QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI
I. NGUYÊN DO THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI
III. NHÂN VẬT NỔI TIẾNG TRONG QUÂN ĐỘI
THAY LỜI TỰA
Nhắc tới Đạo Cao Đài người ta không thể nào không nhắc đến Quân Đội Cao Đài đă một thời oanh oanh liệt liệt ở khu vực Miền Nam Việt Nam. Vậy tại sao Đạo Cao Đài lại có Quân Đội và Quân Đội Cao Đài đă có công ǵ trong việc bảo vệ nhơn sanh theo tiêu chí mà trên lá cờ Quân Đội đă nêu: “Bảo sanh, Nhơn nghĩa, Đại đồng”. Sau khi sưu tầm và tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau, chúng tôi xin chia thành 4 mục để Quí Vị nào muốn t́m hiểu về Quân Đội Cao Đài sẽ có một tài liệu mà tham khảo.
I. NGUYÊN DO THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI
II. GIẢI TÁN QUÂN ĐỘI
III. NHÂN VẬT NỔI TIẾNG TRONG QUÂN ĐỘI
1. Tướng Trần Quang Vinh (1897-1977)
2. Tướng Nguyễn Thành Phương
3. Tướng Lê Văn Tất
4. Tướng Nguyễn Văn Thành (1915-1972)
5. Tướng Văn Thành Cao
6. Tường Tŕnh Minh Thế (1922-1955)
IV. KẾT LUẬN
I. NGUYÊN DO THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI
Đạo Cao Đài mới thành lập trong một thời gian ngắn mà số tín đồ tăng một cách nhanh chóng khiến cho nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ để ư (Đạo thành lập năm 1925), lại có một số người không ưa Đạo nên chú giải những pháp luật của Đạo như: Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Đạo Nghị Định, Hội Thánh, Hội Nhơn Sanh, Ṭa Tam Giáo, Cửu Viện v.v..ra là: Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện, Cửu Bộ Đài Quan, Ṭa Án, Ṭa Bố v.v…rồi vu cáo Đạo Cao Đài có âm mưu định bá đồ vương, lập một nước nhỏ trong một nước lớn và chủ trương Quân Chủ Lập Hiến.
Cho nên ngày 23-7 năm Canh Th́n (1940), Quân Đội Pháp vào châu vi Thánh Địa, xét giấy tờ Đạo Hữu và đóng cửa Báo Ân Từ (Đền thờ tạm Đức Thượng Đế).
Ngày 25-5 Tân Tỵ (1941), chánh phủ Pháp ra lịnh cấm nhơn công tạo tác Ṭa Thánh.
Ngày mùng 9 tháng 7 năm Tân Tỵ (1941), chủ Quận cho một số đông c̣ bót và lính vào châu vi Thánh Địa xét giấy thuế thân bổn Đạo và ra lịnh đuổi tất cả về lục tỉnh.
Ngày mùng 7 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1942), quân đội Pháp xung công trường học, kho sách.
Ngày 20 tháng 3 Nhâm Ngọ, quân đội Pháp chủ Quận xung công tất cả văn pḥng và chiếm đóng bao trùm châu vi Ṭa Thánh.
Ngày 27-7-1941 Đức Hộ Pháp cùng 5 vị chức sắc của Đạo bị Pháp bắt đem lưu đài ở đảo Madagascar thuộc Châu Phi.
Sau khi Đức Hộ Pháp bị lưu đày nơi Hải Đảo, Ṭa Thánh bị phong tỏa, tất cả Đạo Hữu bị bắt buộc phải trở về Lục Tỉnh, Hội Thánh phải phân tán ra để tránh những sự bắt bớ hoặc khủng bố.
Lúc ấy có một số chức sắc bí mật liên lạc với người Nhựt (quân đội Nhựt mới sang Đông Dương) để t́m phương thế giải ách đô hộ của người Pháp cho dân tộc và cũng để bảo vệ tín ngưỡng cho tôn giáo ḿnh.
Vào đêm 9-3-1945, số tín đồ Đạo Cao Đài, dưới danh nghĩa “Đoàn Nội Ứng Nghĩa Binh” được sự hổ trợ của quân đội Thiên Hoàng đảo chánh thực dân Pháp tại Sài G̣n. Ḿnh mặc quần áo short trắng, đầu đội ca lô trắng, tay cầm tầm vong vạt nhọn với một cuộn dây. Đoàn Nội Ứng Nghĩa Binh đă hiên ngan làm tṛn sứ mệnh, đem vinh quan về cho đất nước, mở trang sử mới cho dân tộc Việt Nam.
Không phải là những con người của chánh trị, mà chính người tín đồ Cao Đài muốn bảo vệ tự do tín ngưỡng, nên sau ngày đảo chánh họ trao quyền tự trị lại cho nhân dân, đang lúc cao trào cách mạng dâng cao.
Nhưng rồi cuộc cách mạng nhân dân đă bị một số người lợi dụng, rồi đến quân đội Nhựt thất trận đầu hàng, người Pháp núp dưới bóng quân đội Đồng Minh trở lại Đông Dương. Thế là biết bao cuộc giết chóc trả thù dă mang mà họ dành sẵn cho lương dân vô tội và nhất là giới tín hữu Cao Đài.
Không thể đứng trước cảnh mạng sống đồng bào và của riêng ḿnh bị đe dọa, giới lănh Đạo biến đoàn Nội Ứng Nghĩa Binh thành ra 2 chi đội 7 và 8 rút vào khu kháng Pháp.(1)
Thế chiến mỗi ngày một ác liệt thêm, trước cuộc đấu tranh của toàn dân, người Pháp liệu bề khó thắng nên họ day sang thế chánh trị. Một mặt họ t́m cách liên lạc với cấp lănh Đạo Cao Đài, một mặt họ cho tàn sát tín hữu Cao Đài và sau cùng họ phải đưa trả Đức Hộ Pháp về Việt Nam để trấn an giới tín hữu Cao Đài.(2)
Đức Hộ Pháp được đưa về Việt Nam ngày mùng 1 tháng 10 năm 1946, thế là Đức Ngài đă phải biệt xứ xa bổn Đạo trong khoảng thời gian 5 năm, 2 tháng, 3 ngày.
Để tránh cho bổn Đạo khỏi cảnh giết chóc do người Pháp gây ra, hai chi đội 7 và 8 phải về thành để đấu tranh trong tư thế khác mà bảo quốc an dân.
Vào năm 1949, Đức Hộ Pháp giải tán quân đội Cao Đài ra khỏi nội ô Ṭa Thánh.
Nhận thấy trong thời quá hổn độn không thể giải giới tín đồ Đạo được, Đức Hộ Pháp bèn dạy sửa đổi tên Bộ Đội lại Quân Đội Cao Đài: “Bảo sanh, Nhơn nghĩa, Đại đồng” v́ Đức Ngài muốn quân đội nầy sẽ là một đoàn quân Bảo Quốc, an dân gương mẫu. V́ thế quân đội Cao Đài rất có qui củ, quân luật nghiêm minh, nhờ đó mà nhiều vùng trước kia thường xảy ra giết chóc, được biến thành những khu trù phú, yên ổn vô cùng.
***
(1) Khi Trần Văn Giàu được bổ làm Khâm Sai Nam Bộ th́ Miền Nam có 4 sư đoàn về quân sự:
a) Sư Đoàn I do Kiều Công Cung chỉ huy.
b) Sư Đoàn II do Nguyễn Ngọc Nhẫn tức Vũ Tam Anh chỉ huy.
c) Sư Đoàn III do Nguyễn Ḥa Hiệp chỉ huy.
d) Sư Đoàn IV do Lư Hoa Vinh chỉ huy.
QĐCĐ được gia nhập vào Đệ Tam sư đoàn đă bị Trần Văn Giàu giải tán.
Lúc ấy Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam. Cao Đài phải rút vào chiến khu để chiến đấu chống Pháp gồm có hai chi đội:
1) Chi đội 7 do ………….
2) Chi đội 8 do sự điều khiển thống nhất của Nguyễn Văn Thành, đóng ở Bù Lu Chuối Nước vùng trung lập của tỉnh Gia Định.
Hai chi đội ấy chỉ huy hết các lực lượng quân sự Cao Đài ở Miền Nam.
Ngoài 2 chi đội 7, 8 ra, QĐCĐ c̣n 2 bộ chỉ huy nữa là:
1) Chỉ huy Liên Tỉnh Miền Tây do Nguyễn Thành Phương lĩnh cán. Tham mưu trưởng là ông Lê Văn Thoại .
2) Chỉ huy trưởng Miền Đông do Tướng Tŕnh Minh Thế lĩnh cán. Tham Mưu Trưởng là Vơ Bá tức Đại Tá Mười.
Thời ấy chưa có sự kỳ thị giữa Tôn Giáo với Cộng Sản, nên các chiến khu liên quan mật thiết với nhau, chỉ nhằm mục đích chung là chống thực dân Pháp. Nên trong hàng sĩ quan, nếu có lỗi phải được đưa ra một ṭa án quân sự hỗn hợp để phân xử.
(Trích trong Sơ Lược Tiểu Sử Hữu Phan Quân Lê Văn Thoại của Quang Minh biên soạn)
(2)THỎA ƯỚC NGÀY 9-6-1945 (HIỆP TÁC VỚI PHÁP)
Khi Nhật đầu hàng, Pháp trở lại nắm quyền Đông Dương, chúng bắt ông Trần Quang Vinh và thương lượng hiệp ước Quân Đội Cao Đài ngưng chiến.
Ông Giáo Sư Đại Biểu ra bốn điều kiện:
1.-Trao trả Đức Hộ Pháp ở Madagascar trở về Việt Nam.
2.-Trả lại sự tín ngưỡng cho Đạo, Ṭa Thánh, các Thánh Thất được mở cửa.
3.-Nh́n nhận tư cách pháp nhân Đạo Cao Đài.
4.-Ngưng khủng bố bắt Chức Sắc, Đạo Hữu.
Điều kiện của Pháp:
1.-Quân Đội Cao Đài ngưng chiến.
2.-Giải tán Bộ Đội lưu động kháng chiến.
Đôi bên thỏa thuận, Ṭa Thánh và các Thánh Thất được mở cửa. Đạo được tự do trong phạm vi tôn giáo, trao trả Đức Hộ Pháp và chư vị Đại Thiên Phong về nước.
Tại Ṭa Thánh được lập một Đạo quân tự vệ do Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương làm Tổng Chỉ Huy. Lúc bấy giờ quyền Đạo được phục hồi. Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đải Thời Quân Hiệp Thiên Đài cầm quyền tổ chức lại Cửu Viện và các dinh thự trong Nội ô Ṭa Thánh.
Theo Hiệp ước ngày 8-1-1947 giữa Chánh Phủ Pháp và Đức Hộ Pháp, Đức Ngài kêu gọi tín đồ giúp Pháp. Nhưng Pháp không thi hành hiệp ước, Đức Ngài ra Thánh Lịnh số 149/TL. Ngày 21-1-Kỷ Sửu (dl 21-2-1949) nói rằng: “Quân Đội Cao Đài chẳng lẻ ǵ bởi giúp Pháp thi hành hiệp ước mà bỏ qua sứ mạng Thiêng Liêng tái phục Hoàng Đồ phụng sự Tổ Quốc.”
Nhà cầm quyền Pháp không thật hành đúng theo Hiệp ước nên Hội Thánh nhứt định cho toàn Đạo hữu Cao Đài giải giáp đứng trung lập mà thôi.
V́ thế, tướng Tŕnh Minh Thế vào rừng núi lập chiến khu kháng chiến chống Pháp ngày 7-6-1951. Đến tháng 3 năm 1955 ra hiệp tác vô điều kiện cùng chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm, tháng 5-1955 đánh B́nh Xuyên và tử trận tại cầu Tân Thuận Nhà Bè, Sài G̣n.
Sau đây chúng tôi xin trích lục các nguyên do mà Đức Hộ Pháp quyết định giải tán Quân Đội:
Đức Hộ Pháp ban hành Thánh Lịnh số 704/VP.HP ngày 11-3-Ất Mùi (2-5-1955) cho biết Quân Đội đă được Quốc Gia hóa cho chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm. Từ đây trong cửa Đạo không c̣n Quân Đội nữa.
Quân Đội chỉ là giải pháp biếm quyền nhất thời để tự vệ, khi cơ đời yên tịnh th́ giải tán liền, v́ đó là đời, là chánh trị.
Công nghiệp của Quân Đội được Đức Hộ Pháp tuyên dương theo Thánh Lịnh số 34/TL ngày 9-1 Qúi Tỵ (22-3-1953):
“1.-Đối với Đạo: Quân Đội Cao Đài là tiêu biểu cho sự công b́nh và nhân Đạo, đă nêu cao ngọn cờ nhơn nghĩa và thi hành đúng sứ mạng Thiêng Liêng.
“2.-Đối với quốc dân: Quân Đội Cao Đài đă giải phóng cho nhiều đồng bào sống dưới gông kềm độc tài, lập trật tự an ninh cho dân chúng.”
Quân Đội đă làm nên chiến công hiển hách bảo vệ nền Đạo trong những năm 1946-1954. Nhưng cũng chính Quân Đội có những hành vi tàn bạo nội phản sát hại lẫn nhau. Nên Đức Hộ Pháp ra Thánh Lịnh số 57/VPHP ngày 13-2 Nhâm Th́n (1954) đưa Quân Đội ra ngoại ô Thánh Địa. Đức Ngài Huấn Dụ:
“Các con là lửa Tam Muội, lửa dữ trừ được Ma Vương mà cũng có thể thiêu luôn Ṭa Thánh, nên Thầy không cho ở trong Thánh Địa, hăy ra ngoại vi đồn trú”.
Lịnh văn số 57/VPHP:
“Hộ Pháp Nhị Hữu Hỉnh Đài.
“Gửi cho toàn cả Bộ Tư Lệnh, Bộ Tham Mưu và các cấp chỉ huy Quân Đội.
“Bần Đạo gửi theo bức thơ nầy là các giấy tờ sao lục một hồ sơ định khuôn khổ và quyền hạn của Quân Đội kể từ ngày tái lập nó.
“Cả thảy đều chỉ rơ rằng: Sự lộng quyền và không tuân luật pháp của Quân Đội, từ tổ chức giết người, phe đảng lập quyền cá nhân của ḿnh đă đem Quân Đội đến chỗ nội phản tương tàn tương sát lẫn nhau.”
“Những kẻ vô Đạo đă lẫn vào trong Quân Đội và nương quyền hành của nhiều vị cao cấp để làm tay sai thích khách, đă nắm quyền cán bộ và trở lại mưu sát mạng, dày xéo, đọa đày, mạ mạt và mưu ly gián toàn con cái trung thành là con Đạo gịng của Đức Chí Tôn.
“Bởi v́ thế mà buộc ḷng Bần Đạo phải từ bỏ phận sự Thượng Tôn Quản Thế đă hạ ḿnh giúp đỡ Quân Đội, từ đây Quân Đội không c̣n là Quân Đội của Đạo nữa, v́ hằng hà sa số điều ác hành của nó.
“Muốn cứu văn t́nh thế cho Quân Đội khỏi đi đến chỗ ly tán diệt vong đặng bảo tồn danh thể của nó và của Đạo và muốn cho Bần Đạo để mắt đến nó nữa, th́ Quân Đội phải họp lại và quyết định những điều sau đây:
“1.-Một là giải tán các cơ thể của Quân Đội, từ Bộ Tư Lệnh, Bộ Tham Mưu và các cấp chỉ huy, rồi hội nghị tổ chức lại.
“2.-Hai là nạp các tay ám sát Thừa Sử Trấn và các án tiết xảy ra từ thử, giao cả hồ sơ cho Pháp Chánh minh tra xử lại.
“3.-Ba là trừng thanh Quân Đội, phải đưa những phần tử vô Đạo và tội nhơn của quần chúng về án cướp bóc, hăm hiếp Đạo từ thử ra khỏi Quân Đội.
“4.-Bốn là đem những quân nhân có đủ công trận mà bị bỏ rơi, các phế binh, phải liệu phương cho cầm quyền trở lại.
“5.-Năm là giải tán những thiếu sinh vị thành niên, trả lại cho cha mẹ chúng nó lo việc học hành.
“6.-Sáu là Bần Đạo cầm quyền Thượng Tôn Quản Thế độc đoán đặng tổ chức Quân Đội lại.
“Trong mấy điều ấy mà c̣n một điều không làm, th́ Bần Đạo sẽ ra lịnh “Ly khai” và giải tán Quân Đội.
Ṭa Thánh ngày 06-10 Nhâm Th́nh
(dl 22-11-1954)
Hộ Pháp
(Ấn kư)
Sau thời gian ổn định chỉnh trang, Quân Đội được quốc gia hóa cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, Đức Hộ Pháp ban hành Thánh Lịnh số 704/VP.HP ngày 11-03-Ất Mùi (2-5-1955) cho biết Đức Ngài không c̣n làm Thượng Tôn Quản Thế cho Quân Đội nữa và đă Quốc Gia hóa ngày 2-5-1955.
THÁNH LỊNH QUỐC GIA HÓA Q.Đ.C.Đ
Hộ Pháp Đường Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Văn Pḥng Tam Thập Tam Niên
Số: 704/VP.HP Ṭa Thánh Tây Ninh
………………
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hữu H́nh Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.
Chiếu y Đạo Luật ngày 10 tháng giêng năm Mậu Dần (15-2-1938) giao quyền thống nhất chánh trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ cho đến quyền Đầu Sư chánh vị.
Chiếu theo văn bằng nhóm bất thường các cơ quan chánh trị Đạo ngày mồng 2 tháng 3 năm Ất Mùi tại Ṭa Thánh (23-4-1955).
THÁNH LỊNH
Điều thứ nhứt.-Từ đây Quân Đội Cao Đài đă quốc gia hóa tức là thành Quân Đội Quốc Gia dưới quyền chánh phủ Việt Nam điều khiển, nên Hộ Pháp không c̣n làm Thượng Tôn Quản Thế cho Quân Đội nữa.
Điều thứ nh́.-Các chiến sĩ đă dày công hạn mă thâu hồi độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam đă trót 10 năm chinh chiến đáng trọn quyền lựa chọn hoặc vào hàng ngũ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam hay là trở về cùng Đạo.
Điều thứ ba.-Các cơ quan chánh trị Đạo, Tư Lịnh Bộ và Tham Mưu Bộ Quân Đội Cao Đài, các tư kỳ phận lănh thi hành Thánh Lịnh nầy và thông tri cho các cơ quan chánh trị Đạo cùng toàn thể và binh sĩ đều biết hết.
Lập tại Ṭa Thánh ngày 11 tháng 3 Nhuần Ất Mùi (2-5-1955)
Hộ Pháp
PHẠM CÔNG TẮC
(kư tên và đóng dấu)
BỘ TƯ LỆNH XIN CHO QUÂN ĐỘI DỰ VÀO QUYỀN VẠN LINH
Theo cách nghỉ của tần lớp lănh Đạo Quân Đội, tưởng Quân Đội là một phần của Quyền Vạn Linh, nên đệ đơn lên xin cho Quân Đội vào Hội Quyền Vạn Linh.
Lời Phê Của Đức Hộ Pháp:
“Thật một việc yêu cầu làm cho Bần Đạo khó liệu, Bảo Thế nói với Quân Đội rằng: dầu mảnh thân nầy là sự sống thác của nó Bần Đạo c̣n không tiếc với Quân Đội c̣n kể chi hành tàng xấu hổ. Viết một bức thư xin họ kiếm hiểu “sở năng của thủ đoạn”, tiếng văn minh của Á Đông và tiếng văn minh của Âu Châu là thế nào? (nghĩa là ǵ?)
“Quân Đội không có một phần công lư bị tiêu diệt, mà có Quân Đội là một áp bức bất công không chi b́ kịp. Nó là Thánh mà cũng là phàm, cái Thánh ấy bị đời lợi dụng đặng làm mạnh cái phàm lực của họ.
“Phải, cơ quan Cửu Trùng Đài là cơ quan d́u đời, nên hai ông chủ Cửu Trùng Đài dám lập Quân Đội, mà Hiệp Thiên Đài là cơ quan d́u Đạo, nên ông chủ nó sợ sệt ngại ngùng.
“Biết đâu ngày nay, Bần Đạo mở cửa cho Quân Đội đem quyền hành của nó vào, nó không áp bức, nó không vơ quyền th́ đă, mà cửa ấy không cần mở cho Quân Đội xông vào.
“Thử hỏi ngày kia, nếu quân nhân của ta phải trở về cầm quyền đảm đương quyền Đạo trong Thánh Thể Chí Tôn th́ chẳng lẻ họ c̣n mang vũ khí nơi ḿnh cho tới ngày tận thế đặng.
“Chừng ấy quyền Quân Đội “Đời” mới nhập vào Quyền Vạn Linh, cầm súng cầm gươm nơi tay đưa ngan lên đầu họ, đặng họ kư một mạng lịnh chịu phục dưới mạng lịnh của quyền Đời th́ họ mới nghĩ sao?
“Bần Đạo không cho Quyền Vạn Linh có thủ đoạn v́ lẻ đó. Quân Đội giờ nầy là một cơ quan chánh trị Đạo tạm thời, chỉ đặng quyền làm cơ quan chánh trị Đạo như Cửu Viện của Hội Thánh mà thôi. Chỉ nghĩa là phải có mặt cho Quyền Vạn Linh chất vấn, chớ không phải là một phần tử của Quyền Vạn Linh.
“Vậy Bộ Tư Lệnh, Bộ Tham Mưu, Bộ Chỉ Huy phải có mặt để chịu dưới Quyền Vạn Linh vấn nạn”.
Hộ Pháp
(ấn kư)
Đức Hộ Pháp phê trong tờ xin của ông Chí Thiện Trần Thạnh Mậu đề ngày 10-11-Nhâm Th́n (dl 20-12-1952) cho hai vị Lễ Sanh Tường và Đài c̣n ở lại Bộ Lễ Quân Đội.
