GÓP NHẶT CHUYỆN ĐẠO

QUYỂN XIX

Viết xong ngày 15-05-Giáp Tư (1984)

QUANG MINH

 

 

MỤC LỤC:

1.LIÊN QUAN CON CÁI CHÍ TÔN VỚI NGÀI
2. ĐẠO LÀ SỰ SỐNG TRONG CÀN KHÔN VŨ TRỤ
3. GIẢI TÁN QUÂN NHÂN
4. KHỔNG TỬ MẤT
5. H̀NH DÁNG VÀ ĐỨC ĐỘ CỦA KHỔNG TỬ
6. TRIẾT ĐĂ TRỞ VỀ VIỆT NAM
7. SƯ TỬ VỚI CHIM CON
8. ANH HÙNG ĐỜI VÀ ANH HÙNG ĐẠO
9. PHƯƠNG PHÁP LÀM CHỦ TÁNH PHÀM CỦA NGƯỜI GIỮ ĐẠO
10. SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN
11. ĐIỀM ĐẠM THẮNG TẤT CẢ
12. CẤM UỐNG RƯỢU



 

13. PHẢI TỰ LẬP NƠI CƠI THẾ
14. NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH TƯƠNG KHẮC
15.TÂY NINH DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN & PHÁP THUỘC
16. XÂY BỬU THÁP TRƯỚC ĐỀN THÁNH
17. GIẢNG VỀ THẾ ĐẠO VÀ THIÊN ĐẠO CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM
18. KHỔ TÂM HÀNH ĐẠO
19. HOÀI CẢM CẢNH MƯA ĐÊM
20. XƯNG TỤNG CÔNG ĐỨC CÁC ĐẤNG THIÊNG LIÊNG
21. SỰ SINH TỬ THEO NHO GIÁO
22. VŨ TRỤ CÓ TỪ ĐÂU, LÚC NÀO?
23. NGƯỜI HỒI GIÁO LÀM G̀ TRƯỚC KHI QÙ LẠY ALLAH?

 

1.LIÊN QUAN CON CÁI CHÍ TÔN VỚI NGÀI

*Lời thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp  tại Đền Thánh, đêm mồng 1 tháng 2 năm Mậu Tư (1948)

 Bần Đạo hứa sẽ tiếp tục giảng về cái Ngai của Hộ Pháp và phận sự của Hộ Pháp phải làm ǵ, nhưng Bần Đạo tưởng cả thảy chưa cần biết, yếu trọng hơn hết là vấn đề liên quan của con cái Chí Tôn với Ngài.

Bần Đạo thấy cả con cái của Ngài, nghe tiếng gọi của Ngài mà đến, là v́ yêu ái Ngài, tâm linh biết cảm ứng, biết nh́n nhận Đấng tạo sanh linh quang là Cha, Cha kêu con đă là sự thương rồi, nên sự thương yêu của toàn thể tín đồ nam nữ cũng vậy đối với Chí Tôn vô hạn; Bần Đạo chán biết và xin thú thật rằng: Ngày nào về cơi hư linh, nếu vô ṭa phán xét Bát Quái Đài th́ Bần Đạo quả quyết làm chứng rằng t́nh thương của nhơn sanh đối với Chí Tôn rất nồng nàn. Nhưng có điều khuyết điểm nầy: Chớ chi con cái của Ngài đem t́nh ái ấy để cả thảy thương lẫn nhau, dùng t́nh thương đă đem hiến cho Chí Tôn có thể hiến chung cho nhau, đặng cùng hưởng tại mặt thế nầy. Trái lại: Không!

Điều khuyết điểm ấy quá lẽ buộc Bần Đạo phải minh triết cho cả thảy được rơ biết. Ước mong con cái của Chí Tôn biết thương yêu nhau nồng nàn hơn là thương Ngài nữa mới đặng.

Cả thảy đừng tưởng rằng: Ḿnh bước chân vào cửa Đạo là một sự t́nh cờ đa. Bần Đạo quả quyết rằng: Không phải là một sự t́nh cờ, và nếu Bần Đạo chứng chắc rằng toàn con cái của Ngài đều ở trong ḷng của Ngài, sanh ra đă có một t́nh yêu đối cùng nhau, từ trong vật loại dĩ chí nhơn thân chúng ta đă có liên quan mật thiết nồng nàn, khối t́nh ái vô biên vô hạn. Cả thảy nên biết điều ấy, Bần Đạo xin nói thật, ngày giờ nầy cho các chơn linh đến mặt thế đă từng chung chịu khổ năo cùng nhau, cả muôn kiếp sanh mới gặp gỡ nhau trong ḷng của Đức Chí Tôn đó chớ.

Trong 24 chuyến thuyền Bát Nhă, đem chơn linh đến mặt địa cầu, mấy bạn đă ngồi trong ấy, ngày nay Đức Chí Tôn đă đến, đến để làm tṛn một lời hứa của Ngài. C̣n chúng ta đă hứa với Ngài những ǵ? "Hứa: Các con v́ Thầy đầu kiếp đặng tạo tinh thần vật loại, độ cả hóa nhân và nguyên nhân qui hồi cựu vị. Các con v́ thương Thầy tạo h́nh ảnh của Đạo". Ngày nay là ngày giờ chót Thầy đến với mục đích và sở vọng của Thầy là hội hiệp các con lại làm một cùng Thầy.

Ôi! Nếu các bạn đă biết, từng chung chịu đau khổ cùng nhau cả vạn kiếp sanh. Nơi đây có kẻ đă làm cha, làm ông, làm chị, làm mẹ chung lẫn trong các kiếp tái sanh nơi mặt địa cầu nầy để tạo yêu thương trong toàn nhơn loại. Các bạn có biết điều ấy đâu, duy có thấy gần mà chẳng thấy xa, đương nhiên cùng máu thịt th́ thương nhau, biết đâu trong đám nầy có kẻ đă làm cha, mẹ, ông, bà ta, mà ta không thấy, không biết. T́nh cảm của chúng ta hễ khuất mắt rồi, th́ nhẹ giá trị quá lẽ. Bần Đạo là Hộ Pháp, nếu Bần Đạo nói điều chi mong đặng gạt gẫm nhơn sanh, ngày kia về Ngọc Hư Cung Bần Đạo chịu trách cứ đó.

Ôi! Kiếp sanh tại thế mang xác thịt, hỏi sống được mấy lát? Nội một giấc thức, giấc ngủ là thấy sự chết sống của kiếp con người, mang thi hài bóng dáng nầy là giả. Cảnh thiệt không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chỗ khác kia, sao không t́m cảnh thiệt là cảnh tồn tại, lại chạy theo bóng?

Ước ao cả thảy biết điều trọng hệ bí mật đó mà thương yêu lẫn nhau, thương lún thương càn đi, rồi ngày kia coi có lầm chăng? Bần Đạo quả quyết, ấn Hộ Pháp, Bần Đạo nắm trong tay, nói chẳng hề sai chạy. Bần Đạo mong ước cả thảy con cái của Chí Tôn, đừng tưởng mang thi hài nầy mà nam nữ phân biệt đa nghe. Biết đâu trong đám nữ nầy, có kẻ đă làm cha, làm anh của người nào đó. Giả cuộc đừng coi trọng hệ, cả thảy nên hiểu và từ đây noi theo lẽ thiệt, đừng mơ sự giả, đó là điều mơ vọng ước ao của Bần Đạo hơn hết.

 

  2. ĐẠO LÀ SỰ SỐNG TRONG CÀN KHÔN VŨ TRỤ

*Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp tại Đền Thánh, thời Tư mồng 9 tháng giêng năm Mậu Tư (dl. 19-02-1948) VÍA ĐỨC CHÍ TÔN

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ, Chư Đạo Hữu, mấy em, mấy con Nam, Nữ, một cái lễ đầu xuân là lễ Đức Chí Tôn. Ngày nay ta tính lại đă trót 23 năm Chí Tôn đến cùng con cái của Ngài, cái hạnh phúc của nhơn loại may duyên gặp hồi tận độ của Đức Chí Tôn đáng lẽ tinh thần loài người thoạt nghe thoạt thấy, tâm linh buộc phải xu hướng theo sau bước chân của Chí Tôn. Tại sao ta phải hỏi v́ cớ nào đă 23 năm mà nhơn loại chưa hưởng được hồng ân của Chí Tôn chan rưới nơi mặt thế này?

Bần Đạo đă thuyết mấy kỳ trước: Một nền Chánh giáo dầu bí pháp, dầu thể pháp phải có thiệt tướng như thế mới ra một nền Chánh giáo. Ngày nay là ngày Chí Tôn đến cùng ta, kỷ niệm nầy, bất tiêu bất diệt. Bần Đạo đă thuyết v́ cớ nào từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, nhơn loại vẫn khư khư tầm Đạo. Chúng ta chán thấy rằng, nhơn loại trên địa cầu nầy thay đổi nhiều lớp mà nay chúng ta c̣n tồn tại đây, theo Chơn pháp để lại tính ra đến nay là 3 lần 36 ngàn năm. Thành ra từ mặt địa cầu có nhơn loại đến giờ là 108.000 năm. Trong 108.000 năm biết bao nhiêu thay đổi, đáng lẽ nhơn loại đă quên Chí Tôn mà chớ, sao vẫn nhớ măi mà thôi, bởi chẳng nhớ Ngài chẳng đặng. Tại sao không nhớ Ngài không đặng? Nhơn loại đang đi t́m, khao khát cái danh từ, tên tuổi của Ngài.

 Các dân tộc đang t́m ṭi v́ biết nh́n Ngài là người chủ quyền tạo đoan Càn Khôn Thế Giới. Ai đă dạy họ, ai chỉ cho họ, ai buộc họ, mà họ biết chơn lư chỗ nào mà theo, một điều là người nào cũng vẫn t́m ṭi măi điều ấy mà thôi. Bần Đạo không nói riêng về loài người, dầu vật loại vô tri vô giác hay hữu tri hữu giác cũng vẫn t́m người măi măi.

Ta thấy vật vô tri vô giác như đá, sắt là bất động vật, rơ ràng không âm thinh chỉ có sắc tướng ta thấy chắc trí giác đă thế nào, Bần Đạo xin hỏi đá t́m ai, kiếm ai mà cục nầy chồng chất lên cục kia, leo trên nhau mà thành ra ḥn núi? Đặng t́m kiếm khối sanh quang của nó. Vật hữu sanh, chúng ta thấy cây lúa mới cấy nó nằm nghiêng, sau khi sống nó đứng thẳng đầu lên. Hỏi nó t́m ai? T́m Đấng Tạo Đoan. Cây trong rừng hoặc trong vườn bị che khuất c̣n biết nghiêng ḿnh, nảy chồi đâm tược. Hỏi t́m ai? T́m Đấng Tạo Đoan.

Ấy là vật vô tri vô giác, c̣n người tại sao bỏ không đặng, hễ không bỏ Đấng Tạo Đoan đặng th́ phải t́m ṭi măi, gọi là tầm Đạo. Đạo là cơ quan bí mật làm cho Trời Người hiệp một trong sự sống của Càn Khôn Vũ Trụ, nên con người vẫn đi t́m nguyên do sự sống ấy, xem thế tức là đi t́m Đạo đó.

Chúng ta buổi mới sanh ra c̣n anh hài không đủ trí thức xét đoán, chúng ta đă thấy ǵ? Thấy trước mắt vạn vật hữu sanh, đó chẳng qua là những bạn đồng sanh với chúng ta mà thôi. Khi được năm ba tuổi rồi, cả vạn vật đối với sự sống của ta rất hữu t́nh như thế nào, ấy là mức đầu tiên làm cho tinh thần con người tự tỉnh. Quan niệm của vạn vật đối với con người rất nên mật thiết, dầu vật ấy hung tàn đối với con người, t́nh thân ái giao hảo vẫn liên quan mật thiết.

 Chúng ta thấy cọp beo, sấu, hùm, gấu làm cho ta sợ sệt sự hung dữ của nó có thể hại sanh mạng của ta được, nên mới kiêng sợ như vậy. Ngoài ra toàn vạn vật đều có t́nh hữu ái đối với ta "Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật". Ta thấy cả vạn vật ấy đối với ta rất có cảm t́nh, bởi lẽ đồng sanh, như đứa con nít con bướm đẹp đẽ th́ mê lắm, t́m bắt, đến khi gặp con ong chích th́ sợ sệt, mấy điều ấy làm cho con người tự tỉnh, đi t́m nguyên do của sự sống ấy, đó là khởi bước đầu sự tầm Đạo.

Lớn lên chút nữa, biết ái t́nh chung trong gia đ́nh hay xă hội, biết thân danh chung. Phận sự của người giữ Đạo là giữ sự đồng sống trong khuôn khổ xă hội, tức nhiên t́m mối đồng sanh của cơ tạo đoan ấy. Thân danh ta đối với xă hội nhơn quần, ta thấy xă hội đối với ta như thế nào và ta phải đối lại như thế nào? Thật sự là t́m phương thế đặng tôn sùng sự sống chung của nhau mà thôi.

V́ sự sống của vạn vật, của loài người sản xuất do Đấng Tạo Đoan là Chí Tôn, nên chữ Đạo nó liên hệ mật thiết với loài người thế nào th́ nó liên hệ mật thiết với Chí Tôn dường ấy, nên Ngài mới đến đặng thức tỉnh chúng ta biết, hiểu. Ngài là chủ của sự sống, đến đem sự sống lại, trừ diệt cho tiêu tan ác nghiệt. Ngài đem đến sự sống để trước mắt nhơn loại, như nhắc nhở họ phải tôn sùng cái sống chung của nhau. Hễ tôn sùng, tức nhiên phải nh́n Đấng Tạo Đoan đă ban cho chúng ta mạng sống, cho ta nhứt điểm linh quang, mới biết phân biệt hiền với ác, chánh với tà, để làm biểu hiệu cho con người thức giấc mê, t́m hiểu chơn lư của sự sống như thế nào, đặng trở lộn lại sống theo tinh thần của Thánh Hiền hay sống theo tánh hung bạo tàn ác của con vật. Cốt yếu đem cái sống Thánh Hiền ấy là cái sống của Chí Tôn ban cho, là vật báu để trong ḿnh, vật ấy quí hóa không phải hèn hạ.

Giờ đây Chí Tôn đến mặt thế nầy, đặng làm cho nhơn loại biết tôn trọng sự sống ấy trong khuôn khổ của Chí Tôn định, hiệp tâm lư trở lại làm một trong t́nh thân ái đại đồng. Chơn Pháp của Chí Tôn đem đến với chúng ta đă 23 năm nay là vậy, nếu chúng ta đă mang danh thể của Ngài, trước chúng ta chẳng tự ḿnh lập phương pháp làm kiểu mẫu cho thiên hạ nh́n Đạo Cao Đài là Chánh giáo, thế nào làm khuôn mẫu cho cả toàn tâm lư loài người đồ theo th́ chúng ta thất hiếu cùng Chí Tôn lắm vậy.

