh” để tố Đạo.
Chúng tôi có ý niệm, nếu Năm Anh sau nầy muốn trở lại xin hành Đạo, y phải trả lời trôi chảy 10 điều trên. Nếu trả lời không xuôi thì bát đơn luôn.
V. PHẦN THI THƠ PHẢN ĐỐI TRƯƠNG NGỌC ANH
Chúng tôi có sáng tác bài thi Bổn Thể, có 5 chữ N ở chữ đầu cũng như khoán thủ là: Nịnh, Ngu, Ngang,Nghịch, Nhác.
BỔN THỂ
Uổng công sanh dưỡng đứa con hư,
Nếu sống mẹ cha ắc cũng từ.
Nịnh bợ côn đồ tiền vẫn thiếu,
Ngu theo cướp đảng tội thêm dư.
Ngang cùng Nhứt Trấn, Ngưu Đầu rước,
Nghịch với Thiên Tôn, Mã Diệu trừ.
Nhác đến run eng, nghe thế chuyển,
Đầu vồ tráng trợt biệt danh “Trư”.
11-10 Nhâm Tuất
Q.M
Vì hành động phá đạo của Năm Anh mà chính những hạng theo chánh quyền cũng không khỏi phẩn uất để những vần thơ chỉ trích.
Sau đây là bài thơ của Giáo Sư Thái Chẩn Thanh đã chứng thực điều ấy:
Thất Huỳnh, sới lạo, trư thường sửa,
Ngoảnh họng đồi kêu đám Quốc Trì.
Cảnh tỉnh búa rìu khua ỏm tỏi,
Sương tầm nổi giận bức xiêm y.
Phan khuyết, rược hăng, vân hẻo khiếu,
Sòn cành dữ sũng lỉnh tiên chi.
Bao đầu ai thống đời đi đức,
Xanh mặt lẩn chê lảo khải tỳ.
Xin chú thích bài thơ trên sau đây:
- Thất huỳnh: Bảy Mẩn (Huỳnh Minh Mẩn)
- Sới lạo: Sáu Lợi, đầu phòng khoa mục.
- Trư thường sửa: Trư là heo, thường sửa là Thừa Sử Trương Ngọc Anh.
- Họng đồi: là Hội Đồng Chưởng Quản.
- Sương tầm: Sâm (Giáo Sư Ngọc Sâm), Tường (Giáo Sư Thượng Tường).
- Phan khuyết: Khuyên (Cải Trạng), Phát (GS Thái Phát).
- Hẻo khiếu: Hiểu (P.S Thái Hiểu), Khéo (Chơn Nhơn).
- Sòn cành: Sành (GH Thượng Sành), Còn (GS Thái Còn).
- Dữ sũng: Dũng (Truyền Trạng), Sử (GH Thượng Sử).
- Rược hăng: Rặc (GH Thái Rặc), Hương (GH Ngọc Hương).
- Vân: Mây (Phối Sư Hương Mây).
- Ai thống: ông Thái tức Thái Hiểu.
- Lẩn chê: Lê Chẩn (GS Thái Chẩn).
- Lão khải kỳ: Lỹ (GS Thượng Lỹ), khỉ tài tức bất tài.
- Lĩnh tiên chi: Lỹ tiên chinh tức GS Lỹ và Đạo Nhơn Chinh.
Bài thi không niêm luật, nói láy vô duyên, nhưng có tác dụng bôi lọ những tên hại Đạo, nhất là Năm Anh mang danh con heo.
Những lúc Năm Anh lộng quá, ngưng quyền người nầy, trục xuất người nọ, Quang Minh có làm bài:
QUỈ LỘNG THIỀN MÔN
Quỉ đã xông vào cửa Hiệp Thiên,
Năm ba con khuấy loạn chơn truyền.
Con thì đình chỉ cơ hành Pháp,
Con lại giải thi máy lập quyền.
Xác đứng lửng lơ chờ Phất Chủ,
Thần bay vất vưởng đợi Kim Tiên.
Hồ Lô mong nấu câu liêm chảy,
Hồng Lạc đạo đời mới vững yên.