LỜI PHÊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP:
“Các Chức Sắc Hội Thánh cũng phải rút ra khỏi Quân Đội hết, kỳ hạng lệ một tháng họ phải về, bằng chẳng họ được từ chức đặng ở lại Quân Đội. Tường, Đài cũng phải rút về…
“Theo Bần Đạo đă biết th́ trong Quân Đội c̣n thiệt số tín đồ Đạo rất ít và Bần Đạo đă biết c̣n bao nhiêu người là ngoại Đạo, nha trảo của mấy vị Đại Sĩ Quan trong Quân Đội; nên mới đang tâm hiếp Đạo, khinh rẻ Hội Thánh.á
“Từ đây Bần Đạo khước từ không làm Thượng Tôn Quản Thế cho Quân Đội nữa, Quân Đội là Quân Đội, c̣n Đạo là Đạo, chẳng c̣n cầu phong “Thánh” đặng nữa, v́ Quân Đội không c̣n thật hành “Bảo Sanh-Nhơn Nghĩa-Đại Đồng”, họ chỉ lợi dụng Đạo đặng lập thân danh quyền lợi của họ mà thôi.
“Nếu có Quân Nhân nào tử chiến hay tử bịnh, phải minh tra rơ là người Đạo hay con của Đạo, chỉ đặng hưởng phần cầu siêu mà thôi. C̣n sanh tử chôn cất đều trọn quyền của Quân Đội định liệu.”
Hộ Pháp
(Ấn Kư)
Các cột mốc quan trọng của QĐCĐ:
1941 Đức Hộ Pháp cùng 5 vị chức sắc của Đạo bị Pháp bắt đem lưu đài ở đảo Madagascar thuộc Châu Phi, Ṭa Thánh bị đóng cửa.
1943 ông Trần Quang Vinh thành lập Đoàn Nội Ứng Nghĩa Binh (tiền thân của QĐCĐ).
1945 Đảo chánh Pháp thành công, sau đó Pháp quay lại đàn áp. Hai chi đội 7, 8 rút vào rừng kháng Pháp.
1946 Đức Hộ Pháp được trả về nước sau 5 năm 2 tháng 3 ngày bị đồ lưu hải đảo Madagascar.
1949 hiệp tác với Pháp nhưng Pháp không thi hành đúng theo hiệp ước, Đức Hộ Pháp bèn ra Thánh Lịnh 149/TL cho QĐ giải giáp đứng trung lập.
1951 Tướng Tŕnh Minh Thế vào rừng núi lập chiến khu kháng chiến chống Pháp.
1954 QĐ bị Đức Hộ Pháp đưa ra khỏi vùng Thánh Địa.
1955 QĐ đă được Quốc Gia hóa tức là Đạo Cao Đài không c̣n QĐ kể từ đây.
III. NHÂN VẬT NỔI TIẾNG TRONG QUÂN ĐỘI
1. TƯỚNG TRẦN QUANG VINH (1897-1977)
Ông Trần Quang Vinh thánh danh Thượng Vinh Thanh, đạo hiệu Hiển Trung, là một chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài với phẩm Phối Sư. Ông là người sáng lập và là Tổng tư lệnh quân đội Cao Đài, đại biểu đạo Cao Đài trong Mặt Trận Việt Minh, chính khách qua các thời kỳ Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng ḥa.
Ông sinh tại Long Xuyên ngày 8 tháng 9 năm 1897. Sau khi tốt nghiệp trường Collège Chasseloup-Laubat, Sài G̣n, ông ra làm Thông Phán ngạch Chính Phủ Pháp bảo hộ tại Nam Vang (Campuchia). Ông nhập môn vào đạo Cao Đài qua đàn cơ tại Nam Vang (Cao Miên) do Đức Hộ Pháp và Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng pḥ loan tháng 6 năm 1927.
Chỉ một tháng sau, ngày 27 tháng 7 năm 1927, ông được ân phong phẩm Lễ Sanh, thánh danh là Thượng Vinh Thanh, chuyên lo hành Đạo tại Kim Biên và tạo dựng Hội Thánh Ngoại Giáo tại đây nhằm mục đích truyền bá Đạo Cao Đài cho người Campuchia và người ngoại quốc khác.
Ngày 2 tháng 4 năm 1930 ông được thăng hàng phẩm Giáo Hữu, giữ trách nhiệm Quản lư Nội Viện, một trong Cửu Viện (tức 9 cơ quan hành đạo Trung ương của Đạo Cao Đài).
Năm 1931, lần đầu tiên ông sang công cán tại Pháp nhân dịp Đấu xảo quốc tế tại Vincennes (Paris). Nhân dịp này, ông truyền bá đạo Cao Đài và phổ độ được tất cả 15 người Pháp, trong đó có 5 người được phong vào hàng chức sắc năm 1932 gồm:
- Tiếp Dẫn Đạo Nhơn: Ông Gabriel Gobron;
- Nữ Giáo Sư: Bà Felicien Challaye;
- Giáo Hữu: Ông Charles Bellan;
- Giáo Hữu: Ông Gabriel Abadie de Lestrac;
- Nữ Lễ sanh: Bà Gabriel Gobron, sau thăng Giáo hữu).
Thông qua các tín đồ người Pháp, ông cũng thực hiện một số cuộc vận động để chính phủ chính quốc Pháp công nhân Đạo Cao Đài. Nhờ công tích này, sau khi từ Pháp trở về, ông được Hội Thánh Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh thăng phẩm Giáo Sư ngày 21 năm 3 tháng 1932, trách nhiệm Phó Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo. Năm 1937, ông được thăng lănh trách nhiệm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo.
Xây dựng lực lượng vũ trang Cao Đài
Năm 1941, quân Nhật tiến vào Đông Dương. Bấy giờ ông làm việc tại xưởng Ba Son, hợp tác với người Nhật qua hăng đóng tàu “Nitinan”. Ông gia nhập Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội, chủ trương ủng hộ Kỳ Ngoại hầu Cường Để, được bầu làm Phó Hội Trưởng. Với sự hậu thuẫn của người Nhật, ông thành lập lực lượng bán quân sự Cao Đài năm 1943 với danh nghĩa pḥ trợ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và giữ chức Đệ Nhứt Tổng Tư Lịnh. Chính lực lượng này tham gia cùng với quân đội Nhật thực hiện cuộc đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945.
Không lâu sau, quân Nhật đầu hàng Đồng Minh và Cách mạng tháng 8 nổ ra. Bấy giờ, lực lượng bán quân sự Cao Đài là một trong những tổ chức bán quân sự được huấn luyện tốt, tổ chức chặt chẽ và có thực lực tại Nam Bộ. Chính v́ vậy, ông được chính quyền lâm thời của Việt Minh tại Nam Bộ mời làm Đại Biểu Đạo Cao Đài trong Mặt Trận Việt Minh, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các tín đồ và tổ chức bán quân sự Cao Đài.
Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, các nhóm lực lượng vũ trang Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh tham chiến tại các mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Sài G̣n. Sau khi vào Nam, đặc phái viên Trung ương Nguyễn B́nh đă tổ chức hội nghị An Phú Xă, thống nhất tổ chức các đơn vị vũ trang thành các chi đội Vệ Quốc đoàn. Lực lượng vũ trang Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh được tổ chức thành 2 chi đội số 7&8.
Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, các mặt trận nhanh chóng tan vỡ. Nhiều đơn vị vũ trang tan ră, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc cao cấp và chỉ huy quân sự Cao Đài đă đưa lực lượng của ḿnh tự rút về Tây Ninh và tự xây dựng các căn cứ để bảo vệ Ṭa Thánh Tây Ninh.
Hành động cát cứ này là lư do để các phần tử Việt Minh quá khích lên án các tín đồ Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh là phản bội. Một vài cuộc xung đột đẫm máu đă nổ ra bắt nguồn từ những tín đồ Cao Đài và các phần tử Việt Minh quá khích. Một số đơn vị vũ trang Cao Đài bị tước khí giới trong những cuộc thanh trừng nội bộ. Ông lúc này đang là đại biểu Cao Đài trong Mặt trận Việt Nam cũng bị bắt tại Chợ Đệm và bị giải giam tại Cà Mau cùng với Giáo Sư Hồ Văn Ngà, Chủ tịch Việt Nam Độc Lập Đảng. Ngày 26 tháng 1 năm, ông vượt ngục thoát được và đến ngày 11 tháng 2 năm 1946 th́ về đến Sài G̣n. Đến ngày 8 tháng 5 năm 1946, ông bị mật thám Pháp bắt giữ và được trả tự do ngày 30 tháng 5 năm 1946 sau 22 ngày giam cầm. Về sau ông bị nhiều thành phần chính trị khác bắt giữ. Theo hồi kư của ông, tổng thời gian ông bị giam cầm là 312 ngày (10 tháng lẻ 12 ngày).
Chức sắc và chính khách Cao Đài
Nhằm chia cắt một lực lượng tôn giáo mạnh với Mặt Trận Việt Minh, người Pháp chấp nhận trả tự do cho Đức Hộ Pháp Hộ, đổi lại việc các tín đồ Cao Đài sẽ không tấn công người Pháp. Lực lượng vũ trang Cao Đài được kiện toàn thành Quân Đội Cao Đài, được người Pháp trang bị và huấn luyện để chống lại Việt Minh. Tổng hành dinh của Quân đội Cao Đài đặt tại Bến Kéo, Tây Ninh. Riêng ông được Đức Hộ Pháp bổ nhiệm chính thức làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài với cấp bậc Trung Tướng, Đại diện Hộ pháp về mặt quân sự. Ông giữ chức vụ này đến năm 1951 th́ chuyển giao cho Trung tướng Nguyễn Văn Thành.
Ngày 15 tháng 2 năm 1948, ông được thăng phẩm Phối Sư, đặc trách việc giao thiệp đối ngoại. Sau khi chính phủ Quốc Gia Việt Nam được thành lập, ông lần lượt giữ các chức vụ:
- Bộ Trưởng Quốc Pḥng trong chính phủ Nguyễn Văn Xuân (từ 1 tháng 6 năm 1948 đến 30 tháng 6 năm 1949), và chính phủ Bảo Đại (từ 1 tháng 7 năm 1949 đến 31 tháng 1 năm 1950).
- Tổng Trưởng Bộ Quân Lực trong chính phủ Trần Văn Hữu (từ 6 tháng 5 năm 1950 đến 28 tháng 2 năm 1951); Công cán Chính phủ về Quân sự tại Pháp quốc trong thời gian 6 tháng kể từ ngày 9 tháng 3 năm 1951.
Trở về Ṭa Thánh Tây Ninh, ông lần lượt được Hội Thánh trau nhiều chức vụ cao cấp như:
· Ngày 12 tháng 2 năm 1952, Phối sư Cố vấn Hành Chánh Đạo kiêm Thượng Thống Hộ Viện.
· Ngày 12 tháng 3 năm 1952, Cố vấn cho Chỉ Huy Cơ Thánh Vệ.
· Ngày 25 tháng 4 năm 1952, Trưởng Ban Kinh tế.
· Ngày 28 tháng 6 năm 1952, Nghị Trưởng Hội Đồng Tối Cao.
· Ngày 25 tháng 1 năm 1953, Tổng Giám Đốc Ban Kinh Tế Trung Ương Ṭa Thánh Tây Ninh.
· Ngày 26 tháng 2 năm 1953, thay quyền 3 Chánh Phối Sư tiếp quan khách và đi dự các Hội nhóm ngoài Đời khi có thư mời.
Tháng 10 năm 1953, Đức Hộ Pháp cách chức Trung tướng Nguyễn Văn Thành, và bổ nhiệm ông làm quyền Chỉ Huy Trưởng Quân Đội Cao Đài. Tuy nhiên, ngày 1 tháng 11 năm 1953, Chỉ Huy Trưởng Cơ Thánh Vệ là Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương và Tướng Tŕnh Minh Thế đă tổ chức bắt cóc ông giam lỏng tại căn cứ Bà Đen của quân Cao Đài Liên Minh và gây áp lực buộc Đức Hộ Pháp phải bổ nhiệm Phương vào chức vụ Chỉ huy trưởng Quân đội Cao Đài. Măi đến ngày 18 tháng 4 năm 1954, ông mới được trả tự do. Để tránh xung đột với tướng Nguyễn Thành Phương, Đức Hộ Pháp Hộ Pháp chấp nhận cho ông sang Pháp hành Đạo.
Ông tiếp tục giai đoạn truyền Đạo tại Pháp măi đến ngày 30 tháng 10 năm 1961, mới được lănh đạo Ṭa Thánh bấy giờ là Đức Thượng Sanh triệu hồi về Ṭa Thánh với trách nhiệm làm Phối Sư Đặc Nhiệm Cố Vấn cho 3 Chánh Phối Sư, đặc trách giao thiệp với chính phủ và chính quyền địa phương, với quốc tế, với các chi phái, kiêm Trưởng Ban Huấn Đạo. Ngày 20 tháng 1 năm 1964, ông lănh chức Trưởng ban Phổ Tế Hải Ngoại. Ông giữ các chức vụ trên đây đến ngày 26 tháng 3 năm 1964.
Khi Thượng Hội đồng Quốc gia Việt Nam Cộng ḥa được thành lập, ông được mời tham gia Hội đồng và được bầu làm Phó chủ tịch từ 24 tháng 9 năm 1964 đến 19 tháng 12 năm 1964; sau đó ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp Việt Nam Cộng Ḥa từ 17 tháng 2 năm 1965 đến 19 tháng 6 năm 1965.
Kết cục buồn
Chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số binh sĩ của Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam tiến vào Ṭa Thánh Tây Ninh bắt ông dẫn qua núi Bà Đen. Cũng từ đó không ai biết về số phận của ông nữa.
Căn cứ vào giấy báo tử của chánh quyền gửi cho gia đ́nh ông chúng ta biết được ông mất vào 0h45 ngày 25-01-1977 tại bệnh viện Công An Nhân Dân, chôn tại nghĩa trang Chí Ḥa TP.HCM. Ngày bị bắt ghi là 5-12-1975 can tội Trung Tướng T́nh Báo Pháp. Ngày nhập viện 21-01-1977. Lư do chết ghi là Xuất huyết năo do cao huyết áp.
Gia đ́nh
Ông có 2 người con là các chức sắc Cao Đài:
· Trần Kim Huệ, phẩm Hiền Tài
· Trần Quang Cảnh, phẩm Lễ Sanh
(Nguồn trích từ Wikipedia và một số tài liệu khác)
***
Để t́m hiểu thêm v́ sao Tướng Tŕnh Minh Thế bắt ông Trần Quang Vinh giam lỏng ở núi Bà Đen chúng tôi xin trích một đoạn trong quyển “Hồi Kư của ông Trần Quang Vinh”:
Nguyên do tại sao ông Phối Sư THƯỢNG VINH THANH TRẦN QUANG VINH bị bắt? Ngày 1–11–1953, Phối Sư THƯỢNG VINH THANH đắc lịnh Đức Hộ Pháp triệu tập một phiên họp gồm 39 vị Chức Sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện. Mục đích chính là bỏ thăm chọn vị Tổng Tư Lịnh Quân Đội Cao-Đài, trong hai vị Sĩ Quan, Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương và Đại Tá Lê Văn Tất. Phiên họp đặt dưới quyền chủ tọa của Phối Sư THƯỢNG VINH THANH.
Kết cuộc bỏ thăm kín là:
Đại Tá Lê Văn Tất: 35 lá thăm
Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương: 1 lá thăm
Ngoài ra c̣n có 3 lá trắng.
Cuộc họp bắt đầu từ 9 giờ ban mai đến 12 giờ trưa măn hội. Liền đó, thám tử của Thiếu Tướng Phương liền đi báo cáo kết quả của cuộc bỏ thăm này với Thiếu Tướng.
Ông này khẩn cấp cho Thiếu Tướng Liên Minh Trịnh Minh Thế hay và thảo kế hoạch tối lại đem binh bao nhà bắt Ông Phối Sư THƯỢNG VINH THANH, bởi hai vị tướng này quả quyết là tại áp lực của Ông Phối Sư nên Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương thất cử. Tối lại cỡ 8 giờ, trong lúc có ít người bạn và ông Phối Sư vừa dùng xong cơm chiều, th́ Tướng Trịnh Minh Thế âm thầm điều khiển binh lính bao vây biệt thự ông Phối Sư mà trong nhà không ai hay biết là cơ nguy sắp tới. Bao nhà xong, Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế cho một tên lính vào nhà mời ông Phối Sư ra ngoài nói chuyện và gạt rằng nhờ cậy ông Phối Sư cùng đi với ông Tướng xuống Trí Huệ Cung hầu chuyện cùng Đức Hộ-Pháp. Không thể từ chối, ông Phối Sư cáo lỗi cùng các bạn khách dùng cơm vừa xong để đi một lát, mặc dầu có tâm linh báo hiệu rằng đây là một tin chẳng lành, nên sở cậy một người bạn hiện diện là Đại Tá Nguyễn Văn Kiết cùng đi.
Đi xe hơi nhà, xe Ford. Đi một đỗi th́ Tướng Thế dành lái xe. Ngừng xe lại, Phối Sư giao tay lái, nhân dịp ấy Tướng Thế mời Đại Tá Kiết ở lại, không cho theo. Phối Sư có cảm tưởng rằng việc chẳng lành sắp tới, nhưng đành bấm gan mà chịu. Tướng Thế lái xe chạy xuống khỏi Qui Thiện rồi trở lại, sau xe có hai tên lính có súng, dọc đường rải truyền đơn nói về vụ bắt cóc ông Phối Sư THƯỢNG VINH THANH, bận đi cũng như bận về.
Bận về cũng về một đường, ra cửa số 2 Ṭa Thánh, ngang qua biệt thự ông Phối Sư, đi luôn xuống đất Nghĩa Địa, bỏ xe ven ruộng, chỗ có bốn năm tên lính có súng chực sẵn, dẫn ông Phối Sư đi bộ băng ngang qua ruộng đầy śnh lầy, có lúc phải lội nước sâu tới đầu gối. Lội được chừng ba bốn cây số, bỗng nghe một tiếng nổ vang trời, sau biết lại là Tướng Thế dùng ḿn giựt cho nổ tan tành chiếc xe Ford c̣n mới của riêng ông Phối Sư. Đi gần tới núi, ghé lại một cái cḥi tranh nghỉ mệt, nơi đây gặp Đại Tá Nguyễn Kim Vinh cũng đă bị lính của Thiếu Tướng Thế bao nhà bắt dẫn đến đó đợi. Nghỉ chừng 15 phút, nội bọn dẫn ông Phối Sư và Đại Tá tiếp tục hành tŕnh, thẳng xông vào núi. Tới chân núi, đi bọc theo chiều dài triền núi, đi khỏi Núi Bà th́ tới Núi Heo, lúc ấy khoảng 2 giờ khuya, tới một cái cḥi cất trên cao có lính gác, ở tạm nơi đó cho tới sáng.
Đường đi gồ ghề, cỏ cây rậm rạp, phải lướt càng đi, gót chân trái của ông Phối Sư bị giày cạ rát da, lở tới thịt, máu chảy đau đớn, cũng phải cắn răng mà chịu, chạy theo đoàn người. Dọc đường lại gặp hai cộng sự viên của Tướng Thế là Nhị Lang và Nguyễn Văn Phương đón sẵn, rồi hiệp đoàn cùng đi cho tới Núi Heo. Nghỉ tạm nơi cḥi canh ở chân núi cho đến sáng lối 8 giờ th́ họ dẫn leo núi, hết sức cực nhọc cam go và nguy hiểm. 9 giờ rưỡi th́ tới chỗ ở của Đại Tá Trương Lương Thiện tạm đóng. Bị giam lỏng nơi đây 7 ngày, Tướng Thế cho lính dẫn đến một nơi khác, dựa bờ núi, trên cao có cất sẵn một mé trại lợp tranh lót vạc tre, để sẵn ba cái c̣ng sắt nối liền vào một cây sắt dài.
Đại Tá Nguyễn Kim Vinh bị c̣ng hai chân, c̣n Phối Sư th́ bị c̣ng một chân, có ba nhân viên canh gác thường xuyên, thêm một phụ nữ nấu cơm cũng ở chung nơi cḥi canh. Một chập sau th́ Tướng Thế với hai lính phụ trách cầm một cây súng máy, hai súng trường, đến quan sát và mắng nhiễu đủ điều nên thậm tệ. Từ đây Phối Sư và Đại Tá Vinh phải chung chịu số phận như vậy, cứ nằm một chỗ mà chịu. Ban đêm lạnh buốt xương v́ là nhằm mùa Đông, hơi lạnh trong đá xông ra làm cho lạnh run phát lănh, không có mền đắp, chỉ có một tấm vải mỏng (tấm drap) choàng đắp hai người tạm đỡ vậy thôi. Có một điều nên để ư là mé cḥi giam lại ngó mặt về hướng Ṭa Thánh, trông thấy lầu Hiệp Thiên Đài cao ṿi vọi, tiếng trống canh giờ ở Ṭa Thánh nghe được rơ ràng.
Bị giam cầm nơi đây lối vài tháng, được mở c̣ng, dời đến một chỗ khác gần bên Tổng Hành Dinh, khỏi c̣ng được vài tuần lễ, lại bị đổi đi nơi khác nữa, nơi này là cựu dưỡng đường đă bỏ trống, chung quanh có bảng cấm đề hai chữ “Tử Địa”. Trước đó, Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế đă bí mật ra lệnh cho nhân viên canh gác lỏn ra đây làm vách lá che một cái pḥng kín, có lót vạc tre và để sẵn ba cái c̣ng dính trong cây sắt dài y như lúc Phối Sư và Đại Tá Nguyễn Kim Vinh bị nhốt lúc ban sơ. Dẫn đến nơi này, hai tù nhân bị nhốt c̣ng lại một phen nữa, rồi từ đây nằm đó mà chịu số phận.
