CAO ÐÀI ĐẠI ĐẠO TẦM NGUYÊN TỪ ÐIỂN

 

 

Danh mục vần KH

 

KHẢ

Khả Dĩ

Khả Năng

 

KHÁCH

Khách Càn Khôn

Khách Chương Đài

Khách Dạ Đài

Khách Đình (1)

Khách Đình (2)

Khách Ngoại Bang

Khách Thiên Thai

Khách Trần

Khách Tục

 

KHAI

Khai

Khai Cơ Tận Độ

Khai Cơ Tận Độ Cửu Tuyền Diệt Vong

Khai Cửu Thập Nhị Tào Chi Mê Muội

Khai Đàn

Khai Ðạo (1)

Khai Đạo (2)

Khai Đạo Chơn Quân Phạm Tấn Đãi

Khai Đạo Đại Lễ

Khai Ðạo Muôn Năm

Khai Đạo Nơi Chánh Phủ

Khai Đường Cực Lạc

Khai Giải

Khai Hóa

Khai Kinh

Khai Kinh Vô Tự

Khai Khiếu

Khai Khiếu Linh Quang

Khai Minh Đại Đạo

Khai Ngươn

Khai Nhãn

Khai Pháp

Khai Pháp Chơn Quân Trần Duy Nghĩa

Khai Sáng

Khai Thế

Khai Thế Chơn Quân Thái Văn Thâu

Khai Thiên Lập Ðịa

Khai Thiên Địa Nhơn Vật Chi Tiên

Khai Tông Định Đạo

 

KHẢI

Khải Ca

Khải Định

 

KHAM

Kham

 

KHẢM

Khảm Quẻ Bát Thuần Khảm

 

KHÁN

Khán Đài

Khán Giả

 

KHANH

Khanh Tể

 

KHÁNH

Khánh Chuông

Khánh Đản

Khánh Tiết

Khánh Thọ

 

KHẢO

Khảo (1)

Khảo (2)

Khảo Cứu Vụ

Khảo Dượt

Khảo Đảo

Khảo Hạch

Khảo Luận

Khảo Tội

Khảo Thầy Tu

Khảo Thí

Khảo Thí Tài Lực

 

KHẮC

Khắc Cốt Ghi Xương

 

KHÂM

Khâm Châu Đạo - Khâm Trấn Đạo

Khâm Thành Thánh Địa

 

KHẨN

Khẩn Cầu

Khẩn Nguyền

 

KHẤT

Khất Sĩ

Khất Thực

 

KHẤU

Khấu Bái

Khấu Cung

 

KHẨU

Khẩu Nghiệp

Khẩu Phật Tâm Xà

 

KHEN

Khen Bưởi Chê Bòng

 

KHI

Khi Bạc

Khi Kỳ Tâm Tức Thị Khi Thiên, Thiên Bất Khả Khi Hồ

Khi Lịnh

Khi Thần Thị Thánh

Khi Thị

 

KHÍ

Khí

Khí Hư Vô

Khí Phách

Khí Sắc

Khí Số

Khí Nộ

Khí Tịnh Thần An

 

KHỈ

Khỉ Dạo Dòm Nhà

 

KHIÊM

Khiêm Quẻ Địa Sơn Khiêm

Khiêm Cung

Khiêm Nhượng

Khiêm Từ

 

KHIẾP

Khiếp Nhược

 

KHIẾT

Khiết Kỷ

 

KHIẾU

Khiếu

Khiếu Huyền Quan

 

KHINH

Khinh Khi

Khinh Khi Vi Lịnh

Khinh Khinh

Khinh Ngạo

 

KHOA

Khoa Học

Khoa Học Phụng Sự Tôn Giáo

Khoa Môn

Khoa Mục

Khoa Mục Nhạc Sĩ

 

KHOÁI

Khoái Lạc

 

KHOAN

Khoan Dung

Khoan Hồng

 

KHOÁNG

Khoáng Đạt

 

KHOE

Khoe Khoang

 

KHỔ

Khổ

Khổ Ách

Khổ Cực

Khổ Hải

Khổ Hạnh

Khổ Hiền Trang

Khổ Hình

Khổ Não

Khổ Nhục

Khổ Tâm

Khổ Trần

 

KHÔI

Khôi Giáp

Khôi Khoa Mạo

Khoa Nguyên Mạo

 

KHỐI

Khối Hình Hài

Khối Linh Quang

Khối Tình

Khối Trái Chủ

Khối Vật Chất

 

KHÔN

Khôn Quẻ Bát Thuần Khôn

Khôn Bư

Khôn Đức

Khôn Ngoan

Khôn Ngoan Đạo Đức

 

KHỐN

Khốn Đốn

Khổn Trần

 

KHÔNG

Không (Số 0)

Không Đi Cúng Bị Phạt

Không Gian - Thời Gian

Không Khí

Không Màng Thảo Ngay

Không Môn

Không Thăng Giáo Hữu

Không Thương Thì Đừng Ghét

Không Tư Chẳng Vì

 

KHỔNG

Khổng Mạnh

Khổng Thánh Tiên Sư

Khổng Tử

Khổng Tước

 

KHỜ

Khờ Khạo

 

KHỞI

Khởi Động

Khởi Nhạc

 

KHUA

Khua Động Đồng Tiền

Khua Môi

 

KHUẨN

Khuẩn Bách

 

KHUẤT

Khuẩt Lấp

 

KHUÊ

Khuê Quẻ Hoả Trạch Khuê

Khuê Các

Khuê Môn

 

KHỦNG

Khủng Bố

Khủng Hoảng

Khủng Khiếp

 

KHUÔN

Khuôn Hồng

Khuôn Khổ

Khuôn Linh

Khuôn Luật Hữu Hình

Khuôn Thuyền Tế Độ

Khuôn Vàng Thước Ngọc

 

KHUYÊN

Khuyên

Khuyên Dạy

Khuyên Nhủ

Khuyên Răn

 

KHUYẾN

Khuyến Cáo

Khuyến Dụ

Khuyến Giáo

Khuyến Thiện

Khuyến Tu

 

KHUYẾT

Khuyết Điểm

Khuyết Điểm Tinh Thần

 

KHUYNH

Khuynh Hướng

Khuynh Gia Bại Sản

 

KHỨ

Khứ Hồi

 

KHỬ

Khử Ám Hồi Minh

Khử Ám Tựu Minh

Khử Quỉ Trừ Ma

Khử Tội

 

KHƯƠNG

Khương Hy

Khương Ninh

Khương Thượng Tử Nha

 

 

 

 

Cập nhật ngày: 27-07-2017

 

 

 

KHẢ DĨ


E: Possible
F: Possible.

Khả dĩ: có thể, được.

 

 

KHẢ NĂNG


E: Capacity.
F: Capacité.

Khả: Khá, đáng, nên. Năng: năng lực, cái sức để làm được việc. Khả năng là cái sức có thể làm nổi công việc.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Phải có một giáo lý mới mẻ đủ khả năng kềm chế nhơn loại trong sự thương xót chúng sanh.

 

 

KHÁCH CÀN KHÔN

"…Thưa các bạn, đã còn một cảnh chơn thần thì đành làm khách càn khôn, ở trong hột sương cũng đặng mà cỡi mặt nhựt cũng thường, chẳng nơi nào mà chẳng đến, chẳng chỗ nào mà không thấy. Vậy cũng nên biết rằng "Đền thờ nhà tự" chẳng hữu ích chi cho các Đấng Thiêng Liêng về phần thiệt dụng nhưng có một cái bán vô biên của nó là khối tình thương nó đã nhắc tình xưa đền đáp. Bởi vậy cho nên em đã thấy mấy bạn Thiêng Liêng khi vào viếng Nhà Thờ, ôm cột nhà mà khóc. Các bạn có thấy những nông nỗi ấy bao giờ nhứt là mối thương tâm thầy trò rất nên đau khổ lụy chất chứa. Em nói thật rằng một cây cột, một miếng tranh nó đã nhắc…"

 

 

KHÁCH CHƯƠNG ĐÀI

Khách Chương Đài: Tên một phố ở kinh đô nhà Hán: có người tên Hàn-Hoành định hỏi một người Kỹ nữ họ Liễu ở đó làm vợ. Hàn bị việc quan phải xa cách làm bài chương-đài-liễu gữi thăm: Khi về hỏi Liễu Chương-Đài, cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay (Nguyễn-Du)

Bài hoạ của Ông Cao-Hoài Sang qua bài "Thác vì Tình" của Thất Nương Vương thị Lễ có câu:

Nửa chừng Xuân gãy tủi thân ai?
Nông-nỗi nghĩ thôi tiếc bấy tài.
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách Chương-đài.

 

 

KHÁCH DẠ ĐÀI

Dạ đài như chữ Tuyền đài , Âm đài đều là từ dùng để chỉ cõi Âm, tức Âm phủ, là cõi chết. Khách Dạ đài là Người khách ở chốn Âm phủ, chỉ người đã chết: Thử hỏi rằng người có tưởng nhớ đến ai chăng, dù chỉ là hình tướng, dáng vẻ bên ngoài? Thương, trách rồi giận:

Hay là lạc bước nguồn Đào,
Để thương cho mặt anh hào đeo mang.

Phải chăng Nàng đã lạc bước? Hay là Nàng đến chốn đào nguyên hay Đào hoa nguyên 桃花源 nơi Tiên ở.

Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu có câu:

"Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,
"Vậy bóng hình để tướng nơi nao?"

 

 

KHÁCH ĐÌNH (1)

(Bungalow)

(Khách: Người khách, người ở nơi khác tới. Đình: cái nhà trạm dựng dọc đường để làm chỗ tạm nghỉ chân cho khách bộ hành).

Với đời thì Khách đình là cái nhà trạm dùng làm chỗ dừng chân một thời gian ngắn cho các khách lữ hành.

Trong bài Diễn văn ngày 15-07-Nhân Thân (dl: 16 -8-1932) Đức Hộ-Pháp nói:. "Nhiều phen Tệ Đệ khẩn cầu cùng Hội Thánh Cửu Trùng Đài làm một sở Khách Đình (Bungalow) đặng cho hạng thượng lưu đến tầm Đạo có nơi trú ngụ hầu ở cho đặng lâu ngày quan sát tận cùng Đạo lý, chớ đừng để cho họ ngủ chung ngủ chạ cùng bực Chức sắc ít học thường tình, mà họ để ý chê khinh danh Đạo. Xin hoài mà cũng không thấy làm, Tệ Đệ mới làm tại mấy thẻo đất dư thừa còn rừng liền theo rừng Cấm. Ngặt bên kia đường của Đạo lại còn để giữ nuôi cây, nên Tệ Đệ sợ cho nhà nước thấy không làm cho thành khoảnh rồi lấy luôn miếng rừng bên kia lại nữa, nên mới khai phá cho thành mà cất một Khách Đình cho An Nam và một cái Khách Đình cho Thổ. Nơi ấy gọi là Khách Đình".

 

 

KHÁCH ĐÌNH (2)


E: The house of funeral ceremony.
F: La maison des funérailles.

Với Đạo (Khách: Người khách, người ở nơi khác tới. Đình: cái nhà trạm dùng để làm chỗ tạm dừng cho những vong hồn mới chết hoặc những hồn đang chờ đợi để đến nơi học hỏi). Vậy Khách đình là cái nhà dùng làm tang lễ cho các Tín đồ khi qui liễu.

 

 

 

Đạo Cao Đài quan niệm con người sống nơi cõi trần là khách trần. Như thế cõi trần không phải là nơi ở vĩnh viễn, không phải là quê hương thật của con người, mà quê hương thật chính là cõi Trời, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Người đến cõi trần như là một chuyến đi công tác, hay một chuyến đi du học, hay du lịch dài hạn, khi thi hành xong bổn phận thì trở về, mà Khách đình là cái nhà để khách trần tạm dừng chân trước khi trở về quê xưa cảnh cũ. Thế nên, khi người nhắm mắt lìa đời thì thân nhân đưa xác người chết vào nơi Khách Đình để làm tang lễ, rồi đưa lên Thuyền Bát Nhã. Trong vài ngày, rồi an táng nơi đất Cực Lạc Thái Bình (đất Nghĩa địa của Đạo).

Tại Khách đình, linh hồn người chết sẽ được nghe lời kinh tiếng kệ, âm nhạc trầm bổng để sớm thức tỉnh, biết rõ nơi căn nguồn thực sự của mình, không còn quyến luyến cõi trần, sớm đi lên cõi thiêng liêng, trở về ngôi nhà chơn thật xa xưa của mình. Cho nên, nơi mặt tiền của Khách đình có hai đôi liễn:

-

KHÁCH quán từ bi trừ trái chủ.

-

ĐÌNH thuyền Bát Nhã độ mê tân.

Nghĩa là: Quán trọ của khách trần, lòng từ bi, trừ hết các món nợ oan nghiệt. Cái nhà trạm có Thuyền Bát Nhã giúp đưa hồn người qua khỏi bến mê mà được lên bờ Giác ngộ Phần bên trong, hai bên cột nơi thờ Chư chân linh Nam, Nữ cũng thấy đôi câu đối này:

-

 Sanh dã tạo đắc thiện duyên.

-

Tử dã thoát ly quả kiếp.

Nghĩa là: Sống thì tạo được duyên lành. Chết thì thoát khỏi nghiệp quả của kiếp sống.

Ở phía sau Khách đình, Đức Hộ Pháp có lập một bàn thờ Thiên Nhãn Thầy, tức là thờ Đức Chí Tôn.

Có nhiều ý nghĩa:

- Thờ Thiên Nhãn nơi đây là để Chức sắc thuận tiện trong việc hành pháp, thỉnh nước Âm Dương luyện thành Cam Lồ Thủy để làm phép xác.

Ngoài ra Thể pháp ấy ẩn tàng một ý nghĩa mà Đức Hộ Pháp thuyết tại Tòa Thánh ngày rằm tháng 07 năm Nhâm Thân (1932) cho biết rằng:

"Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, vì quá thương yêu con cái của Ngài, nên Ngài lén Thiên đình (Tam vì Giáo chủ và Tam Trấn không cho hay biết) đi xuống Khách đình để cứu độ con cái của Ngài trở về. Bấy lâu nay, con cái của Ngài say đắm thế trần, lao vào các dục vọng thể xác, không còn nhớ đến ông Cha thiêng liêng đang ngày đêm trông đợi. Cũng có khi con cái có nhớ tới, nhưng vì thân mang nhiều tội lỗi nên không dám đến gần ông Cha thiêng liêng, cứ chạy trốn hoài. Ngày giờ nầy, xác thân đã được đưa đến Khách Đình thì hết còn trốn tránh và Đại Từ Phụ lén xuống đây để cứu độ con cái của Ngài trở về, thể hiện một tấm lòng thương yêu vô bờ bến của một ông Cha quá khổ cực vì các con.

"Nghĩ đến phận sự ông Cha vô hình của chúng sanh, biết bao nhiêu khổ cực:

Lo cho nó nên phận, nó cứ muốn làm ma,
Lo cho nó thành Trời, nó cứ ham làm quỉ.
Mối buồn tình ấy tả sao cho nỗi?...
Gần hung ác tập rèn quen tánh,
Chỉn lấy thân yếu mạnh so đời,
Không lương tâm nào biết ngó Trời,
Theo thân thể, trọn đời thờ Quỉ.
Thấy như thế Già tuôn giọt lụy,
Lại hiểu con chẳng nghĩ đến mình,
Gạt lụy rơi về tạm Khách đình,
Chẳng cho trẻ biết hình biết dạng"...

 

 

KHÁCH NGOẠI BANG

(Khách là người từ xa đến, ngoại là ngoài, bang là bờ cõi của đất nước) chỉ chung những người khách từ các nước khác đến, cũng gọi là khách ngoại quốc.

Ngài Bảo Thế Lê-Thiện-Phước có nói: "Người Việt chúng ta từ ngàn xưa đã sẵn chất chứa trong cõi lòng một nguồn tri ân nồng hậu đối với những nhân vật nào, dầu xa dầu gần, bất luận người bổn xứ hay khách ngoại bang, đã chơn thành hy sinh tấm thân trần cấu, giúp hộ cho quốc dân ta, tạo dựng một uy lực hùng cường trong quốc nội hay lập nên một ngôi thứ gì trong vạn chủng."

 

 

KHÁCH THIÊN THAI

(Khách: đến thế này gọi là sống gởi, thác về, vì nơi đây không phải là cảnh thật, không có gì để luyến lưu. Thiên Thai là cảnh Tiên, cảnh của người tu khi đắc Đạo sẽ trở về) Như vậy các Ngài là khách từ Thiên Thai đến thế này làm nhiệm vụ, nay xong việc phải trở về.

Chính Đức Thượng Phẩm qui ngày 1-3-Kỷ Tỵ tới ngày mùng 8 tháng 3 Kỷ Tỵ vào sớm mai lúc 8 giờ, di Liên Ðài lên thuyền Bát Nhã đưa ra Bửu Tháp. Ngài giáng Cơ cho ngay bài thi:

Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,
Thung dung nhờ núp bóng Cao Ðài.
Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
Phi thị mặc đời nơi quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách Thiên Thai.
Ngậm cười nêu quạt chờ sanh chúng,
Biển khổ ngày qua đếm một ngày.