 

3. GIẢI TÁN QUÂN NHÂN

Giải tán quân nhân thật phép màu,

Kỳ Sơn Phụng gáy nghiệp qui Châu.

Non sông đượm vẽ màu tươi thắm,

Hồng Lạc thay lông đẹp áo chầu.

Rơ mặt lập đời gương Giáo Chủ,

Nên h́nh cứu thế đức Jesus.

Nực cười kẻ dại lăng xăng múa,

Thánh đức đành đem đổi hận sầu.

(Đức Lư Giáo Tông tặng Đức Hộ Pháp bài thi lúc giải tán Quân Đội)

 

 

4. KHỔNG TỬ MẤT

Khổng Tử về ở nước Lỗ đến mùa xuân năm Canh Thân là năm thứ 39 đời vua Kinh Vương nhà Chu, người nước Lỗ đi săn bắt được một con Kỳ Lân, què chân trước bên tả, ai cũng cho là điềm không lành, đem thả ra ngoài đồng. Ngài đi xa trông thấy nói rằng: “Kỳ Lân ra làm ǵ thế?” Nói rồi bưng mặt khóc. Khi Ngài trở về, Ngài nói rằng: “Ngô Đạo cùng hỷ” (Đạo ta cũng vậy). Sách Xuân Thu của Ngài làm chép đến chuyện ấy là hết.

Khi sắp sanh ra Ngài th́ có Kỳ Lân nhă ngọc thư, đến khi Ngài sắp mất , lại có Kỳ Lân ra mà què một chân. Vậy con Kỳ Lân ấy là vật ǵ? Đối với Ngài là thế nào? Đó là chuyện chép trong sách như thế, ta cứ theo mà chép ra vậy.

Sau khi có chuyện ấy được hơn 2 năm, đến tháng 4 năm Nhăm Tuất là năm thứ 41 đời vua Kinh Vươn tức là năm 478 trước Tây Lịch Kỷ nguyên. Một hôm Ngài dậy sớm đi tiêu dao trước cửa, tay kéo gậy mà hát rằng: “Thái Sơn kỳ đồi hồ? Lương Mộc kỳ hoại hồ? Triết Nhân kỳ nguy hồ?” (Núi Thái Sơn có lẻ đỗ chăng? Cây lương mộc có lẻ nát chăng? Người Triết nhân có lẻ nguy chăng?). Hát xong Ngài ngồi giữa cửa. Thầy Tử Cống đến, nghe Ngài hát như thế vội vàng vào hỏi thăm. Ngài nói chuyện đêm nằm chiêm bao, biết có lẻ sắp chết. Đoạn Ngài mắc bịnh 7  ngày th́ mất.

Ngài mất rồi, học tṛ thương khóc, ai cũng để tâm tang 3 năm. Tâm tang là để tang trong bụng chớ không có mặc đồ tang phục. Lại có đến hơn 100 người làm nhà ở gần mộ Ngài đến hết tang. Thầy Tử Cống ở đó đến hết 6 năm mới thôi.

Mộ Ngài ở Khổng Lâm cách huyện Khúc Phụ (thuộc tỉnh Sơn Đông) 2 dặm, cây cối sầm uất lắm.

Cái đức vọng của Khổng Tử to như thế, nhưng đến ngày nay cái văn hóa vật chất quật khởi lên, những dân tộc ở Á Đông nầy đều nô nức bỏ cũ theo mới, có người cho Đạo của Ngài làm ngăn trở cho sự cải cách, muốn trừ bỏ đi. Đó chẳng qua là sự náo nhiệt trong cuộc hành động một thời, người đời c̣n đang say đắm về đường công lợi, chưa có th́ giờ để suy xét cho kỷ, cho nên mới lấy cái lầm lỗi của bọn hũ Nho mà bài cái Đạo của Ngài. Nhưng thiết tưởng, xă hội nào đă yên trị th́ dẫu chẳng theo Đạo của Ngài, tất cũng phải theo một Đạo khác tương tự như thế để giữ lấy cương thường trật tự trong đám nhân quần.

Đạo của Ngài là Đạo chí công chí chính, khiến người ta phải theo thời mà biến đổi tức là Đạo phải tiến hóa luôn. Nhưng v́ người đời thường hay hiểu lầm, dần dần thiên về mặt hư văn. Đến nay khoa học thịnh hành lên, việc công nghệ mở mang ra, người ta bỏ được cái lối hư văn đi, nhưng lại thiên về đường vật chất. Xét ra cho kỷ, sự tiến hóa thái quá về đường vật chất vị tất đă hay cho sự sinh hoạt của loài người.

Xưa kia ta quá tin về đường hư văn, cho nên thành ra suy nhược, sau nầy ta lại quá tin về đường vật chất có lẻ lại dở hơn. Phàm cái ǵ thí quá cũng là dở cả chỉ nên giữ thế nào cho tinh thần và vật chất 2 bên cùng đều ḥa với nhau được th́ mới là hoàng toàn. Nếu giữ được cái Đạo điều ḥa như thế, tức là theo được cái Đạo Trung Dung của Khổng Tử.

(Trích trang 27-30 Nho Giáo quyển Thượng của Trần Trọng Kim)  

 

        

5. H̀NH DÁNG VÀ ĐỨC ĐỘ CỦA KHỔNG TỬ

Khuyết lư tả rơ cái h́nh dáng của Khổng Tử: Người to lớn, có tướng ngũ lộ là mắt lồi, lỗ mũi rộng, lộ hầu, tai bạt, hở răng. Mặt to và có những vạch nhỏ như quả dưa chín. Bàn tay hổ, ngực rùa, râu rậm, mồm rộng, miệng nói tươi, đi nhanh.

Tính Ngài ôn ḥa nghiêm trang và kính cẩn. Luận ngữ chép rằng Phu Tử ḥa mà không nghiêm, uy mà không vũ, kính cẩn mà an vui tự nhiên. Lúc nào Ngài cũng ung dung và bao giờ Ngài cũng có cái vẻ tự nhiên vui vẻ.

Phu Tử lúc ở dưng th́ h́nh h́nh dáng khoan thai, mặt mài tươi tỉnh. Thiên Hương Đăng trong sách Luận ngữ đă tỏ rơ cái chí của Ngài trong những khi ăn uống, nằm ngồi không bao giờ không cầu lấy sự ngay chánh, kính đáo; lúc vào chỗ miếu đường, đối với vua, với quan lui tới rất kính cẩn, điều ǵ cũng giữ cho hợp lễ phép, không dám sai một phần ly, để bày tỏ cái Đạo của người quân tử là phải cẩn thận từng tí một. Lúc động lúc tỉnh, lúc nào cũng có thể là gương cho người ta bắt chước.

Khổng Tử nhất sinh rất cẩn thận và nhất là khi có việc tế tự phải tinh khiết thành tính để giao cảm với thần minh. Khi có việc chinh chiến quan hệ đến vận mạng của dân, của nước và khi có bệnh tật quan hệ đến tính mạng của người, th́ Ngài hết ḷng ǵn giữ. Những điều mà Phu Tử giữ ǵn cẩn thận là việc trai giới, việc chinh chiến, việc bệnh tật.

Ngài là một người rất nhân hậu, hễ thấy ai đau đớn buồn rầu th́ Ngài cũng động ḷng thương xót. Ngồi ăn bên cạnh người có tang th́ ăn không no, ngày nào đă đi điếu phúng về, suốt cả ngày không đàn hát. Một lần Thầy Tử Lộ nói rằng: “Đệ Tử muốn biết cái chí của Phu Tử thế nào?”. Ngài nói: “Lăo giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi”. (Lấy sự yên vui mà đối với kẻ già cả, lấy sự tin mà đối với bạn bè, lấy sự yêu mến mà đối với đứa trẻ thơ). Tính Ngài thích đàn hát, lúc Tề học nhạc Thiều 3 tháng, ăn không biết mùi thịt. Ngài nói rằng: “Chẳng ngờ học nhạc vui đến được như thế”. Ngài đàn hát với ai? Người ta hát câu nào hay th́ bắt hát lại để Ngài họa theo. Ngài học cái ǵ cũng ham mê như thế mà lúc nào cũng ôn ḥa vui vẻ và đă làm việc ǵ th́ hết sức làm cho được hoàn toàn.

Ngài rất hiếu học và suy xét những việc đời xưa và nói: “Ta không phải là người sanh ra đă biết, chỉ là người thích Đạo Thánh Hiền ngày trước, cố sức mà cầu lấy được”. Ngài hay nghĩ ngợi, ham học và hết sức dạy bảo người ta. Ngài nói rằng: “Thầm lặng nghỉ ngợi mà biết mọi lẻ, học mà không chán, dạy người mà không mỏi, ba điều ấy ta có điều ǵ hơn người đâu?”. Bất cứ điều ǵ Ngài cũng để chí học cho biết hoặc để hiểu điều hay mà theo hoặc để biết điều dở mà sửa ḿnh. Bởi vậy Thầy Tử Cống nói rằng: “Không có điều ǵ mà Phu Tử không học, nhưng không nhứt định học một Thầy nào”. Lúc đi ngoài đường với người ta cũng có thể học được. Ngài nói rằng: “Tam nhân hành, bất hữu ngă sự yên, trạch kỳ thiên giả nhi tần chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi”. (Ba người đi với nhau, tất có một người là Thầy ta, chọn người hay mà bắt chước, người dở mà sửa ḿnh).

B́nh sinh lúc nào Ngài cũng lo việc sửa ḿnh cho ngay chính. Ngài nói rằng: “Đức của ḿnh không sửa cho tốt, học của ḿnh không giản cho rơ, nghe điều nghĩa mà không theo được, đó là cái lo của ta vậy”.

Ngài học điều ǵ cũng cẩn thận không có khinh xuất, chưa biết đă cho là biết. Ngài nói rằng: “Có người chẳng biết rơ nghĩa lư ǵ đă làm, chớ ta không thế. Nghe nhiều rồi chọn điều hay mà theo, thấy nhiều mà chớ lấy, để xét cho rơ cái  hay cái dở th́ cũng đă cho là biết vậy”.

Ngài là người chí Thánh, chí Nhân mà Ngài vẫn khiêm tốn, không dám nhận ḿnh là Thánh, là Nhân. Ngài nói: “Nếu bảo ta là Thánh, là Nhân th́ sao dám đương, nhưng ta làm việc Thánh việc Nhân không chán, dạy người không mỏi, có thể bảo ta được thế mà thôi.”

Đối với các môn đệ Ngài rất dể dăi, hễ ai theo đúng lễ th́ không bao giờ Ngài từ chối. Ngài nói: “Từ người đem lễ bó nem trở lên, ta chưa từng không dạy ai vậy”.

Sự giáo hóa của Ngài có cái chủ ư làm sáng cái đức sáng của người ta, chớ không những đem cái biết của ḿnh hào cho người ta. Ngài dùng cách cho người ta tự hiểu được mọi lẻ phải trái. Ngài nói: “Ta có biết ǵ không?-Không biết ǵ cả. Có đứa quê kịch hỏi đến ta, ta không như không biết ǵ, đem đầu đuôi trước sau mà nói, làm cho người ấy biết hết mọi lẻ”.

Đó thật là cái phương pháp giáo hối rất hay để mở rộng cái biết của người ta vậy.

Đối với học tṛ, không bao giờ Ngài làm việc ǵ mà không cho mọi người biết. Ngài bảo các học tṛ rằng: “Các anh tưởng ta có dấu ǵ các anh chăng? Ta không dấu các anh điều ǵ cả; ta không làm điều ǵ mà không cho các anh biết, ta thực thế vậy”. Ngài ôn ḥa và thành thực như thế, cho nên học tṛ Ngài rất đông, mà ai cũng yêu mến và kính trọng Ngài như cha sinh ra vậy.

(Trích Nho Giáo Quyển Thượng trang 23-27 của Trần Trọng Kim)

 

 

6. TRIẾT ĐĂ TRỞ VỀ VIỆT NAM

Niềm tư tưởng lớn Ấn Độ nằm trong Bà La Môn Giáo. Luồng tư tưởng lớn Trung Hoa nằm trong Khổng Giáo và Lăo Giáo. Điểm đặc biệt nhất là cả hai luồng tư tưởng lớn nầy đều hướng về Việt Nam tập trung tại nơi đây, thăng hoa và phát triển đến cao độ, khiến nước nầy có một cái thế vươn ḿnh xa rộng khắp Đông Nam Á Châu, thiết lập một Liên Bang Đông Nam Á phồn thịnh  không những về vật chất mà nhứt về tinh thần trong nền văn minh trống đồng của ḍng họ Bách Việt, định cư khắp vùng Hoa Nam (Trung Quốc), Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Miên tới măi Mă, Phi, Nam Dương, Tân Tây Lan v.v…

Ấn Độ có kinh Vê Đà vốn nguồn gốc uyên niên của triết Ấn mà Upanishad đóng vai tṛ quan trọng bậc nhất, đồng thời được ca tụng hết mức. Nhưng phải đợi đến Phật Tổ ra đời (563 trước T.L) th́ lịch sử loài người mới coi đó như một biến cố vĩ đại, không tiền khoán hậu khiến Thánh Thần cũng như nhơn loại, tất cả đều nghiên ḿnh bái phục. Tất cả đều bái phục bởi v́ là một trong những bậc vĩ nhân trí tuệ thông minh vào bậc nhất thế giới, đă đem ánh sáng và hy vọng lại cho xă hội loài người.

Trung Hoa có Khổng Mạnh với Tứ Thơ Ngũ Kinh, trong đó Kinh Dịch phải nói là bộ kinh quí giá vào bậc nhứt. “Khổng Tử là Thánh, quan Thầy soi sáng thế kỷ 18 ở Châu Âu” đó là lời ca tụng của Richsvein…Đúng thế! Bởi v́ Châu Âu ngột ngạt tối tâm suốt thời trung cổ đến măi thế kỷ thứ 18 mới nhờ được ánh sáng của Khổng Mạnh khai quang, đưa Tây phương sang một lối rẻ của  lịch sử b́nh chánh xinh đẹp bằng những phong trào phục hưng văn nghệ (Renaissace litlé raisy). Cách mạng dân chủ năm 1789. Điều hạnh phúc nầy Tây Phương sở dĩ có được là đều nhờ ở bộ óc nhân bản của Khổng Mạnh (philosophie de l’humanisme). Trong khi Ediwin A.Burit tôn sùng Khổng Tử như một trong những nhà tiền Đạo tiên phong của văn minh nhơn loại th́ Platt và Drummond tŕnh bày để thế giới biết rằng: “Luân lư của Khổng Tử được hàng triệu người Trung Hoa sùng thượng và kinh điển của Ngài cũng như của đệ tử đều là những tác phẩm giáo khoa quan trọng bực nhứt của nền học thuật Trung Hoa.