Tưởng vậy là êm, không ngờ ít ngày sau có lịnh Tướng Thế bảo nhân viên đem đến hai giây xiềng bằng ḷi tói, xiềng thêm vào hai chân, nghĩa là phía hai đầu ḷi tói có hai khoen sắt có vặn chốt khóa, và được mở ra để cho đi tiêu, tiểu hoặc đi tắm, nhưng vẫn mang sợi ḷi tói theo, v́ hai đầu ḷi tói bị hai khoen sắt dính vào chân, phải mang luôn cả xiềng và ḷi tói mới bước được. Mỗi tuần lễ, được phép đi tắm một lần, luôn dịp giặt quần áo, tắm một nơi có mồi nước cách xa chỗ giam lối 300 thước.
Phối Sư Thượng Vinh Thanh và Đại Tá Nguyễn Kim Vinh đồng bị chung một hoàn cảnh, nhưng vài tuần sau th́ có lịnh phải xếp hai sợi giây ḷi tói của Đại Tá cho cụt, thành thử lúc đi tắm đường xa mà phải nương theo sợi ḷi tói đă rút ngắn để bước từ bước một cũng như người đàn bà mới sanh phải từ từ mà bước. C̣n Phối Sư th́ may mắn thay, khỏi bị thâu ngắn giây ḷi tói, nên lúc đi tắm th́ tay nương sợi ḷi tói cầm trên tay, chân bước đặng bước dài, dễ dàng hơn.
Cả ba nơi giam giữ hai tù nhân không một nhân viên nào của Tướng Trịnh Minh Thế được bén mảng đến, dầu là Đại Tá Trương Lương Thiện, Tham Mưu Trưởng, cũng không biết nơi nào là chỗ giam giữ ông Phối Sư và Đại Tá Vinh.
Trót năm tháng trời chịu đựng khổ nạn, bây giờ đến thời kỳ xem có ṃi dễ dăi là có cảm giác sắp được phóng thích, nhờ sự can thiệp gắt gao tận t́nh của Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc. Ban sơ, sau khi thọ nạn, Đức Ngài cũng nhiều phen can thiệp, nhưng gặp những lời hứa suông của Tướng Thế, cho đến lúc Đức Ngài sắp xuất ngoại sang Pháp, có nhiều nhân vật ở Sài g̣n, nhứt là Đức Quốc Trưởng Bảo Đại và Thiếu Tướng Lê Văn Viễn yêu cầu và thúc giục Đức Hộ-Pháp phải làm thế nào giải thoát cho Phối Sư trước khi sang Pháp. Đây là giai đoạn chót trong sự can thiệp rất quyết liệt của Đức Hộ-Pháp, nên Tướng Trịnh Minh Thế hứa danh dự một phen chót rằng sẽ trả tự do lại cho Phối Sư THƯỢNG VINH THANH trong một ngày gần đây, lại c̣n định ngày thả.
Tuy nhiên, lần này Tướng Thế dùng một đ̣n chánh trị để nâng cao oai quyền của người là trước khi trả tự do, người sẽ lập một Ṭa Án nhân dân đem Phối Sư ra xử rồi mới thả. Cũng v́ lời hứa danh dự ấy nên khi trở về núi, người ra lịnh cho tháo c̣ng, mở xiềng, cho tự do nhưng c̣n giữ đó. Vài hôm sau, người cho phép Phối Sư và Đại Tá Nguyễn Kim Vinh đến ăn ở chung với nhân viên tại Bộ Tư Lịnh Liên Minh.
Trong thời gian này, Tướng Trịnh Minh Thế giở thủ đoạn thiết lập Ṭa Án nhân dân dưới triền Núi Bà, định ngày xử và ra lịnh cho toàn dân chúng ở vùng Thánh Địa, phía Núi Bà đến ngày đă định, phải tựu hợp tất cả để dự phiên xử, gia đ́nh nào không đến sẽ bị hậu quả trả thù. V́ thế mà đến ngày xử, có trót mấy trăm đạo hữu cỡi xe đạp đến nơi chực hờ sẵn đó.
C̣n phần ông Phối Sư th́ có lịnh phải sắp xếp đồ đạc đem xuống núi với lời hứa là sau phiên Ṭa xử về “h́nh thức”, sẽ được trả tự do.
Đến ngày xử, lời truyền cho biết đây là Ṭa Án Nhân Dân (cũng giống như Cộng Sản). Nhân viên dẫn ông Phối Sư xuống núi, đến nơi để riêng một pḥng, cho ăn một buổi cơm sơ sài, rồi đem ra trước Ṭa.
Phiên Ṭa gồm có Đại Tá Trương Lương Thiện ngồi ghế Chánh Án, hai bên có hai vị Sĩ Quan Liên Minh ngồi tả hữu. Khởi đọc bản cáo trạng và đặt câu hỏi bị can đủ thứ, toàn là những câu hỏi buộc tội, bị can không thốt ra một lời, chỉ có dạ dạ vâng vâng, trông cho xuôi bề, dầu biết ḿnh bị tố cáo oan. Vẫn biết trước là đă có sự sắp đặt về h́nh thức v́ có lời hứa của Tướng Thế là sau phiên xử sẽ thả ngay, nên Phối Sư trông cho mau rồi.
Sau bao nhiêu câu hỏi buộc tội, tới phiên Trạng Sư bào chữa: Trạng Sư chỉ định là ông Nguyễn Văn Phương, ông này cũng dùng đủ lư lẽ để binh vực bị can, cũng là h́nh thức. Kế tiếp th́ có ông Hồ Bảo Đạo, Sứ Giả của Đức Hộ-Pháp, vâng lịnh Đức Ngài đến dự phiên xử, được phép nói lên tiếng nói của Hội Thánh. Ông đọc một bài bào chữa, toàn là dùng lời đạo đức, kêu sự khoan dung của Ṭa. Khi ông dứt lời, Ṭa tạm ngưng lui vào hậu đường lối 15 phút rồi trở ra tuyên đọc bản án: “Xử tử h́nh treo 10 năm, cấm không cho làm chánh trị, nếu trong thời hạn 10 năm mà c̣n làm chánh trị th́ sẽ bị hành h́nh”. Phiên Ṭa đă chấm dứt, nhân viên đều giải tán.
Phối Sư THƯỢNG VINH THANH tưởng đâu vậy là xong, sẽ được trả tự do, dè đâu Tướng Trịnh Minh Thế, từ Tổng Hành Dinh trên núi điện thoại xuống, bảo nhân viên dẫn ông Phối Sư trở lên núi thay v́ thả ông. Đây cũng là một đ̣n tâm lư chánh trị xảo quyệt, mặc dầu đă hứa thả sau phiên xử “h́nh thức”, Tướng Thế c̣n dùng thủ đoạn hăm dọa, nghĩa là cho mọi người có cảm tưởng rằng ông Phối Sư bị bắt lại. Có vài đạo hữu của Đức Hộ-Pháp phái đến để rước ông Phối Sư, họ cho biết rằng có lịnh Đức Ngài bảo sau khi ông Phối Sư được thả th́ đem vô thẳng Trí Huệ Cung giáp mặt Đức Ngài liền. Nhưng thái độ của Tướng Thế làm cho Đức Hộ-Pháp thất vọng, mà toàn thể chư tín đồ có dự phiên xử cũng đều thất vọng.
Khi ông Phối Sư bị dẫn trở lên núi, đến Tổng Hành Dinh th́ Tướng Trịnh Minh Thế không hề nói rơ lư do tại sao bắt trở lên, nhưng ông ra lịnh cho tất cả nhân viên của ông phải đối đăi tử tế, cho ăn chung một mâm, ngủ chung một pḥng.
Về phần Đại Tá Nguyễn Kim Vinh, không bị xử nhung cũng hưởng được chế độ khoan hồng và ưu đăi như ông Phối Sư vậy.
Ở trong t́nh trạng này lối sáu bảy ngày, th́ một hôm, Thiếu Tướng Trịnh Minh Thế ra lịnh cho nhân viên bảo hôm sau đưa ông Phối Sư xuống núi, c̣n Đại Tá Nguyễn Kim Vinh th́ ở lại.
Có lịnh đưa ông Phối Sư về suối Canh Năm, gần Ṭa Thánh. Nơi đây th́ đă có mặt Tướng Thế đă xuống trước chực sẵn ở đó. Phen này, xem ṃi ông Tướng hơi cởi mở, nói chuyện nầy, chuyện nọ với ông Phối Sư và dọn cơm cùng ăn chung mâm, buổi trưa và chiều. Tối lại, lúc 7 giờ, ông Tướng cho người đi xe máy đạp chở ông Phối Sư ra nhà Thiếu Tá Long ở Đại Lộ B́nh Dương Đạo, cách Ṭa Thánh lối 300 thước với một bao đồ dùng của ông.
Lúc ấy trời mưa tầm tă, phải đợi cho tạnh mưa mới đi được, mưa vẫn không dứt, phải nán đợi, v́ ngoài đường bị bùn lầy trơn trợt ướt át, không lội được. Ông Phối Sư bèn viết giấy mượn người nhà Thiếu Tá Long đem đến nhà Đại Tá Nguyễn Văn Kiết mượn xe hơi ra rước, lúc ấy là hơn 8 giờ rưỡi tối. Một chập sau, xe đến rước, ông Phối Sư nh́n lại th́ thấy có hai nhân viên của Tướng Thế theo bén gót, họ đi xe máy nên không thể nào theo dơi xe hơi được. Ông Phối Sư bảo tài xế lái xe xuống Trí Huệ Cung, ra mắt Đức Hộ-Pháp. Đức Ngài gặp bất ngờ, tỏ vẻ mừng rỡ, nói “Hiển Trung đă thoát nạn”. Mời vào pḥng khách, thầy tṛ hàn huyên. Ông Phối Sư thuật lại mọi việc đă xảy ra từ ngày bị bắt bị giam, cho đến khi trả tự do:
Bị bắt ngày 1–11–1953, 8 giờ tối.
Ngày trả tự do 18–4–1954, cũng lối 8 giờ tối, tính ra là 5 tháng 18 ngày.
Tiếp kiến Đức Hộ-Pháp xong, trở về Ṭa Thánh lối 10 giờ đêm, nghỉ tại nhà khách Giáo Tông Đường, nhưng luôn luôn lúc nào cũng có mật vụ của Tướng Thế theo giữ, ban đêm th́ họ canh gác phía ngoài nhà khách, c̣n ban ngày th́ hễ ông Phối Sư đi đâu th́ phía sau xa xa vẫn có họ theo đó.
Về phần Đại Tá Nguyễn Kim Vinh th́ bị lưu lại núi, chưa được thả, mà Tướng Thế cứ giữ vẻ bí mật, không hề đề cập đến trường hợp của Đại Tá. Nguyên do Đại Tá Vinh bị nạn là do việc “kinh tài” mà ra.
Tướng Thế buộc Đại Tá Vinh phải nộp một trăm ngàn đồng bạc mới được tha. Thật ra th́ Đại Tá đâu có số bạc to tát như thế mà nạp, nên bị hăm dọa đủ điều. Có lần, nửa đêm khuya, Đại Tá bị dẫn đi, có lính cầm súng máy, súng mút theo, dàn dá sắp đặt cuộc khủng bố tinh thần cũng như đem đi bắn (xử tử), dẫn đến một nơi bí mật nào đó, hăm dọa phải nộp số tiền cho đủ th́ thoát chết, nhưng t́nh thiệt nếu Đại Tá Vinh có số bạc th́ tiếc ǵ mà không hứa để chuộc mạng? Đại Tá giữ thái độ b́nh tĩnh và xin chịu bắn chứ tiền tới một trăm ngàn th́ vô phương, nhưng có hứa sẽ viết thư gởi về cho gia đ́nh và bạn bè lo (thư sẽ do nhân viên của Tướng Thế đem đi).
Sau sự khủng bố th́ Đại Tá bị đem trở lại giam c̣ng lại như trước.
Ngày sau, Đại Tá viết thư cho vợ bảo bán bầy heo đang nuôi được 12 ngàn đem nộp. Viết thư cho Đại Tá Nguyễn Văn Kiết gởi thêm được 30 ngàn. Viết thư cho các bạn bè khá giả có trại cưa, gom góp được 60 ngàn, cũng đem nạp, vị chi tất cả là 102 ngàn, thay v́ 100 ngàn. Mặc dầu Tướng Thế có hứa với Đại Tá Vinh rằng khi nào nạp đủ 100 ngàn th́ thả ngay, thả liền, nhưng khi nạp xong, Tướng Thế lại làm lơ, không thả.
Ấy là đại cương, c̣n tiểu tiết trong lúc bị giam, nhất là về phần khủng bố tinh thần không sao kể xiết.
Lúc Ông Phối Sư THƯỢNG VINH THANH ở nhà khách Giáo Tông Bị giam cầm ở Núi Heo (đầu Núi Bà) hết 5 tháng 18 ngày, khi được thả về Ṭa Thành, tưởng đâu tai nạn đă măn, không dè c̣n bị Tướng Thế dùng thủ đoạn khủng bố thêm nữa. Bị nhân viên mật vụ của Tướng Thế theo sát bên chân, lúc nào ở trong pḥng th́ bị gác phía ngoài, nghĩa là không phương trốn thoát được. Lúc đi ra ngoài th́ vẫn có họ theo giữ. Anh em trong hàng Chức Sắc cũng dè dặt, khi đến thăm th́ chỉ nói về việc Đạo chứ không dám hỏi han về việc bị bắt bớ giam cầm. Lại có người đến thăm ông Phối Sư bị mật vụ biên tên, nên họ rất sợ sệt, bởi lúc đó ai cũng ngán hành vi của Tướng Tŕnh Minh Thế. Biên tên người đến viếng đây là một h́nh thức hăm dọa vậy thôi, chứ về sau không có Chức Sắc nào bị trả thù.
Hết sức bực ḿnh khó chịu, nên ông Phối Sư THƯỢNG VINH THANH viết thư cho Đức Hộ-Pháp lúc ấy đă sang Pháp rồi, tỏ vẻ lo âu, sợ Tướng Thế cố tâm bắt trở lại th́ phen này khó gỡ. Lễ Sanh Ngô Khai Minh dâng ư kiến xin Đức Ngài cho phép đánh điện tín về Ṭa Thánh, đ̣i gởi Phối Sư THƯỢNG VINH THANH sang Paris để phổ thông chơn Đạo. Đức Hộ-Pháp đồng ư, thế là điện tín được gởi đi liền theo đó.
Ở Ṭa Thánh, ngày 21–6–1954, lối 9 giờ sáng, trong khi ông Cao Tiếp Đạo cũng ngụ tại nhà khách Giáo Tông Đường, ông Phối Sư THƯỢNG VINH THANH và Đại Tá Nguyễn Văn Kiết đang ngồi tṛ chuyện nơi bộ salon để giữa hành lang, th́ có Thơ Lại mang đến một điện văn gởi cho Hội Thánh. Lúc đó, ông Cao Tiếp Đạo đă là Cố Vấn Hành Chánh Đạo, thế Phối Sư THƯỢNG VINH THANH, nên ông nhân danh Hội Thánh nhận bức điện văn. Giở ra xem th́ thấy Đức Hộ-Pháp ra lịnh cho Hội Thánh phải thuyên bổ tức cấp Phối Sư THƯỢNG VINH THANH qua Pháp hành Đạo. May là điện văn bằng tiếng Pháp, văn pḥng Thơ Lại không ai biết chữ Pháp mà đọc và cũng không ai để ư nên không một Chức Sắc nào hiểu việc này ngoài ông Cao Tiếp Đạo.
Phối Sư bèn bàn với ông Tiếp Đạo và Đại Tá Kiết nên giữ bí mật việc này, khoan trao bức điện tín cho Hội Thánh, v́ nếu Hội Thánh hay th́ đổ bể ra, ắt là Tướng Thế sẽ hay, mà Tướng Thế hay th́ phần chắc là sẽ ngăn cản và c̣n có thể bắt ông Phối Sư đem giam trên núi một phen nữa, mà phen này có thể nguy hiểm hơn phen trước.
Phối Sư lại thảo kế hoạch: “Sẵn Đại Tá Kiết có xe hơi nên mượn xe, định sáng hôm sau th́ đưa ông Phối Sư về Saigon, việc này phải giữ hết sức bí mật, sợ lộ ra cho Tướng Thế hay th́ mọi việc đổ vỡ. C̣n bức điện tín th́ ông Tiếp Đạo giữ đó, đợi ông Phối Sư đi rồi sẽ tŕnh lên Hội Thánh.
Ngày 22–6–1954, 5 giờ sáng, Đại Tá Kiết đă đem xe hơi đậu bên ven rừng Thiên Nhiên chực sẵn, ông Phối Sư nghe tiếng xe th́ đă hiểu ư, liền cùng với đạo hữu Tiên là Tiểu Đồng của ông mang khăn áo ra xe, ḷn phía cửa sau nhà khách, qua cửa hông hàng rào chạy bọc dài theo rừng Thiên Nhiên, đến xe có tài xế mở sẵn cửa, ông Phối Sư nhảy lên, xe rời Ṭa Thánh tức cấp. Tiểu Đồng Tiên ở lại rơi lụy. Đại Tá Kiết đưa Phối Sư tới cửa số 4 th́ xuống xe ở lại, chỉ c̣n lại trên xe có tài xế, một phụ xế và ông Phối Sư THƯỢNG VINH THANH. Lúc ấy trời chưa sáng, mấy nhân viên canh gác thức khuya, họ mệt mỏi ngủ mê nên không hay biết chi hết.
Sáng ngày (22–6–11954), lúc 8 giờ rưỡi, nhân viên canh gác không thấy ông Phối Sư ra ngoài như thường bữa, họ vào pḥng xem trống, họ hỏi đạo hữu Tiên là tiểu đồng của ông Phối Sư, tiểu đồng làm bộ ngơ ngác, nói không biết ông thức dậy rồi đi đâu đó. Họ gạn hỏi rồi tát em Tiên mấy cái nẩy lửa, cũng may là họ không tra khảo, để ngày giờ đi báo cáo với Tướng Trịnh Minh Thế.
Cũng giờ ấy (8 giờ rưỡi), ông Phối Sư đă tới Saigon, thay v́ bảo tài xế đưa ông về nhà, ông bảo đưa ông qua Tổng Hành Dinh B́nh Xuyên, bên kia cầu chữ Y. Ấy là kế hoạch pḥng khi tài xế trở về Ṭa Thánh mà lộ liễu th́ trả lời bằng sự thật là có đưa ông Phối Sư qua Tổng Hành Dinh B́nh Xuyên. Nơi đây ông Thiếu Tướng Lê Văn Viễn và các anh em, trong đó có bạn Trần Văn Ân, đều mừng rỡ. Thiếu Tướng Viễn mừng ôm ông Phối Sư vào ḷng để tỏ vẻ vui mừng, nhất là biết ông c̣n sống trở về, v́ lúc ấy thiên hạ đồn đăi là Tướng Tŕnh Minh Thế có thể thủ tiêu ông rồi. Ông Phối Sư ở Tổng Hành Dinh B́nh Xuyên trọn ngày, chiều lại th́ Thiếu Tướng Lê Văn Viễn cho xe đưa ông về nhà ông ở đường Trần Hưng Đạo.
Thời Gian Ông Phối Sư Ở Saigon Và Sang Pháp Nghỉ dưỡng sức ba hôm, ông Phối Sư đến dinh Gia Long viếng Thủ Tướng Bửu Lộc và Đổng Lư Văn Pḥng Ưng An. V́ có cho hay trước, nên khi ông Phối Sư đến thềm cửa th́ được tiếp rước bằng lễ nghi quân cách, v́ dầu sao ông cũng là cựu Tổng Trưởng Bộ Quân Lực và Bộ Quốc Pḥng.
Thủ Tướng tiếp kiến ông Phối Sư tại văn pḥng. Sau cuộc bắt tay mừng rỡ và chuyện tṛ trót nửa giờ, ông Phối Sư thừa dịp xin Thủ Tướng cho phép xuất ngoại sang Pháp dưỡng bịnh, được chấp thuận dễ dàng và liền đó Tướng bảo Hoàng Thân Ưng An làm giấy phép trao liền.
Ngày 30–6–1954, nhân một buổi cơm thân mật do Thiếu Tướng Lê Văn Viễn khoản đăi để mừng ngày hội ngộ, ông Phối Sư bèn xin ông Tướng ra lịnh cấp cho một giấy thông hành (passeport) sang Pháp, v́ lúc ấy Sở Công An của Chánh Phủ thuộc về quyền của người. Sẵn dịp có ông Tôn, Chủ Sự Pḥng Thông Hành, Thiếu Tướng bảo ông này sáng mai làm sẵn rồi tối đem lại nhà cho Thiếu Tướng và mời luôn ông Phối Sư tối mai đến chơi, luôn dịp nhận thông hành. Sự việc được mau lẹ dễ dàng là nhờ ông Phối Sư có sẵn giấy thông hành cũ và có sẵn h́nh để dán vào.
Ngày đáp phi cơ sang Paris là ngày 4–7–1954.
Ngày 5–7–1954, lối 10 giờ, đă đến phi trường Orly có Lễ Sanh Ngô Khai Minh đem xe hơi ra đón, rước về khách sạn Georges V là nơi Đức Hộ-Pháp cư ngụ. Cô Ba Cầm và ông Hồ Bảo Đạo cũng ngụ nơi đây, c̣n bổn bộ của Đức Hộ-Pháp th́ ở khách sạn khác cũng gần đó, gồm có ông Giáo Sư Thượng Tuy Thanh, Đại Tá Lê Văn Tất, Trung Tá Nguyễn Thái và đạo hữu Quang.
Đức Hộ-Pháp gặp lại ông Phối Sư, cũng tỏ vẻ mừng rỡ và hỏi han chuyện tṛ. Ông Phối Sư thuê pḥng ở luôn tại khách sạn này. Từ đây ông Phối Sư mới được yên dưỡng nơi đây cho đến ngày 20–7–1954 là ngày Đức Hộ-Pháp và đoàn tùy tùng hồi hương. Tính ra là Đức Ngài sang Pháp từ 20–5–1954 cho đến ngày trở về Ṭa Thánh là 20–7–1954, trọn vẹn hai tháng.
Sau ngày 20–7–1954, ông Phối Sư THƯỢNG VINH THANH rời khách sạn Georges V đi Nancy thăm hai đứa con trai đang du học. Mười ngày sau trở về Paris dưỡng sức cho đến ngày 4 Novembre 1954 mới trở về Saigon.