 

 

KHÁCH TRẦN


E: The guest of the world.
F: L’hôte du monde.

Đức Chí Tôn giáng cơ năm 1926 dạy:

"Trần là cõi khổ để đọa bậc Tiên Thánh có lầm lỗi, ấy là cảnh sầu để trả xong quả rồi hoặc là về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả mà mất cả chơn linh mà luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần".

Thi văn dạy Đạo:

Lời vàng nhắn hỏi khách trần gian:
Một nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn?
Bụi đất của trần là của tục,
Chưa ai đem đổi cảnh an nhàn.

Cũng còn gọi là Khách phàm trần.Thi văn dạy Đạo có câu:

Thiên cơ đã lộ lúc khai Trời,
Kêu khách phàm trần đã hụt hơi.
Cứ mến vinh huê cùng lợi lộc,
Chẳng lo kiếp thác đến gần nơi.

 

 

KHÁCH TỤC

Khách tục hay là Khách trần là người khách ở tạm nơi cõi trần. Các nguyên nhân đều là những khách trần, bởi vì nguyên nhân là người gốc ở cõi thiêng liêng, nay vâng lịnh đầu kiếp xuống trần để làm một nhiệm vụ. Khi nhiệm vụ xong thì trở về cõi thiêng liêng Hằng Sống.

Đức Chí-Tôn giáng Cơ dạy: "Ai đặng phước thêm cao trọng, ai vô phần thì trí não vẫn mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội, biết biết không không, luật Trời đã định, phần công quả trả cho rồi thì cảnh u-nhàn là nơi rước khách tục trong lúc chung qui đó. Sanh nhằm đời có một Ðạo chánh chẳng phải dễ, mà bước lên con đường chông gai, lần vào non thẳm kiếm ngọc lại càng khó. Khó dễ nơi lòng, chớ đem thói ám muội mờ hồ vào đường đạo đức, sau ăn năn rất muộn".

 

 

KHAI

Khai : Mở rộng ra

Thi văn dạy Đạo có câu:

Ðạo hạnh khuyên con gìn tánh đức,
Cửa Cung Bạch Ngọc đã gần khai.

 

 

KHAI CƠ TẬN ĐỘ

Khai cơ là Mở ra một cơ quan. Tận độ là cứu giúp để độ rỗi hết. Ngày nay Đức Thượng mở một nền Tân Tôn giáo Cao-Đài tức là mở Cơ Tận độ đến tất cả nhân loại trên toàn cầu về mọi phương diện.

Đức Hộ-Pháp giải: "Mấy Em biết thế nào đối với nhân loại? Kể từ ngày mở Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cho mãi mãi tới tận thế cái cửa Địa ngục dưới kia đã bị tiêu diệt rồi, mấy Em không còn sa xuống cửa Địa ngục, mấy Em không còn chịu dưới quyền của Thập Điện Diêm Cung, cái đó trọng hệ hơn hết."

Kinh Đại Tường có câu:

"Tái sanh sửa đổi chơn-truyền,
"Khai cơ tận độ Cửu-tuyền diệt vong."

 

 

KHAI CƠ TẬN ĐỘ CỬU TUYỀN DIỆT VONG

Đức Hộ-Pháp nói: "Với lòng từ-bi vô-biên, vô lượng Đức Chí-Tôn còn cho đóng cửa Địa-ngục và bãi bỏ hết những khổ hình đã đặt để từ xưa đến giờ nơi cửa Thập điện Diêm cung để cho các chơn hồn kể từ nay chiếu luật vay trả ở tại mặt thế này cho đến khi nào sạch hết oan khiên thì sẽ đặng ân-thưởng. Đức Chí-Tôn còn quyết "Khai cơ tận-độ Cửu tuyền diệt vong" nghĩa là đối với nhân-lọai kể từ ngày hôm nay tức nhiên từ ngày mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cho mãi mãi tới tận thế cái Địa-ngục dưới kia đã bị tiêu-diệt rồi, Thập Điện Diêm cung đến rước người nó đã bị vong-phế rồi, người không còn sa xuống cửa Địa-ngục, không còn chịu dưới quyền cửa Thập Điện Diêm cung, cái đó là trọng hệ hơn hết."

 

 

KHAI CỬU THẬP NHỊ TÀO CHI MÊ MUỘI

(Khai: Mở ra. Cửu thập nhị: 92. Tào: nhóm người. Cửu thập nhị tào: Ý nói số 92 ức Nguyên nhân đang còn trầm luân nơi cõi trần. Chi: Tiếng đệm. Mê muội: Mê là mơ hồ không rõ, muội là tối tăm. Mê muội là đầu óc tối tăm, không phân biệt chánh tà, thiệt giả. Nguyên nhân: Những chơn linh được sanh ra từ lúc khai Thiên, được Ðức Phật Mẫu cho đi đầu thai làm người nơi cõi trần để khai hóa cho nhơn loại được tiến bộ văn minh).

Theo Triết lý Nhơn sinh của Ðạo Cao Ðài, với Luật Tiến-hóa của Bát hồn, loài người nếu không là nguyên nhân, thì có thể tiến lên từ Hóa nhân. Ðức Phật Mẫu vâng lịnh Ðức Chí Tôn cho 100 ức Nguyên nhân đầu kiếp xuống trần, để khai hóa số Hóa nhân đó. Nhưng các Nguyên nhơn, khi đã mang xác phàm rồi, thì lại nhiễm trần. Do vậy, Ðức Chí Tôn mới mở ra Nhứt Kỳ Phổ Ðộ, để cứu giúp và dẫn dắt các Nguyên nhân trở về cựu vị. Nhưng Nhứt Kỳ Phổ Ðộ chỉ độ được 6 ức Nguyên nhân. (Ức là 100 000; 6 Ức là 600 000 người). Ðức Ngài lại mở Nhị Kỳ Phổ Ðộ, gồm Tam giáo (Nho- Ðạo- Thích) và Ngũ Chi Ðại Ðạo để giáo hóa nhơn sanh tu hành, nhưng cuối cùng cũng chỉ độ được 2 ức Nguyên nhân trở về cựu vị. Cả hai kỳ Phổ Ðộ, chỉ độ được 8 ức Nguyên nhân, còn lại 92 ức nguyên nhân vẫn đang chìm đắm nơi cõi trần. Ðức Chí Tôn lại mở kỳ ba Phổ-độ mà cũng là lần chót. Đó là Ðại Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ và cũng là Ðại Ân Xá Kỳ Ba, quyết độ cho tận hết 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị. Do đó, Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật khai hóa 92 ức nguyên nhân này đang còn mê muội nơi cõi thế trần.

 

 

KHAI ĐÀN

開 壇
E: The open a worship.
F: Ouvrir un culte.

Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. Đàn: đàn cúng Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng.

Khai đàn là mở ra một đàn cúng Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng với đầy đủ nghi lễ.

Khai đàn thượng tượng: Những Đạo hữu mới nhập môn cầu Đạo, cần phải dọn một chỗ trang nghiêm tinh khiết trong tư gia của mình để thiết lập Thiên bàn thờ Đức Chí Tôn, rồi đến Thánh Thất sở tại thỉnh một tấm Thánh Tượng Thiên Nhãn, lộng vào khung kính, đặt lên bàn thờ. (Thượng tượng là đặt Thánh tượng Thiên Nhãn lên trên bàn thờ). Sau đó, mời Bàn Trị Sự trong Hương đạo của mình và mời vị Lễ Sanh Đầu Tộc Đạo đến thiết lễ cúng Đức Chí Tôn, có dâng sớ cầu nguyện Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng bảo hộ gia chủ diên niên hạnh phước. Sau lễ Khai đàn thượng tượng nầy rồi, gia chủ tiếp tục cúng Đức Chí Tôn trong tứ thời mỗi ngày.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Đ. Q., con cứ khai đàn cho chúng nó và chỉ cách thờ Thầy theo Tân Luật.

 

 

KHAI ĐẠO (1)

開 道
E: To open a religion.
F: La déclaration du religion.

Khai Đạo là mở Đạo. Chính là nền Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được Đức Thượng Đế khai sáng tại Tỉnh Tây Ninh, Nam phần Việt Nam làm khởi điểm rồi mới truyền ra toàn Thế giới.

Ngày 14 tháng 10 Bính Dần, nhằm ngày 18-11-1926, Ðức Chí Tôn dạy thiết Ðại Lễ Khai Ðạo chánh thức tại Từ Lâm Tự tỉnh Tây Ninh, đồng thời Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền phong vị cho Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài, và Ðức Chí Tôn dạy nhóm Hội Thánh lập Luật, vậy sau ba tháng Ðại Hội, Ðạo đã có Pháp, có Luật thì nghiểm nhiên Ðạo thành một nền Tôn Giáo danh gọi là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Vendredi 22 Septembre 1926 (16-8-Bính Dần). Thầy: "Các con xin Chánh phủ Lang Sa đặng khai Ðạo thì cực chẳng bằng Thầy đã ép lòng mà chịu vậy cho tùng nơi Thiên cơ. Thầy rất đau lòng mà phải chịu vậy chớ biết sao? Con phô lời cho cả chư Môn Ðệ Thầy thâu thập vào phái Thái, rồi cho chúng nó hiểu. Còn Thánh Thất phải chăm nom cho tới ngày Rằm cho rồi đặng hội Tam Giáo lập Luật, chừng ấy buộc chúng nó phải theo. Các con biết rằng chẳng thế nào mà sái Thánh ý Thầy đặng. Chi chi trong năm Dậu cũng cho rồi đặng phổ thông ngoại quốc nghe à.!.

Ngày 13-10-1926 (âl 7-9-Bính Dần) "Con Trung, con phải nói với Le Fol cho con giấy chứng Khai Đạo. Mai con lên nó, có Thầy".

Đừng nghe, vì nếu chẳng vậy, ngôi Giáo Tông chẳng ai dám ngồi. Tất cả sáu ngôi kia, hễ các con đến dựa thì quỉ giết chết, nghe à! Lập Nhơn phẩm làm Thiên phẩm chẳng dễ chi mà không dùng huyền diệu".

Đức Hộ Pháp xác nhận về giá trị của việc cúng kính: "Không có một điều gì mà Chí-Tôn định trong chơn giáo của Ngài dầu Bí-pháp, dầu Thể-pháp mà vô ích đâu! Đấng ấy là Đấng tưng-tiu con cái của Ngài lắm! Thoảng có điều gì không cần ích mà con cái của Ngài nói rằng "không muốn" Ngài cũng bỏ nữa đa! Từ ngày khai Đạo: Kinh kệ, Lễ bái, sự chi sắp đặt về đạo-đức cũng chính Đức Chí-Tôn tạo thành, không phải do các Đấng khác. Ngài buộc mình làm là có cần yếu, hữu ích chi chi đó Ngài mới buộc, vì cớ nên thời-giờ này thấy Bần-Đạo bó buộc nghiêm-khắc quá, có lẽ có kẻ biếng nhác cũng phàn nàn lén lút. Ngày cuối cùng các Bạn gặp mặt Bần Đạo nơi Thiêng-liêng, Bần-Đạo sẽ hỏi các Bạn coi khi còn ở thế Bần-Đạo buộc cả thảy đi cúng là có tội hay có công? Công hay tội ngày giờ ấy sẽ có tấn-tuồng tâm-lý ngộ nghĩnh với nhau vô cùng tận. Chừng đó mới biết lẽ nên hư. Ngày nay, giờ phút này Bần Đạo đứng tại giảng đài này để khuyên nhủ, còn biếng nhác quá, xác thịt đã hư rồi, đến linh-hồn phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn năn quá muộn" (TĐII/153)

 

 

KHAI ĐẠO (2) (Phẩm)

Phẩm Khai Đạo là một trong Tứ vị Thời Quân dưới quyền Chưởng quản của Thượng Phẩm.

Pháp Chánh Truyền: "Thượng Phẩm thì quyền về ÐẠO, dưới quyền có: Tiếp Ðạo, Khai Ðạo, Hiến Ðạo, Bảo Ðạo. Lo về phần Tịnh Thất, mấy Thánh Thất đều xem sóc chư Môn Ðệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng. Bốn vị Thời Quân của chi ÐẠO, đồng quyền cùng Thượng Phẩm khi người ban quyền hành chánh, song mỗi vị có phận sự riêng, quyền hành riêng là:

Khai Ðạo khi đặng tờ kêu nài cầu rỗi, thì liệu như đáng rỗi, phải nhứt diện tư tờ qua cho Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Ðài xin đình án bao lâu tùy ý, song chẳng đặng phép quá 15 ngày, nhứt diện dâng sớ cho Hộ Pháp cầu nhóm Ðại Hội Hiệp-Thiên-Ðài đặng định liệu, như phải đáng bào chữa thì Khai Ðạo phân giải giữa Hội cho ra lẽ oan ưng, Hiệp Thiên Ðài cho lịnh thì mới dâng nội vụ lên cho Hiến Ðạo".

…Thượng Phẩm và Tứ vị Thời Quân của chi Ðạo, phải thề giữ dạ vô tư mà hành chánh".

Pháp Chánh Truyền: "Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt".

Chú Giải: "Vì lời khuyên của Thầy mà Ðức Lý Giáo Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài phải Minh Thệ giữa Hội Thánh rằng: Lấy dạ vô tư mà hành Ðạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài thật trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Ðồ và cả Chức Sắc Thiên Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chiều theo, chỉ để cho Hội Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức Sắc nào đã thọ quyền của Hiệp Thiên Ðài cũng phải Minh thệ, y như vậy mới đặng hành chánh."

 

 

KHAI ÐẠO CHƠN QUÂN PHẠM TẤN ĐÃI (1901-1976)

 

 

 

 

Nguơn linh Ngài là Ðông Phương Sóc Là Tiên gia giáng trần làm Quân sư cho Hớn Võ Ðế, trong sự tích "Hớn rước Diêu Trì".

Ông Phạm Tấn Đãi, tộc danh là Thuộc và Đạo hiệu là Trí Thanh, sanh ngày 28-7-Tân Sửu (dl:10-9-1901) tại làng Mỹ Lệ, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn. Qui ngày 19-2 Bính-Thìn (1976).Thân phụ của Người là Ông Phạm Thành Thiệt, được Thiên phong Giáo Hữu, sau khi nhập môn cầu Đạo, thăng lần đến phẩm Phối Sư Phái Thượng.

Thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Ruộng, cũng được thọ Thiên ân Giáo Hữu, quê ở Chợ Trạm làng Mỹ Lệ. Vào ngày 4-11-Ất Sửu (Thứ Bảy:19-12-1925). Người được ông Phủ Nguyễn Ngọc Tương mời đến dự Lễ Khai đàn, có rất đông viên chức đến dự. Đêm ấy, Đức Chí Tôn giáng dạy, ban cho mỗi người một bài thi và riêng Người thì Đức Chí Tôn cho bốn câu thi như sau:

Dằn lòng len lỏi hãy qui y,
Nay gặp Ta đây đã đến kỳ.
Oanh liệt hồng trần e phải khổ,
Tầm đường đạo đức tránh đường nguy.

Đúng một tuần sau, ngày 11-11-Ất Sửu, Thứ Bảy: ngày 26-12-1925 các ông ấy đến tư gia của Người để Khai đàn Thượng Tượng cầu các Đấng. Đêm ấy, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo và thâu nhận nhập môn, có cho Người một bài thi:

Nên gầy đạo đức đặng hồi nguyên,
Un đúc trẻ thơ sửa tánh hiền.
Nương bút Thiên cơ lo độ chúng,
Dìu người gắng sức đến rừng thiền.

Chính ngày ấy là ngày Người nhập môn cầu Đạo. Sau ngày nhập môn, Người cùng ông Đốc học Tươi tập cầm cơ hằng tháng mới viết ra chữ và thi phú. Ngày Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên-Đài ngày 12 tháng Giêng Đinh-Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí Tôn phong Ngài Phạm Tấn Đãi chức Khai Đạo Hiệp Thiên-Đài.

 

 

KHAI ĐẠO ĐẠI LỄ


E: A great festival of Caodaism.
F: Grande fête de l’avènement du Caodaïsme.

Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. Đạo: tôn giáo.

Khai Đạo là mở ra một tôn giáo mới để cứu giúp nhơn sanh, tức là mở ra một con đường tu hướng dẫn nhơn sanh tu hành, đạt được sự an vui, hết phiền não và linh hồn sẽ được giải thoát khỏi luân hồi, lên sống an lạc nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Năm Bính Dần (1926), Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế dùng cơ bút mở ra tại miền Nam Việt Nam một nền tôn giáo mới gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hay Đạo Cao Đài, để cứu vớt nhơn sanh trong thời Hạ Nguơn mạt kiếp, trước khi có cuộc Tận Thế và Hội Long Hoa. Tờ Khai Đạo (Đạo Cao Đài) là một bản văn gởi cho nhà cầm quyền Pháp đương thời là Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol để thông báo chánh thức với nhà cầm quyền Pháp biết là một số người có tên trong văn bản, đứng ra thành lập một nền Tân Tôn giáo gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nói tắt là Đạo Cao Đài, và bắt đầu hoạt động tại miền Nam Việt Nam.

