HIỀN DANH THÁNH TÍCH

 

Viết xong ngày 17-7-Ất Sửu 1985

QUANG MINH

 

MỤC LỤC:

1.CHÂU VĂN VƯƠNG NGỒI NGỤC
2. LĂO TỬ GIÁNG SINH
3.  TÔ VƠ CHĂN DÊ
4. THẦN ĐỒNG VẤN KHỔNG TỬ
5. TÔN TẪN TẦM SƯ HỌC ĐẠO
6. CÔNG CHÚA DIỆU THIỆN
7. KHỔNG TỬ TÁC XUÂN THU
8. SĨ ĐẠT TA SẢI NGỰA ĐI TU
9. TÔ HUỆ CHỨC CẨM HỒI VĂN
10. KỈNH TÂM THỌ HÀM OAN
11. TỪ GIÁP
12. THÀNH B̀NH ĐỊNH VƠ TÁNH THIÊU M̀NH
13. TRƯNG VƯƠNG KHỞI NGHĨA
14. LƯU-QUAN-TRƯƠNG ĐÀO VIÊN KẾT NGHĨA
15. ĐƯỜNG MINH HOÀNG DU NGUYỆT ĐIỆN
16. HẠNG VƠ THẤT THỦ THÀNH CAI HẠ
17. HÀN DŨ BỊ ĐÀY
 

 

18. HÀN TÍN L̉N TRÔN
19. BẠNG DUẬT TƯƠNG TR̀ (Ngư Ông đắc lợi)

20. MẠNH MẪU
21. TRƯƠNG LƯƠNG DÂNG DÉP
22. NGƯU LANG- CHỨC NỮ
23. THƯỢNG DƯƠNG, VƠ
24. MẪU ĐƠN-TRĨ
25. TÍN CẦM: Chim nhạn
26. LÔI CHẤN TỬ CỨU CHA
27. HỮU PHƯỚC-LỆ DUNG
28. BÁ LƯ HỀ
29. BẠCH KHỈ ĐẾN SƠN KHÊ
30. VỢ CHÂU CÔNG
31.VUA SỞ ĐI CẦU ĐỔNG BÂN
32. HỨA HÀNH CHẠY LOẠN TỚI VƯỜN LÊ
33. TỪ THỨC VIẾNG CHÙA XEM HOA
34. NGƯỜI BÁU HAY CỦA BÁU
35. TỀ MI VẸN ĐẠO
36. VUA HIÊN VIÊN ĐẮC ĐẠO

37. NGƯỜI SỐNG HƠN ĐỐNG VÀNG (Trần Ân-Hữu Nghĩa-Lệ Du)
 


38. ĐÔNG LAO – TÂY BÍCH
39. NGÀY TRẦM QUAN LỚN ĐI CHƠI

40. PHẬT GIEO MẠ BRAHOAĐA
41.TÔN ĐIỆC PHẾ NHI
42. ĐÓNG ĐINH TRÊN THÁNH GIÁ CHÚA CHUỘC TỘI LOÀI NGƯỜI
43.TỬ HỮU TÁ BÁ ĐÀO-DƯƠNG GIÓC AI (Tử hữu c̣n là bạn dám cùng sanh tử với ḿnh)
44. LÊ LỢI-LÊ LAI-LÊ LỄ
45. PHẬT DẠY RA HẦU LA
46. LẤY  ÂN BÁO OÁN
47. LINH SƠN TỰ CA DIẾP ĐOẠT SIÊU PHÁP của Đức Thích Ca truyền đạt
48. ĐẬU YÊN SƠN HỮU NHÂN NGHĨA
49. HỒ HỶ MỴ THỬ QUẺ KHƯƠNG TỬ NHA
50. TỐNG HOẰNG CHÍ TRƯỢNG PHU
51. BAO CÔNG CHẨN BẦN
52. CÔNG DĂ TRÀNG
53. CHIÊU QUÂN CỐNG HỒ
 

 

 

 

Thay Lời Tựa

 

Hằng năm cứ đến lễ vía Đức Chí Tôn mùng 9 tháng giêng, trước Đền Thánh lại được tưng bừng tổ chức các giang hàng triển lăm của các phận Đạo, cuộc triển lăm kéo dài đến hết ngày 15 tháng giêng mới kết thúc. Các gian hàng triển lăm thường lấy tích của người xưa như: Lục Tổ Huệ Năng giă gạo, Khương Tử Nha câu thời vận, Hai Bà Trưng cỡi voi đánh giặc, Thánh Gióng cỡi ngựa sắt v.v…mỗi năm đều có sự thay đổi hoặc thêm hoặc bớt của các gian triển lăm tùy theo thời cuộc hoặc kinh tế của các phận Đạo. Cuộc triển lăm đă tạo nên một bản sắc riêng của Đạo Cao Đài, người dân ở khắp mọi miền đỗ về cúng Đức Chí Tôn và cùng chiêm ngưỡng.

 Không ngoài mục đích giúp người học Đạo hướng thiện, học hỏi những điều hay việc tốt của người xưa, Quang Minh đă sưu tầm Hiền Danh Thánh Tích viết tay thành một tập, sau mỗi câu chuyện ông lại tóm tắt bằng một bài thơ nhỏ ngắn gọn dễ hiểu, thỉnh thoảng chúng ta cũng sẽ bắt gặp những bài thơ được trích từ trong các bài thánh giáo có liên quan đến nhân vật trong cốt truyện mà ông đă khéo léo đưa vào. Có thể chúng ta sẽ bắt gặp nhũng câu chuyện quen quen mà trong quyển “Diễn giải 91 điển tích nơi Báo Ân Từ của soạn giả Kim Hương” đă có. Mặc dầu cùng một cốt truyện nhưng cách tŕnh bày của Quang Minh có phần hơi khác. Mong rằng khi đọc qua quyển sách nầy tâm thiện của chúng ta sẽ được khai sáng và những lúc rảnh rỗi ta có thể đem ra kể cho con cháu ta nghe, hoặc hàng huyên tâm sự cùng bạn tri âm.

 

Đánh máy xong ngày 01-10-2018

 Tỉnh Tâm

 

 

1.CHÂU VĂN VƯƠNG NGỒI NGỤC

Châu Văn Vương tên Cơ Xương, người đời Trụ Vương Ân Thọ được phong hầu ở đất Tây Kỳ nên gọi là Tây Bá Hầu.

Ngày kia Trụ Vương mê sa Đắc Kỷ ra chiếu triệu hồi 4 chư hầu về triều ca định giết để ngừa trừ 4 hướng dấy loạn Đạo binh. Trước khi đi Tây Bá Hầu gieo quẻ biết là quẻ mắc nạn 7 năm, nhưng phận chúa tôi không lẻ ǵ từ thối, nên liền về triều ca bái mạng.

Đáng lẻ cũng bị chết chém theo mưu kế đă bày nhưng nhờ Trụ Vương thử tài đoán quẻ, ứng điều nhà Thái Miếu cháy vào lúc giữa trưa theo lời đoán của Tây Bá Hầu, nên Vưu Hồn Bí Trọng mới lập kế cho tạm ngụ ở thành Dũ Lư ít hôm, chờ xét xong sẽ cho về xứ.

Từ đó Tây Bá Hầu đến ở thành Dũ Lư chờ đợi. Nhưng cũng rơ biết số ḿnh mắc nạng, nên lân la dùng phép dạy dân để làm kế nguôi ngoai lúc thân bị tù đày cách biệt.

Bá Ấp Khảo là con trai trưởng của Tây Bá Hầu đang làm giám quốc thay cha nơi Tây Kỳ, thấy gần 7 năm rồi mà cha chưa về, bèn định đem ba món báu là: Thất Hương Xa (như ư xa), tỉnh tửu chiên (nệm tỉnh rượu) và Bạch Viên: con vượn bạch biết múa theo 800 bản đàn và 3.000 bài hát, dâng cống cho Vua Trụ xin chuộc tội cho cha. Các quan can gián, nhưng Bá Ấp Khảo đă quyết, nên v́ t́nh thương cha, Bá Ấp Khảo đă ra đi.

Đến nơi, thấy Bá Ấp Khảo cốt cách phong lưu, mặt mài thanh lịch. Đắc Kỷ có ư lả lơi, bày kế dạy đờn để được ngồi gần mà kề vai cọ vế. Bá Ấp Khảo cố giữ phận nhưng Đắc Kỷ không nghe, rồi v́ quá mê mẩn tâm thần, Đắc Kỷ xuất nguyên hồn Hồ Ly trong điện. Vượn Bạch thấy liền nhảy bổ lại vồ quàu quấu cho trầy mày sứt mặt Đắc Kỷ. Tức ḿnh v́ nài ép Bá Ấp Khảo không thuận t́nh nên bắt tội thả Bạch Viên cắn ḿnh khi quân đáng chết. Trụ Vương truyền lệnh, lóc thịt phân thây, quăng xuống cho rắn nuốt (Sái bồn). C̣n thịt Bá Ấp Khảo th́ sai nhận làm nhưng bánh đem vô cho Tây Bá Hầu ăn, gọi là của quí của Vua ban thưởng. Bá Hầu biết nhưng vẫn phải ăn. Nhờ vậy mà Trụ Vương mới cho Bá Hầu không biết việc xem thường và ra lịnh thả Tây Bá Hầu về xứ.

***

  CHÂU VĂN VƯƠNG NGỒI NGỤC

Tây Bá bảy năm Dũ Lư ngồi,

Thịt con ráng nuốt, mặt làm vui.

Tŕ tâm Dịch Lư hằng nghiên cứu,

Hậu thế nhờ ơn, rơ máy Trời.

                                     Q.M

 

2. LĂO TỬ GIÁNG SINH

Lăo Tử là một vị Tiên từ khi có trời đất th́ Ngài đă hiện h́nh xuống nhiều lần và ít đầu thai.

Đến đời nhà Thương, có một nàng Ngọc Nữ mới 8 tuổi mà tự nhiên có thai, thiên hạ ai cũng lấy làm quái lạ…thế sự cũng trôi qua măi đến 80 năm sau, nhằm đời nhà Thương Vơ Đinh, lúc giờ Sửu, nhằm ngày rằm tháng 2 năm Canh Th́n. Ngọc Nữ khi nầy đă 88 tuổi, thấy đêm trăng tỏ rạng mới ra dạo chơi nơi cội lư, bất ngờ nách bên tả của bà nứt ra. Lăo Tử từ trong nhảy vọt ra ngoài chỉ cây lư và nói họ ta đó. Bà Ngọc Nữ kinh hải, coi lại th́ nách liền như cũ.

Lăo Tử khi chào đời th́ râu tóc bạc phơ nên xưng là Lăo Tử, lấy cây lư làm họ, 2 tai mỗi bên đều có 3 lỗ ở trong nên gọi là Nhĩ tự là Bá Vương, thụy là Đam nên cũng gọi là Lư Lăo Đam. Tướng của Ngài rất khác lạ, miệng rộng, răng thưa, thiên đỉnh cao, mặt vắn tay dài, sóng mũi cao lớn như sanh đôi, trên tráng có mấy lằn xếp nhăn tựa hồ như chữ “Tam Thiên”.

Cội Lư nằm trong xóm khúc nhơn, làng lại, huyện khố nước Sở. Ngài là một vị Tiên giáng sanh nên biến hóa vô cùng, hoặc có hoặc không, như mây nổi hạc bay, khi về cùng tiên, khi xuống trần thế.

Đời nhà Châu vua thành vương, Ngài có làm quan Trụ Hạ Sở, sau từ chức đi vân du tới nước Thiên Trước và Tây Phương.

Đến Châu Khương Vương, Ngài có về Châu vài năm rồi cởi Thanh Ngưu đi giáo Đạo ở nước Tây Vức. Khi tới ải Hàm Cốc, Ngài độ Huyện Quan là Doăn Hỷ, lưu lại đây 3 tháng truyền nhiều Đạo đức, trao cho Doăn Hỷ quyển Đạo Đức Kinh gồm 5.365 chữ và dặn rằng: “Ngươi cứ theo phép ta mà tu khi đặng 1.000 ngày th́ qua nước Tây Thục t́m ta tại thành Dương Tử (chợ Dê Xanh)”, nói rồi nhảy lên mây hiện hào quan, ngồi trên xe trắng trâu xanh kéo đi mất.

Đúng hẹn 1.000 ngày. Lăo Tử đầu thai vào nhà họ Lư tại Tây Thục là nhà có Đạo đức lớn. Khi sanh ra đặng ít tháng th́ có con dê xanh đến giởn chơi với đứa trẻ, ít khi rời nhau được.

Một hôm con dê chạy mất, đứa bé  khóc hoài. Ông họ Lư mới sai người đi kiếm đem về dắt ngay qua chợ. Lúc đó ông Doăn Hỷ cũng đang hơi thăm t́m chợ Thanh Dương, mọi người đều không ai biết. Đang thơ thẩn th́ bổng thấy người dắt dê, ông bèn đoán ra và chạy theo hỏi, người dắt dê tỏ bày tự sự, liền theo về nhà và nhờ báo cho cậu bé biết có Doăn Hỷ đi t́m. Nghe nói, đứa trẻ vùng ngồi dậy, lấy áo bận vào rồi nói rằng: Doăn Hỷ y lời đến không trễ. Doăn Hỷ bước vào th́ đứa trẻ vùng lớn lên như người thường, ngồi trên ṭa sen, hào quan sáng giới nói rằng: Ta là Lăo Tử đầu thai một lần nữa. Nói rồi niệm chú thâu Thần Tiên xuống hầu và cho Doăn Hỷ phục chức Nguơn Thỉ Chưởng Giáo, cai trị 8 vạn Thần Tiên.

Qua đời Châu Kỉnh Vương thứ 17. Khổng Tử gặp Lăo Tử tại Châu, có hỏi về Đạo đức nghi lễ…khi ra về Khổng Tử khen rằng: “Ta biết con chim bay, ta biết con cá lội, chớ con rồng trong mây gió ta không biết nó biến hóa thấp cao, Lăo Tử cũng như con rồng.”

***

LĂO TỬ GIÁNG SANH

Chẳng phải sanh ra tóc đă già,

V́ chưng bạch tạng, tóc sương pha.

Cỡi Thanh Ngưu gặp tṛ Doănh Hỷ,

Đạo Đức Kinh truyền khắp nẻo xa.

                                           Q.M

             ***

Bên khe nước bích động hồ xây,

Từng dạo rừng kia lại núi nầy.

Tranh sớm mây giăng Trời mấy cụm,

Đờn chiều gió khảy trước muôn cây.

Cờ vầy nghiêng  ngửa đôi bầu bạn,

Thi họa nghêu ngao một túi đầy.

Ẩn thạch bàn ngồi xem thế sự,

Vui buồn ḿnh biết một ḿnh hay.

            Thánh giáo của Lăo Quân

 

3.  TÔ VƠ CHĂN DÊ

Tô Vơ : Họ Tô tên Vơ, là một vị quan Đại Học Sĩ dưới triều vua Hán Nguyên Đế bên Tàu. Điển tích nầy thường gọi là “ Tô Vơ mục dương”, nghĩa là: Ông Tô Vơ chăn dê. (mục là chăn nuôi, dương là con dê).

Tô Vơ, tự là Tử Khanh, người đất Đỗ Lăng, làm quan dưới triều vua Hán Nguyên Đế đến chức Vũ Điện Đại Học Sĩ.

Lúc bấy giờ giặc Hung Nô nổi lên rất mạnh, thường đem binh vào đánh phá Trung nguyên. Triều đ́nh suy nhược, không có tướng tài đủ sức chống cự với quân Hung Nô.

Quan Tể Tướng Trương Văn Học tâu :

- Muôn tâu Bệ hạ, hiện nay bờ cơi rối loạn, nước ta đă hao binh tổn tướng nhiều phen mà không lui được giặc Phiên. Hạ thần thiết tưởng nên sai một viên quan lăo thành, đem lời ḥa hiếu mà khuyên bảo vua Phiên. Hễ nước Phiên chịu lui quân th́ ta bỏ cho nó lệ triều cống, cốt làm cho muôn dân b́nh an, nước nhà khỏi cơn nguy biến. Xin Bệ hạ định liệu.

Vua Hán hỏi :

- Nhà ngươi nói phải, nhưng các quan trong triều, ai là người có thể đi sứ Phiên được?

- Muôn tâu Bệ hạ, việc ḥa Phiên rất trọng hệ, cần phải giữ cho nước nhà không mất thể diện, thiển nghĩ chỉ  có quan Vũ Điện Đại Học Sĩ Tô Vơ là người lăo thành, các nước ngoài đều biết tiếng, có thể đảm nhận nhiệm vụ được.

Vua Hán phán hỏi Tô Vơ rằng :

- Nay Trẫm sai ngươi đi ḥa Phiên, ngươi cố khuyên vua Phiên chớ nên nghe lời tên gian tặc Mao Diên Thọ mà để cho 2 nước bất ḥa. Nếu như bên Phiên chịu lui quân th́ Thiên triều băi bỏ lệ triều cống. Ngươi khá v́ Trẫm chịu nhọc một phen, Trẫm sẽ hậu thưởng.

Phán xong, Hán Đế trao cho Tô Vơ một đạo Thánh chỉ làm sứ giả đi ḥa Phiên.

Khi Tô Vơ đi qua khỏi Nhạn Môn Quan để vào nước Phiên. Vua Phiên không cho người tiếp rước, nên Tô Vơ biết là việc ḥa Phiên rất khó khăn. Tô Vơ vào đến triều đ́nh vua Phiên, đứng thẳng người, không qú lạy. Các quan Phiên hét :

- Sứ thần bên Hán sao thấy vua ta mà không qú lạy ?

Tô Vơ quay lại mắng rằng :

- Phiên tặc, bây chỉ biết trách người sao không biết trách ḿnh. Ta phụng chỉ Thiên triều sang đây mà vua tôi nhà ngươi không ra nghinh tiếp, đó là một điều vô lễ, lại c̣n trách Đại thần nhà Hán sao không lạy một ông vua Tiểu Phiên ?

Vua Phiên ph́ cười nói rằng :

- Vua Hán sai ngươi sang đây tất cũng biết tay Trẫm đó. Thế th́ vua Hán chịu dâng nạp nàng Chiêu Quân chưa ?

Tô Vơ nghe vua Phiên nói như vậy th́ tức giận quát :

- Phiên tặc chớ nói càn. Chiêu Quân là Tây Cung của Thiên triều. Sao ngươi lại nghe lời của tên gian tặc Mao Diên Thọ mà mơ tưởng sự vô lư đó. Ta phụng mệnh sang đây là để nói lời phải trái làm ḥa 2 nước, yêu cầu ngươi bắt ngay tên Mao Diên Thọ nộp cho Thiên triều, để từ đây 2 nước giao ḥa với nhau, khỏi binh đao khổ sở dân chúng. Thiên triều cũng rộng ơn cho Phiên khỏi lệ triều cống.

- Sao ngươi nói dễ quá vậy? Muốn giảng ḥa th́ vua Hán phải dâng nạp nàng Chiêu Quân cho ta, nếu không Trẫm sẽ đánh tới kinh đô nhà Hán.

- Phiên tặc, nếu ngươi cứ mơ tưởng Chiêu Quân th́ không bao giờ thỏa mộng được.

- Thằng giặc già nầy hỗn láo, mau lôi nó ra chém đầu.

Thừa Tướng Vệ Luật của nước Phiên bước ra tâu :

- Xin Bệ hạ nguôi giận mà tha chết cho hắn. Vả lại 2 nước đang đánh nhau, ta không nên chém sứ giả. Xin Bệ hạ giao hắn cho hạ thần khuyên dỗ hắn đầu hàng.

Vua Phiên chấp thuận. Nhưng sau đó Vệ Luật không dụ được Tô Vơ, mà lại bị Tô Vơ mắng cho một trận. Vua Phiên giận bắt Tô Vơ bỏ vào hang đá 3 ngày cho chết đói. Tô Vơ vuốt hột sương đọng nơi gù cờ thấm giọng nên không chết. Vua Phiên cho rằng Tô Vơ có Thần nhân hộ trợ nên không dám giết, đày Tô Vơ ra Mục Dương thành, bắt chăn 100 con dê đực, chừng nào dê đực đẻ con mới tha cho về nước.

Tô Vơ tuổi già sức yếu, lại thiếu quần áo chống lạnh, sắp nguy tánh mạng, may nhờ một con vượn cái giúp đỡ, đem vào động đá nuôi dưỡng, các vượn nhỏ giúp chăn dắt đàn dê.

Mỗi lần mùa Đông sắp đến, chim nhạn lánh tuyết bay về phương Nam, Tô Vơ viết thư buộc vào nách chim nhạn để nó bay đem về đất Trung nguyên, báo tin cho Hán Đế biết ông c̣n sống và hiện bị đày đi chăn dê ở phía Bắc xứ Hung Nô.

Mười sáu năm sau, quân Hán bị quân Phiên đánh bại, Hán Đế buộc phải đem Chiêu Quân cống Hồ (Phiên).

Khi nàng Chiêu Quân tới kinh đô Phiên quốc, nàng xin với vua Phiên giết chết tên gian thần Mao Diên Thọ, và thả Tô Vơ trở về nước. Vua Phiên bằng ḷng.

Tô Vơ về đến Hán kinh th́ tóc đă bạc phơ, giọng nói phiều phào, vào chầu Hán Đế. Vua Hán cảm động, phong Tô Vơ thăng lên 3 cấp, thưởng cho 1000 lạng vàng, và bà Châu Thị, vợ của Tô Vơ được phong làm Nhứt phẩm Phu Nhân.

***

 

TÔ VƠ CHĂN DÊ

Chừng nào dê đực đẻ con ra,

Tô Vơ mới mong trở lại nhà.

Mười chín năm trường nhờ cánh nhạn,

Thuyền Du đất Bắc mới dung tha.

                                    Q.M

 

                     ***

Mười tám thu dù rẻ Đế Thành,

Bền ḷng son sắc gă Tô Khanh.

Song sương đội nguyệt trao thơ lá,

Uống tuyết chăng dê vận áo xanh.

Bợ ngợ đất Hồ  ḷng một tấm,

Mơ màng trời chiếu, nguyệt năm canh.

Tóc râu tuy bạc ḷng chưa bạc,

Tượng vẽ đài mây mới rạng danh.

                                   Vô Danh

 

4. THẦN ĐỒNG VẤN KHỔNG TỬ

Đức Khổng Tử cùng một số học tṛ, trên đường đi qua nước Trần, gặp một đám trẻ nhỏ chơi đùa giữa đường. Ngài ngồi trên xe nh́n đám trẻ, thấy có một cậu bé cặm cụi lấy cát đắp một cái thành nhỏ mà không đùa nghịch. Đức Khổng Tử dừng lại hỏi cậu bé :

-Sao cậu không chơi đùa với mấy đứa trẻ kia ?

Cậu bé đáp :

-Đùa giỡn th́ vô ích. Sự đùa giỡn có thể làm rách quần áo, nhọc công mẹ vá khâu và làm buồn ḷng đến cha, nên tôi không đùa nghịch.

Nói xong, cậu tiếp tục đắp thành. Đức Khổng Tử lại hỏi :

-Cậu không tránh cho xe của tôi đi sao ?

Cậu bé thản nhiên đáp :

-Từ xưa đến giờ, xe phải tránh thành, chớ có bao giờ thành tránh xe.

Đức Khổng Tử nghe cậu bé trả lời hay quá, thấy cậu bé nầy có vẻ khác lạ, liền xuống xe đến gần cậu bé bàn luận nhiều việc xa xôi. Cậu bé đều trả lời xuôi rót, nhưng có tánh cách biến trá. Đức Khổng Tử trách rằng :

-Cậu hăy c̣n bé mà sao đă biến trá lắm vậy ?

-Người ta sanh ra 3 ngày đă biết t́m vú mẹ, con thỏ sanh ra 3 ngày đă chạy tung tăng trên đồng nội, con cá sanh ra 3 ngày th́ biết xuôi ngược khắp sông hồ. Đó là tánh tự nhiên, sao gọi là biến trá ?

-Cậu ở xóm nào, làng nào, cha mẹ ở đâu ?

-Tôi sanh tại đây, họ Hạng tên Thác, chưa có tên tự.

-Ta muốn cậu cùng đi chơi với ta, ư cậu thế nào ?

-Trong nhà tôi c̣n có cha, cần phải phụng, c̣n có mẹ cần phải dưỡng, có anh để phục tùng, có em phải dạy dỗ, c̣n có thầy để học hỏi, đâu có rảnh để đi chơi với ông.

-Trong xe ta có sẵn 32 con cờ, ta muốn cùng cậu đánh cờ, cậu có bằng ḷng không ?

-Thiên tử mê cờ th́ bốn biển không người ǵn giữ, chư Hầu mê cờ th́ chính sự không an, nho sĩ mê cờ th́ việc học đ́nh trệ, nông phu mê cờ th́ quên việc cày cấy, v́ thế tôi không đánh cờ.

-Ta muốn cùng cậu đàm luận việc b́nh trị thiên hạ, cậu có bằng ḷng không ?

-Chuyện thiên hạ khỏi phải b́nh, v́ hoặc như núi cao, hoặc như sông hồ, hoặc như vương hầu, hoặc như nô tỳ. Nếu san bằng núi th́ chim chóc không nơi trú ngụ, lấp bằng sông hồ th́ cá nhờ đâu bơi lội, bỏ chức vương hầu th́ dân không người trị, bỏ nô tỳ th́ chủ nhân không có người để sai khiến, thế nên tôi không b́nh luận việc thiên hạ.

-Đức Khổng Tử lại hỏi :

Lửa nào không khói ?             Nước nào không cá ?

Núi nào không đá ?                Cây ǵ không cành ?

Người nào không vợ ?            Ai kẻ không chồng ?

Trâu nào không nghé ?           Ngựa nào không con ?

Trống nào không mái ?          Mái nào không trống ?

Ai là quân tử ?                        Ai kẻ tiểu nhân ?

Vật ǵ không đủ ?                   Vật ǵ có thừa ?

Thành nào không chợ ?          Người nào không con ?

-Cậu bé Hạng Thác liền đáp :

Lửa đôm đốm không khói.     Nước giếng không cá.

Núi đất không đá.                  Cây khô không cành.

Tiên Ông không vợ.               Ngọc Nữ không chồng.

Trâu đất không nghé.             Ngựa gỗ không con.

Trống độc không mái.            Mái độc không trống.

Hiền là quân tử.                      Kẻ dại tiểu nhân.

Ngày Đông không đủ.            Ngày Hạ có thừa.

Hoàng thành không chợ.        Đứa trẻ không con.

- Sau khi Hạng Thác trả lời xong, Đức Khổng Tử hỏi tiếp :

Cậu có biết ǵ về lẽ Đạo hằng của Trời Đất ?

Sự cuối cùng của Âm Dương ?

Đâu là phải ?              Đâu là trái ?

Đâu là trong ?             Đâu là ngoài ?

Ai là Cha ?                 Ai là Mẹ ?

Ai là chồng ?              Ai là vợ ?

Gió từ đâu đến ?         Mây từ đâu ra ?

Sương từ đâu có ?       Trời Đất xa nhau mấy dặm ?

-Cậu bé Hạng Thác liền trả lời :

9 lần 9 chu kỳ là 81. Ấy là đạo của Trời Đất.

8 lần 9 là 72. Ấy là Âm Dương cùng cuối.

Tây là phải.                 Đông là trái.             

Trong là lư.                 Ngoài là biểu.

Trời là Cha.                Đất là Mẹ.

Mặt Trời là chồng.      Mặt Trăng là vợ.

Gió từ cây xao động.   Mây trong núi bay ra.

Sương từ đất dậy.        Trời Đất xa nhau ngàn ngàn vạn vạn dặm.                             

-Cậu bé Hạng Thác đă trả lời đầy đủ các câu hỏi của Đức Khổng Tử. Bây giờ cậu bé xin thỉnh giáo Đức Khổng Tử đôi điều :

Thưa Ngài, vịt ngỗng sao nổi trên mặt nước ?

Chim hồng chim nhạn  sao lại kêu to ?

Tùng bách sao ngày Đông vẫn xanh lá ?

-Đức Khổng Tử đáp rằng :

Vịt ngỗng v́ chân nó banh mà nổi bơi trên mặt nước.

Chim hồng chim nhạn kêu to là v́ cổ nó dài.

Tùng bách ngày Đông xanh lá là v́ ruột nó đặc.

-Cậu bé Hạng Thác cười nói rằng :

    Chắc không hẳn như vậy đâu.

Tôm cá vẫn nổi trên mặt nước mà chân nó có banh đâu.

Ễnh ương, ếch nhái kêu to mà cổ của nó có dài đâu.

Cây trúc rổng ruột mà ngày Đông vẫn xanh lá.

-Sau khi bắt bẻ các câu trả lời của Đức Khổng Tử, Thần đồng Hạng Thác hỏi tiếp :

Trên bầu Trời có sao lấp lánh, vậy thưa Ngài có tất cả bao nhiêu v́ sao ?

Chuyện dưới đất không thiếu ǵ sao lại hỏi chuyện trên Trời.

Vậy dưới đất nhà cửa san sát có bao nhiêu ngôi nhà ?

-Đức Khổng Tử lại nói rằng :

Ta nên nói ngay chuyện trước mắt có phải là thực tế hơn không, cần ǵ nói chuyện Trời Đất.

- Vậy thưa Ngài nếu bàn chuyện trước mắt th́ Ngài cho biết lông mày có bao nhiêu sợi ?

Đức Khổng Tử không trả lời, chỉ biết cười mà thôi.

Ngài quay lại nói cùng các học tṛ rằng: “ Hậu sanh khả úy” (kẻ sanh sau đáng sợ thật). Đó là kẻ rất khó t́m thấy trong thiên hạ. Nói xong Ngài trở lên xe đi thẳng.

Tối hôm ấy, Đức Khổng Tử ngồi thẩn thờ trước án, ngọn đèn bạch lạp lụn tàn. Tử Lộ mạo muội vào hỏi thầy :

 - Thầy trầm tư về cuộc tranh luận với Hạng Thác ? - Phải.

 - Thầy không vui v́ ḿnh yếu lư ?  -  Không.

Thấy Tử  Lộ có ư hồ nghi, nên Đức Khổng Tử  nói tiếp :

- Nầy Do, b́nh sanh ta đi chu du thiên hạ để  truyền bá Nhơn đạo, mặt luôn luôn hướng thẳng, ḷng sáng tợ gương, ư thành, ngôn chánh. C̣n miệng lưỡi của Hạng Thác là miệng lưỡi của phường biện sĩ, nên có thể chứng minh ngựa trắng không phải là ngựa trắng. Khi xướng thuyết Liên Hoành cũng thuận, mà bày kế Hợp Tung cũng thông. Xét từ bản chất của ngôn ngữ, cuộc tranh luận vừa qua cũng như nước chảy ḍng đôi, xa trăm ngàn đợt sóng nhấp nhô, nhưng kỳ thật không lượn lớn lượn nhỏ nào va chạm. Do làm sao hiểu được !

Tử Lộ hỏi : - Vậy cớ nào thầy buồn ?

- Ta buồn v́ có Khổng Khâu mà c̣n phường biện sĩ. Hạng Thác nhắc cho ta nhớ đến vai tṛ của kẻ biện sĩ. Biện sĩ chỉ thuyết cho sự lợi ích mà không thuyết cho Chơn Lư. Khắp thiên hạ, kẻ cầu lợi đông như kiến cỏ, người hướng về Chơn Lư đốt đuốc khó t́m. Thế sự trôi chảy không ngừng. Chánh đạo của ta liệu truyền lưu được bao lâu nữa ? Đó chẳng phải là điều đáng buồn hay sao ?

Tử Lộ toan lui ra, Đức Khổng Tử kêu lại hỏi :

- Tṛ Do, tṛ c̣n nhớ người hiền nước Sở ?

- Bẩm, có phải là Sở cuồng Tiếp Dư ca hát nghêu ngao.

- Tṛ c̣n nhớ 2 ẩn sĩ họ Kiệt, họ Tràng ?

- Bẩm, có phải 2 lực điền ở giáp ranh  Sở, Thái ?

- Họ khuyên ta bỏ đi việc chính sự lụy phiền, để làm người tỵ thế. Khuyên ta: “Trời không hề nói ǵ mà vạn vật điều ḥa”. Ta cũng muốn êm lời, nhưng gặp việc nghĩa mà không làm, biết Chơn Lư mà không nói th́ phải sống với đồng loại hay sống với chim muông !

Tử Lộ ra ngoài nói với các bạn : Thầy nói “Hậu sinh khả úy”. Không phải sợ kẻ sanh sau tài giỏi hơn ḿnh, mà sợ họ làm sai lạc chánh lư bằng ngoa ngôn xảo ngữ vị lợi đó thôi./.

***

 

Trọng Ni nhân vi sư Hạng Thác,

Học tinh thần khai thác Nho Tông.

Gẫm xem tổn bấy nhiêu công,

Làm cho thiên hạ đại đồng trí tri.

(Trích Nữ Trung Tùng Phận của  Đoàn Thị Điểm)

 

 

5. TÔN TẪN TẦM SƯ HỌC ĐẠO

Tôn Tẫn là người nước Yên, cha là Tôn Tháo, mẹ là Công chúa Yên Đơn, ông nội là Tôn Vơ Tử.

Công chúa Yên Đơn thọ thai 48 tháng mới sanh ra Tôn Tẫn. Lúc sanh ra là lúc Công chúa Yên Đơn đương bị khổn trong trận do Hỗn Thiên Tán của Túy Vân, nên nằm bất tỉnh rồi lâm bồn đúng giờ Tư tại núi Kinh Kha nước Yên.

Lúc Tôn Tẫn lên 9 tuổi th́ Tôn Tháo mất, Tôn Kiều là chú đang làm Quan Đại Phu nước Tề đem Tôn Tẫn về nuôi dưỡng. Sau đó Tôn Kiều gặp nạn, phải lánh sang nước Châu, gia đ́nh sa sút, Tôn Tẫn phải đi làm thuê sinh sống.

Tôn Tẫn lớn lên, nghe đồn Quỉ Cốc Tiên Sinh có tài cao phép lạ, nên t́m đến xin thọ giáo. Nguyên ở Dương Thành thuộc địa phận nhà Châu, có một chỗ gọi là Quỉ Cốc, v́ nơi ấy có núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề. Trong núi ấy có một ẩn sĩ họ Vương tên Hủ, trước ở núi Vân Mộng cùng Mặc Địch hái thuốc, tu Tiên, sau đến ẩn nơi Quỉ Cốc, nên người ta thường gọi là Quỉ Cốc Tiên sinh.

Quỉ Cốc Tiên sinh có học vấn uyên bác, tu Tiên đắc đạo, tinh thông lư số, thông hiểu lẽ huyền vi của Trời Đất, lại cũng tinh thông binh thơ đồ trận.

Học tṛ của Quỉ Cốc Tiên sinh có nhiều người tài giỏi như: Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi, vv . . . Tôn Tẫn và Bàng Quyên th́ học về binh pháp. C̣n Tô Tần và Trương Nghi th́ học về du thuyết.

Bàng Quyên học được 3 năm, tự cho ḿnh đă giỏi rồi, nên xin thầy cho xuống núi đi lập công danh.

Quỉ Cốc bảo Bàng Quyên đi hái một cành hoa đem vào đây để thầy đoán vận mạng cho. Bàng Quyên đi ra khỏi động, nhằm lúc khí Trời nóng nực, cây cối  không ra  hoa, chỉ thấy một bông hoa cỏ, liền nhổ lên cả gốc, toan đem tŕnh thầy, bỗng nghĩ rằng bông hoa nầy mềm yếu và không đẹp nên ném xuống đất, rồi đi t́m hoa khác, nhưng không t́m được cành hoa nào, đành trở lại chỗ cũ, nhặt cành hoa đă bỏ lúc nảy, bỏ vào túi áo, rồi vào tŕnh thầy rằng :

- Trong núi mùa nầy không có hoa.

- Không có hoa th́ vật ǵ trong túi áo của ngươi đó ?

Bàng Quyên không giấu được, buộc phải đưa ra tŕnh.

- Nhà ngươi có biết cái hoa nầy tên ǵ không ? Nó là hoa Mă Đâu Linh, mỗi lần nở 12 bông, ứng với số năm vẻ vang của ngươi. Hoa nầy hái ở Quỉ Cốc, thấy mặt Trời th́ héo, bên chữ  QUỈ  có chữ  ỦY thành chữ  NGỤY, nhà ngươi xuất thân ở nước Ngụy. Sau nầy nhà ngươi v́ việc lừa dối người mà bị người lừa dối lại. Vậy nên lấy điều đó mà răn ḿnh. Ta có 8 chữ nầy, nhà ngươi khá nhớ: “ Gặp dê th́ vinh, gặp ngựa th́ hỏng.”

Bàng Quyên lạy thầy 2 lạy nói rằng :

- Lời giáo huấn của thầy, đệ tử  hết ḷng ghi nhớ.

Tôn Tẫn tiễn Bàng Quyên xuống chơn núi.

Bàng Quyên nói :

- Đệ cùng huynh kết nghĩa anh em, thề giàu sang cùng hưởng, khốn nàn cùng gánh. Chuyến đi nầy nếu đệ lập được công danh th́ sẽ tiến cử huynh để  cùng lập cơ nghiệp.

Hai người chia tay, Tôn Tẫn buồn rớm nước mắt, trở lên núi. Quỉ Cốc Tiên Sinh hỏi Tôn Tẫn :

- Ngươi bảo cái tài của Bàng Quyên làm được Đại Tướng không ?

- Nhờ ơn thầy dạy bảo đă lâu, lẽ nào Bàng Quyên không làm được Đại Tướng ?

- Không làm được, nhứt định không làm được.

Tôn Tẫn nghe thầy nói vậy th́ lấy làm lạ nhưng không dám hỏi thầy lư do. Hôm sau, Quỉ Cốc bảo các học tṛ:

- Ban đêm, ta rất khó ngủ, ta rất ghét tiếng chuột kêu. Các tṛ phải luân phiên nhau thức mà đuổi chuột cho ta.

Các tṛ đều vâng lời, chia phiên thức gác. Tới phiên Tôn Tẫn, Tiên sinh lấy một quyển sách trao cho Tôn Tẫn nói:

- Đây là 13 thiên binh pháp của ông nội nhà ngươi tên là Tôn Vơ Tử, xưa đem dâng cho vua Hạp Lư nước Ngô, nhờ đó mà Hạp Lư phá tan quân Sở. Hạp Lư giữ cuốn sách nầy làm gia bảo, bỏ vào hộp sắt, giấu vào cột Cô Tô Đài. Từ khi quân nước Việt đốt Cô Tô Đài, cuốn sách ấy mất tích luôn. Ta có chơi thân với ông nội ngươi, nên được xem sách ấy, ta nhớ và ghi lại, tự  tay ta chú giải thêm nhiều điều bí mật trong cách hành binh. Ta chưa từng cẩu thả giao sách cho ai, nay thấy ngươi trung hậu, nên ta giao cho ngươi học, trong 3 ngày giao lại cho ta. Học cuốn sách nầy, khéo dùng th́ làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng th́ hại rất lớn. Bàng Quyên không là người tốt, nên ta không dạy.