Tới đây là chấm dứt một giai đoạn lịch sử mà Phối Sư THƯỢNG VINH THANH thủ vai tuồng chính, lúc vinh cũng như hồi nhục.
Viết tại Ṭa Thánh Tây Ninh
Ngày rằm tháng Hai năm Nhâm Tư (dl. 29 Mars 1972)
Phối Sư THƯỢNG VINH THANH
TRẦN QUANG VINH
2. NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG
Ông sinh năm 1912 tại Rạch Giá (Kiên Giang), miền Tây Nam phần trong một gia đ́nh đại điền chủ giàu có. Em ông Nguyễn Thành Danh (nguyên cựu Đại Tá Trưởng pḥng đệ nhứt Quân đội Cao Đài, nguyên Tổng Thư Kư Đảng Việt Nam Phục Quốc Hội)
Năm 1950, ông được phong cấp Đại Tá và được cử làm Tham Mưu Trưởng Quân Đội Cao Đài Liên Minh với Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thành lên Trung Tướng làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài.
Năm 1953, ông được vinh thăng hàm Thiếu Tướng Cao Đài kiêm thêm chức Uỷ Viên thường trực Việt Nam Phục Quốc Hội.
Tháng 7 năm 1954, do bất đồng chính kiến, ông cùng với tướng Tŕnh Minh Thế âm mưu bắt cóc tướng Trần Quang Vinh đem giam ở núi Bà Đen. Sau đó ông được phong cấp Trung Tướng cử làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài. Cùng thời điểm này ông ra hợp tác với Thủ Tướng Diệm. Ngày 24 tháng 9 cùng năm, ông được đồng hoá cấp hàm Thiếu Tướng Quân Đội Quốc Gia và được giữ chức Quốc Vụ Khanh kiêm Uỷ Viên Hội Đồng Quốc Pḥng trong nội các của Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm.
Ngày 31 tháng 3 năm 1955, ông từ nhiệm chức Quốc Vụ Khanh và Uỷ Viên Quốc Pḥng. Ngay sau đó, đem 8.000 binh sĩ Cao Đài trở về hợp tác với chính phủ Quốc Gia. Lễ hợp tác tại Dinh Độc Lập, dưới quyền chủ toạ của Thủ Tướng Diệm. Sau đó, để tỏ t́nh đoàn kết ông được Thủ Tướng Diệm thăng lên hàm Trung Tướng.
Năm 1961, nhân dịp Chính thể Đệ Nhất Cộng Ḥa tổ chức bầu Tổng thống nhiệm kỳ 2. Ngày 8 tháng 2, ông ra tranh cử với vai tṛ ứng cử viên Phó Tổng Thống đứng cùng với ứng cử viên Tổng Thống Nguyễn Đ́nh Quát nhiệm kỳ 1961-1966 trong liên danh II nhưng không đắc cử v́ số phiếu quá ít.
Năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng Thống Diệm, ông được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cho giải ngũ v́ lư do lớn tuổi.
NHỮNG THÁNG NGÀY CÓ CÔNG VỚI ĐẠO
(Trích trong “Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Phật Sống Của Đạo Cao Đài” – Thừa Sử Lê Quang Tấn biên soạn)
Nghe theo tiếng gọi đàn Anh một chàng trai trẻ ĺa bỏ quê hương Rạch Giá tỉnh thành để lên Thánh Địa Cao Đài Tây Ninh sớm kệ chiều kinh.
Được sự hướng dẫn của Khâm Châu Đạo xuống Sài G̣n để xin vào Nội Ứng Nghĩa Binh của Giáo Sư Đại Biểu TRẦN-QUANG-VINH. Vừa tới hăng tàu NITINAN là nơi tập trung của thanh niên cùng trang lứa với ḿnh đang quây quần trước những chiếc Tàu bằng cây do thanh niên Đạo tạo thành hết sức lộng lẫy khiến cho NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG say mê và thưa với Hiền Huynh Khâm Châu Đạo cho người nhập cuộc v́ NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG biết rành nghề Mộc mà hôm nay đă nh́n thấy hàng chục chiếc Tàu đă hoàn thành và xếp hàng rất thứ tự trong Xưởng Mộc những Chức Sắc rành nghề đảm trách.
NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG được Hiền Huynh Khâm Châu Đạo đứng ra bảo đảm tuyển cử cho PHƯƠNG trực tiếp vị Quản Lư của trại để nhận việc, và sự cố gắng yêu nghề của NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG được Hiền Huynh Quản Lư chiếu cố đề cử làm Tổ Trưởng tổ số 24 chăm sóc và điều khiển 12 thanh niên rành Mộc mỗi ngày 2 buổi cưa bào những cây Sao đă được sẻ ra từng đoạn đúng theo thước tất đă quy định, tạo thành những khuôn đúng theo kiểu mẫu một chiếc Tàu hàng hải mà chúng ta thường trông thấy trôi nổi trên sông.
Ban ngày th́ lo công quả đóng Tàu cây cho Quân Đội Nhật Bổn, c̣n ban đêm th́ luyện tập những động tác Quân Sự của một người lính trong tương lai do Huấn Luyện Viên Nhật Bổn đảm trách chỉ dẫn.
Thấm thoát trải qua gần một năm với nghề đóng Tàu và học tập Quân Sự trong hàng ngũ Nội Ứng Nghĩa Binh. Thỉnh thoảng có Ngài Giáo Sư Đại Biểu TRẦN-QUANG-VINH cùng đi với Sĩ Quan Nhật Bổn viếng thăm Trại Mộc để nhờ ung đức tinh thần số thanh niên công quả. Nhứt là thố lộ cho các anh em tại Trại biết trách nhiệm của ḿnh sau này là tiếp ứng Quân Đội Nhật Bổn Đảo chánh Pháp giành độc lập cho VIỆT NAM thoát ṿng cai trị của thực dân Pháp.
Điều thú vị cùng hăng say hơn hết là thỉnh thoảng được Giáo Hữu Khâm Châu Đạo hướng dẫn cho dự Đàn Cơ mà các anh lớn thường xuyên tiếp xúc học hỏi để biết về tương lai của nước VIỆT NAM đang trong mọi sự thiếu thốn cực khổ trong công tác đóng Tàu hằng ngày nhứt là có đầy đủ sức khỏe gánh vác mọi “Công tác” của Chức Sắc bề trên giao phó.
Tuy không có tiền thù lao hằng tháng, nhưng cuộc sống hằng ngày rất đầy đủ do Chức Sắc ở các địa phương mang về nuôi nấng hằng ngày rất chu đáo.
Hằng tháng các Trại Viên Nội Ứng Nghĩa Binh được xem phim thời cuộc trên Thế Giới là một khích lệ lớn lao của người Tu-Sỉ tự nguyện hi-sinh làm công quả để chờ ngày Phục Quốc.
Suốt 2 năm qua với trách nhiệm Tổ Trưởng Đóng Tàu tại Trại NITINAN, chàng trai NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG được tiến bộ với trọng trách là Vệ Úy (Adjudant) NỘI ỨNG NGHĨA BINH của Giáo Sư Đại Biểu TRẦN-QUANG-VINH căn duyên của một chàng trai như NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG đă sớm nhận định phiêu lưu với Chức Sắc đàn Anh đầy đủ nghị quyết tinh thần cứng rắn để phụng sự Tổ Quốc VIỆT NAM là thiểu số mà NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG đă đạt được là do Huyền năng Thiêng Liêng của THƯỢNG-ĐẾ đă an bài ban cho như thế!!!
Ngày giờ Đảo chánh PHÁP đến. Đêm 09-03-1945 Chiến Sĩ NỘI-ỨNG-NGHĨA-BINH với bộ quân phục bằng Ca-Tê Trắng, Đầu đội Calot trắng hiên ngang với cây Tầm vong dạt nhọn Sợi dây luột kề vai cùng Quân Đội NHẬT BỔN Đảo chánh PHÁP bắt trối gọn những Sĩ Quan của PHÁP Cầm Đầu Cai Trị nước VIỆT NAM không tốn một viên đạn.
Nh́n thấy NỘI ỨNG NGHĨA BINH của Giáo Sư TRẦN-QUANG-VINH xuất hiện Sĩ Quan PHÁP cuối đầu đưa tay chịu trói không một ai chống cự, Huyền diệu Thiêng Liêng giúp sức khi thấy NỘI ỨNG NGHĨA BINH là đưa tay chịu trói mà thôi.
Cuộc chiến thắng không hao ṃn một viên đạn đă gây sự chiếu cố cùng Vang danh với Quốc Tế là VIỆT NAM đă độc lập. Đồng bào Tín Hữu Cao Đài toàn quốc vui mừng khôn xiết và Danh thể CAO-ĐÀI được Đồng bào nhắc nhở nêu cao trong các buổi lễ giỗ Tổ tiên.
Sau ngày Đảo chánh PHÁP Vệ Úy NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG được Vinh thăng là Thiếu Úy nêu cao tinh thần người Tín hữu Cao Đài yêu nước. Nhứt là buổi tập hợp các Đảng Phái trong nước vô cùng tốt đẹp có trên mấy chục ngh́n Đồng bào quy tựu về dự mít tin không rơ như thế nào mà Ngài Giáo Sư Đại Biểu TRẦN-QUANG-VINH dơng dạc tuyên bố: “ Người Tín hữu Cao Đài chúng tôi đă làm xong trách vụ cởi ách nô lệ cho Dân tộc VIỆT NAM thoát khỏi ṿng kiềm kẹp đô hộ PHÁP. Vậy chúng tôi xin rút lui trở về thuần túy một Tín hữu Cao Đài và xin dâng cả Vận Mạng Quốc Gia VIỆT NAM cho toàn dân quyết định”. Tiếng vỗ tay hân hoan vang dội khắp cả vườn Ông Thượng.
Cuộc mít tin vĩ đại được bế mạc trong bầu không khí vui tươi phấn khởi của toàn dân.
Kế tiếp là Nội Các Chánh Phủ TRẦN-TRỌNG-KIM ra mắt Quốc Dân mà tuyệt nhiên không có một nhân vật Cao Đài tham dự cả, bởi người Cao Đài đă thuần túy trở về phục vụ Đạo-Pháp đúng theo lời tuyên bố của Giáo Sư Đại Biểu TRẦN-QUANG-VINH.
Tiếp theo là Giáo Sư Đại Biểu TRẦN-QUANG-VINH bị Việt Minh chận lại đón bắt tại B́nh Điền trong khi đi công tác ở các Tỉnh Miền Tây Nam Phần VIỆT NAM mà Ngài Giáo Sư THƯỢNG-VINH-THANH đă cẩn thận xin phép Quốc Gia Tự Vệ của Thành Phố Sài G̣n cấp cho.
Bất chấp Luật-Lệ Mặt Trận Việt Minh trọn quyền kiểm soát định đoạt nên một số Chánh Khách Miền Nam VIỆT NAM bị bắt đưa vào Trại Tập Trung, trong đó có Giáo Sư THƯỢNG-VINH-THANH đă thuần túy trở về phục vụ Đạo Pháp mà thôi.
Bị lưu đày xuống tận Cà Mau, Bổn Đạo Cà Mau được tin liền về Ṭa Thánh Tây Ninh phúc báo cho Hội Thánh biết rơ Giáo Sư THƯỢNG-VINH-THANH hiện bị giam cầm tại trại Tân Bằng Cán Giáo (Quận Cà Mau)
Được tin chẳng lành Hội-Thánh cho 2 chi Đội đóng tại Bù-Lu do Thiếu Úy NGUYỄN-VĂN-THÀNH và Thiếu Úy NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG chỉ huy hay biết nên Thiếu Úy NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG được đề cử một số chiến sĩ thân tín âm thầm xuống tận Cà-Mau hiệp cùng Bổn Đạo địa phương t́m cách giải thoát giáo Sư THƯỢNG-VINH-THANH. Nhưng khi đến nơi th́ ông Thượng Vinh Thanh đă cùng với những người bị Việt Minh bắt tự lật thế cờ giải giây thoát được ra ngoài. (xin xem chi tiết nầy trong quyển Hồi Kư của ông Trần Quang Vinh).
CUỘC NỔI LOẠN CỦA TƯỚNG PHƯƠNG-TẤT
(Trích trong quyển Tịch Đạo Pháp Nhơn Chi Đạo của Ngài Hồ Bảo Đạo)
Sau khi Đức Hộ Pháp về nội quốc th́ thời cơ biến chuyển rất mau, Hiệp Định Gevèver kư xong bắt đầu thi hành: lực lượng kháng chiến Việt Minh tập kết đưa về Miền Bắc để giao Miền Nam cho Ngô Đ́nh Diệm dựa vào thế lực của Mỹ để hất cẳng Pháp, cũng cố quyền hành với sự góp sức của Ngô Đ́nh Thục về mặt tôn giáo, Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Đ́nh Cẩn về mặt chánh trị.
Trong lúc đó cả triệu tín đồ Đạo Ki Tô di cư từ Bắc vào Nam nhờ sự giúp đỡ của chánh quyền và sự hướng dẫn khôn khéo của vị Linh Mục, đưa bổn Đạo chiếm những vùng đất ph́ nhiêu khai thác không bao lâu đă trở thành nơi dân cư đông đúc ấm no và lần hồi trở nên giàu có.
Chánh quyền Mỹ cũng cố quyền hành Ngô Đ́nh Diệm ngày càng mạnh hơn và lẻ đương nhiên ảnh hưởng đến chánh thể Việt Nam ngày càng nặng nề thêm.
Viện trợ càng nhiều, nợ càng nhiều th́ lệ thuộc ngày càng đè nặng. Trước t́nh thế đó Đức Hộ Pháp đề nghị với Thủ Tướng Diệm cho mở rộng cửa cho các Đảng phái tham gia lập thành chánh phủ liên hiệp và cho Tướng Tŕnh Minh Thế vô khu lập lực lượng hậu thuẩn cho chánh quyền đặng nhẹ bớt phần nào áp lực của Mỹ. Nhưng khổ nổi là bao nhiêu người lợi dụng thiện chí của Đức Hộ Pháp để cũng cố bảo thủ bành trướng thế lực của ḿnh. Ba nhóm có thực lực lúc ấy là Cao Đài, Ḥa Hảo và B́nh Xuyên do những tướng lănh ỷ công khi lịnh hống hách tưởng đâu có tài đánh giặc giỏi th́ cũng có tài làm chánh trị giỏi nên người nào cũng muốn ra tham gia cầm quyền chánh trị chính phủ nhà nước.
Mặt khác người Pháp bị Mỹ chiếm hết ảnh hưởng trong chính thể của Thủ Tướng Diệm nên âm thầm lồng vào nội bộ của 3 đoàn thể, hứa giúp đỡ đủ thứ để xúi giục các tướng lănh đ̣i nhiều yêu sách quá mức.
Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm th́ hai người em là Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Đ́nh Cẩn dĩ nhiên có người Mỹ giựt dây dụi bên trong thấy rơ các tướng lănh vừa bất tài vừa lưu manh không giúp hay ǵ cho ḿnh đặng mà trái lại có thể trở thành nguy hiểm v́ có người Pháp sau lưng. V́ vậy C.I.A của Mỹ một mặt mua chuộc tướng Trịnh Minh Thế về với Thủ Tướng Diệm, mặt khác mở chiến dịch đập tan thế lực các tưởng lĩnh trong 3 khối để rồi cho ám sát luôn Trịnh Minh Thế cho dứt hậu họa mà ngược lại bề ngoài th́ truy thăng và làm đám tang trọng thể để che mắt thế gian và gieo tiếng ác cho kẻ khác.
Buồn ḷng Đức Hộ Pháp xuống tịnh dưỡng nơi Trí Huệ Cung. Sau khi dẹp hết các tướng lănh, Tướng Tŕnh Minh Thế (Cao Đài) chết, tướng Thành Cao (Cao Đài), Ba Cụt (Ḥa Hảo) bị bắt, tướng Bảy Viễn (B́nh Xuyên) và Năm Lửa tức Soái (Ḥa Hảo) cho ra ngoại quốc, Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm nghĩ đến cũng cố địa vị và thế lực của ḿnh bằng cách trưng cầu dân ư để truất phế Bảo Đại đưa ḿnh về cương vị Tổng Thống.
Biết rơ Đức Hộ Pháp có khuynh hướng về quân chủ và vẫn c̣n cảm t́nh với vua Bảo Đại nên mua chuộc tướng Nguyễn Thành Phương và Lê Văn Tất về Ṭa Thánh cô lập Đức Hộ Pháp và áp đảo tinh thần chức sắc, chức việc và Đạo Hữu Cao Đài bỏ phiếu cho Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và truất phế vua Bảo Đại.
Đang ở Trí Huệ Cung hay đặng tin nầy, Đức Hộ Pháp cấp tốc trở về Hộ Pháp Đường, kêu bọn cận vệ hầu Đức Hộ Pháp đem nạp hết vơ khí cho Đức Hộ Pháp, chưa hay biết ǵ nên bọn cận vệ vân lịnh đem nạp hết vơ khí cho Đức Ngài.
Độ một tiếng đồng hồ sau th́ hai tướng lănh Phương và Tất kêu quân về bao vây Hộ Pháp Đường. Bọn cận vệ nổi nóng muốn chống lại nhưng tay không đành phải thúc thủ.
Th́ ra Đức Hộ Pháp đoán trước nếu tướng Phương bạo hành sẽ có cuộc xô xác đỗ máu giữa bọn cận vệ và bộ hạ của Phương, có thể làm cớ cho chánh quyền Ngô Đ́nh Diệm cho quân đội chánh qui vào chiếm đóng Ṭa Thánh luôn, với danh nghĩa là giữ trật tự an ninh trong nội bộ của Cao Đài.
Tướng Phương ra lịnh cấm nhặt không cho ai vô Hộ Pháp Đường và tuyên bố cho đặt 4 quả ḿn lớn cho giựt nổ một lượt sập nát nhà nầy, nếu ông Tắc là Phật thật th́ không chết c̣n không th́ cho chết luôn. Cô Ba Cầm nghe vậy sợ chạy lại rào kêu ông Bảo Thế ra năng nỉ mà Tất c̣n hậm hực, Ngài Bảo Đạo cũng thấy và nói với tướng Tất: “Tôi chưa thấy ḿn nổ lần nào, vậy cho tôi qua Hộ Pháp Đường với Đức Hộ Pháp coi ḿn nổ ra sao”.
Hiểu ư Ngài nên một lúc sau Tướng Tất dịu giọng rồi dẫn toàn quân rút lui.
Việc bạo hành của hai tướng lănh quá đột ngột làm cho toàn Đạo dao động không ít nhưng vẫn bất nhứt không phương nào đối phó.
Đáng thương và đáng mến là mấy em thợ hồ do ông Tổng Giám Vơ Văn Khỏe cầm đầu, tay không xung phong vượt qua ṿng vây của tướng Phương vào trong ṿng rào Hộ Pháp Đường canh gác không cho quân lực của Phương xâm nhập vào trong. Mục đích chính là Tướng Phương do lịnh của Ngô Đ́nh Diệm cô lập Đức Hộ Pháp để áp lực bên ngoài buộc toàn Đạo bỏ phiếu cho họ Ngô trong cuộc trưng cầu dân ư và đả phá danh dự, uy tín của Đức Hộ Pháp, nói xấu Đức Hộ Pháp đủ điều, lên án Đức Hộ Pháp trị gia bất nghiêm lại c̣n thông dâm với một số Giáo Nhi mà tướng Phương bắt giam khai xấu cho Đức Hộ Pháp.
Ngày bỏ phiếu th́ toàn bộ sĩ quan với quân nhân của Phương tổ chức và canh gác các pḥng phiếu khắp hết vùng Đạo, áp lực bắt buộc mọi người bỏ phiếu cho Ngô và truất phế Bảo Đại đem thắng lợi lớn cho Ngô.
Hậu quả cuộc bạo hành của tướng Phương và Tất là Thiếu Tá Huỳnh Thanh Mừng kéo hết bổn bộ của ḿnh chiếm hết vùng Núi Bà ra tới cửa Ḥa Viện chống lại tướng Phương. C̣n phần tướng Phương th́ cho chiếm từ chợ Long Hoa tới cửa số 6 và cặp theo ṿng hàng rào làm cho Nội Ô Ṭa Thánh có thể ngày nào dây thành băi chiến trường giữa hai phe.
Một nhóm thứ ba là tướng Mạnh và Đại Tá Đờn vào xin với Đức Hộ Pháp cho vô Nội Ô Ṭa Thánh để ngăn chặn hai nhóm kia không cho xáp lại nhau. Hành động của nhóm Đờn, Mạnh một mặt tỏ dấu thuận với Mừng c̣n mặt khác cấu kết với Phương và Đại Uư Vui, Huy đ̣i bắt Ngài Bảo Đạo để giục thúc Ngài trốn theo chúng vô núi ở với Mừng, mục đích là không để Ngài ở gần Đức Hộ Pháp, v́ họ thấy rơ trong hàng Chức Sắc có một ḿnh Ngài Bảo Đạo có thái độ rơ rệt đối với Phương nhưng Ngài Bảo Đạo vẫn cương quyết không đi đâu hết.
. T́nh trạng Ṭa Thánh ngày càng khó khăn hỗn tạp mà Hội Thánh Lưỡng Đài lại bất nhứt không phương giải quyết
Đức Hộ Pháp rất khó nghĩ v́ chính bản thể của Ngài là mục tiêu chánh để bọn quân nhơn tranh chấp nhau để đi đến gây đỗ máu, sát hại lẫn nhau chỉ để có lợi cho đệ tam nhân mà thôi. Nhưng Đức Ngài khó phương nào giải quyết được.
Một hôm Huỳnh Thanh Mừng bị bọn bộ hạ của Phương phục kích bắn găy tay gây hận thù càng sâu nặng hơn.
Bọn Đờn, Mạnh đề nghị đem Đức Hộ Pháp vô núi hoặc vô rừng nhưng Ngài Bảo Đạo đề nghị Đức Hộ Pháp đừng đi v́ nhóm đó có thái độ không rơ rệt, cố ư đưa Đức Hộ Pháp vô rừng núi chỉ mục đích là lợi dụng mà thôi.