Tờ Khai Đạo nầy không phải là Đơn Xin Khai Đạo, mà là một bản Tuyên Ngôn chánh thức mở Đạo, chiếu theo luật lệ nước Pháp áp dụng cho NamKỳ, thuộc địa của Pháp, dân chúng được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, sùng bái cúng kiếng Trời Phật, miễn là không làm rối loạn trật tự và an ninh trong xứ.

Những người đứng tên trong Tờ Khai Đạo cử Ngài Lê Văn Trung, cựu Thượng Nghị Viện Đông Dương, đích thân cầm Tờ Khai Đạo đem lên giao tận tay Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol, được ông Le Fol tiếp nhận vui vẻ.

Tờ Khai Đạo không phải là Đơn Xin, nên không có sự chờ đợi nhà cầm quyền Pháp chấp thuận cho phép. Do đó, sau khi gởi Tờ Khai Đạo lên Thống Đốc Le Fol rồi, những vị đứng tên Khai Đạo lo gấp rút truyền Đạo, thâu nhận tín đồ, xúc tiến xây dựng cơ sở, chuẩn bị tổ chức Đại Lễ Khai Đạo ra mắt quốc dân và quốc tế.

E: Great Festival of the Advent of Caodaism.
F: Grande Fête de l'Avènement du Caodaïsme.

Ngày tổ chức Đại Lễ Khai Đạo được Đức Chí Tôn ấn định là ngày rằm Hạ nguơn năm Bính Dần (15-10-Bính Dần), tại Thánh Thất tạm đặt tại chùa Gò Kén, Tây Ninh.

Đức Chí Tôn ra lịnh cho các Chức sắc tạm ngưng công cuộc truyền Đạo ở Lục tỉnh, để về chung lo cho ngày Đại Lễ, để Đạo Cao Đài chánh thức ra mắt trước các cấp Chánh quyền thuộc địa Pháp, ra mắt quốc dân và các dân tộc trên thế giới.

Chúng ta đọc bài Thánh Ngôn sau đây trích trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Ngày thứ bảy 12-8-Bính Dần (dl 18-9-1926).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết
Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
Giáo Đạo Nam Phương.

"Các con! Thầy đã lập thành Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con, biết à!

Thầy lại qui Tam giáo lập Tân Luật, trong rằm tháng 10 có Đại Hội cả Tam giáo nơi Thánh Thất. Các con hay à!

Sự tế tự sửa theo Tam Kỳ Phổ Độ, cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à!

Thầy nhập ba Chi làm một là chủ ý qui tụ các con trong Đạo Thầy lại một nhà, Thầy làm Cha chưởng quản, hiểu à!

Từ đây trong nước Nam duy có một đạo chơn thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là Quốc Đạo, hiểu à!

Thầy buộc các con phải hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à! Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phậnsự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy, các con sanh nạnh nhau, tựa hồ chia phe phân phái là điều đại tội trước mắt Thầy, nghe à!

Các con phải ngưng mọi việc mà chung lo trong Đại Hội."

 

Ngày Đại Lễ Khai Đạo là một sự kiện vô cùng quan trọng trong lịch sử tiến hóa của nhơn loại trên quả Địa cầu nầy, vì nó báo cho nhơn loại biết một thời kỳ tiến hóa mới bắt đầu.

* Cho nên, ngày Khai ĐĐTKPĐ đã được Thiên Thơ tiền định, đó là ngày rằm Hạ nguơn năm Bính Dần.

- Tại sao ngày Khai Đạo phải là rằm Hạ Nguơn mà không là một ngày nào khác? Bởi vì Đạo Cao Đài mở ra để cứu độ nhơn sanh thời Hạ Nguơn mạt kiếp.

- Tại sao phải là năm Bính Dần mà không là một năm nào khác? Bởi vì khởi đầu một Nguơn là năm Giáp Tý tức là năm Khai Nguơn (2 chữ Giáp và Tý là khởi đầu của Thập Thiên Can và Thập nhị Địa chi), kế đó là Ất Sửu, rồi Bính Dần, tương hợp với câu: Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Khai Đạo là để phổ độ nhơn sanh nên phải khai vào năm Bính Dần, sau năm Khai Nguơn.

Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn đã có nói:

Ký thành một cuốn gọi Thiên Thơ,
Khai Đạo muôn năm trước định giờ.

* Việc lựa chọn nước VN, một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc, để Đức Chí Tôn khai Đạo, rồi từ đó, nền Đại Đạo truyền bá ra khắp hoàn cầu, cũng đã được chư Tiên, Phật nơi Ngọc Hư Cung quyết định từ trước.

Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn có dạy rõ:

" Vì Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thiên Địa hoằng khai, nơi Tây phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh. Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

"Vốn Thầy tạo lập nền Chánh giáo cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu. Các con ví biết Đạo là quí thì phải ân cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu, các con mới thấy rõ Thiên cơ thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng? vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

"Thầy có hội chư Tiên, Phật lại mà thương nghị về sự lập Đạo tại Đại Nam Việt quốc." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

"Thầy vì đức háo sanh, nên chẳng kể bực Chí Tôn cầm quyền thế giới, đến lập Đại Đạo Tam Kỳ trong lúc Hạ Nguơn nầy mà vớt sanh linh khỏi vòng khổ hải." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

"ĐĐTKPĐ chiếu theo luật Thiên đình, Hội Tam Giáo, mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn sanh bước lên con đường Cực Lạc, tránh khỏi đọa luân hồi." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

"Thầy đã lập Đạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thử đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy, Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh diệu. Từ tạo Thiên lập Địa, chưa nước nào dưới quả Địa cầu 68 nầy đặng vậy." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)

Trong Đại Lễ Khai Đạo ngày 15-10-Bính Dần, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt thay mặt Hội Thánh mời đủ các quan chức cao cấp của nhà cầm quyền Pháp tại Nam Kỳ, các Chủ nhiệm và ký giả các báo chí ở Sài Gòn, đông đảo nhân sĩ trí thức, đến tham dự Đại Lễ Khai Đạo tổ chức rất long trọng tại Thánh Thất tạm là chùa Gò Kén Tây Ninh.

Tại Thánh Thất, Hội Thánh được Đức Chí Tôn dạy bảo, sắp đặt, phân trách nhiệm, nên tổ chức tiếp đãi các quan khách rất ân cần và nồng hậu. Bổn đạo và chư thiện nam tín nữ từ khắp các nơi trong nước đổ dồn về dự lễ rất đông, ngoài sức tưởng tượng của chánh quyền Đời.

Đặc biệt trong ngày Đại Lễ nầy, Hội Thánh không thâu nhận tiền bạc hỷ cúng của nhơn sanh, chỉ thâu nhận những cúng phẩm như trái cây, bông, trà, nhang đèn.

Đại Lễ Khai Đạo đã gây được một tiếng vang rất lớn đối với toàn cả Nam Kỳ, đối với nước Pháp và đối với quốc tế nữa. Nhiều tờ báo ở Sài Gòn, chữ Việt và chữ Pháp, đều có bài tường thuật tỉ mỉ Đại Lễ Khai Đạo, với nhiều hình ảnh kèm theo, rồi báo chí bên nước Pháp cũng đăng tiếp theo, gây được sự chú ý trên trường quốc tế.

Tuy Đại Lễ Khai Đạo tổ chức trong 3 ngày đã chấm dứt, nhưng thiện nam tín nữ từ khắp các tỉnh vẫn tiếp tục kéo về Thánh Thất Gò Kén nhập môn và lễ bái không ngớt, đồng thời, người Cao Miên từ tỉnh Soài Riêng cũng lũ lượt đi xuống nhập môn và làm công quả, kéo dài ngót 3 tháng như vậy.

 

 

KHAI ĐẠO MUÔN NĂM

Thi văn dạy Đạo có câu:

Ký thành một cuốn gọi Thiên thơ,
Khai Ðạo muôn năm trước định giờ.

 

 

KHAI ÐẠO NƠI CHÁNH PHỦ

Ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (29-9-1926), ông Cựu Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung vâng Thánh ý hiệp với chư Ðạo Hữu hết thảy là 247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh Phủ. Tờ Khai Ðạo đến ngày Mùng một tháng chín (dl: 07-10-1926) mới gởi lên Chánh Phủ cho quan Nguyên Soái Nam Kỳ là ông Le Fol. Trong tờ nầy có 28 người đứng tên thay mặt cho cả chư Ðạo Hữu có tên trong Tịch Ðạo. Tờ Khai ấy làm bằng chữ Lang Sa và sau đó phiên dịch ra Quốc Ngữ. (Xem Tờ Khai Đạo. Vần T.)

 

 

KHAI ĐƯỜNG CỰC LẠC

Kinh Giải Oan có câu:

"May đặng gặp hồng-ân chan rưới,
"Giải trái-oan sạch tội tiền khiên.
"Đóng địa-ngục, mở tầng Thiên,
"Khai đường Cực-Lạc, dẫn miền Tây-Phương."

 

 

KHAI GIẢI


E: To open and to liberate.
F: Ouvrir et libérer.

Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. Giải: cởi ra, giải thoát. Khai giải là mở ra và giải thoát khỏi chỗ đó.

Kinh Cầu Siêu có câu:

"Cứu khổ nàn Thái-Ất Thiên-Tôn,
"Miền Âm cảnh ngục môn khai-giải."

 

 

KHAI HÓA


E: To develop.
F: Développer.

Khai hóa là mở rộng tinh thần hay bất cứ phương diện nào cũng do sự dạy dỗ, hướng dẫn.lâu dài.

Đức Hộ-Pháp viết Khuê bài Thiêng-liêng-vị có nói: "Đức Jésus de Nazareth (gọi Christ) bởi lòng Nhơn Cứu thế lập nên Thánh Giáo Da-Tô; Ngài mượn bác ái nhân sanh đặng thế mặt Chí-Tôn khai hóa, xem phổ tế chúng sanh rằng trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo: dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chơn thật mạng sanh hành thiện đạo, diệt dị đoan, trừ mê tín, dụng Chơn lý để răn đời, nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, lấy trí tuệ vẽ tươi Thiên cảnh".

Lòng Sớ dâng về Đức Chí-Tôn có câu:

"Bố hóa chư Đệ tử thuần nhứt thiên lương chí thành đức tánh"

 

 

KHAI KINH


E: The opening of prayers.
F: L’ouverture des prières.

Khai Kinh là một bài trong Kinh Tứ thời nhựt tụng. Bài nầy do Đức Lữ Tổ (Đại Tiên Lữ Đồng Tân) giáng cơ ban cho Minh-Lý-Đạo (Tam Tông Miếu). Đây chỉ là bài diễn nôm của bài Khai-Kinh-Kệ Hán-văn trong Kinh Huyền Môn Nhựt Tụng, từ bên Tàu truyền sang nước Ta. Hội Thánh vâng lịnh Đức Chí Tôn đến Minh Lý Đạo thỉnh bài Khai Kinh nầy về làm Kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ..Nguyên văn bài Khai Kinh bằng Hán văn:

Trần hải man man thủy nhựt Đông,
Vãn hồi toàn trượng Chủ nhân công.
Yếu tri Tam giáo Tâm nguyên hiệp,
TRUNG THỨ, TỪ BI, CẢM ỨNG, đồng.

Viết thành Hán văn:




Giải nghĩa:

Câu 1- Trần hải man man thủy nhựt Đông.

Biển trần bát ngát mênh mông là nước, mặt Trời mọc ở phương Đông. Đạo cũng phát khởi từ phương Đông (Trần hải: biển trần, là biển khổ. Man man: mênh mông bát ngát. Thủy: nước. Nhựt: mặt trời. Đông: phương đông)

Câu 2: Vãn hồi toàn trượng Chủ Nhân Công.

Đạo được trải qua nhiều thời kỳ, cũng nhờ vào Đức Thái Thượng Lão Quân duy trì đến ngày nay (Vãn hồi: kéo trở lại. Toàn: hoàn toàn. Trượng: nhờ vào. Chủ Nhân: người làm chủ. Công: tiếng gọi Ông với ý tôn xưng. Chủ Nhân Công trong Tiên giáo chính là Đức Thái Thượng Lão Quân đó vậy.

Câu 3: Yếu tri Tam giáo tâm nguyên hiệp.

Tôn-giáo quan trọng nhất là cái Tâm. Chính cái Tâm này mà Tam giáo làm gốc cho sự qui hợp (Yếu: quan trọng. Tri: biết. Tam giáo: ba nền tôn giáo lớn ở Á Đông là Phật- Lão- Khổng. Tâm: cái tâm con người. Nguyên: nguồn gốc. Hiệp: hợp lại).

Câu 4: Trung thứ, Từ bi, Cảm ứng đồng.

Nho dạy Trung thứ, Phật dạy Từ bi, Lão dạy Cảm ứng (Kinh Cảm Ứng) tất cả đều đồng nhau qua một chữ TÂM . Điều đặc biệt là câu này dùng lối giải thuyết rất tuyệt; tức nhiên mỗi chữ trong các từ này đều có bộ TÂM đặt ở dưới chữ đó:

Trung thứ hết lòng thật của mình là Trung, đem lòng mình nghĩ đến người là Thứ. Trung thứ chính là đạo Nhân Nghĩa của Đức Khổng Tử.

Từ bi lòng thương người mến vật, thương khắp chúng sanh và muốn giúp chúng sanh thoát khổ. Từ bi là hạnh đặc trưng của Phật.

Cảm ứng lấy tinh thần mà cảm với Thần linh. Cảm là nhân, ứng là quả; cảm là nguyên động lực, ứng là bị động lực; tỷ như thiện cảm thì phước báo ứng, ác cảm thì họa báo ứng. Bốn câu Hán văn trên được Đức Lữ Tổ giáng cơ diễn Nôm thành bài Khai Kinh, chúng ta thường tụng đọc hằng ngày. Đó: hình thức Qui Tam Giáo.

Ngày nay, Đạo Cao-Đài Qui Tam Hiệp Ngũ, bởi:

"Tam giáo là ba nền Đạo Chánh thuở nay, song bị tay phàm canh cải càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hóa ra phàm giáo. Thượng-Đế lấy làm đau đớn, hằng thấy nhơn-sanh phải bị sa đoạ tội lỗi, mạt kiếp chốn A-Tỳ, nên nhứt định chuyển "Tam-giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt", chấn hưng Tôn-giáo lại cho hoàn toàn rồi khêu sáng ngọn đèn thiêng-liêng lên để dìu dắt bước đường cho kẻ có công TU- HÀNH mà khỏi xảy chân, lạc lối."

Đây là bài KHAI KINH được diễn Nôm dùng tụng đọc hằng ngày trong bốn thời Cúng:

KHAI KINH
(Giọng Nam-Ai)

Biển trần khổ vơi vơi Trời nước,
Ánh Thái-Dương giọi trước phương Đông.
Tổ-Sư Thái-Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ, dày công giúp Đời.

Trong Tam-Giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng làm phải làm lành.
Trung-Dung Khổng-Thánh chỉ rành,
Từ-Bi Phật dặn: Lòng thành lòng nhơn.

Phép Tiên-Đạo: Tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh-Kinh. (gật đầu)

 

 

KHAI KINH VÔ TỰ

(Khai là mở ra, giải cho rõ dưới một hình thức nào cho mọi người rõ thấu. Kinh Vô-tự là kinh không có chữ, như lúc Thầy trò Tam Tạng đi Tây phương thỉnh kinh, nhưng lúc đầu thỉnh toàn là giấy trắng mà thôi. Ấy gọi là "Kinh Vô Tự". Có thật không? –Đạo là lý. Muốn hiểu được Đạo phải lấy lý mà suy. Tuy nhiên Kinh vô tự phải nghiệm từ hình ảnh hoặc một vật thể nào có trước mắt.

Đây: Hình thể Đền Thánh là một con Long Mã quì

Đền Thánh có hình thể con Long Mã quì mang hai chữ "Nhơn–Nghĩa" là đạo Trung Dung của Đức Khổng Tử, vì có Nhơn Nghĩa mới có thương yêu, thực hiện đạo lý Nhơn Nghĩa ấy là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh. Đạo khai kỳ nầy để tận độ toàn thể nhơn loại, nên Đức Chí Tôn buộc phải thương yêu làm phương cứu cánh tự giác và giác tha, nếu không đủ sức thương yêu thì không đặng quyền ghét. Đền Thánh là nguồn cội Đạo, là bóng mát từ bi, là nguồn suối vĩnh sanh tắm mát linh hồn, là phướn siêu sanh của Vạn linh sanh chúng.