Nhưng phải đến Lăo Tử mới thật đúng bậc siêu nhân không tiền khoán hậu. Lăo Tử chính là ông Tổ Triết Học của ḍng họ Bách Việt mà ngành tư tử của ḍng họ nầy là Vua Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, hùng cứ tại Việt Nam. Trong khi Khổng Tử của dân tộc Hán giáo hóa quần chúng Phương Bắc nguyên tắc “Nhập Thế” th́ Lăo Tử của dân tộc Bách Việt xiển phát ư nghĩa cao đẹp phóng khoán của triết lư “Xuất Thế” ở Phương Nam. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng Khổng Tử tuy đă được các triết gia Tây Phương đặc biệt là Leibnij suy tôn ngôi “Hoàng Đế của Triết Học Trung Hoa”, thế mà sau cuộc gặp gỡ ở Lạc Dương, Khổng Tử đă lực lực tán dương Lăo Tử v́ Lăo Tử là một con rồng tung hoành trên cơi trời mây cao rộng.

Tư tưởng của Phật ai dám nói không cao sâu, thế mà khi sang đến Trung Quốc cũng phải nhờ Lăo Tử dịch sách dùm ḿnh để truyền Đạo, th́ đủ rơ lời tán tụng của Khổng Tử như vừa nói thực chẳng vu khoát tí nào! Ngày nay trí giả Đông Tây đều cho Lăo Tử là một trong những tư tưởng gia cũng như một trong những bậc Giáo Chủ siêu quần bậc chúng của thế giới. Bởi thế không những Lăo Tử sống cho nhân loại mà c̣n sống cho cả thời đại của ông; ông là một trong số những bậc Sư thuần túy và sâu sắc nhất của loài người.

Hai luồng tư tưởng lớn Ấn Trung với Khổng, Lăo, Phật, Bà la Môn đă có dịp hội tụ tại Đông Phương, nhứt là Việt Nam mà nhiều người tin tưởng trong tương lai những luồng tư tưởng nầy có thể dung hợp thành một ư thức hệ kim đủ: chân, thiện, mỹ khả dĩ đem lại được cho Đông Phương và toàn thể nhân loại một cuộc sống tinh thần cũng như vật chất đầy đủ, tốt đẹp, luôn luôn khai phóng và hướng thượng.

Sự tin tưởng nầy cũng c̣n là một liều thuốc bổ vô cùng linh nghiệm để đối phó với bịnh t́nh cấp bách hiện tại của Tây Phương. Thức giả Tây Phương đă nhận thấy sự kém cơi của ḿnh hơn là một lần tự hạ, mong học hỏi và cầu xin Đông Phương giải cứu cho họ. Bởi thế triết học Tây Phương hiện đang phát động một phong trào di cư vĩ đại: di cư tại những nền móng cũ để đến định cư trên những nguyên lư mới…

(Trích lời tựa Kinh Dịch với Vũ Trụ Quan Đông Phương của Nguyễn Hữu Lương)

***

Chúng tôi rất đồng ư với ông Nguyễn Hữu Lương về sự trở về Đông Phương của Triết Tây Phương. Càng đồng ư hơn về Triết Trung Hoa và Ấn Độ đă tập trung tại Việt Nam. Nên xin sao lục bài Thánh Giáo của Đức Chúa Jésus Christ để làm bằng chứng cụ thể.

                      THI

“Cửa Hồng đuốc huệ rọi nên thông,

“Thế kỷ hai mươi phải đổi ḍng.

“Đạo Thánh khen ai mưu lợi dụng,

“Đường Tiên cậy kẻ phép thông công.

“Tây Phương trở gót về Nam Việt,

“Bắc Hướng quay đầu đến Lạc Hồng.

“Định thế nhờ tay Vi Hộ Pháp,

“Long Hoa Đại Hội mở Thiên Công.”

 

 Sao lục: Quang Minh

 

 

7. SƯ TỬ VỚI CHIM CON

Có một lúc Phật phán với Đại Đức Mục Kiều Liên rằng: Thuở xưa Bồ Tác Dỏng Thi (âm theo Pháp) là chúa sơn lâm c̣n ta là một nhà sư tuẩn. Một buổi sáng kia, vừa mới rạng đông, vua sư tử thức dậy, đứng ngay không lay động, ḿnh mẩy đều ngay cho. Kế vùng rống lên một tiếng như trời gầm. Liền đó các loài thú đều nằm mọp, các loài chim đều rớt xuống hết. Sư tử bèn đi kiếm ăn, gặp một thớt tượng, giết tượng và xé thịt ăn tươi. Nhưng có một xương tượng chận nghẹt nơi cuống họng. Sư tử bị mắc xương, lấy làm đau nhức sống th́ khó chịu mà chết cũng không xong.

Thoạt đâu có một con chim nhỏ đương mổ sâu thấy Sư tử rên la, hàm đang mở toác ra mà nói rằng: “Nầy chim ơi! Ngươi ráng cứu ta th́ ta không quên ơn ngươi”.

Chim nghe động ḷng thương bèn bay vào miệng sư tử và ráng lấy hết sức mổ rớt miếng xương ra. Vài hôm sau, sư tử đi kiếm ăn, được thịt rất nhiều. Chim nhỏ đậu gần đó mới xin chút ít đồ ăn. Sư tử không thèm đáp, lại ngâm một bài để nhạo chim:

Oai quyền một cơi chúa sơn lâm,

Quen tính nhay bây, lũ thú cầm.

Mặc sức ăn tươi xương chất đống,

Tha hồ xơi nóng thịt đầy mâm.

V́ ngươi trót dại nên ta bảo:

Nầy chúa đă dung thả khỏi hàm,

Một lúc khá thương nên chẳng nở,

Sao mầy lại vội phụ ơn thâm.

 

Chim nhỏ nghe xong ngâm lại rằng:

 

Nhỏ nhen chúc phận chốn sơn lâm,

Nên chẳng nề chi cái mạng cầm.

Nào phải kể ra ơn chặt dạ,

Mà sao lại tiếc thịt đầy mâm.

Ví chăng đó trọn lời nguyền trước,

Th́ tớ c̣n phen cứu lấy hàm.

Vẹn vẻ đôi bên ta xử khéo,

Tấm ḷng quân tử tớ ghi thâm.

Chim nhỏ đáp lời, giữ theo lễ phép của kẻ bề dưới, song sư tử chẳng đoái đến, bỏ đi. Chim mới nghĩ rằng: Ḿnh ra ơn cứu lấy mạng nó mà nó trở lại khinh thị ḿnh. Thôi bây giờ ḿnh quyết theo sau mà trả thù nếu chẳng rửa hận th́ hẳn đặng trời chung. Từ đó chim cứ bay theo măi, đến đâu nó cũng không xa sư tử một lần nào.

Một bữa kia, sư tử giết được thú, ăn thật no say rồi nằm bổ ra ngủ, không lo sợ chi cả. Chim mới bay lại gần, đậu trên tráng sư tử, rồi dùng hết sức lực mà mổ lọt hết một tṛng mắt. Sư tử sản sốt, chỗi dậy ngó quanh chẳng thấy ai, duy thấy một con chim nhỏ đậu trên cây, mới hỏi rằng: “V́ sao nhà ngươi lại mổ đui mắt ta?”

Chim chậm răi đáp lại bằng một bài kệ. Nó ngâm rằng:

Nầy ai là kẻ phụ ân sâu,

Đem tấm ḷng nhân chác lấy thù.

Rày đă dung cho c̣n  một mắt,

Ấy là giúp đó nghĩa thâm bâu.

Chúa làm oai giữ từng ngan ngửa,

Chim chóc thân bèo dể khật khù.

Rày kiếp đôi ta thôi tách nẻo,

Cũng đừng để bận măi cho nhau.

 

(Trích trang 31-32 Chuyện Phật Đời Xưa của Đoàn Trung C̣n”

 

 

8. ANH HÙNG ĐỜI VÀ ANH HÙNG ĐẠO

Lật lịch sử văn minh thế giới, bạn thường thấy 2 thứ người mà tên tuổi bất diệt trên không gian và thời gian. Đó là Vĩ nhân và Thánh nhân. Tôi muốn hiểu rơ vĩ nhân là những bật đa tài xuất chúng trong các ngành văn hóa, nghệ thuật, khoa học hay những vị lương đổng ra vào trận mạc bách chiến bách thắng. Bạn có thể gọi  Archiméde, Michel Auge, hai ông bà Curic, Nă Phá Luân, Thống Chế Foch là những vĩ nhân.

C̣n Thánh nhân, tôi hiểu là những bực người nuôi lư tưởng Đạo hạnh can đảm, chiến thắng t́nh dục, vượt chúng trong việc thực hiện những nhân đức và lấy cuộc sống hiện thế làm bàn đạp cho cảnh đời là sinh vĩnh phúc. Một Khổng Tử, Thích Ca, một Gaushi và chính ông hơn, một Bảo Lộc, một Thomas d’Aquin, một Curé, một Elisabeth là Thánh Nhân.

Người ta có thể gọi những bực trước là anh hùng đời và các vị sau là anh hùng Đạo. Có hai điều là những kẻ siêu quần v́ biết khai thác đắc lực nguồn t́nh cảm, trí tuệ và ư chí của ḿnh. Nhưng nếu tế nhị hơn một chút, bạn thấy anh hùng đời và anh hùng Đạo có những dị điểm quan hệ.

Trước hết anh hùng Đạo là những người tự chiến thắng ḿnh, nghĩa là tự ḿnh cầm cương các t́nh dục xấu trong ḿnh. C̣n anh hùng đời là những kẻ điều khiển thiên hạ. Song họ không nhứt thiết làm chủ lấy ḿnh.

Một anh hùng Đạo như Thích Ca dám gan ra đi t́m đường tự giác, bỏ lại sau lưng vợ đẹp con xinh, vàng kho bạc lắm. Một anh hùng đời như Nă Phá Luân đă một thời cầm trọn trong tay  vận mệnh Âu Châu, đi đến đâu th́ sông phải cạn, núi phải tan. Vậy mà con người ấy, một thời phải lận đận v́ ái t́nh, một mặc ḥ hét hàng vạn tinh binh, một mặt ngoan ngoăn như búp bê cái v́ cái liếc của nàng Joséphine. Anh hùng Đạo thắng ḿnh, anh hùng đời thắng kẻ khác.

Lăo Tử phê b́nh về họ: “Thắng nhơn, giả hữu lực tự thắng giả cường”. Anh hùng đời là người có sức mạnh căn cứ vào sức khỏe, quyền chức, tiền bạc, vũ khí. C̣n anh hùng Đạo có thể là những kẻ tay không về điều kiện nầy, nhưng làm chủ ḿnh, họ là những người anh hùng chánh tông.

Xét phương diện các khả năng trong con người, ta thấy anh hùng đời phát triển chu đáo trí tuệ. Nó minh mẩn giúp họ thấy xa hiểu rộng. T́nh cảm nơi họ cũng dồi dào, được khai thách xô đẩy, họ say mê phục vụ đường lối khoa học, nghệ thuật hay chánh trị mà nhờ trí huệ sáng suốt họ thấy. Ư chí là một nguồn hoạt động có khả năng cung cấp cho họ nghị lực chịu đựng gian lao. Nhưng cách chung: Người ta thấy họ hoặc bỏ hoan hoặc cẩu thả một lực lượng tinh thần là lương tâm. Đ̣i hỏi căn bản của lương tâm là trong sạch, giàu có, nhân đức. Lương tâm sống về cuộc sống lai sinh, vĩnh cửu, coi cuộc sống hiện thế làm phương thế.

Người anh hùng Đạo ngó xuyên qua kiếp nhân sinh cao lắm là 100 năm, một cái ǵ lâu bền làm thỏa măn cho con người hoàn toàn, cái ǵ đó đ̣i hỏi phải có lương tâm băng tuyết thánh thiện…..

……………..

Bạn có sức khỏe, nếu không như một Hùng Vương th́ như một Aujrete Gall, con người đă một thời dùng răng lôi nổi máy cày trên 100kg, tŕ lại nổi phi cơ gần 200 mă lực vô phương cất cánh. Bạn mừng bạn lên như diều trên đường kinh doanh mà tên tuổi đứng ngan vua xe hơi, dầu lửa, thép của Pháp và Huê Kỳ. Bạn càng mừng bạn huệ trí như một Salomon, quyền hành như Nă Phá Luân. Bạn rất mừng nhưng thưa bạn, bạn sẽ mừng hơn khi con đường của một Thích Ca, Soerate, Khổng Tử.

Anh hùng đời, hay lắm đấy, nó là lư tưởng của một số người; mà anh hùng Đạo là lư tưởng mà ai cũng phải thờ phượng…

(Trích trang 7-19 Thuật Sống Dũng của Hoàng Xuân Việt)

 

 

9. PHƯƠNG PHÁP LÀM CHỦ TÁNH PHÀM CỦA NGƯỜI GIỮ ĐẠO

*Diễn Từ của ông Giáo Hữu Thượng Tư Thanh

Người ta phải biết phương pháp làm chủ tánh phàm th́ mới có thể tu hành đặng, bởi chúng ta sanh tại thế nầy mang mảnh thi hài xác thịt nên phải kiếm thế nuôi thân, tranh giành lợi lộc, v́ cớ nên có nhiều việc sái quấy, sai lầm sa vào tội lỗi. Vậy ta phải phân biệt linh hồn và xác thịt, coi cái nào là phàm, cái nào là Thánh, rồi mới có thể trị phàm tôn Thánh.

Xác thân ta là phàm, linh hồn ta là Thánh. Phàm Thánh lẫn lộn, hai quyền phản khắc ở một mạng sanh. Nói cho chư Đạo hữu dể hiểu: linh hồn là chủ, xác thịt là tớ. Không khi nào mà xác thịt trung thành với linh hồn. Tại sao vậy? tại linh hồn hay nghiêm khắc, c̣n xác thịt th́ biến nhác, xảo trá vô chừng, bất cứ làm việc ǵ , hễ linh hồn hờ hửng th́ xác thịt cứ ăn qua, dầu phải nát cửa hại nhà cũng chẳng cần chi đến, miễn sao cho xác thân khoái lạc vui chơi cho thỏa chí. Chừng linh hồn biết đặng th́ ôi thôi việc đă lỡ rồi, chừng ấy ăn năng quá đổi, lại c̣n kiếm phương chửa lỗi. Vậy ta phải dè dặt, lanh lẹ mọi phương diện để thắng cái trận giặc thất t́nh của ta mới đặng.

Thất t́nh là bảy cái t́nh: hỉ, lạc, ai, nộ, ái, ố, dục. Bảy cái t́nh nầy rất nên nguy hiểm cho loài người mà cũng là quí giá cho bậc tu hành cao siêu Đạo đức. V́ cớ cho nên Đức Hộ Pháp Ngài tạo con rắn bảy đầu để trước mắt chư Đạo hữu. Mỗi lần chầu lễ Đức Chí Tôn, th́ Đức Ngài lên ngự trên ngôi Phật Hộ Pháp. Hai tay Ngài đè trên hai cái đầu: ai, nộ; hai chân Ngài đè hai cái đầu: ố, dục; đó là bí pháp Phật Pháp. Ngài trừ bớt hung ác ḷng phàm của nhơn sanh. C̣n ba cái: ái, lạc, hỉ (yêu thương, vui, mừng) Ngài để cho cất lên tức là làm cho nhơn sanh hưởng điều hạnh phúc.