Rốt cuộc chỉ c̣n một con đường là đi Cao Miên với hy vọng qua ở nước trung lập rộng đường hoạt động hơn. Theo sự suy tính của Hội Thánh Lưỡng Đài th́ cũng thấy chỉ có một lối đó nhưng không rơ chừng nào Đức Hộ Pháp sẽ đi và đi bằng cách nào.
Đức Thượng Sanh cùng chư vị Thời Quân c̣n ở Sài G̣n về hiệp với Thời Quân ở Ṭa Thánh nhưng cũng không t́m ra lối thoát nào. Trong một buổi họp đêm ở Giáo Tông Đường có đại diện chức sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài và Phước Thiện, Ngài Bảo đạo có dâng ư kiến thế nào Đức Hộ Pháp cũng đi Cao Miên, không lẽ để Đức Ngài đi một ḿnh nên đề nghị có một hoặc hai vị Thời Quân cùng đi với Đức Ngài, nhưng không có vị nào t́nh nguyện.
Không t́m ra lối thoát Đức Thượng Sanh và chư vị Thời Quân ở Sài G̣n đều về hết.
Bọn Đờn Mạnh biết Đức Hộ Pháp sẽ đi Cao Miên nên đề nghị với Đức Hộ Pháp dọn đường rừng đưa Đức Hộ Pháp đi nhưng Ngài Bảo Đạo xin Đức Hộ Pháp đừng đi đường rừng v́ không chắc ǵ đi tới Cao Miên mà bị mấy ông ấy nhứt là Đờn Mạnh lưu giữ lại để lợi dụng.
Ngài dám quả quyết như vậy là v́ bọn Đờn Mạnh xin miệng với Đức Hộ Pháp cho họ ở Nội Ô, th́ Đức Hộ Pháp cũng chấp thuận với họ nhưng họ lại không vô lại yêu sách Đức Hộ Pháp kư lịnh bút tích mới đặng. Tiếp đặng lịnh đó để giao lại cho Đờn Mạnh th́ Ngài Khoa đề nghị với Đức Ngài là kêu hai người giáp mặt Đức Hộ Pháp rồi sẽ giao. Đức Hộ Pháp đống ư nên Ngài cho mời Đờn Mạnh đến trước mặt Đức Hộ Pháp. Khi đó Ngài mới nói với họ rằng: “Trước đây hai ông xin miệng với Đức Hộ Pháp cho hai ông về đóng Nội Ô Ṭa Thánh th́ Đức Hộ Pháp đă thuận miệng với mấy ông rồi, nay mấy ông lại c̣n xin Đức Hộ Pháp kư giấy mấy ông mới vô th́ Đức Hộ Pháp cũng đồng ư đă kư giấy sẵn rồi. Tôi đang cầm đây, nhưng trước khi giao th́ hai ông lại bàn viết kia làm tờ yêu cầu bằng bút tích kư tên hẳn hoi, dâng Đức Hộ Pháp rồi tôi sẽ giao tờ giấy nầy cho hai ông”.
Túng thế hai người phải lại bàn viết lập tờ kư tên hẳn hoi dâng cho Đức Hộ Pháp. Xong rồi Ngài mới giao tờ của Đức Hộ Pháp cho họ. Nhưng rốt cuộc họ chỉ cầm tờ giấy đó để đi ra vô Nội Ô và Hộ Pháp Đường với vài tên bộ hạ, chẳng thấy có một toán quân nhỏ nào đóng ở Nội Ô.
Nhơn dịp Tết, Giáo Hữu Của ở Kim Biên về chầu lễ Đức Chí Tôn, mới dọ hỏi đường đi Phnom Penh có khó khăn ǵ không. Giáo Hữu Của đă từng quen thuộc nên cho biết là rất dễ và lănh mạng đưa Đức Hộ Pháp đi Nam Vang an toàn. Nghe vậy Đức Hộ Pháp cho đưa hai cô ái nữ đi trước ngày mùng ba tết coi ra sao. Th́ quả Giáo Hữu Của đưa hai cô đi an toàn rồi trở lại đăi lịnh Đức Hộ Pháp nội trong ngày. Thấy vậy Đức Hộ Pháp mới định sửa soạn mọi việc cần thiết sắp xếp vô xe nội ngày mùng 4 cho rồi để khuya lại sẽ khởi hành.
Có lẽ bọn Đờn Mạnh hay đặng tin nầy hay sao không rơ mà kế chiều mùng 4 chúng ngồi xe trong núi ra nhưng nữa đường xe tự nhiên không chạy, sửa hoài không được nên cho người ra kiếm Ngài, nhờ cho xe Đạo vô rước. Cũng ngộ là lúc đó các xe đi đâu không biết mà không có chiếc nào ở nhà xe. Ngài chỉ cho người liên lạc của Đờn Mạnh tŕnh lại không có xe nào đi rước được hết và cũng dặn qua loa biểu để sáng ngày ra cũng được. Có lẻ bọn Đờn Mạnh có ư ra để áp lực Đức Hộ Pháp hoặc hâm dọa cách nầy hay cách khác để lôi kéo Đức Hộ Pháp đi ngă đường rừng để rồi đi đâu không tới đâu, rồi phải ở rừng với chúng, chúng sẽ dễ bề lợi dụng, không dè quyền vô h́nh không cho ra. Đến sáng ngày họ ra tới th́ Đức Hộ Pháp đă đi xa mất rồi./.
THÁNH LỊNH CỦA ĐỨC HỘ PHÁP KHÔNG NH̀N NHẬN QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI KỂ TỪ NGÀY 12-09-1956
Việc ông Nguyễn Thành Phương lănh 100 triệu đồng của Nhu Diệm để phá Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia có sự hùng vốn của ông Danh, Phương chỉ lănh được 15 triệu c̣n 85 triệu Nhu không trả hết mà c̣n cho một câu đau đớn: “Từ một cai thời Pháp thuộc, Đức Hộ Pháp đem ông đến phẩm Trung Tướng mà nay ông c̣n phản bội Đức Ngài, đối với tôi làm sao ông trung thành được ? ”. Anh em Nhu Diệm đă gạt anh em Phương, Danh làm tên phản bội với giá quá rẻ (15 triệu bạc).
Hơn nữa năm 1953 có Thánh Lịnh của Đức Hộ Pháp kêu Chức Sắc nào có tham dự quân đội Cao Đài phải trở về Đạo. Nếu v́ lư do không thể trở về được th́ buộc phải từ chức thiên phẩm của ḿnh. Khi nào trở về được phải chịu sự minh tra của Pháp Chánh về sở hành và phải được quyền vạn linh công nhận mới được phục chức. Nhưng khi ông Danh với phẩm Giáo Hữu, không tuân hành, tức nghịch mạng.
Chúng tôi xin sao lục Thánh Lịnh số 99/HPHN để đồng Đạo hiểu thêm về nhận định của Đức Hộ Pháp đối với 2 ông Phương và Danh thế nào. Đó là người nắm Thiên Điều quyết định chớ không phải dư luận của nhơn sanh nữa. Thường người ta kêu ngày 20 tháng 8 năm Bính Thân (12-9-1956) là ngày “Đạo Hận”.
Hộ Pháp Đường ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Văn Pḥng (Tam Thập Nhứt Niên)
Số 99/HPHN Ṭa Thánh- Tây Ninh
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị Hữu H́nh Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.
Chiếu y Đạo luật ngày 16 tháng giêng năm Mậu Dần (15-2-1938) giao quyền thống nhất chánh trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị.
Nghĩ v́: từ tháng 7 năm 1941 cho tới tháng 10 năm 1946, Bần Đạo bị đồ lưu nơi đảo Madagascar, ở nhà Phối Sư Trần Quang Vinh hiệp cùng chư Chức Sắc Thiên Phong Hội Thánh Cửu Trùng Đài lập quân đội Cao Đài, tới ngày 9-3-1945 đảo chánh Pháp.
Nghĩ v́: trong thời gian ấy, Việt Minh đă cướp chánh quyền, kế tiếp Pháp trở lại, làm Đạo phải chịu “lưỡng đầu thọ địch” con cái của Đạo đă bị giết chóc một cách ác liệt, tàn nhẫn, Đạo gây thù giữa Pháp cùng Việt Minh.
Nghĩ v́: khi Pháp trở lại th́ Phối Sư Trần Quang Vinh và các Chức Sắc Thiên Phong đă đồng lơa cùng người, cũng đă tái lập quân đội để chống Việt Minh và đầu hàng Pháp, dưới quyền chỉ huy Tổng Tư Lịnh Phối Sư Trần Quang Vinh.
Nghĩ v́: các cơ thể quân đội đă tạo thành hiển nhiên nên Bần Đạo phải buộc ḿnh nh́n nhận quân đội ấy đặng họ thi hành sứ mạng Thiêng Liêng của họ là giành quyền thống nhất và độc lập cho nước nhà, nên phải đảm đương làm Thượng Tôn Quản Thế.
Nghĩ v́: Trần Quang Vinh đă làm Tổng Tư Lịnh Quân Đội khi Bần Đạo vắng mặt, nên Bần Đạo tấn phong cho làm Trung Tướng Quân Đội.
Nghĩ v́: khi Nguyễn Văn Thành đồ mưu lật đổ quyền Tổng Tư Lịnh của Trần Quang Vinh th́ Bần Đạo đă giao cả Quân Đội cho Quốc Trưởng Bảo Đại sử dụng.
Nghĩ v́: khi Nguyễn Văn Thành nắm chánh quyền Tổng Tư Lịnh Quân Đội rồi th́ lại toan mưu phản loạn, nên Bần Đạo thâu quyền lại giao cho Đại Tá Lê Văn Tất.
Nghĩ v́: Nguyễn Thành Phương nhờ Tŕnh Minh Thế, Quân Đội liên minh ở rừng làm hậu thuẩn, đặng thâu đoạt cho kỳ đặng quyền Tổng Tư Lịnh Quân Đội với mọi mưu mô gian ác, hâm he ám sát Lê Văn Tất buộc nhường quyền ấy lại cho nó với sự bất chấp thuận của Hội Thánh v́ trong số 38 vị Chức Sắc Đại Thiên Phong bầu phiếu th́ Nguyễn Thành Phương chỉ đặng có một mà thôi.
Nghĩ v́: Nguyễn Thành Phương và Nguyễn Thái là người ngoại Đạo, chỉ có Lê Văn Tất là con của Lê Văn Trung, Chí Thiện Hội Thánh Phước Thiện, cùng Bộ Tham Mưu Quân Đội ấy đa số đều là người không có Đạo.
Nghĩ v́: Nguyễn Thành Phương đặng Bần Đạo phong cho chức Trung Tướng đă quốc gia hóa hoàn toàn, mà trở lại khủng bố chiếm đoạt Ṭa Thánh, bắt bớ giam ngục Chức Sắc Thiên Phong tín đồ của Đạo với oai quyền của Quân Đội Quốc Gia, cùng tổ chức ban ám sát để giết chóc con cái của Đạo.
THÁNH LỊNH
ĐIỀU THỨ NHỨT: -Cả Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện, Phạm Môn cùng các cơ quan tổ chức của Đạo ngày kỷ niệm 20 tháng 8 âm lịch là ngày của Nguyễn Thành Phương đă nhơn danh Quân Đội Quốc Gia về chiếm Thánh Địa.
ĐIỀU THỨ HAI:-Từ đây, Đạo không coi Quân Đội, bất cứ với danh thể nào c̣n có chơn trong Đạo nữa.
ĐIỀU THỨ BA:-Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện, Phạm Môn cùng các cơ quan khác của Đạo, lănh thi hành Thánh Lịnh nầy và truyền tống cho toàn Đạo hiểu biết.
Kim Biên ngày 8 tháng 8 Bính Thân
(dl 12-9-1956)
HỘ PHÁP
Kư tên và đống dấu
Sao y nguyên văn bổn chánh Thánh Lịnh ban hành
Số: 397/SL cho toàn Đạo Phước Thiện.
Ṭa Thánh ngày 13-8-Bính Thân
(dl 17-8-1956)
Chưởng Quản Phước Thiện
Chơn Nhơn
Trịnh Phong Cương
Thượng Thống Lại Viện Phước Thiện
Đạo Nhơn
Nguyễn Văn Phú
Trưởng Tộc Phạm Môn
Đạo Nhơn
Phạm Văn Út
HẬU QUẢ NHẢN TIỀN
Cuộc truất phế BẢO ĐẠI thành công th́ Trung Tướng PHƯƠNG liền rơi vào cạm bẫy của NHU và TUYẾN cho Cảnh Sát Công An đến bao vây biệt thự Trung Tướng PHƯƠNG tại 113 Yên Đổ (Sài G̣n) xét tịch thu một số xe (xe lậu) xe hơi không có giấy tờ mà Thiếu Tướng TR̀NH-MINH-THẾ tấn công Quân Đội B́nh Xuyên cầu chữ Y tịch thu một số xe hơi mà Quân Đội B́nh Xuyên bỏ lại về Rừng Sát bởi bị tấn công th́nh ĺnh không kịp trở tay chống cự v́ không ngờ TT.THẾ vâng lịnh NGÔ-Đ̀NH-DIỆM lại “phản bội ḿnh”. Một bài học chua cay cho cuộc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng LÊ-VĂN-VIỄN là phải bỏ chạy vào Rừng-Sát trong lúc tuổi đă xế chiều.
Trung Tướng NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG bị Ṭa Án mời ra hầu Ṭa về Tội tàng trữ xe hơi gian không giấy tờ hợp lệ. Măi chạy lo trối chết để khỏi ra hầu Ṭa nên TT.PHƯƠNG đành xuôi tay đầu hàng vô điều kiện không dám đ̣i hỏi nhắc nhở đến chức Thủ Tướng hứa miệng “dỏm”.TT.PHƯƠNG thủ phận yêm liềm cho đến thoát xác nơi tư gia ở Chợ Lớn.
Thảm thương thay cho cái chết của TT.PHƯƠNG là xe vận tải chở “Quan Tài” từ Chợ Lớn đưa về Ṭa Thánh Tây Ninh an táng th́ chiếc xe bỗng dưng “Phát Cháy” phải đưa quan tài TT.PHƯƠNG qua một chiếc xe vận tải khác về Tây Ninh và gặp thêm một sự trục trặc nữa là xe không được đưa vào Nội-Ô Ṭa Thánh, bởi lúc c̣n sanh tiền TT.PHƯƠNG có xích mích sao đó nên Nhà Cầm Quyền Tỉnh Tây Ninh không cho xe chở Quan tài TT.PHƯƠNG chạy vào Đền Thánh để Cầu Nguyện theo thông lệ mà phải đưa thẳng vào Nghĩa Trang an táng.
Có phải chăng đây là quả báo nhản tiền mà Trung Tướng NGUYỄN-THÀNH-PHƯƠNG đă vâng lời xúi dục của Thủ Tướng NGÔ-Đ̀NH-DIỆM đưa Quân Đội Cao Đài để thanh trừng Chức Sắc ở Thánh Địa Ṭa Thánh Tây Ninh vào năm 1955.
*Những tài liệu tham khảo :
1.Tịch Đạo Pháp Nhơn Chi Đạo-Ngài Hồ Bảo Đạo biên soạn.
2.Tiểu Sử ông Nguyễn Thành Danh -Quang Minh biên soạn.
3.Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Phật Sống Của Đạo Cao Đài – Thừa Sử Lê Quang Tấn biên soạn.
3. TƯỚNG LÊ VĂN TẤT
Tài liệu về tướng Tất chúng tôi chưa sưu tầm được đầy đủ nhưng cũng xin tóm lược như sau:
Tướng Lê Văn Tất là con ruột của Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung từng giữ chức Tỉnh Trưởng Tỉnh Tây Ninh thời VNCH (29-2-1964 đến 9-7-1965). Từng bị người Đạo và đời chê cười v́ đă bị Ngô Đ́nh Diệm mua chuộc kéo quân về bao vây Hộ Pháp Đường…công với Đạo th́ ít mà tội với Đạo th́ nhiều. Để hiểu rơ hơn về Tướng Tất chúng tôi xin trích lục một đoạn lời nhận xét của ông Hữu Phan Huân Lê Văn Thoại trong quyển Tiểu Sử Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung do Quang Minh biên soạn. Ông Thoại có nhắc đến Tướng Tất chúng tôi xin trích ra nguyên văn sau đây:
“Ông Trung ngộ Đạo Chí Tôn là dĩ nhiên diệt phàm thay Thánh, nhưng phàm tâm đă lấn Thánh tâm. Ông được Đức Hộ Pháp trọng dụng, nâng đỡ, trái lại khi có địa vị lại xử sự với Đức Hộ Pháp nhiều việc quá đáng, để con là Thiếu Tướng Tất lộng hành.
“THỜI ĐỨC HỘ PHÁP, Tất hợp với Phương kéo QĐCĐ đă quốc gia hoá (thời Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm) về vây Ṭa Thánh và Hộ Pháp Đường. Các cuộc hội Tướng Tất dùng lời hổn láo nặng nề với Hội Thánh và Đức Hộ Pháp; trong phiên hội ông Tất lại ném hồ sơ dằn mặt Hội Thánh và Đức Hộ Pháp, rồi đứng dậy bỏ ra về. Đức Hộ Pháp kêu lại 3 tiếng vẫn ra đi không trở lại.
“Chức Sắc nhiều người bất măng, ra tận nhà ông Trung để nhờ khuyên can, khi về họ thất vọng v́ ông Trung cho rằng Tất làm điều đó là phải, c̣n dùng lời lẽ khiếm nhă đối với Đức Hộ Pháp.
“Tất lại thẩm vấn phụ nữ, đánh đập để vu cáo là Đức Ngài loạn luân thường Đạo lư. Các cớ ấy khi về làm tờ tŕnh mọi việc cho Bộ Pháp Chánh là ông Tiếp Pháp.
“Tất lại cho đặt ḿn 4 phía Hộ Pháp Đường, chờ giờ tối hậu là châm ng̣i, Tất lại nói: “Nếu ông là Hộ Pháp thật th́ ḿn không nổ, để coi ông là Hộ Pháp hay ông là Phạm Công Tắc?”.
“Khi Tất tị nạn lên Kim Biên c̣n viết thư về cho cha nói là Đức Hộ Pháp đă theo Cộng Sản. Ông Trung đem tŕnh chánh quyền Diệm. Công An Tây Ninh chụp cơ hội, nhơn việc anh em Hoà B́nh Chung Sống bị tù, các nơi tập trung về để trả tự do tại Nhàn Du th́ chính ông Trung đem thơ vô nơi tập trung đọc cho anh em can nhân nghe và xác minh đây là 100%. Có phải là Tất, Trung cố hạ uy tín Đức Hộ Pháp để mưu đồ ǵ?
“KHI ĐỨC THƯỢNG SANH VỀ trọng dụng ông Trung một thời gian, ông bất như ư gởi thơ mạt sát Đức Ngài, ông gởi cho các nơi tường.
“Khi Tất về làm Tỉnh Trưởng Tây Ninh th́ ông Trung lại cố dùng uy tín bên Phước Thiện để cũng cố địa vị con, để dọn đường cho Tất bước lên vinh quang đời. Tất là tay sai Nguyễn Khánh cấu kết để cho sống lại lực lượng Quân Đội và một số Chức Sắc gọi là Hội Thánh Sài G̣n. Nào dè quyền Thiêng Liêng đâu phục phàm, bị Đức Lư Đại Tiên ngưng quyền chức. Tất, Trung mộ một số trung đội cho đi các tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, G̣ Công, Cà Mau … không biết số lợi lập trung đội bao nhiêu, nhưng rốt cuộc anh em tín đồ phải bị chết.
“Tất làm Tỉnh Trưởng biến dinh Tỉnh thành trường nhảy, chỗ ăn chơi, hại không biết bao cô cậu hư thân mất nết; ngoài đời ở Tây Ninh nghe nói Tỉnh Trưởng Tất, một số nạn nhơn phiền hà chán ghê ông Tất. Tỉnh đường lại là nơi sản xuất truyền đơn để chống Hội Thánh. Khi Đức Lư ngưng quyền 9 vị làm cha con Tất, Trung vỡ mộng. Tất dùng xe thông tin tỉnh thay phát thanh và răi truyển đơn đổ đầu cho Hoanh Chữ
“Đạo chán đời chê, suốt đời Tất khó tiến thân được. C̣n không biết bao nhiêu việc, nhưng viết ra cho thêm choán giấy.
“Trong Đạo có 3 vị tối cao: Hai vị tại thế là Đức Hộ Pháp và Đức Thượng Sanh, quyền Thiêng Liêng là Đức Lư Đại Tiên đều bị Trung Tất chống hết.
“Thử hỏi hai cha con c̣n coi ai ra ǵ nữa?
“C̣n không biết bao nhiêu chuyện làm của hai cha con Trung Tất phạm thệ. Nay người về Thiêng Liêng sẽ có sự phán xét với câu “Thiên vơng khôi khôi sợ chi bất lậu”./.
4. TƯỚNG NGUYỄN VĂN THÀNH (1915-1972)
Ông Thành là người gốc Rạch Giá về Ṭa Thánh làm công quả trong ban thợ hồ. Ông rất mạnh sức làm gạch bông rất giỏi v́ bơm hơi mà không có sức mạnh th́ gạch không tốt. Ông học nghề vơ với ông Sáu Liêng về đường gươm, đường roi đường kiếm …đủ các môn theo vơ ta. Môn đồ của Sáu Liêng về đường côn th́ ông Thành là người giỏi nhứt. Ông thích đọc truyện Tàu, Tam Quốc và Phong Thần. Ông nhớ hầu hết tên các tướng giỏi nên người ta đoán được chí của ông thiên về vơ biền.
Phong trào cơ thế 1945, ông gia nhập vào nội nội ứng Nghĩa Binh rồi được bổ số 4 ở Mạc Ma Hoa để làm cận vệ cho ông Giáo Sư Đại Biểu Trần Quang Vinh, được phong Vệ Uư kêu là “Vệ Thành”.