Bảy chữ Sơn (Thất Sơn) vô vi:

Sự tổng hợp ngoại thể ngôi Đền Thánh từ Đông Lang, Tây Lang thành một chữ "SƠN", có đến 7 chữ Sơn như vậy, nên đây là Thất Sơn vô vi; còn Thất sơn hữu hình ở Tỉnh Châu đốc (An giang).Bên trong nơi Bát Quái Đài là chữ "CHỦ", khoảng giữa Cửu Trùng Đài là chữ "TRUNG", nơi Hiệp Thiên Đài là chữ "NHỨT". Chung kết là qui nhứt Đạo Giáo do Chí Tôn làm chủ, theo tôn chỉ Đạo Cao Đài khi vào Đền Thánh là vào Long Hoa Đại Hội.

Nội-Ô Đền Thánh là PHẠM-MÔN

Phía trước, hai bên Đền có hai khu rừng Thiên nhiên, mỗi một khu rừng tượng chữ MỘC (cây) hai khu rừng như vậy là hai chữ Mộc đứng gần nhau, thành ra chữ Lâm (rừng). Nơi Đại-Đồng-xã tượng chữ Phàm Ghép hai chữ Lâm trên, phàm dưới thành ra chữ PHẠM (Phật). Nhìn ra vuông rào có 12 cửa cả thảy, mỗi cửa cách nhau 300m. Cửa gọi là Môn như vậy nơi đây chính là cửa Phật,đất Phật có danh là Tây Ninh-Thánh Địa.

Thời gian sau đây, Hội Thánh tương lai sẽ cất ngôi Tổ Đình trong sân Đại Đồng Xã thì tượng hai chữ Sơn Lâm rất rõ ràng. Đó là tất cả lý Dịch cũng là dấu hiệu Chúa tái lâm đến nơi "Đền Thờ Cha TA" có hai chữ "Sơn Lâm".

Thánh địa Tây Ninh cũng là nơi Chư Phật, Tiên, Thánh xuống trần để dự Đại Hội Long Hoa vào năm Tý… Ngày ấy là ngày Đại Từ Phụ sẽ giáng lâm mừng con cái của Ngài đắc quả đạt vị theo "Bộ Công Di Lạc Tam Kỳ Độ Sanh", thì vàn vàn Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu hầu, hộ giá hào quang chiếu khắp Thánh Địa là Cực Lạc tại trần gian. Lại nữa 4 cây cột phía trước Đền Thánh có hai cây chạm Rông (LONG và hai cây chạm Sen HOA ) chính là nơi Tòa Thánh này này sẽ mới LONG HOA ĐẠI HỘI để tuyển Hiền ra giúp Đạo cứu Đời

Điều nầy cũng chẳng lạ, vì Đức Chí Tôn đã đến Đền thờ Tây Tạng vào năm 1917, để an ủi, giáo hóa con cái yêu dấu của Ngài và hứa rằng cứ 50 năm Chí Tôn sẽ đến…Trên thế giới có ba ngôi Đền Thờ Ngài: Một là La Mã, hai là Jérusalem; hai nơi nầy Đức Chí Tôn đã đến bằng hình ảnh Thiêng Liêng. Vậy thì Đền Thánh là ngôi Đền thứ ba Đức Đại Từ Phụ sẽ đến vào ngày Long Hoa Đại Hội, vì chính Đạo Cao Đài do Đức Chí Tôn giáng linh lập thành, thì chắc chắn rằng ân huệ sẽ đủ đầy…

Kinh Đệ Ngũ Cửu có câu:

"Đài Chiếu-giám cảnh minh nhẹ bước,
"Xem rõ-ràng tội phước căn sinh.
"Lần vào cung Ngọc diệt hình,
"Khai kinh Vô-Tự đặng nhìn quả duyên."

 

 

KHAI KHIẾU


E: To open the intellegence.
F: Ouvrir la faculté intellectuelle.

Khai khiếu con người có thất khiếu cần phải được khai mở mới có sự thông-minh.

Lời của Đức Quyền Giáo-Tông: "Đức Ngài cũng kể về việc sáng mắt của Ngài với ông Ca Bảo Đạo: "Có một bữa Đại Từ Phụ khai khiếu cho Bảo Đạo Ca Minh Chương. Hồi mới khai khiếu ba anh em tôi (Trung, Cư, Tắc) ngơ ngơ ngáo ngáo không hiểu chi hết tưởng là Chương niên cao kỷ trưởng mắt mờ mệt nên Đại Từ Phụ khai khiếu cho sáng láng, ngõ hầu khi nào Đại Từ Phụ giáng cơ viết Hán Tự, Đạo Hữu coi đọc cho dễ, té ra không phải vậy. Đấng Chí Tôn khai khiếu cho Chương để phò loan đặng "đi phổ độ". (Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông, tr. 29)

Xem thế, buổi đầu khai đạo rất nhiều hiển linh. Nhờ đó, người theo Đạo ngày càng đông.

Kinh vào học có câu:

"Đại Từ-Phụ xin thương khai khiếu,
"Giúp trẻ thơ học hiểu văn-từ."

 

 

KHAI KHIẾU LINH QUANG

Đây là Thánh Giáo ngày 13-10-Đinh Mùi của Đức Lý Đại Tiên giáng Cơ: …" Ôi! Lão vì lòng Từ-bi giáng dạy khuyên răn đủ lẽ, mà chúng sanh vẫn còn mê muội, theo Đạo mà chẳng tầm lý Đạo, lại chuộng hư danh, nên Đạo Thầy mới ra nông nỗi. Ngày giờ nhặt thúc, buổi Hạ nguơn cận kề cái chết, tâm thần mê mệt thì làm sao khai khiếu linh quang được mà mong sống sót. Ôi! Đời Đạo phải chịu nạn tai. Khổ! Khổ! Khổ! Nhơn sanh nào hay biết, cả một đám lố nhố lao nhao, ham vui thích lạ, nào hay đâu họa sầu đeo đẳng bên lưng, bước Đạo đã ngập ngừng, cánh hồng toan trở bước. Đại khảo… Khảo……Khảo…"

 

 

KHAI MINH ĐẠI ĐẠO

Có hai quan niệm:

1-Khai minh nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ của Ðức Chí Tôn để gìn giữ thái bình và an lạc cho nhơn sanh (Khai: Mở ra. Minh: Sáng. Khai minh: Mở ra cho sáng. Ðại Ðạo: Nền Ðạo lớn đó là Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, gọi tắt là Ðạo Cao Ðài).

2- Khai Minh Ðại Ðạo là ngày Lễ chính thức Khai Đạo tại Từ Lâm Tự (Gò kén- Tây Ninh) vào ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần (dl: 19-11-1926). Cả hai quan niệm đều có ý nghĩa như nhau: Vì có mở Đạo mới phát triển yếu lý của Đại Đạo được.

Theo lời xin mở Đạo của Đức Quyền Giáo Tông. Ông ERNEST OUTREY trả lời rằng:

*Tôn-chỉ của Cao-Ðài-Giáo là mưu cuộc Hòa bình Thế giới cho các dân tộc. Nếu quả thật như vậy, thì ai là người biết điều mà còn dám đứng lên phản đối một cái lý thuyết tối cao như thế". Thật ra không chỉ bấy nhiêu mà còn rất nhiều điều nữa nói về Tôn chỉ cao thượng của Đạo:

*Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là thờ Trời và các Đấng Thần Thánh Tiên Phật hầu cầu xin cứu rỗi cho các chơn linh quá vãng được siêu thăng và cầu nguyện cho nhơn loại được thái bình.

*Tôn-chỉ của Đại-Đạo ngày nay là gồm cả ba nhà Đạo chánh là Nho – Thích - Đạo. Chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm một, nên chi chúng ta tu Đại Đạo thì phải noi theo Tôn-chỉ của Tam Giáo mà tập rèn tâm tánh. Ðạo Cao Ðài xứng đáng là nền Ðại Ðạo, với ba yếu tố:

-Thứ nhứt, Giáo chủ Ðạo Cao Ðài là Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế "Chúa cả Càn khôn thế giới, nắm trọn thập Nhị Thời Thần vào tay".

- Thứ nhì, Giáo lý của Ðạo Cao Ðài là nguyên căn Giáo lý của các Tôn giáo, dung hợp được các Giáo lý của Tam giáo và Ngũ Chi. Thế nên Ðạo Cao Ðài đã đến thời kỳ "Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi" với tinh thần Tôn giáo Đại Đồng

- Thứ ba, Ðạo Cao Ðài có nhiệm vụ tận độ 92 ức Nguyên nhân và Phổ độ chúng sanh trong thời gian Thất ức niên (700.000 năm), một thời gian rất dài của thế giới tâm linh.

Bài Dâng Trà có câu:

"Ngưỡng vọng Từ-Bi gia tế phước,
"Khai minh Ðại Ðạo hộ thanh bường."

 

 

KHAI NGUƠN


E: To open a new era.
F: Ouvrir une nouvelle ère.

Đức Hộ-Pháp nói: "Hiện đã mãn Hạ Nguơn Tam chuyển, bắt đầu Thượng Nguơn Tứ chuyển ta gọi là khai nguơn nên phải để cho pháp luân chuyển."

 

 

KHAI NHÃN (Phật Học)

Khai nhãn (J: kaigen) Nghĩa là mở mắt; được dùng trong hai trường hợp:

1- Ðược dùng chỉ sự chạm mắt với cái tuyệt đối, Chân như, Phật tính lần đầu. Người lĩnh hội được đại ý Phật pháp thường được gọi là có Pháp nhãn

2- Chỉ Lễ an vị một tượng Phật. Người ta nói rằng: bức tượng hay hình của Phật chỉ "sống" khi có đủ hai con mắt.Trong buổi lễ Khai nhãn, vị Tăng trụ trì gắn mắt (tượng trưng) và nhấn mạnh sự tôn kính Phật tính vô tướng của mình được biểu hiện qua bức tượng này.

(Tham khảo: TỪ ĐIỂN PHẬT HỌC - ĐẠO UYỂN)

 

 

KHAI PHÁP


E: Juridical reformer.
F: Réformateur Juridique.

Pháp Chánh Truyền định: "Khai Pháp là một trong Tứ vị Thời Quân dưới quyền Chưởng Quản của Hộ-Pháp Dưới quyền Hộ Pháp có bốn vị:

- Tiếp Pháp - Khai Pháp - Hiến Pháp - Bảo Pháp

Bốn vị ấy đồng quyền cùng Hộ Pháp; khi đặng lịnh người sai đi hành chánh, song mỗi vị có mỗi phận sự riêng, quyền hành riêng.

Khai Pháp khi tiếp đặng luật lệ, đơn trạng kiện thưa của Cửu Trùng Ðài định xử hay là đã xử nơi Tiếp Pháp dâng lên, thì quan sát coi nên cho cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài biết cùng chăng, như đáng việc thì tức cấp nhứt diện tư tờ cho Cửu Trùng Ðài xin đình đãi nội vụ lại bao lâu tùy ý, song chẳng đặng phép quá 15 ngày, nhứt diện trình cho Hộ Pháp hay, đặng Hộ Pháp mời nhóm Hiệp Thiên Ðài, khi hội Hiệp Thiên Ðài thì Khai Pháp phải khai rõ nội vụ ra cho Hiệp Thiên Ðài quyết định, như quyết định phải sửa cải luật lệ hay là buộc án, thì Khai Pháp phải dâng lại cho Hiến Pháp.

Hộ-Pháp "Lo Bảo hộ luật Ðời và luật Ðạo, chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết".

Nói tóm lại, Hộ Pháp là người bảo hộ, luật Ðời và luật Ðạo, gìn giữ cho Ðạo khỏi qui phàm, nâng đỡ cho đời vào Thánh vị, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết, dầu toàn Cửu Trùng Ðài hay là Hiệp Thiên Ðài sái luật thì Hộ Pháp phải phân xử cho phân minh, vì vậy mà Thầy buộc cả chi "PHÁP" phải thề giữ dạ vô tư mà hành chánh".

Pháp Chánh Truyền: "Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt".

Chú Giải: "Vì lời khuyên của Thầy mà Ðức Lý Giáo Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài phải Minh Thệ giữa Hội Thánh rằng: Lấy dạ vô tư mà hành Ðạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài thật trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Ðồ và cả Chức Sắc Thiên Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chiều theo, chỉ để cho Hội Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức Sắc nào đã thọ quyền của Hiệp Thiên Ðài cũng phải minh thệ, y như vậy mới đặng hành chánh."

 

 

KHAI PHÁP CHƠN QUÂN TRẦN DUY NGHĨA (1888-1954)

Ngài Trần-Duy-Nghĩa Nguơn linh là Thánh Pierre

 

 

 

Ông Trần Duy nghĩa sinh ngày 17-8 Mậu-Tý (dl 11-9-1888). Qui lúc 3giờ sáng ngày 22-01-Giáp Ngọ (24-2-1954). Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, nguơn linh là Thánh Pierre, một trong 12 vị Thánh Tông Ðồ của Ðức Chúa Jésus Chris, nhưng có đến ba lần chối Chúa. Chuyện kể lại: Một hôm nọ, Đức Phạm Hộ Pháp lập Đàn, có các vị Chức sắc Thiên phong dự chứng. Đức Hộ Pháp cầm cây Kim Tiên đưa ra bên trên và trước mặt Ngài Khai Pháp đang quì. Đức Hộ Pháp nói: "Nầy Pierre, ngày trước ngươi đã chối TA ba lần, lần nầy Ta tha cho đó."

Tiền kiếp của Ngài là Thánh SAINT PIERE, tức là một trong 12 Thánh Tông-Đồ của Thiên-Chúa-giáo, ngày nay các vị Thánh ấy cũng trở lại trong hàng Thập Nhị Thánh, tức là Thập Nhị Thời-Quân trong cửa Hiệp-Thiên Đài cũng giữ phận sự hầu Thầy mà thôi".

Hiện tượng này, một lần nữa xác định rằng Đức Chúa Jésus-Christ vốn tiền thân của Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc, Ngài làm nhiệm vụ tha tội cho Thánh Pierre. Khi Ngài Khai Pháp Trần Duy nghĩa qui Thiên liền giáng Cơ cho bài thi làm Bài Thài hiến Lễ cho Ngài:

Đã chán công danh dưới phép người,
Đem thân cửa Phạm để nên nơi.
Lóng chuông Bạch-Ngọc hồi hồn tục,
Nghe trống Lôi-Âm tỉnh mộng đời.
Nắm pháp Thiêng-Liêng dìu Thánh vị,
Cầm Cân Công-lý giữ ngôi Trời.
Dầu chưa trọn nghĩa Thiên-Thơ định,
Giác ngộ vui theo cũng kịp thời.

Đức Hộ-Pháp nhắc lại buổi đầu Đức Chí-Tôn dạy "đi tìm Pháp". Nhưng rốt lại đi tìm đúng Ông Trần-Duy Nghĩa, sau Đức Chí-Tôn phong cho Ngài là KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN, rằng: "Bần Đạo đưa bài Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với Bần Đạo hai câu, mà làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với mình gánh vác nỗi sự nghiệp của Chí Tôn đã giao phó. Ngài nói: Tôi tưởng dòng dõi của dân tộc Việt Nam trên bốn ngàn năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn đến định lập Quốc Đạo thì chắc hẳn rằng đất nước Việt Nam sẽ sống lại được mà là cứu chữa Tổ quốc và giống nòi dân tộc Việt Nam sẽ cỗi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo hành. Kể từ đó thì Ngài vẫn cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo và sự kính nể đáo để không giờ phút nào mà Đức Ngài muốn rời xa Bần Đạo. Khi trở về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo không giờ khắc nào mà quên trong cảnh tù đày lao lung…Bần Đạo đã thấy toàn thể con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần Đạo ôm lòng nín chịu và căn dặn Ngài vẫn dằn lòng không thốt ra lời nói gì cả. Bần Đạo sợ nói ra đây gây oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu Bần Đạo nói ra không có bút mực nào tả cho hết, lại thêm xung đột. Kể từ ngày về Thánh Địa Đức Ngài Khai Pháp thường than khổ với Bần Đạo, vì sợ e không khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì Quân Đội Cao Đài, ai vui hứng chớ riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ sự đổ máu giết chốc lẫn nhau làm đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt Nam ta nữa mà chớ…"

Thử cơ Bút - Nguơn linh Pierre giáng:

Một hôm Ông Bà Đốc Phủ Chi, là người theo Đạo Công-giáo có đến nhà Ngài Cư, mục đích muốn thử xem vấn đề chơn giả của Cơ Bút, nên ông Bà có đề nghị: "Xin cho chúng tôi để thử trên bàn Cơ hai vật này là Ảnh tượng CHÚA và Cây Thánh giá. Nếu Đức Cao Đài là Thượng-Đế thật thì mới giáng Cơ được, bằng Quỉ Vương thấy hai vật báu này tự nhiên phải tránh". Ông CƯ bằng lòng cho thử. Đoạn Ông Đốc Phủ cùng ngồi với Ngài TẮC để quan sát. Trước hết Thánh Pierre giáng Cơ cho bốn câu thi để trả lời cho Ông Bà Đốc Phủ Chi, vào ngày 17-11 Ất-Sửu (dl: 01-01-1926) Thánh giáng Cơ cho biết:

SAINT PIERE

Thiên đàng giữ cửa góc Trời Tây,
Truyền Ðạo cho dân biết mặt Thầy.
Cứu chuộc đã gần đôi ngàn tuổi,
Cao Ðài phú thác dắt dìu bây.
                        (31 Decembre 1925)

Ngày 11-01 Bính Dần (dl: 23-2-1926) Đức Chí Tôn có giáng cho KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN bài thi:

Đạo Tâm rỡ rỡ sáng như ngày
Hiệp cũng may mà gặp cũng may.
Đã mộ trong lòng thân cũng mộ,
Một lòng mộ Đạo chớ đơn sai.