Tôn Tẫn đem sách về pḥng, ngày đêm nghiền ngẫm, trong 3 ngày th́ nằm ḷng. 3 ngày sau, Tôn Tẫn đem sách nộp cho thầy. Tiên sinh theo từng thiên hỏi lại Tôn Tẫn, Tôn Tẫn đối đáp rất trôi chảy. Tiên sinh mừng rỡ nói :

- Ngươi biết dụng tâm như thế, Tỗ phụ ngươi dầu đă qua đời chắc rất vui ḷng.

Nói về Bàng Quyên, xuống núi thẳng đến nước Ngụy, vào cầu quan Tướng Quốc Vương Thác. Vương Thác tiến cử Bàng Quyên lên vua Ngụy Huệ Vương. Khi Bàng Quyên vào chầu vua, gặp lúc nhà bếp dâng lên món thịt dê. Bàng Quyên mừng thầm v́ nhớ lời thầy dặn, gặp dê th́ vinh.

Bàng Quyên được Huệ Vương trọng dụng, lần lần phong lên đến chức Nguyên Soái, kiêm Quân Sư. Con trai là Bàng Anh, cháu là Bàng Thông, Bàng Mai đều được vua phong làm Tướng, cả nhà vinh hiển. 

Lúc bấy giờ có Mặc Địch ghé Quỉ Cốc thăm bạn cũ là Vương Hủ (Quỉ Cốc Tiên sinh), Mặc Địch gặp Tôn Tẫn, đàm luận rất hợp ư, bèn bảo Tôn Tẫn :

- Anh học nghệ đă thành, sao không đi lập công danh ?

- Tôi có người bạn học là Bàng Quyên, đă ra làm quan ở nước Ngụy, có hẹn khi nào đắc chí sẽ tiến cử tôi, nên tôi đợi.

- Bàng Quyên đă làm Nguyên soái nước Ngụy, để tôi v́ anh mà đến đó dọ ư Bàng Quyên thế nào ?

Mặc Địch từ giă Quỉ Cốc rồi đi vào nước Ngụy, nghe Bàng Quyên cậy tài, nói quá không biết thẹn, không có ư tiến cử Tôn Tẫn. Mặc Địch vào nói cho Huệ Vương rơ các việc. Huệ Vương liền đ̣i Bàng Quyên đến hỏi :

- Ta nghe nói Tôn Tẫn cùng học một thầy với Nguyên soái, lại được học riêng binh pháp bí truyền của Tôn Vơ Tử, tài giỏi không ai bằng, sao Nguyên soái chẳng v́ Quả nhân mà tiến cử người ấy đến giúp Trẫm.

- Tâu Bệ hạ, hạ thần không phải không biết tài của Tôn Tẫn, nhưng Tôn Tẫn là người nước Tề, nay làm quan nước Ngụy th́ thế nào cũng liên lạc với Tề. Nay Bệ hạ muốn triệu Tôn Tẫn th́ hạ thần xin viết thơ gọi đến.

Bàng Quyên ở vào thế buộc phải viết thơ gọi Tôn Tẫn, nhưng thâm tâm rất sợ Ngụy Vương trọng dụng Tôn Tẫn, bỏ rơi ḿnh, nên thầm tính kế hại Tôn Tẫn.

Bàng Quyên viết thơ xong, Huệ Vương dùng xe Tứ Mă và đồ lễ long trọng, sai người đến Quỉ Cốc rước Tôn Tẫn.

Tôn Tẫn tiếp được thơ của Bàng Quyên, vội đem tŕnh thầy. Tiên sinh bảo Tôn Tẫn đi hái một cành hoa để  bói coi tốt xấu. Tôn Tẫn thấy b́nh hoa trên án có một cành hoa cúc, bèn đến rút lấy đem tŕnh thầy, rồi đem cắm trở lại vào b́nh.

Tiên sinh đoán rằng: Cành hoa nầy bị bẻ, không hoàn hảo, nhưng tánh chịu rét, dẫu có bị tàn hại cũng không hề ǵ. Vả cắm trong b́nh, mọi người đều quí trọng, mà cái b́nh ấy lại là vàng đúc cùng một loại với chung đỉnh, chắc rồi sẽ có tiếng tăm lừng lẫy. Nhưng cành hoa nầy 2 lần cất nhắc lại cắm vào b́nh, vậy sự nghiệp của ngươi chưa thể đắc ư ngay được, mà kết cuộc sẽ làm nên ở quê ḿnh. Vậy ta đổi tên cho, có thể mong tiến thủ được. Tên ngươi là TÂN, ta thêm một chữ NHỤC  ở bên tả thành chữ TẪN, vậy tên của ngươi là Tôn Tẫn. (Tân là khách, Tẫn là bị chặt xương đầu gối) Tiên sinh đổi tên như thế là v́ Tiên sinh biết trước học tṛ ḿnh bị cái hoạ chặt chân, nhưng không dám tiết lộ.

Khi Tôn Tẫn lạy thầy từ biệt, Thầy trao cho một bức cẩm nang, dặn kỹ khi nào gặp việc nguy cấp mới mở ra xem. Tôn Tẫn lạy tạ thầy lần nữa, rồi xuống núi, lên xe Tứ Mă thẳng đến nước Ngụy, tạm ở trong phủ của Bàng Quyên.

Bàng Quyên biết Tôn Tẫn tài giỏi hơn ḿnh, sợ Ngụy Vương dùng Tôn Tẫn, bỏ rơi ḿnh, nên Bàng Quyên, ngoài mặt giả đ̣ anh em thân thiết, nhưng ngầm lập kế ám hại Tôn Tẫn. Bàng Quyên giả mạo chứng cớ, cáo buộc Tôn Tẫn tư thông nước Tề để hại nước Ngụy. Huệ Vương nghe lời sàm tấu của Bàng Quyên, bắt Tôn Tẫn chặt chân và thích vào trán 4 chữ  “ Tư Thông Ngoại Quốc ”.

Tôn Tẫn trở thành phế nhân, mỗi ngày chịu ơn Bàng Quyên cung cấp 3 bữa ăn. Bàng Quyên lại dùng thủ đoạn để gạt người bạn cũ chép 13 thiên binh pháp truyền lại cho ḿnh.

Tôn Tẫn v́ lầm gian kế của Bàng Quyên nên rất khổ sở, quá chán nản cho t́nh người đen bạc, lại bị vết thương chặt chân hành hạ quá đau đớn, muốn t́m kế thoát thân, nhưng chưa biết phải làm sao, sực nhớ bức cẩm nang thầy ban cho, liền bí mật mở ra xem, thấy thầy đề 2 chữ: Giả điên.

Buổi chiều hôm ấy, khi mâm cơm đưa tới, Tôn Tẫn cầm đũa định ăn, bỗng làm ra dáng mê man, nôn oẹ, hồi lâu nổi giận giương mắt hét to lên rằng: Mày dùng thuốc độc hại ta, rồi hất đổ mâm cơm xuống đất, miệng lảm nhảm chửi hoài.

Bàng Quyên được lính hầu báo cho biết việc Tôn Tẫn nổi điên th́ không tin, đến tận nơi xem xét và nhốt Tôn Tẫn vào chuồng heo, đem cơm đến cho ăn. Tôn Tẫn lại hét: “ Mày lại đem thuốc độc đến hại ta à ?” Nói rồi gạt mâm cơm đổ xuống đất. Tên lính hầu nhặt cơm cho chó ăn, lấy một cục bùn đưa Tôn Tẫn th́ Tôn Tẫn liền lấy ăn ngay.

Bàng Quyên tin chắc Tôn Tẫn điên thật nên không lấy làm lo, dần dần thả lỏng Tôn Tẫn muốn đi đâu th́ đi, nhưng ra lịnh cho người theo dơi, mỗi sáng phải tŕnh báo cho biết Tôn Tẫn hiện đang ở đâu.

Bấy giờ Mặc Địch sang chơi nhà Điền Kỵ nước Tề. Có người học tṛ tên Cầm Hoạt ở nước Ngụy đến. Mặc Địch hỏi thăm Cầm Hoạt lúc nầy Tôn Tẫn có đắc ư không ? Cầm Hoạt thuật lại việc Tôn Tẫn bị chặt chân và trở nên điên khùng.

Mặc Địch nói:

- Ta muốn tiến cử hắn nào ngờ lại thành ra hại hắn.

Mặc Địch liền nói rơ tài học của Tôn Tẫn cho Điền Kỵ nghe và việc Bàng Quyên ganh tài ám hại Tôn Tẫn, khuyên Điền Kỵ t́m cách rước Tôn Tẫn sang Tề. Điền Kỵ vào tâu với vua Tề là Tề Uy Vương. Uy Vương muốn đem binh đón Tôn Tẫn th́ Điền Kỵ can, nói phải lập kế mới rước Tôn Tẫn được.

Uy Vương sai Thuần Vu Khôn sang Ngụy dâng trà, đem Cầm Hoạt đi theo giả làm kẻ hầu. Qua đến Ngụy, Cầm Hoạt bí mật đi t́m Tôn Tẫn, rồi mướn người khác giả làm Tôn Tẫn, đặng rước Tôn Tẫn thật về Tề.

Thuần Vu Khôn và Cầm Hoạt đưa được Tôn Tẫn ra khỏi nước Ngụy th́ đi thẳng về Lâm Tri, có Điền Kỵ thân hành ra đón. Tề Uy Vương rất mừng, muốn phong Tôn Tẫn làm Quân Sư, nhưng Tôn Tẫn tâu rằng :

- Hạ thần chưa có chút công chi nên chưa dám nhận quan tước. Vả nếu Bàng Quyên biết thần làm quan cho Tề ắt lo đề pḥng, chi bằng tạm giấu đi mới dễ bề hành động.

Uy Vương bằng ḷng, cho Tôn Tẫn ở trong dinh Điền Kỵ, tôn là thượng khách.

Lúc đó, Ngụy Huệ Vương sai Bàng Quyên đi đánh nước Triệu để đ̣i đất Trung Sơn. Quân Triệu bị thua. Triệu Thành Hầu cầu Tề cứu viện. Tề Uy Vương định phong Tôn Tẫn làm Đại Tướng đem binh cứu Triệu. Tôn Tẫn tâu rằng :

- Hạ thần là kẻ tàn phế, nếu cho làm Đại Tướng e cho quân địch sẽ cười Tề không có tướng tài, chi bằng Đại Vương cử Điền Kỵ làm Tướng, và hạ thần bí mật theo giúp mưu kế.

Tề Uy Vương cử Điền Kỵ làm Đại Tướng, Tôn Tẫn làm Quân Sư bí mật ở trong xe, kéo đại binh cứu Triệu.

Điền Kỵ muốn đem quân thẳng đến Hàm Đan là kinh đô của Triệu. Tôn Tẫn nói : -Tướng nước Triệu không đánh nổi Bàng Quyên, nên khi ta kéo quân đến đó th́ Hàm Đan đă mất về tay quân Ngụy rồi, chi bằng ta cứ đóng quân giữa đường, rêu rao nói rằng ta đi đánh Tương Lăng của Ngụy. Huệ Vương lo sợ, ắt phải gọi Bàng Quyên trở về giữ Tương Lăng. Bấy giờ ta đón đánh Bàng Quyên th́ thế nào cũng thắng.

Điền Kỵ y theo kế đó mà làm. Quả đúng như lời Quân Sư Tôn Tẫn, Bàng Quyên kéo binh về giữ Tương Lăng. Điền Kỵ bày binh theo cách của Tôn Tẫn, đánh Bàng Quyên một trận tơi bời, Bàng Quyên ban đêm chạy trốn về Ngụy.

Năm sau, Bàng Quyên cùng Thái Tử Thân đem binh đánh nước Hàn. Hàn sang cầu cứu Tề. Tề Uy Vương cử Điền Kỵ và Tôn Tẫn đi cứu Hàn.

Điền Kỵ muốn kéo quân đến nước Hàn. Tôn Tẫn nói :

- Không nên, trước kia ta cứu Triệu mà chưa hề đến Triệu, nay cứu Hàn cũng y theo kế hoạch đó. Cái thuật giải cứu Hàn là phải đánh vào nơi yếu trọng của Ngụy th́ quân Ngụy tất phải kéo về. Cái kế ngày nay là phải đem binh thẳng đến kinh đô Ngụy th́ mới cứu được Hàn.

Bàng Quyên đang thắng thế ở nước Hàn, nhưng Ngụy Huệ Vương ra lịnh cho Bàng Quyên phải tức tốc rút binh về đón đánh quân Tề đang thừa cơ kéo đến đánh kinh đô của Ngụy. Tôn Tẫn bày kế lừa Bàng Quyên. Quân Tề làm như sợ hăi khi biết Bàng Quyên kéo quân trở về Ngụy. Ban đầu làm 10 vạn bếp, sau đó rút quân như bỏ chạy, hôm sau làm 6 vạn bếp, hôm sau rút chạy nữa, chỉ c̣n làm 3 vạn bếp.

Bàng Quyên cho quân quan sát các bếp của quân Tề, cười lớn nói với Thái Tử Thân :

- Thật là hồng phúc của Ngụy Vương, quân Tề hèn nhát, vào đất Ngụy có 3 ngày mà binh sĩ bỏ trốn quá nửa. Kỳ nầy, Quyên sẽ bắt sống bọn Điền Kỵ để rửa cái hận Tương Lăng năm trước.

Nói xong, Bàng Quyên chọn 2 vạn tinh binh tiến gấp đánh quân Tề, c̣n đại binh từ từ đi sau.

Tôn Tẫn dọ biết tin đó, tính toán và dự kiến đoàn quân của Bàng Quyên sẽ đến Mă Lăng vào lúc tối. Đường Mă Lăng ở giữa hai trái núi có cây cối um tùm, rất dễ phục binh. Tôn Tẫn sai chặt cây ngă ngang để chẹn lối đi, chỉ chừa một cây to giữa đường, cho cạo sạch một một ô vuông vỏ cây ở phía Đông, rồi dùng than viết lên đó mấy chữ : “ Quân Sư Tôn bảo : Bàng Quyên chết tại cây nầy.

Tôn Tẫn sai bộ tướng Viên Đạt, Độc Cô Trần, kén 5000 quân cung nỏ, mai phục 2 bên tả hữu Mă Lăng, dặn kỹ hễ nơi gốc cây có ánh lửa phát ra th́ nhất tề nhắm vào đó bắn.

Lại sai Điền Anh dẫn 1 vạn quân mai phục cách Mă Lăng 3 dặm chẹn đường quân Ngụy.

Tôn Tẫn phân phát binh xong th́ cùng Điền Kỵ dẫn binh c̣n lại lên đóng phía Bắc để dự bị tiếp ứng.

Bàng Quyên kéo binh đến Mă Lăng th́ trời vừa tối, thấy cây cối bị đốn ngă nằm ngổn ngang, cho rằng quân Tề sợ quân Ngụy đuổi theo kịp nên đốn cây cản đường như thế.

Bàng Quyên cho thu dọn cây cối, bỗng thấy có một cây giữa đường, gần nơi gốc đẽo trắng, có viết chữ nhưng trời tối không thấy rơ. Bàng Quyên sai một tên lính châm lửa lên xem, Bàng Quyên đọc xong mấy chữ th́ la lên :

- Ôi ! Ta mắc mưu thằng què rồi !

Vừa la xong th́ có cả muôn mũi tên từ nỏ bắn ra, quân Ngụy chết thôi vô số. Bàng Quyên bị loạn tên trọng thương, liệu không thoát được, bèn rút kiếm tự  đâm cổ chết.

Cuộc đời của Bàng Quyên đúng y như lời của Quỉ Cốc Tiên Sinh đă nói trước: “Ngươi sẽ v́ lừa người mà bị người lừa lại, gặp dê th́ vinh, gặp ngựa th́ hỏng.” Bàng Quyên chết tại Mă Lăng. (Mă là ngựa).

Giết xong Bàng Quyên rồi, Tôn Tẫn xin với vua Tề cho về ẩn dật tu luyện ở núi Thạch Lư. Một năm sau, không c̣n ai biết Tôn Tẫn ở đâu nữa. Sau nầy được biết Tôn Tẫn tu thành Tiên, hiệu là Liễu Nhứt Chơn Nhơn, ở động Thiên Thai./.

***

 

TÔN TẨN TẦM SƯ HỌC ĐẠO

Tôn Tẩn tầm sư học Đạo Tiên,

Gặp ông Qủi Cốc đắc tâm truyền.

Thiên Thai, Liễu Nhứt Chơn Nhơn hiển,

Pháp thuật Bàn Quyên phải nể kiên.

                                          Q.M

 

                         ***

Đường trần đă ngán nhiễm Tiên phong,

Văn vẵn dường nghe phép mỵ đồng.

An giấc Thiên Thai chim lặng tiếng,

Rữa tai Tề Quốc ngựa đ́nh công.

Êm ĺm gió mát trăng thanh cũ,

Dồn dập dâu tan biển đổi chồng.

Hỏi đám khách trần ai thích điệu?

Pḥng toan mượn đuốc đốt đoàn ong.

(Thánh giáo ngày 9-1-1934 của Tôn Tẩn)

 

                         ***

Thiên thai văng vẳng tiếng tri âm,

Nương mái âm dương đến để thăm.

H́nh vóc cảnh Tiên vô sắc hóa,

Chơn thần nước Phật hữu linh tâm.

Hạo Nhiên vận chuyển Kim Thân hiện,

Thoại Khí luân lưu pháp diệu thâm.

Mừng đặng tam hoa nay tụ đỉnh,

Thiêng liêng văn bản định Đài Vân.

      (Ông Hữu Phan Quân Lê Văn Thoại tiếp được từ Liễu Nhứt Chơn Quân ngày 19-4 Nhâm Tuất (1982) khi đang đứng cúng trong Đền Thánh)

 

 

6. CÔNG CHÚA DIỆU THIỆN

Công Chúa Diệu Thiện là con của vua Linh Ưu, nước Hưng Lâm, một tiểu quốc của Ấn Độ, ở về phía Đông.

Từ ngày nhà vua lên ngôi đến nay đă 40 năm mà Hoàng Hậu Bửu Đức không sanh đứa con nào. Nhà vua cùng Hoàng Hậu lên núi Huê Sơn cầu tự. Ít lâu sau, Hoàng Hậu thọ thai sanh được một nàng Công Chúa, đặt tên Diệu Thanh. Sau đó lại tiếp tục có thai sanh ra Công Chúa Diệu Âm và Công Chúa Diệu Thiện.

Ba nàng Công Chúa lớn lên, nhà vua định hôn cho 2 nàng Diệu Thanh và Diệu Âm với 2 vị quan tài giỏi của triều đ́nh, c̣n nàng Diệu Thiện th́ nhứt định không chịu lấy chồng, mà lại xin phép vua cha cho xuất gia tu hành.

Vua Linh Ưu không bằng ḷng, đày nàng vào Huê Viên gánh nước tưới hoa cực khổ, đồng thời nhờ người khuyến dụ nàng bỏ ư định đi tu, nghe lời vua cha, chịu lấy chồng. Nhưng nàng nhứt định không đổi ư, khiến vua Linh Ưu tức giận.

Hoàng Hậu rất đau ḷng, xin vua cho Diệu Thiện vào tu ở chùa Bạch Tước. Vua chấp thuận nhưng ngầm ra lịnh cho các tăng ni trong chùa, bắt Diệu Thiện làm những công việc nặng nhọc, để nàng ngă ḷng, sớm trở về cung nội.

Diệu Thiện vẫn rán sức làm đầy đủ bổn phận, dầu rất cực khổ nhưng không cất tiếng than.

Nhà vua thấy cách nầy thất bại nên sai quân lính đốt chùa để Diệu Thiện không c̣n nơi tu hành. Các tăng ni hốt hoảng lo chạy thoát thân, Công Chúa Diệu Thiện vẫn b́nh tỉnh, nàng cầu nguyện rồi rút trâm chích lưỡi phun máu lên không trung. Tức th́ mây đen hiện ra, giây lát mưa tuôn xối xả dập tắt đám lửa. Quân lính đều kinh ngạc.

Nhà vua không v́ sự mầu nhiệm đó mà hối hận việc làm, lại bắt Diệu Thiện về triều, tổ chức các cuộc đàn hát vui chơi cho Diệu Thiện say mê, bỏ việc tu hành. Nhưng vua cha vẫn thất bại trước đạo tâm vững chắc của nàng Công Chúa út.

Quá tức giận, vua Linh Ưu ra lịnh tối hậu cho Công Chúa Diệu Thiện phải chọn 1 trong 2 điều : Một là nghe lời vua cha lập gia thất, bỏ việc tu hành; hai là chịu xử trảm.

Diệu Thiện nhứt quyết chịu chết chớ không bỏ tu hành.

Thần Hoàng bay về Trời tâu bày cho Thượng Đế rơ, và Đức Thượng Đế ra lịnh cho Thần phải lo bảo hộ Diệu Thiện.

Diệu Thiện bị đưa ra pháp trường hành quyết. Khi đao phủ đưa đao lên định chém th́ đao găy nát, lại lấy cung ra bắn tên cho chết th́ tên vừa tới Diệu Thiện, tên bỗng găy làm hai. Kẻ hành quyết không giết được Diệu Thiện bằng 2 cách trên, liền đến siết cổ Diệu Thiện.

Bỗng cuồng phong nổi lên, cát bay đá chạy, Thần Hoàng hóa thành mănh hổ cơng Diệu Thiện chạy tuốt vào rừng. Các quan giám sát bị một phen kinh khủng, trở về triều tâu lại. Vua Linh Ưu không chút nao núng, nói Công chúa bất hiếu nên bị cọp tha mất xác.

Công Chúa Diệu Thiện tỉnh dậy thấy ḿnh đang nằm trong rừng vắng vẻ, không biết phải làm sao và đi phương nào.

Đức Phật Nhiên Đăng hiện ra đứng trên mây, bảo nàng Diệu Thiện hăy đi ra Nam Hải, đến núi Phổ Đà tu hành thêm th́ sau nầy sẽ đắc quả Như Lai. Muốn đến đó phải trải 3000 dặm đường. Đức Phật tặng nàng một trái Đào Tiên, ăn vào không biết đói khát trọn năm, mà c̣n được khỏe mạnh.

Diệu Thiện thọ lănh và bái tạ Phật, t́m đường đi Nam Hải. Thái Bạch Kim Tinh hiện xuống, truyền Thần Hoàng biến ra Thần hổ, cơng Diệu Thiện đến Phổ Đà Sơn. Tại đây, Diệu Thiện tu thiền định 9 năm, đạo pháp đạt được cao siêu.

Ngày 19 tháng 2 năm ấy, là ngày thành đạo của Công Chúa Diệu Thiện, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến chúc mừng và xưng tụng công đức của một vị Bồ Tát mới đắc đạo.

Công Chúa Diệu Thiện ngự trên ṭa sen, hào quang sáng ḷa, xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát.

Ngày kia, con gái của Thái Tử của Long Vương Nam Hải (thường gọi là Long Nữ) hóa làm con cá dạo chơi nơi mé biển, bị một ông chài bắt được, đem ra chợ bán. Đức Quan Âm biết được, sai Thiện Tài đồng tử hóa ra một thường nhơn đến mua con cá ấy rồi đem ra biển Nam thả xuống nước. Nam Hải Long Vương nhớ ơn Bồ Tát cứu cháu nội ḿnh nên sai Long Nữ đem dâng Bồ Tát một cục ngọc Dạ Minh Châu, để Bồ Tát đọc sách ban đêm mà không cần đốt đèn. Long Nữ dâng ngọc xong, cảm phục công đức của Bồ Tát nên xin qui y theo hầu Bồ Tát, được Bồ Tát thâu làm đệ tử.

Nhắc lại, từ khi vua Linh Ưu ra lịnh giết chết Diệu Thiện, nhà vua bị một chứng bịnh nan y vô cùng khổ sở, bị lở lói khắp ḿnh mẩy, đau nhức và hôi thối rất khó chịu. Nhiều danh y đến điều trị, nhưng đều không khỏi bịnh.

Đức Quan Âm ở Phổ Đà Sơn Nam Hải biết việc đó, nên giả làm một vị sư già, đến kinh thành, xin trị bịnh cho nhà vua. Sau khi xem mạch, vị sư già tâu :

- Bịnh của Bệ hạ do oan nghiệt nhập với chất độc của đồ cao lương mỹ vị và tửu nhục hằng ngày mà phát sanh ra ngoài thành bịnh nan y. Nếu muốn chữa lành th́ phải có đôi mắt và đôi cánh tay của một đứa con th́ mới chế thuốc được.

Nghe vậy, nhà vua vội đ̣i 2 vị Công chúa Diệu Thanh và Diệu Âm vào, lập lại lời nói của sư già, hỏi xem có đứa con nào chịu hy sinh cho vua cha không. Hai Công chúa đồng tâu :

- Xin phụ vương đừng nghe lời ông săi mầm nầy. Một người bị chặt 2 tay, bị móc 2 mắt th́ dù có sống cũng chẳng ra ǵ. Chẳng lẽ cứu một người mà hại một người hay sao ?

 Vua Linh Ưu chợt nhớ tới Công chúa Diệu Thiện, liền than : “Nếu có Diệu Thiện th́ chắc nó sẽ hy sinh cho Trẫm.”

Vị sư già liền tâu :

- Bần tăng biết rơ Công chúa Diệu Thiện c̣n sống ở Phổ Đà Sơn biển Nam Hải. Xin nhà vua cho người ra đó, t́m Công chúa, may ra chế được thuốc cho Bệ hạ. Bần tăng để thuốc lại đây, chừng nào có đôi mắt và đôi tay th́ nhập với thuốc nấu chung lại, trong uống ngoài thoa sẽ hết bịnh ngay.

Vị sư già nói xong th́ từ giă vua Linh Ưu trở về núi.

Nhà vua sai sứ giả đi Nam Hải. Khi đến Phổ Đà Sơn, một đồng tử bưng một mâm phủ vải trắng thấm ướt máu tươi, trong đó có 2 mắt và 2 tay của Diệu Thiện, trao cho sứ giả.

Hoàng Hậu thấy sứ giả đem 2 mắt và 2 tay của Diệu Thiện về c̣n dính máu tươi th́ khóc mướt. Thị vệ liền đem nấu với thuốc do vị sư già để lại, cho nhà vua uống phân nửa, c̣n phân nữa thoa ngoài da. Nhà vua liền hết bịnh.

Vua Linh Ưu và Hoàng Hậu cảm ơn nghĩa của Diệu Thiện, nên quyết định đi Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá nhà vua đi gặp biết bao nguy hiểm, nhưng đều được Bồ Tát dùng thần thông cứu thoát. Đến nơi, vua và Hoàng Hậu thấy một vị Bồ Tát ngự trên ṭa sen, mất 2 mắt và 2 tay, th́ biết đó là Diệu Thiện, con của ḿnh, nên vô cùng xúc động, nhớ lại mà ăn năn sám hối tội t́nh, qú xuống cầu nguyện với Trời Phật cho Công chúa được lành lặn như xưa.

Sự thành tâm cầu nguyện của vua và Hoàng Hậu được hiển linh. Bồ Tát Diệu Thiện liền hiện hào quang với đầy đủ 2 mắt và 2 tay. Lúc ấy vua và Hoàng Hậu đều giác ngộ, quyết rời bỏ điện ngọc ngai vàng, đem ḿnh vào chốn thiền môn, tu hành cầu giải thoát.

 

***

 

 

 

CÔNG CHÚA DIỆU THIỆN

Tâm tu đă sẵn chốn Đền rồng,

Vương phụ cản đường đến nẻo không.

Mây đảnh Phổ Đà ngăn Thế Đạo,

Quan Âm Nhị Trấn hưởng hồng ân.

                                    Q.M

 

 

 

7. KHỔNG TỬ TÁC XUÂN THU

 

 Khổng Tử  tác Xuân Thu là Đức Khổng Tử  làm ra sách Xuân Thu để  bày tỏ cái đạo của Ngài. “ Kinh Xuân Thu” là bộ sách của Khổng Tử làm ra. Ngài theo lối văn làm sử mà chép truyện nước Lỗ, kể từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công. Trong sách ấy chép cả việc nhà Chu (Châu) và việc các nước chư Hầu.

Xem h́nh thể bề ngoài th́ là một bộ sử biên niên, lời lẽ vắn tắt, lắm chỗ h́nh như không có ư nghĩa ǵ cả, nhưng xét rơ đến tinh thần th́ thật là bộ sách triết lư về việc chánh trị.

Mạnh Tử là người đă hiểu rơ nghĩa Kinh Xuân Thu, nói : “ Kinh Thi hết, nhiên hậu Kinh Xuân Thu mới làm ra. Việc ở trong sách Xuân Thu là việc Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, văn trong sách là văn sử”. Nghĩa th́ Khổng Tử nói rằng : “Khâu nầy trộm lấy đó vậy.” Nghĩa là Ngài lấy truyện ở trong các sách nước Tấn, nước Sở, nước Lỗ mà biểu thị cái ư nghĩa của Ngài muốn bày tỏ ra. Thời Xuân Thu bấy giờ xă hội Tàu loạn lạc, vua các nước chư Hầu làm nhiều điều bạo ngược và ai cũng muốn lấn quyền Thiên tử nhà Châu. Ngài không muốn để sự phê b́nh phán đoán của Ngài đụng chạm đến quyền thế của những người đương thời, vả lại cái học  sâu xa của Ngài là cái học Tâm truyền, cho nên Ngài mượn lối văn làm sử, nói việc đă qua để ngụ cái vi ư của Ngài.”

Sách Trang Tử  (Nam Hoa Kinh) ở thiên Thiên hạ viết rằng: Xuân Thu dĩ đạo danh phận (Sách Xuân Thu là để nói cái đạo danh và phận).

Vậy cứ theo ư kiến của những nhà đại hiền triết đời Chiến quốc th́ sách Xuân Thu thật là cuốn sách để tâm truyền cái đại nghĩa danh và phận về đường luân lư và chánh trị, chớ không phải là sách chép sử như người ta thường vẫn hiểu lầm.

Sách Xuân Thu có 3 chủ nghĩa là :

 * Chính danh tự.  *  Định danh phận. *  Ngụ bao biếm. (Bao biếm là khen chê)

Chủ ư của Khổng Tử là tôn vua nhà Châu. Dẫu đời bấy giờ các nước chư Hầu có nhiều người không biết đến vua nhà Châu đi nữa, nhưng Ngài chép ngay đầu sách là: XUÂN VƯƠNG CHÁNH NGUYỆT, nghĩa là : Mùa Xuân, tháng Giêng,  vua nhà Châu, để  tỏ cái ư vẫn nhận nhà Châu làm chủ thiên hạ…

Xem Kinh Xuân Thu th́ phải biết ư nghĩa và vị trí từng chữ. Mỗi chữ là để  định rơ người tà người chánh, như Thiên tử chết th́ chép là băng, vua chư Hầu chết th́ chép chữ hoăng, ông vua đă cướp ngôi làm sự tiếm đoạt mà chết th́ chép chữ tồ, người làm quan ngay chánh chết th́ chép chữ tốt, người làm quan gian nịnh chết th́ chép chữ  u.

Người nào có danh phận chánh đáng th́ chép rơ chức phẩm và tên tự, người nào mà danh phận không chánh đáng th́ dẫu có chức phẩm ǵ, cũng chỉ chép có một tên tục mà thôi.

Sự khen chê của Ngài cốt ở những chữ Ngài dùng. Có khi chỉ v́ một chữ chê mà thành ra tiếng xấu muôn đời, một chữ khen mà được tiếng thơm thiên cổ.

Bởi thế, người đời sau bàn Kinh Xuân Thu nói rằng: Nhứt tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhứt tự chi biếm, nhục ư phủ việt. (Một chữ khen th́ vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, một chữ chê th́ nhục hơn phải tội ŕu búa).

V́ Khổng Tử thấy đời suy, đạo mờ, các tà thuyết dấy lên, những sự hung bạo rất nhiều, con giết cha, tôi giết vua, cho nên Ngài lấy làm lo sợ mà làm ra bộ Xuân Thu, để  định cái Chánh thể, chủ ở sự Chánh danh, định phận cho hợp đạo lư và cho rơ sự thưởng phạt.

Sách Xuân Thu là sách định chế độ của quân chủ. Khổng Tử biết rằng trong một nước không thể không có quyền quân chủ, song Ngài lại sợ rằng những người giữ quyền quân chủ thường hay lạm dụng thế lực của ḿnh mà làm những điều tàn bạo. Vậy nên Ngài mới đem cái nghĩa, lấy cái nguyên của dương khí mà thống trị việc Trời, lấy Trời mà thống trị các vua chúa, và bày tỏ ra một cách đặc biệt ở sách Xuân Thu để hạn chế cái quyền của vị nhân quân.

Nhưng v́ những người làm vua làm chúa đă dễ mấy người hiểu được rơ cái lẽ thâm viễn siêu việt ấy, cho nên Ngài mới lấy những điều tai dị như: Nhựt thực, Nguyệt thực, Sao chổi và việc động đất, v.v. . . là những điều hiển nhiên ai cũng có thể trông thấy được, để  cảnh giới những bậc nhơn quân. Ngài muốn những bậc ấy phải lấy những điềm lạ ấy mà kinh sợ, tự ḿnh tu tỉnh và làm những điều nhân nghĩa. Đó là cái vi ư trong sách Xuân Thu.

Khổng Tử c̣n sợ người ta không hiểu rơ cái ư  ấy, cho nên Ngài nói: Tri ngă giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngă giả kỳ duy Xuân Thu hồ! (Người biết ta là cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu, người trách tội ta là cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu).

Biết Ngài là biết cái bụng của Ngài sợ những tà thuyết, những bạo hành càng ngày càng nhiều ra, cho nên Ngài bày tỏ cái phương pháp chánh trị để đổi loạn ra trị, và để trừng trị những kẻ tàn bạo gian ác.

Trách tội Ngài là v́ không hiểu cái ư của Ngài mà cho Ngài là tiếm làm cái việc của Thiên tử, hoặc là ngờ Ngài dùng những điều tai dị để làm mê hoặc người đời.

Học giả nên chú ư và hiểu cái thâm ư và cái khổ tâm của Ngài trong sách Xuân Thu. Về sau Hán Nho thường không hiểu rơ cái phần uyên thâm ấy, chú trọng ở cái thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, gây thành mối mê tín, thật là sai cái ư nghĩa trong sách Xuân Thu vậy.

Người thường không biết, lấy con mắt xem sử mà xem th́ không hiểu bộ sách ấy ích lợi về điều ǵ. Song người nào biết, lấy cái tinh thần mà lănh hội cái thâm ư trong sách ấy, th́ thấy có nhiều ư nghĩa rất sâu xa.” (Nho Giáo Trần trọng Kim)

 

***

KHỔNG TỬ TÁC XUÂN THU

Châu du lục quốc trở về không,

Định tác Xuân Thu, nhắc Lỗ Công.

Chấn chỉnh Nho Tông nhân nghĩa trải,

Cổ kim Sư Biểu khắp Tây Đông.

                                  Q.M

 

 

8. SĨ ĐẠT TA SẢI NGỰA ĐI TU

Đức Phật Thích Ca, thế danh là Sĩ-Đạt-Ta (Siddattha, có nghĩa là người được toại nguyện), họ là Cồ Đàm (Gotama) sau đổi họ lại là Thích Ca (Sakya). Ngài giáng sanh vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch năm 623 trước Chúa giáng sinh, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) trong thủ đô Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) của một nước nhỏ thuộc miền Bắc Ấn Độ, nằm giáp ranh với xứ Népal ngày nay. (Về sau, Đại Hội Phật Giáo Thế Giới đổi ngày giáng sanh của Đức Phật là ngày trăng tṛn 15 tháng 4 âm lịch, và làm Lễ Phật Đản vào ngày nầy).

Ngài là Hoàng tử, con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma-Da (Maha Maya). Sau khi hạ sanh Hoàng tử được 7 ngày, Hoàng Hậu từ trần, trở về Cung Tiên. Em ruột của Bà là Maha Pajapati cũng kết duyên với vua Tịnh Phạn, thay Bà nuôi dưỡng Hoàng tử  đến ngày khôn lớn.

Hoàng tử Sĩ Đạt Ta lớn lên hưởng được sự giáo dục hoàn hảo của bực vua chúa để  sau nầy nối ngôi vua cha cai trị đất nước. Ngài trở thành vị Thái tử thông minh xuất chúng, văn vơ toàn tài.

Khi được 16 tuổi, Thái tử kết duyên với Công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhara), một người em bà con cô cậu, cùng tuổi với Ngài. Trong 13 năm chung sống sau ngày hôn lễ, Thái tử sống cuộc đời vương giả, không hay biết chi các nỗi thống khổ của dân chúng ở bên ngoài cung điện.

Một ngày đẹp Trời, Thái tử cùng các quan hầu cận đi du ngoạn bên ngoài Hoàng cung để ngắm xem thế giới bên ngoài và tiếp xúc dân chúng. Ngài chứng kiến những nỗi vất vả của kiếp sống con người phải lo làm lụng, t́m phương sanh sống. Dân chúng v́ sự sống mà tranh giành giết hại lẫn nhau.

Một ngày khác, Thái tử c̣n chứng kiến được các cảnh khổ của kiếp sống con người như: Ốm đau, già yếu, chết chóc biệt ly. Vậy th́ đời sống của con người có chi sung sướng ? Ngài tự nghĩ rằng, chỉ riêng phần Ngài là một Thái tử, sắp sửa lên làm vua th́ nghèo và đói Ngài không cần lo, nhưng c̣n già yếu, bịnh tật, rồi chết th́ không ai tránh khỏi.

 Ngài âm thầm lập chí t́m phương giải khổ cho nhơn sanh. T́nh cờ, Ngài gặp một tu sĩ ngoài cửa Hoàng thành, với dáng điệu rất ung dung, mặt mày thơ thới vô tư. Ngài đến hỏi chuyện th́ được biết vị tu sĩ ấy xuất gia đi tu học đạo, quyết trừ hết ác căn, lấy ḷng từ bi kềm chế dục vọng, hộ niệm chúng sanh không nhiễm theo thế tục, để trước là giải thoát cho chính ḿnh, sau là giải thoát cho chúng sanh. Nghe vậy, Thái tử rất hoan hỷ và nhất quyết sẽ làm như vị tu sĩ ấy.

Vua Tịnh Phạn biết được ư của Thái tử muốn đi tu, nhà vua không bằng ḷng và t́m mọi cách để ngăn cản.

Giữa lúc ấy, Công chúa Da-Du-Đà-La, vợ của Thái tử vừa sanh được một Hoàng nam. Thái tử không cảm thấy vui mừng mà lại than rằng : “Lại thêm một sợi dây trói buộc.”

Do đó, vua Tịnh Phạn đặt tên cho cháu nội là Ra-Hầu-La (Rahula), tiếng Phạn có nghĩa là trở ngại.

Vào năm Thái tử  29 tuổi, đêm mùng 7 tháng 2, trong lúc vợ, con, và quan binh trong Hoàng thành ngủ say sau một buổi tiệc vui tưng bừng múa hát, Thái tử gọi quan hầu cận Xa-Nặc (Chana) thắng ngựa Kiền trắc (Kanthaka) cho Thái tử trốn khỏi Hoàng cung, đi vào rừng núi thanh vắng để tầm Đạo.