Nhờ có vơ nghệ ông huấn luyện một số em út để lần lược trờ thành một chỉ huy của chi đội 7 nơi rừng Bù Lu để kháng chiến chống Pháp. Nhờ sự gan dạ chịu gian khổ nên gây được uy tín trong đám vơ biền, ông được thăng Thiếu Uư , rồi Trung Uư, Đại Uư…
Anh hùng có môi trường hoạt động, ông đánh thắng Pháp nhiều trận nên phẩm trật cứ măi tăng.
Khi Đức Hộ Pháp hồi loan năm 1946 ông trở về Ṭa Thánh đóng Tổng Hành Dinh tại Giáo Tông Đường và được lên chức Trung Tướng Tổng Tư Lịnh Quân Đội Cao Đài.
Có lẽ được khai khiếu, ông diễn thuyết rất lưu loát, tuy văn chương ít mà lời lẽ mạnh dạn cương quyết, hấp dẫn được ḷng ái quốc của binh sĩ. Dĩ chí đến hạng trí thức nghe tướng Thành diễn thuyết trong cả tiếng đồng hồ cũng không thấy chán. Đó là nhờ Thiên tài đi đúng nhịp bước của cơ chuyển thế nên được Thiêng Liêng yểm trợ.
Có lúc ra Đà lạt hội với các tướng lănh của các đoàn thể Tôn Giáo, ông nổi trội hơn:
Bảy Viễn của B́nh Xuyên,
Ba Cục tức Lê Quang Vinh của Ḥa Hảo,
Năm Lữa tức Trần Văn Soái của Ḥa Hảo,
Nguyễn Giác Ngộ của Ḥa Hảo,
Hai Ngoán của Ḥa Hảo,
Nguyễn Văn Hinh của Thiên Chúa,
Nguyễn Thành Phương của Cao Đài,
Tŕnh Minh Thế của Quốc Gia Liên Minh.
Trước nội các của trào chính phủ dưới quyền Quốc Trưởng Bảo Đại, ông vẫn hùng hồn thuyết tŕnh cơ Cứu Thế của Quân Đội Cao Đài với mục đích Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng, ai ai đều công nhận ông là một tướng lănh có biệt tài du thuyết.
Khi lập tổng hành dinh ở Giang Tân mà ông đặt tên là Giang Đông Thành, ông được Đức Hộ Pháp trao cờ “Tinh Trung Báo Quốc”.
Măi đến Ngô Đ́nh Diệm trở ṃi độc tài gia đ́nh trị, ông đứng về phía phe Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia chống lại. Sau cái chết của tướng Tŕnh Minh Thế tại cầu Tân Thuận ông rút quân vào rừng Sát để bảo thủ.
B́nh Xuyên bị tan ră, ông bị vây chặt tại một đồi. Khi ấy Thiếu Tướng Trần Văn Có chỉ huy quân đội quốc gia đến thuyết phục ông, yêu cầu ông đầu hàng. Ông Thành nói 1 câu mà báo chí Sài G̣n thời ấy măi nhắc nhỡ: “Tôi là giặc, anh bắt được cứ bắn, không bao giờ tôi chịu đầu hàng”. Tướng Có phải năn nỉ măi, nên ông mới chịu xuống đồi mà làm người tù binh.
Bị giam một thời gian, Ṭa Án Quân Sự làm thủ tục đem ra xử ở Bến Bạch Đằng, lúc ấy ông mặc quân phục Thiếu Tướng Quốc Gia trước vành móng ngựa.
Chủ Tọa cho ông là “kẻ phản loạn”.
Ông nói: “Tôi là Thiếu Tướng của Quốc Trưởng Bảo Đại. Tôi tranh đấu chống lại kẻ nào phản lại Quốc Trưởng, tôi là kẻ trung thành. C̣n kẻ phản loạn chính là Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm, người được Quốc Trưởng ban chức mà trở lại chống Quốc Trưởng tức chống lại nhân dân Việt Nam…”
Ṭa tuyên bố “ Tử H́nh”
Ông Thành mỉm cười không sợ sệt.
Ṭa cho quyền xin ân xá hay cho chế giảm. Ông nói: “Một khi người ta muốn giết ḿnh mà xin ân xá tức là hèn. Tôi chấp nhận án tử h́nh 1 cách an ḷng”.
Đó là cử chỉ một vị anh hùng.
Tuy kêu án tử h́nh nhưng Ngô Đ́nh Diệm không thi hành án mà đày ông ra Côn Đảo. Bị lưu đày ở ngoài đảo một hời gian cho đến khi ông Diệm bị đảo chánh và bị giết, Dương Văn Minh cho ông về được trắng án. Thời gian ở Côn Đảo ông học thêm Pháp văn và trụ tinh thần Đạo đức, nên khi trở lại Ṭa Thánh, người thức thời thấy ông Thành trở lại trầm tỉnh hơn, Đạo đức hơn…
Ai lại thăm ông mà kêu bằng Ngài th́ ông rầy lắm. Ông nói: “ Chúng ta là anh em, thời quan liêu đă hết, tôi về tiếp tục lập công quả với Đạo, trao giồi hạnh nết của người thiện tu. Tôi đă chán công danh, dưỡng sức già trao tria nhơn nghĩa”.
Lần hồi Đức Lư lại phong ông làm Tổng Thanh Tra Đặc Nhiệm Chánh Trị Đạo, kiêm Thống Quản Cơ Thánh Vệ và Bảo Thể.
Ban đầu ông thi hành nhiệm vụ một cách đáng khen. Nhưng khi con người nắm được một đặc quyền trong tay lại “chứng nào tật nấy”. Ông trở lại tự cao, bất chấp Quyền Hội Thánh lại muốn gấm ghé làm Đầu Sư dẫn Đạo nhơn sanh. Từ đây uy tín giảm dần, cho đến ngày bị Việt Minh gài ḿn ám sát.
Chúng tôi xin sao lục bài Thánh Giáo của Đức Lư Giáo Tông về sự thăng chức Tông Thanh Tra như sau:
Chiếu theo Thánh Giáo tại Cung Đạo Đền Thánh do quí Ngài Hiến Pháp và Khai Đạo pḥ loan, Đức Lư Nhứt Trấn Oai Nghiêm có dạy ngày 21-10 Mậu Th́n (10-12-1968) như vầy:
“………… Đức Thượng Sanh bạch: Đức Hộ Pháp có cho biết Đức Ngài đă chấp thuận ban ân huệ cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thành trong một đàn cơ tại Cung Đạo, nhơn dịp Đàn Cơ hôm nay Đệ Tử xin Đức Ngài phán định về trường hợp của Tướng Thành.
…..Cười…hay lắm……
-Vậy Hội Thánh đồng ư dùng Thành về vai nào ?
Đầu Sư Thượng Sáng Thanh bạch: Xin Ngài phán định.
-Nếu Lăo định th́ phải tuân mạng triệt để. Vậy chúng ta phải tạm dùng giải pháp Thành để đem lại phần nào việc chỉnh đốn nền Đạo trong một thời gian được kết quả th́ Thành sẽ được trọng thưởng.
Hiện giờ các cơ quan Hội Thánh thừa hành thiếu bàn tay gân guốc để nắm chặt ma hồn, quỉ xác. Vậy Lăo tuyên bố: “ Tổng Thanh Tra Đặc Nhiệm Chánh Trị Đạo, kiêm Thống Quản Cơ Thánh Vệ và Bảo Thể”.
Từ đây Hộ Đàn Pháp Quân chỉ lo chỉnh nghiêm đàn mà thôi. Tổng Thanh Tra có nhiệm vụ trông nom các việc Hành Chánh Đạo. Nhưng mỗi việc đều phải chịu dưới quyền của Hội Thánh Lưỡng Đài. Hội Thánh phải giúp đỡ Thành làm nên cho Đạo..
Lăo mong vậy thay ! Thượng Sanh hỏi chi nữa ?
-Xin Đức Ngài dạy Trung Tướng Thành mặc Đạo Phục như thế nào ?
-Chỉ mặc Đạo Phục thường và bịch khăn đen, mang hiệu bài : Tổng Thanh Tra trước ngực như Chức Sắc………….
Theo Thánh Giáo tại Giáo Tông Đường do Ngài Tiếp Đạo và G.S Thái Đến Thanh pḥ loan ngày 4-10 Kỹ Sửu (23-11-1949) Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ phong cho ông Thành biệt hiệu là “Trung Dũng” và cho luôn câu đối:
TRUNG can phân tà chánh
DŨNG cảm định giả chân.
Đàn cơ tại Cung Đạo ngày 15-11 Tân Hợi (1-1-1972) do Ngài Hiến Pháp và Ngài Khai Đạo pḥ loan:
Ngài Hiến Pháp có bạch với Đức Lư : “ Hội Thánh cầu xin Đức Ngài từ bi phân định về trường hợp ban thưởng cho vị Tổng Thanh Tra Đặc Nhiệm Chánh Trị Đạo”.
Đức Lư phán: “Lăo rất lưu tâm đến vị nầy, v́ đó là người của Lăo chọn từ lâu để làm nên cho Đạo, nhưng đến nay cũng chưa hoàn thành sứ mạng, nên Lăo cần lưu nhiệm vị Tổng Thanh Tra một thời gian nữa để đem lại chủ quyền cho Đạo và cho Hội Thánh”.
BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG NGHIỆP
ÔNG NGUYỄN VĂN THÀNH
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Tứ Thập Bát Niên
Ṭa Thánh Tây Ninh
Kính Hội Thánh Lưỡng Đài và Phước Thiện,
Kính quí Chức Sắc Thiên Phong, Chức Việc và toàn Đạo lưỡng phái.
Nhân danh Ngọc Chánh Phối Sư, Chủ Trưởng Chức Sắc Nam phái Cửu Trùng Đài, đại diện Hội Thánh tôi xin tuyên dương công nghiệp hành Đạo của ông Tổng Thanh Tra Đặc Nhiệm Chánh Trị Đạo, kiêm Tổng Quản Thánh Vệ và Bảo Thể vừa tử nạn.
Ông Tổng Thanh Tra Cửu Trùng Đài Kiêm Tổng Quản Thánh Vệ và Bảo Thể, quí danh Nguyễn Văn Thành, sanh năm Bính Th́n (1915) tại tỉnh Rạch Giá ( nay gọi là Kiên Giang ) nhập môn ngày 19-3 Canh Ngọ (1930) tại Thánh Thất Rạch Giá.
Buổi đầu tiên trên bước đường hành Đạo, ư thức được nhiệm vụ người tín đồ là phải hiến thân làm công quả, nên năm 1934 ông đă ĺa bỏ quê hương về Ṭa Thánh xin phục vụ Đạo.
Năm 1936 hiến thân vào cơ quan Phước Thiện làm Thợ Hồ, xây cất Đền Thánh buổi sơ khai đến năm 1941 có lịnh Hội Thánh băi công v́ thời cuộc biến chuyển của nước nhà.
Năm 1943 Hiệp tác hăng tàu Nitinan lo cho cơ quan chuyển thế, trước sự hy sinh và đầy thiện chí của ông nên được cấp chỉ huy thăng Thiếu Uư, giao quyền chỉ huy Cận Vệ Quân cho Đức Cường Để Ngoại Hầu.
Năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp (9-3-1945) và sau đó Pháp trở lại chiếm Đông Dương.
V́ muốn cơ đồ phục quốc được thành công, nên ông kéo quân sĩ trở vào rừng thành lập chiến khu chống lại Pháp với danh hiệu là Tướng Nguyễn Hoài Thanh chỉ huy chi đội 7/8 đóng tại rừng Bù Lu.
Năm 1947 lúc bấy giờ t́nh thế đă đổi thay, ông vâng lịnh Đức Hộ Pháp trở về thành, được vinh thăng Thiếu Tướng cầm quyền Tổng Tham Mưu Quân Đội Cao Đài dưới bóng cờ “ Bảo Sanh, Nhơn Nghĩa, Đại Đồng” dưới quyền trực thuộc Tổng Tư Lịnh Trung Tướng Trần Quang Vinh, được sự điều khiển của Đức Hộ Pháp kiêm Thượng Tôn Quân Thế. Ông c̣n được Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ ban cho Đạo Hiệu “Trung Dũng” đệ tử Bạch Vân Động.
Năm 1948 lănh chức vụ Phó Tổng Tư Lịnh Quân Đội Cao Đài.
Năm 1951 Thăng Trung Tướng cầm quyền Đệ Nhị Tổng Tư Lịnh QĐCĐ.
Năm 1953 ông được Đức Quốc Trưởng Bảo Đại chính thức nh́n nhận Thiếu Tướng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Năm 1955 tham gia Mặt Trận Thống Nhất Ṭan Lực Quốc Gia Việt Nam và sau đó bị chế độ Ngô Đ́nh Diệm bắt ông cầm tù 9 năm, đày đi Côn Sơn và kết án tử h́nh.
Năm 1963 Cách Mạng 1-11 thành công, ông được chánh phủ ân xá và phóng thích trở về sài g̣n.
Năm 1963 tham gia Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp, thời gian nầy ông có thuyết tŕnh về đề tài “Tôn chỉ Đạo Cao Đài” trước Hội Đồng Kế Hoạch Quốc Gia tại Sài G̣n.
Ngày rằm tháng 3 năm Giáp Th́n (1964) ông đă chánh thức đệ đơn lên Hội Thánh xin làm công quả để phục vụ Đạo, được Hội Thánh tŕnh lên quyền Thiêng Liêng định phận.
Thánh Giáo đêm 21-10 Mậu Thân (10-12-1968) tại Cung Đạo Đền Thánh, Đức Lư Nhất Trấn Oai Nghiêm ban Quyền Tổng Thanh Tra Đặc Nhiệm Chánh Trị Đạo kiêm Tổng Quản Thánh Vệ và Bảo Thể.
Thánh lịnh số 14/Thiêng Liêng đề ngày 20-10 Mậu Thân (10-1-1969) Đức Thượng Sanh giao trọng trách và phân định quyền Tổng Thanh Tra Đặc Nhiệm CTĐ Kiêm Tổng Quản Thánh Vệ và Bảo Thể để ǵn giữ an ninh trật tự nội ô Ṭa Thánh.
Thánh lịnh số 24/PCSL ngày 14-3 Kỹ Dậu (30-4-1969) của Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh ủy nhiệm Tổng Thanh Tra Đặc Nhiệm CTĐ lănh nhiệm vụ Trưởng Phái Đoàn đến Châu Đạo Long Xuyên thay mặt Hội Thánh ḥa giải vụ tranh chấp giữa vị Trần Hữu Nghĩa và bổn Đạo địa phương.
Huấn lịnh số 109/HL đề ngày 6-10 Canh Tuất (9-11-1970) giao cho TTTDN.CTĐ kiêm T.Q.T.V và Bảo Thể hiệp cùng Hành Chánh Đạo địa phương để lo việc giăi tỏa số người chiếm đất nhà bất hợp pháp ở vùng chợ Long Hải.
Thánh thơ số 243 đề ngày 13-8 Nhâm Tư (29-9-1972) của Ngài Hiến Pháp lo nhiệm vụ đến nơi Địa Linh Động khuyến khích Chức Việc bổn Đạo nơi nầy thi hành nghiêm chỉnh Thánh Lịnh số 59/Thiêng Liêng đề ngày 11-7 Nhâm Tư (19-8-1972).
Suốt thời gian nầy gần 4 năm, từ ngày được Đức Lư Giáo Tông và Hội Thánh giao phó trách nhiệm quan trọng an ninh trật tự nơi nội ô Thánh Địa đă đem hết khả năng sáng kiến và thiện chí tổ chức cơ cấu và kiện toàn 2 cơ quan Thánh Vệ và Bảo Thể trở nên đầy đủ, trang nghiêm và trật tự, huấn luyện có qui củ để bảo vệ Thánh Thể Đức Chí Tôn 1 cách hữu hiệu nên ông được rất nhiều lời khen khích lệ của Hội Thánh.
Ôn lại quảng đời gần 40 năm từ khi ông c̣n là 1 chiến sĩ phục vụ quốc gia dân tộc và đến khi lănh nhiệm vụ Đạo, ông đă trải qua chẳng biết bao nhiêu thử thách cam go nguy hiểm mà ông vẫn một ḷng hiên ngang hướng về Đạo nghiệp và tận tâm phục vụ Hội Thánh đến hơi thở cuối cùng, ông bị tử thương do chất nổ đối phương nên đă trút linh hồn hồi 4 giờ 30 đêm 16 rạng 17-10 Nhâm Tư (22-11-1972) tại văn pḥng hưởng thọ 57 tuổi.
Trước cái chết đau đớn nầy, Hội Thánh đệ tŕnh công nghiệp hành Đạo của ông lên Đức Lư Nhứt Trấn Oai Nghiêm định phận, được Đức Lư ban ân huệ truy phong thưởng vào hàng Thánh Tử Đạo hồi 20 giờ 30 đêm 17-10 Nhâm Tư (22-11-1972) tại Cung Đạo Đền Thánh.
Hôm nay đứng trước cảnh mất c̣n, âm dương hưởng lộ trong t́nh đồng Đạo, trong cảnh đồng thuyền. Hội Thánh, Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu không khỏi ngậm ngùi mến tiếc 1 bạn hữu có đầy trung can nghĩa khí dám quên ḿnh hy sinh hiến xác thân cho Đại nghiệp Đạo.
Giờ đây ông Tổng Thanh Tra đă làm tṛn sứ mạng Thiêng Liêng để trở về bái mạng Ngọc Hư Cung, chúng tôi xin nghiên ḿnh bái biệt lần cuối cùng, tiễn đưa người bạn Đạo trở về Thiên Cảnh và xin để lời phân ưu cùng tang gia bửu quyến.
Trước khi dứt lời xin mời Chức Sắc, Chức Việc và toàn Đạo lưỡng phái hướng về Bát Quái Đài thành tâm cầu nguyện Đức Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng ban hồng ân cho anh linh cố Tổng Thanh Tra Đặc Nhiệm Chánh Trị Đạo, Thánh Tử Đạo Nguyễn Văn Thành được tiêu diêu nơi cơi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Nay kính
Ṭa Thánh ngày 19-10- Nhâm Tư
(24-11-1972)
Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Nhượng Thanh
(Ấn Kư)
(Trích trong Tiểu Sử Tổng Thanh Tra Nguyễn Văn Thành do Quang Minh biên soạn)
5. TƯỚNG VĂN THÀNH CAO
Ông sinh năm 1924 trong một gia đ́nh điền chủ tại Vĩnh Thạnh, G̣ Công, Nam Kỳ. Ông từng tham gia lực lượng Nội Ứng Nghĩa Binh ở xưởng đóng tàu Nitinan do ông Trần Quang Vinh làm chỉ huy với cấp Vệ Uư. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, lực lượng bán vũ trang Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh mặc đồng phục trắng, đội mũ bê-rê, vũ trang bằng gậy tre vọt nhọn tham gia hỗ trợ Nhật đảo chính Pháp tại Sài G̣n. Cuộc đảo chánh thành công, nhưng rồi sau đó Nhật bị bại trận ở thế chiến thứ 2 đành rút về nước.
Pháp quai lại tái chiếm Nam Bộ các nhóm lực lượng vũ trang Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh tham chiến tại các mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Sài G̣n. Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, các mặt trận nhanh chóng tan vỡ. Nhiều đơn vị vũ trang tan ră, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc cao cấp và chỉ huy quân sự Cao Đài đă đưa lực lượng của ḿnh tự rút về Tây Ninh và tự xây dựng các căn cứ để bảo vệ Ṭa Thánh Tây Ninh.
Khoảng tháng 11 năm 1946, các chỉ huy quân sự Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh bắt tay ḥa hoăn với Pháp. Đức Hộ Pháp sau hơn 5 năm bị đồ lưu ở Phi Châu được trả tự do về nước. Lúc nầy ông Trần Quang Vinh đă thành lập Quân Đội Cao Đài để bảo vệ Đạo. Ông Văn Thành Cao được phong cấp Đại úy và được giữ chức Chỉ huy trưởng một đơn vị Cao Đài đặt bản doanh tại Sa Đéc. Năm 1948, được thăng cấp Thiếu Tá tại nhiệm.
Ngày 7 tháng 6 năm 1951, Đại Tá Tŕnh Minh Thế, bấy giờ đang giữ chức Tham Mưu Trưởng Quân đội Cao Đài, tuyên bố ly khai lực lượng quân đội dưới quyền tướng Nguyễn Văn Thành, đưa các lực lượng dưới quyền vào rừng Bưng Rồ (Tây Ninh), lập chiến khu Bù Lu, với danh nghĩa Mặt Trận Liên Minh Quốc Gia Kháng Chiến, gọi là Liên Minh. Ông cũng đưa quân theo về và được thăng cấp Trung Tá, giữ chức Phó Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Liên Minh.
Năm 1954, cựu Thượng Thư Ngô Đ́nh Diệm về nước và được Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ định làm Thủ Tướng. Nhằm xây dựng một chính quyền vững chắc ở miền Nam, khả dĩ đối trọng với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ở miền Bắc, với sự hỗ trợ của người Mỹ, Thủ tướng Diệm một mặt quy tụ lực lượng chống Cộng, mặt khác trấn áp các thế lực đối lập. Thông qua trùm t́nh báo Edward Lansdale, Lực lượng Liên Minh đồng ư hợp tác với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 13 tháng 2 năm 1955, Lực lượng Liên Minh làm lễ chính thức sát nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, Tư lệnh Tŕnh Minh Thế được thăng cấp Thiếu Tướng, ông Văn Thành Cao được thăng cấp Đại Tá. Ngay sau buổi lễ, ông trở về Đồng Tháp để tổ chức lại các đơn vị dưới quyền.
Ngay sau khi sát nhập, Thủ tướng Diệm đă điều động các đơn vị Liên Minh phối hợp với quân chính phủ tấn công các lực lượng vũ trang đối lập. Ngày 3 tháng 5 năm 1955, khi đang ngồi trên xe Jeep chỉ huy tiến quân qua cầu Tân Thuận, tướng Tŕnh Minh Thế bất ngờ tử trận. Thủ tướng Diệm lập tức truy thăng tướng Thế lên Trung Tướng, ông Văn Thành Cao được thăng cấp Thiếu Tướng và được cử giữ chức Tổng Chỉ Huy Lực lượng Liên Minh thay tướng Thế.