3-2 Qúi Hợi (1983)
Nói đến tội Năm Anh đối với Đạo, với Đức Giáo Chủ thì phải viết một cuốn sách dầy tới ngàn trang mới đủ. Nhưng lập công với CS bao nhiêu rồi cũng bị cho ra rìa, cũng cho rớt chức dân biểu quốc hội. Vì có ai cử đâu mà còn với mất. Người ta dựng lên được thì người ta cũng lôi xuống được. Thế thường hể chanh hết nước thì vứt vỏ vào sọt rác. Họ xài người qua giai đọan chớ có phải phe phái gì của họ mà họ nâng đở dùng hoài. Năm Anh tính lấy uy tín với CS đặng lập vị trong cửa Đạo nhưng còn lâu CS mới mắc mưu. Mà hễ họ không mắc mưu thì họ hết xài, thảy ra như món đồ thừa.
Quang Minh có làm một bài:
VẮC CHANH BỎ VỎ
Chanh đà khô nước để làm chi ?
Sọt rác đem quăng khuất mắt đi.
Ruồi nhặn xúm bu da móc thít,
Tửa vòi chui rút múi đen xì.
Nằm gần ruột cá hôi đồng hắc,
Lăn đụng đầu tôm, khí uế phì.
Nhớ thuở còn chua bao kẻ chuộn,
Thân nay tàn tạ hiếm người khi.
Lối đầu tháng 2 nhuần Ất Sửu (1985) có tin đồn Năm Anh bị vô khám vì thanh trừng nội bộ. Bảy Phú là đồng lõa với y cũng vào khám vì tham công quỹ Núi Bà thuộc huyện Dương Minh Châu.
. . . . . . .
NHÂN VẬT LỊCH SỬ CŨNG LÀ NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ
TRONG NỀN ĐẠO CAO ĐÀI SAU 1975.
Bài tường thuật này được trích lại từ Diễn Đàn Chơn Pháp Cao Đài (ngày 09 tháng 6 năm 2010)
http://www.chonphapcaodai.net/diendan/viewtopic.php?f=9&t=1303&p=3645#p3645
Sau buổi lễ cầu nguyện ngày mùng 10 – 4 – Canh Dần vừa qua.
Ban ĐDKNS trực tiếp đến tại tư gia ông Thừa Sử Trương Ngọc Anh để tìm hiểu thêm
về nguyên do của Đạo Lịnh 01 ra đời đưa nền đạo Cao Đài đi đến chỗ tiêu vong.
Chính ông Thừa Sử Trương Ngọc Anh xác định rằng ông là nhân chứng lịch sử. Vì
vậy BĐDKNS muốn tìm hiểu thực hư ra sao để nhằm làm sáng tỏ khúc quanh lịch sử
của nền Đại Đạo.
Ban ĐDKNS hỏi: - “ Thưa Huynh cho biết Đạo Lịnh 01 trước đây do ai soạn ra ?
nghe đồng đạo nói chính Huynh soạn, như vậy có đúng không thưa Huynh ? Tự Huynh
soạn hay có bị áp lực bên ngoài nào không ?"
Ông Trương Ngọc Anh: - “ Tôi chỉ góp ý thôi, chứ tôi không có soạn, tôi rất hối
tiếc việc làm đã qua, tôi cũng muốn cho nền đạo phát triển, lựa dèo lựa thế độ
nhơn sanh, nhưng ngược lại làm cho nền đạo tàn lụi hết, tôi rất đau lòng.”
Ông Trương Ngọc Anh: - “ Trong Đạo Cao Đài có 03 vị Chức Sắc tham gia cách mạng:
1 – Ông Giáo Hữu Thượng Thâu Thanh
2 - Ông Giáo Thiện Lê Văn Bụi
3 – và tôi Thừa Sử Trương Ngọc Anh
Hai người kia đã bị bắn chết trong rừng, còn tôi hiện sống đây, rất tiếc nếu tôi
được một mũi đạn như mấy vị kia thì nay tôi không phải khổ tâm như thế này. Hậu
quả con cháu của hai người tham gia cách mạng nêu trên thì không được ưu đãi
chính sách gì theo công trạng của cha mình đã làm, mà các con đi làm thuê, làm
mướn sống qua ngày. Chính các con của tôi cũng làm thuê làm mướn, khổ lắm.
Đạo Cao Đài bây giờ là Công Ty kinh doanh Cao Đài giáo, Chức Sắc HĐCQ đi địa
phương nói bậy nói bạ chẳng hiểu gì cả."