V́ luật thiên nhiên của tạo đan sở định vạn vật hữu h́nh, nếu vô h́nh th́ con người ở cơi đời có ích chi cho xă hội. Ngặt mỗi người hữu t́nh lại thêm hữu cảm, tư tưởng dồi giàu th́ tâm thần lay động. Một bằng cớ hiển nhiên, mỗi ngày chư Đạo hữu vào bái lễ Đức Chí Tôn chắc ai ai cũng để hết tâm thành kính, nhưng mà nào có đặng đâu, tâm thần của chư hiền hữu cứ măi lai động, trí óc nhớ mọi điều, đó là tâm chẳng định, thân không an. Chư Đạo hữu thử nghỉ coi, cái quyền vật dục của xác phàm lợi hại là dường bao. Vậy người tu hành phải ép kềm cái ư muốn của ḿnh cho lắm.

Đây tiểu đệ xin tiếp đọc một đoạn văn của Đức Hộ Pháp dạy để thắng cái thất t́nh của ta:

Thắng nổi quyền vật dục,

Xứng đáng mặt khách trần;

Cảnh đau thương tay đỡ tay nâng,

Khối thiện ác sửa cân tạo hóa.

Giữa khổ hải đưa thuyền Bát nhă,

Giúp tinh thần giải quả trừ căn;

Sấn tay trau đẹp vẽ Đạo hằng,

Lượm giảm bớt nẻo trần gai gốc.

Đem cười để vào nơi cảnh khóc,

Lấy ḷng lành trừ nọc đau thương;

Chốn lầm than răi nước nhành dương,

Giữa trái chủ trau gươm thần huệ.

Chịu khổ thế t́m phương giác thế,

Lấy nhọc đời làm kiếp d́u đời;

Biến lợi danh ra cuộc tṛ chơi,

Làm phú quí thành mồi tại thế.

Sửa bác ái ra nên câu kệ,

Chế từ bi như thể bài kinh;

Noi vận hành quảng đại chí linh,

Góp nhơn loại làm t́nh cốt nhục.         

Kẻ sầu thảm cho vui hạnh phúc,

Người vô duyên hưởng chút ân hồng;

Trọng mạng sanh gầy phép đại đồng,

Kính vật loại đặng mong cứu thế.

 

Thưa cùng chư hiền huynh, hiền tỷ và chư Đạo hữu nam nữ, hai chữ cứu thế nghe qua rất nên cao trọng, v́ từ xưa đến nay những bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật hạ thế lập Đạo độ đời mới gọi rằng cứu thế. Các Đấng ấy cũng mang xác thịt như ta, nhưng khác hơn là tuy mang xác phàm mà làm chủ được tánh phàm. Phương đạt Đạo của các Đấng là quên ḿnh làm nên cho người. Ngày nay Đức Chí Tôn đến lập Đạo đây Thầy lại nói rằng Thầy phế hết Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh Kim Khuyết hạ trần mà độ rỗi các con. Vậy chúng ta lấy chi để đền đáp công ơn Thầy cho xứng đáng?

Nên chúng ta phải lo tu tâm dưỡng tánh, diệt tận ḷng phàm, tập nên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật th́ mới khỏi uổng công Thầy d́u dắt bấy lâu. Muốn đặng vậy chư Đạo hữu phải lo tập ḷng tử bi, bác ái hằng ngày tức là thương yêu muôn loài vạng vật. Tập sao ḷng thương nầy như trời cao bể rộng, vô tận vô biên, không phân biệt thân hay sơ, đồng chủng hay ngoại ban và ḷng thương bao hàm tất cả chúng sanh trong vũ trụ. Người có ḷng từ bi bác ái đă hiểu rơ cơ Trời và biết rằng ngày nay thiên hạ tiến hóa không đồng bực với nhau là tại phàm nhơn của mỗi người mỗi khác.

Bề ngoài th́ như thế mà căng nguyên cả thảy đều đồng bảng tánh Thiêng Liêng với nhau và đều là toàn thiện cả. Ḷng từ bi bác ái của con người khởi đầu trong t́nh mẹ thương con. Có thương con th́ bao giờ cũng sẵn sàn hy sinh cho nó. Khi xưa Đức Phật Thích Ca có dạy: “Tất cả phương diện thực hành trong kiếp nầy đặng kết quả không bằng ḷng từ bi, bác ái”. Ngài lại nói: “Nếu các con muốn phụng sự ta hăy phụng sự kẻ đau ốm, bịnh hoạn kia”. Đức Chúa Jesus cũng có dạy: “Các con giúp đỡ một em nhỏ mọn nào của ta tức là giúp đỡ ta vậy”.

Ḷng từ bi bác ái là căn nguyên của nhiều tánh tốt: bố thí, hy sinh, khoan dung và can đảm. Đức Đế Quân cũng có nói rơ: “Có mấy đức tính khác mà thiếu ḷng từ bi, bác ái th́ cũng như nước đổ xuống cát bị rút đi mất hết”.

Vậy anh chị em là người giữ Đạo hăy ráng lo tập ḷng từ bi, bác ái hằng ngày. Một việc nhỏ có phước cũng chẳng nên bỏ qua. Một điều chi có tội cũng chẳng nên làm. Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu đến lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ chẳng khác nào đem giao cho chúng ta một bát cơm, một mảnh mền lại bảo chúng ta phải kiếm kẻ đói sớt cơm cho họ ăn, kiếm kẻ thiếu mặc bị lạnh lẽo đắp mền cho họ ấm. Trái lại kẻ khổ, kẻ thiếu chúng ta không thấy ai đến giúp, chia bớt phần khổ năo, lại lo vừa giúp cho kẻ dư ăn, vát chiếu khiên mền cho người dư ấm. Thử hỏi làm như thế có đúng Thánh ư Đại Từ Phụ chăng? Có phải là làm âm chất như vậy chăng?

Nếu chúng ta không làm y theo lời của Đại Từ Phụ dạy, tức là nghịch Thánh ư của Thầy vậy.

Tiểu đệ xin đọc bài thi của Thầy dạy trong Thánh Ngôn hiệp tuyển cho chư Đạo hữu nhớ:

Nên tṛ Đạo đức dể ǵ đâu?

Vui chẳng vui, sầu chẳng dám sầu.

Cái khổ của đời ḿnh ước vọng,

Cái chê của chúng lại nài cầu.

Bài giảng nầy có nhiều lời của Thần, Tiên, Thánh, Phật dạy, xin chư hiền hữu nam nữ cố gắn tập ḷng từ bi bác ái diệt tận ḷng phàm đặng đợi ngày công viên quả măn, chúng ta về cùng Đại Từ Phụ lănh phần thưởng rất xứng đáng.

 

 

10. SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN

* Bài nầy đọc tại giản đài Ṭa Thánh Tây Ninh

Ngày rằm tháng 4, năm Nhâm Dần (18-5-1962)

Phối Sư Đặc Nhiệm Thượng Vinh Thanh

 

Lúc nầy cần hơn lúc nào hết, giữa nền Đạo gặp cơn thử thách, tệ huynh nhận thấy có bổn phận nhắc nhở chư Đạo hữu về vấn đề “Đức Tin”.

Đức tin mạnh, trọn ḷng tin tưởng rằng chi chi cũng có Chí Tôn, th́ dầu phải trải qua bao nhiêu trở lự, chúng ta cũng có thể vượt qua khỏi đặng.

Nhơn việc xem đặng một đoạn văn của ông Bảo Pháp viết trong quyển “Đức Tin”, tệ huynh mạng phép đọc ra đây để cùng nghe, cùng hiểu, cũng có thể bổ ích một phần nào về vấn đề tin tưởng trong Đạo giáo. Đoạn văn ấy như thế nầy:

Đức tin là cái làm sao,

Đức tin là cái đắp cao Đạo Trời;

Đức tin chở núi như chơi,

Cho hay thần lực muôn người khó đương.

Đức tin bày tỏ Thiên Đường,

Phân rành địa ngục đôi đàng cách xa;

Đức tin gầy dựng Đạo nhà,

Đường ngay chỉ đến, nẻo tà tránh dang.

Đức tin đánh đổ dị đoan,

Khỏi điều lăng phí tiền ngàn bạc muôn;

Đức tin kềm chế trẻ con,

Ai ơi ghi tạc vào ḷng chớ sai.

Đức tin chớ để lung lay,

Một phen lâm vấp ngàn ngày ăn năn.

 

Để phân biệt được mọi lẻ thực, hư, tà, chánh trên con đường Đạo đức tinh thần, toàn thể con cái Chí Tôn có bổn phận hằng tâm ung đúc một đức tin mạnh mẻ nơi quyền năng Thiêng Liêng cao cả của các Đấng, dâng trọn tâm thành cho các Đấng, trao giồi ư chí thanh cao, diệt tận phàm tâm, gội nhuần Thánh đức, tiến hóa trên con đường duy tâm, kiến tạo cho đời sống thái b́nh, thấm nhuần nguồn bác ái, cộng đồng vật loại, để trọn tâm thành, ấy là trọng lễ hiến cho Đức Chí Tôn và Phật Mẫu.

Muốn đạt được mục đích trên, chúng ta cần phải có đức tin vững chảy, trọn tin nơi quyền Thiêng Liêng, thành tâm giữ qui điều của Đạo, đó là phương châm tiến bước trên con đường chơn lư.

Giữa lúc vàng thau lẫn lộn, kim thạch khó phân, nền Đạo dường như phủ một lớp mây mờ, chính là lúc thử thách đức tin của con cái Đức Chí Tôn và Phật Mẫu. Xưa nay các bậc vĩ nhân, ai cũng phải đỗ lắm mồ hôi, nhiều cực nhọc mới đoạt được thành công của sự nghiệp. Và không một bực Chí Thánh, Chí Nhơn nào bước đến cửa hằng sống mà chẳng lỡ gối trầy chơn.

Những người được thành công, phần đông họ cũng lắm lần thất bại, song họ vẫn cương quyết đi đến mức thành công ấy cũng nhờ vững đức tin. Khi đă có đủ đức tin rồi, th́ dù có gặp trở lực nguy biến thế nào cũng không lung lay được chí thanh cao và tánh tự chủ của họ được.

Nếu chúng ta tu hành mà c̣n mờ hồ nghi hoặc, không trọn tin nơi quyền năng Thiêng Liêng, đến khi chung qui mới thấy đặng cơ mầu nhiệm, chứng ấy đă muộn rồi.

Hễ chúng ta tin tưởng Trời, Phật th́ Trời Phật cảm ứng với chúng ta. Đức tin ví như b́nh đựng nước, cơ cảm ứng với đức tin tỷ như nước được đựng vào b́nh. B́nh lớn chứa nước nhiều, b́nh nhỏ chứa nước ít. Đức tin mạnh, nhiều cảm ứng. Đức tin yếu, thiếu cảm ứng.

Nếu chúng ta:

Muốn đặng ngọc th́ vào non thẩm,

Muốn t́m vàng th́ ngắm biển sâu;

Muốn nên phú quí công hầu,

Th́ ta phải chịu dăi dầu tuyết sương.

Biện Ḥa đă đôi phen dâng ngọc, dầu thiệt đến thân cũng không sờn ḷng dâng chí, cũng là do nơi đức tin mạnh mẽ, biết viên ngọc quí c̣n ẩn đá. Đức tin chúng ta quí như viên ngọc ấy vậy.

Chí Tôn có dạy:

Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,

Để mẻ th́ ai chẳng tiết thầm;

Đạo đức măng đời đừng trở dữ,

Làm cho mất nghiệp mấy muôn năm.

Chúng ta muốn sớm đến chơn Thầy để thấm nhuần ân huệ hầu đoạt cơ hằng sống th́ không ǵ hơn là phải đầy đủ chánh tín, dầu gặp bao trở lực, tâm thành vẫn vững mạnh, chí khí vẫn thanh cao.

Cơ khảo được có mắc mỏ truân chuyên, mức thành công mới vẻ vang quí báu.

“Lửa thử vàng, gian nan thử Đạo”.

Đức Chí Tôn có cho bài thi như vầy:

Thiệt vàng gặp lửa tuổi càng cao,

Dầu gọi ḿnh khờ cũng chẳng nao;

Theo Đạo Cao Đài ơn cứu độ,

Muôn năm hưởng phước trở về sau.

Đức tin nếu ai xô cũng ngă, ai chuyển cũng lay, th́ nghiệp Đạo c̣n chi vĩnh cửu, mà cơ cứu thế trong thời kỳ hạ nguơn nầy, Chí Tôn tạo ra để tận độ chúng sanh, chẳng là vô ích lắm ru?

Không, chúng ta quả quyết rằng không!

Chúng ta tin rằng, không một quyền năng nào cải sửa Thánh ư của Đức Chí Tôn đặng.

Muốn thành Đạo phải có tâm thành, muốn đặng tâm thành phải có đức tin mạnh mẻ. Đức tin càng lớn, chí khí càng cao, th́ tinh thần Đạo đức càng vững.

Tệ huynh có mấy lời trên đây luận về “Đức Tin” xin chư Đạo hữu lưu ư.

 

 

11. ĐIỀM ĐẠM THẮNG TẤT CẢ

Cái dũng của Thánh nhân tức là chỗ cùng cực của điềm đạm.

Tích xưa, theo thần thoại của Phù Tang, các vị Thần ở trên cơi Trời, có một khi cũng tranh nhau quyền bá chủ cả thế giới. Bất kỳ là vị nào cũng đều cho ḿnh là quyền lực trên hết tất cả Trời Đất. Các vị Thần mới nhất định bầu cử một người làm trọng tài trong cuộc thi chọi, coi ai được làm bá chủ. Vị trọng tài nầy có trí phán đoán và tính ngay thẳng đặc biệt, cũng là người cao tuổi hơn hết.

Trong các vị Thần, một vị bước ra nói: “Các Ngài hăy xem đây, sẽ thấy rơ sức mạnh phi thường của tôi như thế nào?”. Tức thời một ánh sáng chớp  lạnh xương, liền theo đó tiếng sấm nổ vang làm rung động cả không trung, dường như cả thế gian đều rung ring sắp đổ. Các vị Thần đều tái mặt, lúc bấy giờ không ai dám nghĩ ḿnh bất xâm phạm nữa.