Ngài Khai Pháp quí danh là Trần Duy Nghĩa, sanh năm Mậu Tý (1888) tại làng Thành Phô, tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò-Công. Trưởng thành trong một gia đình Nho phong. Thân phụ là Ông Trần-Duy-Quyền và Thân mẫu là Bà Đặng thị Lâu, đều ở Gò Công. Ngài Trần Duy Nghĩa được Thiên phong Khai Pháp, cùng một lượt với chư vị Thời-Quân khác khi Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp-Thiên-Đài ngày 12 tháng Giêng năm Đinh Mão (dl 13-2-1927). Ngài hợp cùng Ngài Tiếp-Pháp Trương văn Tràng thành cặp Phò-loan truyền Đạo lúc ban sơ và sau đó trở thành cặp Phò loan chuyên về Bí Pháp.

Sau khi qui liễu năm 66 tuổi, Ngài có giáng cơ cho bài thi ngày 23-1-Giáp Ngọ (1951):

Sáu mươi sáu tuổi có bao lâu,
Ngoảnh lại trần gian chửa mãn sầu.
Tiếc lúc về già đời mỏi mắt,
Dầu an Tiên cảnh vẫn đeo sầu.

- Ngày 04-03-Ất Tỵ (1965) Ngài cho bài khoán thủ:

KHAI khiếu huyền linh diệt tánh phàm,
PHÁP điều khử mị dẹp tà tâm;
CHƠN truyền mầu nhiệm Tam Kỳ xuất,
QUÂN tướng đua giành nước Việt Nam.

- Dịp khác Ngài cho bài sau đây:

TRẦN hoàn khỏa lắp bụi phù sanh,
DUY lý uyên thâm tại Đạo thành.
NGHĨA dõng tài cao còn thiếu đức,
Nắm cơ trị thế khó nên danh.

 

 

KHAI SÁNG

E: To find.
F: Fonder.

"ÐẠI ÐAO TAM KỲ PHỔ ÐỘ khai sáng tại Việt Nam từ năm 1926, người bổn Ðạo lúc ấy còn bị quyền Ðời bó buộc. Mãi tới năm 1956 Hội Thánh ký thỏa ước với Chánh Phủ Cộng Hòa ước hẹn không làm chính trị và được trọn quyền truyền bá mối Ðạo khắp xứ Việt Nam".

 

 

KHAI THẾ

開 世
E: Temporal reformer.
F: Réformateur Temporel.

Khai Thế là một trong Tứ vị Thời Quân thuộc Chi Thế, dưới quyền Chưởng Quản của Thượng Sanh

Dưới quyền của Thượng Sanh có bốn vị Thời quân:

- Tiếp Thế - Khai Thế - Hiến Thế - Bảo Thế

Bốn vị Thời Quân chi THẾ đặng cùng quyền cùng Thượng Sanh, khi người ban lịnh hành chánh; song mỗi vị có mỗi phận sự riêng, quyền hành riêng.

Khai Thế khi tiếp đặng đơn trạng chi chi của Tiếp Thế dâng lên, thì phải kiếm hiểu các nguyên do coi có đáng buộc án cùng chăng, như đáng thì nhứt diện tư tờ qua Cửu Trùng Ðài cho biết nội vụ, nhứt diện dâng sớ cho Hộ Pháp cầu người mời hội Hiệp Thiên Ðài đặng định đoạt. Khi đặng lịnh của Hiệp Thiên Ðài thì Khai Thế phải dâng nội vụ lên cho Hiến Thế.

Thượng Sanh và tứ vị Thời Quân về chi Thế, cũng phải thề giữ dạ vô tư mà hành chánh."

Pháp Chánh Truyền: "Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt".

Chú Giải: "Vì lời khuyên của Thầy mà Ðức Lý Giáo Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài phải Minh Thệ giữa Hội Thánh rằng: Lấy dạ vô tư mà hành Ðạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài thật trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Ðồ và cả Chức Sắc Thiên Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chiều theo, chỉ để cho Hội Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức Sắc nào đã thọ quyền của Hiệp Thiên Ðài cũng phải minh thệ, y như vậy mới đặng hành chánh."

 

 

KHAI THẾ CHƠN QUÂN THÁI VĂN THÂU (1899-1981)

 

 

 

 

Ngày sinh: năm Kỷ Hợi (1899)

Qui Thiên: Lúc 5giờ 30 chiều ngày 02-06-Tân Dậu (dl: 03-07-1981)

Ngài Khai-Thế Thái-Văn-Thâu bị bịnh tâm thần kéo dài. Sau cùng qui tại Tư gia Xã Qui-Đức (Cần-giuộc). Không có bài thài hiến lễ.

Ngài là người cùng quê nhà với Ngài Hiến-Đạo Phạm-văn-Tươi. Thời trẻ hai người là bạn với nhau.

Đầu năm Bính-Dần (1926) một đàn Cơ ở Tân-Kim (Cần giuộc) tại nhà ông Hội-đồng địa hạt Nguyễn văn-Lai, ông Đốc Phủ Nguyễn văn Tương (Chủ Quận Cần giuộc) và ông Lê-văn Lịch (Vĩnh nguyên Tự) chứng đàn. Hai ông Ca-Minh-Chương và Phạm-văn-Tươi phò loan. Ngài Thái-văn-Thâu có đến hầu đàn và được Đức Chí-Tôn thâu làm Môn-Đệ. Khi Đức Chí-Tôn lập Pháp Hiệp-Thiên-Đài ngày 12-01-Đinh Mão (dl: 13-02-1927) Ngài Thái-Văn-Thâu đắc phong KHAI THẾ HIỆP-THIÊN-ĐÀI.

Ông cũng làm việc đắc lực trong Hội-Thánh, nhưng vào năm 1941, Đức Hộ-Pháp cùng với 5 vị Chức sắc bị nhà cầm quyền Pháp bắt lưu đày sang Madagascar (Phi Châu), lính Pháp vào chiếm đóng Tòa-Thánh. Ông lui về quê nhà ở xã Qui Đức an dưỡng, thì cơn bịnh tâm thần kéo dài bất thường.

Ông Qui tại tư gia lúc 5 giờ 30 chiều ngày 02-06-Tân Dậu (dl: 03-07-1981) Hưởng thọ 83 tuổi. Đại diện Hội-Thánh và Ban Cai-quản Thánh Thất Cần giuộc tổ chức lễ an táng tại quê nhà.

Ngài Khai-Thế Thái-văn-Thâu là vị Thời Quân đăng Tiên sau cùng trong số 12 vị Chơn-Quân. Gặp lúc hoàn cảnh đất nước đổi thay, Đạo quyền nghiêng ngửa, Hội-Thánh và các cơ quan Hành-Chánh-Đạo bị giải thể, không thể di Thánh hài của Ngài về an táng nơi Thánh Địa được, đành phải an táng theo nghi thường tại quê nhà của Ông tại Xã Qui Đức (Cần-giuộc).

 

 

KHAI THIÊN LẬP ĐỊA

Khai Thiên lập Ðịa là mở Trời lập Ðất, ý nói thuở đầu tiên của Càn khôn Thế giới nầy. Phải qua nhiều thời gian tạo dựng khó nhọc nên mới được như ngày nay

Thầy dạy: "Từ khai Thiên lập Ðịa, Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao nhiêu điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy lúc vang mày, nuôi nấng các con hầu lập nền Ðạo, cũng tưởng cho các con lấy đó làm đuốc soi mình đặng cải tà qui chánh. Mấy lần vun đắp nền Ðạo, Thầy cũng đều bị các con mà hư giềng đạo cả. Thầy buồn đó các con."

Thi văn dạy Đạo rằng:

Thiệt thiệt hư hư dễ biết chăng?
Hành tàng chơn Đạo gọi sao rằng:
Khai thiên lập Địa ai là chủ?
Thánh Phật là ai dám đón ngăn?

 

 

KHAI THIÊN ĐỊA NHƠN VẬT CHI TIÊN

(Đây là câu kinh trong bài Kinh Tiên Giáo)

(Khai: Mở ra. Thiên Ðịa: Trời và Ðất. Nhơn vật: Người và loài vật. Chi Tiên: có trước).tức nhiên khi mở ra Trời Ðất, Ðức Thái Thượng Ðạo Quân là Ðấng có trước loài người và muôn vật. Câu kinh nầy nói về sự tích của Ông Bàn Cổ, một hóa thân của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân.

Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh, sự tích của Bàn Cổ như sau: Tại núi Côn Lôn, có một cục đá tròn và lớn, đã thọ khí Âm Dương rất lâu đời, nên đã thâu được các tánh linh thông của vũ trụ mà tạo thành thai người. Sau 10 tháng 16 ngày, đúng giờ Dần một tiếng nổ vang, khối đá linh ấy nứt ra, sản xuất một vị Linh Chơn hy hữu, một người đầu tiên của thế gian, được gọi là Bàn Cổ.

Vừa được sanh ra thì vị ấy tập đi, tập chạy, tập nhảy, hớp gió nuốt sương, ăn hoa quả lần lần lớn lên, mình cao trăm thước (thước Tàu), đầu như rồng, có lông đầy mình, sức mạnh vô cùng. Một ngày kia, Bàn Cổ chạy qua hướng Tây, bắt gặp một cái búa và một cái dùi, ước nặng ngàn cân. Bàn Cổ, tay phải cầm búa, tay trái cầm dùi, ra sức mở mang cõi trần. Ngài ước ao Trời Ðất sáng tỏ thì người và vật mới hóa sanh được. Ngài ao ước vừa dứt tiếng thì tiếng sấm nổ vang, Trời trong Ðất yên, vạn vật liền sanh ra đủ cả. Ngài chỉ Trời là Cha, Ðất là Mẹ, muôn dân là con. Ngài chính là tôn chủ sáng lập thế gian, nên gọi Ngài là Thái Thượng Ðạo Quân. Ngài tự xưng là Thiên tử (con của Trời) cai trị muôn dân. Ngài là vị vua đầu tiên của thế gian nên gọi là Thiên Hoàng.

Bàn Cổ là Thiên Hoàng, sanh nơi Dần Hội, thọ được 18000 tuổi rồi mới qui Thiên. Tiếp theo Thiên Hoàng là Ðịa Hoàng, rồi Nhơn Hoàng, gọi chung là Tam Hoàng. Sự tích nầy cũng có chép trong Truyện Thần Thoại Trung Quốc, rất hoang đường, nhưng cũng cho biết được rằng, Tam Hoàng gồm Thiên Hoàng, Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng là ba vị vua đầu tiên của nước Tàu.

Ðức Thái Thượng Ðạo Quân chính là Bàn Cổ, là Thiên Hoàng và cũng là thủy tổ của loài người (Tàu).

 

 

KHAI TÔNG ĐỊNH ĐẠO

Khai: Mở ra, mở đầu, mở mang, bắt đầu. Tông: còn đọc là Tôn: tôn giáo. Định: sắp đặt. Đạo: tôn giáo. Khai tông định Đạo là mở ra và sắp đặt một nền tôn giáo.

Phật Mẫu Chơn Kinh có câu:

"Lịnh Mẫu-Hậu khai Tông định Đạo,
"Ân dưỡng sanh đảm-bảo hồn-hài."

 

 

KHẢI CA


E: Song of victory.
F: Chant de victoire.

Khải: Vui vẻ, vui hòa. Ca: hát. Khải ca là hát mừng chiến thắng, thành công vẻ vang, để tỏ vui mừng đắc ý (Thắng trận trở về).

Bài thi tiên tri của Đức Lý Giáo Tông:

THI:

Việt Thường hữu phúc xuất Thiên Quân,
Chuyển thế Chí Tôn dĩ định tuần.
Trị loạn Nam Thiên trừ mãnh hổ,
Thừa bình Bắc địa kiến kỳ lân.
Hoàng triều hậu nhựt nghi tùng cổ,
Văn hiến tương lai khả hoán tân.
Thánh chúa hiền thần phò tổ nghiệp,
Khải ca định phận tại thu phân.
                        Lý Giáo Tông
            (1-3-Mậu Tý, dl 9-4-1948)

 

 

KHẢI ĐỊNH (Vua Nhà Nguyễn)

 

 

 

 

 

 

KHAM

Kham : chịu được

Kinh Thuyết Pháp có câu:

"Dìu đời với sức không kham,
"Mượn quyền Thuyết pháp đặng làm cơ quan."

 

 

KHẢM Quẻ 29. Quẻ Bát Thuần Khảm

 

 

Quẻ 29. Quẻ Bát thuần Khảm

 

 

Tượng: Tứ khổ

Quẻ này là quẻ Bát-thuần Khảm. Khảm hạ là nội Khảm, Khảm thượng cũng là ngoại Khảm. Trên dưới trong ngoài thảy đều là Khảm, nên tên quẻ đọc là Bát Thuần Khảm.

Khảm là hiểm mà cũng có nghĩa là hẹp-hòi và còn có nghĩa là nước.Thánh-nhân xưa đã đặt ký hiệu quẻ Khảm là gồm một Dương được bao bởi hai âm, điều này cũng đúng theo khoa-học ngày nay về công thức Hoá học ký hiệu nước bằng H20, tức là hai Hydro và một Oxy. Oxy là Dưỡng-khí là Dương, Hydro là đạm khí là Âm, nào có khác nhau. Hẳn Thánh-nhân đã am tường khoa-học Hoá học bao ngàn năm rồi, mãi đến giờ này nhân-loại mới tìm được công-thức sống, như vậy Khoa học thực nghiệm quả tình chỉ đi sau Đạo-học mà thôi. Nhưng điều này tuỳ theo trình độ tiến-hoá của nhân-loại đến đâu thì lý giải đến đó vậy. Cho nên nước luôn gắn liền với đất, nếu là đất bẩn hoà với nước thành ra bùn. Khi người bị lắm bùn thì dùng nước mà rửa. Nói chung nước rất cần ích cho sự sống. Người có thể nhịn ăn được nhiều ngày chớ không thể nhịn nước được dầu một thời gian ngắn.

Ý sắp đặt thứ tự quẻ: Sau quẻ Đại quá tiếp lấy quẻ Khảm là cớ vì sao?

Theo về thể, quẻ Khảm có một hào Dương bị hãm giữa hai hào Âm, tức là Dương bị nhốt trong hai Âm nên không thể thoát ra được.Trên dưới đều là Khảm nên đặt tên quẻ là Thuần Khảm, còn gọi là Tập Khảm hay Bát thuần Khảm cũng cùng một nghĩa.

Sau thời Đại-quá tiếp lấy Thuần Khảm, vì vật không thể Quá được mãi, hễ quá rồi tất nhiên sụp vào hiểm, nên sau Đại-quá tiếp lấy quẻ thuần Khảm là vậy.

Tiếng Việt-Nam gọi nước là thức uống, là chất lỏng, ngoài ra nước gắn liền với đất gọi là đất nước, chữ đất nước là chỉ giang san. Tiếng Việt phong phú là chỗ đó.

Nhắc lại câu chuyện của Vua Tự-Đức từ thuở thiếu thời tuy còn trẻ tuổi nhưng sớm hiểu được giá trị của một thời Vua mất nước, cha ông trong Hoàng tộc bị bắt lưu đày nơi Hải Đảo như Vua Duy-Tân, Hàm Nghi. Một hôm Ông ra ngoài bãi biển chơi ngồi vọc cát, ông liền hỏi người hầu rằng: tay bẩn phải làm sao?

- Bẩm: tay bẩn thì lấy nước mà rửa.

Nếu nước bẩn thì lấy gì mà rửa?

- Nước bẩn thì lấy máu mà rửa.

Cuộc đời này tất cả đều chung chịu trong vòng Tứ khổ mà thôi. Có khổ mới mưu tìm cách giải cảnh lệ nô vậy

Thời buổi này nhân-loại đã chịu khổ đến mức tận cùng rồi, do vậy mà Đức Hộ-Pháp nêu lên Thuyết Tứ Diệu đề khổ của Đức Phật Thích-Ca, mục đích để đưa cho nhân loại thấy rằng cái Khổ này luôn đeo đẳng con người và cả muôn loài vạn vật từ xưa đến giờ không ai tránh khỏi. Vì cái Tứ khổ của nhân loại vẫn mãi đeo-đẳng không biết tới ngày nào đây mà chẳng chịu buông tha?.

Đức Hộ-Pháp buột lời than cho nhơn-loại rằng:

"Ngày giờ nào nhơn-sanh cũng tìm phương an-ủi cho bớt thống-khổ, kiếm phương an-ủi; tìm cùng đáo-để như tìm gió theo mây chạy đến gõ cửa ĐứcKhổng-Phu Tử:

"Ông có thuốc gì an-ủi nỗi thống-khổ tâm hồn của tôi không?"