Hỏi: - “ Việc làm của Huynh vừa qua, nay kết quả là Đời không dùng, Đạo không
dụng thì Huynh nghĩ sao ? Huynh có thể nhắc nhở đàn em hậu tấn sao này rút kinh
nghiệm qua việc làm của Huynh vừa qua có được hay không ?"
Ông Trương Ngọc Anh: - “ Tôi xin gởi nhắn và gởi nhắn đến tất cả con cái của Đức
Chí Tôn. Chúng ta làm gì cũng có Luật Nhơn Quả, hãy lấy bản thân tôi để rút kinh
nghiệm cho bước đường hành đạo của mọi người. Bài học tôi đã đi qua, vì thiếu
suy nghĩ mà nay tôi phải hối tiếc và khổ tâm như thế này.”
Hỏi: - “ Giờ Huynh thấy hối tiếc thì cuối cuộc đời còn lại Huynh có nguyện vọng
gì hay không ? Hay có để lại Di Chúc gì cho ngày qui vị của Huynh hay không ?"
Ông Trương Ngọc Anh: - “ Ngày trúc hơi thở cuối cùng của tôi, tôi không cần ai
làm đám hay tuần tự gì hết. Vợ con đem xác tôi thiêu rồi lấy tro bỏ vào cái Đài
mà tôi đã làm sẵn.”
Hỏi: - “ Ban ĐDKNSĐCĐ đòi lại chủ quyền đạo đúng theo Tân Luật Pháp Chánh Truyền
thì Huynh nghĩ sao?"
Ông Trương Ngọc Anh: - “ Ban ĐDKNS này do nhà nước lập ra phải không ?"
BĐDKNS: - “ Do nhơn sanh lập ra và thời gian qua có đến Ban Tôn Giáo Chính Phủ ở
Hà Nội để trình kiến nghị, có gởi Thông Bạch cho Chính Phủ để trình bày rõ ràng
về những pháp lý của đạo Cao Đài đã có đầy đủ để tận độ nhơn loại mà năm 1978 do
Bản Án Cao Đài, Thông Tri 01 và Đạo Lịnh 01 giải thể Hội Thánh và các cơ cấu
hành chánh đạo, nên ngày nay nhơn sanh đòi lại chủ quyền Đạo và các cơ sở thờ tự,
đất đai (Động sản bất động sản). Điều này Huynh có được nghe hay được ai bàn đến
hay không?”
Ông Trương Ngọc Anh: - “ Tôi uống cà phê trong quán, nghe người ta bàn tán nói
rằng BĐDKNS này là làm việc tào lao, hôm nay mấy chú nói tôi mới hiểu.”
Sau đó ông Trương Ngọc Anh dẫn anh em trong BĐDKNS đến xem hình ảnh cái Đài mà
ông đã làm sẳn dành để lúc qui vị.
Ban ĐDKNS trực tiếp đến tại tư gia ông Thừa Sử Trương Ngọc Anh và được ông trình
bày với nỗi lòng chua xót, cay đắng.
Qua hành trình tu học của một con người từ Tín Đồ đến Chức Sắc phải trãi qua 03
lời minh thệ rất nặng nề:
Thứ Nhứt: Là Tín Đồ mới nhập môn thề “ …Như sau tôi có lòng hai thì Thiên Tru
Địa Lục.”
Thứ nhì: Là Chức Việc “… Nếu ngày sau tôi có Bội Sư Phản Bạn thề có Hộ Pháp Tận
Đọa Tam Đồ Bất Năng Thoát Tục.”
Thứ ba: Là Chức Sắc “… Nếu ngày sau tôi có phản loạn chơn truyền gầy tả đạo bàn
môn thề có Ngũ Lôi Tru Diệt.”
Ngày nay ông Thừa Sử Trương Ngọc Anh đã phạm trong 03 lời thề vì soạn ra Đạo
Lịnh 01 nhằm đưa nền đạo đến chỗ tiêu vong, giết chết hình thể Đức Chí Tôn tại
thế.
Qua sự trình bày chân thành của ông, chúng tôi rất cảm động vì ông cho rằng: -“
Tôi muốn cho nền đạo phát triển, nào dè hôm nay nó tàn lụi hết, tôi rất đau lòng.”