Vị Thần Băo Tố bước ra nói: “Sức mạnh của tôi c̣n ghê gớm hơn nữa kia. Hăy xem dưới kia, cánh đồng mênh mông lặng lẻ…

Nói vừa dứt lời, bổng mặt nước biển dâng lên. Ban đầu từ từ, kế đó sóng nổi gió tung. Nước càng dâng, gió càng lớn, sóng càng to…cuồn cuộn ầm ầm…chỉ thấy c̣n một vùng nước mênh mông trắng giả. Những ngọn núi cao, sóng đánh tan riết, không c̣n thấy mặt. Sóng càng lúc càng cao, gió càng lúc càng lớn…như muốn ch́m ngập đến cơi Trời. Các vị Thần thất sắc, cầu khẩn xin tha. Thần Bảo Tố vẫy một cái, sóng lặng, gió êm, bấy giờ nước liền lao xao, sóng chạy lăn tăn trên băi cát.

Các vị Thần vừa tỉnh trí hoàn hồn th́ nghe có một giọng lănh lót cất lên: “Sức mạnh không phải ở sự phô trương của sức bạo tàn, v́ nó chỉ có phá hoại mà không tạo lập. Sức mạnh ở cái sự khuất phục ấy bằng ư muốn của họ. Người ta cảm v́ sự dịu dàng mà chịu khuất phục chớ không phải v́ sự khủng khiếp mà chịu khuất phục. Dứt lời, vị Thần Âm Nhạc lấy ống tiêu thổi một hơi dịu dàng êm ái như thế nào mà hết thảy các vị Thần mê mẫn tân thần như ngây dại…Tất cả đều như bị sức âm nhạc lôi cuốn vào giấc ngủ thôi miên.

Nhưng có một vị Thần, thái độ huyền bí dường như thản nhiên bất động.

Vị Thần không thấy sấm sét mà chóa mắt, sóng bủa nước dâng cũng không khiến gương mặt trầm tỉnh của ông thay đổi. Tiến nhạc du dương thăng trầm huyền ảo kia cũng không cảm động ḷng ông chút nào cả.

Vị trọng tài dai qua hỏi: “Ngài có mù điếc ǵ không?”

-Không, tôi thấy và tôi nghe.

-Tại sao Ngài không động ḷng? Sấm nổ, nước dâng không làm cho quả tim Ngài xao động lên sao? Nhạc Thần, Tiên, Thánh không làm cho tâm hồn Ngài xao xuyến sao?

-Ngài lầm! quả tim tôi cũng đập, tâm hồn tôi cũng xao.

-Nhưng sao gương mặt Ngài tôi không thấy lộ vẻ lo sợ hay vui sướng v́ cả.

-Không, tôi là “Điềm Đạm”. Tôi là kẻ biết huấn luyện cảm giác tôi, tôi là kẻ đă làm chủ cảm giác tôi rồi. C̣n các Ngài, các Ngài chỉ là những người chỉ làm tôi mọi nó v́ chính các Ngài đă không thể chế trị nó. Có ích ǵ lo đi chế trị vật quanh ḿnh, trong lúc mà một tiếng nhạc tiêu dao cũng đủ làm lay cái tay cầm sấm sét kia phải rụng rời như rũ riệt, c̣n nói đến nghị lực nổi ǵ? Kẻ có tài ảo hoặc người kia khi thấy nước dâng, nghe sấm nổ cũng vẫn lau nhau lo sợ như ai…”

Các vị Thần cúi mặt làm thinh. Vị trọng tài nói tiếp: “Quyền bá chủ là người nầy. Sức mạnh thật sự nơi tâm hồn điềm tỉnh của người nầy. Hơn cả sự điều khiển sự vật, người nầy đă khéo biết điều khiển t́nh dục của ḿnh.

“Bất kỳ là một thế lực nào, nếu c̣n một thế lực khác đánh ngă, không c̣n gọi đặng là sức mạnh nữa. Người nầy không phô trương những thế lực vô ích như thế, rơ là người có sức mạnh trên hết. Bất kỳ là những âm thị, những dẫn dụ nào cũng không làm nao núng tâm hồn người nầy đặng. Trái lại người nầy đă thấy hết và đă khéo lợi dụng cả thảy để làm tôi mọi cho ḿnh. Nếu các anh em tin cậy nơi sự phê phán của tôi  th́ tôi xin nói thật: “Vị Thần Điềm Đạm nầy là chúa tể của chúng ta cả thảy.”

(Trích trang 17-21 Cái Dũng của Thánh Nhân của Nguyễn Huy Cần)

 

 

12. CẤM UỐNG RƯỢU

*Thánh Giáo của Đức Chí Tôn ngày 15-12 Bính Dần (dl 18-1-1927) tại Tây Ninh

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG

Các con, chư chúng sanh b́nh thân, chư Thiên Phong, c̣n các chúng sanh ngồi…các con nghe:

V́ sao phải giải tửu?

Thầy đă dạy rằng: Thân thể con người là một khối chơn linh câu kết lại; những chơn linh ấy đều là hằng sống; phải hiểu rằng: ngũ tạn lục phủ cũng là khối sanh vật mà thành ra, nhưng mà phận sự chúng nó làm thoảng hiểu biết hay là không hiểu biết đều do nơi lịnh Thầy đă phán dạy.

Trước Thầy nói v́ cớ nào rượu làm hại cho thân thể con người về phần xác.

H́nh chất con người vẫn là thú, phải ăn uống mới nuôi sự sống, như rượu uống vào tỳ vị nó chạy vào ngũ tạng lục phủ đủ hết, th́ trái tim con người chẳng khác như cái máy chánh để trữ sự sống, cũng phải bị nó thâm nhập vào làm cho sự lao động quá chừng đổi thiên nhiên đă định, thôi thúc huyết mạch phải vận động một cách vô chừng mà làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết tinh sạch cho đặng. Trượt huyết ấy thối lại cùng trong thân thể, để vật chất ô trượt vào trong sanh vật. Mỗi khối ấy ăn nhằm phải bịnh, một ngày thêm một chút, hết cường tráng, cốt chỉ lần lần phải chết th́ thân thể các con phải chết theo.Nhiều kẻ bị chết nửa thân, v́ rượu nên ra đến đổi.

Thầy dạy về hại của phần hồn các con: Thầy nói cái Chơn Thần là Nhị xác thân các con là khí chất, (le sperme évaporé) nó bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy, nơi trung tim của nó là óc, nơi cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là Vi Hộ; nơi ấy Hộ Pháp hằng đứng mà ǵn giữ chơn linh các con khi luyện thành Đạo, đặng hiệp một với khí rồi khí mới thấu đến chơn thần hiệp một mà siêu phàm nhập Thánh, th́ óc là nguồn cội của khí mà óc cũng là huyết mạch vận động vô chừng làm cho đến đổi tán loạn đi th́ Chơn Thần thế nào mà an tịnh đặng điều khiển, thân thể phải ra ngây dạy, trở lại chất thú tính; mất phẩm nhơn loại rồi, c̣n mong chi đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật. Lại nữa, buổi loạn luân ấy để cửa trống cho tà mị xung đột vào, giục các con làm việc tội t́nh mà phải phận luân hồi muôn kiếp.

Vậy Thầy cấm các con uống rượu nghe à.

Thầy ban ơn cho các con. Thầy thăng.

(Trích Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển I, trang 58-59)

 

 

13. PHẢI TỰ LẬP NƠI CƠI THẾ

*Thánh Giáo Đức Chí Tôn ngày15 Avil 1927 Phú Nhuận

Máy Thiên cơ các con chưa rơ; các con cứ tưởng lầm rằng Thầy không kềm chế kẻ vô lương đặng. Các con hằng muốn thấy kẻ ấy bị hành phạt nhăn tiền, th́ mới vừa ḷng các con. Nhưng Thánh ư Thầy không phải vậy đâu. Thầy đă nói cho các con hay trước rằng: Nếu các con không tự lập ở cơi thế nầy là cái đời tạm của các con, th́ Thầy cũng không bồng ẩm các con mà đỡ lên cho đặng. Ấy vậy, cái vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó. Thầy v́ công lư mà khai Đạo cho các con cũng là một phúc hạnh lớn cho các con. Nếu Thầy c̣n đưa tay bồng ẩm th́ các con chẳng c̣n để ư chịu nhọc v́ Đạo, Thầy lại nói rằng: Ngày nào các con c̣n trông thấy một điều bất b́nh ở đời nầy, th́ Đạo chưa thành vậy.

Mối Đạo Thầy đưa các con phăn đầu hết, th́ các con phải biết trách nhậm các con lớn lao cao thượng là chừng nào. Nếu các con không biết nghĩa vụ của Đạo, th́ sao cho xứng đáng. Vậy Thầy khuyên các con cứ th́n ḷng, th́n nết, cho có trật tự trong Đạo, th́ tức nhiên muôn điều khó nhọc cũng tan như giá?

Các con v́ Đạo là công lư đánh đỗ cường quyền, th́ Đạo mới phải Đạo. Các con hiểu à!

(Trích Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển I, trang 73)

 

 

14. NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH TƯƠNG KHẮC

Hăy lấy kinh nghiệm hằng ngày xét trường hợp tương sinh của ngũ hành. Lấy một mồi lữa đốt đống củi (Mộc). Củi phát cháy (Hỏa) bốc càng ngày càng lớn. Lữa cháy hết trơ lại đóng tro tàn (Thổ). Tro tàn lâu năm trong ḷng đất kết hợp thành kim khí (Kim). Kim khí đào lên, đốt nóng hoặc bị lửa trong ruột trái đất nung nóng chảy ra thành nước (Thủy). Rồi từ trong  nước (sông, bể), cây cối (Mộc) mọc ra…Như thế cái lư tương sinh thật đă được chứng minh cụ thể và rơ ràng.

Đến tương khắc, thực tế cũng giúp chúng ta giải thích được. Cây cối (Mộc) mọc khắp mặt trái đất (Thổ) đến nổi đất không ngóc đầu lên được. Thổ không lên được th́ xuống, xuống những biển nước lớn để hút nước, thấm nước (Thủy) để lắp biển, lắp sông. Nước bị đất đàn áp, tức uất bèn biến thành hơi bay lên không hợp lại với nhau đổ từng cơn mưa lớn xuống đầu lửa (Hỏa) cho đă nư. Lữa bị dập tắt, nhưng chẳng lẻ để mất mặt với thiên hạ, lửa tức ḿnh đốt cháy sắt (Kim) cho hỏa sơn phung ra ngoài để thị oai. Sắt được bác phó rèn đem rèn thành dao, tha hồ mà chặt cây (Mộc) đẵn cũi, giúp các bà nội trợ làm bếp.

 Thuyết ngũ hành sinh khắc chẳng c̣n có thể ngờ được là mờ hồ, viễn vong. Nó được áp dụng ở khắp mọi nơi dù ở lănh vực vũ trụ hay ở nhân sinh. Thuyết ngũ hành sinh khắc được minh chứng rơ ràng nhứt phải nói ngành Đông y. Khi chữa bịnh ông Lang không được quên thuyết Âm Dương và thuyết Ngũ Hành sinh khắc. Ở các ngành lư số cũng vậy, nếu bỏ 2 thuyết nầy th́ coi như vô dụng.

Bởi v́ Thổ chiếm trung cung và sẵn sàn yểm trợ các hành khác. Cho nên Văn Vương đă phân đôi ảnh hưởng của Thổ ra cho Khôn (Âm Thổ) và Cấn (Dương Thổ); đặt Khôn ở Tây Nam để điều lư trường hợp Hỏa Kim tương khắc; đặt Cấn ở Đông Bắc để tạo điều kiện cho cuộc tương khắc giữa Mộc, Thổ, Thủy. Thổ vượng ở tứ quí (1 tháng chót của 4 mùa) cho nên tháng trung độ giữa hè và thu (tháng 6) có thể dùng làm trung gian giữa Hỏa và Kim; tháng trung độ giữa Đông và Xuân (tháng chạp) có thể đứng làm trung gian giữa Thủy và Mộc. Nếu nói tháng 12 Chí th́ tức quí là Th́n, Tuất, Sửu, Mùi, thường gọi là tứ khổ hay tứ Mộ.

Nếu không có Khôn Thổ ở Tây Nam th́ biết lấy ǵ để làm “sinh” giữa Hỏa và Kim; và nếu không có Cấn Thổ ở Đông Bắc th́ biết lấy ǵ để làm “Khắc” giữa Mộc và Thủy? đang tương khắc mà chuyển qua tương sinh, đang tương sinh mà chuyển qua tương khắc, vai tṛ yểm trợ của Thổ thật hết sức quan trọng, chẳng khác ǵ tổ chức Liên Hiệp Quốc khi phải điều giải những mâu thuẫn trên trường quốc tế hiện nay. Cái sáng kiến tuyệt diệu của Văn Vương là ở chỗ đó.

(Trích trang 376-377 Kinh Dịch với Vũ Trụ  Quan Đông Phương của Nguyễn Hữu Lương)

 

 

15. TÂY NINH DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN & PHÁP THUỘC

A. TÂY NINH DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN

Năm Mậu Tuất 1779, Chúa Nguyễn Phúc Ánh tự Nguyễn Ánh khởi nghĩa đánh Tây Sơn, qua năm Canh Tư 1780 lấy thành Phiên Trấn Dinh, tức là Tỉnh Gia Định hiện nay, nhưng ít lâu bị Tây Sơn đánh bại.

Nguyễn Ánh và các quan hộ giá cùng nhau đi khắp vạn nẻo đường đất nước ở Miền Nam, đồng bằng, rừng núi xa xôi, hẻo lánh đều có dấu chân Ngài bước đến, để lẫn tránh Tây Sơn và thâu phục nhân tài giúp nước. Khi thất thủ Phiên Trấn Dinh, Ngài và đám quần thần chạy lên miệt Trảng Bàng, G̣ Dầu Hạ, lướt bụi băng rừng để t́m đường sinh lộ, lên đến Tây Ninh, Chúa tôi vất vả gian truân, chống chỏi với thời tiết trong rừng sâu nước độc, nhưng Ngài vẫn giữ một ư chí phục nghiệp cơ đồ chờ ngày thống nhất đất nước.

Lúc Nguyễn Ánh đến Tây Ninh thường hội họp quần thần nơi một cánh rừng hoang vắng để bàn mưu tính kế khắc phục lại thành Phiên Trấn Dinh: khu rừng nầy được dân gian kêu là sân “Chầu” đến nay đồng bào địa phương thường nhắc đến.

Qua năm Giáp Thân 1784, Nguyễn Ánh sang Xiêm cầu viện ở nơi đây 4 năm thao lược binh mă, đến đầu mùa Thu năm Đinh Mùi 1787 về nước khắc phục thành Phiên Trấn Dinh cải tên là Tỉnh.

Năm Kỷ Dậu 1789 nhờ có viện binh Pháp sang giúp và đầu năm 1802, Nguyễn Ánh dẹp xong Tây Sơn lên ngôi cửu ngũ, lấy niên hiệu Gia Long, quốc hiệu là Đại Nam Quốc.