Nhờ ngựa Kiền trắc chạy rất mau, nên đêm đó nó đưa Thái tử đi rất xa. Thái tử vỗ đầu khen nó chạy thật hay, mạnh mẽ và mau lẹ như một vị Thiên thần. 

Thái tử tự ḿnh cắt tóc, gỡ gươm trao cho Xa Nặc, bảo Xa Nặc dẫn ngựa Kiền trắc trở về tâu tŕnh với phụ vương.

Thái tử cởi áo Thái tử đổi lấy áo thâm của một người thợ săn, rồi đi thẳng vào núi.

Vua Tịnh Phạn sai các Đại thần đi t́m Thái tử, khuyên Thái tử trở về triều, nhưng Thái tử nhứt định không đổi ư.

Thái tử t́m đến một Đạo sĩ rất lỗi lạc tên là Alarama Kalama để  xin thọ giáo. Ngài học hết giáo pháp của Alarama nhưng cảm thấy chưa đạt được cứu cánh. Ngài xin từ giă để đi t́m một Đạo sĩ nổi tiếng khác có tên là Uddaka Ramaputta. Ngài cũng học hết giáo pháp của Uddaka, nhưng vẫn chưa thấy được mục tiêu cứu cánh. Thái tử  nhận thấy rằng, không ai có đủ khả năng để dẫn dắt Thái tử thành tựu v́ những vị mà Ngài vừa học vẫn chưa thoát khỏi ṿng Vô minh.

Từ đó, Thái tử không t́m thầy học đạo nữa, mà tự ḿnh đến chỗ thanh vắng suy tư t́m ṭi Chơn lư.

Thái tử  gặp một nhóm 5 tu sĩ mà ông Kiều Trần Như đứng đầu, theo ủng hộ Ngài thực hành lối tu khổ hạnh.

Thái tử tự khép ḿnh vào một nếp sống cực kỳ kham khổ suốt 6 năm dài, đến một ngày kia, thân h́nh của Ngài chỉ c̣n da bọc xương, hơi thở yếu ớt gần như một xác chết, mà Ngài vẫn chưa thâu đoạt một kết quả đáng kể nào.

Buổi ấy cái thảm trạng sắp chết của Ngài hầu đến. Bỗng có một ông tiều mang một cây đàn đến gần chỗ Ngài ngồi, lên dây đàn rồi khải một khúc rất hay, đến lúc hay nhất th́ dây đàn bỗng đứt, tiếng đàn im bặt. Ông tiều lại nối dây, lên dây đàn trở lại rồi đờn. Tiếng đờn réo rắt thanh tao, đến khúc hay nhất th́ bỗng dây đàn đứt nữa, cái hay không đạt. Ông tiều lại nối dây, lên dây rồi đờn lại, rồi đứt, rồi nối lại.

Thái tử đang tŕ định phải bực bội tỉnh hồn nói rằng :

- Ông đờn th́ hay, mà lên dây chi cho cao quá, đến khúc hay th́ dây đứt, th́ cái hay đó phải hết mùi, rất đáng tiếc.

Ông tiều liền đáp :

- Cái đờn của tôi cũng giống như cái tu của Ông. Dây đờn của tôi lên cao quá nên đến chỗ hay th́ đứt dây làm cái hay của tiếng đàn hết mùi, giống như cái tu của  Ông,  nếu  có  đạt được cái cao siêu là cơ bất diệt đi nữa, th́ nó cũng phải chết theo cái xác thân khô đét của Ông, c̣n ích chi cho đời, nên tôi cũng tiếc cho Ông lắm vậy !

 Lăo tiều nói xong, liền xách đàn đi mất. (Trong kinh cho Lăo tiều khải đàn là một vị Phật hóa thân đến cảnh tỉnh Thái tử). Thái tử suy nghĩ măi lời nói của ông tiều, chợt tỉnh giác, biết ḿnh lầm theo lối tu khổ hạnh, chỉ làm suy giảm trí thức và mệt mỏi tinh thần. Thái tử thầm cám ơn ông tiều đến cảnh tỉnh ḿnh, liền  dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh ép xác, cũng như 6 năm trước đây, Ngài dứt khoát từ bỏ đời sống lợi dưỡng. Ngài lại nhớ đến ngày lễ Hạ điền của vua cha trước kia, trong lúc mọi người đang lo làm lễ th́ Thái tử đến dưới bóng mát của cây trâm, ngồi thiền định và đắc được Sơ Thiền. Ngài nhớ lại và thấy rơ ra rằng đó mới chính là con đường dẫn đến giác ngộ. Đó là con đường tu, không sống theo lợi dưỡng, mà cũng không sống quá khắc khổ, gọi là Trung Đạo.

Thái tử bắt đầu dùng trở lại các vật thực nuôi dưỡng xác thân. Ngài mệt nhọc lần đến bờ sông Ni-Liên-Thiền (một nhánh của sông Hằng) xuống tắm rửa sạch sẽ, rồi đi lên, và kiệt sức ngă vào một gốc cây bồ đề nằm bất tỉnh.

May mắn lúc đó có một thiện nữ bưng một bát sữa bột t́m đến cúng dường, gặp một ông đạo đang nằm thoi thóp dựa cội cây. Nàng đỡ ông đạo dậy rồi dâng bát sữa. Thái tử thọ lănh, uống hết, rồi Ngài định tỉnh trở lại, thấy sức khỏe dần dần hồi phục, tinh thần sảng khoái.

Ngài t́m đến một gốc bồ đề to lớn, trải cỏ làm nệm để ngồi thiền định, phát lời đại thệ : Nếu không thành đạo th́ không rời khỏi chỗ nầy.

Trải qua 49 ngày đêm Thiền định, Ngài ngộ đạo, biết được nguyên nhân sanh tử của con người, t́m ra con đường giải thoát chúng sanh khỏi luân hồi khổ năo. Ngài đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lấy hiệu Thích Ca Mâu Ni.

***

 

SĨ ĐẠT TA SẢI NGỰA ĐI TU

Sa Nặc khuyên ta nhiễm tánh phàm,

Giác mê giục thúc trống Lôi Âm.

Lẽ đời trường thọ không trăm tuổi,

Lư Đạo hằng sanh quá ức năm.

Danh lợi phù du ai nở luyến?

Vinh hoa bào ảnh lẻ nào ham?

Chơn Như đắc vị ta nguyền cứu,

Những kẻ cư trần hữu Phật tâm.

                                Q.M

 

9. TÔ HUỆ CHỨC CẨM HỒI VĂN

Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ có tài văn chương và có nghề thêu rất khéo. Năm nàng 20 tuổi, cha mẹ gả nàng cho chàng hàn sĩ tên Đậu Thao.

Cưới nhau chưa được bao lâu th́ đất nước bị giặc Phiên từ phương Bắc kéo binh vào đánh phá Trung nguyên. Vua ra lịnh trưng binh, các thanh niên phải sung quân, lên đường chinh chiến, giữ ǵn bờ cơi đất nước.

Đậu Thao, chồng của nàng Tô Huệ, cũng tuân lịnh vua, nhập ngũ ṭng chinh.

Thời gian kéo dài ngót 3 năm, nàng Tô Huệ quá nhớ chồng, khiến dung nhan thêm tiều tụy. Đêm đêm bên ngọn đèn khuya leo lét, ḷng mong nhớ chồng không nguôi, hồn thơ xúc động, nàng viết ra 10 bài thi tứ tuyệt, lời thơ đầy t́nh cảm nhớ nhung chan chứa, nàng cầu xin đấng quân vương xét cho hoàn cảnh của nàng, tha cho chồng trở về sum họp cùng nàng.

Nàng lại lấy một bức gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc dệt 10 bài thơ tứ tuyệt ấy lên bức gấm, đọc theo lối h́nh trôn ốc từ ngoài xoay tṛn vào trung tâm bức gấm. Nàng thêu khéo, chữ hay, nên bức gấm trông rất đẹp.

Xong nàng đem dâng lên vua. Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng không ai đọc được, vua phải truyền gọi nàng Tô Huệ.

Đứng giữa triều đ́nh, nàng Tô Huệ cất giọng ngâm 10 bài thơ, với một giọng năo nùng bi thảm.

Nhà vua thương tài nàng nên đặc cách cho Đậu Thao trở về sum họp cùng nàng.

Bài thơ dệt trên gấm của nàng Tô Huệ được gọi là : CHỨC CẨM HỒI VĂN.

 Sau đây là 10 bài tứ tuyệt của Tô Huệ dệt trên gấm :

                    

I.                    

Quân thừa hoàng chiếu an biên thú,

Tống quân tống biệt hà kiều lộ.

Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn,

Mạc vong ân t́nh tiện trường khứ.

 

II.       

Hà kỳ nhứt khứ  âm tín đoạn,

Ư thiếp b́nh vi xuân bất noăn.

Quỳnh diêu giai hạ bích đài không,

San hô trướng lư hồng trần măn.

 

III.      

Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,

Tương tâm hà thác cánh phùng quân.

Nhứt tâm nguyện tác thương hải nguyệt,

Nhứt tâm nguyện tác lănh đầu vân.

 

IV.      

Lănh vân tuế tuế phùng phu diện,

Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.

Phi lai phi khứ  đáo quân bàng,

Thiên lư vạn lư diêu tương kiến.

 

V.       

Thiều thiều lộ viễn quan sơn cách,

Hận quân tái ngoại trường vi khách.

Khứ  thời tống biệt lư diệp huỳnh,

Thùy tín kỷ kinh mai hoa bạch.

 

VI.      

 Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,

Xuân ư thôi nhơn hướng thùy đạo.

Thùy dương măn địa vị quân phan,

Lạc hoa măn địa vô nhân tảo.

 

VII.    

Đ́nh tiền xuân tảo chánh phân phương,

Băo đắc Tần tranh hướng họa đường.

Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,

Phụ kư t́nh thâm đáo sóc phương.

 

VIII.   

Sóc phương thiều đệ sơn hà việt,

Vạn lư âm thơ trường đoạn tuyệt.

Ngân trang chẩm thượng lệ triêm y,

Kim lũ la thường hoa giai liệt.

 

IX.      

Tam xuân hồng nhạn độ giang thinh,

Thử thị ly nhơn đoạn trường t́nh.

Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,

Oán kết tiên thành khúc vị thành.

 

X.       

Quân kim ức thiếp trọng như san,

Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn.

Chức tương nhứt bổn hiến Thiên Tử,

Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn ./.

 

***

 

Thương Tô Huệ hằng ngày dệt gấm,

Dâng tâm trung vào tận đền rồng.

Thương người chịu nhọc cùng chồng,

Dầu xa ân ái c̣n nồng nghĩa nhau.

(Trích bài T́nh Ái của Bát Nương)

 

                        ***

Gặp cơn rảnh nhà long vắng khách,

Công chỉ kim đèn sách học hay.

Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,

Dệt văn Tô Huệ gởi đài chinh phu.

(Trích Nữ Trung Tùng Phận của Đoàn Thị Điểm)

 

 

10. KỈNH TÂM THỌ HÀM OAN

Kỉnh Tâm tên là Thị Kính con của Sùng Ông người nước Cao Ly.

Vợ chồng Sùng Ông vốn không con nên mới lên chùa cầu tự, sau sanh ra Thị Kính.

Lớn lên có chồng là Thiện Sĩ, vợ chồng ăn ở với nhau rất hạnh phúc.

Một hôm, ngồi vá quần áo, Thiện Sĩ nằm ngủ dựa bên. Thị Kính thấy dưới càm chồng có một cọng râu xách ngược, v́ có biết chút đỉnh khoa bói tướng, nên cho đó là không tốt, bèn liền dùng kéo định cắt bỏ đi. Bất ngờ Thiện Sĩ thức dậy, tưởng vợ hại ḿnh bèn la lên cầu cứu. Cha mẹ chồng và gia nhân chạy ra, thấy vậy mới mắn nhiếc Thị Kính đủ điều. Thị Kính một mực kêu oan, nhưng cha mẹ chồng và Thiện Sĩ không nghe. Kết cuộc Sùng Ông phải đến tạ lỗi và rước Thị Kính về dạy dỗ.

Quá đau buồn cho số kiếp, Thị Kính lén cải nam trang, nửa đêm trốn khỏi nhà đến Vân Sơn Tự xin ra mắt Sư Ông và lập nguyện qui y Tam Bảo. Sư Ông đặt pháp danh là Kỉnh Tâm.

Kỉnh Tâm v́ là gái giả trai nên mười phần xinh lịch, làm cho Thị Mầu con gái một Hào Phú gần đấy đem ḷng thương trộm, hằng lui tới lân la tỏ t́nh hoa nguyệt, nhưng Kỉnh Tâm giả lờ không để ư. Thị Mầu tức giận liền lập kế hại Kỉnh Tâm là về ăn ở với tên đày tớ đến phao giữa làng là ở với Kỉnh Tâm nên bụng mang dạ chửa.

Thế là Kỉnh Tâm bị đưa ra trước làng đ̣n roi đánh khảo, rồi v́ thương Đệ Tử, Sư Ông mới đứng lănh về dạy khuyên.

Khi sanh nở, Thị Mầu mới đem con cho Kỉnh Tâm nuôi dưỡng. Tay bồng đứa bé mà ḷng bàng hoàng tưởng nghĩ: “Cứu một mạng người th́ phước đức hà sa”. Nên đem đứa bé tá túc ngoài hiên chùa. Sau buổi công phu cầu nguyện, Kỉnh Tâm phải ra ngoài xin sữa đem về nuôi con.

Lần lược ngày tháng trôi qua, đứa trẻ lớn lên 3 tuổi. Một hôm Kỉnh Tâm thọ bịnh, biết ḿnh khó sống nữa mới viết 2 bức thư để lại rồi dặn con: “Một bức giao cho cha mẹ và một bức giao cho Sư Cụ ở chùa” rồi tắt thở.

Tin Kỉnh Tâm chết và sau khi xem thư, Sư Ông ngỡ ngàn thương cho đệ tử chịu nổi hàm oan. Cũng tin nầy Kỉnh Tâm là gái giả trai đến tai Thị Mầu. Quá xấu hổ đành tự tử quyên sinh, cha mẹ Thị Mầu phải lo phần chôn cất cho Kỉnh Tâm. Thiện Sĩ cũng đến nơi, rơ nổi hàm oan của vợ khi xưa, bèn lập nguyện tu hành để trọn đời xin cứu chuộc. Cha mẹ chồng cũng vô cùng hối hận.

Kỉnh Tâm đắc pháp đoạt quả Phật Đài, hiệu là Quan Âm, gọi là Phật Quan Âm. Ấy là kiếp gián trần lần thứ 10 của Phật Quan Thế Âm Bồ Tát vậy.

***

KỈNH TÂM THỌ HÀM OAN

Thiện Sĩ từ thê bởi hớt râu,

Du oan phạm sắc án Cô Mầu.

Hiên chùa nuôi trẻ t́nh ngan trái,

Đợi phép công minh chốn Ngọc Lầu.

                                               Q.M

  

11. TỪ GIÁP

Từ Giáp là người phu xe theo đánh xe và giữ Thanh Ngưu cho Lăo Tử. Nhờ Lăo Tử cho uống lá bùa Thái Huyền nên không già chết mà lại sống đến hơn 200 năm nay.

Một hôm Lăo Tử thử Từ Giáp, coi người có chí theo tu hành hay không để rồi Ngài truyền Đạo cho, nên nói với Từ Giáp rằng: “Ngươi đánh xe đến ải Hàm Cốc Tây Vực ta sẽ thưởng cho bảy trăm ba chục muôn đồng tiền điếu”.

Số Từ Giáp c̣n luyến trần nên nghe qua mấy lời lấy làm thích lắm.

Lúc đến nơi gặp Doăn Hỷ là quan giữa ải ra đón rước và xin Lăo Tử lưu lại truyền Đạo, Từ Giáp bèn hỏi Lăo Tử số tiền đă hứa. Lăo Tử nói rằng: “Ta đi tới nước nầy, nước kia mới có, chứng ấy sẽ trả cho ngươi và sẽ c̣n thưởng thêm nữa”. Tử Giáp cũng nghe lời, dẫn Thanh Ngưu ra đồng ăn cỏ.

Lảo Tử bèn bẻ một cành bông biến ra một người con gái đẹp, từ xa đi tới, có ư la cà trêu cợt Từ Giáp. Từ Giáp thấy nàng th́ thích thú vô cùng. Sau buổi gặp nàng, hai người đi đến việc hứa hôn, rồi người con gái đi về xóm dưới.

Từ Giáp suy nghĩ nên đ̣i tiền của Lăo Tử cưới vợ rồi cùng nàng ở lại đây làm ăn luôn, không theo Lăo Tử nữa.

Chiều dắt Thanh Ngưu về, liền đến gặp Lăo Tử nằng nằng đ̣i số tiền cho bằng được. Lăo Tử nói: “Ba tháng nay ta lưu lại đây làm ǵ có tiền mà trả cho ngươi, ít hôm nữa sẽ rời nơi đây đi nước khác, chắc chắn ta sẽ có tiền mà trả cho”.

Nghe vậy Từ Giáp bối rối, nghĩ rằng ḿnh định lấy tiền cưới vợ rồi ở lại đây làm ăn luôn, nếu theo nữa th́ bỏ người con gái kia sao được. Nghĩ rồi đem chuyện đến thưa với quan sở tại. Lăo Tử hay tin nói rằng: “Ngươi theo ta từ 200 năm nay, nếu không cho uống lá bùa th́ đă đầu thai 3 kiếp rồi. Điều ấy ngươi không mang ơn mà chớ, sao lại kiện ta?” Nói vừa dứt lời th́ lá bùa trong người Từ Giáp từ từ bay ra, nét chữ c̣n tinh khôi như mới vẽ.

Từ Giáp ngă ra rủ một đống xương. Doăn Hỷ thấy thế thất kinh liền xin lỗi cho Từ Giáp và xin người cứu tử huờn sanh. Lăo Tử liền quăn lá bùa vào đống xương của Từ Giáp, th́ Từ Giáp được hoàn sinh sống lại. Doăn Hỷ mới đem tiền trả cho Từ Giáp.

Rạng ngày hôm sau Từ Giáp ra cánh đồng cho Thanh Ngưu ăn buổi nọ kiếm người con gái buổi trước, nhưng chẳng thấy ai, t́m vào xóm hỏi cùng không người nào biết.

Từ Giáp nghĩ giựt ḿnh, chừng ấy mới biết là Lăo Tử biến hóa ra thử ḿnh, vội trở về tạ lỗi, rồi từ đó quyết chí theo Lăo Tử cho đến ngày đắc quả về cơi tiên và vẫn giữ Thanh Ngưu cho Lăo Tử.

***

           TỪ GIÁP

 

Công giữ Thanh Ngưu phải trả tiền,

Hầu đi cưới vợ, sắc như Tiên.

Bùa linh hóa phép xương huờn cốt,

Giác ngộ theo Thầy đắc quả duyên.

                                         Q.M

*Ghi chú: Theo Đạo Sử Đạo Cao Đài th́ ông Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ là chơn linh của Từ Giáp.

 

12. THÀNH B̀NH ĐỊNH VƠ TÁNH THIÊU M̀NH

Vơ Tánh, người Mộ Xoài tỉnh Bà Rịa, không thần phục Tây Sơn nên chiêu dụ anh hùng cùng Du đảng Đông Sơn của anh là Vơ Nhân về đóng ở vườn Trầu  (Gia Định) rồi đến chiếm giữa ở G̣ Công tự xưng là Tổng Nhung. Đồng thời c̣n có Đỗ Thành Nhân và Chu Văn Tiếp là hai anh hùng cự phách. Bấy giờ người đời cho 3 ông là Gia Định Tam Hùng.

Sau khi Nguyễn Ánh đưa quân từ Xiêm về phục quốc, đang đóng tại vùng nước xoáy, th́ tháng 4 năm Mậu Thân Vơ Tánh đem Vơ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín đến bái kiến Nguyễn Vương.

Nguyễn Ánh phong cho Vơ Tánh làm Tiền Phong Binh… và gă em gái là Ngọc Du Công Chúa. Vơ Tánh có công đánh dẹp quan Đốc Chiến Tây Sơn là Lê Văn Minh ở đồn Nghĩa Kiều, đốt luôn cả đồn trại, bắt nhiều tướng sĩ Tây Sơn.

Năm Kỹ Dậu (1789) Vơ Tánh đánh Phạm Văn Tham ở Hộ Châu và  khôi phục được đất Gia Định.

Năm sau hợp quân tiến đánh  Phan Rí hạ thành B́nh Thuận, đến năm Qúi Sửu (1793) xua quân chiếm giữa phủ Diên Khánh và Đinh Khang rồi đoạt luôn phủ thành Phú Yên.

Năm 1794, Vơ Tánh được sắc giữ thành Diên Khánh. Năm sau Tây Sơn cử Trần Quang Diệu đến công thành, Vơ Tánh chống trả mảnh liệt. Cuối cùng Quang Diệu rút quân.

Năm 1799, Vơ Tánh đóng quân ở Trúc Khê rồi cùng Ngô Tùng Châu đến trấn giữ thành B́nh Định.

Năm 1800 Tây Sơn sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng kéo đến vây thành 4 mặt, đào hào đắp lũy, lấy súng đại bát bắn vào…Nguyễn Vương hay tin đem binh cứu viện, đến cửa Thị Nại thấy quân Tây Sơn vây thành quá chặt, bèn sai người lén vào thành bảo Vơ Tánh và Ngô Tùng Châu bỏ thành. Vơ Tánh liền phúc thư đáp: “Quân binh của Tây Sơn đang ở Qui Nhơn, vậy xin đừng lo việc giải vây, mà nên đánh lấy Phú Xuân th́ hơn”.

Nguyễn Vương nghe theo cho quân ra đánh lấy Phú Xuân. Hai tướng Tây Sơn thấy mất Phú Xuân liền thúc quân công phá gấp thành B́nh Định. Bị vây khá lâu, lương thực hết cạn. Vơ Tánh mới viết thư sai người đưa cho Trần Quang Diệu nói rằng: “Phận sự ta làm chủ tướng th́ liều chết dưới cờ, c̣n các tướng sĩ không tội ǵ, không nên giết hại”.

Quan Hiệp Trấn Ngô Tùng Châu hỏi kế th́ Vơ Tánh đưa tay chỉ giàn hỏa mỉm cười, rồi lại sai quân sĩ lấy rơm cỏ chất dưới lầu bát giác và đổ thuốc súng vào. Vơ Tánh bước lên giàn hỏa tự nổi lửa đốt lên mà chết vào năm Tân Dậu (1801). C̣n Ngô Tùng Châu th́ uống thuốc độc tự tử.

***

 

Ngọn lữa tinh trung định Nguyễn Trào,

Nam Bang gầy dựng lắm công lao.

Thủ thành B́nh Định, Tây Sơn đoạt,

Phạt ải Đông Kinh, Chúa Nguyễn thâu.

Đế nghiệp xây thành ba thước cũi,

Quốc gia vững chặt ít tô dầu.

Anh hùng thân tử, Thần vô tử,                

Nêu tấm gương trung lại kẻ sau.

    (Thánh giáo 1945 của Vơ Tánh)

 

 

13. TRƯNG VƯƠNG KHỞI NGHĨA

Trưng Nữ Vương tên là Trưng Trắc, người làng Hạ Lôi tỉnh Phúc Yên, con ông Lạc Tướng huyện Mê Linh và thân mẫu là bà Trần Thị Đoan, cháu ngoại vua Hùng Vương. Lúc nhỏ bà thích nghề múa kiếm, bắn cung, khi lớn lấy chồng là Thi Sách.

Đến năm Giáp Ngọ, nhằm đời vua Quan Vơ nhà Hậu Hớn (Trung Quốc) sai tướng Tô Định sang làm Thái Thú quận Giao Chỉ đô hộ nước ta, bày nhiều việc tham lam bạo ngược. Năm Canh Tư, chồng bà là Đặng Thi Sách đang làm quan Huyện Lệnh tại Châu Viên tỏ ư bất b́nh, liền bị Tô Định lập mưu giết chết.

Nhằm lúc toàn quân uất hận, chồng bị giết v́ kẻ ngoại lai cai trị, Trưng Trắc nặng óc căm thù, bèn cùng em là Trưng Nhị chiêu mộ anh tài, quần tụ nhân dân trong xứ đồng đứng lên phất cờ khởi nghĩa. Hai Bà cởi voi ra trận hạ được 65 thành, đuổi Tô Định chạy về nước chiếm lại bờ cơi, xưng vương tức là Trưng Nữ Vương đóng đô ở Mê Linh.

Đến năm Tân Sửu, Tàu sai Mă Viện làm chức Phục Ba Tướng Quân cùng hiệp phó tướng Lưu Lang đem binh sang phục hận. V́ chúng binh đông, tướng hổ, ta ít quân nên Trưng Nữ Vương chỉ cầm cự mấy ngày tại Cầu Khê rồi bỏ chạy.

Quân Tàu rượt gấp, hai Bà chạy đến sông Hát Giang gieo ḿnh xuống đó mà tự vận. Ngày nay tại xă Bát Môn, quận Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây vẫn c̣n miếu tượng của hai Bà thờ tại đây.

***

TRƯNG VƯƠNG KHỞI NGHĨA

Thù chồng hận nước lẽ nào cam?

Giải ách non sông việc phải làm.

Chiêu mộ anh hùng trừ giặc Bắc,

Phất cờ nương tử cứu dân Nam.

Xác trôi sông Hác thơm ḍng Bích,

Hồn hiển Mê Linh quyện khói lam.

Nhớ thuở bành voi tung kiếm báu,

Nghe danh, Tô Định xám như chàm.

                                           Q.M

 

 

14. LƯU-QUAN-TRƯƠNG ĐÀO VIÊN KẾT NGHĨA

Lưu: Lưu Bị tự Huyền Đức, ḍng dơi nhà Hán.

Quan: Quan Công, tên Vơ tự Vân Trường.

Trương: Trương Phi, tự Dục Đức.

Là những nhân vật nổi tiếng trong Tam Quốc.

Nhằm buổi nhà hậu Hán suy vi, bên trong th́ hoạn quan vầy đoàn để chuyên quyền nhũng hại, ngoài th́ đảng Huỳnh Cân đứng lên quấy phá.

Ba anh em đều là người chí khí, không hẹn mà xui khiến gặp nhau ở đất Cối Kê trong một quán rượu, ba người bàn bạc rất tâm đầu, bèn nắm tay nhau kết nghĩa đệ huynh. Nhân nhà Trương Phi gần đó nên ba người cùng về dẫn ra sau vườn đào, giết trâu thệ nguyện: “Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực, cứu khổ pḥ nguy, trọn báo quốc gia, dưới giúp an bá tánh, chúng tôi không sanh được đồng năm, đồng tháng, đồng ngày, chỉ nguyện chết cùng ngày, cùng năm, cùng tháng. Hoàng Thiên Hậu Thổ chứng kiến lời nầy, ai bội nghĩa có đất trời tru diệt.”

Rồi từ đó anh em mua sắm binh khí, quần tụ anh hào kêu đi dẹp giặc Huỳnh Cân và phất cờ phá Hán. Vua Hán Hiếu Đế hay tin mới triệu về triều khen thưởng và ban cho chức tước.

Triều đ́nh lúc bấy giờ Đổng Trác làm tướng quốc, ỷ thế bức vua, tác oai tác oái, nên ba anh em hiệp cùng Tào Tháo, Thái Sử ở Duyên Châu, Viên Thiệu ở Quảng Đông và Tôn Kiển Thái Thú ở Trường Sa về đánh Đổng Trác. Diệt xong Đổng Trác, Tào Tháo được vua phong làm Đại Tướng. Tào Tháo lại chuyên quyền, dẹp Viên Thiệu, đánh ba anh em phải bỏ Từ Châu chạy về Kinh Châu nương cùng Lưu Biểu. Tào Tháo đánh Kinh Châu, ba anh em chạy sang Đông Ngô, nương với Tôn Quyền. Tháo thừa thắng đánh luôn Đông Ngô, nhưng lần nầy ba anh em hiệp với Tôn Quyền đánh cho Tào Tháo đại bại ở sông Xích Bích.

Lấy lại được Kinh Châu rồi đem quân vào đất Thục lấy Hán Trung, Lưu Bị mới xưng là Hán Trung Vương ở về phía tây Trung Quốc. Bấy giờ Tào xưng là Ngụy Vương, Tôn Quyền xưng là Ngô Đại Đế ở phía Đông.

Từ đó thành ra Tam Quốc.

Sau con của Tháo là Tào Phi lên kế vị, bức ép vua Hán Hiếu Đế nhường ngôi, rồi xưng là Ngụy Văn Đế. Lưu Bị thấy vậy xưng là Chiêu Liệt Đế. Ba nước trấn ở ba cơi thành thế chân vạt, khi đánh nhau, lúc lại giản ḥa, không phân bất nhứt.

Ngày kia Tôn Quyền (Ngô Đại Đế) đem quân đánh Quan Công ở Bành Thành, Quan Công bị Lữ Mông lập kế bắt giết. Hay tin sét đánh, Lưu Bị, Trương Phi đem binh cứu viện, nhưng không kịp bèn xua quân đánh úp Ngô Tôn Quyền. Quân Sư Gia Cát Lượng và nhiều tùy tướng khuyên can, nhưng hai người nhất quyết cứ tiến binh trả thù cho bạn theo lời thề nguyện kết nghĩa ở Đào Viên.

Sau Trương Phi v́ nóng ḷng trả thù cho bạn, làm mất ḷng tướng sĩ, bị hai tên quân phản chủ giết chết. C̣n Lưu Bị rồi cũng phải bỏ thây tại Bạch Đế thành cho tṛn câu đồng sanh tử.

 

***

 

 

Lưu Quang Trương giữ tṛn nghiệp Hớn,

Ǵn trọn thề chết sống có nhau.

Dầu khi độc mă đơn đao,

Tâm trung nghĩa khí Ngô, Tào cũng kiên.

     (Trích Nữ Trung của Đoàn Thị Điểm)

 

 

 

15. ĐƯỜNG MINH HOÀNG DU NGUYỆT ĐIỆN

Đường Minh Hoàng từ khi có được Dương Thái Châu, ông đam mê luyến sắc nên trễ biến việc triều đ́nh.

Cuối thời Thiên Bảo, anh của Qúi Phi là Dương Quốc Trung (theo huyền sử th́ Dương Quốc Trung là người t́nh của Thái Châu, đổi họ Dương cho vua không nghi kỵ, đồng thời với t́nh nhân An Lộc Sơn) lên làm Tể Tướng. An Lộc Sơn dấy binh làm phản (An Lộc Sơn là giặc rợ theo tùng và làm con nuôi của Đường Minh Hoàng) lấy danh nghĩa là phế Dương Quốc Trung.

Minh Hoàng phải mang Qúi Phi chạy vào đất Thục đến mă Ngôi Pha, quân dân không chịu tiến bước mà yêu cầu nhà vua giết Dương Qúi Phi để tạ thiên hạ. Minh Hoàng không c̣n cách nào khác đành để người yêu chết một cách quá đau ḷng (xử tam bang trào điễn, thắt cổ).

Năm sau, b́nh được An Lộc Sơn, Túc Tông rước Đường Minh Hoàng về Trường An tôn làm Thái Thượng Hoàng. V́ luôn tưởng nhớ đến Dương Qúi Phi nên Minh Hoàng không sao nguôi ngoai tâm năo. Có một Đạo Sĩ thuật pháp cao cường, biết được ư vua bèn xin vào ra mắt và tâu bày cho Đường Minh Hoàng rơ biết. Ngài nhờ Đạo Sĩ nọ đi dạo kiếm dùm Qúi Phi, dùng pháp thuật đi t́m kiếm khắp nơi mà không t́m thấy, chỉ c̣n có một non Tiên trên mặt biển. Đạo Sĩ nọ liền dùng pháp thuật đưa hồn phách của Thượng Hoàng đi lên trên cơi hư bô thâm thẩm…Nào lầu các lấp lánh ánh tường vân…trên cung nầy có một người tên Thái Châu da tuyết mặt hoa, giống Dương Qúi Phi như tạc…

Đạo Sĩ gơ cửa Tiên Nữ kia ở hiên tây, nhờ cậy Tiểu Ngọc báo tin cho Qúi Phi là có Đường Vương t́m kiếm.

Bất ngờ nghe thiếu nữ báo tin, nàng Qúi Phi giật ḿnh làm kinh động giấc mộng trường hoa nơi Cung Ngọc.

Nàng kéo màng đẩy gối, bồi hồi trổi dậy, rèm châu b́nh bạc mới chậm chậm mở ra, mớ tóc mây óng ả lệch sang, nàng vừa ngủ dậy. Gió bay làm tà áo phất phơ giống như lúc nàng múa khúc Nghê Thường Y Vũ. Mặt hoa ủ dột, nước mắt chan ḥa trông như cảnh hoa nặng giọt mưa xuân chứa nồng t́nh cảm. Nàng nh́n đăm đăm, cảm tạ Quân Vương từ khi ly biệt đến giờ, tiếng nói vẻ mặt cả hai đều cách trở, trong điện “Chiêu Dương”, ái ân đoạn tuyệt đổi lại nơi Cung Bồng Lai ngày tháng kéo dài…

Sự gặp gỡ trong niềm thống thiết của kẻ tục người Tiên làm cho cả hai chan ḥa lệ thảm, cùng kết lời nguyền làm chim liền cánh, cây lại liền cành và bày tỏ mối bi t́nh trong thời cách biệt, gợi cho mối t́nh nầy bất tận với thời gian. Ông vua đa t́nh đă chơi vơi trong mây gió, trong cảnh Bồng Lai, trong niềm yêu thương khăn khít, tuy biết rằng đây chỉ là cuộc Tiên Du, mà chính vậy dù cho cuộc gặp gỡ có là bao lâu cũng đến giờ ly biệt, kẻ tục người Tiên hai ngă, Bồng Lai dương thế đôi nơi. Chàng ra về bịn rịn, nàng ở lại ai hoài. Đường Minh Hoàng nhớ măi từ dáng điệu tướng đi, màu áo mỏng phất phơ, mớ tóc huyền diệu theo hơi gió. Thế rồi, Ngài mới cho vũ nữ mỗi ngày tập múa cho Ngài xem để gọi là nối chút vấn vương cho đỡ niềm cô quạnh.

Từ đó đường nét, y trang vũ khúc nầy được người đời truyền tụng măi và riêng gọi là “Nghê Thường Vũ Khúc”.

***

 

 Hoa Hải Đường như dường trổ muộn,

Ai chờ mong đặng hưởng thiên hương.

Hoa thơm tô đẹp Nghiệp Đường,

Sao toan đỗ lụy đoạn trường v́ đâu?

(Nhứt Nương đố thai Văn Minh Điện)

                             ***

Mặt hoa ái ngại, dường Hớn Tiên Nương tách dậm xuống lầu Tây,

Mày liễu ủ ê, tợ Đường Minh Phi đeo sầu về ải Bắc.

(Trích Túy Sơn Vân Mộng của Nguyễn Du)

 

 

16. HẠNG VƠ THẤT THỦ THÀNH CAI HẠ

Hạng Vơ tên là Tịch, tự là Vơ, người đất Cối Kê vốn là ḍng dơi  của Hạn Yên làm tướng nước Sở.

Lúc nhỏ học chữ không thông mà múa gươm cũng chẳng đặng, chú là Hạng Lương cả giận hỏi: Vậy chớ ngươi muốn làm ǵ?

Vơ đáp: Chữ th́ bất quá biết tên họ, gươm th́ cũng chỉ đánh một vài người.

Hạng Lương hỏi: Vậy chớ ngươi muốn học cái ǵ?

Vơ nói: Tôi muốn học đánh đặng 100 người.

Một hôm Tần Thủy Hoàng đang trên đường tuần du qua hướng Đông Nam, khi đến huyện Bái, Hạng Vơ định đón đường thích khách để thử sức 100 người, nhưng bị chú cản lại. Từ ấy mới chu du khắp Sở, Ngô chí muốn đồ tranh thiên hạ.

Sau trở lại Cối Kê lập mưu giết quang Thái Thú Ân Thông, chiêu dụ 3 quân trong thành rồi đến núi Đỗ San dùng sức cử đảnh mấy ngàn cân tại miếu Vơ Vương, bắt quái vật rồng đen hóa ngựa Ô Trung và thu phục hai tướng cướp là Hoài Sở và Vu Anh cùng 8.000 tử đệ.

Ít ngày sau bỏ Cối Kê kéo quân đi đánh Tần, vừa đến Hoài Tây thu thêm tướng tài là Anh Bố và rước được Phạm Tăng ẩn sĩ tại Kỳ Cổ San, người có nhiều mưu lược. Phạm Tăng bày mưu, nếu muốn đánh Tần phải t́m người thuộc ḍng nước Sở tôn thờ th́ mới được phần danh chánh ngôn thuận. Liền sai Chung Ly Muội đi t́m gặp một trẻ gọi là Mễ Tâm là cháu của Sở Hoài Vương rước về lập làm vua. Sở Vương phong cho Vơ làm Đại Tư Mă Phó Tướng Quân.

Từ đó binh Sở ngày càng mạnh, chư hầu phi phục rất đông. Sở Vương kéo binh qua Hu Di, nơi đây kết hợp với Lưu Bang, cộng lại có hơn hai muôn binh hùng hậu. Tần hay tin đem quân tới đánh, trận đầu Hạng Vơ giết Lư Do tại Ung Khâu, rồi thẳng đường qua giúp Triệu, v́ Triệu đang bị Tần vây, nhưng v́ Đại Tướng Tống Nghĩa có ư giải đăi chưa chịu tấn công. Quá giận Vơ liền xách gươm chém quách Tống Nghĩa rồi lên thay quyền xua quân chiếm An Vương. Thuận thế Vơ thúc quân qua sông bắt Vương Ly giết hai tướng Sa Vàng và Tô Giác . Liên tiếp ba ngày đêm đánh hơn 9 trận phá tan 30 muôn binh Tần, rồi rượt nă tướng Chương Hàm chạy về Hàm Cốc quan ẩn náo. Chừng ấy Hạng Vơ mới chịu thu quân. Về Bành Thành ra mắt Sở Vương và được phong chức Lỗ Công.

Nghỉ vài ngày Lỗ Công Hạng Vơ và Hớn Công Lưu Bang cùng bắt thăm lên đường đánh Tần. Hạng Vơ trúng Đông lộ, Lưu Bang trúng Tây lộ, hai người chia tay thúc quân lên đường. Hạng Vơ đến đâu th́ trăm dậm lửa bay, đầy sông máu chảy, giết người cướp của quá nhiều, nên việc tiến quân có phần chậm chạp. B́nh Định đất Hà Bắc rồi vào lấy Hoài Vương, đoạn kéo thẳng tới Tân Thành, vừa tới nơi th́ Hạng Vơ hay tin Tần đă đầu phục Lưu Bang rồi, lại nghe quân đầu hàng bàn tán có ư chuộng Lưu Bang là người nhơn đức, c̣n Hạng Vơ th́ hung ác vô cùng. Nên tức giận Hạng Vơ liền ra lịnh cho giết trên 20 muôn binh Tần vừa đầu thú rồi kéo vào Hàm Cốc Quan tiến về Hồng Nhạn Xuyên dồn binh hạ trại.