Vì vậy đối với luật Hội Thánh qui định thì hễ ai nhận lãnh trách nhiệm chức việc
hay chức sắc để lo việc đạo thì tuyệt đối không được tham gia chính trị đời. Đạo
là Đạo, Đời là Đời, đó là sự thuần túy tôn giáo không tham gia đảng phái chính
trị để làm biến chất người tu hành.
Do đó ông Trương Ngọc Anh đã lầm tưởng, nên cuộc đời ông sẽ đi vào sử đạo thiên
thu. Đây là bài học kinh nghiệm xương máu của ông mà cũng là của tất cả chúng ta,
những người đang hiện sống và cho những cháu con sau này lấy đó mà học hỏi rút
kinh nghiệm.
Sau khi tiếp chuyện
với ông Trương Ngọc Anh, anh em trong BĐDKNS từ giả ra về và tiếp tục đi đến tại
văn phòng Hiệp Thiên Đài trong nội ô Tòa Thánh để gặp ông Cải Trạng Lê Minh
Khuyên Phó Đặc Trách Pháp Luật của HĐCQ và được ông tiếp chuyện rất cởi mở.
Ban ĐDKNS hỏi: - “ Thưa Huynh theo Huynh nghĩ thì cách hành đạo của Hội Thánh (HĐCQ)
hiện nay như thế nào ?"
Ông Lê Minh Khuyên: - “ Hội Thánh bây giờ chỉ là một cái tên gọi, còn hành đạo
thì cũng y như HĐCQ trước đây không cò gì khác.”
Hỏi: - “ Nay có BĐDKNSĐCĐ đại diện cho nhơn sanh ra BTGCP đẻ đòi lại quyền đạo
theo đúng Tân Luật Pháp Chánh Truyền thì Huynh nghĩ như thế nào ?"
Ông Lê Minh Khuyên: - “Việc làm đó cũng rất tốt nhưng phải có nhân sự, giờ đây
nhơn sanh còn kém nhận thức, chưa biết quyền hạn của mình là một công dân trong
một đất nước, và là một tín đồ trong một tôn giáo, mình phải thể hiện quyền dân
chủ và quyền tín đồ của mình, thì việc phục quyền Hội Thánh không mấy lát."
Hỏi: - " Vậy Hội Thánh bây giờ hành đạo theo qui chế của HĐCQ chứ không theo cái
Gốc của đạo trước đây phải không thưa Huynh ?"
Ông Lê Minh Khuyên: - " Đúng vậy ! Hôm nay nhơn sanh cần phải thể hiện quyền dân
chủ để phục lại quyền Hội Thánh thì Gốc đạo sẽ có như trước đây. Bây giờ chỉ do
quyền nhơn sanh mà thôi. Trong chế độ cũ chính quyền họ không quan tâm đến đạo,
tôn giáo tự do hành đạo, còn chính quyền bây giờ thì luôn bám sát. Hiện tại tôi
chỉ có Địa mà không có Vị, tôi chỉ là người góp ý mà thôi, tôi không có quyền gì
hết, chính quyền họ xen vô…”
Thời gian tiếp chuyện tuy rất ngắn nhưng ý nghĩa rất đầy đủ, chính ông Phó Đặc
Trách Pháp Luật của HĐCQ đã xác nhận Hội Thánh hiện nay của HĐCQ chỉ là một tên
gọi, nó đã mất gốc, bây giờ chỉ trông cậy vào nhơn sanh, quyền lực quyết định
của nhơn sanh, tất cả nhơn sanh biết sử dụng quyền hạn của mình thì Hội Thánh
phục quyền trong giây lát.
Qua lời nói ngắn gọn mà tràn đầy ý nghĩa này, chúng tôi BĐDKNSĐCĐ gởi hết tâm tư
nguyện vọng đến với toàn thể nhơn sanh trong và ngoài nước, chúng ta hãy nhận
định đúng đắn, nhìn lại Đạo Sự hiện nay, để quyết định vận mạng cho nền Đại Đạo
sắp tới./.
Ban Đại Diện Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài
Hình ảnh xin được gởi lên sau.
Bài tường thuật trên đây được trích lại từ Diễn Đàn Chơn Pháp Cao Đài (ngày 9/6/2010)
http://www.chonphapcaodai.net/diendan/viewtopic.php?f=9&t=1303&p=3645#p3645