Nhớ đến lúc phong trần rài đây mai đó, khi đến Tây Ninh được một vị Nữ Thần báo mộng chỉ bảo cho Ngài nơi cầu viện, vua Gia Long ban cho vị Nữ Thần trên núi Điện Bà một sắc chỉ, chức tước để tạ ơn người khuất mặt.

Tây Ninh là một phủ của tỉnh Gia Định, phía Nam đặt dưới quyền cai trị của một Tri Huyện trấn nhậm tại địa điểm làng Cẩm Giang ngày nay và một tri huyện khác cai trị tại vùng tỉnh lỵ Tây Ninh hiện giờ.

Sau ngày Vua Gia Long thống nhất sơn hà, lập triều đại nhà Nguyễn, Cao Miên thần phục Việt Nam, hàng năm vẫn chịu cống sứ. Các sứ Miên mỗi năm mang lễ vật qua cống hiến Nam Triều, muốn ra Huế phải đi qua địa phận Tây Ninh, và đường quan cũ về sau được sửa sang biến đổi thành đường tỉnh lộ số 13 như ngày nay, và con lộ xóm Vinh. (V́ lẻ Sứ Miên đi triều cống, nên con đường này hăy c̣n được gọi là đường Cống Sứ).

Đến triều vua Thiệu Trị, Tự Đức, người Miên từng phen xua quân tấn công  Tây Ninh, nhưng không sao chiếm đóng được lănh thổ do người Việt đă dày công khai phá. Những trận đánh nhau dữ dội nhất, vẫn là những trận xảy ra trên chiến trường Trà Vong.

Khoảng năm 1846, quân Miên xua quân sang đánh. Tri Phủ Huỳnh Công Giản đại diện Nam triều trấn nhậm Tây Ninh cầm quân ra ngăn giặc. V́ giặc quá đông, quân ở phủ quá ít. Nam quân thất thủ. Quan Tri Phủ cùng viên chánh tổng tuẩn tiết. Sau đó dân chúng thương tiếc xây miếu thờ Tri Phủ Huỳnh Công Giản và vị Chánh Tổng đă đền nợ nước. Mỗi năm đều có cuộc tế lễ linh đ́nh, tri ân hai vị anh hùng vị quốc vong thân.

Chẳng bao lâu, Nam quân từ saigon gởi lên tiếp viện đă đánh đuổi được quân Miên, chiếm lại phủ đường, lập lại trật tự an ninh không mấy chốc.

B. TÂY NINH DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC

Nằm trong tỉnh Gia Định gồm: Tân AN, Chợ Lớn, Tây Ninh, G̣ Công và Tân B́nh. Tây Ninh lúc bấy giờ sáp nhập  về Sài G̣n, hai đoàn quân sự được thành lập tại Tây Ninh và Trảng Bàng để thay thế hai Tri Huyện của Nam Triều. Đến năm 1868, hai đoàn quân sự nói trên bị băi bỏ, thay thế bằng hai ty hành chánh: một đặt tại Tây Ninh và một đặt tại Trảng Bàng.

Rồi do quyết định ngày 5-6-1871 của Toàn Quyền Pháp tỉnh Tây Ninh được thành lập theo ranh giới, đồng thời quyết định nầy băi bỏ ty hành chánh Trảng Bàng mà lănh thổ được phân chia giữa Tây Ninh và Tân An.

Vào năm 1890, một phần đất khá quan trọng dọc theo rạch Ngă Bát bị cắt nhượng cho Cao Miên. Thời bấy giờ tỉnh Tây Ninh gồm cỏ trấn và 2 quận sau đây:

THỊ TRẤN

1.-Tây Ninh :

Trảng Bàng đất rộng mọc toàn cây lát, loại bàng dùng để đương đệm, bao.

2.-G̣ Dầu Hạ (g̣ đất mọc toàn cây dầu, c̣n “hạ”  đối chiếu với một g̣ đất khác cao hơn gọi là G̣ Dầu Thượng, hiện nay thuộc xă An Thạnh).

QUẬN:

1.-Quận Thái B́nh gồm có: 7 tổng, 34 xă.

2.-Quận Trảng Bàng gồm có: 3 tổng, 16 xă.

Đến năm 1942, quận Thái B́nh được đổi tên là Quận Châu Thành Tây Ninh, v́ vị trí nằm tại trung tâm Tỉnh.

(Trích Tây Ninh Xưa và Nay từ trang 16-22 của Huỳnh Minh)

 

 

16. XÂY BỬU THÁP TRƯỚC ĐỀN THÁNH

*Giáo Tông Đường, đêm 4-7-Kỷ Dậu (dl 16-8-1969) hồi 20h45

Pḥ loan: Hiến Pháp-Khai Đạo.

Hầu đàn: Thượng Sanh, Hiến Đạo, Đầu Sư, Chư Chức Sắc HTĐ, CTĐ nam nữ.

 

HỘ PHÁP

Kính chào hiền tỷ Nữ Đầu Sư, bạn Thượng Sanh, chư hiền hữu Hiến Pháp, Hiến Đạo, Khai Đạo, các em Hiệp Thiên và Cửu Trùng.

Bần Đạo rất vui mừng về việc hội ngộ hôm nay của chúng ta. Bần Đạo tin rằng các bạn có việc ǵ hay muốn tỏ cho Bần Đạo rơ. Vậy bạn Thượng Sanh khá cho biết.

Đức Thượng Sanh bạch:

1.-Ban Kiến Trúc có dâng lên 2 bảng đồ bửu tháp của Đức Ngài tới 16 thước. Hội Thánh Hiệp Thiên nhận thấy cao quá. Ư kiến của tiểu đệ để bề cao 12 thước là vừa, c̣n bề cao bửu tháp Đức Thượng Phẩm, bản đồ để 12 thước 20, xin sửa lại là 10 thước. Cầu xin đức Ngài phán định.

-Cười…Đáng lẻ Bần Đạo không cần phải nói thêm nữa, nhưng ư dâng là ư Trời. Bần Đạo không cải nhưng Bần Đạo muốn ba tháp bằng nhau, đừng phân giai cấp, nhưng anh Cao Thượng Phẩm muốn cho bửu tháp của Bần Đạo cao hơn ở giữa, c̣n Thượng Phẩm và Thượng Sanh phải thấp hơn, nên Bần Đạo cũng chấp nhận theo đề nghị của Thượng Sanh, nghĩa là 12 thước và 10 thước.

Việc ấy phải khởi công một lượt 3 ngôi bửu tháp cho dễ coi.

Bạn Thượng Sanh có đồng ư chăng?

Đức Thượng Sanh bạch: -Tiểu đệ đồng ư.

2.-Về cửa Chánh Môn, trước khi kiến tạo, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài có cậy vị kỹ sư Công Chánh Tây Ninh vẽ bản đồ và giúp ư kiến. Nay cửa Chánh Môn đă hoàn thành, duy có thiếu mấy cửa sắt. Hội Thánh Lưỡng Đài đều chấp nhận cửa mẫu cửa Chánh Môn, nhưng Ban Kiến Trúc và một phần Đạo hữu tỏ ư phản đối.

Cầu xin Đức Ngài cho biết tôn ư về cửa Chánh Môn.

Cứ làm theo kiểu của Hội Thánh chấp thuận, nếu không vậy th́ Hội Thánh mất chủ quyền.

Cười…Bần Đạo lấy làm buồn cứ phải lo về hữu h́nh măi. Thượng Sanh phải ráng sức phi phàm mới chịu nổi các luồng giông tố bảo bùng, nó c̣n đeo đuổi theo hoài. Chúng ta cần phải đủ nghị lực. Thượng Sanh nghĩ sao?

Đức Thượng Sanh bạch:-Việc Đạo rất khó nên tiểu đệ phải ẩn nhẫn trong mọi việc để giữ sự điều ḥa trong nội bộ đối với các cơ quan Đạo, tiểu đệ phải tùy theo trường hợp mà xoay trở và có ẩn nhẫn mới làm phận sự được.

-Đáng khen nhưng phải có giới hạn.

Đức Thượng Sanh bạch:

3.-Bảng nội qui Ban Thế Đạo đă được Hội Thánh Hiệp Thiên Đài tu chỉnh vài điều khoản để cho sự tuyển chọn Chức Sắc Ban Thế Đạo được thực hành kỹ lưỡng hơn hầu ǵn giữ chơn giá trị của Ban Thế Đạo. Xin dâng lên Đức Ngài phê chuẩn.

-Cười…Cũng là việc hữu h́nh nữa. Nếu các bạn đă để trọn tâm chí vào việc ấy mà tu chỉnh th́ phải hay thêm chứ sao. Vậy Bần Đạo chấp thuận.

Đức Thượng Sanh bạch:

4.-Hội Thánh Cửu Trùng Đài c̣n thiếu Chức Sắc cao cấp đầy đủ khả năng điều khiển nên guồng máy Hành Chánh Đạo không tiến triển khả quan.

-Cứ để vậy c̣n hơn là đem những phần tử đă kể là bất lực th́ lại càng rối thêm.

Đức Lư Đại Tiên có thảo luận với Bần Đạo về việc tuyển chọn Chức Sắc cao cấp Cửu Trùng Đài, th́ nên t́m kiếm nhân tài trong hoặc ngoài Ban Thế Đạo sẵn ḷng t́nh nguyện hiến thân phục vụ cho Đạo th́ các bạn nên mời về tham khảo ư kiến. Nếu được th́ Đức Lư sẽ đặc cách ân phong quyền tước để phụng sự có hiệu lực hơn. Các bạn có đồng ư chăng?

Đức Thượng Sanh bạch:

-Nếu áp dụng thể thức đó th́ phải đợi thời gian lâu mới tuyển chọn được nhơn tài sẵn ḷng phục vụ. Tiểu đệ và các bạn Hiệp Thiên Đài sẽ cố gắn thực hành theo lời chỉ giáo của Đức Ngài .

-chừng đó Bần Đạo sẽ giúp các bạn thành lập đàn cơ nơi Cung Đạo.

Đức Thượng Sanh bạch:

5.-Những điều tiểu đệ cần hỏi đă chấm dứt. Xin Đức Ngài có điều chi dạy thêm, nhứt là chúng đệ lo ngại chiến tranh hiện tại sẽ có ảnh hưởng không hay cho vùng Nội Ô Thánh Địa.

-Cười…Chúng ta khi không mà phải chịu nạn chiến tranh, mặc dù Bần Đạo đă biết trước, nhưng cũng không tránh khỏi. Chúng ta chỉ cần giữ vững tinh thần, xem đó là tṛ chơi của trẻ con và đế quốc.

Chào các bạn.

Thăng

 

 

17. GIẢNG VỀ THẾ ĐẠO VÀ THIÊN ĐẠO CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM

 

A. THẾ ĐẠO

*Đêm 25 tháng giêng Nhâm Th́n (dl 20-2-1952)

Pḥ loan: Thừa Sử Trấn, Luật Sự Nhung.

Hầu đàn: Tả Phan Quân, Thừa Sử Phước, Luật Sự: Hưởng, Tú, Đúng, Cẩm, Cao

CAO THƯỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em.

Đêm nay Bần Đạo giải về Thế Đạo là ǵ?

Hẳn mấy em đă rơ đại cương về Thế Đạo là: Nam th́ Tam can Ngũ thường. Nữ th́ Tam tùng Tứ đức.

Song đó chỉ là thể của Nhơn Đạo hữu h́nh mà thôi.

Nếu mấy em hằng ngày tâm niệm có bấy nhiêu thôi th́ làm sao trọn vẹn được.

Trong Thế Đạo phải phân ra làm hai pháp lư: một là Thể pháp Thế Đạo, hai là B́ pháp thế Đạo.

Tam can Ngũ Thường, Tam tùng Tứ đức là thể đặng làm sở hành cho mặt Thể pháp Thế Đạo mà thôi, lấy đó làm chánh thể mà đi.

Bây giờ muốn Tam can Ngũ thường phải làm thế nào?

Quân Thần Can: Vua là kẻ chăng dân, vậy bổn phận phải lập trên những hành tàng để cứu giúp dân cho khỏi điều thống khổ. Ấy là công việc của Cơ Quan Phước Thiện bây giờ đó. Tôi th́ phải tỏ dạ trung thành đặng vừa giúp vua mà làm cho bá tánh an cư lạc nghiệp, tức là bổn phận của hàng Thiên Thể đó vậy.

Phụ Tử Can: Cha là người thay quyền Chí Tôn trong một tiểu gia đ́nh, tức nhiên là phải biết ḿnh có bổn phận giáo hóa, dưỡng dục, tức nhiên một Hội Thánh nhỏ trong gia đ́nh. Vậy con phải trọn hiếu, tức nhiên không làm điều nhục tổ hổ tông, tức là bổn phận của một tín đồ hay nói đúng hơn là môn đệ xứng đáng của Đức Chí Tôn đó vậy.

Phụ Phu Can: Chồng là người cầm chèo giữ lái đặng đưa một tiểu gia đ́nh đến chỗ Đạo đức thanh bạch, tức nhiên là bổn phận của Cơ Quan Hành Chánh đó vậy. Vợ là người tùng theo chồng để giúp an sự nghiệp, tạo nên hạnh phúc gia đ́nh, tức là bổn phận của Bảo Cô đó vậy.

Về Ngũ Thường th́:

NHƠN: là phải biết nghĩa đồng sanh, biết t́nh đồng hưởng âm dương chi khí, chẳng để ḷng sái loạn chơn truyền, tức là phải trọn vâng theo luật công b́nh bác ái.

NGHĨA: là phải biết trọn phận người để tạo nên danh trọng giá cao, tức là phải tạo nên phẩm hạnh mà nh́n rơ của chung đồng hưởng.

LỄ: là giữ hạnh nết đúng đắn để tạo nên một nhân phẩm, biết nhường biết nhịn, tức nhiên là phải giữ trọn hạnh Đạo đó vậy.

TRÍ: là phải thông hiểu việc thế mà đi, không để tên tuổi phải bị lời chê tiếng nhẻ, tức nhiên là phải trọn vâng luật pháp chơn truyền đó vậy.

TÍN: là phải đúng lời đúng hẹn, tức là danh chánh ngôn thuận, thuyết hành phải được giống in nhau, tức là phải trọn thệ đó vậy.

Đó là mặt Thể Pháp Thế Đạo.

C̣n mặt Bí Pháp Thế Đạo là phương tầm ra định hướng để vẹn giữ Tam Can Ngũ Thường, tức nhiên là trọn phần nhơn Đạo. Ấy là kết quả do Thể Pháp mà nên. Nói chung về Bí Pháp Thế Đạo, tức nhiên là phương giúp đời an nhàn Đạo đức đó vậy.

Về Tam tùng Tứ đức là phận của Nữ phái.

Tùng Phụ: Như người con phải giữ trọn tiết trinh, cũng như kẻ tín đồ giữ tṛn danh Đạo.

Tùng Phu: Như bóng tùy h́nh, tức nhiên phải ví ḿnh như một trong Thánh thể tùng Hội Thánh vậy.