Hạng Vơ lập ra Hồng Môn Hội Yến, mời các chư hầu và Lưu Bang đến dự định mưu hại Lưu Bang để dành công mà xưng Đế. Nhưng nhờ Trương Lương là người mưu lược nên Lưu Bang thoát hiểm. Hạng Vơ vào Quang Trung buộc Lưu Bang giao nạp vua Tần rồi đem giết, sau đó sát luôn cả nhân dân bá tánh tại đất Hàm Dương có mấy vạn người.

Hạng Vơ xưng là Sở Bá Vương cất đất phong cho các chư hầu và lập kế giết Sở Hoài Vương đang ở Bành Thành, lấy vàng bạc khao thưởng ba quân tướng sĩ, đồng thời phong cho Lưu Bang làm Hớn Vương ở đất Bao Trung, nơi xa xôi hẻo lánh để nhẹ phần lo sợ trả thù.

Sau đó bỏ Hàm Dương, đem quân về đóng đô ở Bành Thành.

Về sau Lưu Bang nổi dậy, chư hầu theo giúp sức rất nhiều, nên đánh đâu được đó. Sở Bá Vương lần lần bị cô lập và cuối cùng bị vây trong thành Cai Hạ tuy vậy mà Hán Vương cũng khó bức thành.

Trương Lương liền dùng tiếng tiêu để làm siêu ḷng sĩ tốt, trêu giọng ai oán bi thương, gợi ḷng người nhớ lại vợ con, thương người thân thuộc. Mỗi đêm tiếng tiêu của Trương Lương từ Kê Minh van vọng đến làm ly tâm tám ngàn đệ tử của Sở Bá Vương, lần lượt bỏ trốn trống trại quân. Hạng Vơ bày tỏ cùng Ngu Cơ, v́ không muốn làm bận ḷng Sở Bá Vương nên Ngu Cơ rút gươm tự vận cho chồng được rảnh tay mà ra quân, khỏi bận vết của nữ lưu mà anh hùng vương lụy. Hạn Vơ đau ḷng dẫn số tàn quân vượt đường máu đến Ô Giang.

V́ binh cùn lực tận, bị lính địch vây hăm trùng trùng, Sở Bá Vương liền rút đao tự tử cho Lă Mă Thông cái đầu để lănh thưởng gọi là đăi người xưa c̣n biết Hạng Vơ là chủ tướng của ḿnh.

***

 

HẠNG VƠ THẤT THỦ THÀNH CAI HẠ

Quái ác tiếng tiêu của Tử Pḥng,

Ba ngàn tử đệ mất oai phong.

Ngu Cơ tử tiết mong chồng thoát,

Hạng Vơ đoạn đầu thưởng Mă Thông.

                                         Q.M

 

                       ***

Ngu Cơ tử tiết v́ t́nh,

Hay đâu vận Hạng ủy ḿnh Ô Giang.

                                Thánh Giáo

 

 

17. HÀN DŨ BỊ ĐÀY

Hàn Dũ tự Thoái Chi, người Nam Dương thuộc tỉnh Hà Nam, làm quan H́nh Bộ Thị Lang đời Đường Huyền Tông, nghiên lục kinh (Kinh thơ, dịch, lễ, nhạc, xuân thu) hiện nay nhạc không c̣n nên gọi Ngũ Kinh mà thôi.

Năm Trinh Nguyên thứ 8 đời Đường Đức Tông, đậu Tiến Sĩ lúc 25 tuổi, làm chức Giám Sát Ngự Sử. Ông chuyên tâm về Nho Giáo theo thuyết Mạnh Tử, nên buộc người cháu là Hàn Tương Tử học theo ông. Nhưng v́ người thích phú quí công danh, kẻ theo đ̣i Tiên gia nên không phù hợp, nên ông bỏ mặc cho Hàn Tương Tử tự do. Sau Hàn Tương Tử tu Tiên được đắc quả do Vân Pḥng và Lữ Đồng Tân truyền dạy.

Trong lúc về thăm chú, gặp năm thất mùa, Hàn Dũ đang làm phép đảo vơ, nhưng không kết quả đành chịu phép nghỉ tay. Lại nghe một Đạo Sĩ rao: Ai muốn mua mưa tuyết th́ ta bán cho. Hàn Dũ bèn rước vào đảo vơ, Đạo Sĩ thuận t́nh giây phút sau mưa tràn đồng, tuyết sa đầy đất. Hàn Vũ lại nói: Không chắc tại ngươi đảo vơ, có khi hậu thành do công ta chăng? Đạo Sĩ liền trả lời: Tuyết của tôi cầu có 3 thước, 3 tất mà thôi, ông cứ đo th́ biết. Hàn Dũ lấy thước đo quả đúng thật. Chừng ấy Hàn Tương Tử hiện nguyên h́nh, hai chú cháu mừng rỡ xiết bao.

Hàn Dũ c̣n thử Hàn Tương Tử nhiều việc như bắt làm rượu, bắt trồng hoa…thảy thảy đều ứng hiệu cho Hàn Dũ thấy hết.

Đường Hiến Tông sùng tin Đạo Phật nên cho rước cốt Phật về thờ, Hàn Dũ th́ ghét Đạo Phật nên dâng biểu can rằng: Từ Huỳnh Đế đến vua Than, vua Văn, vua Vơ không có Đạo Phật mà nói Phật giúp mà cũng hưởng được lâu dài. Qua Hớn Minh Đế sai cầu Phật về thờ, tưởng kế lâu dài nào hay bị loạn vong. Rồi tới Lưu Vơ Đế ở ngôi được 18 năm mà trước sau phải 3 lần xuất thân làm săi vô ở chùa mà rồi cũng chẳng khỏi bị Hầu Cảnh làm bức phải chết đói nơi Đài Thành, sao không thấy Phật tới cứu?

Vua giận bèn đài Dũ ra xứ Triều Dương.

Than ôi:

Nhứt phong triều tấn Cửu Trùng Thiên,

Trích biếm Triều Dương lộ bảo thiên.

Bổn vi thanh minh trừ tệ chánh,

Cảm thương suy hủ tích tân niên.

Vân hoành Tấn lănh gia hà tại,

Tuyết ủng lam quan mă bất tiền.

Trí nhĩ viễn lai ưng hữu ư,

Hảo thâu ngộ cốt tán giang san.

Nhờ cháu là Hàn Tương Tử làm phép dẹp tuyết cho ông tại núi Tần Lănh ải Lam Quang và cho một huờn thuốc, ông uống không sinh bịnh hoạn. Hàn Tương Tử c̣n dặn: Sau nầy khi có cá sấu nổi lên làm loạn, chú làm văn tế đuổi nó đi, sẽ được phục chức trở về.

Quả y lời, sau nầy Hàn Dũ được phục chức Lại Bộ Thị Lang.

***

 

       HÀN DŨ BỊ ĐÀY

Sùng Nho cấm Phật bị lưu đày,

Đường Hớn Tông trừng kẻ ngũ say.        

Đảo vơ Hàn Tương tung phép lạ,

Giác tâm Hàn Vũ đáo Vân Đài.

                                   Q.M

 

 

18. HÀN TÍN L̉N TRÔN

 

Hàn Tín, người Hoài Ân, hồi c̣n nghèo phải đi câu cá đổi gạo mà ăn, có khi không đủ phải đi xin ăn nơi Bà Phiếu Mẫu.

Hàn Tín cả ngày đi đâu cũng phải mang gươm theo. Một bữa kia ra chợ gặp thằng bán thịt muốn phá Tín, biểu Tín: Chú thường mang gươm tôi không biết để làm ǵ? Bây giờ tôi không cho chú đi, nhưng nếu muốn đi th́ sẵn gươm đó chú chém tôi đi rồi sẽ qua, bằng không th́ chú phải ḷn trôn tôi mà qua.

Hàn tín bèn chẳng do dự ḷn trôn qua kẻ hạ tiện ấy mà đi và tự nói rằng: Giết thằng nầy th́ được rồi, nhưng mà phải lấy mạng ḿnh đổi mạng nó thiệt là vô lư. Bởi vậy Hàn Tín nhịn cho qua.

 Về sau Hàn Tín theo Hạng Vơ, nhưng không được Hạng Vơ trọng dụng chỉ cho lănh chức “Chấp Kích Lang”. Trương Lương biết tài của Hàn Tín mới tiến cử Hàn Tín vào Bao Trung đầu Hớn Bái Công. Qua hai lần khảo dược, một do Đằng Công Hạ Hầu Anh tại Chiêu Hiền Quán và Thừa Tướng Tiêu Hà, luận bàn việc quân bằng phép binh thơ, suốt thông địa lư, hiểu rơ thiên văn, thật là người quan thế. Nhưng Hớn Vương e ngại, nên chỉ phong chức Tiêu Ngạo Quan (quản lư kho lương), lần lên chức Trị Thức Đô Ni (coi việc xuất thâu lương). Hàn Tín vẫn phô tài kỷ cương không phiền hà chi hết.

Một hôm Hàn Tín lập kế trốn đi báo hại Hầu Anh và Tiêu Hà phải đi t́m khắp núi, đến Hàn Khê ba người gặp nhau. Hàn Tín thấy nhà Hán thật tâm với ḿnh, nên khi về mới đưa quốc thơ của Trương Lương, nhờ thế mà Lưu Bang mới sắc phong “Phá Sở Nguyên Nhung Đại Tướng Quân” và lặp  đàn tế lễ tấn phong trọng thể.

Pḥ Hớn Vương dẹp xong Sở Bá Vương Hạn Vơ, Hàn Tín được phong làm Sở Vương trấn nơi đất Sở.

Sau bị gán tội mưu phản, Hoàng Hậu bắt tội sai quân chém Hàn Tín nơi cung thất Trường Lạc Điện thuộc Vi Ương Cung vào ngày 11-9 đời Đại Hớn (Hớn Đế Lưu Bang) và c̣n ra lịnh tru di tam tộc.

Trọn ngày Hàn Tín bị xử trảm th́ thiên hôn địa ám, cả Trường An dân chúng đều mến tiếc thở than cho một công thần đầy công lao hạng mă.

***

 

HÀN TÍN L̉N TRÔN

Thất vận ḷn trôn có xấu ǵ?

Nguyên Nhung thủ ấn mới nhầm khi.

Hớn Triều Tam Kiệt nâng cao mặt,

Kim cổ sử vàng chí măi ghi.

                                  Q.M

 

19. BẠNG DUẬT TƯƠNG TR̀ (Ngư Ông đắc lợi)

Bạng là loài trai có hai vỏ cứng bọc bên ngoài đồng loại ngao, ṣ, ốc, hến…hay phơi vỏ để hở một khối thịt bên trong khi trời nắng.

Duật là con c̣, loại chim có cổ dài như ngỗng, mỏ nhọn chân dài, hay t́m thức ăn nơi ao đầm, sông, rạch.

Khi gặp Bạn (trai) phơi nắng như nói trên, c̣ lại định mổ lấy khối thịt ngon kia nuốt ăn th́ bị ngao khép ḿnh lại, thế là ngao chờ nước lớn để giết c̣, c̣ chờ nắng lên cho ngao chết.

Rốt cuộc gặp ông câu bắt cả hai đem về xào nấu.

- Ư nói: C̣ ngao tranh đấu để có lợi cho ông câu, nghĩa là v́ không có t́nh thương yêu hai người quyết ăn thua với nhau th́ kẻ thứ 3 ngồi không hưởng lợi.

- Dấu tích: Nước Triệu muốn cử binh đánh Yên. Tô Tần người nước Yên sang nói với Huệ Vương rằng: Vừa rồi tôi đi qua bờ Dịch Thủy thấy Ngao và C̣ cắn chặt lấy nhau, c̣ nói: Nay không mưa, mai không mưa thế nào mầy cũng bị nắng mà chết. Ngao chẳng tha lại bảo: Hôm nay không rút được mỏ c̣, mai không rút được mỏ c̣, vài ngày c̣ đói rồi cũng chết. Rủi gặp ông câu đến bắt cả hai làm thịt.

Nay nếu Triệu sang đánh Yên, Yên tất phải chống lại, hai bên giằng dai, hai người tốn của, lâu ngày suy giảm th́ gần đây có Tần ở Thềm Tây nhân cơ hội nầy sẽ đem quân vây cả hai nước giống như hai con vật c̣ và ngao bị ông câu kia vậy, chừng ấy hối không c̣n kịp nữa. Huệ Vương nghe được băi việc tiến quân.

***

BẠNG DUẬT TƯƠNG TR̀

C̣ ngao chẳng nhượng kéo tŕ nhau,

Mặc sức ông câu muốn nấu xào.

Yên, Triệu, khỏi tay Tần rún ép,

Nhơn sanh tránh đặng cảnh binh đao.

                                      Q.M

 

20. MẠNH MẪU

Mạnh Mẫu là mẹ của Mạnh Tử thời Chiến Quốc. Bà là người có hạnh đức, dạy con có tiếng là người gương mẫu.

Ở gần nghĩa địa, mỗi ngày đều có đào chôn, lăn khóc…Mạnh Tử về nhà bắt chước làm theo. Bà phải dọn nhà ra gần chợ.

Gần chợ th́ có nhiều người qua lại buôn bán, thách thức đảo điên. Về nhà Mạnh Tử cũng bày tṛ làm theo kiểu mua bán. Bà lại nói: chỗ nầy cũng không phải là chỗ con ta ở được. Bà lại dời nhà đi đến một vùng có trường học, nhưng nơi đây lại có nhà một tên đồ tể chuyên đâm heo. Mạnh Tử hằng ngày lân la đến chơi, rồi cũng bắt chước. Bà dạy khuyên Mạnh Tử ít nghe. Thấy vậy bà mới dời nhà đến một ngôi trường khác trong thôn và cho ông vào học luôn ở trường nầy. Ư Bà muốn cho con nên người, mà tuổi trẻ thơ hể thấy ǵ thường hay quen nấy. Ít lâu sau, Mạnh Tử lại bỏ học đi chơi, Bà răng dạy khuyên ngăn mà không được.

Một hôm đi chơi về, thấy mẹ lấy dao chặt vào khuôn cưỡi nhiều đoạn bị đứt. Mạnh Tử thấy vậy cả kinh liền hỏi: V́ sao mẹ chặt bỏ khuôn cưỡi kia vậy, hỏng hư nhiều chỗ, làm sao mẹ dệt được? Bà trả lời: Đan học mà không cố tâm chuyên cần học tập th́ cũng như khuôn cửi của mẹ bị chặt hư, không c̣n dùng nữa đặng. Nghe mẹ nói Mạnh Tử hiểu ư ăn năn, nên trở lại học hành cố gắn. Học với Tử Tư, sau viết lại sách Mạnh Tử, mở trường dạy học. Trong bộ Mạnh Tử ghi chép những lời ứng đối của Thầy với các chư hầu, vua chúa, tựu trung lấy Đạo nhân nghĩa làm đầu.

 

***

             MẠNH MẪU

Lựa xóm nuôi con sợ nhiễm trần,

Thay cha dạy trẻ đáng nên thân.

Đạo ĺa khuôn cửi, khuyên con học,

Nước có mẹ hiền, xuất Thánh nhân.

                                        Q.M

 

 

21. TRƯƠNG LƯƠNG DÂNG DÉP

Trương Lương tự Tử Pḥng , người nước Hàn. Nội Tổ 5 đới giúp nước Hàn dựng nên cơ nghiệp. Sau khi Tần gồm thu lục quốc, Hàn bị mất, Trương Lương mới nuôi hận báo thù cho Chúa.

Một hôm mướn người lực sĩ họ Lê, người đời gọi là Trương Hải Công đón đường tuần du để thích khách Tần Thủy Hoàng, đánh bể xe giá, Tần Thủy Hoàng bạo chúa không sao, Lê lực sĩ bị bắt. Trương Lương sợ bể việc trốn qua Hạ B́ nương nhờ bạn bè Hạn Bá.

Một hôm nhàn tản, ra hóng gió ở Tị kiều, để ngấm xem cảnh vật, bổng thấy một ông già mặc áo vàng đi qua cầu, vùng rớt một chiếc dép xuống bùn. Ông gọi Trương Lương bảo đi xuống lấy. Trương Lương không từ chối, xuống lượm lên dâng cho ông. Ông già lại đánh rớt nữa và sai Trương Lương lượm nữa, Trương Lương cũng chẳng phiền hà, lui cui đi lượm, làm như vậy đến ba lần. Ông già mới nói: “Thằng nhỏ nầy nên dạy” rồi chỉ đại thọ bên cầu dặn rằng: “ Năm ngày nữa ngươi đến đây đợi ta, ta sẽ cho ngươi một vật chẳng nên quên”. Nói rồi quai đi mất.

Năm hôm sau, Trương Lương y lời đến nơi hẹn gặp th́ thấy ông già ngồi trước gốc cây trước rồi. Thấy Trương Lương ông nói: “Thằng con nít, đă ước hẹn với người lớn sao đến trễ lắm vậy. Thôi ngươi hăy về đi, năm ngày nữa hăy ra đây cho sớm”.

Năm ngày sau, mới vừa canh năm, Trương Lương đến đó lại cũng thấy ông già ngồi sẵn nơi góc cây rồi. Thấy Trương Lương ông giận mà mắn rằng: “Thằng con nít sao lại trễ nữa vậy, hăy về đi, năm ngày nữa phải đến cho sớm”.

Lần nầy mới chỉ hết ngày thứ tư, đêm thứ năm Trương Lương không thèm ngủ ra nằm ở gốc cây mà chờ.

Giây phút ông già ấy đến, nhưng khác hơn mấy lần trước, ḿnh mặc Đạo bào màu vàng, tay cầm gậy tre, đầu đội măo da, thoát đi như bay, quả là Thần Tiên chẳng khác. Trương Lương vụt lại và hỏi rằng: “Chẳng hay Thầy dạy bảo điều chi?

Ông già đáp: “Ngươi tuổi trẻ, sức mạnh, cốt cách thanh kỳ, ngày sau sang cả, đáng là bậc thầy bực đế vương, nay gặp nhau đây là thiên tải kỳ phùng. Ta cho 3 cuốn sách nhiệm mầu, trong chứa kỳ mưu thần toán, dầu Tôn, Ngô sánh cũng chẳng bằng, công thành thân thối, người Liêu, người Lăi cũng chẳng hơn, ngươi học lấy mà báo cừu cho nước Hàn, theo pḥ chơn Chúa, danh rạng muôn đời, phải ǵn giữ chẳng nên khi dể.

Trương Lương lănh sách rồi nói rằng: “Xin Thầy cho đệ tử biết họ tên của Thầy là ai?

Ông nói: “Con nhớ 15 năm sau, nơi Địa Cốc Thành, chỗ đất trống có chôn một vị quốc quân, mà con thấy một miến đá vàng, ấy là Thầy đó. Nói rồi liền biến mất.

Từ giả Hạn Bá trở về lo mưu giúp Hán Vương khôi phục đất nước, đó là việc đầu tiên của Trương Lương lo, cũng nhờ quyển sách binh thơ của Huỳnh Thạch Công cho đó.

Sau giúp Hớn Bái Công b́nh phục các nơi rồi Trương Lương được phong là Lưu Hồng Hầu. Ông xin nghỉ để tu dưỡng thân tâm, v́ tuổi già sức yếu. Bái Công mới cho về Hàm Dương là nơi vắn vẻ, một tháng triều bái một lần.

Một hôm Trương Lương dạo chơi Cóc Thánh, phía Đông bổng thấy một phiến đá vàng, sực nhớ lời Thầy dặn bèn lạy tạ và cho lập miếu, tứ mùa hương khói.

Được ít lâu Trương Lương thấy Hàn Tín, Tiêu Hà … đều bị vua giết hoặc cầm tù, lấy làm buồn bực vào tạ từ Hớn Đế (Hớn Bái Công) lui về núi Chung Nam tu luyện.

 

***

 

TRƯƠNG LƯƠNG DÂNG DÉP

Dâng dép ba phen mới đắc truyền,

Đủ mưu giúp hớn, Phạm Tăng kiên.

Công thành thân thối vào non thẩm,

Dưỡng tánh tu tâm, lánh cửa quyền.

                                      Q.M

 

 

22. NGƯU LANG- CHỨC NỮ

Ngưu Lang là Khiêu Ngưu, người chăng trâu ở cơi Trời, có tài nuôi trâu rất giỏi.

Chức Nữ là Thiên Tôn Nữ, dệt lụa ở cơi Trời, có biệt tài khéo léo, lại hết sức siêng năng.

Thượng Đế thấy vậy khen và khiến gă cho Ngưu Lang. Từ ngày có đôi bạn, Chức Nữ tỏ ra biếng nhác, bỏ bê việc dệt, không c̣n châm chỉ như xưa. Thượng Đế bắt tội và không cho ở chung với chồng nữa, cho qua ở bên Đông Ngạn sông Ngân Hà.

Mỗi năm tới ngày mùng 7 tháng 7 (tức là đêm thất tịch) mới cho gặp nhau một lần.

Đêm đó có quạ đội cầu Sông Ngân cho Ngưu Lang và Chức Nữ đi qua hiệp mặt. Nước mắt đổ giọt sau một năm xa cách, biến thành giọt lả tả mưa ngâu./.

 

***

NGƯU LAN CHỨC NỮ

Lễ phép nhơn luân vốn Đạo hằng,

Ai đành chia rẻ gối cùng chăng.

Ngân Hà một dăy chia phân,

Cầu ô bắt nhịp bao lần gặp nhau.

(Thất Nương đố thai Văn Minh Điện)

 

                       ***                                   

Thương mây tỏ như dường vẻ bóng,

Chức Nữ kia ngồi ngóng Ngưu Lan.

Trông vơi cánh thước nhộn nhàn,

Cầu Ô chẳng chịu hiệp đàn kết đôi.

(Trích bài T́nh Ái của Thất Nương)

 

 

23. THƯỢNG DƯƠNG, VƠ

Thượng Dương là một loài chim. Vơ là mưa. Chim Thượng Dương h́nh rất lớn, ḿnh dài 3 thước, lông đen, cổ trắng, mỏ dài và nhọn, nét đặc biệt là chỉ có một chân, sanh ở biển Bắc. Hễ lúc nào trời gần mưa th́ chim Thượng Dương nhảy múa ngoài đồng, bay tới đậu th́ mưa to theo đó.

Đời Tề Cảnh Công, gặp Thượng Dương về múa ở đồng phía nam nước Tề, đuổi không đi, bắt không được, đành cùng đứng xem. Múa xong nhắm hướng Bắc bay mất.

Đức Khổng Tử nghe việc bèn nói với quí Tôn Ty nên ra lịnh cho trăm dân ở đất Vân Dương (Nam Dương) sửa đường, lợp nhà lại để pḥng mưa to gió lớn. Quả nhiên 3 ngày sau, trời mưa như trút nước, sông Vân nước ngập tràn đầy, nhưng nhờ nước Lỗ pḥng bị được trước nên không bị thiệt hại chi. (theo Đ.CLQ)

***

THƯƠNG DƯƠNG VƠ

Ḿnh dài cổ trắng lông đen,

Chim Thương Dương Vơ là tên gọi thường.

Một chơn nhảy múa nội vườn,

Là điềm mưa lụt, chiếu giường trôi sông.

                                          Q.M

 

24. MẪU ĐƠN-TRĨ

Mẫu Đơn, tên một loài hoa đẹp, có dáng dẻ đài cát, nên người đời cho đứng đầu các loài hoa. Thơ Ô Như Hầu có câu:

Mây mưa mấy giọt  chung t́nh,

Đỉnh trầm hương khóa một cành Mẫu Đơn.

Đời Đường dẫn tích:

Sau khi soán ngôi, Vơ Tắc Thiên lên nắm chánh quyền. Bây giờ tiết xuân sắp đến. Quan cận giá Trương Tôn Xương mới tâu cùng Vơ Hậu: “Oai đức của Bệ Hạ phủ khắp thế gian, Thần Thánh phải chiều ḷng, muôn dân đều bái phục. Xin Bệ Hạ truyền sắc chỉ dạy cho trăm hoa đua nở nhân dịp xuân về để giúp vui cho Đấng Cửu Trùng. Tắc Thiên đẹp ư, sai đem một bức họa trắng viết tờ sắc chỉ:

Minh Triệu du Thượng Uyển,

Ḥa tóc báo sơn chi,

Hoa tu liên dạ phất,

Mạc đăi hiến phong di.

Nghĩa là:

Ngày mai chơi Thượng Uyển,

Hạ sắc báo trăm hoa,

Nhứt luật đều đua nở,

Không được trái lời ta.

 

Sáng ngày Vơ Hậu ngự chơi vườn, trăm hoa đều đua nở, đồng cung cung kính kính cúi đầu chào Vua. Riêng có một ḿnh hoa mẫu đơn vi lịnh. Vơ Hậu nổi giận bắt tội khi quân đày qua đất Gian Nam, v́ vậy mà ở Trường An không c̣n giống Mẫu Đơn nữa.

Chim Trĩ:

Đời vua Hùng có đem cống sứ qua Trung Hoa một con chim gọi là Bạch Trĩ. Bị triều cống đi qua xứ Bắc, chim Bạch Trĩ chỉ t́m cành cây ngó về hướng Nam mới chịu đậu, v́ nhớ cảnh, nhớ nước, nhớ vua…

V́ sự trùng hợp trên đây nên người đời cho vẽ lại bối cảnh “Mẫu Đơn Trĩ” là để nêu lên tánh thương nước, nhớ quê của loài chim muôn, thảo mộc. Để ứng dụng câu: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Nghĩa là những vật cùng tiến ứng nhau. C̣n ở đây, muôn thú không đồng vật, nhưng đồng tánh th́ nên t́m nhau ḥa hợp.

(Mẫu Đơn buồn v́ Chúa bị soán ngôi, Trĩ buồn v́ bị cống sứ)

***

MẪU ĐƠN – TRĨ

Giang Nam có một anh hào,

Nơi vườn Ngạn Uyển chẳng chào Tắc Thiên.

Hùng Vương cống sứ Trung Nguyên,

Một chim Bạch Trĩ, ngóng Miền Nam trông.

Thú cầm, thảo mộc thảy đồng,

Chọn nơi chánh nghĩa mới ḥng gửi thân.

Điện Thờ Phật Mẫu Báo Ân,

Mẫu Đơn-Bạch Trĩ thỏa ḷng vui chung.

                                            Q.M

 

25. TÍN CẦM: Chim nhạn

Chim nhạn hay gọi là Tin Sương, nghĩa là trước khi trời sắp có sương sa xuống th́ chim nhạn bay đến bày điềm cho nhân dân pḥng bị.

Chim nhạn là loài chim linh, Thu bay qua Nam, Xuân trở về Bắc, có kỳ hạn nhất định v́ cớ người đời mới tặng cho chim Nhạn là loài chim có Tín “Tín Nhạn”.

***

 

Nhạn về đông gửi bạn t́nh chung,

Gửi bạn t́nh chung một tấm ḷng.

Chung một tấm ḷng ngơ ngẫn đợi,

Ḷng ngơ ngẫn đợi, nhạn về đông.

(Trích Hoa Trái Mùa của Đốc Phủ Trần Văn Tấn)

                      ***

Trông tin nhạn về đông ṃn mỏi,

Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?

Khối sầu càng chất càng đầy,

Chờ năm, năm lụn, chờ ngày, ngày qua.

(Trích Nữ Trung Tùng Phận của Bà Đoàn Thị Điểm)

 

 

26. LÔI CHẤN TỬ CỨU CHA

Lôi Chấn Tử là con nuôi thứ 100 của Tây Bá Hầu Cơ Xương (Nguyên Cơ Xương có cả thảy 24 người vợ, 99 người con, sau lượm Lôi Chấn Tử trong một cơn mưa sấm nổ, nên cộng chẳng 100 người con và cho Vân Trung Tử làm đồ đệ).

Nhắc lại khi bị tù 7 năm nơi thành Dũ Lư, quang đại thần Tán Sinh Nghi nóng ruột nên cho người hối lộ Bí Trọng, Vưu Hồn để nhờ tâu rỗi, xin giảm tội cho Cơ Xương. Trụ Vương nghe theo nên cho Cơ Xương về nước. Văn Vương quá mừng bèn nghe lời Hoàn Phi Hổ,Vơ Thành Vương, một ḿnh một ngựa trốn về trước, sợ Trụ Vương đổi ư nên không chờ lịnh vua. Hay tin, Trụ Vương lấy làm nghi ngại, liền sai An Phá Bất và Lôi Khai đem quân bắt lại.

Khi ấy tại núi Chung Nam, Vân Trung Tử rơ việc bèn sai Lôi Chấn Tử ra vườn t́m vũ khí đặng Thầy truyền phép xuống cứu cha. Vân lịnh ra vườn t́m măi không thấy vũ khí ǵ, chỉ thấy 2 trái hạnh chính đỏ, bè hái lấy mà ăn. Xong bổng nghe ngứa ngái hai bên nách, liền mọc ra hai cánh, mặt thay đổi lạ: mũi dài như chim, nanh ló ra khỏi môi, mắt lồi khỏi khóc, tóc đỏ mặt xanh, ḿnh cao 2 trượng, lấy làm thất kinh liền vào lạy Thầy xin lỗi.

Vân Trung Tử cả cười, lấy viết đề lên cánh tả chữ PHONG, cánh hữu chữ LÔI, lại giao cho cây gậy vàng, truyền liền vơ nghệ rồi nói rằng: “Ngươi mau xuống ải Lâm Đồng cứu cha là Tây Bá, xong chẳng giết tướng Trụ, cũng chẳng đặng theo cha mà phải trở về  núi Chung Nam học thêm phép tắc, ngày sau anh em hiệp mặt, cá nước phỉ nguyền”. Lôi Chấn Tử bái tạ bước qua cửa Đông vỗ hai cánh lôi phong, gió đưa bay tới ải, thấy ḥn núi cao, liền đứng lên ngọn cao mà đợi. Bổng thấy người đội nón, mặc đồ đen, cởi ngựa kim chạy chết.

Lôi Chấn Tử gọi lớn: “Ai chạy dưới chân núi, có phải Tây Bá Hầu Cơ Bảo Gia chăng? Văn Vương nghe kêu ngừng ngựa lại mà ngó không thấy ai, lắc đầu than rằng: Chắc ḿnh tới số rồi nên quỉ thần trêu ghẹo, cớ sao nghe kêu mà chẳng thấy người. Nghĩ rồi liền vụt ngựa chạy nữa. Lôi Chấn Tử thấy vậy liền thưa nữa rằng: Ông có phải Tây Bá Hầu Cơ Thiên Tuế đó chăng? Vừa chạy vừa nh́n lên thấy có người trên chót núi, h́nh tướng kỳ dị sao lại nói tiếng người, ḿnh cũng phải chờ xem cho biết. Nghỉ rồi dục ngựa đến hỏi : Tướng Quân là ai mà biết tôi đó vậy? Lôi Chấn Tử xà xuống qú trước mặt tâu rằng: Xin vua cha rộng lượng dung tội bất hiếu cho con bởi trẻ chậm chơn nên cha mệt sức.

Văn Vương ngạc nhiên: Tướng quân nh́n lầm đó, tôi không biết mặt sao gọi bằng cha? Lôi Chấn Tử liền thuật chuyện năm xưa, nay vân lịnh Thầy đến cứu cha đưa qua 5 ải. Văn Vương cảm động, và lúc ấy quân triều cũng rượt gần đến nơi. Lôi Chấn Tử xin cha ra khuyên cho chúng quân lùi lại. Cơ Xương bằng ḷng.

Lôi Chấn Tử liền đến chận đầu xin hai tướng rút quân. An Phá Bại và Lôi Khai không nghe. Lôi Chấn Tử liền nhảy lên núi, khiên một tản đá lớn cầm lên mà nói rằng: Trông thế cái đầu bây cứng hơn cục đá nầy chăng, nếu thấy hơn th́ rượt. Thất kinh hai tướng mới chịu lui quân về triều tâu lại.

Lôi Chấn Tử liền xin cha lên lưng để con cơng qua 5 ải. Văn Vương bỏ ngựa không đành nhưng trước t́nh thế nầy bèn than với ngựa rằng: Không phải chủ muốn bỏ mầy, sợ nổi binh theo mang khổ. Nay từ giả ngươi, t́m người khác mà nhờ. Nói xong lên lưng, Lôi Chấn Tử vỗ cánh bay đi, chỉ trong phút giây đă vượt qua 5 ải rồi. Văn Vương mở liền mắt thấy thiệt nước ḿnh mừng quá khen rằng: “Cũng nhờ sức con hiền mới về được sứ sở”.

 Lôi Chấn Tử tâu: “Xin cha về đền mạnh khỏe, con phải trở lại núi Chung Nam, sau con sẽ trở lại Tây Kỳ để lo báo đền ơn cha nợ nước”. Đoạn gạt lệ bay đi, Văn Vương nh́n theo ngậm ngùi thương tiếc.

***

 

 LÔI CHẤN TỬ CỨU CHA

Cứu cha năm ải thoát trên mây,

Chấn Tử nhờ mang cập cánh dài.

Phá Bại đuổi theo ḷng chán nản,

Văn Vương thoát nạn dạ phây phây.

Kim Kê hạ cánh, từ vương phụ,

Chung Đảnh trở hài, bái mạng Thầy.

Luyện phép thần thông kim vơ nghệ,

Hưng Châu phạt Trụ trổ thần oai.

                                       Q.M

 

 

27. HỮU PHƯỚC-LỆ DUNG

Hữu Phước người đời nhà Thanh, nhà nghèo, mồ côi cha mẹ, sống tứ cố vô thân nên rài đây mai đó để cầu thực qua ngày (lúc lên 6 tuổi).

Tuy vậy, nhưng trời phú có sẵn bản chất thông minh, v́ không tiền nên đành thúc thủ cấp sách đến trường được. Sau buổi học, cậu lân la mượn sách để đọc qua. Rồi vùng quê cậu có loạn phải tản cư xứ khác, phần nghèo khó, chẳng có cô bác nương thân, bữa đói, bữa no, phải lần ḍ sống nơi một miếu Thổ Địa để hằng ngày cầu thực cho thân.

Thấy vậy, dân trong vùng lại gán cho cậu cái tên Bất Phước.

Nhờ ngôi miếu, cuộc sống tuy cơ cực, nhưng có phần thoải mái hơn, cậu định bụng sẽ ở luôn đây, không thèm đi đâu nữa, hằng ngày vào rừng đốn cũi đổi gạo sống qua ngày. Cho đến một hôm, sau khi đổi gạo đem về miếu, cậu lại gặp một cô gái  lạ đang ngồi sầu nơi miếu hoan. Bặm gan cậu liền hỏi: “Cô nương ở đâu, và đến đây có việc ǵ?”

Không trả lời, cô gái hỏi lại: “Có phải ông là Hữu Phước không?”

Hơi giựt ḿnh rồi nh́n cô gái đáp: “Người ta quen gọi tôi là Bất Phước, nhưng thật sự cha mẹ tôi đặt tên tôi là Hữu Phước. Cô nương t́m tôi có việc chi?”

Ngập ngừng một lát cô gái nói: “Không biết v́ sao, 4 hôm nay có Thần Thổ Địa đến mách bảo cho tôi phải đến đây t́m cách giúp đỡ ông, v́ ông và tôi có…

Cô gái nói đến đây có vẻ ngượng ngùng và nh́n Hữu Phước như ḍ xét.

Hữu Phước vội trả lời: “Cô lầm, chớ Thổ Địa đêm nào cũng ở đây với tôi, làm sao đi đâu được mà tôi không biết. C̣n chuyện giúp tôi, tôi cám ơn, chớ thật ra nhờ miếu nầy là nơi nương tựa, ra sức kiếm gạo sống cũng qua ngày, tôi có thiếu thốn chi mà nài người giúp đỡ. Xin lỗi quí danh cô là chi, ở xóm nào?”

Cô gái mỉm cười: “Tôi là Lệ Dung, con Quan Tuần Phủ, nhà xóm trên”.

Nghe xưng tên, Hữu Phước ngỡ ngàn, sợ sệt, vội chạy bọc ṿng sau miếu rồi trốn luôn, không dám nói chuyện với Lệ Dung nữa.

Ngạc nhiên, nhưng kịp suy nghỉ, Lệ Dung biết ḷng tự ái, tự trọng và giai cấp trong làng nên chàng đành phải hành động thế thôi.

Thế rồi Lệ Dung ra về, và liên tiếp ba đêm sau, đêm nào Lệ Dung cũng nằm mộng thấy Thần Thổ Địa đến nói: “Số nàng có nợ duyên cùng Hữu Phước, về sau sẽ được đỗ Trạng Nguyên và thúc Lệ Dung phải t́m cách giúp đỡ cho người ăn học.

Lệ Dung cũng khó xử cho hoàn cảnh phận gái của nàng, nhưng cũng cố gắn bạo gan để thầm giúp người cùn khốn.

Thế rồi lúc mua cũi bằng tiền, lúc đổi gạo, ngầm sai người quen đem sách vỡ  cho người học…tận t́nh giúp đỡ Hữu Phước trong âm thầm lặng lẻ.

Hữu Phước cũng biết có người giúp đỡ, song cũng tương xứng với công sức của ḿnh nên cũng yên tâm, ngày đêm cố gắn học hành, mong sẽ có ngày đền ơn tri ngộ.

Đến khi kinh kỳ mở hội, Lệ Dung lén lên miếu tiễn bạn lên đường, kẻ ở người đi, ḷng buồn dịu dợi.

Một năm qua, tin thơ vắn bật, ở nhà Quan Tuần Phủ lại phải tội hàm oan, lịnh vua đày biệt xứ. Mẹ nàng buồn khổ cũng qua đời. Lệ Dung thân gái dặm trường, cửa nhà sa súc, tủi thân, thương cha nhớ mẹ và nghĩ đến bạn năm xưa cũng bật vô âm tín. Quá đau buồn, nàng c̣n cái khóc mang ra nhờ nước mắt nàng sẽ làm phai đi sự quyến luyến nhớ tiếc thương kia. Thế rồi nàng khóc cho đến mắt ḷa mới sạch sùi t́m lại ngôi miếu ngày xưa, ôn lại dấu dết ngày xưa, cố h́nh dung bóng người năm cũ. Nàng cầu khẩn Thổ Địa, nhưng ái ngại thay, Thổ Địa giờ đây dường như không c̣n linh thiêng để báo mộng cho nàng nữa. Xót cảnh người sống không về, kẻ khuất mặt cũng không c̣n mộng ảo gặp nhau. Lệ Dung thấy ḿnh hầu như sắp chết.

Rồi một sáng kia, binh reo rầm rộ, lạc ngựa reo vang, nàng ṃ lần ra trước miếu, th́ có tiếng gọi to với âm giọng nghẹn ngào, đứt quản: “Lệ Dung em!”

Lệ Dung trong đôi tay quờ quạng, chưa nhận ra tiếng người kêu, th́ vẹt đám ba quân, Hữu Phước tới nơi cầm lấy tay nàng trong nghẹn ngào cảm xúc.