Đức khổng-Phu-Tử trả lời:

- Phương chuyển thế không cùng, dầu đoạt được Bí-pháp lấy Trung-dung cũng chưa thỏa mãn.

Sang gõ cửa Phật Thích-Ca:

- "Phật có thuốc gì chữa nỗi thống khổ tâm hồn của tôi chăng?"

Phật đem chơn-lý trước mắt là Sanh, lão, Bịnh, tử, ấy là chơn-lý. Người mới tự xét: Tôi không muốn sanh mà ai sanh ra tôi chi, để tôi phải chịu khổ thế này?

Sống, tôi không muốn sống, vì sống là gốc sản xuất tứ khổ. Cái khổ ấy chẳng phải của tôi mà ai làm cho tôi khổ. Cũng không thỏa-mãn tâm hồn. Tìm nơi Phật không thấy đặng gì!

Đến gõ cửa Lão-Tử:

- Bạch Ngài, có món thuốc gì an-ủi tâm hồn tôi không?

- Bảo, cứ giữ đạo-đức làm căn-bản, thóat mình ra khỏi thúc-phược thất tình, lên non phủi kiếp oan-khiên, tìmnơi tịch-mịch an-nhàn thân tự-toại. Nếu không thế ấy thì đừng mơ-mộng gì thoát khổ được.

Nghe lời, lên núi ở, mà ngặt nỗi hễ mỗi lần đem gạo lên ăn, thì khó nhọc trần-ai khổ nhộng. Đói, tuột xuống, thất chí nữa, thành phương an-ủi cũng ra ăn trớt.

Đến gõ cửa Thánh Jésus De Nazareth, hỏi:

- Đấng Cứu-Thế có phương thuốc nào trị thống khổ tâm-hồn tôi không?

- Trả lời: Nếu các Ngươi quả-quyết nhìn nhận làm con cái Đức Chúa Trời, tức là Đức Chí Tôn, làm như Người làm, mới mong an-ủi tâm hồn được. Trong khuôn khổ, phương-pháp làm con cái của Đức Chí-Tôn thì lắm kẻ nói được mà làm không được, cũng như tuồng hát viết hay mà không có kép tài đặng hát.

Cả thảy không chối, cũng có kẻ an-ủi được nhờ đức-tin vững-vàng, còn phần nhiều ngược dòng đi ngã khác, không ở trong lòng Chí-Tôn chút nào tất cả. Thất chí nữa, hết tìm ai!"

 

 

KHÁN ĐÀI


E: The tribune.
F: La tribune.

Khán: Xem, coi. Đài: cái nền đất đắp cao. Khán đài là cái đài xây cao lên, có từng có nấc từ thấp lên cao, để nhiều người lên đó xem lễ hay xem một cuộc biểu diễn thể thao hay văn nghệ.

Trước Tòa Thánh, hai bên Đại Đồng Xã, Hội Thánh cho xây hai khán đài lớn, có mái che, để Hội Thánh mời đông đảo các quan khách đến xem các buổi lễ lớn của Đạo.

 

 

KHÁN GIẢ

Đức Hộ-Pháp nói: "Chúng ta may duyên được ngó thấy mình ngồi trên chỗ cao-trọng để làm người khán-giả, dòm thấy người Bạn của chúng ta lâm vào cảnh ấy, dầu ai vững tâm thế nào Tôi tưởng khó cầm giọt lụy đặng.

 

 

KHANH TỂ


E: The hight dignitaries of government.
F: Les grands dignitaires de la cour.

Lục Nương Diêu Trì Cung giáng Cơ:

Chanh ranh vạn thế ở trong vòng,
Giành giựt lẫn nhau miếng đỉnh chung.
Khanh Tể sao bằng tên Ðạo Sĩ,
Hết đời ai giữ chức làm Ông.

Thi văn dạy Đạo:

Khanh tể chưa hay bẳng hiếu thân,
Nhơn luân trọn đạo đáng nên Thần.
Ví xưa biết chút đường tu niệm,
Thì chắc nay đà ngự các lân.

 

 

KHÁNH CHUÔNG

Thi văn dạy Đạo:

Khánh chuông tiếng khởi giục nhơn sanh,
Bỏ ác mà đi đến nẻo lành.
Kiếp trước phải ngừa là kiếp phạt,
Hễ là có thưởng phạt theo mình.

 

 

KHÁNH ĐẢN


E: The birthday
F: Anniversaire de la naissance.

Khánh: Chúc mừng, chúc thọ, điều phước. Đản: ngày sanh. Khánh đản là lễ mừng sinh nhựt (ngày lễ giáng sinh).

 

 

KHÁNH TIẾT


E: Festivals.
F: Fêtes.

Khánh: Chúc mừng, chúc thọ, điều phước. Tiết: có phép tắc trật tự, ngày lễ. Khánh tiết là lễ mừng vui mừng, lễ lược.

Ban Khánh tiết là ban tổ chức những cuộc lễ.

 

 

KHÁNH THỌ


E: The feast of longevity.
F: La fête de longevité.

Khánh: Chúc mừng, chúc thọ, điều phước. Thọ: sống lâu. Khánh thọ là lễ chúc thọ, mừng tuổi thọ, mừng sống lâu. (Xem: Chúc thọ)

 

 

KHẢO (1)

• KHẢO

o   Thọ khảo, già nua. Bố đã chết rồi gọi là khảo. Các tiên nhân về bên đàn ông đều dùng chữ khảo cả. Như tổ khảo 祖考 ông. Khảo xét.

o   Thí. Lấy các bài văn học để chọn lấy học trò xem ai hơn ai kém gọi là khảo. Như khảo thí 考試 thi khảo.

o   Xong, khánh thành nhà. Đánh, khua. Trọn, kết cục. Vết.

o   Bộ: phốc (hay phộc) ()

• KHẢO khảo. Xét, cũng như chữ khảo .

• KHẢO (Bộ thủ ) khảo. Đánh tra khảo

 

 

KHẢO (2)

Khảo là Tra xét, thử thách, thi, kiểm điểm lại.

Thầy dạy: "Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy nền Chánh giáo phải có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ, Chưởng quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.

CHIÊU, thiệt là Nhứt Phật đó. Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức Giáo Tông cho nó, thì Chúa Quỉ sai tam thập lục động địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy và kiện rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng Ta. Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức Giáo Tông cho nó. Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó và phải để cho Tam thập lục động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác. Rủi thay! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị Tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng.

Đại lụy! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải Tịnh thất. Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục động khảo nữa thì mới liệu sao? Ta phải giáng Cơ biểu nó.

 

KHẢO CỨU VỤ


E: The Research Institute.
F: Institut de Recherche.

Khảo cứu vụ là một cơ quan của Đạo Cao Đài do Hội Thánh lập ra, có nhiệm vụ nghiên cứu giáo lý, văn hóa và lịch sử của Đạo, để phát huy và truyền bá cho mọi người đều biết. (Khảo: Tra xét, thử thách, thi. Cứu: tìm biết. Vụ: cơ quan làm việc. Khảo cứu là tra xét, đối chứng để tìm hiểu cho rõ ràng.

Cơ quan Khảo cứu nầy được Đức Hộ Pháp thành lập từ năm 1948 (Đinh Hợi), nhưng chỉ hoạt động một thời gian thì phải ngưng lại vì thời cuộc chiến tranh.

Nguyên văn Thánh Lịnh của Đức Hộ-Pháp:

 

Hộ-Pháp-Đường

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Văn phòng

(Nhị Thập Tam Niên)


Tòa Thánh - Tây Ninh

Số: 114 / TL


THÁNH LỊNH

HỘ PHÁP Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Ðài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng

Chiếu y Đạo Luật ngày 16-01-Mậu Dần (dl 15-02-1938) giao quyền Thống nhất Chánh Trị Đạo cho Đức Hộ Pháp nắm giữ cho đến ngày có Đầu sư chánh vị.

Nghĩ vì sự Phổ thông Chơn truyền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là việc rất cần ích trong lúc nhơn sanh đang tiến trên con đường Hạnh phúc - Hoà bình

Nghĩ vì mục đích Cao-Đài Đại-Đạo là đem nhân loại đến chỗ Đại-Đồng tạo Tân Dân chỉ ư chí thiện trong khuôn viên Tân-Luật Pháp-Chánh-Truyền.

Nghĩ vì Chánh giáo của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là QUI NGUYÊN TAM GIÁO PHỤC NHỨT NGŨ CHI cho đặng Phổ thông Chơn Đạo phải thông hiểu rành mạch nguyên lý của các Tôn-giáo. Nên:

THÁNH LỊNH

Điều thứ nhứt:

1-Thiết lập Khảo-Cứu-Vụ tại Toà-Thánh để sưu tập Kinh điển và Thánh Ngôn, Thánh Giáo đặng khảo cứu Triết lý Cao-Đài Đại-Đạo và Kinh sách của Tôn-giáo khác mà ra Kinh sách để Phổ thông Đại-Đạo Tam-kỳ.

2- Tổ chức các cuộc giảng Đạo tại Toà Thánh và các Châu Đạo để phổ thông Triết lý của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

3- Tổ chức các lớp Huấn luyện Chức sắc, Chức việc để đủ tài liệu truyền Giáo.

4- Ra báo chí để Phổ thông Chơn Đạo

Điều thứ nhì: Cách Tổ chức:

A-Ban Thị sát:

Ban này gồm có:

- Một Chánh Thị sát

- Hai Phó Thị sát

- Hai Chánh Phó Thư ký

- Một Chánh Giám Thủ Kinh tịch

- Một Thủ bổn

- Một phó Thủ bổn

- Và nhiều Hội viên thường trực để tiếp đãi tân khách, đọc giả và để sung vào việc các Ban Khảo cứu như:

1-Cao-Đài.

 

2-Phật giáo.

 

3-Nho giáo.

4-Gia Tô.

 

5-Lão giáo.

 

6- Hồi giáo.

B-Nhiệm vụ

Một Chánh Thị sát:

a/- Hay về giao thiệp cùng các Tôn giáo trong nước và ngoại bang

b/- Tổ chức phân cấp, điều khiển các cơ quan phụ thuộc

c/- Chuẩn xuất những khoản chi tiêu một trăm đồng trở lên

Phó Thị sát nhứt:

a/- Thế cho vị Chánh Thị Sát trong các nhiệm vụ khi vị này vắng mặt

b/- Tiếp đãi Tân khách khi nào tân khách yêu cầu thăm vị Chánh thị sát sẽ đưa vào (không xin tham kiến không đưa vào)

Phó Thị sát nhì:

a/- Thay thế cho vị Chánh thị Sát mà kiểm soát hành động của các cơ quan phụ thuộc.

b/- Thế cho hai vị trên nếu cả hai cùng vắng mặt.

Chánh Phó Thư ký: Lo việc thư tín giao thiệp với ngoại giới dưới của vị Chánh Phó thị sát.

Chánh Phó Giám Thủ Kinh tịch: mấy vị này giữ sổ Kinh Sách, sắp Kinh sách thứ tự trong kinh.

Chánh Thủ bổn: Giữ tiền

Phó Thủ bổn: Giữ sổ thâu xuất

Cả hai đều đặng phép cho xuất những khoản chi tiêu dưới một trăm đồng (thời gian năm 1948). Nhưng phải có toa vé và sổ sách rành rẻ, mỗi phiếu xuất phải có chữ ký "đồng ý" của vị Thủ bổn. Những khoản tiền xuất từ 100 đồng trở lên phải có sự chuẩn xuất và chữ ký của vị Chánh Thị sát mới hợp pháp.

Điều thứ ba: Các cơ quan phụ thuộc

1- Các cơ quan khảo cứu: lo gom góp hoặc mua sắm các kinh sách bằng Việt văn, Pháp văn, Anh văn…sắp từng loại trong kệ tủ để tiện khảo cứu và tụng đọc.

Các kinh sách ấy không được cho mượn đem ra khỏi phòng khảo cứu.

Khảo Cứu vụ có:

- Một phòng tiếp khách

- Một phòng Khảo cứu

- Một phòng đọc sách báo

2- Ban tạp chí: Ban này lo việc viêt bài hoặc sưu tầm các Thánh giáo, các bài Thuyết pháp họp lại tập gọi là Tạp chí để truyền bá trong dân gian hoặc gởi đi ngoại quốc. Trước khi xuất bản Tạp chí phải trình lên ban Khảo cứu để kiểm soát và chuẩn hứa mới được xuất bản, hay buộc tái tu rồi phải tái trình.

3- Ban huấn luyện truyền giáo: Ban thị sát chọn người chuyên môn đứng ra huấn luyện chư vị chức sắc có phận sự đi truyền bá về khoa Giáo lý, Triết lý Cao-Đài giáo trong các Ban khảo cứu.

Điều thứ tư: Chương trình huấn luyện

1- Cấp Sơ đẳng

1/- Đạo là gì? Tu là gì?

2/- Tiểu sử của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ

3/- Nghi tiết và ý nghĩa của các tổ chức thờ phượng

4/- Tân luật và Pháp chánh Truyền

5/- Tam Qui Ngũ giới

6/- Tiểu sử sơ đẳng của Tứ Thánh, Tam Trấn, Đức Khương Thái Công

7/- Địa dư Việt Nam về mặt Kinh tế, Chánh trị và Tôn giáo

8/- Phép tu luyện, trau lòng đạo đức cho trong sạch (Phương pháp này sẽ chỉ riêng)

2- Cấp Trung đẳng:

1/- Tại sao khai Đạo? Tại sao bế Đạo?

2/- Lịch sử Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và chánh trị của Đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.

3/- Tiểu sử của Tứ Thánh, Tam Trấn, Đức Khương Thái Công, Bát Tiên (Tham khảo)

4/- Địa dư các cường quốc và hoàn cầu về phương diện Kinh tế, Chánh Trị, Tôn giáo.

5/- Tu niệm theo phép: Giới - Định - Huệ.

3- Cấp Cao đẳng:

1/- Triết lý Phật Giáo

2/- Triết lý Đạo Giáo

3/- Triết lý Nho Giáo

4/- Triết lý Gia-Tô-Giáo

5/- Triết lý Hồi Giáo

6/- Triết lý Bà-la-Môn Giáo

7/- So-sánh các triết lý Tôn giáo với các Triết lý Cao-Đài giáo để phân rành chỗ hơn chỗ kém của đôi bên.

8/- Tâm-lý-học: tâm lý con người:

- Trong thời bình trị ra sao? Của kẻ phú quí ra sao?

- Nhứt là phương diện tín ngưỡng trình độ nhơn loại hiện giờ ra sao?Ảnh hưởng phong trào vật chất do khoa học gây nên thế cuộc nào? Chỉ chỗ sai lầm qua tư tưởng hiện tại.

- Làm cách nào đem con người lại đường Đạo (Sưu tầm các phương pháp hạnh phúc cứu thế)

4- Phép tu luyện:

1/- Thật hành: Giới- Định- Huệ

2/- Pháp tham thiền nhập định và tiếp điển Tiên thiên cho thân hình được tráng kiện

Điều thứ năm:

Vị Bảo Thế (Lê Thiện Phước) thừa quyền Hộ Pháp lãnh thi hành Thánh Lịnh này.

Lập tại Toà Thánh ngày 15-12-Đinh Hợi
(Dl 25-01-1948)
HỘ-PHÁP
PHẠM-CÔNG-TẮC


Đến năm 1972, Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức, Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài ký Thánh Lịnh số 53/TL ngày 4-5-NhâmTý (dl 14-6-1972) tái lậpKhảo cứu vụ

Nguyên văn Thánh Lịnh nầy, xin chép ra sau đây:

 

Văn phòng

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

CHƯỞNG QUẢN

(Tứ thập thất niên)

Hiệp Thiên Đài

Tòa Thánh - Tây Ninh


Số: 53/TL


CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI

Chiếu Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,

Chiếu Hiến Pháp và Nội luật Hiệp-Thiên-Đài ngày rằm tháng 2 Nhâm Thân (dl 21-3-1932).

Chiếu Hiến pháp Hiệp-Thiên-Đài ngày 8-1-Gíap Thìn (dl 20-2-1964) và Hiến pháp Hiệp-Thiên-Đài bổ túc ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965),

Chiếu Thánh giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 6-5-Tân Hợi (dl 29-5-1971) Đức Hộ Pháp chấp nhận việc công cử Thời Quân Hiến Pháp cầm quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên Đài.

Chiếu Vi Bằng số 3/VB ngày 3 tháng chạp Tân Hợi (dl: 18-1-1972) Hội Thánh Lưỡng Đài: Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện đồng quyết nghị tái lập KHẢO CỨU VỤ theo Thánh Lịnh số 114 ngày 15 tháng chạp Đinh Hợi (dl 25-1-1948). Vì sự khảo cứu là việc cần ích chung cho Đạo, nên:

THÁNH LỊNH

Điều thứ nhứt: Nay tái lập Khảo Cứu Vụ tại Tòa Thánh Tây Ninh để sưu tập Thánh Ngôn, Thánh giáo, Kinh điển và tìm hiểu nguyên lý của các Tôn giáo đặng nghiên cứu phổ thông triết lý Đại Đạo ra khắp Ngũ châu hầu cứu rỗi nhơn loại.