Tùng Tử: là phải v́ đám hậu sanh mà quên ḿnh đặng tạo thành sự nghiệp tương lai cho chúng, tức nhiên là bổn phận của Chức Sắc vậy.

CÔNG, DUNG, NGÔN, HẠNH tức là việc làm cho nhơn sanh thoát khổ, lời nói để đưa đường giáo hóa, hành vi cử chỉ đặng treo gương mặt thế, tức là phải biết nâng cao giá trị của Thánh Thề Chí Tôn, nết na đầm thấm, giữ trọn thương yêu, tức nhiên làm nền móng cho đại đồng thế giới. Đó là Thể Pháp.

Kẻ đă trọn về mặt Thể Pháp, tức nhiên hiểu biết Bí Pháp. Bí Pháp không chi lạ hơn là phương pháp bí yếu để nâng cao giá trị cho Thế Đạo. Nói rơ hơn nữa là phương làm cho đời trở nên tận thiện tận mỹ. Nói theo nhơn sanh triết lư th́ Bí Pháp là kế hoạch nâng cao đời sống trong Nhơn Nghĩa đó vậy.

Mấy em đă rơ chưa? Kỳ tới Bần Đạo sẽ giải về Thiên Đạo. Bần Đạo kiếu.

TÁI CẦU: CAO THƯỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em.

Bần Đạo dẫn giải thêm về pháp lư: Một nhơn sanh phải giữ thế nào cho tṛn Nhơn Đạo?

Đạo Nhơn luân cần phải đủ Tam cang ngũ thường, v́ đó là nền gốc của nhơn luân.

Nhơn luân gồm có: Nhơn Đạo và Thiên Đạo.

Nhơn Đạo các em đă rơ, c̣n Thiên Đạo các em sẽ học trong kỳ tới.

Vậy hôm nay Đạo Nhơn luân đă giải rơ nửa phần, các em cần nhớ kỹ kẻo khó tiếp phần Thiên Đạo.

Mấy em đă thấu hiểu không c̣n ǵ khó nữa, cần nhứt là phải thật hành y theo Nhơn Đạo th́ mới mong bước ra Thiên Đạo. Vậy mấy em nên cố gắng làm tṛn sứ mạng, ấy là mấy em đă xong phận sự Nhơn Đạo. Cần nhứt là phải giữ trọn đức tin mới mong trọn vẹn trong cửa Đạo. Bần Đạo xin kiếu.

 

B.THIÊN ĐẠO

*Bộ Pháp Chánh, Đêm 28-giêng-Nhâm Th́n (dl 23-2-1952)

Pḥ loan: Thừa Sử Trấn-Luật Sự Nhung.

Hầu đàn: Thừa Sử Hợi, Thừa Sử Phước, các Luật Sự.

Sau khi Bát Nương giáng cơ xong,  có Đức Cao Thượng Phẩm giáng giảng dạy thêm về phần Thiên Đạo.

CAO THƯỢNG PHẨM

Bần Đạo chào mấy em.

Đêm nay Bần Đạo giải về Thiên Đạo.

Trong Thiên Đạo cũng có Thể Pháp và Bí Pháp như Thế Đạo vậy.

Về Thể Pháp Thiên Đạo, tức nhiên là những nơi học hỏi để ung đúc tin thần trên khuôn viên chánh pháp.

Trong Thể Pháp Thiên Đạo chia làm ba thời kỳ:

-Thứ nhứt là thời kỳ khai thác.

-Thứ nh́ là thời kỳ luyện tập.

-Thứ ba là thời kỳ thi hành.

Trong thời kỳ sau nầy mới gặp những cơ khảo đảo đặng thử thách tinh thần.

Về thời kỳ thứ nhứt th́ là những tạo tác nơi qui hợp đức tin của con cái Chí Tôn, tức là các Đền Thờ đó vậy. Khi một môn đệ đă thọ môn tùng giáo, th́ phải do nơi các Đền Thờ đặng tụ hiệp đức tin. Đó là bước đầu tiên của Thể Pháp Thiên Đạo. Do đó, sự cúng kiến niệm kinh là điều yếu trọng vậy.

Qua thời kỳ thứ nh́, là đem đức tin đă trụ được đặng tụ tập luyện tâm tánh và khởi lập công trừ quả, đặng tự giải khổ cho ḿnh và giúp phương cứu khổ cho toàn nhơn loại. Ấy là phương tập luyện tánh thành, tâm niệm đó vậy.

Qua thời kỳ thứ ba, là thi thố những đức tin hầu lấy phương giải khổ mà đem gieo truyền hột giống thương yêu, đó là phương cứu khổ đó vậy.

Trong lúc nầy, tinh thần gặp phải những chướng ngại, hoặc làm cho nao núng tan ră đức tin, hoặc theo đường quỉ mị, chia phe phân phái mà nên tả Đạo bàn môn như hằng hữu đă xảy ra đó.

Trong ba thời kỳ: Thứ nhứt là lập ngôn, thứ nh́ là lập công, thứ ba là lập đức.

Đó là Thể Pháp Thiên Đạo.

Khi đă trọn phần Thể Pháp rồi, liền bước qua mặt Bí Pháp là phương tu tâm sửa tánh, hầu lập thành chơn khí thanh khiết mà hiệp với Chơn Thần đặng tiếp Chơn Linh, để giải phương cứu khổ thêm bề siêu lư diệu chơn.

Ấy là phương tầm hiểu Chơn truyền Chánh Pháp đó vậy. Khi đă vẹn sạch Tinh, Khí, Thần th́ là đắc Pháp đó vậy.

Mấy em đă học về khoa Bí Pháp khẩu tụng, vậy khá để tâm học hỏi cho được tâm truyền th́ công phu của mấy em đă được phần thưởng vô giá đó.

Nói về Thiên Đạo, tức là luận về vũ trụ triết lư, tức là nói về không gian.

C̣n Thế Đạo là luận về nhơn sanh triết lư, tức là nói về thời gian đó.

Mầy em khá hiểu cho lắm mới được. Phải để tâm suy nghiệm đó nghe.

Đêm nay chấm dứt về Thế Đạo và Thiên Đạo.

Bần Đạo kiếu.

Thăng

 

 

18. KHỔ TÂM HÀNH ĐẠO

Nhiều nổi khổ tâm của Đức Cao Thượng Phẩm xin kể dưới đây:

XÂY BÀN (Sơ khởi)

Thời kỳ Trời đến cứu thế tại Nam Phương năm Ất Sửu (1925)

Đức Cao Đài dạy chúng tôi phế đời hành Đạo. Hai tôi vân lịnh liền để trọn đức tin nơi Đức Cao Đài. Chúng tôi hết ḷng hết dạ chỉ để tâm tôn sùng Đấng Thiêng Liêng là Đức Chí Tôn, nên hai tôi trọn vâng mạng lịnh phế đời hành Đạo hồi năm 1926 (liền bỏ sở làm).

Khai Đạo 14 tháng 10 năm Bính Dần (18-11-1926), mà chúng tôi hành Đạo hồi năm Ất Sửu (1925), nghĩa là Đức Chí Tôn khiến cho ba ông: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh ham mộ xây bàn đặng các Đấng đến mở Đạo.

Ông Cao Quỳnh Cư và Nguyễn Thị Hiếu vâng lịnh Chí Tôn phế đời hành Đạo, bỏ sở làm và tém dẹp đồ đạc nhà cửa về một lượt với chức sắc cũng ngày 14-10-Bính Dần (1926).

Hành Đạo tại chùa G̣ Kén hơn 3 tháng; trả chùa Từ Lâm Tự G̣ Kén  nhằm ngày 20-02-Đinh Măo (23-03-1927). Dọn đồ dời chùa, thỉnh chư Phật về đất mới mua, hành Đạo được 4 năm …Bổng đâu băo tố, đất bằng sóng dậy, đưa tới làm khổ tâm chúng tôi hết sức buồn là không thể trở ra đời làm việc nữa, hổ thẹn với anh em làm việc trong sở, v́ đă nhứt định phủi hết trần thế, công danh lợi lộc cũng chẳng màng, quyết chí tu hành để làm con tế vật cho Đức Chí Tôn sai khiến mà thôi.

Nghỉ lại hồi c̣n rừng rậm sầm uất không ai về, để Đức Cao Thượng Phẩm chỉ dẫn người Miên phá rừng, đánh gốc, phá chồi, tạo tác Đền Thánh tạm, nào là Đông Lang, Tây Lang, Hậu Điện, nhà Thiên Phong, nhà ngan dăy dọc, nhà Dưỡng Lăo, nhà trường, nhà khách…tạo đâu đó xong xuôi rồi Đức Cao Thượng Phẩm bị một trận khảo đảo khá dữ dội là: có một số người thiếu thương yêu gieo ác cảm hội nhau dưới Thủ Đức, nước lả khuấy nên hồ, họ đồng ḷng về Ṭa Thánh đuổi Đức Cao Thượng Phẩm kỳ 24 giờ ra khỏi Ṭa Thánh, nếu không đi th́ cột trong rừng bắn.

Làm Đạo lúc mới phôi thai rất khổ sở trăm bề, có kẻ nghịch ŕnh ṃ âm mưu với nhau họp lại xúi giục gây rối, làm loạn, họ đồng ḷng với nhau đuổi hai vợ chồng Thầy Tư (tức Cư và Hiếu).

Buồn cười…tuồng đời lạnh nhạt, thôi, họ dữ quá! Chúng tôi về Thảo Xá Hiền Cung là nơi căn cội của Đức Chí Tôn dạy cất trước, nên Thảo Xá Hiền Cung là gốc.

Thưa quí Ngài, hai tôi bị đại khảo, lớp th́ bị người bạc đăi, xua đuổi, lớp th́ bị húng hiếp đủ điều, lớp th́ khổ tâm trong gia đ́nh, trong một năm chết 3 người yêu mến nhất của đời sống tôi: chồng mất tháng 3, con mất tháng 8, mẹ mất tháng 9 năm Kỷ Tỵ (1929).

Tôi bơ vơ một ḿnh, khóc thầm tủi lén, nước mắt không ráo, quên ăn bỏ ngủ. Than ôi! Trong lúc lâm nguy nhờ có anh Cả, Đức Thượng Đầu Sư và chị Lớn Thượng vô khuyên lơn tôi. Anh Cả gửi thơ  cho các làng kế cận hạt Tây Ninh. Anh Cả dạy nữ phái tới lui thường chuyện văn với tôi đặng giải khuây trong cơn sầu năo, thật không có bút mực nào cạn tỏ cho hết, nhiều nỗi đứt từng đoạn ruột (hồi năm 1929) thật là mạch sầu khó nổi cản ngăn, tâm chí không toan dằn đặng lụy.

Thưa Qúi Ngài, bởi v́ theo luật của Tạo Hóa, hễ đàn bà liễu yếu đào thơ, phải nương dựa dưới bóng của ông chồng, chi chi cũng nhờ ông chồng, những khi đói rách, lành, muôn việc đều nhờ ông chồng mà thôi.

Trái lại trong gia đ́nh chết hết, bỏ tôi ở lại có một ḿnh, chỉ nương náo với mẹ già như trái chuối chín cây (Bà Nội An).

Tôi cũng phụng sự cho má tôi đến năm 1946 má tôi qui liễu.

(Trích trong Đạo Sử Quyển I của Nữ Đầu Sư Hương Hiếu từ trang 114-116)

 

 

19. HOÀI CẢM CẢNH MƯA ĐÊM

Trời hôm lả tả giọt mưa tuông,

Mờ mệt đèn khuya đượm vẻ buồn;

Cảnh vật u sầu ngây ngất nhớ,

Hơi cầm reo rắc ngẩn ngơ buông;

Hồn thơ Đổ Phủ gieo ngh́n tứ,

Ḍng nước Tương Giang rẽ mấy nguồn;

Lai láng khung trời t́nh ái truất,

Giựt ḿnh tai lắng mấy hồi chuông.

                                            Huệ Tỉnh

                           (Thừa Sử Phan Hữu Phước)

Viết đêm 16 tháng 6 Canh Dần nhà ngụ ở Ṭa Thánh.

Xin gửi cho danh sĩ họa chơi cho vui

Kính tạ

(Kư tên)

Thừa Sử Nguyễn Hượt Hải họa:

Đêm lạnh mưa chan giọt nước tuông,

Gió đông heo hắc giục người buồn.

Trên cành khoan nhặt hơi ve trỗi,

Trước ngơ Phủ Trần giọng dế buông.

Gợi nhớ ngày qua phân mấy nhánh,

Trêu sầu canh lụng chảy thành nguồn.

Trăm ngh́n mơ mộng ḷng lai láng,

Chợt tỉnh giấc ḥa vẳng tiếng chuông.

                                      Nam Dương

                                   Cúi hạ Canh Dần

Luật Sự Huỳnh Văn Hưởng họa:

Mưa hạ sụt sùi măi cứ tuông,

Đường cô người vắn cảnh thêm buồn.

Trà châm mấy lược hương c̣n đượm,

Cầm trỗi đôi giây, tiếng nhặt buông.

Nhợ thảm dầu phăng khôn đứt mối,

Mạch sầu loàn lấp vẫn khơi nguồn.

Đèn tàn tâm sự đôi tri kỷ,

Văng vẳng chùa trên đă đỗ chuông.

                                     Huệ Ngạn

C̣n rất nhiều bài họa của các chức sắc khác nữa, nhưng chỉ trích lục vài bài tiêu biểu.

 

 

20. XƯNG TỤNG CÔNG ĐỨC CÁC ĐẤNG THIÊNG LIÊNG

 

    Bài xưng tụng công đức và chúc xuân các Đấng Thiêng Liêng trong dịp lễ Khai Loan đêm 6 tháng giêng Nhâm Th́n tại nhà Luật Sự Hưởng.

Vui xuân cảnh trí ấy vui thiền,

Hưởng đặng Cao Ân kiếp hữu duyên.

Đuốc huệ sáng soi lao nét tục,

Bút Thần chan rưới bủa ân Thiêng.

Đông qua vẫn nhớ lời son sắc,

Xuân lại c̣n ghi lư diệu huyền.

Bước Đạo hẳn nhờ công giáo hóa,

Ḷng thành kính gửi đến chư Tiên.

Đồng kính bái.

 

 

21. SỰ SINH TỬ THEO NHO GIÁO

Về sự sinh tử, Khổng Tử cũng tin tưởng như mọi người đương thời bấy giờ. Ngài nói rằng: “Nhân sinh hữu khí, hữu hồn, hữu phách, khí hồn khách bội vi chi sinh” (Người ta ở đời có mệnh, có tính, có sống, có chết); “Phân ư Đạo vị chi mệnh; h́nh ư nhất vị chi t́nh; hóa ư âm dương tượng h́nh nhi phát vị chi sinh, hóa cùng số tận vi chi tử. Cố mệnh giả tính chỉ thỉ giả; tử giả sinh chi chung giả, hữu thỉ tắc tắc hữu dụng hỷ”. (Chia 1 phần ở trong Đạo tự nhiên của Trời Đất ra gọi là mệnh; rơ h́nh ra ở cái lư nhất quán, ai cũng như ai, gọi là tính; biến hóa ở âm dương mà thành ra có tượng h́nh gọi là sinh; hóa đến cùng sợ hết gọi là tử. Cho nên mệnh là cái bắt đầu của tính, tử là cái cuối cùng của sinh, có cái bắt đầu th́ có cái cuối cùng vậy).