Hai người mừng mừng tủi tủi, Hữu Phước thuật chuyện ngày qua từ khi thi đỗ đến lúc vua từ hôn cho công chúa, thuật hết đuôi đầu và kết luận, Vua cũng rộng lượng khoan dung, mặc dù anh cho biết đă có vợ nhà, nhà Vua vẫn cho công nương hầu thứ thiếp.

Hữu Phước liền sai gia nhân dọn dẹp miếu đường và khẩn cầu tạ lễ Thổ Địa. Hành lễ xong, bước ra th́ c̣n ǵ mừng vui hơn, mắt của nàng Lệ Dung sáng lại như cũ. Hữu Phước xin minh oan cho Nhạc Phụ, đều được hết án tù đày, cha con vợ chồng sum hợp để chung lo việc nước.

***

HỮU PHƯỚC- LỆ DUNG

Thân côi lê gót khắp xin ăn,

“Bất Phước” hằng nương Miếu thờ Thần.

Ghè gạo đầy vơi nhờ hiếm cũi,

T́nh đời lănh noăn chẳng thân nhân.

Lê Dung Thần mộng khuyên trao phận,

Hữu Phước Trời xuôi được học hành.

Đỗ trạng vinh qui t́m nghĩa cũ,

Trùng phùng hết thẹn lẽ sang bần.

                                    Q.M

 

 

28. BÁ LƯ HỀ

Tự T́nh Bá người nước Nam, nhà nghèo, nên 30 tuổi mới cưới vợ là Đỗ Thị Sanh đặng một con trai tên là Mạnh Ninh Thị.

Muốn phô trương tài học để giúp nước, an dân, nhưng ngặt không người tiến cử, lại có ư châu du t́m chữ công danh. Ngặt nổi, vợ con c̣n không đủ no nên chưa đi cho tiện. Đỗ Thị liền hiểu ư nói: Thiếp nghe đàn ông con trai th́ chí tại bốn phương, chớ có bận bịu với thê nhi, rốt cuộc chữ nghèo theo hoài mà phí đời xuân tứ. Thiếp ở nhà một ḿnh làm ăn th́ có lo chi.

Nhà chỉ có một con gà, đem làm thịt, không cũi, lấy cây cửa chẻ nấu tiếp đăi chồng lên đường và căn dặn: “Nếu có sang giàu th́ chớ có phụ nhau.”

Thế là Lư Bá Hề từ giả vợ sang Tề ra mắt Tề Tướng Công, nhưng không người tiến cử nên không được thâu dụng, túng rối lần lựa 10 năm, Lư Bá Hề phải đi ăn xin nơi đất khách. Có một người bạn là Kiển Thức thương t́nh đem về, nhưng nhà cũng nghèo nên không nuôi nhau nổi. Bá Lư Hề chăng trâu cho một hào phú trong làng để lấy tiền độ nhựt.

Nghe Công Tôn Vơ Tri giết Tề Tướng Công rồi lên làm Chúa treo bản cầu hiền, muốn ra bị Kiển Thức can nên nghe theo lời bạn.

Nhà Châu có Vương Tử Thoạt thích trâu, Bá Lư Hề từ giả Kiểu Thúc để qua Châu. Kiểu Thúc lại khuyên rằng: Hễ trượng phu th́ chẳng nên nhẹ ḿnh mà cầu người, nếu dầu lỡ mà làm quan rồi bỏ đi th́ chẳng trung, c̣n theo mà chịu hoạn nạng là bất trí, em đi phen nầy ráng mà dè chừng. Anh liệu biện chuyện nhà xong ắt qua Châu t́m em. Khi đến Châu, Bá Lư Hề đến Vương Tử Thoát cách nuôi trâu, Thoát cả mừng bèn dùng làm gia thần. Ít lâu sau, Kiển Thúc qua thăm, sau hồi đàm luận lui ra tỏ cùng Bá Lư Hề: Tử Thoạt chí lớn mà tài sơ, kẻ tay chân đều là sàm nịnh, ắc chẳng phải chỗ chúng ta gửi thân, chi bằng đi trước th́ hay.

Bằng ḷng, v́ đi lâu ngày Bà Lư Hề muốn về thăm vợ, riêng Kiểu Thúc tiện dịp thăm người bạn cũ là Chung Chi Kỳ. Chẳng ngờ làm ăn sa súc, vợ con giờ đă lưu lạc hà phương, không c̣n ai hay biết nữa. Kiểu Thúc mới tiến cử vào thăm bạn là Chung Chi Kỳ, thấy biết là người tài đức bèn tiến cử cho Kiều Ngu Công trọng dụng với chức Trung Đại Phu. Kiều Thúc nói với Hề rằng: Anh em Ngu Công là người thấy hẹp lại, lại tự dụng một ḿnh, ấy chẳng phải là chỗ đáng thờ, ngặt em quá nghèo túng, anh chẳng dám ngăn, như sau muốn thăm anh th́ qua nước Tống, đến làng Minh Lộc th́ gặp. Rồi từ biệt nhau đi.

Quả thực, Ngu Công là người thực dụng, không thích nghe lời bàn khuyên, nên bị Tấn đánh chiếm đem Ngu Công về Tấn. Dù vậy Bá Lư Hề vẫn theo pḥ Ngu Công không rời.

Đến Tấn gặp Chu Chi Kiều là bạn cũ đă đầu Tấn đang làm quan Đại Phu có ư dụ hàng cho Bá Lư Hể về theo như ḿnh. Bá Lư Hề đáp cho xuôi: Xin cho tôi yên sống thờ chúa tôi cho trọn đời th́ hay hơn. Chu Chi Kiều bỏ ra về th́ Bá Lư Hề mới than: Người quân tử hể bị mất nước th́ chẳng nên đến nước cừu hận của ḿnh, huốn lựa là ra làm quan. Chi Kiều nghe lời ấy hổ thẹn thầm, c̣n sanh ḷng oán hận. Nhơn lúc Tần sang cùng Tấn bằng ḷng, nhơn Tấn Hiếu Công c̣n phân vân, vẫn chưa t́m người đưa dân qua Tần, th́ Chi Kiều v́ hờn riêng, tiến cử cho Bá Lư Hề và nói rằng: Bá Lư Hề chịu làm quan th́ ḷng dạ ắt khó lường, dịp nầy nên cho người đi xa cho  rảnh.

Hay tin, Bá Lư Hề than rằng: Ta ôm lấy tài tế thế trong ḿnh không đặng gặp minh chúa mà trổ tài với đời, nay đến già rồi mà c̣n làm khách đưa dâu, khác nào đầy tớ, thật là hổ thẹn. Nên nữa đường đưa dâu, Bá Lư Hề bỏ trốn qua Sở.

Vừa đến Huyền Thành bị bọn đi săn nghi là gian tế, liền bắt trói lại. Thanh minh mọi lẻ chúng mới nghe và ví biết Lư Bá Hề biết nuôi trâu, nên bọn nầy bắt Lư Bá Hề về nuôi trâu cho họ. Trâu chẳng bao lâu càng mập, bọn thợ săn cả mừng, tiếng đồn đến tai Sở Vương bèn dời đến hỏi cách thức và vừa ư, bèn sai đi Nam Hải chăng ngựa cho Vua.

Tấn Vương sau khi biết Bá Lư Hề là người hiền, pḥ vua biết Ngu Công hay tự dụng nên mất nước không can, ấy là TRÍ, theo Ngu Công qua Tần không làm quan ấy là TRUNG, nên lấy  làm ái mộ. Bèn lập kế bắt tội đưa dân bỏ trốn, nên sai người đem 5 tấm da dê qua Sở chuộc đem về. Khi về Tần Mục Công thấy Lư Bá Hề đầu tóc bạc phơ mà than rằng: Già rồi c̣n chi, ta rất tiếc.

Bá Lư Hề nghe liền tâu: Như khiến đi đuổi chim bay, bắt thú dữ th́ tôi đă già, c̣n như khiếu ngồi lo việc nước th́ tôi c̣n trẻ lắm. Xưa Lữ Vọng đă 80 tuổi ngồi cầu sông vị, Văn Vương mới lễ rước đem về. Nay gặp chúa công sánh cùng Lữ Vọng, tôi mới 70 tuổi cũng vẫn c̣n sớm được 10 năm. Nhưng Tần Mục Công không cho Bá Lư Hề làm chức Thượng Khanh. Bá Lư Hề liền tâu: Tài tôi chưa bằng bạn hữu tôi, người tên là Kiểu Thúc, nếu như Chúa Công muốn cho nước nhà thạnh trị th́ nên dùng Kiểu Thúc, được vậy th́ sẽ nên nghiệp Bá. Tần Mục Công liền nghe theo. Bá Lư Hề liền viết thơ đem về làng Tam Lộc thuộc nước Tống mà rước Kiểu Thúc. Tấn phong Kiểu Thúc là Hữu Thứ Trưởng, Hề làm Tả Thứ Trưởng (thảy đều dự trước Thượng Khanh gọi là Thừa Tướng).

Nay nhắc trở lại Đỗ Thị, từ khi chồng đi, ở nhà làm ăn kiếm tiền độ nhựt, chẳng  may gặp vận thất  mùa, nên bồng con đi tha phương cầu thực, trôi nổi. Đến nước Tần, chuyên nghề vá mướn nuôi con. Nghe nói Thừa Tướng Bá Lư Hề ngồi xe đi dạo, lại ḍm lén mà chẳng dám nh́n. May sao trong trướng phủ có mướn người may vá, Đỗ Thị t́nh nguyện xin vào. Nghề may rất khéo, ai nấy đều thương, nhưng từ ngày ở đây chưa có lần nào gặp được mặt chồng.

 Một hôm phủ có dạ tiệc, xướng hát đờn ca, Đỗ Thị liền xin người trong phủ dắt đến đó cho nàng đờn giúp vui. Đờn rất hay và ca như vầy:

Bá Lư Hề, ngũ dương b́

Ức liệt th́ nhanh phục thu

Xuân huỳnh phỉ, suy liêm dị

Kim nhựt phú quí vọng ngă vi.

 

Bá Lư Hề ngũ dương b́

Tích chi nhạt, quân hành nhi

Ngă đề kim chi, nhứt quân tọa, nhi ngă ly

Ta hồ phú quí, vay ngă vi.

Nhĩa là:

Bá Lư Hề, Năm bộ da dê

Nhớ ngày nào cùng nhau ly biệt

Mở con gà mái ấp, che cánh cửa làm cũi

Thổi nồi cơm gạo vàng, chớ thương th́ thương

Ngày nào giàu san quên ta hay sao?

Bá Lư Hề năm bộ da dê,

Cha ăn thịt cá, con đói khóc dài

Chồng mặc áo gấm, vợ may thuê hoài.

Chớ thương th́ thương

Ngày nay giàu sang quên ta hay sao?

Bá Lư Hề, năm bộ da dê,

Nhớ ngày xưa tiễn chàng ra đi,

Nước mắt chứa chan,

Tới bây giờ thấy chàng ngồi đó,

Thiếp đứt ruột đôi cơn

Chớ thương th́ thương

Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao?

Nghe ca sửng sốt, Bá Lư Hề bèn kêu đến gần mà hỏi, th́ quả là vợ ḿnh, ôm nhau mà khóc. Rồi từ đó, vợ chồng con cái, sum hợp một nhà.

***

          BÁ LƯ HỀ

Năm bộ da dê đổi Lư Hề,

Đưa dâu ḷng những tái cùng tê.

Thợ săn Sở tưởng quân gian tế,

Quan lại Tấn cho giữ ngựa nghề.

Kiểu Thúc nhớ ơn Thừa Tướng dựa,

Mục Công cám nghĩa Bá Vương kề.

Công danh đă toại, t́nh không toại,

Buổi tiễn, nào quên: “Cửa hấp kề”?

                                      Q.M

 

                           ***

Áo trâu đắp đông sương lạnh lẻo,

Cửa hấp gà mở nẻo tiển phu,

Lập thân đừng để danh lưu,

Cũng như Bá Lư Hề âu bạc t́nh.

(Trích Nữ Trung Tùng Phận của Bà Đoàn Thị Điểm)

 

 

29. BẠCH KHỈ ĐẾN SƠN KHÊ

Đời vua Chu Dương có nuôi một con bạch khỉ tánh t́nh thuần hậu, dường như nghe biết tiếng người. Mỗi khi vua buồn th́ đem bạch khỉ ra khiến làm nhiều tṛ chọc cười duyên dáng, hồi hộp, bâng khuâng, và những tṛ đáng ghét nữa…v́ thế mà vua rất thương yêu bạch khỉ, cho ăn uống đủ đầy, ngủ nơi ấm áp, đông có mền, hạ có gió, sự luyến thương giữa bạch khỉ và nhà vua dường như vượt bỏ nghi cách của triều đ́nh. Su Chu Ôn Thừa Tướng, người có mưu lượt và ác tâm, muốn thoát nghịch, nên ngầm câu kế với đồng bọn thí vua một cách rất khéo nên nội trào cứ nghỉ nhà vua bị ngộ độc mà băng hà, chỉ có một số hiểu biết nên để dạ hoài nghi không dám hé môi hay chống đối.

Thế là Thừa Tướng yên tâm, cho cử hành lễ tôn vương lên trị v́ thay vua cũ. Trong dạ tiệc, nhà vua ra lịnh cho Bạch Khỉ đến để làm tṛ giúp vui.

Bạch Khỉ đến nơi chỉ đứng nh́n Thừa Tướng mà không uống ḿnh nhảy múa. Tân Vương ra lịnh Bạch Khỉ hăy nhảy múa mừng đón tân vương, Bạch Khỉ vẫn đứng yên, mà dường như muốn tỏ bày bằng lời bất tuân.

-Bạch Khỉ không tuân lịnh chúa, bộ ta không đáng mặt thay thế ngôi vua sao? Quân trung hăy bắt xiền và đánh cho đáng tật.

Vừa dứt lời, quân sĩ định đến nơi vây bắt th́ bất thần, Bạch Khỉ phóng nhanh lên phá Tân Vương, ôm bấu lấy người, miệng cấu, tay quàu, làm trầy mày, xể mặt. V́ quá đột ngột, không phản ứng kịp, nên sau khi bị Bạch Khỉ hành hung, Tân Vương quá đau đành ngă xuống khỏi ngai vàng. Quân binh đă phong tỏa, nhưng nhanh chân Bạch Khỉ phóng ḿnh ra khỏi cung điện nhầm cảnh núi rừng chạy biến đi mất dạng. Tức ḿnh v́ bị khỉ trung hạ nhục bèn trả thù, là bắt tội Đông Cung Thái Tử con của Chu Vương đày đày tận lên rừng núi (cột vào cây cho cọp xé xác). May nhờ có thỏ trắng biết cảnh oan t́nh ngậm ngọc đến cắn dây trong lúc đêm khuya, rồi nhờ ánh sáng của ngọc soi đường, nên Đông Cung lần theo dấu thỏ thoát khỏi rừng thiêng, thỏ đến nhà quan lưu là Lai Bộ Thi Lang để Đông Cung phân bày mọi lẻ và thoát thân chờ ngày phục hận.

***

BẠCH KHỈ ĐẾN SƠN KHÊ

Nghi cách triều đ́nh đă vượt qua,

Ân vua Bạch Khỉ khó phai nḥa.

Chu Vương ngộ độc buồn chưa khỏa,

Thừa Tướng lên ngai bắt múa ca.

Chẳng khứng uống ḿnh c̣n cắn xé,

Không thèm ngước mặt lại kêu la.

Nhanh chơn chạy thẳng vào non thẩm,

Loài khỉ mà trung, chẳng phục tà.

                                  Q.M

 

30. VỢ CHÂU CÔNG

Châu Công tức Châu Công Đáng là em ruột của Châu Vơ Vương Cơ Phát đời nhà Châu. Vơ Vương mất, con là Thành Vương lên nối ngôi. V́ c̣n nhỏ nên mọi việc nhiếp chính đều do Châu Công quán xuyến.

Tuy là Đại Thần tột đỉnh, nhưng vợ ở nhà lam lụ làm ăn, ḷng cứ giữ một bực thanh bần chuyên tay dệt cửi, thường ngày cặm cụi với khung tơ, không bao giờ phai lăng. Sách đều ghi: Tuy bà là một mệnh phụ đương thời, song phụng sự chồng rất mực. Khi Châu Công sửa soạn đi chầu, bà mặc triều phục cho chồng, sửa sang văi măo, khi tiễn ra tới cửa mới vào. Lúc về chính Bà mở áo, tháo đai và vô cùng quí trọng bộ đồ triều phục đó v́ bà cho rằng: Triều Phục là sắc tốt của vua ban, ta phụng sự cho chồng, cho măo áo thẳng nếp ấy là ta tỏ ư tôn kính vua vậy.

Bà làm phận sự một người vợ đủ đầy, nên Châu Công mới yên tâm rảnh trí dóc tâm vào việc giúp nước pḥ vua và chế ra lễ nhạc, định về các lễ: quan, hôn, tang, tế truyền đến ngày nay.

***

VỢ CHÂU CÔNG

Vợ Châu Công hiến thần mạng phụ,

Ở  thôn quê lam lũ làm ăn.

Chồng thời Triệu nội cao sang,

Vợ lo canh cửi cơ hàn khổ thân.

(Trích Nữ Trung của Bà Đoàn Thị Điểm)

 

 

31.VUA SỞ ĐI CẦU ĐỔNG BÂN

Đổng Bân người nước Sở con nhà nghèo nhưng vốn người có tài thao lược làm quan đến chức Tổng Binh, giúp vua Sở b́nh định được nước, quan dân mến chuộng, vua cũng yên v́.

Sau khi dẹp xong biến loạn, lập lại triều chánh, kỷ cương ông dân lên vua một bản cương lỉnh, phân hai điều chính trọng:

Việc nội: Coi dân như con đẻ, đầy sự giúp đỡ thương yêu, dạy dân cần kiệm, thật thà…quan phải công bằng liêm khiết và phải so ḿnh là nô bộc của dân.

Việc ngoại: Thân thiện và liên kết với các nước lân cận, đối đăi như anh em không nên xăm lấn, cùng phát huy sáng kiến cho nhau để phát triển, hầu ǵn chặt nghĩa tương liên.

Sở Vương th́ đẹp ư, Thừa Tướng chẳng vừa ḷng, muốn thôn tính các nước lân bang cho Sở Quốc thêm hồi cường thịnh, bắt các nước yếu phải cống hiến xưng thần, để cho oai vua thêm uy vũ. Sở Vương mềm tai nên cũng nghe theo. Đổng Bân biết thế vận của ḿnh nên bèn xin cáo quan lui về ẩn dật nơi núi Hoài Sơn, lo tu hành cho phôi pha cùng ngày tháng.

Nghe tin Đổng Bân đă từ quan, không c̣n cầm binh quyền như trước nữa, các tiểu quốc có ư mừng, liền liên kết cùng nhau giáp công ba mặt đánh chiếm các ải quan. Vua Sở đành bó gối bèn họp quân thần vấn kế, cũng được rập ư đ̣i đến cầu Đổng Bân. Vua lấy làm ái nái, nhưng trông thế chẵn đặng đừng, buộc thế phải ép ḷng theo các quan tâu rỗi.

Thế rồi xa giá lên đường, nhắm Hoài Sơn thẳng tiến. Hay tin vua đến chùa, Đổng Bân ra nghinh tiếp và rước vào đại điện. Sở Vương bèn bày tỏ nổi t́nh, Đổng Bân rất hoài cảm t́nh vua tôi Sở Quốc, nhưng nghĩ ḿnh là tu sĩ, đang giữ phép giới răn, nếu trở lại cuộc động binh th́ luật Thiền Môn đành vong phụ chăng? Bèn tŕnh lên sư phụ là Diệp Ấn Thiền Sư và đồn ra bái yết. Thiền Sư nói cùng Đổng Bân: Con là đệ tử của Phật, nhưng thân xác con chịu ơn tất đất ngọn rau th́ hai nhiệm vụ phải chu toàn, chừng ấy mới được yên thân mà tu niệm, bởi trong tiểu ngă hễ nước mất nhà tan th́ phận thần dân không thể tai ngơ mắt lắp. C̣n đại ngă là con không nên trở lại quan trường, cầm ấn nguyên nhung, mà con nên hành thiện nhà tu, chịu mang giày cỏ, tay lần chuỗi từ bi, miệng kêu gọi t́nh thương cùng các nước…Thầy thấy con c̣n nặng nợ, nên kíp lên đường cứu nước cứu dân.

Đổng Bân nghe xong, tạ từ Sư Cụ Thiền Sư mang hành trang theo cùng vua Sở về Kinh lo sứ mạng.

Mấy hôm sau, các nước không thấy Sở Quốc động binh, bèn lấy làm lạ, sai người thám thính, và tiếp theo là nhận được lá thơ của Đổng Bân kêu gọi trong ngôn từ của một nhà tu đă có uy danh trong quá khứ. Các nước cảm thông bèn họp nhau ra lịnh lui quân, c̣n cử đại diện ra mắt Đổng Bân trong t́nh thương nhân hậu.

Mọi người ngă kiếm, thù hằng được chấm dứt, can qua được dập tắc, tái lập ḥa ái, yên vui. Các nước quan dân đều được an vui hạnh phúc.

***

VUA VƠ ĐI CẦU ĐỔNG BÂN

Dân là con đẻ phải thương yêu,

Quan ấy nô tỳ chớ tự kiêu.

Nguyên Soái từ quan, an cảnh tịnh,

Phật Đồ xuất sải, nắm quyền triều.

Giác thơ lui đặng ngàn quân giặc,

Câu kệ độ hồn ngàn kẻ siêu.

Nợ nước vẹn phần, tṛn Thế Đạo,

Không chầu Bạch Ngọc cũng Cung Diêu.

                                              Q.M

 

 

32. HỨA HÀNH CHẠY LOẠN TỚI VƯỜN LÊ

Hứa Hành tự Trọng B́nh người Châu Hoài, tỉnh Hà Nam, lúc nhỏ học hành thông minh mẩn đạt, thường vấn cật thầy những điều lạ, hễ không biết là hỏi ngay chớ không để tâm thắc mắc như các bạn.

Một hôm Hứa Hành hỏi: “Thư Thầy đọc để làm ǵ?”

Thấy vậy Thầy dạy Hứa Hành đành đem chuyện bàn cùng cha mẹ của Hành và nói: “Đứa bé nầy rất khác biệt, sau chắc phải hơn người, tôi không đủ sức làm thầy của nó.”

Từ đó Hành tự học ở nhà rồi lui tới các bạn mà mượn sách về đọc.

Sau có loạn, mọi người cùng chạy tới núi Tổ Lai gần núi Thái Ân, gặp được quyển Dịch Thuyết của Vương Bậc nhà Tần, Hành quá mừng, xem coi làu thuộc. Rồi loạn tới nữa, phải di cư tới xứ Hà Dương, gặp lúc trời nắng cháy, ai nấy đều mệt và khát, xảy gặp gần đấy có vườn lê, trái chín vàng ối, ai cũng đỗ xô vào hái và ăn cho đỡ khát.

Riêng Hành ngồi nghỉ mệt mà chẳng bén mảng đến vườn lê. Có người hỏi sao anh không ăn cho đỡ khát. Hành trả lời: Không phải của ḿnh mà lấy là không nên. Người ấy bảo: Đời loạn lạc cây ấy có chủ đâu mà lo ngại. Hứa Hành bảo: Nếu cây không có chủ sao mọc ở trong vườn, mà dù nó không có chủ c̣n tâm ta làm không chủ nữa hay sao? Ai nấy nghe qua đều sực tỉnh và cảm mến Hứa Hành.

Yên giặc trở về đất Hoài, theo Diêu Phụ học thêm sách và sang Tô Môn làm ruộng sanh sống. Sau theo học Đậu Mặc thu thập thêm nhiều sở đắc. Được Hốt Tất Liệt nghe danh cho mời về phong chức Kinh Triệu để học mở nhiều biên dạy dân ở đất Tần. Ba năm sau được dời về Kinh giúp An Tể Tướng coi việc chính sự. Hứa Hành dâng nhiều kế sách trong Đạo trị nước. Vua Nguyên Thái Tổ khen ngợi và trọng dụng.

***

HỨA HÀNH CHẠY LOẠN TỚI VƯỜN LÊ

Đọc sách làm chi dám hỏi Thầy?

Học cho thi đổ có chi hay!

Diêu kha hỏi lư, nên hiền sĩ,

Đậu Mặc tầm chơn, hóa biệt tài.

Hốt Tất Liệt, vinh phong Kinh Triệu,

Thái Tổ Nguyên, trọng thưởng cân đai.

Vườn lê vắn chủ không nhơ bợn,

Măi giữ thanh tâm, thế cảm hoài.

                                               Q.M

 

 

33. TỪ THỨC VIẾNG CHÙA XEM HOA

Từ Thức đời nhà Tần ở đất Hoá Châu làm quan với trào Quan Thái (1388). Ông được bổ nhiệm giữ huyện Tiên An thuộc Bắc Ninh. Người c̣n trẻ nhưng chuộng việc thanh liêm, thích du hành t́m danh lam thắng tích.

Cạnh huyện đường có ngôi cổ tự, có một gốc Mẫu Đơn rất lớn, hằng năm đến kỳ hoa nở, người tổ chức lễ hội tưng bừng, nữ tú nam thanh dập diều thưởng hoa dự hội.

Năm Bính Tư thứ hai ngày mở hội thường niên, gốc Mẫu Đơn lại trổ nhiều bông rất đẹp. Trong số người dự hội có một cô gái tuổi độ 16, sẵn đẹp lạ thường, cô đến thưởng hoa, cố t́nh sờ tận tay cho thỏa nguyện, chẳng may hoa bị găy cành. Người giữ hoa bắt tội, cầm cô ngồi lại gốc hoa chờ xét xử. Đến xế chiều, Từ Thức đi qua, nghe rơ câu chuyện động ḷng, bèn cởi áo cừu đang mặc để bồi thường và xin tha cho cô gái. Cô gái cám ơn rồi hướng về Nam mất dạng.

Đến sau khi từ quan treo ấn, về vùng núi thuộc huyện Tây Sơn, sống đời nhàn tản, đi châu du khắp nơi, nơi nào nghe nói có cảnh đẹp Từ Thức cũng bước chân đến.

Một hôm đến Thần Phù, trông ra biển thấy đám mây ngũ sắc, kết  khối lại giống một đóa sen, bèn t́m đến nơi th́ thấy nhiều núi non kỳ thú. Ḷng bâng khuâng nghĩ rằng: Ta đă đi khắp miền Đông Nam, biết rơ cả vùng nầy, nhưng các núi non diễm t́nh nầy sao ta chưa từng biết, hay là non Tiên động Thánh dời lạc đây chăng? Bèn buộc thuyền lên bờ, vượt qua lớp cỏ lan thấy sừng sững sườn núi cao chót vót. Nh́n rồi quai lại thở ra, lấy làm tiếc rẻ…ước ǵ ḿnh có cánh để bay cao! Ông liền lấy bút đề thơ lên vách đá, xong nh́n phong cảnh thêm một lần nữa để trở chơn. Bổng trở lại nh́n mặt bài thi th́ vách đá kia bổng bất ngờ mở vẹt, để lộ một cửa hang độ một trượng. Lấy làm lạ, Từ Thức bèn vén áo bước vào th́ vách đá kia tự dưng khép lại, Từ Thức bồi hồi ch́m trong bóng tối, chẳng thấy lối đi ra, đành đánh bạo men đường ṃ tới. Qua một lối quanh, đường hầm dường như rộng mở, lấn tới, Từ Thức hết sức ngạc nhiên, thấy một vùng ánh sáng lạ thường. Nào là lầu đài cung cát như nạm ngọc chói chan, sáng ngời giữa vườn kỳ hoa dị ảo.

Đang miên mang ngây ngất, dường như đang sống trong giấc chiêm bao, th́ bổng phía sau có giọng cười trong trẻo, vội vàng ngó lại thấy hai cô gái áo xanh khúc khích bảo nhau: Ḱa chú rễ nhà ta đă đến và lên tiếng mời chàng: Phu nhân chúng tôi cho mời Ngài vào.

Không làm chủ được ḿnh, Từ Thức ngỡ ngàn đi theo. Bước vào cửa, Từ Thức thấy có hai bức hoành ghi chữ vàng “Huỳnh Hư Chi Điện và Giao Hoan Chi Các”. Thấy bà áo trắng đang ngồi ghế cạnh bên rồi bảo: Người vốn say mê cảnh lạ bấy lâu đă thỏa chí b́nh sanh chưa, ngao du đây đó mà có biết đây là nơi nào không? Từ Thức cung kính đáp: Tôi là người sống ở huyện Tống Sơn, để bước ngao du cũng được nhiều nơi, nhưng thật chưa rơ nơi đây có lầu hồng điện cát, v́ ḷng trần tục c̣n lắm bụi thế t́nh, chưa rơ nơi đây là đâu xin Tiên nương vui ḷng chỉ bảo.

-Phải,làm sao ngươi biết được, đây là động thứ 6 trong 36 động Phù Lai, nơi nầy biển bao bọc chung quanh, lửng lờ không chạm đất, cũng như núi La Phù theo gió mưa mà tan hợp, núi Bồng Lai mọc trên đầu sóng, ta là Ngụy Phu Nhân, Tiên chủ núi Nam Nhạc, v́ thấy thư sinh có đức nên mới đến nhàn du.

Dứt lời, đưa mắt ra lịnh cho một tiểu nữ c̣n trẻ đến hầu, Từ Thức thoạt nh́n đă nhận ra nàng là người bẻ cành mẫu đơn trong hội thưởng hoa năm trước. Bà liền chỉ Tiên Nữ và nói với Từ Thức: Nó là con ta tên gọi là Giáng Hương, ngày trước gặp nạng được Thư Sinh cứu giúp, ḷng vẫn không quên nên ta quyết cho nó kết duyên để đền ơn cứu nạn.

Thế rồi hôn lễ cử hành, giữa ánh đèn, măo phụng trên chiếu thêu rồng. Chư Tiên đến chúc mừng tụ trên điện Giao Hoan thật là lộng lẫy. Nhạc trổi, ca ngâm, chúc tụng mối t́nh của kẻ Tiên người tục. Tiệc vui rồi cũng đến lúc hầu tàn, những chuỗi cười gịn giă và giọng ngôn tạ từ, lần hồi chỉ c̣n lại nàng Giáng Hương và thư sinh Từ Thức.

Dù là kẻ tục người Tiên nhưng cũng là t́nh nghĩa vợ chồng, nên Từ Thức và Giáng Hương vẫn sống đủ đầy trong t́nh nghĩa ấy…

Đến một sáng kia, thấy hoa sen nở rộ, hồ ngọc đă thay đổi màu xanh, thắm thoát mà đă một năm trôi qua như gió ngựa. Nh́n ra xa thấy một con thuyền như một chiếc lá nhấp nhô trên ṣn biết, chàng trỏ tay bảo Giáng Hương: Anh từ miền xa kia đến, chân trời mờ mịch, sóng biển muôn trùng, không rơ nhà anh ở nơi nào…Giáng Hương im lặng. Từ Thức lại nói tiếp: Khi đi anh có mẹ, bè bạn ở dưới kia, ṿng trần chưa rũ sạch, anh muốn nh́n lại quê hương, em hăy chiều ḷng cho anh trở về thăm mẹ. Vẫn im lặng, Giáng Hương không một lời. Từ Thức lại tiếp: Anh về độ 5, 10 hôm rồi sẽ trở lại bên em măi măi cho đến tuổi già nơi chốn Bạch Vân.

Giáng Hương khẻ nói qua niềm cảm xúc: Em không muốn lấy t́nh chồng vợ ra ngăn cản anh đừng trở lại quê hương, em chỉ sợ rằng, đời sống trần gian quá nhỏ hẹp, ánh sáng quá vắn vỏi, một ngày một tối qua mau, anh về không c̣n t́m thấy sân vườn xưa trong nhà cũ nữa.

Tiên Nữ chủ nhân cũng hiểu rằng, Từ Thức và con ḿnh đă măng căn duyên Tiên tục, và cho phép Từ Thức trở về theo ước định, sai Giáng Hương sấm một xe mây và trao cho chồng một phong thơ dặn rằng: Khi về đến cơi trần gặp nghịch cảnh th́ dở ra xem mà biết rơ.

Từ Thức bịn rịn chia tay lên xe mây trở về quê trần thế. Đến nơi cảnh vật đổi thay, cửa nhà không t́m đâu được nữa. Hỏi người trong xóm th́ chỉ nhớ mang máng có nghe tên Từ Thức, nay đủ 3 đời và cũng không biết tông tích.

Từ Thức dào dạo mặt khách mới liền dở phong thư ra coi th́ chỉ có ghi một câu vỏn vẹn: “Trông mây kết duyên loan phụng, mối t́nh đă dứt từ đây”.

Nh́n lại th́ xe mây biến mất, để mắt trông non Tiên cũng khuất dạng trong mạng trời xa tích mù khơi.

Từ ấy không ai c̣n thấy Từ Thức đâu nửa, chỉ gặp một lần ông khoát áo lông, đầu đội nón nhẹ, một ḿnh đi vào núi Hoành Sơn rồi biến mất.

 

***

 

TỪ THỨC VIẾNG CHÙA XEM HOA

Mẫu đơn nở nhụy khách xem đông,

Một ả vịnh cành gảy rụng bông.

Bị giữ Giáng Hương buồn đứng mếu,

Áo cừu Từ Thức chuộc ra xong.

 

Nhơn buổi nhàn du dạo đó đây,

Lạc vào hang thẫm: cảnh Thiên Thai.

Gặp nàng hôm trước xin nâng trấp,

Nơi “Cát Giao Hoan” mặc tỉnh say.

 

Nhớ mẹ về quê viếng ít ngày,

Cảnh xưa đổi hẳn, chẳng nh́n ai.

Ba đời qua vội, người thân vắng,

Buồn nhớ duyên Tiên, khó trở hài.

                                   Q.M

 

 

34. NGƯỜI BÁU HAY CỦA BÁU

Cạnh nước Tàu ngày xưa có Hàn là một tiểu quốc ở bên cạnh nước Sở đại bang. V́ không đủ binh hùng tướng mạnh nên nước Hàn đành chịu thuần phục cống sứ hằng năm.

Vua Hàn lấy làm âu lo và tủi nhục, đă lắm phen triệu tập quần thần vấn kế, nhưng cả quần thần không mưu chước có thể đem thi thố hầu gở nhục cho nước nhà.

Vật báu để triều cống theo lệ hàng trăm năm trong nước cũng vừa hết cạn, không có chi gọi là để tấn cống năm nầy.

Vua Hàn đang âu lo buồn bực th́ bổng có quan tiếp giá hướng dẫn một hàn sĩ vào yết kiến nói ư định dâng cho vua một kế có thể gỡ nhục triều cống hằng năm. Nghe qua Hàn Vương vội vă cho vào.

Sau khi phân ngôi thứ, Hàn vương vội hỏi: -Chắc hẳn hiền sĩ có kế ǵ hay giúp Trẫm gỡ nhục triều cống, kế ấy như thế nào, hiền sĩ có thể cho Trẫm biết được cùng chăng?

Ṿng tay thi lễ người đó tâu: -V́ thọ ơn ngọn rau tất đất, chưa gặp dịp để đền báo quân công, nay nghe được Hàn quốc phải chịu lễ cống hằng năm cho Sở quốc mà nay th́ lại hết cả châu báu ngọc ngà, biết rằng Bệ Hạ và bá quan đang trù định kế. Nếu kẻ hèn nầy dù ít học cũng xin dâng ư, xin bệ hạ cho kẻ hạ thần sang Sở Quốc một phen may ra sẽ làm cho Hàn Sở kết thân chấm dứt được nạng triều cống xưng Thần, âu cũng là điều vinh hạnh cho kẻ hèn nầy có ít công giúp nước. Nếu được chuẩn y th́ xin bệ hạ kề tai hạ thần nói nhỏ…

Nghe xong Hàn Vương lấy làm đắc ư, bèn ban sắc chỉ và định cho ngày phái sứ giả ra đi.

Ít hôm sau Hàn Sĩ lên đường tới nơi, Sở vương liền cho đ̣i vào hạch vấn: - Sao Hàn quốc năm nay trễ lệ, vậy sứ giả mang vật báu chi mang cho Sở quốc đó?

Sứ giả tấu tŕnh: -Sở dỉ mấy năm nay Hàn Quốc không trễ là v́ ngọc ngà châu báu hăy c̣n, đến nay các món ấy đều hết, chỉ c̣n các vật khác, hàng quí giá, song sợ e mẫu quốc không ưng và không nh́n là báu vật, nên phái sứ hạ đến tŕnh lên để thỉnh tôn ư.

Sở Vương bèn hỏi: -Vậy các vật báu ấy là chi nói ra cho Trẫm nghe thử.

-Tâu bệ hạ, các vật ấy nơi Hàn Quốc chúng tôi rất nhiều, mà sứ hạ sang đến đây chưa nh́n thấy mẫu quốc có các vật báu ấy. Cũng là một điều rất lạ, nếu được bệ hạ thứ tha, sứ hạ sẽ đem dâng lên làm lễ triều cấp.

Suy nghĩ giây lát Sở vương gật đầu: Được nhà ngươi cứ nói, Trẫm hứa sẽ bao dung.

Sứ giả tiếp tâu: -Kẻ hèn nầy trộm nghe từ trước đến nay, ân đức của mẫu quốc tỏa sáng khắp các tiểu quốc chư hầu, khiến cho các nơi thảy đều mến phục. Bên Hàn Quốc hiện nay cả toàn dân đều được ân chiếu cố của Sở Vương, nên trên bủa đức xuống dân, dân lấy lễ thuận ḥa mà yên sống, nhà không đóng cửa, ngoài đường chẳng lượm của rơi, mạnh không hiếp yếu, giàu không lấn nghèo, mọi người đều dùng t́nh thương, xem nhau như ruột thịt, coi nhẹ phần vật chất, xem nặng lẻ tinh thần, nên trong êm ngoài ấm, đồng tôn trọng phẩm giá lẫn nhau. Đó là những món báu mà tiểu quốc chúng tôi muốn xin trân trọng kính dâng lên cho Mẫu quốc.

Sở vương nghe tâu, dường như thấy ḿnh tự hối, ngồi trầm ngâm ra dáng suy tư, rồi từ từ nh́n từ đầu đến chân người sứ giả thiểu năo của Hàn vương, vua bèn ban huấn dụ:

-Nhà ngươi tâu rất phải, Trẫm để lời khen cho đó. Từ đây Trẫm sẽ băi hết các lệ triều cống cho các tiểu quốc lân bang. Riêng đối với nước Hàn, Trẫm sẽ hoàn lại các ngọc ngà châu báu mà mấy nay tấn cống cho Sở quốc. Trẫm sẽ lấy đức bủa xuống trăm dân các nước và Trẫm sẽ dạy cho thần dân, không tôn của báu mà làm mờ đi danh thể của con người. Trẫm ban ơn cho khanh v́ chính khanh là người khêu lại ngọn đèn của Trẫm đă bị lu mờ từ bấy lâu nay, bỏ quên đi điều ân đức./.