Điều thứ nhì: Giao cho vị Thời Quân Bảo Đạo Hiệp Thiên-Đài lãnh nhiệm vụ tổ chức và điều hành Ban Khảo Cứu Vụ do theo tinh thần Thánh Lịnh dẫn thượng.

Ban Khảo Cứu Vụ đặt Văn phòng làm việc chung với Ban Đạo Sử.

Điều thứ ba: Vị Thời Quân Bảo Đạo Hiệp-Thiên-Đài, các cơ quan Chánh Trị Đạo tùy nhiệm vụ thi hành và ban hành Thánh Lịnh nầy.

Tòa Thánh, ngày 4 tháng 5 Nhâm Tý.
(dl 14-6-1972)
Hiến Pháp Quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(ấn ký)

 

 

KHẢO DUỢT


E: To examine.
F: Examiner,

Khảo duợt duyệt xét lại.

Đức Hộ-Pháp nói tình cảm về bà Lâm Hương Thanh: "Lửa thử vàng, gian nan thử Đạo" là cũng trong một ý niệm ấy. Nếu thoảng như đi trên con đường lập vị thiêng liêng được sung sướng hoặc dễ dàng hoặc không cần chi phải mệt xác mệt trí, hoặc không có chịu sự khảo duợt nào về tinh thần hay hình thể, thì nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ thành Phật hết. Như thế, các em nghiệm coi phẩm trật ấy có phân biệt và quí trọng không? Hẳn là không phân biệt rồi. Ôi! Biết bao nhiêu khổ não, truân chuyên thương Em, mà điều chẳng qua liễu Đạo của Chị, cái chết của Chị trong đầu óc Em biết sao mà nói, tưởng tượng quả quyết rằng vì Chị bị cường quyền khảo quá thế, một người đa tình đa cảm như Chị chúng đã khảo duợt với một phương pháp ấy không thế nào sống đặng".

Nhận định: "Nói đến kiếp sanh của ta, ta chớ lầm cái chết là một cái lớp, cái chết ấy là chúng ta bước lên con đường tiến triển đó vậy. Nếu một kiếp sống mà chưa trọn thì sẽ thấy và biết lý do cái chết của anh ta như thế nào? Cái sống ấy không khác nào một anh trò đứng giữa lớp kia để cho thiên hạ khảo duợt, cũng như cái xác thân chúng ta hiện giờ đang bị khảo duợt trong khuôn khổ, đến lúc chết mới biết chúng ta đậu hay rớt, có đậu hay rớt là trong buổi này".

Cao Thượng Phẩm: "Nêu gương người xưa, Bần Đạo xin các em tất cả phải đặt trọn đức tin nơi cửa Từ Bi, thì rồi đây sự ứng chuyển các em sẽ thấy nó hữu dụng dường bao. Đời đã đến lúc thay cũ đổi mới, khiến cho nhơn sanh phải trải qua một cuộc khảo duợt dữ dội, Đạo sẽ nhìn thấy một cuộc biến chuyển lớn lao mà tự mình các em phải ra tay gánh lấy. Nhưng thử hỏi Đạo đức hiền lương chưa vững, tinh thần chưa được tinh khiết thì làm sao chống vững cơ trào. Kể từ nay các em khá chuyên tâm mà tu chỉnh cho lắm mới xứng vị trong cơn lọc lừa đó nghe!"

 

 

KHẢO ĐẢO

攷 倒
E: To try, to make.
F: Éprouver.

Ngài Tiếp Pháp thuyết nhân ngày Vía Ðức Thượng Phẩm: 01-03-Quý Mão (1963) rằng:

"Sau bốn năm tận tụy với Ðạo, Người bị một cơn khảo đảo rất lớn, làm cho hết sức buồn tủi, nếu không vì Thầy vì Ðạo, thì có thể trở ra mặt thế mà chớ. Ðối với người hiểu Ðạo, thì việc khảo đảo thử thách là việc thường không chi lạ; các vì Giáo Chủ xưa kia cũng không tránh khỏi sự thử thách. Hễ bị khảo nhiều thì công đức càng cao, nên ngày nay Ðức Cao Thượng Phẩm được toàn Ðạo kính mến xưng tụng công đức và được hưởng ân huệ Ðức Chí Tôn rước về Thiêng-Liêng-vị để đem các chơn hồn vào cửa Thiên như lời Thánh giáo của Ðức Chí Tôn ngày 07-03-Kỷ Tỵ (1929) dạy rằng: "Các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt cho Thầy nơi thế nầy về phần đời, còn phần Ðạo nơi cõi Thiêng Liêng cũng phải có đôi đứa con mới đặng cho".

Đức Thượng Phẩm có dạy: "Thể pháp Thiên Đạo là những nơi học hỏi để cung ứng tinh thần trên khuôn viên Chánh pháp. Trong Thể pháp Thiên Đạo chia ra làm ba thời-kỳ:

1- Thứ nhứt là thời-kỳ khai thác.

2- Thứ nhì là thời-kỳ luyện tập.

3- Thứ ba là thời-kỳ thi-hành.

Trong thời-kỳ sau này mới thường gặp những cơ khảo đảo đặng thử-thách tinh-thần".

 

 

KHẢO HẠCH

Thầy dạy: "Cư! Con phải sửa soạn mình hầu chịu một phen khảo hạch nữa, ráng lấy gương ấy mà răn nghe. Hai con TRUNG, CƯ, phải hiệp ý đặng lo Đạo, Thầy dặn một phen nữa, chi chi các con cũng nhớ khi các con ở nơi lòng Thầy."

 

 

KHẢO LUẬN

攷 論
E: The treatise.
F: La traité.

Khảo: Tra xét, thử thách, thi. Luận: suy xét và phê bình. Khảo luận là khảo cứu rồi suy xét và phê bình.

 

 

KHẢO TỘI

攷 罪
E: To punish.
F: Punir.

Đức Lý: "Cười...Cái giá trị của TÂN LUẬT dường đó, mà cả Hội Thánh coi rẻ rúng chẳng kể, làm cho LÃO phải từ ngôi Giáo Tông, đặng lấy Thiên Ðiều khảo tội. Ôi thôi! Biết bao kẻ bị đọa lạc vào Phong đô, vì đó".

 

 

KHẢO THẦY TU

Đối với người tu vẫn có những cuộc khảo đảo, chính là một sự thử thách để kiểm chứng khả năng chịu đựng, nhẫn nhịn, lòng thương yêu xem đến mức độ nào. Sau những cuộc khảo đảo đó là lúc được thăng cấp nếu không bị vấp ngã. Trái lại thì bị hỏng như một thí sinh trượt thi vậy. Điều này chứng tỏ lòng trung thành đạo đức của Đức Hộ-pháp được thăng hoa, nên thường có các Đấng Thiêng liêng đến an ủi. Đấy cũng là lời tiên tri như bài thi sau đây của Linh Sơn Thần Nữ núi Bà Đen vâng lịnh Thất-Nương đến thăm Đức Phạm Hộ Pháp. Như vậy người có sứ mạng chỉ chịu khổ về thân xác mà thôi chứ tinh thần lúc nào cũng ung dung tự toại. Đây là một hình thức mà Ngài đã chấp bút để tiếp xúc với Thiêng liêng:

THI

1-

Hòn đảo nầy đây trước nhốt tù,
Mà nay làm khám khảo Thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì lũ Tây man Nhựt bổn trừ.

2-

Nô xi Lao (1) tiếng đặt buồn cười,
Mi đã rước ai hỡi hỡi ngươi.
Lượng thảm bủa ghềnh tình ột-ạt,
Gió sầu xao đảnh ái tơi bời.
Yêu phu, điểu gọi thương cành tím,
Giọng ngạn, quyên khêu gợi buổi mơi.
Tổ quốc đon đường bao dặm thẳng,
Đưa xa thăm thẳm một phương trời.

NOSY-LAVA một đảo nhỏ ở về phía Tây Bắc của Madagascar, nơi mà Đức Hộ-pháp bị lưu đày ở Hải Đảo.

Trong thời gian đó các Đấng có giáng cho Ngài bài thơ:

THI

Quá hải đòi phen đến viếng nhau,
Ngặt không Cơ Bút để lời giao.
An nhàn đợi thuở triều binh đến,
Chuyển thế gặp hồi phải múa đao.
Cõi Á đã gầy thành chủng quốc,
Phương Âu đã diệt tận Nô Lao.
Lửa hương đất Việt dầu nhen nhúm,
Nhờ đám Trung Quân ở nước Tàu.

Như vậy hình thức Cơ bút là một sự cảm ứng với huyền diệu Thiêng-liêng, cho nên dù bất cứ nơi nao, miễn có tâm thành là tiếp nhận được, nhưng việc này chỉ dành cho bậc Thiên mạng mới không ngại tà quái xung nhập". Điều này cho thấy rằng dù cuộc khảo nào Ngài vẫn thắng!

 

 

KHẢO THÍ

Khảo thí : khảo xét học sinh để chọn nhân tài ra cứu thế.

Thầy dạy: "Thầy chưa hề biết hành phạt các con bao giờ. Từ khai Thiên Thầy đã sanh ra các con, sự yêu mến của một ông Cha nhân từ thế quá lẽ làm cho đến đỗi con cái khinh khi, phản nghịch lại cũng như Kim Quan Sứ là A-Tu-La, Thánh-giáo gọi là Lucifer phản nghịch, náo động Thiên Cung. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật còn phàn nàn trách cứ Thầy thay! Tình trạng của các Đẳng Chơn Linh đã đoạt-vị trong Càn Khôn Vũ Trụ chịu nạn khảo thí do nơi Kim-Quan-Sứ. Kim-Quan Sứ đã đặng Đức Chí Tôn cho làm Giám Khảo kỳ thi Hạ Nguơn Tam-Chuyển qua Thượng Nguơn Tứ-Chuyển này".

 

 

KHẢO THÍ TÀI LỰC

Bài Diễn Văn của Ðức Quyền Giáo Tông đọc tại Tòa Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (1934):

"Cuộc kết quả sự phản kháng ấy hoặc thành, hoặc bại, có ảnh hưởng của tương lai sanh hoạt quyền lực đương nhiên của họ vì cớ mà sự xung đột hằng xem dữ dội. Ấy là phương khảo thí tài lực của trí thức tinh thần, hầu làm cho trí thức tinh thần sanh điều hay, bày điều dở; hay thì chánh dở thì tà; chánh thì còn tà thì dứt. Ấy vậy, dầu cho sự xung đột của quyền Ðạo với quyền Ðời thoảng đã làm cho lao tâm tiêu tứ của những trang chấp chánh Ðạo quyền đi nữa, là phương chước tô điểm vẽ vời cho lịch xinh mặt Ðạo".

 

 

KHẮC CỐT GHI XƯƠNG

Sự ảnh hưởng của việc phối ngẫu nó thắm đượm vào tận xương tủy, nghĩa bóng là hình ảnh khắc ghi vào tâm hồn một cách sâu đậm, khó quên.

Khắc cốt ghi xương là thứ Tình thương yêu giữa vợ chồng hòa hợp nhau như là một vậy. Dù tình cảm gặp gỡ lúc ban đầu mà cả hai nguyện khắc ghi vào cõi lòng mãi mãi. Nhưng về phương diện sinh học cho biết khi nam nữ phối ngẫu với nhau rồi thì xương của người Nữ có điểm đen.

Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị

"Niềm ân ái thân hòa làm một,
"Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương."

 

 

KHÂM CHÂU ĐẠO - KHÂM TRẤN ĐẠO

欽 州 道 - 欽 鎮 道
E: Chief of province of a religion.
F: Chef de province religieuse.

Khâm: Chức sắc vâng lịnh Hội Thánh đi cai quản một Châu Đạo hay một Trấn Đạo. Châu Đạo: một Tỉnh Đạo gồm các tín đồ cư ngụ trong một Tỉnh. Một Châu Đạo có nhiều Tộc Đạo. Trấn Đạo: gồm nhiều Tỉnh Đạo hợp lại.

• Khâm Châu Đạo là vị Chức sắc cai quản một Châu Đạo, phẩm Giáo Hữu, do Hội Thánh bổ nhiệm. Bên nam phái có Khâm Châu Đạo nam phái và bên nữ phái có Nữ Khâm Châu Đạo, phẩm Nữ Giáo Hữu.

• Khâm Trấn Đạo là vị Chức sắc cai quản một Trấn Đạo, phẩm Giáo Sư, được Hội Thánh bổ nhiệm. Bên nam phái có Khâm Trấn Đạo nam phái, và bên Nữ phái có Nữ Khâm Trấn Đạo, phẩm Nữ Giáo Sư.

Khâm Châu Đạo phải chịu dưới quyền trực tiếp của Khâm Trấn Đạo. Nam Nữ đồng quyền nhưng riêng biệt, và chỉ cai quản các tín đồ của phái mình mà thôi.

 

 

KHÂM THÀNH THÁNH ĐỊA

欽 城 聖 地
E: Chief of the city of Holyland.
F: Chef de la ville de Terre Sainte.

Khâm: Chức sắc vâng lịnh Hội Thánh đi cai quản một Châu Đạo hay một Trấn Đạo. Thành: Châu thành, nơi dân cư đông đúc, có phố xá chợ búa, mua bán tấp nập. Thánh Địa: Đất Thánh.

Khâm Thành Thánh Địa là vị Chức sắc phẩm Giáo Sư, được Hội Thánh bổ nhiệm cai quản Châu Thành Thánh Địa.

 

 

KHẨN CẦU


F: Prier, supplier.

Khẩn cầu : Lạy lục van xin.

Kinh Sám Hối có câu

"Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
"Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu."

 

 

KHẨN NGUYỀN


E: To pray earnestly.
F: Prier instamment.

Khẩn: thành thật cầu xin. Nguyền: Nguyện, cầu xin điều mà mình hằng mong ước.

Khẩn nguyền hay Khẩn nguyện, là thành thật cầu xin điều mà mình hằng mong ước.

Giới Tâm Kinh có câu:

"Vọng Thượng-Đế chứng lòng thành-tín,
"Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn-nguyền."

 

 

KHẤT SĨ (Phật Học)

Khất sĩ là Danh từ chỉ các vị Xuất gia học Đạo, lang thang khất thực hằng ngày, dùng chung cho Phật đạo và ngoại đạo. Tại Ấn Ðộ, người ta thường dùng ba danh từ chỉ một người Khất sĩ, đó là (Anāgārika) Vô gia cư, (Bhikṣu) Tỉ-khâu và (Śramaṇa) Sa-môn, Du tăng. Ba từ này đều có thể hiểu là Khất sĩ, được dùng chung cho Phật đạo và ngoại đạo.

(Tham khảo: TỪ ĐIỂN PHẬT HỌC - ĐẠO UYỂN)

 

 

KHẤT THỰC


E: To go to beg food.
F: Mendier la nourriture.

Khất: xin, cầu xin. Thực: ăn, thức ăn, thực phẩm. Khất thực là xin ăn.

Phật giáo ở miền Nam VN có phái Khất Sĩ, do sư Minh Đăng Quang thành lập, gồm các tu sĩ Phật giáo theo chế độ khất thực hằng ngày vì hai phương diện:

Về Tâm, xin pháp của Phật để tu hành. Về Thân, xin vật thực của người đời để nuôi sống xác thân.

Ý nghĩa của việc Khất thực là cốt gợi lên tánh cách vô ngã (không có cái gì là Ta hay của Ta từ vật chất đến tinh thần) để phá trừ Ngã chấp, nguồn gốc đau khổ của con người.

Khất thực là cách nuôi xác thân một cách chân chính do Đức Phật dạy khi xưa, và chính Đức Phật cũng là một Khất sĩ. Sự khất thực phù hợp với lối tu Trung đạo, tránh xa được hai thái quá:

Sung sướng thái quá.

Khổ hạnh thái quá.

Việc khất thực của các tu sĩ Phật giáo có mục đích và lợi ích như sau:

Lợi mình:

Tâm trí rảnh rang, không bận rộn vì sanh kế, mau tiến bộ trên đường tu.

Trừ được cái tâm kiêu căng ngã mạn.

Không thể tham ăn ngon, vì ai cho gì ăn nấy, không thể chọn lựa hay tìm kiếm.

Có nhiều thời giờ để hành đạo.

Lợi người:

Tạo cơ hội cho người bố thí đoạn trừ lòng keo kiệt.

Tạo cơ hội tương giao để giáo hóa người đời.

Nêu gương sống giản dị (ít ham muốn, biết vừa đủ) làm cho người đời bớt tham đắm của cải vật chất.