Dưới chính thể Việt Nam Cộng ḥa
Sau khi chính thể Việt Nam Cộng ḥa được thành lập, ông vẫn được chính phủ trọng dụng, được cử làm Chỉ huy trưởng Chiến dịch B́nh định Miền Đông (đặt bản doanh tại Tây ninh), nhằm dứt điểm xu hướng ly khai của các chức sắc cao cấp Cao Đài Tây Ninh. Ngày 19 tháng 2 năm 1956, ông chỉ huy Lực lượng quân Chính phủ tiến vào Ṭa Thánh Tây Ninh. Trước đó, ngày 16 tháng 2, Đức Hộ Pháp đă cùng một số chức sắc thân tín sang tị nạn chính trị ở Campuchia.
Ngô Đ́nh Diệm mượn danh Văn Thành Cao và Đại Úy Quy điều động các đơn vị Cao Đài Liên Minh về Tây Ninh khủng bố, phong tỏa Ṭa Thánh, bắt giam chức sắc Thiên Phong và tín đồ cùng bao vậy Hộ Pháp Đường, để chặn lối đối đầu của những tiểu đoàn Cao Đài không chấp nhận Quốc Gia hóa và thị uy như một thông cáo nhằm thách đố Đạo Cao Đài.
Năm 1960, ông được cử giữ chức Giám đốc sở Khảo cứu phản Du kích chiến (Pḥng Nghiên cứu Du kích chiến). Đến trung tuần tháng 2 năm 1961, ông được cử làm Đại biểu Chính phủ đơn vị Miền Đông Nam Phần. Ngày 23 tháng 3 năm 1962, chính quyền Tổng thống Diệm phát động chính sách Ấp Chiến Lược. Chương tŕnh được thực hiện thí điểm tại 5 ấp ở Bến Cát (B́nh Dương) với tên gọi Chiến dịch B́nh Minh (Sunrise), với người phụ trách là Trung tá Albert Phạm Ngọc Thảo. Ông được cử làm Chỉ Huy Trưởng của chương tŕnh.
Trong cuộc đảo chính năm 1963, ông không tham dự vào âm mưu đảo chính và cũng không giữ một vai tṛ nào.
Do sự can thiệp của các lănh tụ Phật giáo, đứng đầu bởi Thượng tọa Thích Tâm Châu, ngày 6 tháng 6 năm 1966, ông cùng 9 chính khách dân sự khác được tham gia các cuộc họp của Ủy ban Lănh đạo Quốc gia.
Thượng tuần tháng 6 năm 1973, ông được cử giữ chức Tổng cục phó Tổng cục Chiến tranh Chính trị và ở chức vụ này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
1975
Sau ngày 30 tháng 4, ông trở về nhà và đến ngày 3 tháng 5 ông ra tŕnh diện chính quyền mới. Sau đó, ông bị đưa đi lưu đày cải tạo cho đến ngày 12 tháng 2 năm 1988 mới được trả tự do.
Ông được xuất cảnh theo diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lănh và định cư tại Houston, Hoa Kỳ.
(Nguồn trích từ Wikipedia)
6. TƯỚNG TR̀NH MINH THẾ (1922-1955)
Tŕnh Minh Thế sinh ở tỉnh Tây Ninh trong một gia đ́nh theo đạo Cao Đài. Theo Pḥng Nh́ Pháp th́ cha ông tên là Tŕnh Trung Vinh, tuy nhiên nguồn khác lại cho biết cha ông là Tŕnh Thành Quới, mang phẩm Lễ Sanh trong Đạo Cao Đài, ngoài đời là một thương gia phát đạt.
Gia đ́nh họ Tŕnh chuyển từ B́nh Định vào miền Nam từ đầu thế kỷ 19 và đổi họ từ Trịnh sang Tŕnh, theo gia đ́nh ông là để tránh sự trả đũa của nhà Nguyễn với những người theo Tây Sơn.
Do sinh trưởng trong một gia đ́nh có thế lực, Tŕnh Minh Thế được hưởng sự giáo dục tốt hơn rất nhiều người Việt đương thời nói chung. Ông tốt nghiệp tiểu học (Certificate of Primary Education), nhưng sau bị đuổi học v́ tội ngang ngạnh, bướng bỉnh.
Thời kỳ 1940-1954
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Nhật tiến vào Đông Dương. Phản ứng trước t́nh h́nh phong trào chống Pháp càng ngày càng gia tăng, toàn quyền Đông Dương là Đô đốc Decoux hành động quyết liệt. Ông ta cho đóng cửa một số nơi thờ tự của Cao Đài, ngày 26 tháng 8 năm 1940 cho đóng cửa Ṭa Thánh Tây Ninh. Ngày 27 tháng 7 năm 1941, nhiều lănh đạo của Cao Đài, kể cả Đức Hộ Pháp Hộ cũng bị bắt giữ và bị lưu đài sang Madagasca Phi Châu.
Tháng 2 năm 1943, Nhật giúp vị Phối Sư Cao Đài là Thượng Vinh Thanh (thế danh Trần Quang Vinh) mở lại Thánh Thất Cao Đài tại Sài G̣n. Để đáp lại, Cao Đài hợp tác tích cực với Nhật, Phối sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) kêu gọi thanh niên Cao Đài xung phong vào làm việc cho xưởng đóng tàu Nitinan. Số người này sau giờ làm việc được huấn luyện quân sự. Nhờ vậy mà Tŕnh Minh Thế được huấn luyện quân sự trong trường sĩ quan của Hiến binh Nhật, khi Nhật bắt đầu sử dụng lực lượng vũ trang Cao Đài. Tới năm 1945, ông trở thành một sĩ quan của lực lượng quân sự Cao Đài.
Được sự bảo trợ của Nhật, Phối Sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) tổ chức lực lượng vũ trang gồm 3.000 người, tiếng là theo chỉ thị của Hoàng thân Cường Để. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, lực lượng Cao Đài mặc đồng phục trắng, đội mũ bê-rê, vũ trang bằng gậy tre vọt nhọn tham gia hỗ trợ Nhật đảo chính Pháp. Thủ lĩnh quân sự của Cao Đài là tướng Trần Văn Thành tuyên bố Hoàng Thân Cường Để chỉ thị thành lập lực lượng vũ trang Cao Đài liên minh với Nhật Bản để chống Pháp. Không có tài liệu cho biết cụ thể hoạt động của Tŕnh Minh Thế trong thời gian này, nhưng có thể cho rằng thời kỳ này Tŕnh Minh Thế đă gia nhập lực lượng vũ trang Cao Đài và tích cực hợp tác với Nhật.
Tháng 11 năm 1946, cùng với lực lượng Cao Đài, Tŕnh Minh Thế bắt tay ḥa hoăn với Pháp và nhanh chóng thăng tiến. Trong khoảng thời gian từ năm 1946-1948, Tŕnh Minh Thế từ Trưởng Pḥng tác chiến khu vực Bến Cầu trở thành Tổng Chỉ Huy khu Miền Đông. Trong ṿng 5 năm Tŕnh Minh Thế đă trở thành Tham Mưu Trưởng Quân Đội Cao Đài.
Tháng 1 năm 1948, Tŕnh Minh Thế ly khai lần thứ nhất, nhưng quay lại chỉ sau 48 giờ. Ông thành lập đội quân xung kích Hắc Y, mặc quần áo bà ba đen, sau trở thành đồng phục cho tất cả dân quân Liên Minh. Bộ quần áo bà ba đen sau này trở thành biểu trưng cho lực lượng Việt Cộng khi quân Liên Minh tan ră. Đầu năm 1949, Tŕnh Minh Thế đưa lực lượng của ḿnh từ các tỉnh Miền Đông về Tây Ninh để ủng hộ Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, rồi sau đó được phong hàm Thiếu tá.
Trên thực tế, hoạt động chống Việt Minh của Tŕnh Minh Thế có hiệu quả đáng ngờ. Chẳng hạn ngày 17 tháng 2 năm 1950, Tŕnh Minh Thế cung cấp cho lực lượng Việt Minh tại Trảng Bàng vũ khí để tấn công một đoàn xe của Pháp, ông cũng gửi đại diện đến các cuộc họp của Việt Minh tại Long Thành ngày 30 tháng 4 và Đồng Tháp Mười ngày 14 tháng 6 năm 1950, ngoài ra, Tŕnh Minh Thế c̣n lớn tiếng công kích Pháp. Các vụ đụng độ giữa quân Liên Minh và Việt Minh chỉ gây ra những tổn thất nhỏ, phần nhiều giới hạn trong việc giành giật lương thực, ngũ cốc của hai phe. Một lư do được nêu ra, có thể là do lực lượng của Tŕnh Minh Thế chỉ có giới hạn, không phải là đối thủ của Việt Minh. Dù sao, hoạt động của Tŕnh Minh Thế cũng giúp cho Ṭa Thánh Tây Ninh tránh được các cuộc tấn công của lực lượng Việt Minh.
Tháng 6 năm 1951, Tŕnh Minh Thế chính thức rời khỏi hàng ngũ Quân Đội Cao Đài với chừng 2.000 người của ḿnh và thành lập lực lượng riêng, lấy tên là Liên Minh, chủ trương chống cả Việt Minh và Pháp. Cha và anh của ông cũng thành lập lực lượng vũ trang trong Liên Minh, về sau hai người bị giết khi đụng độ với lực lượng Việt Minh. Tuy nhiên, cũng có tin cho rằng ông Tŕnh Thành Quới chết v́ trúng ḿn do chính lực lượng Liên Minh đặt pḥng vệ quanh doanh trại.
Tháng 8 năm 1953, quân Pháp mở cuộc tấn công vào căn cứ của Tŕnh Minh Thế, sử dụng một tiểu đoàn sơn cước Nùng tinh nhuệ. Quân Liên Minh phải tránh vào các hang động ở núi Bà Đen. Về sau Tŕnh Minh Thế phải dời sở chỉ huy về núi Heo. Tới năm 1954, Liên Minh đă mở rộng địa bàn hoạt động về phía tây-nam, tới tận sông Cửu Long. Lực lượng của họ được chia làm nhiều tiểu đoàn, quân số có lẽ vào khoảng 2.500 người.
Thời kỳ 1954-1955
Thời kỳ đầu năm 1954, khi nội bộ Cao Đài c̣n đang ngấm ngầm tranh giành ảnh hưởng, thế lực với nhau, th́ Pháp thua trận Điện Biên Phủ. Chính phủ Mỹ không muốn Việt Nam thống nhất dưới sự lănh đạo của Hồ Chí Minh, nên quyết định can thiệp, hỗ trợ lực lượng thứ ba. Cố vấn quân sự Mỹ là Edward Lansdale, người chịu trách nhiệm hỗ trợ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, đàm phán với Tŕnh Minh Thế về việc sử dụng lực lượng vũ trang của ông ta để hỗ trợ cho Thủ tướng Diệm và Quân đội Việt Nam Cộng ḥa. Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm dành ra 5 triệu quan (piastre) cho Liên Minh, để thu xếp định cư cho 10.000 người tị nạn ở khu vực Tây Ninh.
Thông qua Lansdale, Mỹ tiếp tục tài trợ cho Tŕnh Minh Thế và các nhóm Cao Đài khác. Tuy nhiên, do chính phủ Đệ nhất Cộng ḥa c̣n yếu ớt, nên nhiều chỉ huy các phe nhóm vũ trang tuyên bố chống lại chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và tổ chức đảo chính. Thời gian này, khó xác định được Tướng Thế trung thành với ai, và cũng khó xác định được liệu chính phủ Mỹ có ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm chống lại phe nổi loạn. Một số người cho rằng Tướng Thế có thể là một lựa chọn khả dĩ để thay thế Ngô Đ́nh Diệm. Tuy nhiên khi lực lượng Liên Minh tiến vào Sài G̣n, th́ có lẽ đó là để đáp lại lời kêu gọi vào phút cuối cùng của Lansdale ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm.
Tháng 9 năm 1954, Lansdale phát hiện ra tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Cộng ḥa, đang tiến hành âm mưu lật đổ Ngô Đ́nh Diệm. Cùng lúc, quân Pháp phong tỏa các lực lượng Cao Đài định tiến vào Sài G̣n giải nguy cho Ngô Đ́nh Diệm. Cuộc đảo chính bị thất bại khi Lansdale mua chuộc được các sĩ quan cấp dưới của tướng Hinh đi nghỉ mát, thiếu những thuộc hạ cốt cán này, cuộc đảo chính không thể tiến hành được.
Đầu năm 1955, Đại sứ quán Mỹ dành ra một ngân khoản bí mật, ước tính khoảng 2 triệu dollar để thuyết phục Tŕnh Minh Thế gia nhập chính phủ. Ngay cả các khoản chi chính thức cho Tŕnh Minh Thế cũng rất đáng kể, như ngân sách dành cho lực lượng vũ trang bỏ ra 108.000 dollar để chi cho Tŕnh Minh Thế. Số tiền Lansdale bỏ ra để mua chuộc các chỉ huy giáo phái lên đến 8,6 triệu dollar, c̣n nếu tính cả số tiền Ngô Đ́nh Diệm bỏ ra th́ tổng cộng có đến 12 triệu dollar đă được chi cho 246 chỉ huy giáo phái.
Ngày 13 tháng hai năm 1955, quân lính của Tŕnh Minh Thế chính thức sát nhập vào quân đội Việt Nam Cộng ḥa, c̣n Tŕnh Minh Thế nhận hàm Thiếu Tướng, dẫn quân Liên Minh diễu hành vào Sài G̣n. Tŕnh Minh Thế điều động 15.000 quân Cao Đài về Ṭa Thánh Tây Ninh như lực lượng dự bị, c̣n ḿnh dẫn phần lớn lực lượng của ḿnh gồm 2.500 người về gia nhập quân đội Việt Nam Cộng ḥa như thỏa thuận với Ngô Đ́nh Diệm.
Cái chết
Mộ Tŕnh Minh Thế tại núi Bà Đen
Trong khoảng thời gian từ tháng 3 tới tháng 5 năm 1955, t́nh h́nh tại Sài G̣n trở nên rất căng thẳng. Mâu thuẫn gay gắt về cả quyền lực chính trị lẫn kinh tế khiến đụng độ vũ trang giữa phe chính phủ và liên minh lực lượng vũ trang giáo phái cùng B́nh Xuyên là khó tránh khỏi. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm kiên quyết tiêu diệt lực lượng vũ trang đối lập, c̣n lực lượng giáo phái nhờ vào sự hậu thuẫn của Pháp cũng quyết không chịu nhượng bộ. Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đưa vào Sài G̣n các đơn vị trung thành gồm 3 tiểu đoàn Nùng, rồi 2 tiểu đoàn dù dưới quyền đại tá Đỗ Cao Trí. Các đơn vị này cộng vào số binh sĩ của tướng Tŕnh Minh Thế (Cao Đài), đại tá Nguyễn Văn Huê (Ḥa Hảo) và thiếu tá Nguyễn Văn Đày (Ḥa Hảo) làm cho cán quân lực lượng nghiêng về phía quân chính phủ, so độ 4.000-5.000 quân B́nh Xuyên tại vùng Sài G̣n Chợ Lớn.
Ngày 8 tháng 3 năm 1955, 7 tiểu đoàn quân đội Việt Nam Cộng ḥa bắt đầu hành quân tiêu diệt lực lượng đối lập là đảng Đại Việt tại Quảng Trị, và tới ngày 25 tháng 3, quân dù mở cuộc tấn công vào phe đối lập tại Sài G̣n, nhưng Cao ủy Pháp là tướng Paul Ely cùng tướng Lawton Collins (Mỹ) gây sức ép buộc quân chính phủ phải ngưng chiến. Tuy nhiên, thế lực của quân chính phủ được củng cố lên nhiều khi ngày 29 tháng 3, tướng Nguyễn Thành Phương, tư lệnh các lực lượng Cao Đài tuyên bố ủng hộ chính phủ. T́nh h́nh căng thẳng giữa hai bên kéo dài, các thỏa hiệp do Pháp và Mỹ làm trung gian đưa ra đều bị hai bên bác bỏ, tới ngày 26 tháng 4, xung đột quân sự bùng nổ trở lại. Quân đội chính phủ nhanh chóng đánh tan sức kháng cự của quân B́nh Xuyên, tới cuối tháng 4, quân B́nh Xuyên hoàn toàn bị đánh bại, bị đẩy khỏi thành phố, bị quân chính phủ truy kích.
Ngày 3 tháng 5 năm 1955, khi đang ngồi trên xe Jeep chỉ huy tiến quân qua cầu Tân Thuận, tướng Tŕnh Minh Thế bị một viên đạn carbin bắn tỉa bắn vào sau gáy. Vụ giết người này không bao giờ được làm sáng tỏ, một số người đổ lỗi cho phía Pháp (v́ họ đă thề giết cho bằng được Tŕnh Minh Thế trong suốt nhiều năm), trong khi một số người cho rằng chính quyền Việt Nam Cộng ḥa đă làm việc này. Hoàn cảnh cái chết của ông cũng gây nhiều tranh căi, khi có nhiều thông tin khác nhau, thậm chí đối lập nhau về thời gian, địa điểm, vết thương gây nên cái chết của ông. Sau khi chết, tên ông được đặt cho con đường dọc suốt Quận 4 Sài G̣n cho tới năm 1976, nay là đường Nguyễn Tất Thành.
Con trai Tŕnh Minh Thế là Tŕnh Minh Sơn cư ngụ ở Canada khi trả lời báo Asia Times cho rằng cha ḿnh bị giết bởi một khẩu súng lục chĩa vào gáy. Ông cũng cho biết Tŕnh Minh Thế đă bị bắn hai phát, chứ không phải một như thông tin chính thức mà giới truyền thông Việt Nam Cộng ḥa đưa ra lúc bấy giờ. Ông cho rằng cha ḿnh đă bị ám sát bởi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm để ngăn chặn khả năng ông trở thành phe đối lập với chính quyền.
Trong một đàn cơ tai Tây Ninh đêm 11 tháng 8 âm lịch năm Ât Mùi 1955, Tướng Thế có về cơ cho bài thi như sau:
Lỡ bước qua sông chẳng kịp đ̣,
Chí cao khéo định khỏi phiền lo.
Anh hùng định thế chưa an thế,
Chỉ tiếc mài râu chẳng vẹn tṛ.
(Nguồn tham khảo từ Wikipedia và môt số tài liệu khác)
Đạo Cao Đài được thành lập từ năm 1925 với tôn chỉ là Tam Giáo qui nguyên, Ngũ Chi hiệp nhứt. Là thời kỳ thứ ba để phổ độ và cứu rỗi nhơn sanh vào con đường Đạo đức. Việc thành lập Quân Đội Cao Đài là việc bất khả khán, nó xảy ra trong một hoàng cảnh đặc biệt với mục tiêu ban đầu là bảo vệ nền Đạo khỏi phải chịu sự đàn áp của thực dân Pháp, từ một đoàn Nội Ứng Nghĩa Binh chỉ có vũ khí thô sơ tầm vong vạt nhọn dần dần trở thành một lực lượng lớn mạnh có tầm ảnh hưởng bao trùm cả khu vực Miền Nam Việt Nam.
Khi Đức Hộ Pháp được trả tự do từ Madagascar về nước th́ Quân Đội đă được thành lập rồi, Đức Ngài từng nói: “Quân Đội không có một phần công lư bị tiêu diệt, mà có Quân Đội là một áp bức bất công không chi b́ kịp. Nó là Thánh mà cũng là phàm, cái Thánh ấy bị đời lợi dụng đặng làm mạnh cái phàm lực của họ”. Sau một thời gian h́nh thành và phát triển, cuối cùng Đức Ngài giải tán Quân Đội, kêu gọi các tướng lĩnh và quân nhân lựa chọn, ai muốn theo con đường binh nghiệp th́ theo, ai muốn quai về con đường Đạo th́ đi, từ đây trong Đạo Cao Đài không c̣n Quân Đội nữa. Một số người có tâm Đạo đă rũ bỏ áo quân nhân mà trở về phục vụ nhơn sanh, nhưng cũng có một số người v́ ham danh vọng hay v́ một lư do nào đó vẫn ở lại Quân Đội, hiển nhiên lúc nầy Quân Đội đă được quốc gia hóa không c̣n là Quân Đội của Đạo Cao Đài nữa.
Cái công của Quân Đội Đạo Cao Đài đă được Đức Hộ Pháp nhận xét:
“1.-Đối với Đạo: Quân Đội Cao Đài là tiêu biểu cho sự công b́nh và nhân Đạo, đă nêu cao ngọn cờ nhơn nghĩa và thi hành đúng sứ mạng Thiêng Liêng.
“2.-Đối với quốc dân: Quân Đội Cao Đài đă giải phóng cho nhiều đồng bào sống dưới gông kềm độc tài, lập trật tự an ninh cho dân chúng.”
Đến thời XHCN, chánh quyền lại đỗ lỗi cho Đạo Cao Đài thành lập Quân Đội chỉ để làm tay sai cho Pháp, Mỹ…Họ quên rằng chính Quân Đội Đạo Cao Đài đă góp công vào việc giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của Thực Dân Pháp.
Khi Đức Hộ Pháp giải tán Quân Đội, Đức Lư có giáng cơ cho bài thi như sau:
Giải tán quân nhân thật phép màu,
Kỳ Sơn Phụng gáy nghiệp qui Châu.
Non sông đượm vẽ màu tươi thắm,
Hồng Lạc thay lông đẹp áo chầu.
Rơ mặt lập đời gương Giáo Chủ,
Nên h́nh cứu thế đức Jesus.
Nực cười kẻ dại lăng xăng múa,
Thánh đức đành đem đổi hận sầu.
Nhắc đến Đạo Cao Đài người ta c̣n nhắc đến một đội quân hùng hậu nữa do ông Cao Triều Phát chỉ huy, đă được chính quyền XHCN công nhận là có công với đất nước. Nhưng đối với người tín hữu Đạo Cao Đài vùng Ṭa Thánh Tây Ninh th́ chỉ xem nhánh đó là một nhánh của Chi Phái nên chúng tôi không đi chi tiết về đội quân nầy.