***

 

NGƯỜI BÁU HAY CỦA BÁU

Châu báu đâu bằng đức: Nghĩa nhân,

Hàn nay cống Sở một tinh thần.

Giàu không hiếp khó hơn mâm bạc,

Trí chẳng gh́m ngu quá đội vàng.

Ruột thịt, Sở Hàn: T́nh máu mủ,

Thuận ḥa trên dưới: Nghĩa đồng lân.

Sở Vương hủy lệ đem triều cống,

Tiểu quốc nhớ ơn kẻ giỏi bàng.

                                     Q.M

 

 

 

 35. TỀ MI VẸN ĐẠO

Mạnh Quang người đời Hớn, nhà giàu nhưng tánh nết thuần thục đoan trang, trên 30 tuổi mà kén chồng, chưa t́m người vừa ư.

Có nhiều nơi dọ hỏi nhưng nàng chẳng ưng t́nh. Cha mẹ bà con hỏi th́ nàng nói: Có chồng nếu được như Lương Hồng th́ mới lấy, bằng không sẽ ở vậy trọn đời.

Lương Hồng người thanh niên đông huyện, có đức hạnh tốt, nhưng nhà lại nghèo, không dám đèo bồng đến con nhà đài cát.

Nhưng bà con hiểu t́nh nên ép nài mới cùng Lương Hồng nhờ người đến hỏi cưới. Mạnh Quang chừng về nhà chồng vẫn c̣n ăn mặc rực rỡ, vàng ṿng chuỗi hột rất sang. Lương Hồng thấy vậy nói rằng: Tôi sở mộ lấy vợ áo bả hài gai, cùng nhau chịu cực khổ làm ăn, chớ đâu như nàng quần lượt áo là, xiêm y quí giá th́ sánh sao cùng tôi cho xứng.

Nghe chồng nói, Mạnh Quang từ đó thay lấy quần văi áo bô, bộ trâm cài lượt giắt…rồi theo chồng ra đồng làm lụng, hễ tới bữa cơm th́ nâng chén ngan mày trao cho chồng, dù ở ngoài ruộng hay ở trong nhà, Mạnh Quang cũng giữ tùng phu một mực.

Sau Lương Hồng làm quan, dưới triều Ngụy Vơ Đế, nhưng v́ quá thanh liêm nên bị bọn nịnh thần sàm tấu, vua bèn truất ra ở đất Bắc Hải, vợ chồng vẫn sống cùng nhau, trên thuận dưới ḥa giữ tṛn Đạo nghĩa.

***

 

Thương Mạnh Quang băng ngàn xe đẩy,

Tùng bước chồng chẳng thấy truân chuyên.

Thương người nặng nghĩa hơn phiền,

Đem thân bồ liễu làm thuyền độ phu.

(Trích T́nh Ái của Thất Nương)

 

 

36. VUA HIÊN VIÊN ĐẮC ĐẠO

Hiên Viên là biệt hầu của Huỳnh Đế, một vị vua trong thời cận đại của Trung Hoa, sau hai nhà vua Phục Hy và Thần Nông (Thương gọi là thời Tam Hoàng).

Theo sử ghi lại trong thời vua của Ngài là một nguơn hội thánh đức, hưởng được mưa thuận gió ḥa, trời thanh đất lịch. Trên vua bủa đức, dưới dân lấy ḷng thành, nên không có cảnh chiến tranh loạn lạc.

V́ thế mà vua Hiên Viên và Hoàng Hậu ngày đêm đến trao tánh sửa ḿnh, giữ một dạ tu chơn tích đức.

Đức Nguơn Thủy đang ở cung Ngọc Hư, Đông Côn Lôn thấy ḷng thành của vua và Hoành Hậu nên sai Quảng Thành Tử đến nơi khai tâm dạy Đạo.

Nhân một đêm trăng sáng, vua và Hoàng Hậu ra thưởng trăng nơi lầu vọng nguyệt. Quảng Thành Tử cởi mây đến kêu và dạy rằng: Ngọc Hư Cung soi thấu ḷng thành của hai ngươi nên sai ta đến đây mách cho một cách tu hành đoạt vị. Hai người phải ráng trao ḿnh cho tinh khiết sắm một đảnh hương đồng trên lầu cao khi nào cần hỏi điều chi, đốt trầm hương trong đảnh tức th́ ta sẽ đến.

Nói rồi dùng phép khai khiếu cho Vua và Hoàng Hậu và ban lời dạy Đạo…Vua và Hoàng Hậu thấy người ḿnh sáng láng lạ thường, học đâu hiểu đó, nên Đạo lư uyên thâm, thời pháp nào cũng lên thôn, thuần thục.

Một hôm Quản Thành Tử đến bảo rằng: Hai ngươi sắp đến ngày chứng quả, kể từ nay ban lịnh cho quan miễn lại trào cho tâm thanh tịnh, ít hôm nữa ta sẽ đến.

Ban hành lịnh băi chầu, văn vơ bá quan đều lấy làm lạ, nhưng chẳng dám luận bàn.

Ngày thứ hai các quan kéo đến thăm ḍ, nhưng vẫn c̣n trong ṿng bâng khuâng, kỳ lạ rồi cũng ra về.

Ngày thứ ba ai cũng sốt ruột, rồi cùng kéo vào trước chánh môn quan, vẫn thấy then cài cửa đóng, mọi người đang suy nghĩ th́ trên không trung có một luồn gió thoảng đưa hương thơm bát ngát khắp cùng đền, Kế thấy từ trên lầu cao nhà vua và Hoàng Hậu đang ngự trên lưng con Huỳnh Long bay lên cao, lần lần lẩn vào mây mất dạng.

Văn vơ bá quang nh́nh theo yểm lụy biết rằng vua và Hoàng Hậu đă đến ngày ấn chứng.

***

VUA HIÊN VIÊN ĐẮC ĐẠO

Hiên Viên Huỳnh Đế trị,

Dụng đức làm cương vị,

Nhân dân hưởng âu ca,

Kẻ nghèo thường bố thí.

 

Hoàng Hậu tánh nhu ḿ,

Hằng tưởng Đấng Từ Bi,

Lành nhỏ không bỏ qua,

Ác nhỏ đều lưu ư.

 

Hư Cung Đức Nguơn Thỉ,

Quản Thành Tử chỉ thị,

Dẩn độ cả ông bà,

Khai khiên thông chơn lư.

 

Bảy chầu thôi hội nghị,

Rảnh tâm cùng khắc kỷ,

Rồng xuống rước về Trời,

Quan quân đều trọng quí.

                            Q.M

 

 

37. NGƯỜI SỐNG HƠN ĐỐNG VÀNG (Trần Ân-Hữu Nghĩa-Lệ Du)

Trần Ân và Hữu Nghĩa là hai người bạn thân, kết giao từ thuở nhỏ, cùng theo học một thầy. Trần Ân lớn nên làm anh, cùng nhau chuyên học hành, chờ ngày kinh kỳ mở hội.

Năm đó hai anh em liều vải lên đương ứng thi. Trớ trêu Hữu Nghĩa lại rớt, Trần Ân đỗ đạt nên được nhà vua trọng dụng, bổ làm Tri Huyện.

Hữu Nghĩa buồn bả trở về và nghĩ rằng ḿnh không có số làm quan, nên nghe lời mẹ cha thành hôn cưới vợ.

Thi rớt, làm ăn chẳng được của tiền và hào con th́ than ôi mỗi năm mỗi đứa, nên gia đ́nh túng quẩn, con chẳng đủ no, nh́n trước ngó sau không phương cầm cơn giọt lệ.

Mấy ngày qua túng quá bèn đến trộm mấy ḍng khoai của một ông hào phú ở xóm trên để cho con độ nhựt. Ông bá hộ thăm vườn thấy có dấu đào mới sinh nghi, xem lại quả bị người moi trộm, nhưng lạ thay sao củ lớn c̣n mà loại nhỏ không có? Ông sai người ŕnh bắt cho đặng gian phi. Thế là đêm đó, anh Hữu Nghĩa được đưa vào tŕnh lên ông Bá Hộ.

Dọ hỏi căn do, biết v́ gia đ́nh quá nghèo mà con không c̣n ăn đủ sống, nên buộc ḷng làm trộm Đạo nuôi con, nhưng chỉ xin vài khoai loại nhỏ.

Ông Bá Hộ thương t́nh liền đem vợ chồng anh về phụ việc gia đ́nh cho ông và nuôi đàn con cho qua cơn nghèo ngặt.

Ngày kia bổng nhớ lại người xưa kết nghĩa, liền vào xin ông Phú Hộ đến thăm anh. Lâu ngày gặp nhau anh em mừng mừng tủi tủi và sau khi nghe qua cuộc đời của em có nhiều lao đao lận đận, Trần Ân liền cho dời nhà tướng số đến xem coi cho em để tường điều hung kiết.

Xem xong nhà tướng số liền lắc đầu và cho biết Hữu Nghĩa sẽ chết bắc đắc kỳ tử 3 tháng sau. Xem lại 2 lần số đều ứng hiệu như thế.

Trần Ân cảm thương em bạn vô cùng, nhưng cũng bàn suôn để chờ ứng nghiệm, trong khi giả từ anh để về nhà, Trần Ân bèn đem ra biếu cho Hữu Nghĩa một số tiền và số gấm lụa, và nói đây là của ít ḷng nhiều, em hăy tạm chi dùng trong khi túng thiếu.

Hữu Nghĩa không thể từ chối với cảm t́nh của người anh kết nghĩa ấy.

Trên đường trở lại, anh Hữu Nghĩa cũng thấy mừng trong bụng là có số vàng và của cải nầy, vợ con sẽ được dịp gây vốn làm ăn, chắc tránh được cảnh đói nghèo. Nếu một mai ḿnh có mất theo nhà tướng số nói, số phận do thiên định th́ có lo nghĩ cũng làm phiền năo thân.

Ngan qua cánh đồng, bổng gặp người đàn bà khóc bên miệng giếng, có ư than thở để quyên sinh, anh vội dừng chân kêu hỏi. Thật t́nh kể lể, tên thật của chị là Lệ Du, góa bụa, con đông nên bề sanh sống không nuôi con no đủ, không đủ can đảm nh́n con chết đói, nên t́m chước quyên sinh cho khuất mắt.

Nghe tâm sự của Lệ Du, anh Hữu Nghĩa điến cả tâm hồn, ḿnh khổ mà c̣n có chỗ nương, chị lại khổ hơn ḿnh mà không ai giúp. Nay chị kề cái chết, ḿnh không được làm ngơ, v́ chị c̣n sống được, đám con chị mới được an cư đôi phần, bằng chị chết đi th́ ai nuôi đám con dại đó. Mạng sống của chị quí hơn, ḿnh phải đem vàng giúp chị.

Nghĩ như vậy, Hữu Nghĩa liền lấy số vàng của bạn cho mà trau tay cho chị và cương quyết buộc chị phải nhận vàng nầy nuôi con.

Lệ Du như cây khô gặp nước, cám ơn người tốt bụng cứu chị hồi sinh, rồi từ giả nhau, mỗi người đuổi theo con đường định mệnh.

Về thuật lại cho vợ nghe, chị Hữu Nghĩa mừng lây v́ chồng ḿnh làm nên một việc nghĩa.

Chờ đợi 3 tháng sau, Tri Huyện cho đ̣i nhà tướng số đến và nhờ coi cho bạn Hữu Nghĩa ra sao. Giở sách coi lại bổng sửng sốt thấy số Hữu Nghĩa ứng hiệu cao hơn, mà sáng sủa về trào phúc đức. Ngạc nhiên nhà tướng số tŕnh lên Tri Huyện. Cách ít hôm sau, có người về báo là anh Hữu Nghĩa vẫn c̣n sống và thuật rơ việc cho vàng cho chị Lệ Du để Trần Ấn và nhà tướng số nghe.

Từ đó Trần Ấn bèn giúp cho Hữu Nghĩa thêm bề đèn sách để chờ hội khoa thi. Quả nhiên năm sau Hữu Nghĩa đỗ làm Tri Phủ.

Chuyện người sống hơn đống vàng, có ư khuyên ta nên v́ mạng sống của người th́ trái lại ḿnh được sống, không nên vị kỷ mà phải vị tha mới có thể cải hóa mạng căn trở về ngôi phúc đức./.

***

NGƯỜI SỐNG HƠN ĐỐNG VÀNG

(Trần Ân- Hữu Phước, Lệ Du)

 

Hữu Nghĩa, Trần Ân kết bạn nhau,

Kinh kỳ ứng thí mộng công hầu.

Ân th́ đổ đạt làm Tri Huyện,

Nghĩa rớt phận nghèo sống khổ đau.

 

Giúp bạn Ân cho một số vàng,

Đường về gặp ả rất gian nan.

Lệ Du miệng giếng toan ĺa thế,

Nghĩa bảo thương tâm tặng hết vàng.

 

Ḷng nhân Trời Phật thưởng nên quan,

Tri Phủ Nghĩa vui cảnh lạc nhàn.

Vợ ấm con no, danh lại rạng,

Gặp Ân hết thẹn phận cơ hàn.

                                    Q.M

 

 

 

38. ĐÔNG LAO – TÂY BÍCH

Hai ông không rơ sanh vào đời nào, ở đâu và có tên thật là ǵ mà chỉ nghe truyền ngôn lại là Đông Lao-Tây Bích.

Người cùng xóm nhưng ông Đông Lao nhà rất nghèo, tánh người hiền hậu, ái vật thương sanh, giữ Đạo hằng tâm, khuyên cháu con ǵn ḷng tự trọng.

Trái lại, Tây Bích nhà giàu có, trâu cả ruộng sâu, trong nhà đủ đầy kẻ ăn người ở. Tài sản sung túc, hằng năm thêm dư măi măi, nên ông mới mướn thợ lấy vàng chạm hai con rùa, cố ư khoe khoan chơi cùng hàng xóm.

Nhân ngày giỗ tổ trong gia đ́nh, ông có mời tất cả cô bác trong làng, đầu trên xóm dưới trong số đó có cả Đông Lao đến dự. Tiệc khách linh đ́nh, đăi ăn trọn ngày hôm đó.

Dự xong mỗi người đều lục tục ra về, đến tối Tay Bích mới hay là cặp rùa vàng bổng dưng biến mất. Ông băn khoăn thầm nghĩ trong đám thực khách chắc có người đánh cấp chẳng sai và kẻ đánh cấp đó phải nghèo, nên mới có ḷng tham của quí. Vă lại suốt buổi tiệc ông Đông Lao là người nghèo nhất xóm, lại hay lân la đến xem cập rùa đến mấy lần. Có lẻ ông ta lấy của ta chăng?

Sáng hôm sau, liền cho người mời ông Đông Lao đến để bàn chuyện.

Đến nơi được tiếp đăi đàn hoàn, với giọng vui tươi, Tây Bích bàn chuyện cùng Đông Lao: Từ chiều hôm qua đến nay, tôi không sao ngủ được, tưởng là cập rùa vàng của tui đă mất chẳng dè biết anh mượn về nhà xem, làm tôi cũng hết hồn, v́ trộm nghĩ lầm là của quí ḿnh bổng dưng bị mất vô lư. Hôm nay mời anh đến để bày tỏ nổi vui mưng là tôi được anh lưu ư tới cập rùa độc nhứt mà tôi có công chọn thợ giỏi chạm nên.

Cả làng nầy mà chỉ có anh là người hiểu được ư tôi, tôi mừng lắm. Anh đúng là bạn tri kỷ, vậy cứ an tâm mà để cập rùa ở nhà anh và xem chơi cho măng nhăn, chừng nào thỏa thích hăy đem hoàn lại cho tôi, không gắp ǵ.

Nghe qua lấy làm sửng sốt, ông Đông Lao làm thinh một lúc lâu, suy nghĩ: Ḿnh đâu có lấy cập rùa vàng mà anh Tây Bích nói ḿnh mượn của có lẻ ảnh hiểu lầm, hoặc nghi kị ḿnh v́ nghèo mà tham của anh chăng? Nên mới nói lời mở ư để ḿnh khỏi hổ thẹn trong việc đánh cấp nầy và dể dàng nhận chịu, rơ thật là khổ tâm. Bây giờ biết ăn nói làm sao, nếu đôi nại là ḿnh không lấy không mượn, không biết ǵ, liệu anh ta có tin ḿnh không, ấy là bởi ḿnh chưa biết tự trọng ḿnh đó vậy.

Nghĩ xong, Đông Lao liền vui vẻ nhận :

Cám ơn anh lắm, anh đă có ḷng tốt cho tôi mượn cập rùa vàng để coi bao lâu cũng được, không vội trả, thật chưa ai tốt bụng như anh. Vậy xin anh yên tâm, tôi sẽ giữ ǵn kỹ lưỡng, xem ngắm xong rồi sẽ đem trả lại cho anh, thật đây là một công tŕnh tuyệt vời của người thợ chạm.

Trong khi 2 người nói chuyện th́ từ nhà sau, đứa con trai của ông Tây Bích bước tới chào khách và thưa rằng: Thưa cha, Bác Hai đâu có mượn cập rùa của cha mà cha nói rằng Bác Hai đă mượn. C̣n Bác Hai sao không có mượn mà lại nhận với cha cháu là đă mượn cập rùa?

Tây Bích vội hỏi: vậy chớ con nói sao kỳ vậy, chớ cập rùa vàng của cha ở đâu?

-Con cất trong rương quần áo của con.

-Tại sao con lại cất dấu, mà dấu để làm chi, đâu đem ra cho cha xem.

Cậu con trai liền vào mang cập rùa ra để lên bàn và nói tiếp: Tại con thấy Bác Hai nghèo mà hay thường thường mến vật, biết tự trọng lấy ḿnh, nên con đem chuyện nầy tŕnh xin với mẹ, mẹ con bằng ḷng nên con mới lén dấu cập rùa vàng nầy định cho bác hai làm vốn.

Tây Bích nghe con nói mà lấy làm sửng sốt, ngồi nh́n châm chú ông Đông Lao một hồi rồi nói: Không phải anh là tri kỷ nhà tôi vừa nói, anh c̣n hơn thế nữa…anh quả là một người đáng kính, đáng tôn, anh đă khai sáng tâm ư tôi, cho tôi rơ đâu là lối vị tha, nào là đường vị ngă (kỹ) vợ con tôi cùng ăn ở chung một nhà mà không giống tôi, lại giúp anh. Giờ đây khi hiểu ra tôi c̣n thiết ǵ giàu sang của cải. Cái giàu của tôi không bằng cái nghèo của anh, con người của tôi lại thua anh hẳn. Vậy tôi xin làm phiền anh một lần nầy, xin anh vui  ḷng nhận là tôi sẽ tặng anh một nữa tài sản của tôi cho anh tiếp tục con đường giúp khó trợ nghèo. Riêng vợ con tôi, nhờ anh đỡ nâng dạy dỗ, tôi chỉ trông cậy vào anh để tôi có thể rảnh tâm chọn lấy con đường xuất gia tu niệm.

Đông Lăo nảy giờ đă được cởi mở một sự thật mà không c̣n biết cậy dựa lư lẻ nào, giờ này cha con Tây Bích đă phơi ra ánh sáng và nghe quyết đ́nh của Tây Bích giao lại tài sản cho ḿnh liền nói: Anh khen tặng quá lời, chớ thật th́ tôi đă có ǵ đâu và anh cũng nên bỏ lỗi cho tôi, sự nhận chịu vừa rồi cũng chỉ là muốn chiều theo tâm lư khéo léo của anh mà tôi nghĩ rằng thời gian sau cũng sẽ được ra sự thật.

Thế là ngày hôm sau người ta thấy ông Tây Bích mời ông Đông Lao đến và trao cho một số giấy tờ chuyển nhượng tài sản và ông định ngày mai sẽ lên đường qui y tam bảo.

Ông Đông Lao quá ngỡ ngàn nhưng cũng không c̣n cách nào hơn, cuối cùng đề nghị Tây Bích nên đem theo một ít bạc vàng hầu gặp phương sử dụng. Ông Tây Bích chối từ nên ngay hôm đó, ông Đông Lao cho người gói 10 đ̣n bánh tét nếp, lấy 10 thỏi vàng ṛng làm nhưng. Sáng ra đem đến giao cho ông Tây Bích, gọi là của mọn tiễn bạn lên đường.

Nghĩ là bánh thông thường nên ông Tây Bích nhận rồi từ giả vợ con và bè bạn lên đường. Ông ghé qua 10 trại ruộng của tá điền để dặn ḍ công việc làm ăn cùng ông Đông Lao chớ nên sơ thất, rồi tặng tá điền mỗi người 1 đ̣n bánh nếp của Đông Lao cho.

Nhưng trớ trêu thay! 10 đ̣n bánh tét của 10 vị tá điền không ai ăn, mà cùng bàn tính đem của mọn nầy cho ông Đông Lao gọi là mừng chủ mới. ông Đông Lao nhận bánh mà nghĩ rằng: Anh Tây Bích quả có căn tu nên tất cả hằng sản của trần, anh đều bỏ lại.

Quả vậy, sau đó Tây Bích tu hành đắc quả, độ cả vợ con, c̣n Đông Lao sau thời gian lo xong phần kư thác, ông cũng t́m vào chốn thiền môn thọ giới qui y trở thành chánh pháp.

***

ĐÔNG LAO-TÂY BÍCH

Đông Lao đúc cập rùa vàng,

Vẫn nghi Tây Bích nghèo nàn sanh tham.

Cũng nhờ con trưởng minh oan,

Kỉnh nhau v́ chỗ cao thâm tinh thần.

 

Ruộng vườn của tạm hết cần,

Giao cho Bích hưởng, Lao tầm cửa không.

Sẵn của bố thí làm nhân,

Thiền môn Bích chọn ṃ lần tầm chơn.

 

Đoạt cơ siêu thoát tâm hồn,

Bích, Lao nhẹ gót dạo đờn tri âm.

                                    Q.M

 

 

39. NGÀY TRẦM QUAN LỚN ĐI CHƠI

Không rơ ông là người sống thời nào chỉ nghe huyển tên là Trầm (mang máng người Ấn Độ), vốn là con một gia đ́nh giàu có lớn nên ông được sống rất đầy đủ vật chất, nuông chiều. Rồi cha mẹ qua đời, ông hưởng trọn gia tài của mẹ cha để lại, ông không làm chi chỉ ngao du và t́m một ít bạn bè để hiệp nhau đọc sách.

Một hôm ông đọc đến câu: “Quân, Sư, Phụ”, và nghĩ rằng: Đây chính là ba bực quyền trong xă hội và gia đ́nh.

Quân là vua, trong tay có đủ uy quyền, giàu sang danh vọng, mà uy quyền giàu sang danh vọng ḿnh đă có rồi.

Phụ là cha, uy quyền trong gia đ́nh có, giàu sang th́ chưa ắc hẳn, cái đó c̣n đ̣i hỏi ở sự rủi may trong số kiếp.

C̣n : Thầy th́ uy quyền giàu sang không bảo đảm nhưng để có phần tạo địa vị và ưu thế hơn. Nghĩ vậy ông chọn lấy nghiệp làm Thầy và từ đó ông tung tiền ra mở lớp tại nhà, qui tụ hết con em trong làng đến cho ông dạy dỗ. Ông không nhận học phí của ai, mà trái lại c̣n cho tiền sáng để ăn quà, có nhiều người nghèo lại c̣n cho luôn quần áo nữa.

Việc làm của ông trong làng ai ai cũng đều mến mộ, tiếng khắp huyện phủ đều hay, nên ai ai cũng đem con em đến cho ông dạy dỗ.

Thấy việc làm nghĩa có phần khích lệ, ông dạy bảo ǵ học tṛ cũng đều răm rắp tuân theo, trong lớp, ngoài trường, khắp xóm…đâu đâu đám trẻ cũng ngoan ngoăn và lễ phép. Cả đến mẹ cha, anh chị em cũng có cảm t́nh đặc biệt đối với ông. Tự dưng ông thấy ḷng ḿnh bổng nhiên mở rộng, t́nh thương dạt dào đối với các trẻ theo học trong làng. Các công chức cao cấp ở huyện thôn cũng thêm mến mộ, xem ông như người cha đỡ đầu cho con cháu của ḿnh.

Cứ thế mà ông đă sử dụng gần hết nữa gia tài vồn vào việc nghĩa, tiếng thấu tai quan phủ, Ngài liền thân hành đến dự chứng. Hôm ấy anh Trầm dỉ nhiên phải có mặt v́ bổn phận con dân. Sau khi tận mắt hậu tường cách hành xử của các hương chức, dân làng, từ già đến trẻ, đối với anh Trầm một mực thiết thân không sai lời đồn đăi.

Qua mấy hôm sau, quan phủ liền đ̣i anh Trầm đến phủ dường dặn hỏi: Ta đă nghe tiếng đồn về việc hành xử của anh và đă tận mắt mục kiến th́ mới biết dân làng già trẻ đối với anh thật lắm cảm t́nh thân thiết, ta lấy làm cảm mến lắm, nên mời anh đến trước đẻ làm quen với nhau, sau nhờ anh chỉ vẻ cho đôi điều yếu lược.

Anh Trầm chậm rải trả lời: Quan phủ nói quá lời, chớ thật ra tôi đâu có ǵ đáng đâu mà chỉ ư. Quan phủ cười tiếp: Anh thật là người từ tốn, chứ ta làm quan trên 30 năm rồi, nhưng ta thấy ta đang thiếu cái mà anh có. Ta không dối ḷng trên 30 năm chăn dân ta luôn được cảm t́nh kính trọng, nhưng ta chỉ c̣n thiếu một cái ǵ để cho ḷng dân thân thiết cùng ta. Cái đó ta thấy anh đang có.

Anh Trầm gật gù đáp: Quan có quyền giữ ǵn luật nước để chăn dân, nên phải nghiêm để trị, c̣n phải thanh liêm, cương trực để dân theo gương, do đó dân phải sợ để nghe theo. Do đó chỉ có kính trong mà không thân thiết. C̣n tôi không phải làm quan, nên không có quyền nghiêm và trị. Hằng ngày gặp nhau đối đăi thân thiết với t́nh nghĩa anh em, nên do đó dân thân mật với tôi mà không có uy khiếp bằng gặp nhau. Có lẻ v́ thế cái có của quan th́ tôi không có mà cái không có của quan tôi lại có chăng?

Quan phủ gật gù: Anh luận rất là tâm lư và chánh lư, nhưng ta muốn biết thế nào để có được cái có của anh?

Ông Trầm thuật cho quan Phủ nghe các việc từ đầu đến cuối, ông đă hy sinh phân nửa gia tài để làm việc nghĩa ấy.

- Nhưng bây giờ tôi không có gia sản lớn như ông Trầm th́ làm sao tôi có thể làm được các việc nghĩa như ông ?

- Nếu quan phủ không e ngại, tôi sẵn sàng nhường phân nửa gia tài c̣n lại của tôi cho quan phủ làm việc nghĩa.

Quan phủ rất ngạc nhiên, ông Trầm nói tiếp :

- Tôi dự định dùng phân nửa gia tài c̣n lại để làm việc nghĩa thôi, nếu giao cho quan phủ dùng làm việc nghĩa th́ cũng như tôi dùng, có ǵ khác đâu ?

Thế là giữa ông Trầm và Quan phủ đồng ư với nhau, ông Trầm làm tờ giấy chuyển nhượng tài sản cho Quan phủ.

Rồi danh tiếng ấy của hai ông bắt đầu từ đó đi đôi gắn liền với nhau làm một. Hễ gọi đến Ngài Trầm th́ kèm có Quan Lớn đi theo. Đám học tṛ hễ mỗi lần gặp ông đi đâu thảy đều nghiêm chỉnh cúi đầu lễ phép, miệng chúng hô to: “Ngài Trầm Quan Lớn đi chơi” và mỗi lần như vậy, chúng được tặng tiền hay quà bánh. Cho đến một hôm tiền hết sạch ông Trầm tự ra đi biệt tích, không ai biết ông đi đâu và cũng không nghe tin tức ǵ về ông cả.

Ba năm lặng lẻ trôi qua, có một người làm công quần cụt áo cùi, đi chân đất, đầu bịch khăn rằng đến trước cửa Huyện xin vào yết kiến Quan Chánh. Tên lính giữ cửa bổng giựt ḿnh, mồm há hốc nói chẳng thành câu: Ngài… Ngài Trầm…Quan Lớn ấy! tên lính kế bên nghe gọi Ngài Trầm cũng ùa chạy đến. Và tin Ngài Trầm rộng ra khắp phủ đường. Quan Phủ hay tin lật đật chạy ra niềm nở, mừng mừng tủi tủi rước vào. Sau khi hàn huyên sau ba năm cách biệt, anh Trầm chậm rải thưa: Sau khi sạch hết của tiền, tôi lẻn trốn quan phủ và bà con trôi nổi về các xứ phía Tây, rồi đến làm công cho một nông trại lớn, chuyên chăn nuôi ḅ sữa…Trong một chuyến đi buôn ngan qua huyện nầy, ông chủ tôi bị bắt về tội mua bán vàng trái phép, dưới h́nh thức trau đổi trâu ḅ, nên bà chủ trại sai tôi đến đây để thăm ḍ tin tức.

Quan Huyện gật đầu: Đúng, Huyện Đường vừa bắt một người buôn vàng lậu trá h́nh và ông ta đă công khai nh́n nhận.

Anh Trầm thản nhiên tiếp: Nếu chủ tôi đă khai nh́n sự thật th́ theo luật pháp tôi chẳng dám cầu xin. C̣n trên danh nghĩa một Huyện Quan, ông cũng không nên v́ t́nh riêng mà bỏ qua tội được. Chúng ta đă dặn ḷng lập chí thanh liêm, cương trực để ǵn phép nước cho dân…

Trong  khi hai ông tṛ chuyện th́ bên ngoài dân làng hay tin Ngài Trầm về, họ cũng lũ lược kéo đến thăm anh, và sau khi đă nghe xong nổi ḷng của Ngài Trầm và Quan Lớn, họ liền cử một số bô lăo đại diện vào góp ư trong vụ án nầy:

“Ông Phú Thương có tội mà biết nh́n nhận việc sai trái của ḿnh, ấy là người cương trực và biết tự trọng đáng khen. Ngài Trầm thấy người có tội nên không dám xin, ấy là đáng kính. Quan Lớn biết ǵn luật nước mà chẳng vị t́nh riêng ấy mới đáng tôn. Nếu làm việc ǵ mà được khen, kính, tôn th́ là việc phải. Chúng ta đại diện cho bà con dân làng trong huyện xin đưa ư kiến:

-Luật pháp là để áp dụng cho ai? Chớ đối với người biết phục thiện và những tâm hồn dào dạt t́nh thương th́ không c̣n áp dụng luật h́nh răng trị nữa. Chúng tôi đồng ḷng xin lănh tội và xin Quan tha tội cho ông Phú Thương.

Thế là t́nh thương của dân làng buộc Quan Huyện phải khoan dung để thay cho luật pháp. Về nhà ông Phú Thương quá cảm động trước t́nh thương cao đẹp của ông Trầm nên liền chuyển nhượng cho ông Trầm nữa gia tài, và từ đó cũng được dân làng các xứ phía Tây truyền nhấc./.

***

NGÀY TRẦM QUAN LỚN ĐI CHƠI

 

Chọn nghiệp làm sư để dạy tṛ,

Khai tâm hậu tấn, của tiền cho.

Ngài Trầm uy tín cùng thôn xóm,

Quan Huyện mời khen, hiệp ư lo.

 

Cạn túi, ba năm giữ mướn ḅ,

Phú Ông cậy Huyện nới tay cho.

V́ chung buôn lậu nên sa lưới,

Phép bất vị thân, Huyện đắng đo.

 

Bô Lăo trong làng đại diện dân,

Xin tha thương phú biết ăn năn.

Gia tài chia nữa choTrầm hưởng,

Huyện, Phủ, Trầm sư đáng gọi Thần.

                                       Q.M

 

 

40. PHẬT GIEO MẠ BRAHOAĐA

Đức Phật Thích Ca một hôm trên đường đi hóa trai, tay ôm b́nh bát, đến trước cửa nhà một nông dân có Đạo Bà La Môn rất giàu có tên là Brahoađa nhằm lúc ông đang thiết lễ cúng Thần Nông.

Phật dừng chân chờ chủ nhân pháp thí. Chẳng những ông Brahoada không thèm chào hỏi hoặc lễ bái để tỏ ḷng tôn kính bậc tu chơn, trái lại ông c̣n tỏ ư bất b́nh và nói lớn rằng: Lăo Thần kia, sao Lăo cứ đi ăn xin mà không chịu làm lụng. Ta nhờ cày cấy mới có cơm gạo mà ăn. Nếu Lăo chịu làm như ta th́ Lăo cũng có cơm gạo mà ăn như ta vậy. Đừng đi xin nữa chớ.

Phật cúi đầu đáp lễ và từ tốn trả lời:

-Ta cũng có cày cấy và gieo mạ, ta cũng có lúa ăn như người vậy.

Brahoada liền hỏi: Láo, dám nói Lăo là nông phu sao? Vậy chớ trâu ḅ, cày bừa và lúa giống của Lăo đâu?

Phật điềm nhiên và dẫn giải:

-Giống của ta gieo là cái “Đức Tin”.

Những việc làm là giọt nước mưa tưới cho nó tốt. Đức Minh Khiết và Tánh Khiêm Tốn là cày, sự Cố Gắn là con ḅ, cái Trí của ta là sợi dây đàn, c̣n ta cầm cán Luật Pháp . Ta cày cấy để trừ tuyệt những cỏ xấu xa của sự ảo tưởng. Lúa của ta gặt là Kiếp Trường Sinh Bất Tử nơi cơi Niết Bàn, tới được đó th́ dứt được hết phiền năo và đau đớn.

Brahoada nghe Phật giản xong liền hội ư, ông liền đổi giận làm vui, vội vàng chạy vào lấy cơm trộn với sữa đựng trong một cái dĩa bằng vàng đem ra dâng cho Phật và nói:

-Bạch Phật, cúi xin Phật hạ cố nhận lễ mọn nầy, v́ kẻ hèn ngu vừa nghe lời Phật giải mới thấy được chân lư của kiếp con người. Phải đuổi đạt cho kỳ được, tức là ḿnh đă thấy được cái giống mạ trường sanh theo như Phật giải.

Ư của kẻ hèn thuộc về vật chất, c̣n lời Phật mới là tinh thần. Gieo mạ cấy lúa có cơm ăn để nuôi phần nhục thể, c̣n truyền giản Đạo đức cũng là một cách gieo mạ cấy lúa để nuôi nấng linh hồn. Cả thảy hai đều trọng hết, nhưng phần linh hồn th́ lại trong hơn, v́ rằng xác thịt có béo th́ mạnh khỏe mà phần trí năo u ám tối tâm th́ con người ấy có ích lợi cho ai?

***

 

PHẬT GIEO MẠ BRAHOADA

 

Phàm nhân gieo mạ để nuôi thân,

Phật rải đức tin để dưỡng thần.

Cái kiếp trường sanh là láu gặt,

Thiện ḷng tỷ nước tưới cây xanh.

Cày, như minh triết khai tâm huệ,

Vàm, ấy trí tri trợ chí thành.

Diệt cỏ tŕ mê cơn ảo tưởng,

Xin ăn để chọn kẻ tâm lành.

                              Q.M

 

 

41.TÔN ĐIỆC PHẾ NHI

Ông Đặng Nho tự là Bá Đạo, làm quan nước Tấn, người thanh liêm chánh trực. lúc nhỏ sống với anh ruột thật là hài ḥa thuận thảo. Lớn lên cả hai đều lập gia đ́nh. Đến lúc ông làm quan t́nh thủ túc vẫn đậm đà khắn khít. Nhưng chẳng may vợ chồng người anh vắn số qua đời, để lại một đứa con trai mới lên hai tuổi. Ông bèn đem về nuôi dưỡng với đứa con trai của ḿnh cũng cùng trang lứa.

Cuộc sống của hai đứa bé được ông Đặng Nho san sớt đồng đều trong t́nh huyết nhục. Không có kẻ kém người hơn, v́ vậy mà hai đứa bé nầy cũng triêm nhiễm và thắm nhuần  t́nh máu mủ.

Cuộc sống êm đềm nầy rồi cũng có ngày nổi sóng. V́ giặc giả nổi lên, vua quan bị bắt, Đặng Nho và vợ con cũng đi lánh nạng. Trên đường bôn tẩu, vợ một đứa, chồng một đứa, dắt hai trẻ vượt hiểm nguy, cùng với số hành trang nên lần lần sức hơi kiệt quệ. Vợ chồng bàn luận, là chỉ c̣n khả năng bảo bọc một đứa trẻ mà thôi, so với lương khô mới mong nuôi đủ. Nhưng khổ là chẳng biết bỏ đứa nào, cháu hay con.

Cháu là đứa con duy nhứt của anh mông để truyền tự lửa hương, c̣n ḿnh th́ có thể vợ chồng c̣n sanh được nữa. Trời cho đứa khác cũng may ra. Nghĩ rồi vợ chồng Đặng Nho liền gắp rút quày quả ra đi, bỏ lại con bên đường, nén ḷng cắt ruột lo đùm bọc đứa cháu chạy tản cư.

Sau khi yên giặc tạm sống với cháu cho qua ngày, nhưng trớ trêu thay, vợ chồng Đặng Nho từ đó về sau không sanh thêm người con nào khác nữa, chỉ nhắm vào đứa cháu mà h́nh dung đứa con bạc phúc của ḿnh đă bỏ phế bên đường.

Rồi đứa cháu lần lượt theo ngày tháng lớn lên th́ vợ chồng Đặng Nho cũng theo luật thiên nhiên mà già lăo.

Đứa cháu nầy lại phụng dưỡng Chú Thiếm ḿnh cũng như cha mẹ ruột vậy./.

***

 

TÔN ĐIỆC, PHẾ NHI

Chạy loạn bỏ con, dắt cháu nuôi,

Lời anh ủy thác chẳng hề nguôi.

Đặng Nho cao thượng nêu gương rạng,

Hương lửa ḍng anh nối giỏi đời.

                                       Q.M

 

 

42. ĐÓNG ĐINH TRÊN THÁNH GIÁ CHÚA CHUỘC TỘI LOÀI NGƯỜI

Chúa giáng sinh vào đêm 24 rạng 25 tháng 12 năm 149 niên hiệu cổ La Mă (trước kỷ nguyên Tây Lịch hơn 4 năm) tại thành Bethlehem (Do Thái).

Thân phụ ông là Joseph, thân mẫu là bà Maria đều thuộc hàn thánh Vương Abraham và David. Ông và bà mới hứa hôn th́ Bà Maria tự nhiên thọ thai sinh ra Jesus. (Khoản nầy theo lời thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp th́ không phải vậy).

Trước khi Jésus ra đời, có xuất hiện nhiều điềm lạ trên trời. Vua David biết được rất lo sợ có thiên tài giáng thế, nên ra lịnh giết cả trẻ sơ sinh. Vợ chồng ông Joseph hay tin liền đi trốn. Dọc đường trời tối, đến tá túc trong một nông trại, rồi bà Maria lâm bồn trong đám cỏ, và sau khi hạ sanh lại phải bồng bế con đi biệt xứ.