Chết rồi th́ hài cốt chôn xuống đất dần dần tan nát đi, c̣n cái khí tinh anh th́ lên trên khoảng không gian sáng tỏ rực rỡ. Vậy chết không phải là hết. Chỉ hết cái h́nh hài mà thôi, c̣n cái khí tinh anh tức là tinh thần th́ lại về chỗ sáng rỡ ở trong vũ trụ.

Cái phần chiêu minh ấy ở trong người ta gọi là tâm. Tâm là cái thần minh ở trong vạn vật, là cái tia sáng của Trời phú cho ta để hiểu hết các sự vật. Vũ trụ sở dỉ có là bởi có cái tia sáng ấy, chứ không th́ dẫu có cũng như không mà thôi. Vạn vật nhờ cái tia sáng ấy mà biết là có và biết là có Trời. Người ta có cái phẩm giá tôn quí là cũng nhờ có cái tâm. Cho nên hễ bỏ cái tâm đi t́ vũ trụ chỉ c̣n một khối vật chất vô tri vô giác, không có giá trị ǵ cả. Có cái tâm th́ Trời Đất rơ ràng, vạn vật linh hoạt. Bởi thế người quân tử bao giờ cũng phải giữ cái tâm cho minh mẩn. Đến khi người ta mệnh chung, cái tia sáng trở về Trời, mà cái vật chất th́ bầm nát đi. Bởi cái lư tưởng ấy cho nên cổ nhân nói rằng: Sinh kư giả, tử qui giả (Sống là gửi vậy, thác là về vậy). Chết là cái tinh thân về Trời hay là “Văn vương trắc giáng, tại đế tả hữu”. Những lời ấy làm bằng chứng rơ ràng là người ta chết, cái tinh thần không mất. Nhưng cái tinh thần ấy có cảm giác được như người sống nữa hay không?

-Một hôm Thầy Tử Cống hỏi Khổng Tử rằng: “Người chết rồi có biết ǵ nữ không?”

Ngài trả lời rằng: “Nếu ta nói rằng người chết rồi mà c̣n biết th́ sợ rằng con cháu hiếu thảo liều chết để theo ông cha; nếu ta nói rằng người chết rồi mà không biết ǵ th́ sợ con cháu bất hiếu, cha mẹ chết bỏ không chôn. Người muốn biết người chết rồi th́ biết hay không biết, chuyện đó không phải là chuyện cần kíp ngay bây giờ, rồi sau sẽ biết. Dẫu tinh thần biết hay không biết mặc ḷng, đối với người chết bao giờ ta cũng vẫn có cái t́nh cảm khiến ta không thể cho là không biết ǵ nữa, mà cũng không có thể cho là vẫn biết như lúc c̣n sống được”.

Khổng Tử nói rằng: “Cho người chết là mất hẳn không biết ǵ nữa là bất nhân, không nên theo; cho người chết là không c̣n biết như lúc hăy c̣n sống là bất trí, không nên theo. Tuy việc sống chết thế nào th́ ta không rơ được nhưng đối với người chết bao giờ ta cũng có t́nh cảm thương tiếc. Vậy th́ ta cứ thờ người chết cúng tế Tổ Tiên để tỏ ḷng tôn kính yêu mến. Song ta không nên thờ bậy, cúng bậy; nếu không phải là bậc ḿnh đáng thờ, đáng cúng, không phải cha mẹ tổ tiên ḿnh th́ ḿnh thờ cúng gọi là “siểm”: Phi kỳ quí nhi tế chi siểm giả”.

Nói rút lại, Đạo Trời là chí thiện chí mỹ, Đạo người là phải cố gắn để làm được những điều chí thiện, chí mỹ. Ai muốn đạt được cái mục đích ấy th́ trước hết phải theo Đạo Thành: “Thành giả thiên chi Đạo giả, thành chi giả, nhân chi Đạo giả (Thành thực là Đạo Trời, giữ cho được thành thực là Đạo người. Thành là cái tánh bản nhiên của thiên lư, cái tính ấy chân thật không sai lầm điều ǵ, vă lại có thể sanh sanh hóa hóa, gây muôn muôn vật. Người ta ai đă cố gắn mà tiến lên đến bật chí thành th́ có thể giúp được việc hóa dục của Trời đất và có đức ngan với Trời đất. Tức là một cách nói: “Trời sinh ra người, người lại cố gắn theo cho được hoàn toàn như Trời vậy.”

Kẻ học giả hiểu rơ lẻ ấy, rồi cứ vui theo mệnh Trời mà cố sức tu dưỡng cho đến bậc nhân th́ Đạo làm người thành ra một cái ư nghĩa cao xa, mà cái cảnh ở đời lại rất có thú vị. Bởi thế cho nên Thánh nhân dạy người ta “Lạc Thiên tri mệnh, cố bất ưu; an thổ đốn hồ nhân, cố năng ái (vui theo Đạo Trời và biết mệnh Trời cho nên không lo; tùy chỗ ở mà an và đôn đốc làm điều nhân cho nên có ḷng ái)

(Trích trang 55-58 Nho Giáo Quyển Thượng của Trần Trọng Kim)

 

 

 22. VŨ TRỤ CÓ TỪ ĐÂU, LÚC NÀO?

Vũ trụ xuất hiện từ đâu? Trái đất đă có từ lúc nào? Vạn vật và nhơn loại đă sinh hoạt được bao lâu rồi? chưa có ai biết đích xác được, dù trí thức khoa học có cao siêu đến độ nào. Duy có một điều rất hiển nhiên là cổ kim Đông Tây đều cho rằng vũ trụ nầy diễn biến từ vô h́nh với hữu h́nh nhờ một mănh lực bí mật du hành khắp không gian mà Tây th́ gọi là  éther, c̣n Đông th́ gọi là Thái Cực (theo Khổng) hoặc theo  Đạo (theo Lăo), tác động do hai trạng thái động tỉnh tức là Âm và Dương, để biến hóa muôn loài theo thời gian suốt đời nọ tới đời kia.

Quan niệm vũ trụ như vậy có người cho là quan niệm nhất nguyên lưỡng cực (principe prolarisable) lấy nguyên lư dịch làm căn bản cho “triết lư động” Đông Phương. Nhất nguyên tức là Thái Cực, Lưỡng cực tức là Âm Dương: Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái tượng trưng cho muôn loài trong vũ trụ vô cùng vô tận.

“Tất cả đều qua, hết thảy đều trôi, không một cái ǵ ngừng. Vũ trụ như một ḍng sông; người ta không tấm hai lần trong một ḍng sông” (Héra clicè). Vũ trụ vạn vật biến đổi với thời gian. Tinh thần vật chất biến đổi hết thảy. Lịch sử loài người được dệt bằng hằng hà sa số biến cố trong mọi lănh vực; nào xă hội văn hóa, phong tục, tín ngưỡng, triết học, nào chánh trị, quân sự, kinh tế, khoa học, nghệ thuật v.v…những biến cố lịch sử đó tuy thiên biến vạn hóa nhưng cùng chung một gốc, một xuất xứ. Bằng cớ hiển nhiên là muôn vật đều chung một gói nguyên tử mà ra.

Theo Chu Hy th́ Khổng Tử nói: “Cái lư đă vốn không có hai, th́ chuyện khác đường và trăm lo há chẳng phải là tự nhiên sao mà cần phải lo phải nghĩ”.

Ư nghĩ tương tợ với Khổng Tử là thấy có ư của Dilthey: “Những ư niệm về vũ trụ đều có cơ sở trong vũ trụ thiên nhiên và tư tưởng của chúng ta sẽ ngừng lại với vũ trụ nầy. Bởi vậy mỗi một ư niệm sẽ diễn tả  một h́nh thái của vũ trụ trong phạm vi của tư tưởng chúng ta. Ư niệm nào cũng đúng, nhưng tất cả đều bị hạn chế.

Ư kiến của Dilthey khiến ta liên tưởng đến câu chuyện con voi với mấy anh mù của Đức Phật Thích Ca trong Kinh Phật. Mỗi anh mù chỉ sờ biết một bộ phận của con voi, nên mỗi anh nói mỗi khác, rồi đến sau cải nhau, đánh nhau. Dụng ư của Phật h́nh như kể để chứng minh rằng những quan niệm khác biệt đương thời chống nhau kịch liệt chẳng qua v́ không ai hiểu được chân lư toàn diện, mà chỉ hiểu có một phần nhỏ. Bởi vậy Dilthey có lư khi nói: “Ư niệm nào cũng đúng nhưng tất cả đều bị hạn chế”. V́ chúng chỉ là những phần nhỏ của cái chân lư toàn diện cho nên chúng bị hạn chế là lẻ dỉ nhiên.

Đến khi Khổng Tử nói: Trăm lo mà một mối, khác đường mà cũng về, th́ thiên hạ hà tất phải lo nghỉ cũng là phải”.

(Trích trang 52-54 Kinh Dịch với Vũ Trụ Quan Đông Phương của Nguyễn Hữu Lương)

 

 

23. NGƯỜI HỒI GIÁO LÀM G̀ TRƯỚC KHI QÙ LẠY ALLAH?

    Như đă nói, trong 5 điều giáo lư căn bản của người Hồi giáo, có điều tín đồ khấn lạy Allah mỗi ngày 5 lần, vào những buổi sáng, trưa, chiều và tối hướng về Mecca Thánh Địa của Hồi Giáo.

Những giờ cầu nguyện được chia ra từ lúc hừng sáng đến tối như sau:

a). Cầu nguyện vào 5 giờ sáng, trước khi b́nh minh lố dạng là giờ Subh.

b).Cầu nguyện vào lúc 1 giờ trưa  là giờ Zubr.

c).Cầu nguyện vào lúc 4 giờ chiều tức là giờ Asr.

d). Cầu nguyện lúc mặt trời lặng gọi là giờ Magrib.

e). Cầu nguyện lúc 8 giờ tối vào giờ ISA.

Trước khi cầu nguyện tín đồ Hồi Giáo phải tấm rửa sạch sẻ, xong lại c̣n phải dùng nước thật trong sạch để :

a) Rửa mặt (gồm tóc, tai và súc miệng)

b) Rửa hai tay (từ bàn tay đến quá cùi chỏ)

c) Rửa hai chơn.

Lúc ấy, vừa lấy nước rửa, vừa thành tâm cầu nguyện Allah chứng giám cho ḷng thành của ta trước khi lạy người.

Mohammed đă dạy: “Allah chỉ chứng giám nếu tín đồ hành động với thành tín “Do đó, tấm rửa xong đă là sạch sẻ thể xác rồi, những lần lấy nước kế tiếp chính là lúc thành tâm khấn nguyện vậy.

Lúc rửa để nguyên, luôn luôn bắt đầu bên phía mặt, sau đến phía trái (chẳng hạn lấy nước xoa trước tay mặt rồi mới đến tay trái sau) và xoa 3 lần, mỗi lần đều phải niệm câu Allah Akbar (chỉ có Đấng Allah là tối cao).

Tất cả những ngưởi Hồi Giáo khỏe mạnh đều phải cầu nguyện mỗi ngày 5 lần, chỉ trừ những trường hợp đau yếu, loạn trí hoặc bẩn ḿnh. Nếu một người Hồi Giáo không cúng lạy Allah theo như giáo phép đă dạy thời bà con họ hàng phải giảng giải cho kẻ ấy biết đó là điều phạm tội, và nếu kẻ ấy chỉ làm một cách miễn cưỡng không thành tâm, người ta sẽ coi người ấy như kẻ ngoại Đạo (Kafir). Trường hợp không thể cúng lạy đúng theo những giờ ấn định v́ một lư do nào chánh đáng, tín đồ Hồi Giáo có thể lạy trả.

Chẳng hạn trong ngày ấy, v́ công việc làm ăn khẩn cấp, vắng nhà, hoặc gặp nơi không thuận tiện, không sạch sẻ cho sự cúng lạy, thời chiều hay tối hôm ấy, tín đồ có thể lạy trả những giờ đă qua trong ngày.

Tín đồ được cầu nguyện tại gia hoặc đến Giáo Đường, nếu gần giáo đường.

Tại các nước theo Hồi Giáo như Đạo Hồi Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Nam Dương, Mă Lai v.v…vào các giờ cầu nguyện, tín đồ tề tựu đến các giáo đường rất đông đảo. Và ở đấy họ sẽ hành lễ theo lịnh của Giáo Sĩ (Imam).

(Trích trang 22-24 Hồi Giáo Lược Khảo của Phạm Thế Châu)

  

  Viết xong ngày 15-05-Giáp Tư (1984)

QUANG MINH

(Xin xem tiếp Quyển XX)

 

MỤC LỤC:

 

1.  LIÊN QUAN CON CÁI CHÍ TÔN VỚI NGÀI

2. ĐẠO LÀ SỰ SỐNG TRONG CÀN KHÔN VŨ TRỤ

3. GIẢI TÁN QUÂN NHÂN

4. KHỔNG TỬ MẤT

5. H̀NH DÁNG VÀ ĐỨC ĐỘ CỦA KHỔNG TỬ

6. TRIẾT ĐĂ TRỞ VỀ VIỆT NAM

7. SƯ TỬ VỚI CHIM CON

8. ANH HÙNG ĐỜI VÀ ANH HÙNG ĐẠO

9. PHƯƠNG PHÁP LÀM CHỦ TÁNH PHÀM CỦA NGƯỜI GIỮ ĐẠO

10. SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN

11. ĐIỀM ĐẠM THẮNG TẤT CẢ

12. CẤM UỐNG RƯỢU

13. PHẢI TỰ LẬP NƠI CƠI THẾ

14. NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH TƯƠNG KHẮC

15.TÂY NINH DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN & PHÁP THUỘC

16. XÂY BỬU THÁP TRƯỚC ĐỀN THÁNH

17. GIẢN VỀ THẾ ĐẠO VÀ THIÊN ĐẠO CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM

18. KHỔ TÂM HÀNH ĐẠO

19. HOÀI CẢM CẢNH MƯA ĐÊM

20. XƯNG TỤNG CÔNG ĐỨC CÁC ĐẤNG THIÊNG LIÊNG

21. SỰ SINH TỬ THEO NHO GIÁO

22. VŨ TRỤ CÓ TỪ ĐÂU, LÚC NÀO?      

23. NGƯỜI HỒI GIÁO LÀM G̀ TRƯỚC KHI QÙ LẠY ALLAH?

Top of Page

      HOME