Công và tội của Quân Đội khi đọc qua tài liệu này chúng ta đều đă biết rồi, cái quan trọng bây giờ của mỗi tín hữu Đạo Cao Đài là phải giữ ǵn những ǵ mà các bật tiền bối đă dày công xây dựng. Theo lời tiên tri của Đức Chí Tôn đă chọn nước Việt Nam nhỏ bé sau nầy sẽ làm lănh Đạo cả thế giới: “Một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc, mà sau lănh Đạo mới kỳ tài”. Đức Chí Tôn đă chọn vùng Thánh Địa Tây Ninh làm Đền Thờ Ngài, rồi đây khi Đạo đă được h́nh thành và phát triển rộng khắp trên toàn thế giới, người hành hương ở khắp Năm Châu sẽ đổ dồn về Thánh Địa Tây Ninh, chúng ta sẽ có dịp trổ tài hướng dẫn họ, cho họ biết để đạt được những thành quả hôm nay các vị tiền bối đă trải qua biết bao lắm nhọc nhằn./.
Tỉnh Tâm
(sưu tầm và đánh máy xong 9-12-2016)
Xin Qúi vị xem thêm một số công văn và h́nh ảnh về Quân Đội chúng tôi đă sưu tầm được, rất mong tiếp nhận sự đóng góp của Qúi vị cho quyển sách nầy được đầy đủ hơn.
1. BIÊN BẢN BUỔI HỌP CỦA CÁC SĨ QUAN BỘ THAM MƯU QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI TẠI TỔNG HÀNH DINH (ngày 25-2-1949 lúc 20 giờ)
Chủ tọa: Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thành
Hội viên hiện diện:
-Đại Tá: Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Văn Kiết, Tŕnh Minh Thế.
-Thiếu Tá: Phan Tấn Phát, Lê Văn Tất, Nguyễn Thái, Nguyễn Thành Danh, Trần Ngọc Mỹ, Nguyễn Văn Tư.
-Đại Uư: Nguyễn Kim Vinh, Cam Văn Tỵ, Vơ Văn Năng, Cao Văn Kiêm, Phan Văn Thảo, Lê Văn Ngưu, Nguyễn Văn Phú, Phạm Văn Truyện, Trần Văn Thoại.
-Giáo Sĩ: Nguyễn Văn Tư
MỤC TIÊU CUỘC HỌP
Hoạch định thái độ của QĐCĐ, trong khi chờ đợi sự thực hiện các nguyện vọng của Đức Hộ Pháp đă bày tỏ trong thơ số 147, đề ngày 16-2-1949 gởi ông Cao Uỷ Pháp ở Đông Dương.
Sau khi trao đổi ư kiến, các hội viên hiện diện đồng thanh quyết định áp dụng những thể thức sau đây cho lực lượng Cao Đài.
QUYẾT ĐỊNH
1) Bảo vệ dân chúng trong các khu vực QĐCĐ chiếm đóng.
2) Bảo vệ như thường ngày tất cả các đoàn xe hộ tống.
3) Thường xuyên tuần tiểu trong các khu vực nói trên để canh pḥng những trục giao thông, đường lộ, đường rầy, đường sông v.v…
4) Không tham gia các cuộc hành quân càn quét ngoài khu vực đóng quân của QĐCĐ. (Giữ thế thủ tránh tấn công). Những kẻ phá rối trong các khu vực ấy sẽ bị quân lực trừng phạt.
5) Biện pháp tương tự hổ trợ song phương sẽ áp dụng trong trường họp quân đội Pháp bị tấn công khi hành quân tuần tiểu hay hành quân liên lạc, hay chuyên chở trong khu vực chiếm đóng của QĐCĐ.
6) Quân Đội Cao Đài không tham gia bất cứ cuộc hành quân nào càng quét và đón bắt nào của Quân Đội Pháp.
Băi hội lúc 24 giờ
Ṭa Thánh Tây Ninh ngày 15-2-1949
Chủ Tọa
(kư tên)
NGUYỄN VĂN THÀNH
2.KIẾN NGHỊ CỦA MẶT TRẬN THỐNG NHỨT TOÀN LỰC QUỐC GIA
Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia
Chủ Tịch Đoàn
KIẾN NGHỊ
Gởi ông Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam.
- Xét v́ t́nh thế nước nhà đang hồi nghiêm trọng cần đến sức chiến đấu của Toàn Lực Quốc Gia mới mong cứu nguy được Tổ Quốc.
- Xét v́ nhân dân Việt Nam đang đ̣i hỏi một chánh quyền liên hiệp quốc gia dân chủ và lành mạnh để lănh Đạo dân tộc vượt qua khó khăng nầy.
- Xét v́ ngồi điềm nhiên tọa thị trong lúc nước nhà nghiên ngửa là một trọng tội đối với Tổ Quốc và tiền nhân.
CHÚNG TÔI QUYẾT ĐỊNH
1) Xây dựng một chánh quyền liên hiệp quốc gia và lành mạnh.
2) Đề đạt ư kiến nầy lên Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm yêu cầu trong thời gian 4 ngày, cải tổ toàn diện nội các hiện hữu để thay thế vào một nội các mới với sự thỏa thuận của Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia.
Tây Ninh ngày 20-3-1955
Kư tên:
Đức Hộ Pháp : Phạm Công Tắc
Trung Tướng: Trần Văn Soái
Thiếu Tướng: Lê Văn Viễn
Thiếu Tướng: Lâm Thành Nguyên
Thiếu Tướng: Tŕnh Minh Thế
Thiếu Tướng : Lê Quang Vinh
(Lời phê của Thiếu Tướng Tŕnh Minh Thế: Tôi là Thiếu Tướng Quân Đội Quốc Gia, cố nhiên không có quyền làm chánh trị. Nhưng v́ nhận rơ nguy cơ của dân tộc, tôi tán thành bản quyết nghị nầy).
3.THƠ ĐỨC HỘ PHÁP ĐỀ NGHỊ HƯU CHIẾN (Số 115)
Hộ Pháp Phạm Công Tắc
Kính gởi ông Cao Uỷ Pháp ở Đông Dương Saigon
-Tướng Blaijot, Tư Lịnh Quân Đội Viễn Đông Pháp Saigon
-Tướng Nguyễn Văn Xuân, Thủ Tướng Chánh Phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam Hanoi
-Tướng Delatour, Tư Lịnh Quân Đội Pháp Miền Nam Đông Dương Saigon
-Ông Chủ Tịch Trần Văn Hữu, Tổng Trấn Nam Phấn Việt Nam Saigon
Quí Ông,
Ba năm trôi qua, dân tộc Việt Nam không ngớt tiếp tục chiến đấu cho độc lập và thống nhất quốc gia. Phía người Pháp họ vẫn không từ bỏ khí giới chống lại nguyện vọng của người bản xứ ở Việt Nam mà chính nước Pháp đă nh́n nhận chánh đáng, và hai bên nh́n nhận như đối địch đă thâu hoạch toàn là sụp đổ và tàn phá, oán ghét và thù hận, chết chóc và đau khổ. Hơn nữa một ư thức hệ ngoại lai xui khiến du nhập đất nước và khéo léo thâm nhiễm từ óc ngây thơ và vô ư thức của dân chúng, cốt yếu làm sai lạc các t́nh cảm ái quốc và tập trung t́nh cảm ấy hướng theo một cuộc tranh đấu bè phái, ngơ hầu phụng sự những kẻ mưu toan chinh phục thế giới bằng cách đảo lộn thế giới.
Từ đó nảy sinh sự phức tạp của vấn đề Việt Pháp, Mặc dầu người ta biết đầu dây mối nhợ của sự phức tạp nầy.
Vậy nước Pháp trở thành bất lực trước t́nh h́nh như thế hay sao?
Phải chăng nước Việt Nam không ư thức được vận mạng quốc gia dân tộc của ḿnh?
Tuy nhiên đó là hai quốc gia được thế giới nh́n nhận lư tưởng nhứt với chiều hướng duy tâm cao độ, khích động cả hai trong mọi cảnh ngộ.
Với ảnh hưởng tâm linh và t́nh thương nhân loại, Đạo Cao Đài đă toan tính sấn bước theo đường lối ḥa giải tất cả phe phái và đeo đuổi sở hành của ḿnh đặng tạo dựng cho được t́nh ḥa thuận huynh đệ giữa hai dân tộc xung đột nhau.
Riêng phần Bần Đạo hy vọng được Đấng Thượng Đế toàn năng hộ tŕ góp sức mọn vào quyền lợi chung trong năm Kỷ Sửu sắp đến và Bần Đạo sẽ dành những ngày tết đầu năm cho lối cầu nguyện long trọng.
Hơn nữa Bần Đạo kêu gọi thiện chí của toàn thế giới cầm quyền trong nước đặng thực hiện một cuộc ngừng bắn của tất cả các lực lượng quân sự Pháp cũng như Việt Nam trong khi chờ đợi một thỏa ước tương lai.
Mặt khác Bần Đạo sung sướng lưu ư Qúi Vị rằng: Nhiều đoàn thể kháng chiến đă đệ tŕnh Bần Đạo những đề nghị qui thuận chánh nghĩa quốc gia Việt Nam. Họ cầu xin Bần Đạo trực tiếp bảo vệ và Bần Đạo sẽ đơn phương nhận trách nhiệm đối với họ.
Vấn đề các đương sự nêu lên ngoài ư chí của Bần Đạo nên Bần Đạo đệ tŕnh Qúi Vị thẩm xét để quyết định hữu ích.
Đă đến lúc chất dứt hậu quả tai hại của chiến cuộc, Bần Đạo ước mong mănh liệt chư Qúi Vị hồi đáp để Bần Đạo khả dĩ giúp ích cho Qúi Vị.
Xin trân trọng kính chào Qúi Vị.
Ṭa Thánh ngày 17-1-1949
(Kư tên và đóng dấu)
PHẠM CÔNG TẮC
Sao y nguyên văn:
Bảo Thế
Thừa Quyền Hộ Pháp
(Có bản Pháp Văn đính kèm nhưng do người đánh máy không thạo Pháp ngữ nên có dịp khác sẽ bổ sung sau).
4. THƠ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP XIN HƯU CHIẾN VÀ TRẢ KHÍ GIỚI
Hộ Pháp Đường Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Văn Pḥng Nhị Thập Tứ Niên
Số: 147 Ṭa Thánh Tây Ninh
Lược dịch bức thơ số 147 đề ngày 16-7-1949 của Đức Hộ Pháp gởi cho :
Quang Thượng Sứ Pháp ở Đông Dương Saigon
Quan Đại Tướng Blaijol, Tổng Tư Lịnh Quân Đội Pháp ở Đông Dương Saigon
Quan Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, Thủ Tướng Chánh Phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam Hanoi
Quan Thiếu Tướng De Latour, Tổng Tư Lịnh Quân Đội Pháp Nam Phần Việt Nam Saigon
Quan Tổng Trấn Trần Văn Hữu, Nam Phần Việt Nam Saigon
Kính Quí Ngài,
Trong bức thư số 115 đề ngày 17 tháng giêng 1949 dương lịch, trong đó Bần Đạo tŕnh bày một dự định hưu chiến của đôi bên người Pháp và người Việt Nam.
Bần Đạo xin tuyên ngôn rằng, cái dự định ấy chỉ có tính cách về mặt chánh trị mà thôi, ngỏ hầu thúc giục sự kư kết ḥa b́nh mà từ lâu dân tộc Việt Nam vẫn tha thiết đợi chờ, thêm nữa đặng mau chấm dứt cuộc đổ máu vô ích và vô nhân Đạo của người Pháp và người Việt Nam.
Những dự tính của chúng tôi đều không dược các nhà đương quyền có trách nhiệm chấp thuận và chỉ trả lời bằng cách thủ khẩu như b́nh.
Đă thế những cuộc hành binh tàn sát sanh mạng, khủng bố dân lành và phá hoại tài sản vẫn tiếp diễn măi. C̣n trọng hệ hơn nữa là tước khí giới bất hợp pháp những binh sĩ ở các đồn tự vệ của chúng tôi trong tỉnh Biên Ḥa, Gia Định và Cần Thơ. Những cuộc giải giới nầy minh chứng một cách rơ rệt công khai ư định của nhà binh Pháp muốn tuyệt giao với chiến sĩ và Đạo Hữu Cao Đài. Làm như thế là xâm phạm đến hiệp ước đă kư kết ngày 8 tháng giêng năm 1947.
Sự trung thành của chúng tôi đối với nước Pháp theo điều kiện trong hiệp ước nầy đă được nêu cao do hành tàng của quân đội Cao Đài.
Chúng tôi rất tiếc hiện nay nhà đương quyền Pháp trả lại cho chúng tôi một sự bất tín nhiệm mà thôi.
Sự hiện diện những tổ chức quân sự của chúng tôi đă đến giai đoạn không cần thiết nữa.
Chúng tôi xin cho quí Ngài rơ, chúng tôi sẵn sàng giải tán tất cả những tổ chức binh bị của chúng tôi và giao hồi cho nhà binh Pháp tất cả những khí giới đă giao cho chúng tôi.
Chúng tôi sẽ triệt để đứng trung lập, v́ đó là lập trường sau nầy của chúng tôi vậy.
Chúng tôi sẽ để cho nhà binh Pháp được tự do định liệu ngày giờ chúng tôi giao hồi khí giới, ước mong được sớm ngày nào càng tốt ngày nấy.
Kính chào Qúi Ngài.
Ṭa Thánh ngày 18 tháng 2 năm 1949
(Kư tên)
PHẠM CÔNG TẮC
Lược dịch y bổn chánh:
Bảo Thế thừa quyền Hộ Pháp
LÊ THIÊN PHƯỚC
(Có bản Pháp văn đính kèm, do người đánh máy không thạo Pháp ngữ nên có dịp sẽ bổ sung sau).
5. THƠ TRẢ LỜI SỐ 160/CAB/1 CỦA DE LATOUR GỞI CHO ĐỨC HỘ PHÁP
Văn pḥng
Ủy Viên Cộng Ḥa Pháp Quốc
Ở Nam Kỳ
Số: 160/5/CAB/1
Saigon , ngày 19 Féurier 1949
Quyền Ủy Viên Cộng Ḥa Chánh Phủ Pháp ở Nam Phần Việt Nam
Thưởng thọ Tam Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh
Kính gởi cho Đức Giáo Chủ Cao Đài Tây Ninh.
Kính Ngài,
Tôi tiếp được bức thơ của Ngài số 147 ngày 16 tháng 2 dương lịch, và tôi xét từng đoạn từng lời.
Nguyên hôm 17 tháng giêng rồi, Ngài có gởi cho tôi cùng Quan Thượng Sứ và Quan Đại Tướng Blaijot một bức thư bàn về vấn đề có thể qui hiệp về một mối, những lực lượng phiến loạn, mà người ta gọi là lực lượng quốc gia, tôi liền cậy Thủ Tướng Hữu triệu tập một phiên nhóm của Ủy Ban An Ninh và Ngài cũng có dự phiên nhóm ấy.
Ủy Ban An Ninh đă biểu đồng t́nh thi hành nhiều phương pháp. Đặc biệt hơn hết là ông cựu Thủ Tướng Hoạch phải tiếp tục sở hành của ông, có nhị vị Trung Tá Freu và Thiếu Tá Savani giúp ông trong các cuộc thương thuyết. Bởi cớ cho nên không có thơ hồi âm cho Ngài, v́ việc ấy ví như đă giải quyết rồi. Tôi xin nói thêm và nhờ Ngài lưu ư rằng những quyết nghị của Ủy Ban An Ninh đều do sự yêu cầu của nhơn viên trong chánh phủ Nam Phần Việt Nam như Quan Thủ Tướng Hữu và Ông Trần Quang Vinh, vị nầy lại là Chức Sắc lớn trong Đạo Cao Đài.
Hôm nay Ngài xin tôi hưu chiến, nghĩ v́ tôi không có đủ quyền quyết định nên đă dâng lên cho quan Thượng Sứ phán xét. Người tỏ ư rất may mắn sẽ hội đàm với Ngài, tùy ư Ngài định bửa nào, kể từ bửa thứ hai 21-2 sắp tới.
Tôi tưởng chẳng nên nhứt quyết điều ǵ cả, trước khi có cuộc gặp gở nầy, chẳng những với Quan Thừa Sứ mà thôi, mà c̣n cần phải có với Quan Thủ Tướng Chánh Phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam mà Ngài là một vị Cố Vấn tối cao đó vậy.
Sau nầy, nếu như Ngài vẫn cương quyết trong ư định của Ngài th́ tôi không ngăn cản chi cả và xin Ngài phân rành cho tôi rơ Ngài sẽ áp dụng những phương sách nào đặng đứng ra ngoài ṿng chiến đấu. Tôi xin quan tâm rằng quyết định Ngài có thể phản chiếu nguy khốn lại cho đồng Đạo của Ngài, không ai bảo hộ sanh mạng của họ. Vậy th́ cần phải minh chánh những phương sách ấy đặng tránh bớt cái nguy hại cho họ và nhứt là các cơ quan Tự Vệ và Thân Binh.
Xin Ngài nhận lời tôi tôn kính Ngài.
(Kư tên)
DE LATOUR
Dịch y bổn Pháp văn:
Bảo Thế
Thừa Quyền Hộ Pháp
LÊ THIỆN PHƯỚC
(Có bản Pháp văn đính kèm, do người đánh máy không thạo Pháp ngữ nên có dịp sẽ bổ sung sau).
6. BẢN TUYÊN NGÔN CỦA ĐỨC HỘ PHÁP GỬI TỪ PHNOM PENH (30/04/1956)
Trót mười năm khi trở về nước, sau 5 năm hai tháng bị đồ lưu nơi hải ngoại.
Bần Đạo đă hết sức lực và tâm năo đặng nghiên cứu và thi hành các phương pháp bảo vệ phong trào Cách Mạng và giải ách lệ thuộc của Tổ Quốc và giống ṇi, lại t́m phương hay bảo thủ tinh thần dân tộc hầu đủ phương Thống Nhất hoàng đồ, tránh nạn Nam Bắc phân tranh, nồi da xáo thịt.Rủi thay ! Khi trở về nước Bần Đạo bị ở trong một cảnh ngộ khó khăn là sự chia rẽ của hai Miền: Nam th́ Quốc Gia, Bắc th́ Cộng Sản.
Trong cuộc tranh đấu họ đă gây thù, kết oán với nhau rất nhiều mà khối quân lực của Cao Đài là tay mở màn Cách Mạng đă đảo chánh quyền Pháp Quốc. Bần Đạo khi ấy không có ư định giữ ǵn tồn tại Quân Lực Cao Đài, nhưng v́ trường hợp tranh đấu đă gây hấn quá kịch liệt giữa khối Quốc Gia và Cộng Sản, nên cả tín đồ của Đạo đă bị khủng bố, tàn sát quá thê thảm và quá nhiều v́ hai lằn tên mũi đạn của Pháp và Việt Minh, nên buộc ḷng Bần Đạo phải chấp thuận cho quân lực ấy c̣n tồn tại v́ nó đă đứng trong hàng ngũ của khối Quốc Gia và trong phận sự thiêng liêng tranh đấu đặng thực hiện Độc Lập.Sau cuộc hội đàm cùng Đức Bảo Đại và định cho đức Ngài lănh phận sự làm trung gian ḥa giải đặng đem ḥa b́nh và hạnh phúc lại cho nước nhà trong cuộc hội nghị tại Hồng Kông năm 1949, th́ khi đức Ngài về nước chính ḿnh Bần Đạo đă giao trọn quyền sử dụng quân đội Cao Đài cho Đức Ngài điều khiển trong hàng ngũ quân lực Quốc Gia. Kịp khi đức Ngài đi Pháp mới tạm giao Quân Lực ấy cho Bần Đạo, trong lúc vắng mặt, Đức Ngài đă ra lệnh hai chánh Phủ của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành hợp pháp Quốc Gia hóa Quân đội Cao Đài, nhưng sự thi hành ấy vẫn kéo dài cho tới ngày chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm thọ phong toàn quyền cũng chưa quyết định. Bần Đạo buộc phải nhắc nhở và cầu cho chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm quốc gia hóa Quân đội Cao Đài một cách hợp pháp.
Cốt ư Bần Đạo nói ra đây đặng tỏ cho cả toàn quốc dân hiểu biết rằng Bần Đạo không buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước nhà với quân lực, mà chỉ dùng phương pháp đạo đức đặng đem ḥa b́nh hạnh phúc lại cho giống ṇi mà thôi.
Giai đoạn thứ nhất đă qua, đến giai đoạn thứ nh́ này, Bần Đạo buộc ḿnh phải xuất ngoại đặng bảo thủ tự do cá nhân của Bần Đạo hầu đem ra một giải pháp mới mẻ có thể thống nhất Hoàng đồ và chủng tộc là phương pháp Ḥa B́nh và chung sống.V́ cớ cho nên cả quân lực nào ngoài quân lực Quân đội quốc gia chánh qui chẳng c̣n hữu ích chi trong cuộc tranh đấu mới mẻ của Bần Đạo đă đề xướng là phong trào tranh đấu Chánh trị Quốc tế mà thôi.
Từ đây bất kỳ khối quân lực nào mượn danh Bần Đạo đặng tổ chức là giả dối.
Vậy toàn cả tín đồ của Đạo và toàn quốc dân Việt Nam chú ư cho lắm, kẻo bị kẻ vô tâm mưu mô gạt gẫm. Bần Đạo cầu nguyện Đức Chí Tôn ban hồng ân cho toàn Đạo và toàn Quốc Dân đủ sáng suốt nhận định thời cuộc. Bần Đạo để lời ưu ái nồng nàn cầu ḥa b́nh và cầu hạnh phúc cho đồng bào và tổ quốc.
Phnom Penh ngày 20.03 Bính Thân
(30.04.1956)Hộ Pháp
Phạm Công Tắc(Các tài liệu trong phần Phụ Lục trích từ Công Văn Lịch Sử quyển II của Quang Minh)