Khi David chết, vợ chồng mới dắt nhau và mang Jésus về ngụ tại Najareth xứ Galiléc nơi đây Jésus sống với cha bằng nghề thợ mộc. Đến năm 30 tuổi th́ Jésus ứng khẩu khỏi sự giảng Thánh Kinh. Ngài đi thuyết cùng các xứ Galiléc, Genreth và Jésuslem. Đến đâu Ngài cũng bị đám tu sĩ ngụy biện thiên Do Thái phản đối và lập nhiều mưu kế ám hại Ngài, v́ họ cho rằng Jésus rao truyền những điều nhảm nhí mê hoặc dân chúng trái với luật lệ từ trước làm phương hại đến giáo truyền của họ.

Jésus hiểu rơ, nhưng Ngài không thể làm ngơ trước những thối nát bất công của luật lệ cũ và Ngài đă nói với tông đồ của Ngài để chuộc tội cho loài người.

Suốt thời gian Tân ước cứu thế, quả đúng như lời Ngài tiên tri trước, ngày ấy đă đến, một trong những vị tông đồ của Ngài là Juda đă ham tiền nên đă điểm chỉ bán Ngài cho tu sĩ ngụy biện thiên Do Thái. Trước khi bị bắt, Ngài dùng theo Đạo luật Moise, tổ chức ăn lễ phục sinh với các tông đồ. Ngài bẻ bánh ḿ chia cho cả người một, và lấy rượu ban cho mỗi người một ly rồi nói: Hăy nhận và ăn tất cả, đây là bánh tượng trưng thể xác của ta, rượu tượng trưng cho máu của ta, nó sẽ được rải khắp cho nhiều người chịu tội. Các ngươi hăy làm việc nầy để tưởng nhớ đến ta.

Rồi vào một đêm, Judas tên phản Ngài lănh một cơ lịnh, cùng đi với những thầy tế lễ, tất cả đều là người Xết Rôn là nơi Chúa và các Tông Đồ đang hội họp. Jésus thấy họ hỏi rằng: Các ngươi t́m ai? Họ trả lời: T́m Jésus, người Nagazeth.

Jésus lại nói: Chính ta đây. Họ liền áp đến trói Ngài và giải đến cho ông Anue (là thầy cả Thượng Phẩm đương niên). Nơi đây Ngài bị Thầy cả chất vấn Ngài về các môn đồ và về Đạo giáo. Ngài trả lời rằng: Ta thường nói rơ ràng cùng thiên hạ, ta thường dạy dỗ trong nhà hội và Đền Thờ là nơi hết thảy dân Giu-đa nhóm lại chớ ta chẳng từng nói dấu kín điều ǵ cớ sao lại gạn hỏi ta. Hăy hỏi những kẻ đă nghe ta nói, những kẻ ấy biết điều ta đă nói. Ngài nói vừa dứt lời th́ có một người thuộc Sai sóc ra đánh Ngài một vả và bắt lỗi: Ngươi dám đối đáp cùng thầy cả Thượng Phẩm dường ấy sao? Ngài b́nh tỉnh đáp: Ví thử ta nói quấy, hăy chỉ chỗ quấy cho ta xem. Nhược bằng ta nói phải, cớ sao ngươi đánh ta? Chừng trời sáng th́ Anue cho giải Ngài đến cho Filat ngồi ghế trưởng án hỏi Ngài: Chính người là dân Guida phải chăng? Ngài liền trả lời: Ngươi nói điều đó tự ư ḿnh hay là đă có người đă nói điều đó với ngươi về ta.

Filat liền nói: Nào có phải ta là người Guda đâu. Dân của ngươi cùng mấy thầy tế lễ đă nộp ngươi cho ta, vậy ngươi đă làm điều ǵ?

Ngài trả lời: Nước của ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy. Ví bằng nước ta thuộc thế gian nầy th́ tôi tớ của ta sẽ đánh trận đặng cứu ta. Nhưng hiện nay nước ta chẳng thuộc về hạ giới. Nếu thật như lời, ta là vua. Nầy v́ sao ta đă sanh, đă gián thế, ấy là để làm chứng cho lẻ thật. Hễ ai thuộc về lẻ thật th́ nghe thấy tiếng ta.

Ngài nói dứt lời th́ Filat bước ra trước cửa nói với dân Gui-da rằng: Ta chẳng thấy Jésus có tội lỗi v́ cả. Nhưng các ngươi có lệ thường, hễ Ngài lễ vượt qua th́ tha cho các người một tên tù. Vậy các người muốn ta tha cho vua dân Gui-da chăng?

Họ bèn kêu lên: Đừng tha nó, hăy tha cho tên Baraba (là tên tù tội cướp).

Bọn lính đưa một cái măo triều bằng gai đem đội lên đầu Ngài và mặc cho Ngài cái áo điều rồi có ư chế giễu: Lạy vua dân Gui-da, vừa nói vừa đánh Ngài mấy vă. Kế đó họ kêu lên: Hăy đóng đinh hắn lên cây thập tự. Đoạn họ gọi là Golgotha. Họ lột hết quần áo Ngài và lấy chia nhau hết, rồi họ đóng đinh, căng hai tay Ngài lên thập tự giá và dựng đứng cao lên, lúc đó có mẹ Ngài, chị của mẹ Ngài và một nữ môn đồ là Maric Ma đơlen đứng gần đó. Ngài kêu mẹ và chỉ Maric Ma đơlen nói rằng: Đây là con của ngươi và Ngài kêu Maric Ma đơlen và chỉ mẹ Ngài nói rằng: Đây là mẹ của ngươi. Nói rồi Ngài lại tiếp “ta khát”. Ḍm quanh không có nước chỉ có một cái b́nh đựng đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông thấm dấm cột vào cây ngưu tất đưa lên miệng Ngài, Ngài thấm giọng rồi nói: “Mọi việc ta được trọn” rồi Ngài gục đầu xuống và trúc linh hồn. Bọn lính lấy giáo đâm ngan sường Ngài, máu và nước từ trong vết thương chảy dài ra đỏ thắm.

Sau đó, môn đồ của Ngài là Joseph và Nico’s đem xác về, lấy 100 cân mộc dược hoa và lư hội, dùng vải gai và thuốc thơm gói xác Ngài lại đưa vào huyệt đá trong một ngôi vườn gần đó chôn cất.

Sáng hôm sau, Ngài sống lại và đi ra khỏi huyệt, hiện thân đến thăm các môn đồ.

Từ đó về sau nhân gian mới t́m mộ Ngài và các tông đồ mới lập thành Thiên Chúa Giáo và Jésus là giáo chủ truyền bá đến ngày nay.

 

***

Vâng lịnh vua cha đến Thái Bang,

Truyền ra Đạo Thánh rất gian nan.

Ba mươi thu lẻ chưa tṛn vẹn,

Ngàn chín trăm dư thế đă tàn.

Sắc lịnh vua cha truyền lập lại,

Vâng lời Mẫu, Tử tá phàm gian.

Thuyết đàn vạn quốc nai mai sẽ,

Phổ độ ngũ châu đặng vẹn toàn.

            Thánh giáo Chúa Jesus

 

 

43.TỬ HỮU TÁ BÁ ĐÀO-DƯƠNG GIÓC AI (Tử hữu c̣n là bạn dám cùng sanh tử với ḿnh)

Tá Bá Đào, người Tân Cương núi Tích Thạnh, cha mẹ mất sớm, một ḿnh tự lo đèn sách. Đến nước Sở, Vơ Vương có đăng bản cầu hiền bằng khoa ứng thí liền hành trang đến nơi để mưu cầu chí lập thân. Trên đường đi đến đất Ung gặp tiết đông thiên, trời sắp tối, mưa giá buốt lạnh, muốn t́m chốn ẩn thân, chợt thấy xa xa có ánh lửa liền cố gắn đến nơi xin tá túc. Gơ cứa có một người đàn ông ra mở, mời vào đó là Dương Gióc Ai, nhà rất nghèo chỉ tạm nương nhờ một túp liều tranh trong sớm thôn vắn vẻ để cố công theo đuổi việc học hành. Trong buổi sơ ngộ mà h́nh như ư hợp tâm đầu, mới cùng nhau kết nghĩa chí thân để cùng nhau t́m chỗ tiến thân lập công cùng nhơn quần xă hội. Thế rồi sáng hôm sau hai người cùng tom góp hành trang lên đường đến Sở.

Được vài ngày, gặp trời mưa tuyết như trúc, giữa đường không nơi nương tựa, tuyết càng xuống càng nhiều, Tả Bá Đào nghe thắm lạnh, nghĩ lại đường c̣n xa, lương khô sắp hết, chỉ c̣n đủ cho một người dùng đi cho đến chốn mà thôi. Tả Bá Đào liền kêu Gióc Ai và bảo rằng: Em nên đi một ḿnh, c̣n anh ở lại, Gióc Ai không bằng ḷng và nói rằng: Giữa đồng không mông quạnh, em đi mà bỏ anh lại hay sao? Nói xong d́m Bá Đào vào hóc đá núp tuyết, rồi mới đi t́m cũi về để đốt hơ lạnh cho anh. Nhưng mưa tuyết suốt mấy ngày qua đă làm cho cây ướt át, không có một món đồ bổi để đốt sưởi cho anh. Về thấy Bá Đào nằm trần cứng đơ trên tuyết, miệng phều phào nói với Gióc Ai: Anh đă già, dầu cố đi cũng không nổi nữa, v́ đă kiệt sức quá rồi, vậy em đừng bận bịu anh mà lỗi cơ hội lập chữ công danh. Bá Đào nói đến đây liền tắt thở. Gióc Ai thương thở thang khóc cho số phận của anh một hồi rồi đành đào hố lắp xác Bá Đào, lăn cây đá lắp lại làm dấu, mới quảy gối ra đi.

Đến nơi nhờ đại phu nước Sở là Bùi Trọng tiến cử, được Sở Nguơn Vương phong làm chức Trung Đại Phu. Sau khi nhậm chức Dương Gióc Ai mới đem chuyện Tả Bá Đào tâu cùng vua Sở và xin trở về mai tán cho tử tế để được trọn t́nh bằng hữu chi giao. Sở Nguơn Vương nghe qua cảm động liền truy tặng cho Tả Bá Đào vào chức Trung Đại Phu và ban thưởng lụa vàng, cho quân theo hầu để Dương Giốc Ai trở về đắp mộ.

Lặp mộ xong, Dương Gióc Ai c̣n chong đèn ngồi than thở, bổng thấy có bóng người thoáng qua lại trước bàn thờ, xem kỹ chính là Tả Bá Đào đă hiện về nói với Gióc Ai : Anh cảm nghĩa em chẳng bỏ t́nh bằng hữu, c̣n lập mộ cho anh rất trang hoàng. Nhưng đó nằm gần mộ Kinh Kha, nó đă được thành Thần rất nên oai dũng, hằng bửa nó thường tới đuổi xô anh, bảo anh phải dời đi nơi khác, không th́ phá mồ mă tan tành. Vậy em phải dời mộ em đi…

Gióc Ai giựt ḿnh tỉnh mộng, liền cho dời làng xă đến truy căn mới xác định gần đó có mộ của Kinh Kha, người thích khách Tần Thủy Hoàng bất thành nên bị giết, thây phơi nơi đồng nội nhờ có Cao Tiệm Ly cũng là bạn thiết lén lượm thây về chôn tại đây, và từ đó đến nay Thần Miếu Kinh Kha rất nên linh hiển.

Gióc Ai nghe qua liền cám ơn tất cả và cho về, xong xuôi dắt kẻ tùy tùng đến trước miếu Kinh Kha, chỉ tượng mà mắn rằng: Ngươi là một đứa thất phu ở nước Yên, thọ ơn Thái Tử nuôi dưỡng chẳng biết lấy chi mà đền ơn mới liều qua Tần làm thích khách, chẳng những không thành mà c̣n mê hoặc chúng dân, lại c̣n hiếp anh ta là một danh nho liêm sĩ. Nay ta đến bảo mi phải chừa, nếu c̣n phá khuấy th́ ta sẽ cho đào mồ phá miễu cho mi biết.

Đêm đến, cũng lại gặp Bá Đào về báo mộng nữa rằng: Em đă lo cho anh mà bộ hạ của Kinh Kha đông lắm nó không chịu nhịn, vẫn c̣n tới hiếp anh. Vậy em nên dời mộ anh đi th́ yên. Giốc Ai tỉnh dậy tức ḿnh, liền viết biểu về trào, tỏ hết uẩn khúc cho vua hay, rồi đ̣i làng xóm tới nói: Kinh Kha là bực anh tài, nếu phá mồ mă th́ gây chuyện không vui cho làng xóm. Vậy ta quyết xuống địa đàng giúp anh ta đánh loài cường nghịch. Nói rồi rút gươm tự tử…

Đêm đó, giữa canh ba, gió mưa nổi dậy, sấm sét tưng bừng, nghe tiếng hét la ngoài đất nội. Đến sáng ra, ai nấy coi lại th́ mộ Kinh Kha bể nát, xương cốt văn tứ tung, cây cối gần đó trốc gốc ngă lăng, miếu môn cháy sạch.

Từ đó Kinh Kha không c̣n linh hiển nữa, Sở Vương hay tin, sai người đến lập miếu thờ mới cho treo bản trước miễu là: “Tử Hữu Bá Đào-Dương Gióc Ai” ./.

 

TỬ HỮU TÁ BÁ ĐÀO-DƯƠNG GIÓC AI

 

Đâm cổ theo anh xuống cửu tuyền,

Gióc Ai trợ bạn chống cường quyền.

Kinh Kha ỷ thế hằng xô đuổi,

Tả Bá cô thân báo mộng huyền.

Hóa sấm phá tan mồ kẻ bạo,

Dựng bia xây đẹp mă anh hiền.

Hữu bằng nghĩa thắm gương kim cổ,

Lập miếu, Sở Vương thánh chỉ truyền.

                                        Q.M

 

 

 

 44. LÊ LỢI-LÊ LAI-LÊ LỄ

Ba người đồng chí cùng nhau phất cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn (Thanh Hóa) vào năm 1418 để chống lại quân Minh (Trung Quốc) đang cai trị hà khắc dân ta.

Lúc đầu v́ binh ít thế cô, lại bị nội phản nên Lê Lợi phải bỏ Lam Sơn rút về núi Chí Linh. Đa số trong đồng đội cũng như Lê Lợi đều phải bỏ gia đ́nh, để lại mẹ cha, vợ con cùng các người thân, v́ thế mà trong số người nầy có khi bị bắt, có người bị giết. Nhưng v́ t́nh trạng cấp bách và khẩn trương, các nghĩa quân đều phải cắn răng chịu đựng, rồi chỉ c̣n nung chí nén ḷng chờ đợi, hoặc tùy thời cơ mà t́m cách rước đi.

Thời gian trôi qua, sau khi án định mọi việc pḥng thủ vừa xong th́ cũng vừa hay tin vùng gia đ́nh của phần đông nghĩa quân bị quân Minh đến bao vây và tàn hại, v́ họ là những thân nhân của nghĩa quân khán chiến. Lê Lợi liền biệt sai Lê Lễ t́m cách giả đi trở về rước gia đ́nh và thân quyến.

Lê Lễ vâng lịnh về đến nơi, t́m gặp đủ mặt mẹ, vợ và chị dâu. Ông tŕnh qua tự sự với tánh cách khẩn trương, khiến mọi người phải thu xếp hành trang để lên đường cần kíp.

Nhưng cao cả thay, cả ba đều nhứt thiết chối từ, v́ nghỉ rằng nếu có về sơn trại th́ chỉ làm bận ḷng thêm cho người chiến sĩ. Hai nữa trên đường đi, chưa chắc qua lọt màng lưới bố pḥng của quân Minh.

Đang bàn tính chưa nhứt thiết về việc gọi đi người không thuận th́ quân Minh tràn tới nơi, dân chúng đang xôn xao lo chạy giặc, Lê Lễ vội vàng thúc giục. Nhưng can trường thay, mẹ vợ và chị dâu nhanh tay rút dao tự sát để khỏi ảnh hưởng đến việc ra đi của ông. Quá bất ngờ nên Lê Lễ chỉ chứng kiến mà không kịp hành động ngăn cản, nên cùng vợ đào vội lớp đất lắp xác mẹ vợ và chị dâu. Xong ông hối hả vợ lên lưng ngựa thoát chạy về hướng Chí Linh. Trước mặt Lê Lễ hiện giờ nào là quân Minh ó ré ngăn cản đường về, nào là dân chúng dắt mẹ bồng con t́m đường lánh nạn.

  Suốt đêm chạy quanh không nghỉ, vừa tờ mờ sáng lại thấy quân đồn trại, tả binh ó, hữu tướng ḥ reo, vô phương tấn thối, bèn quyết định xông lướt qua đồng. Bổng nghe phía sau có tiếng kêu cương quyết: “Thiếp đă tṛn bổn phận với chàng, theo chồng gần suốt quản đường, đến đây vật người đều thấm mệt, chàng cần một người một ngựa mới có thể thoát thân, vậy xin vĩnh biệt”.

Lê Lễ quai nh́n lại th́ kịp thấy người vợ hiền nhanh tay đưa dao vào cổ tự vẫn để cho chồng rảnh phận lo đến việc nghĩa binh. Lê Lễ đau đớn nh́n xác người vợ hiền lần mờ khuất theo bụi đường cát trắng…qua tiếng gió ngựa vượt trùng vây.

Lê Lợi đuổi quân Minh đem chủ quyền cho dân tộc, bên cạnh đó, người ta cũng nhớ ơn tiết liệt của ba người : Mẹ vợ của Lê Lợi, vợ của Lê Lợi và vợ của Lê Lễ./.

***

 

          LÊ LỢI-LÊ LAI- LÊ LỄ

 

Lam Sơn khởi nghĩa sử vàng ghi,

Lê Lợi đuổi Minh dựng Việt Kỳ.

Dân chúng âu ca mừng giải thoát,

Riêng vua buồn vợ đă sanh ly.

Lê Lai tôi dũng đền ơn chúa,

Lê Lễ vợ hiền thác trọn ngh́.

Nhạc Mẫu không nh́n ngày chiến thắng,

Kề bên hỷ lạc có ai bi.

                                    Q.M

 

 

45. PHẬT DẠY RA HẦU LA

Ra Hầu La là con trai của Thái Tử Sĩ Đạt Ta. Khi Thái Tử xuất thành đi tu th́ Ra Hầu La c̣n nhỏ đến chừng đoạt chứng Phật vị mới trở về độ Ra Hầu La. V́ tuổi trẻ tính nết chưa thuần và chưa biết triêm nhiễm Đạo lư, Đức Phật cho Ra Hầu La ở riêng một tịnh xá cách Phật rất xa để cho Ra Hầu La tu sửa và tập phép cẩn ngôn.

Một hôm Phật đến thăm, Ra Hầu La vô cùng mùng rỡ. Phật dạy Ra Hầu La mút một chậu nước cho Phật rửa chân, khi rửa xong, Phật nh́n Ra Hầu La hỏi: Nầy con, nước nầy bây giờ uống đặng chăng?

Đáp: Bạch Phật nước đó dơ uống không được.

Phật liền nói: Vậy th́ con hăy suy xét tánh hạnh của con. Con là cháu nội của một vị Hoàng Đế, con đă phát nguyện tu hành, nhưng con chưa trừ được tật nói dối th́ nó sẽ làm cho cái trí của con xấu xa.

Đoạn Phật dạy đỗ hết nước trong chậu, rồi hỏi: Cái chậu bây giờ đựng nước uống đặng chăng? Ra Hầu La thưa: Dạ không được.

Phật bèn thuyết tiếp: Vậy th́ con hăy suy xét cách ăn nói của con, người mang phủ áo cà sa mà trong tâm c̣n nhơ bợn, cũng như cái chậu nầy, th́ con làm sao suy tính được cái chuyện thanh cao.

Nói xong, Phật đưa tay cầm cái chậu dở lên cao xoay qua xoay lại rồ hỏi: Con có sợ nó rớt bể chăng?

Đáp: Dạ không, v́ nó rẻ tiền lắm, cho dù có bể cũng không tốn bao nhiêu.

Phật thuyết tiếp: Vậy con nên xét lại phần của con; con mắc vào ḍng luân hồi vô cùng tận, cái xác của con và mọi vật trên đời nầy cùng làm bằng một chất, chẳng chống th́ chày, cả thảy đều tan ra tro bụi. Vậy th́ thân con dù có chết mất con cũng đừng thèm tiếc, v́ dù có rẻ hay mắc th́ cũng chỉ tan biến mà thôi. Con không nên giữ ǵn nó quá mà càn nên lo cho tư tưởng của con giống như câu chuyện sau đây.

 Đức Phật vừa nói vừa kể tiếp chuyện: Ngày xưa, có ông kia có một con voi vô cùng mạnh mẻ. Một ḿnh nó cự nổi cả 100 con voi khác. Lúc ra trận người ta cột thêm trong cập ngà nó cập gươm báu, hai vai mang thêm hai cây đao, 4 chân dắt 4 cây thương, c̣n sau đuôi đeo một cây côn sắt. Thằng nài voi thấy vậy rất thích. Nhưng nó cũng biết rằng, con voi nếu bị một mũi tên nơi ṿi th́ ắt phải chết, nên cố tập cho con voi, khi ra trận cứ cuốn cái ṿi đưa lên cao. Một hôm trong lúc xung trận, con voi dùng ṿi giựt lấy một cây gươm, thằng nài thất kinh về tâu tự sự. Ông vua nó mới nhất định nói với nài là không cho nó ra trận nữa.

Ra Hầu La con ơi! Nếu thiên hạ biết cẩn ngôn, cẩn hạnh th́ mọi việc đều được an ḷng. Vậy th́ con phải giữ ǵn lời nói của con như ông vua và thằng nài ǵn giữa cái ṿi của con voi, không cho bị tên bắn đó vậy.

Tóm lai, người nào thật ái mộ chơn lư th́ suốt đời không làm việc bất công và trong ḷng luôn giữ ḷng chánh trực.

Ra Hầu La nghe qua suy nghĩ, và từ đó về sau cố gắn tu sửa thâm tâm, không c̣n bị rầy quở nữa.

***

PHẬT DẠY RA HẦU LA

Có ai uống nước rửa bao giờ?

La Hán tâm thanh chẳng bợn nhơ.

Tư tưởng cao siêu b́ ngọc quí,

Xác thân ô trượt ví b́nh dơ.

Ṿi voi c̣n kỵ tên đâm thủng,

Ư chí hằng ngừa dối đuổi xô.

Phật dạy Hầu La nơi Tịnh Xá,

Xét ḿnh hằng bửa, tuổi không chờ.

                                      Q.M

 

 

 

 

 

 

46. LẤY  ÂN BÁO OÁN

Nhận thấy các Thầy săi trong hội Tăng Già (Sangha) có việc bất ḥa với nhau tách ra hai phái không ai nh́n nhận ai. Đức Thích Ca thấy vậy bèn thuật sự tích của một vị Thái Tử tên Điệc Gadu như sau:

Ngày xưa, Hoàng Đế Cô Xa La tên Điệc Cô Ty bị vua Caxi là. Baramadata chiếm đoạt Coxala quốc. Bị mất nước, nhà vua giả dạng một thầy tu dắt vợ qua ẩn náo nơi thành Benaret. Ẩn được ít lâu, bà Hoàng Hậu lâm bồn sanh đặng một con trai đặt tên là Điệc Ga Du (nghĩa là trường thọ).

Điệc Ga Du lớn lên theo năm tháng, tính t́nh phóng khoán mẫn đạt thông minh. Hai người sợ ở đây lâu ngày bị lộ mà mang hại, bèn dạy Điệc Ga Du lẫn tránh một nơi khác. Qủa nhiên sau đó ít lâu th́ vợ chồng nhà vua bị một quan cận thần khi trước nh́n gặp, nên đi tố giác. Baramadata hay bèn truyền lệnh bắt hai vợ chồng Cô Ty, dẫn đi khắp kinh thành cho dân chúng thấy rồi đem ra ngọ môn xử phân thây.

Cùng ngày ấy, trên đường về thăm cha mẹ, Điệc Ga Du nghe tin chẳng lành, bèn giả dạng trà trộn theo đám đông nom đến pháp trường. Vua Cô Ty thấy con động ḷng xa nước mắt, nhưng cố gắn giữ ǵn cử chỉ, sợ e sẽ hại cho con. Nhà vua bèn dai mặt sang bên khác và cố nói lớn lên rằng:

-Điệc Ga Du con ơi! Con đừng ngó xa lắm, mà cũng đừng ngó gần lắm, chẳng phải lấy oán trả oán mà oán đó tiêu, phải lấy ân đáp oán, oán kia mới dứt.

Thế rồi hồi chuông linh báo hành, Điệc Ga Du gan ruột tơi bời nh́n hai đấng sinh thành phải bị phân thây, mà bổn phận làm con đành trơ mắt ngó. Sau đó trốn vào rừng t́m cách báo thù.

Thái Tử thay thân đổi dạng ra thành xin làm nài chăng coi cho nhà vua. Rồi nhờ có âm giọng tốt, đờn hay, ca giỏi, tiếng đồn tới tai vua mới đ̣i vào ca hát và cho hầu cận bên ḿnh cả việc giúp vui trong cung cấm.

Một hôm theo vua đi săn, các quan v́ say mê theo thú. Măi miết chạy đuổi theo mồi mà quên vua ở lại một ḿnh với Điệc Ga Du. Bởi đường xa mệt mơi nhà vua liền ngă ḿnh kê đầu lên vế Điệc Ga Du ngủ một giấc ngon lành.

Khi vua say ngủ, Điệc Ga Du nghĩ rằng cơ hội báo thù đă đến lúc thi hành, vậy ta phải chém đầu lăo vua già độc ác nầy để báo thù cho cha mẹ. Nghĩ xong, bèn rút gươm định xuống tay, th́ lạ thay người lại nhớ lời vua cha căn dặn lúc ở pháp trường: “Con đừng ngó xa lắm, đừng ngó gần lắm, chẳng phải lấy oán trả oán mà oán nó mới tiêu, mà nên lấy ân trả oán, oán kia mới dứt.”

Bất giác Điệc Ga Du tra gươm vào vỏ, nhưng với kẻ thù giết cha, tâm trạng ông lại bừng sôi, lại rút gươm khỏi vỏ để thi hành ư định, nhưng lại cũng nghe lời cha văng vẳng dặn bảo bên tai. Thế là sau 3 lần rút gươm định giết kẻ thù th́ Điệc Ga Du cũng ba lần tra gươm vào vỏ.

C̣n  Baramadata trong giấc ngủ say, lại chiêm bao thấy tên hầu cận muốn giết ḿnh; nhà vua hoảng kinh bàn hoàng tỉnh giấc. Lúc ấy Điệc Ga Du bèn rút gươm ra khỏi vỏ đứng phắt dậy nói rằng: “Ta là Thái Tử Điệc Ga Du, con của Hoàng Để Điệc Cô Ty xứ Cô Xa La đây. Khi trước ngươi chiếm đoạt gian san của của dân ta, c̣n bắt giết cả cha mẹ ta, ngày nay thiện ác đáo đầu, ta phải chém đầu ngươi để rửa hồn báo oan.

Vua  Baramadata thất thế, tay chơn bủn rủn bèn qú xuống mà nói rằng: “Xin Thái Tử nhiêu dung tánh mạng cho tôi v́ mọi việc đă lở rồi”.

Thái Tử nói: “Không phải ta tha cho ngươi mà chính ngươi tha cho ta mới phải.”

Vua Baramadata vội nói: “Vậy th́ Ngài hăy tha tôi trước, rồi ta sẽ tha cho Ngài sau”.

Điệc Ga Du từ từ tra gươm vào vỏ, nhà vua tỉnh hồn mới hỏi: “Tại sao Thái Tử không giết Trẫm trong khi giấc ngủ đang nồng?”

Thái Tử trả lời: “Tâu bệ hạ, v́ khi thác cha tôi có dặn ba điều:

Con đừng ngó xa lắm,

Con đừng ngó gần lắm,

Chẳng phải lấy oán báo oán mà oán kia đặng dứt, mà phải lấy ân đáp oán, oán mới tiêu.

Vua hỏi 3 câu đó có ư nghĩa ǵ?

Thái Tử trả lời:

-Đừng nên ngó xa lắm là dặn đừng chuốc oán cho lâu ngày.

-Đừng nên ngó gần lắm là dặn tôi đừng vội dứt t́nh bằng hữu.

-C̣n câu thứ ba là bệ hạ đă sát hại cha mẹ tôi, nếu bây giờ tôi giết bệ hạ, th́ sau nầy bầy tôi trung nghĩa của bệ hạ sẽ báo cừu đối với tôi nữa…cứ luân chuyển chác hận cùng nhau, cha truyền con nối. C̣n ngày nay bệ hạ tha tánh mạng cho tôi, tôi không giết bệ hạ, th́ thù oán ngày kia xem như đă dứt.

Nhà vua bất giác gật đầu, khen lấy khen để và cho là một việc hành xử thật lạ lùng mà chỉ có Thái Tử Điệc Ga Du thông minh mới hiểu và làm theo lời vua cha truyền dạy.

Nhà vua nắm chặt tay Điệc Ga Du trong niềm cảm mến.

Sau đó trở lại hoàn cung, liền ra sắc chỉ trả lại đất đai thành lũy, binh lính khí giới, kho tàng mà nhà vua đă chiếm đoạt trước đây và đồng thời cho thiết lễ long trọng tôn vinh cho Thái Tử Điệc Ga Du lên ngôi thay cha trị v́ xứ Cô Xa La như trước, và gă công chúa cho Điệc Ga Du.

***

LẤY ÂN BÁO OÁN

Lấy ân báo oán, oán càng tiêu,

Ngược lại, oan khiên chát buộc nhiều.

Chớ hận lâu ngày ḷng hỷ xả,

Trải thương tức khắc đức dung nhiêu.

Giữ t́nh bằng hữu theo thiên ư,

Bền nghĩa đồng sanh hợp Thánh điều.

Tích “Diệc Ga Du” tha bạo chúa,

Chữ Ḥa Phật dạy lư thâm siêu.

                                        Q.M

 

 

47. LINH SƠN TỰ CA DIẾP ĐOẠT SIÊU PHÁP của Đức Thích Ca truyền đạt

Sau khi thành Đạo dưới cội bồ đề, đức Thích Ca bèn vận chuyển pháp luân suốt 49 năm trong xứ Ấn Độ.

Tùy theo căn cơ của chúng sanh mà Ngài phân ra 2 cách dạy Đạo.

1.Cách thứ nhứt dùng tâm khẩu tương truyền áp dụng cho hay người trí hóa, c̣n thấp kém cần có một phương tiện trước mắt để dẫn dụ đức tin.

2.Cách thứ hai dùng tâm pháp bí truyền áp dụng cho người có trí độ cao thâm để mà độ dẩn.

Một hôm, nhơn ngày đại hội tại chùa Linh Thiếu Sơn trước đông tăng chúng, Phật đăng đàng thuyết pháp. Tuy gọi là thuyết pháp, chớ kỳ thật Ngài không dùng lời như mọi lúc. Ngài đưa mắt nh́n qua một lượt khắp chư tăng, rồi Ngài cầm một bông sen đưa lên cao, mắt lim dim thiền định. Một lát sau, Ngài mở mắt nh́n lướt qua một ṿng đám tăng chúng. Bây giờ Ngài thấy cả thảy đều lặng thinh, nét mặt mọi người đều nghiêm tỉnh, duy có một ḿnh Ca Diếp Tôn Giả lại lộ vẻ tinh tấn, miệng cười chum chím vui tươi. Ngài liền trịnh trọng nói:

-Ta có chánh pháp nhăn tàng, Niết Bàn diệu tâm, thật tưởng mà không tưởng, ấy là pháp môn vi diệu, không có lặp văn tự và truyền ở ngoài các giáo lư. Nay ta truyền cho đại Ca Diếp.

Từ đó Ca Diếp đặng tâm ấn của Phật và làm Tổ Thứ Nhứt phái Thiền Tông bên Ấn Độ. Pháp môn nầy truyền tới Tổ thứ hai mươi tám (28) tức là Bồ Đề Đạt Ma tức là vị Tổ Bảo Trung Quốc. Rồi từ vị sơ tổ nầy truyền xuống tới vị Lục Tổ là Huệ Năng là dứt.

Phần ư nghĩa:

Theo ư Tôn Giả Ca Diếp, khi nh́n thấy Phật đưa bông sen lên mà không nói, Ca Diếp liền cười cũng không nói, ấy là ông đă thấy cái tâm đức chánh pháp của Phật, nó ẩn tàn sâu kín và vi diệu ở bên trong, tuy có tượng mà không có tướng. Bông sen là biểu hiện của Tâm, sự yên lặng là biểu hiện của Pháp. Tâm với Pháp tuy có mà không, tuy không mà có. Ca Diếp đă biết đem nhân với tâm phối hợp mà tương ứng nhau.

Thần quang từ mắt phát dụng, mà thần quang tức là linh quang của Tư Tánh, nó vốn ở nơi bổn tâm. Đem thần quang phối hiệp với tâm th́ tâm được quang minh tư tại. C̣n nếu đem thần quang vọng phát ra ngoài nhiễm lấy trần cảnh th́ tâm bị vọng động hôn mê.

Ca Diếp dùng mắt xem tâm, thâu thần nơi con mắt khiến nó trở về tâm khiếu, gọi là phép hồi quan phản chiếu, hay là phản bổn huờn nguyên ấy là chánh chỗ bí quyết về tâm không vô chấp vậy.

Phật đưa bông sen lên, mà kỳ thật không phải là bông sen, ấy là Ngài đưa cái tâm duy nhất lên cho tăng chúng thấy. Thế mà cả tăng chúng chỉ thấy bông sen. Trái lại Ca Diếp, mắt nh́n bông sen, không thấy bông sen mà chỉ thấy tâm duy nhứt, tức là Ca Diếp đă quáng thông được chỗ vi diệu chánh pháp của Phật, không bị tượng bông sen án mắt nên đạt được tâm ấn bí truyền làm Nhứt Tổ Tây Thiên Trước (Ấn Độ).

***

CA DIẾP ĐOẠT ĐẠO

“Tâm  pháp khẩu truyền” độ chúng dân,

“Bí truyền tâm pháp” dẫn siêu nhân.

Bông sen, tiêu biểu tâm trong sạch,

Yên lặng, tượng trưng phép nhăn tàng.

Phân bổn huờn nguyên tâm chẳng chấp,

“Hồi quang phản chiếu” mắt thâu thần.

“Bí truyền tâm ấn” về Ca Diếp,

Măi đến Huệ Năng dứt Phật Tông.

                                           Q.M

 

 

48. ĐẬU YÊN SƠN HỮU NHÂN NGHĨA

Đậu Yên Sơn tên thật là Đậu Vơ Quân, đời Ngũ Đại, người tỉnh Yên Sơn, nên gọi là Đậu Yên Sơn.

Tánh t́nh phóng khoáng, thanh liêm nhà nghèo, chỉ lo sanh phương làm ăn độ nhựt. V́ không con nên mới lên chùa Diên Thọ cầu tự.

Giữa đường gặp một túi vàng của ai đánh rơi, bèn lượm rồi hỏi thăm nơi thôn xóm t́m chủ mà trả lại. Ḷng ngay thẳng động đến Thượng Đế cho sống thêm hai kỷ nữa và cho sanh được 5 con trai.

Đêm kia, Đậu Yên Sở nằm mộng thấy hồn cha về mách bảo, dạy phải ăn ở nhơn đức, như vậy th́ về sau 5 con sẽ nên danh phận.

Đậu Yên Sở chí quyết nghe theo.

Hai vợ chồng một mực lấy nhơn nghĩa ở đời, dùng Đạo đức dạy dỗ con cái.

Quả nhiên sau khi khôn lớn, 5 người con ông học hành mẫn đạt, giúp nên cho đời nên người bấy giờ có danh tặng là: “YÊN SƠN NGŨ QUẾ”

Có nghĩa là tỉnh Yên Sơn có 5 cây quế, hương thơm bay bát ngát.

 

***

ĐẬU YÊN SƠN HỮU NHƠN NGHĨA

Lượm vàng đem trả thế gian khen,

Hai kỷ Trời ban, thọ chẳng hèn.

Dụng đức dạy con, đời biết họ,

Rải nhân giúp chúng, sử bia tên.

Yên Sơn Ngũ Quế ḷng phơi gấm,

Ngũ Đại Vô Quân chí trổ sen.

Ngọc trắng vùi bùn không lợt sắc,

Thánh tâm quân tử chẳng hề lem.

                                    Q.M

 

 

 

 49. HỒ HỶ MỴ THỬ QUẺ KHƯƠNG TỬ NHA

Đời Phong Thần, v́ Trụ Vương đấm mê tửu sắc, nên Hồ Ly Tinh được lịnh Bà Nữ Oa xuống núi mượn xác Đắc Kỷ nhập vào rồi kết duyên cùng vua Trụ để khuấy phá cơ nghiệp nhà Thương cho tiêu mạt. Trong mấy chị em Hồ Ly Tinh có Ngọc Thạch Tỳ Bà, vốn là cây đờn tỳ bà thọ khí âm dương lâu năm mà thành biến h́nh tên Ngọc Mỹ Nhơn, tu luyện nơi mă Huỳnh Đế về phía nam thành Triều Ca. Thường xuất hồn qua lại thăm Đắc Kỷ trong triều, ban ngày hiện h́nh thành một cô gái đẹp đờn ca xướng hát trên lầu, ban đêm hiện h́nh yêu quái bắt cung nga ăn thịt rồi quăn xương bên mé ao Thái Hồ lểnh nghểnh.

Một sáng kia, sau khi no say thịt của đoàn cung nữ, Tỳ Bà Tinh mới biến h́nh bay về động. Khi đi ngan qua cửa phố của Tử Nha thấy người coi đông nghẹt (Lúc Tử Nha chưa gặp vận nên làm thầy bói coi ngoài chợ). Nó liền định bụng ghé xem một quẻ, liền hóa h́nh một người đàn bà mặc đồ tang chen lấn bước vào. Tử Nha xem thấy có yêu khí hiện lên trên mặt liền nghĩ rằng: Đồ quỉ, khi ta làn con mắt nên mới đến thử ta như vầy, nay gặp yêu không trừ, c̣n đợi chừng nào nữa. Nghĩ rồi bèn nói rằng: Xin các ông miễn chấp cho, v́ gái trai không lẻ đứng gần nhau lâu, để tôi coi trước cho Thiếm nầy, các ông ráng chờ một chút.

Mọi người nghe nói vậy liền tránh ra. Tỳ Bà Tinh vội bước vào ngồi xuống. Tử Nha bảo: Thiếm đưa bàn tay mặt coi thử. Tỳ Bà Tinh hỏi lại: Thầy vốn là bói số lại biết coi tướng nữa sao?

Tử Nha trả lời: Tướng coi trước cho rành, số nói sau mới kỹ.

Tỳ Bà Tinh cười thầm trong bụng chê Tử Nha chẳng biết ḿnh là ai, bèn x̣e tay cho Tử Nha xem tướng. Tử Nha vội nắm cườm tay, bấm vào nơi bộ mạch làm phép cầm lại v́ sợ nó biến đi. Tỳ Bà Tinh thấy Tử Nha bấm lâu quá, liền hỏi: Thầy không coi, không nói ǵ, sao nắm cườm tay tôi măi vậy, nếu không buôn ra kẻo thiên hạ cười chê đó.

Mấy người chung quanh thấy việc kỳ cũng tỏ ư bất b́nh. Tử Nha liền nói: Nó không phải là đàn bà con gái ǵ đâu mà vốn thiệt yêu tinh, nếu thả ra th́ nó biến mất, để tôi bất nó trụ h́nh cho bà con coi thử.

Nói rồi ḍm qua ḍm lại thấy trên bàn có cái b́nh mực liền lấy đánh vào đầu người đàn bà chết mà tay vẫn bấm mạch không buông. Thiên hạ không hiểu được, thấy chuyện bất b́nh cũng la lên rằng: Tử Nha giết người gây án mạng.

Lúc ấy có quan Thừa Tướng Tỷ Can đi ngan qua nghe việc bèn truyền bắt Tử Nha. Tử Nha vẫn không buông tay mà cứ kéo xác người đàn bà theo đến trước Tỷ Can phân bài tự sự. Tỷ Can bèn đưa cả nội vụ về Triều Ca báo tŕnh lên Trụ Vương. Nghe tâu chuyện lạ vua Trụ bèn bước ra lầu mà xem và cho phép Tử Nha làm sao cho hiện nguyên h́nh, bằng không vậy th́ giết người kia phải đền mạng nọ.

Tử Nha xin quân đem cũi lữa rồi nổi lên mà đốt. Tử Nha vẽ bùa trên xoáy đầu, họa trước ngực, làm phép sau lưng, đọc thần chú rồi quăn xác Tỳ Bà Tinh vào đóng lữa, đốt cả hai tiếng đồng hồ mà vẫn không cháy. Vua quan ai nấy đều thất kinh. Tử Nha bèn dùng lửa Tam Muội trong con mắt, lỗ mũi, miệng phung ra. Lửa phừng lên, Tỳ Bà Tinh lồm cồm ngồi dậy nói lớn rằng: Ta không cừu oán với ngươi, nở nào ngươi lấy lửa thần thiêu xác ta. Tử Nha liền la lớn lên: Xin Bệ Hạ và các quan vào trong kẻo có sấm nổ. Nói rồi hai tay vỗ lại nghe tiếng sét vang trời dậy đất, lửa khói mịt mù.

Đến chừng tắt lửa khói tan th́ xác ấy hóa thành cây đàn tỳ bà bằng ngọc thạch. Đắc Kỷ nh́n thấy cây đàn biết em ḿnh, giận lắm và khuyên lấy đem cất trong cung, giả vờ khen Tử Nha và tâu cùng Trụ Vương xin phong chức Tư Mă Giám để chờ ngày phục hận.

Rồi đến một ngày kia Đắc Kỷ trao cho Trụ Vương một bức sơ đồ vẽ h́nh lộc đài cao 49 thước, cột vàng, kèo bạc, nạm ngọc, gắn châu và khiến đ̣i Tử Nha vào lo việc xây cất.

Tử Nha bèn chê là tốn công hao của nên bị Trụ Vương ra lịnh phân thây.

Tử Nha liền nhảy lầu Trích Tinh mang theo họa đồ quái ác nọ. Quân binh ồ ạt đuổi theo đến cầu Cửu Long bèn co chân nhảy xuống sông để phất phơ sơ đồ của vua Trụ. Quan binh của Trụ Vương tin rằng Tử Nha đă chết ch́m dưới đáy sông sâu. Có dè đâu, ông tỵ thủy trở về xứ cũ, sau nầy lănh ấn Phong Thần./.

***

HỒ HỈ MỴ THỬ QUẺ KHƯƠNG TỬ NHA

 

Bói xem một quẻ thử Thầy chơi,

Khương Tử nh́n yêu, mắt chẳng rời.

Nghiên mực đập đầu Hồ Mỵ thác,

Tỷ Can tŕnh thẳng đến vua coi.

 

Quân đem lửa cũi đốt không tan,

Tam muội hỏa phung xác mới tàn.

Ngọc Thạch Tỳ Bà nguyên chất hiện,

Phép màu kinh ngạc lẫn Vua Quan.

 

Đắc Kỷ nh́n em uất hận ngầm,

Phong “Tư Mă Giám” báo thù thăm.

Tử Nha tỵ thủy về quê cũ,

Lănh ấn Phong Thần cứu vạn dâng.

                                           Q.M

 

                          ***

Thung dung băi hạc một cần cân,

Chẳng nhắp công khanh cũng nhấp hầu.

Ḍng bích rạng soi gương trí huệ,

Thuyền nhân đầy chở phép linh mầu.

Thanh nhàn đă sẵn bầu phong nguyệt,

Vinh nhục màng chi cuộc bể dâu.

Thoát tục cánh buồm êm lượng sóng,

Kinh luân thao lược  mặc dầu thâu.

              Thánh Giáo Khương Tử Nha

 

                         ***

Thương đến chốn, gọi rừng trước tử,

Chứa hiền xưa đặng giữ Đạo Trời.

Khương Công Ngư Phủ dầm khơi,

Đ̣ nhơn rước khách lập đời an nguy.

(Trích bài T́nh Ái của Thất Nương)

 

 

50. TỐNG HOẰNG CHÍ TRƯỢNG PHU

Vua Quang Vơ có người em gái tên là Hồ Dương Công Chúa (Chồng chết sớm).

Quang Vơ thấy em ḿnh c̣n trẻ mà phải góa chồng mới thương t́nh ướm hỏi: Em xem trong trào ai vừa ư, anh sẽ giúp đỡ dùm cho.

Hồ Dương thấy anh có ư thương ḿnh trong t́nh ruột thịt nên không ngần ngại tâu rằng: Trong trào vương Huynh coi có ai oai nghi mà lễ phép như Tống Hoằng th́ em mới vừa dạ.

Nghe em nói, Quang Vơ trong bụng mừng thầm nhưng c̣n do dự, bởi Tống Hoằng cũng là một đại thần và đang có vợ.

Một hôm vua mới t́m hỏi thăm gia thế Tống Hoằng để xem sao rồi định liệu. Được  người bạn của Tống Hoằng cho biết vợ của Tống Hoằng xấu xí lại mù mắt, hằng ngày sau khi ở trào về Tống Hoằng vừa cùng chung vừa ăn vừa đút cơm cho vợ.

Vua nghe tự sự lại mừng thêm có ư khen và nghĩ rằng: Nếu em ta được về đó th́ sẽ giúp cho Tống Hoằng nhiều lắm vậy. Rồi chờ đợi cho đến một hôm thấy Tống Hoằng vui vẻ mới đ̣i vào hỏi thử rằng: Trẫm thường nghe nói “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ”  và cũng thường nghe “Có chồng phải sửa túi nâng khăng đỡ đầu giúp lo nội trợ” vậy ư khanh tưởng sao?

Tống Hoằng vội tấu bày: Thần cũng lại được nghe thiên hạ thường nói “Tào khang chi thể bất khả hạ đường, bần tiện chi giao mạc khả vong”. Ư hạ thần nghĩ vậy, nghĩa là vợ cưới hồi tẳm mẵn chẳng nên bỏ, anh em từ lục nghèo chẳng nên quên.

Vua Quang Vơ nghe rồi thầm khen người biết chuộng điều nhân ngăi, nên thôi không tính đến chuyện kiếm chồng cho em nữa.

***

Tống Hoằng chí trượng phu không đổi,

Giữ nhơn luân sợ lỗi Đạo hằng.

Từ duyên Công Chúa giao thân,

Đút cơm vợ quáng ân cần dưỡng nuôi.

(Trích Nữ Trung Tùng Phận của Đoàn Thị Điểm)

 

 

 

51. BAO CÔNG CHẨN BẦN

(Xứ Trần Châu được Y Thị đội trạng đầu cáo)

Đời Tống Nhân Tông, có nàng Y Thị, tên thật là Trịnh Nương là vợ của Ngự Sử Trần Quốc Thanh (tên tộc là Tràn Bất Thanh) tính t́nh ngay chính thường hay can ngăn chồng những việc làm giả nghĩa giả nhân.

Một hôm chồng Y Thị lại tùng mưu với Thái Sư Bàn Hồng lặp tâm ám hại tướng trung thần Dương Tôn Bảo và Địch Thanh.

Y Thị nghe chuyện khuyên chồng rằng: Ấy là việc tư thù không đúng phép của Bàn Thái Sư, ḿnh có liên can chi mà giúp vào sửa ngay làm vậy. Tướng Công nên giữ lẻ công bằng mà lo việc nước để lưu hậu đời sau, không nên đua theo đám nịnh thần mà mang hại hiền lương. Thiếp xin tướng công đừng dính vào việc ấy là hay hơn.

Trần Quốc Thanh nghe qua ph́ cười: Phu Nhân nói sai rồi, ta nếu không có Bàn Thái Sư giúp đỡ th́ làm ǵ được quan tước như vầy và nàng cũng không được hưởng Cao Mạng Phu Nhân.

Y Thị tiếp lời: Bàng Thái Sư tuy là mạng thế cao quyền song người hay làm điều gian ác có khi Trời không để cho người làm măi vậy được đâu. Đến chừng mất thế ĺa oai, gian thần phải ḷi ra mặt để tiếng xấu ngày sau.

Trầm Quốc Thanh nghe nàng nói hai tiếng “gian thần” hơi nhột liền giận mắng lớn rằng: Hổn láo lắm, sao phu nhân ăn nói nhiều điều ngan trái, không kể kẻ lớn người trên cớ sao chuyện không đâu chẳng can chi đến phu nhân mà lại nhiều lời, muốn cho b́nh địa nổi ḷng phong ba đến như vậy.

Y Thị diệu lời: chẳng phải Thiếp muốn sanh sự ra chi, ấy là muốn lấy lời thiệt tỏ bày cho Tướng Công rơ, để gia đ́nh ḿnh tránh tai họa mà thôi. V́ Thiếp và Tướng Công là t́nh nghĩa vợ chồng nên phải phân trần hơn thiệt.

Trầm Quốc Thanh lại tự ái, đâm cao có hơn thêm: Cha chả, ai dám làm chi đến ta mà Phu Nhân lại bảo nghe theo để tránh điều tai họa, thôi ta quyết không nghe lời ai hết, nào ai làm sao cho mang họa thử coi.

Y Thị nài nỉ xuống giọng càng khuyên lại chỉ gây thêm sức nóng nảy của người rắp tâm theo quỉ kế của phường gian tặc, hăm hại tôi hiền. Trước khi trở lại pḥng khuê, Y Thị c̣n nài nỉ thêm: Xin Tướng Công dằn ḷng cạn xét, như không nghe lời thiếp mà chỉ theo lời phường gian tặc th́ đă chắc được ǵ, c̣n chuốc thêm họa lớn.

Trầm Quốc Thanh giờ nghe đến Y Thị dùng 2 tiếng “gian tặc” th́ càng hăng nóng hơn lên, liền quát lớn: Hổn ẩu, sao ngươi dám gọi Bàn Thái Sư là gian tặc. Vậy ngươi thấy Bàn Thái Sư quấy chỗ nào, nếu không trả lời cho suông th́ đừng có trách.

Y Thị chậm răi tiếp: Xin Tướng Công bớt giận, Thiếp nói như vậy là có ư khuyên Tướng Công theo điều trung nghĩa, bỏ thói vạy tà, nếu Thái Sư không gian tặc điêu ngoa cứ sẵn sàn lo mưu tính kế mà hăm hại trung thần. Người c̣n có tánh tham của, khiến cho nước thêm rối, như thế th́ gọi là gian tặc chưa đúng hay sao? Tướng Công ôi! Con mắt của người là ngọc hễ thấy ngay thời biết mà ngó, vậy cũng hay. Nên Thiếp tưởng dầu cố che đậy thế nào rồi thiên hạ cũng biết những ác gian của Bàn Thái Sư rơ hết.

Trầm Quốc Thanh sừng sộ: Vậy chớ như biết Bàn Thái Sư tàn hại trung thần ở đâu, nếu chỉ không ra chớ trách ta chẳng vị.

Y Thị trả lời: Công việc trước mắt mà Tướng Công chưa thấy hay sao? Như Dương Tôn Bảo quả là ḍng giỏi công thần ǵn giữ gian sang nhà Tống, trấn thủ Tam Quan, ngăn binh ngoại tặc, thiệt là Thạch Trụ Chư Thần. C̣n Địch Thanh là cháu của Địch Thái Hậu mà cũng là ḍng giỏi trung lương, lại khi ra đến Tam Quan lập được nhiều công lớn.Tướng vơ như hai ông ấy thiệt là tôi lương đóng của triều đ́nh. Nếu loại hai người ấy đi th́ lấy ai mà chống đỡ gian san đỡ nâng vật ngă. Gia đ́nh ta hưởng lộc triều đ́nh rất trọng th́ nên giữ một ḷng báo quốc trung quân để lưu danh hậu thế, bằng không th́ bị di xú vạn niên. Ấy có phải v́ Bàng tác gian ḷng mà quên đi lẻ phải.

Trầm Quốc Thanh nổi giận: Mi là phận đàn bà, sao dám khua môi đánh lưỡi mà buôn lời hổn ẩu như vậy, vừa nói, vừa sốc lại đánh, vả vào mặt Y Thị phu nhơn. A Huờn hoản kinh liền d́u Y Thị vào pḥng.

Ở lại trong pḥng một ḿnh buồn bực, v́ nghĩ rằng ḿnh đă v́ t́nh vợ chồng khuyên dứt hết lời mà chồng một mực chẳng nghe lại c̣n xử tệ với ḿnh nên có làm một bài thi như vầy để lưu lại cho đời trước khi tự ái:

Thân nầy một thác dạ không phiền

Ba chục xuân xanh vậy cũng tuyền.

Miễn đặng Phu Quân chừa tánh cũ,

Thiếp về chính suối cũng là yên.

Rồi lấy dây thắt cổ tụ ái. Khi hay tin, Trầm Quốc Thanh mới gắn bước xuống nh́n xác Y Thị nói: Bớ Y Thị, ai bảo mi tài khôn lo đến việc của ta, nay tự hại ấy là tại cái miệng của mi mà mang họa. Vậy khi khi xuống huỳnh tuyền th́ cũng đành ḷng, đừng trách ta làm chồng sao không tưởng vợ…Rồi ra lịnh cho gia nhân để nguyên xác vậy mà đem vùi. Trầm Quốc Thanh bỏ đi giao cho A Huờn thi hành theo lịnh.

A Huờn xúm nhau than thở và vái rằng: Nay Phu Nhân thác một cách thảm thiết, thân thể như vầy, thật là lăo gia đành ḷng đành dạ, không nghĩ đến t́nh nghĩa vợ chồng. Phu Nhân ôi! Nếu có linh thiêng xin đầu cáo cùng Diêm Vương nhờ xét xử. Rồi lo tắm rửa thay đồ cho Y Thị, vắt một cây trâm vàng nơi tóc, đeo một ṿng vàng nơi tay, sắm sửa vừa hết canh một th́ mới đem đi lắp ở phía hậu viên đ́nh nhằm đêm mùng 2 tháng 3.

Ngay đêm đó, Quốc Thanh khiến bức một a Huờn tên Tố Lan vào pḥng và đặt lên hàng phu nhân thay cho Y Thị.

Hồn Y Thị xuống đầu cáo tại Diêm Đ́nh vă sự việc mà ḿnh tự quyên sinh. Diêm Đế cho dở sổ ra xem th́ Y Thị phải sống đến 88 tuổi mới chết mà nay mới chẳng 30. C̣n Trầm Quốc Thanh sống 36 tuổi  đến ngày mùng 8 tháng 3 nầy phải chết tại pháp trường. Diêm Dương phán: Chồng nàng ít ngày nữa th́ măng số, vậy nàng trở về dương thế mà cáo việc ức oan với Bao Chuẩn th́ người sẽ có phép cứu ngươi sống lại. Đoạn sai hai tên quỉ tốt đưa hồn Y Thị đến xứ Trần Châu và giao cho một vị Thần Hoàng xứ ấy hổ trợ dùm.

Nguyên xứ Trần Châu vừa bị 3 năm mất mùa, dân t́nh đói khổ, nên Tống Nhân Tông ủy sai quan Thị Chế Bao Công hạ lịnh lên đường về trào phục chỉ. Đến xế, ngan qua một cánh đồng th́ bổng có luồng gió mạnh quyện hút bay trước mặt, tiếng gió thảm thiết, gió lạnh rợn người. Bao Công lấy làm lạ bèn ra lịnh hạ kiệu dừng quân. Một hồi lâu ngọn gió mới dứt, cây cỏ trở lại im ĺm.

Bao công nghĩ thầm: Trận gió nầy rất kỳ dị, thế th́ có oan hồn uổng tử chi đây khuấy phá như vậy, hay có điều chi oan ức th́ nội đêm nay đến trại ta cho ta biết, ta sẽ hết sức mà minh oan cho. Vừa dứt lời th́ ngọn gió lại bay phát nhẹ qua rồi lần lần tan mất. Bao Công thấy vậy biết chắc có oan hồn uổng tử rồi, bèn khiến Trương Long, Triệu Hổ thiết lập một cái đàn tạm nơi đồng trống.

Đêm hôm đó, Bao Công khiến 4 cận tướng: Trương Long, Triệu Hổ, Đổng Siêu, Thiết Bá trấn 4 góc đài, c̣n ḿnh th́ lên đài vọng bàn đốt đèn, hương, ngồi mà chờ sự việc…

Đến canh 3, xảy có một luồn gió bay đến, cả chư tướng sĩ đều rởn tóc, riêng Bao Công th́ mắt nhắm lim dim như nửa tỉnh nửa mê, bổng có một bóng đàn bà đến qú trước mặt và thưa rằng: Thiếp là Y Thị, tên tộc Trịnh Nương vợ của Trầm Bất Than Ngự Sử.

-Nếu vậy th́ cũng vào hàng Phu Nhân, xin đứng dậy rồi nói chi th́ nói.

Hồn Y Thị vâng lịnh đứng lên rồi đuôi đầu thuật hết các việc của chồng làm và việc ḿnh tự ái quyên sinh cho Bao Công biết. Bao Công nói: Nếu vậy th́ Phu Nhân cũng quấy rồi, v́ lời xưa có dạy Tam Tùng, mà phận đàn bà hễ xuất gia rồi phải giữ theo chồng mới phải. Nay Trầm Ngự Sử đem dạ bất trung, không nghe lời Phu Nhân can gián cho nên phu nhân giận mà liều ḿnh, như vậy th́ thôi, có đâu đem việc của chồng cáo như vậy, ấy chẳng phải là không lợi đâu.

Hồn Y Thị thưa rằng: Thác đây là tại Thiếp, nào dám hờn ai, song đă làm cáo mạng phu nhân mà chồng không nghe đến lời can gián, làm cho Thiếp tức ḿnh mà tự ái như vầy, lẻ th́ phải sắm quan quách mà chôn, có đâu lại để bộc lộ thi hài đem vùi xuống bùn như vậy, có phải là khi dể triều đ́nh chăng? Rồi lại dùng con tỷ tất mà làm vợ, đưa vào phẩm phu nhân, ấy có phải thêm rối rắm cung thường chăng? Nếu Thiếp không tố cáo cho minh bạch th́ Dương Tôn Bảo và Địch Thanh tánh mạng không c̣n, v́ Địch Thanh lănh lịnh làm Khâm Sai giải chinh y cho quân sĩ của Dương Tôn Bảo đang trấn giữ Tam Quan v́ mùa đông đă đến. Dọc đường gặp Bàn Thái Sư mật lịnh cho các trạm thuộc bọn dùng đủ tư cách ám hại Địch Thanh. Nhưng hại không được mới thông mưu cùng lũ giặc bên ngoài đánh cấp hết chinh y. Địch Thanh được dịp đánh phá hết mấy ngày diệt hết đồng bọn và thu lại chinh y, lấy luôn 2 thủ cấp của 2 tướng giặc tay sai của Bàng Thái Sư giao cho Tiêu Đ́nh Qúi là người của Tôn Bảo sai đi thám đón đem về trước để tŕnh báo cho triều đ́nh, nhưng dọc đường Tiêu Đ́nh Qúi vào quán ăn uống no say, rồi sách 2 thủ cấp để khoe công cùng thiên hạ, chẳng may gặp con của Lư Thành phục rượu trói bỏ dưới sông, giựt 2 thủ cấp đến tŕnh cùng Dương Tôn Bảo để gọi là có đại công diệt giặc. Cơ mưu bị lộ, cha con của Lư Thành bị Tôn Bảo giết. Vậy mà Bàn Thái Sư c̣n giảo quyết luận kế tâu lên Thánh Thượng cho cha con Lư Thành có đại công, gián tội cho Tôn Bảo và Địch Thanh giết để mạo công rồi sai Tôn Vơ là đồng bọn gian nịnh lănh Thánh Chỉ ra Tam Quan gọi là điều tra sự việc mà kỳ thật để khám xét thương khố để  hối lộ mà bắt tội, nhưng bị Tiêu Đ́nh Qúi nóng tánh đánh cho một trận nên thân, rồi Dương Tôn Bảo bắt giải về triều nhờ ơn trên phán xét. Có thế mà Bàn Thái Sư buộc tội là khi lịnh v́ vậy mà nay Thánh Thượng sai người ra Tam Quan để bắt hai tướng ấy về trào rồi cũng giao cho lũ gian thần tra vấn. Lúc nầy hai người ấy như cá lội trong chảo. Nếu Lăo Gia không về trào mà công luận th́ hai tôi trung ấy sẽ không c̣n. Nếu hai người ấy có bề nào th́ gian san nhà Tống phải hư. Nay tôi cáo đây một là v́ nước trừ gian, hai là làm ra lẻ cho minh bạch ḷng tôi. Xin Lăo Gia mau về trào mà cứu lấy công thần, nếu trễ là thậm nguy cho dân quốc.

Bao Công nghe xong khen rằng: Phu Nhân là bổn phận đàn bà mà c̣n biết ngay vua thương tướng, thật là đáng bật hiền triết phu nhân, uổng thay chúng ta đứng làm đàn ông, ăn lộc vua mà không bằng chí khí đàn bà. Bây giờ Phu Nhân hăy về kinh sư trước ta lập tức về sau mà lo việc ấy cho. Hồn Y Thị nghe xong lạy tạ rồi từ từ mất dạng.

Bao Công liền truyền quân đốt đuốc lên đường luôn đêm đó, tới chiều mùng 5 tháng 3 đến Kinh Sư. Rạng ngày 6-3 Bao Công vào trào tấu tŕnh các việc và xin mượn 3 món Hượt Mạng Bửu Bối đến bóc xác, nên Y Thị sống lại như xưa. Rồi lập h́nh án xử trảm Ngự Sử Trầm Quốc Thanh vào ngày 8-3 sau đó, và lập nhiều đối chứng công khai minh oan cho 2 tướng Dương Tôn Bảo và Địch Thanh.

Riêng bọn gian thần lần lượt sau nầy cũng đều bị chết hết./.

 

***

 

BAO CÔNG CHẨN BẦN

 

Can chồng theo lũ nịnh,

Chẳng nghe c̣n khinh khỉnh,

Đánh vợ như vũ phu,

Y Thị buồn hủy ḿnh.

 

Đầu cáo Trần Quốc Thanh,

Hại Tôn Bảo, Địch Thanh,

Bàng Thái Sư khéo chối,

Bao Chuẩn xử đành rành.

 

Mượn “Hượt Mạng Bửu Bối”,

Bóc xác chốn bùn hôi,

Y Thị bèn sống lại;

Trảm thủ những hạng tồi.

                           Q.M

 

 

52. CÔNG DĂ TRÀNG

Ngày xưa tại tỉnh Sơn Tây có một người thợ săn tên là Dă Tràng, hằng ngày thường vào rừng sâu để t́m săn muôn thú độ nhựt. Trên đường đi hằng ngày có đi qua một cái hang có hai vợ chồng rắn cùng trú ngụ vào ra trong đó. Dă Tràng cũng muốn giết để đem về làm thịt, nhưng cũng có điều lạ là thấy chúng sống rất là thương yêu nhau, nên thôi. Tuy nhiên trước cảnh nầy, mỗi lần đi ngan, Dă Tràng đều để ư ghé mắt ŕnh xem.

Rồi đến một hôm, rắn cái lột da không ra ngoài được, rắn đực phải đi t́m mồi về nuôi vợ. Khi mạnh lành th́ kề cận bên nhau, âu yếm quẩn quanh như trước. Lại đến phiên rắn đực lột da nằm khoanh trong hang, rắn cái bỏ không t́m mồi nuôi chồng mà c̣n dẫn thêm một anh lính t́nh nhân về hợp nhau xé xác rắn chồng chết thảm.

Đă mục kiến việc làm như vậy, quá bất b́nh nên Dă Tràn thừa thế chờ rắn cái ḅ ra kiếm ăn, liền lắp tên bắn chết. Khi rắn đực t́nh nhân về t́m không thấy rắn cái mới ḅ ra kiếm thấy xác t́nh nhân ḿnh bị bắn chết trước hang, mũi tên ghim trên ḿnh có ghi rơ tên Dă Tràng, nên định bụng sẽ báo thù. Bèn ḅ đến nhà Dă Tràng chờ cơ hội hành động.

Đêm đó khi về nhà, Dă Tràng bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện của vợ chồng rắn và luôn cả sự bất b́nh, nên buôn tên bắn rắn cái dă tâm cho vợ nghe. Rắn đực t́nh nhân tự nghĩ lấy làm hối hận, cũng bởi tại ḿnh mà vợ chồng rắn bạn đều chết hết, bèn quyết định bỏ ư báo thù và chung ra bỏ đi. Một lúc sau trở lại và nhă bên cạnh giườn của Dă Tràng một viên ngọc, ngụ ư để đền ân thức tỉnh cùng người đă ngăn cho ḿnh khỏi làm thêm điều gian ác nữa.

Nữa đêm mơ màng thức giấc, Dă Tràng thấy một ṿm ánh sáng cả một góc nhà. Lấy làm lạ bèn kêu vợ dậy và nh́n kỹ mới lượm lên một viên ngọc, vợ chồng trầm trồ khen lấy khen để viên ngọc th́ chợt thấy một con rắn ḅ đến gật đầu 3 cái rồi bỏ đi. Dă Tràn mới tin rằng đó là viên ngọc của rắn nọ cho. Lạ thay viên ngọc không làm sao dấu được ánh sáng, nắm chặt trong tay không hết sáng, bỏ dấu vào túi vẫn ánh sáng ḥa chang. Cuối cùng Dă Tràng đành ngậm thử vào miệng coi sao. Lạ thay khi vào miệng ngậm lại th́ viên ngọc mới chịu hết ánh sáng, nhưng tai th́ lại nghe được giọng nói của các cầm thú bên ngoài. Dă Tràng bèn nhă ngọc ra th́ không c̣n ánh sáng nữa, vợ chồng vô cùng mừng rỡ.

Từ đó mỗi lần đi săn đều đem ngọc theo để nghe lời muôn thú nói chuyện.

Ngày kia nghe hai con quạ bảo nhau: “Ở phía đông cụm rừng đa, có một con nai mắc tên có lẻ không sống nổi”. Dă Tràng bèn theo hướng ấy mà t́m, quả gặp con nai đang nằm sắp chết, Dă Tràng liền bắt đem về. Trên đường đi về đàng quạ nói rằng: “Công chúng tôi chỉ, bác cho tôi xin bộ đồ ḷng nai ăn một bữa”. Dă Tràng bèn mổ nai và để bộ đồ ḷng tại gốc cây cho đàn quạ. Một hôm khác, quạ chỉ cho Dă Tràng t́m một con vật khác, theo thông lệ Dă Tràng cũng mổ để bộ đồ ḷng đền ơn quạ, rồi quảy thịt về nhà, nhưng khốn nổi hôm đó đàn quạ mắc vui chơi chưa tới kịp th́ những con chó sói đến xơi tái không c̣n. Lúc về quạ tưởng quấy cho Dă Tràng nên hai bên cự cải, v́ không dằn được cơn tức giận Dă Tràng buôn tên bắn quạ, quạ lách ḿnh tránh khỏi và bay vọt theo ngậm mũi tên bay đi và đến cắm vào một cái thây người chết trôi trên sông. Thế là ít hôm sau Dă Tràng bị quan quân triều bắt về tội giết người.

Bị giam trong ngục, nghe đàn se sẻ rủ nhau đến ăn lúa nhà vua, Dă Tràng liền báo tin cho anh lính ngục, nhưng anh nầy không tin nên bỏ qua. Quả thật mấy hôm sau có lịnh nhà vua truyền đi khắp nơi phải giữ ǵn lúa thóc của vua bị chim ăn rất nhiều. Kế đến khi khác, Dă Tràng nghe đàn kiến rũ nhau rời tổ lên cây để tránh lục. Dă Tràng báo tin cho người giữ ngục hay, lần này chú lính hơi tin liền cho quan hay để chuẩn bị pḥng ngừa. Đến 3 ngày sau, mưa rơi tầm tả, gió lạnh từng cơn dâng nước lên cao làm ngập cả ruộng vườn nhà cửa, nhưng nhờ có pḥng trước nên thiệt hại không nhiều.

Hay tin, nhà vua liền cho gọi Dă Tràng và lưu dụng cho hầu cận bên vua để mượn ngọc hằng ngày nghe tiếng chim muôn cùng các loại cầm thú.

Nghe đủ các tiếng nói trên đất liền, rừng sâu núi thẩm. Nhà vua cho tổ chức ngự thuyền ra khơi để nghe tiếng reo cười của loài thủy tộc. Quá thích thú với nhiều câu chuyện kỳ quặc, không ngăn được chuỗi cười, vua cao hứng reo lên làm rơi tơm viên ngọc xuống tận đáy biển.

Dă Tràng quá tiếc ngọc cứ lấy tay hớt trong nước, rồi đưa mắt ngóng trông, ngày qua ngày rồi sinh bịnh tâm sầu mà chết.

Sau đó quanh vùng biển thấy xuất hiện trên băi cát một giống cua nhỏ, ngày đêm cứ se cát đắp ḥn nầy rồi ḥn khác. Khi thủy triều dâng lên sóng vă đánh tan đi, lúc thủy triều rút xuống, giống cua kia cứ như quen, lại đắp từng cụm cát nữa. Cứ như vậy, đời này qua đời khác măi măi làm cái công việc không đâu, nên do đó mà người so sánh cái công việc nầy giống như hành động tiếc ngọc của Dă Tràng. Có khi người thợ săn nầy hóa thành cua nhỏ kia để se cát lắp biển mà t́m cho ra viên ngọc quí, nên mới áp đặt cho giống cua nhỏ kia là loại Dă Tràng từ dạo đó. /.

 

***

 

CÔNG DĂ TRÀNG

 

Dă Tràng ai dể xét công đâu?

Băi biển thường se cát lấp đầu.

Xút đất trải bao cơn sóng lượng,

Nhăn mài cười bỡn khúc sông sâu.

Biết không nên việc nơi trời nước,

Nào có nao ḷng cuộc bể dâu.

Nhiều ít có danh trên vũ trụ,

Kẻo mà thẹn với mấy bầy trâu.

                           Bồng Dinh

 

HỌA

Công Dă Tràng công cán để đâu?

Muốn ngăn sóng cả khỏa ngan đầu.

Đất ṿ nên loạn xây thành lũy,

Nước dập tuông bờ lỡ dạo dâu.

Lấp biển v́ lo bờ biển lỡ,

Mài sông bởi muốn ngọn sông sâu.

Nên hư trối mặc đời phi thị,

Lam lụ buồn cười bấy lũ trâu.

(Lục Nương Diêu Tŕ Cung)

 

 

 

53. CHIÊU QUÂN CỐNG HỒ

 

Chiêu Quân tên là Vương Trường được vào làm cung phi dưới thời Hớn Nguyên Đế, dáng người rất đẹp, ít ai sánh tài. Nhưng trong cung v́ quá nhiều cung phi mỹ nữ nên không sao biết hết. Nguyên Đế mới truyền cho viên Thái Sư Mao Diên Thọ vẽ h́nh từng người đem lên cho vua xem để biết mà chọn.

 

Diên Thọ thuận dịp bèn t́m vẽ tiền, hễ ai lo lót th́ vẽ đẹp, bằng không th́ lại vẽ xấu đi. Chiêu Quân cũng ở trong số phận đó. Bởi không có tiền nên ảnh của nàng quả tệ, chấm thêm một nốt ruồi sát phu, rồi sợ việc bại lộ nên nhân việc giặc Hung Nô mới thắng Hớn, nên lặp mưu cùng nịnh thần đem Chiêu Quân đi cống hiến cho Hồ.

Vua Nguyên Đế y tấu v́ thấy h́nh Chiêu Quân quá xấu…Trước ngày đi, Chiêu Quân vào triều bái vua để tạ từ mới vỡ lẻ. Chiêu Quân trước mắt quân vương rất khác xa Chiêu Quân của Mao Diên Thọ vẽ…nhưng sắc chỉ của vua đă phê rồi, chỉ c̣n trong ḷng một niềm tiếc nối.

Lúc qua ải, tới Nhạn Lạc Đài, Chiêu Quân nh́n cảnh trời mây ḷng bồi hồi nhung nhớ, liền viết thơ nhờ cánh nhạn đưa tin nhắn về cố quốc, rồi khải lên khúc “Quá Quan” từ biệt, tiếng tơ thống thiết bi ai.

Khi tới đất Hồ, Phiên Chua thấy Chiêu Quân liền đẹp ḷng và phong nàng vào cung Chánh Hậu. Nhưng Chiêu Quân ḷng vẫn hoài vọng cố hương và càng tủi cho thân phận ḿnh là dân của một nước bị trị, nên dù cho Phiên Chúa sủng ái, Chiêu Quân vẫn dằng ḷng, t́m cách dải đăi cuộc hôn nhân gượng ép.

Lúc Chiêu Quân buồn, Phiên Chua cũng chiều và c̣n t́m cách làm vui ḷng cho Chiêu Quân khuây khỏa.

Chiêu Quân tâu xin cùng Phiên Chúa cho xây một cái cầu bắt ngan sông Bắc Thủy để được thưởng nguyệt t́m vui, đến khi chiều, cầu nầy vừa hoàn thành th́ Chiêu Quân mới ra đó trút hết nổi ḷng cùng mây nước. Rồi gửi thân ngọc ngà xuống đáy nước sông sâu./.

 

***

CHIÊU QUÂN CỐNG HỒ

 

Cung son những tưởng phước Trời ban,

Hay nổi lường nhau phận nát tan.

Nguyên Đế tiết đào, hương tỏa muộn,

Hung Nô mến liễu, đậm xuân san.

Chánh Cung Phiên Quốc ḷng ngơ ngẩn,

Thứ Thiếp Hớn Triều dạ mểnh mang.

Hắc thủy giữa ḍng trôi lửng đửng,

Chọn nơi đất sạch, kiếp hoa tàn!

                                   Q.M

 

                        ***

Thương gió lặng lao xao cánh nhạn,

Đến đưa tin của Hán Chiêu Quân.

Thương người lạc bước phong trần,

Đem phần Hồ Hớn bỏ phần tơ duyên.

(Trích bài T́nh Ái của Thất Nương)

 

HẾT

 

Viết xong ngày 17-7-Ất Sửu 1985

QUANG MINH

 

 

 

MỤC LỤC:

 

1.CHÂU VĂN VƯƠNG NGỒI NGỤC

2. LĂO TỬ GIÁNG SINH

3.  TÔ VƠ CHĂN DÊ

4. THẦN ĐỒNG VẤN KHỔNG TỬ

5. TÔN TẪN TẦM SƯ HỌC ĐẠO

6. CÔNG CHÚA DIỆU THIỆN

7. KHỔNG TỬ TÁC XUÂN THU

8. SĨ ĐẠT TA SẢI NGỰA ĐI TU

9. TÔ HUỆ CHỨC CẨM HỒI VĂN

10. KỈNH TÂM THỌ HÀM OAN

11. TỪ GIÁP

12. THÀNH B̀NH ĐỊNH VƠ TÁNH THIÊU M̀NH

13. TRƯNG VƯƠNG KHỞI NGHĨA

14. LƯU-QUAN-TRƯƠNG ĐÀO VIÊN KẾT NGHĨA

15. ĐƯỜNG MINH HOÀNG DU NGUYỆT ĐIỆN

16. HẠNG VƠ THẤT THỦ THÀNH CAI HẠ

17. HÀN DŨ BỊ ĐÀY

18. HÀN TÍN L̉N TRÔN

19. BẠNG DUẬT TƯƠNG TR̀ (Ngư Ông đắc lợi)

20. MẠNH MẪU

21. TRƯƠNG LƯƠNG DÂNG DÉP

22. NGƯU LANG- CHỨC NỮ

23. THƯỢNG DƯƠNG, VƠ

24. MẪU ĐƠN-TRĨ

25. TÍN CẦM: Chim nhạn

26. LÔI CHẤN TỬ CỨU CHA

27. HỮU PHƯỚC-LỆ DUNG

28. BÁ LƯ HỀ

29. BẠCH KHỈ ĐẾN SƠN KHÊ

30. VỢ CHÂU CÔNG

31.VUA SỞ ĐI CẦU ĐỔNG BÂN

32. HỨA HÀNH CHẠY LOẠN TỚI VƯỜN LÊ

33. TỪ THỨC VIẾNG CHÙA XEM HOA

34. NGƯỜI BÁU HAY CỦA BÁU

35. TỀ MI VẸN ĐẠO

36. VUA HIÊN VIÊN ĐẮC ĐẠO

37. NGƯỜI SỐNG HƠN ĐỐNG VÀNG (Trần Ân-Hữu Nghĩa-Lệ Du)

38. ĐÔNG LAO – TÂY BÍCH

39. NGÀY TRẦM QUAN LỚN ĐI CHƠI

40. PHẬT GIEO MẠ BRAHOAĐA

41.TÔN ĐIỆC PHẾ NHI

42. ĐÓNG ĐINH TRÊN THÁNH GIÁ CHÚA CHUỘC TỘI LOÀI NGƯỜI

43.TỬ HỮU TÁ BÁ ĐÀO-DƯƠNG GIÓC AI (Tử hữu c̣n là bạn dám cùng sanh tử với ḿnh)

44. LÊ LỢI-LÊ LAI-LÊ LỄ

45. PHẬT DẠY RA HẦU LA

46. LẤY  ÂN BÁO OÁN

47. LINH SƠN TỰ CA DIẾP ĐOẠT SIÊU PHÁP của Đức Thích Ca truyền đạt

48. ĐẬU YÊN SƠN HỮU NHÂN NGHĨA

49. HỒ HỶ MỴ THỬ QUẺ KHƯƠNG TỬ NHA

50. TỐNG HOẰNG CHÍ TRƯỢNG PHU

51. BAO CÔNG CHẨN BẦN

52. CÔNG DĂ TRÀNG

53. CHIÊU QUÂN CỐNG HỒ

 

Top of Page

      HOME