Nhờ Khất thực, tu sĩ sống khiêm tốn, ít phiền não, tạo cơ hội cho người tại gia có công đức, vì tu sĩ sống thanh tịnh là một phước điền, người nào cúng dường thì được phước báo.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải biết rằng, ăn của nhơn sanh thì phải mắc nợ nhơn sanh, mà mắc nợ thì phải trả. Cho nên, người tu sĩ khất thực cũng phải dành một phần công đức để trả món nợ miệng nầy thì mới có thể giải thoát được.

 

 

KHẤU BÁI


E: To bow down.
F: Saluer bas.

Khấu: Cúi rạp mình xuống. Bái: lạy. Khấu bái là cúi mình lạy xuống.

Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu:

"Đê đầu khấu bái Nương Nương,"

 

 

KHẤU CUNG


E: To bow low.
F: Se courber.

Khấu cung là cúi mình lạy xuống một cách kính cẩn (Khấu là lạy, cúi mình sát xuống đất. Cung là thân mình mọp xuống).

Bài dâng Rượu có câu:

"Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,
"Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh."

 

 

KHẨU NGHIỆP


E: The sins by speeches.
F: Le péchés par les paroles.

Khẩu: Miệng, lời nói. Nghiệp: cái hậu quả của việc làm thiện hay ác trong kiếp trước thể hiện ra trong kiếp hiện tại bằng sự hạnh phúc hau đau khổ. (Xem chữ: Nghiệp)

Khẩu nghiệp là cái nghiệp do lời nói từ miệng mình gây ra, nên Khẩu nghiệp cũng được gọi là Ngữ nghiệp.

Khi nói Khẩu nghiệp là có ý nói: Khẩu ác nghiệp.

Khẩu ác nghiệp có 4 tội: - Vọng ngữ (nói láo), - Ỷ ngữ (nói thêu dệt), - Lưỡng thiệt (đâm thọc), - Ác khẩu (chửi rủa).

 

 

KHẨU PHẬT TÂM XÀ

口 佛
E: The mouth of the Buddha and the heart of snake.
F: La bouche de Bouddha et le cœur de serpent.

Thầy dạy: "Các con cứ trông cậy nơi Thầy. Thầy nỡ nào mà xô đuổi các con, vì các con đứa lại có lòng hiểm, đứa lại khẩu Phật tâm xà, xen vào các con thì lấy tình riêng mà trông mong hãm hại các con, nên Thầy chẳng dùng kẻ ấy, Thầy mới đuổi nó ra khỏi vòng đạo đức". [Năm Bính Dần (1926)]

 

 

KHEN BƯỞI CHÊ BÒNG

Bát Nương Diêu Trì Cung nhắc nhở:

Đừng cậy sắc dọc ngang búng rảy,
Dầu ngu si cũng ngãi vợ chồng.
Đừng nay khen bưởi chê bòng,
Đổi thay mái tóc duyên nồng lại quên.

 

 

KHI BẠC

娸 薄
E: To scorn and ill-treat.
F: Mépriser et maltraiter.

Khi: Coi rẻ, lừa dối, hiếp người. Bạc: mỏng, đối đãi sơ sài. Khi bạc là khinh rẻ và đối xử tệ bạc (coi rẻ rún, khi dễ).

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Con nhìn xuống thấy đồng chủng thấp hèn thì con lại đem lòng khi bạc.

 

 

KHI KỲ TÂM TỨC THỊ KHI THIÊN,
THIÊN BẤT KHẢ KHI HỒ

Đức Hộ-Pháp nói: "Con người biết tôn-sùng Trời thì phải biết kính trọng Thần nhân-tâm, có câu "khi kỳ tâm tất thị khi Thiên, Thiên bất khả khi hồ!". Mọi nhà thờ Thiên-Nhãn sùng bái hằng ngày đặng Xét mình, coi các điều tội lỗi. Thoảng như trong tâm giục khởi làm việc chi bất bình thì sợ có quyền năng của Trời răn phạt, nên thờ Thiên-Nhãn là một phương mầu nhiệm cho mọi người biết tùng thiên-lý. Kỳ Hạ-nguơn này Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy Đạo không có chơn-linh giáng sanh nguyên hình như các vị Giáo-chủ trước nữa. Nếu sự thờ phượng riêng một vị Giáo-chủ như buổi trước thì không đủ thống nhất đặng tín ngưỡng của nhơn-sanh trong hoàn-cầu thế giới. Cho nên thờ Thiiên-Nhãn là cơ-quan hiệp cả chơn-thần của toàn vạn linh và hiệp Tam Bửu: Tinh Khí Thần vi nhứt. Ấy là cơ mầu-nhiệm siêu phàm nhập Thánh".

 

 

KHI LỊNH

娸 令
E: To scorn an order.
F: Mépriser un ordre.

Khi: Coi rẻ, lừa dối, hiếp người. Lịnh: mệnh lệnh của cấp trên truyền xuống. Khi lịnh là coi rẻ lịnh của cấp trên, không chịu thi hành, không tuân hành mệnh lệnh.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Thái Bạch hằng giận các con rằng: Mọi điều chi nó đã hiệp đồng cùng Hộ Pháp mà ban hành thì các con lại còn khi lịnh mà xem rẻ rúng.

 

 

KHI THẦN THỊ THÁNH

Khi Thần thị Thánh: khi dễ Thần Thánh

Kinh Sám Hối có câu:

"Đời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,
"Ám-muội lòng tánh hạnh gỗ-ganh."

 

 

KHI THỊ

欺 視:
E: To scorn.
F: Mépriser.

Khi: Coi rẻ, lừa dối, hiếp người. Thị: xem. Khi thị là xem rẻ, coi thường. khinh dễ.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Khi thị các con tức là khi thị Thầy, mà khi Thầy chưa phải dễ.

 

 

KHÍ

1- Vậy Khí là gì? - Khí là sự sống, viết đủ nét Khí . Bên trái có bộ mễ Mễ là gạo. Tức nhiên người dùng gạo (hay các thứ ngũ cốc) mà nấu lên cho bốc hơi, dùng vật dụng hứng lấy chất hơi ấy, nó sẽ ngưng đọng lại mà thành một thứ rượu. Rượu là do Khí bốc hơi mà thành.Vì vậy Lễ cúng Rượu thì tượng cho KHÍ. Khí là khối sanh quang vạn-vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ KHÍ là sự sống của vạn-vật, do KHÍ là PHÁP biến tướng ra vạn-vật. Thế nên Đấng thứ nhì Chưởng quản cái sanh khí ấy thường gọi là "2è Logos" thuộc Âm cũng là Phật-Mẫu Chưởng quản cả cơ-quan tạo đoan này vậy. Như chúng ta thấy cơ-quan sanh-hóa vạn-vật và loài người là do Âm Dương phối hợp mà biến tướng. Phật chiết tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc Âm là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái Bí-mật ấy là khi Âm Dương phối hợp biến hình, mà Phật-Mẫu dùng gì để tạo nên cơ-quan hữu vi này. Vì bởi Phật-Mẫu dùng khối sanh quang ấy có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí biến ra hữu tướng là: Nước, Lửa, Gió. Rồi nước, lửa, gió vận hành ra vạn-vật, đi từ Hỗn-Nguơn Khí, Hư-vô-khí đến Huyền-ảnh-khí rồi mới biến ra vạn-vật, tức là Huyền-Ảnh-khí biến ra Nhơn hình vậy.

2- Xá chữ KHÍ:

Tại sao khi Cúng xong người Tín hữu phải quay ra ngoài Xá chữ Khí? Khí là gì?

*-Tại sao Đạo Cao-Đài thờ CHỮ KHÍ?

Chữ Khí ở sau ngai Hộ-Pháp (Hiệp-Thiên-Đài Đền Thánh Tòa-Thánh Tây-Ninh). Riêng nơi các Thánh Thất thì chữ KHÍ thờ nơi bàn Hộ-Pháp đều có chung một ý-nghĩa là KHÍ SANH QUANG của Càn khôn vũ-trụ, vạn vật nhờ Khí sanh quang hiện tượng ra mặt thế để bảo tồn cơ sanh hóa hay tấn hóa của toàn thể vạn loại là hữu sanh.

Từ buổi trời đất biến sanh đã có cái khối Nhơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha của nhất điểm linh quang. Làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy? Vì ta xét từ trước: Đức Chí-Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất, do thanh khí ấy mà biến thành vạn-vật. Loài người đến nay nhờ tiến hóa mà khôn ngoan cũng như vạn-vật nhờ tấn hóa mà cũng được toàn năng, toàn tri vậy. Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng không ai hiểu rõ nguyên-căn ấy.

Phật-giáo nói cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi phân tánh gọi là BRAHMA là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là CIVA chủ về Pháp, Đức chí-linh cầm quyền-năng biến chuyển chứ không cầm quyền năng tạo đoan.

PHÁP vận hành mà sanh ra Khí, nên ta thấy mênh mông trước mắt ta là Khí.

….KHÍ mà khoa-học gọi là Nguyên-tử-khí (Atome). Nguyên-tử-khí có năng-lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chứ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đã đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên-tử-chất và dùng được cái nguyên tử-khí ấy là cái khí sanh của vũ-trụ mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí ấy mà Qui nguyên Thánh thể.

Thử hỏi Đức Chí-Tôn cho nhơn-loại đoạt nguyên tử-khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy mà dù cho Đạo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay nguyên-tử khí dùng để giết người thì biết đâu sau này nó sẽ là phương cứu tử huờn sanh cho người và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử. (TĐ I/ 45-46)

Bởi nguyên-tử-khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết người được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái Khí ấy sanh trước hết là Nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn-vật. Vì cớ mà con người đối với vũ-trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy nên mới lấy Càn khôn làm Đại Thiên Địa, còn con người là Tiểu Thiên Địa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn khôn tức là sự sống phải tương liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn lại cầm quyên năng vô đối.

3- Tại sao phải Xá chữ khí?

Người Tín hữu khi làm Lễ Đức Chí-Tôn xong liền quay ra phía sau bàn Hộ-Pháp Xá chữ KHÍ, nghĩa là gì?

Đức Hộ-Pháp giải như sau:

"Cái Xá ấy chẳng phải làm Lễ trọng Chức-sắc Hiệp Thiên-Đài từ lớn đến nhỏ, mà là Xá chữ Khí.

Chữ KHÍ là nguồn cội của pháp đã biến sanh vạn vật. Phật là trước, tới Pháp là thứ, kế Tăng là tiếp theo. Cái Xá ấy là kính Đệ Tam qui. Trong Pháp ấy xuất hiện Phật-Mẫu kế tới Vạn-linh. Vì cớ cho nên Diêu-Trì-Cung và Hiệp-Thiên-Đài có tình mật thiết cùng nhau về mặt căn cội Pháp để vận hành nguơn Khí tạo Vạn linh thì vị Hộ pháp do Di-Đà xuất hiện, rồi kế vị Hộ-Pháp và kế tiếp Long Thần Hộ-Pháp cùng toàn bộ Pháp-giới đương điều khiển Càn Khôn vũ trụ cũng đều do nơi CHỮ KHÍ mà sanh sanh hóa hóa.

Chào CHỮ KHÍ tức là chào cả Tam qui thường bộ pháp giới tức là chào mạng sanh của chúng ta, chớ chẳng phải chào HỘ-PHÁP Thập Nhị Thời quân, Thập nhị Địa chi đã xuất hiện mà đang thi-hành sứ mạng nơi Hiệp Thiên-Đài, mà chào toàn thể Vạn linh đã sanh hóa từ tạo thiên lập địa".

4- KHÍ là nguyên-uỷ của vạn-vật hữu hình.

Khí này đã bao trùm vũ trụ ngay từ lúc còn trong trạng thái đầu tiên chưa động tĩnh: lớn nhất không gì ra ngoài nó gọi là đại nhất. Nhỏ nhất thì không nơi nào, vật nào mà vào được bên trong của nó, gọi là tiểu nhất.

Để mô tả cái Khí bao trùm vũ-trụ là cái khí đầu tiên tức là nguyên-khí, từ đó sinh ra vạn-vật và con người đó là chí đại. Đến như chí tiểu thì trong mỗi vật dù là chỗ nhỏ đến đâu nó cũng chỉ là một dạng khí hoá, khí này gọi là Vô cực. Nó là cái làm cho "vật là vật" "người là người".

Từ đó người xưa đánh giá cấp bậc khí-hoá ở mỗi vật hay ở mỗi người. Khí ở trên trời đến lúc sẽ thanh tịnh, quang minh, dầu rằng cái "Minh đức" vẫn luôn luôn ẩn tàng, nhưng lúc nào cũng "kiện vận bất tức" Nghĩa là đi mãi mà không ngừng nghỉ. Kinh nói: Thời thừa lục Long. Du hành bất tức là do đó.

Ôi! Thiên khí gíáng xuống, địa khí thăng lên, tạo thành quẻ Địa-Thiên Thái, sự vận-hành và dụng sự của nó không bao giờ ngơi nghỉ cho nên không cần đợi đến lúc hạ xuống mới có. Ở đây người xưa muốn nói rằng Thiên-khí phân bố ở khắp nơi, hoá sanh vạn-vật; nhưng cái thể, cái vị của nó vẫn tôn quí cao thượng. Thiên-khí rất quang minh, ban ngày nhờ nhật, ban đêm nhờ nguyệt.

 

 

KHÍ HƯ VÔ

Khí Hư Vô hay Hư Vô chi Khí, là chất khí nguyên thủy. Ðức Lão Tử gọi Khí Hư Vô là Ðạo. Khí Hư Vô sanh ra một Đấng duy nhứt là Ðức Chí Tôn, ngôi của Ngài là Thái Cực. Thái Cực còn được gọi là Ðại Linh quang, Ðại Hồn của vũ trụ. Thái Cực biến hóa sanh ra Lưỡng Nghi: Dương quang và Âm quang. Ðức Chí Tôn chưởng quản Dương quang, Ðức Ngài hóa thân ra làm Phật Mẫu để Chưởng quản Âm quang. Ðức Phật Mẫu cho hai khí Dương quang và Âm quang phối hiệp để tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật. Thế nên, mọi người, mọi vật và các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật đều do Ðức Chí Tôn sanh ra và làm Cha Chưởng quản, gọi Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ. Khí Hư vô là Khí Sanh quang hay Hư vô chi Khí là sự sống của nhân loại và thú cầm. Nếu ngày nào Thầy thâu hết Khí Sanh quang thì nhân loại và thú cầm đều chết hết, nên mới có câu "Thầy là Cha của sự sống, có sống ắt có Thầy".

Thầy dạy: Trước khi tìm hiểu Khí Hư vô nên biết qua:

Tại sao Vô-cực biến Thái-cực? Rồi Thái-cực sanh ra Pháp để cùng Pháp biến tướng ra hằng hà sa-số thiệt là điều mầu-nhiệm tối linh. Phải khá nghiệm suy cho thật chánh lý. Với sức hiểu biết hiện nay dù có tìm-tòi cũng chưa thấu-đáo nỗi. Thầy duy nói Thái-cực biến tướng như thế nào:

Trước hết Thái-cực sanh tâm, tức là ở trạng-thái tĩnh biến sang trạng-thái động do sự vận-chuyển của Khí HƯ-VÔ mà tạo thành Pháp. Hai lý Phật- Pháp mới biến sanh Tăng, đó là điều dễ hiểu, PHẬT – PHÁP - TĂNG đã có mới biến hằng-hà sa-số vô tận vô biên, nhưng tất cả đều ở lý duy nhất là THÁI CỰC. Vì vậy mà Đạo-gia mới nói "Nhất bản tán vạn thù, vạn thù qui nhât bản" là vậy đó. Vạn-vật biến sanh do định-luật đã sẵn có để nương theo đó mà hóa-sanh cũng chẳng lạ gì là lẽ "Thành, Trụ, Hoại, Không" năng hiệp năng tan. Nhưng trong những lần hiệp và tan đó có một điểm tối linh vi chủ trong đó, luôn tăng tiến mãi không bao giờ diệt. Điểm ấy gọi là điểm Linh Quang tương tiếp với Thầy, chẳng khác chi là lằn sóng điện nhỏ đối với Thầy là lằn sóng điện lớn. Nên chi các con vừa sanh một niệm là Thầy đã hay biết trước. Cũng do lẽ ấy mà Thầy đã nói: "Thầy là các con, các con tức là Thầy" nghĩa là Thầy và các con cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đồng một bản thể đầu tiên có nguồn gốc nơi KHÍ HƯ-VÔ

Tại sao lại có khí Hư-vô? Thầy dạy: "Đó là điều tối ư vi-diệu khó lòng giải tỏ bằng lời. Hãy tạm biết từ nguồn gốc Khí Hư-vô đó mà thôi. Sau khi luân luân chuyển chuyển tiến-hóa mới tiến từ đẳng cấp mà có phân ra Phật, Thánh, Tiên. Sự thật là cũng một mà thôi. Trên NGỌC-HƯ cũng có hai lý tương-phản ấy, nhưng lý Thái cực mạnh hơn nên vi chủ. Luật Thiêng liêng định vậy. Mỗi một Chơn-linh tấn hóa cao trọng thì tạo cho mình một Linh-đài, đó chẳng lạ chi là tạo gia nghiệp riêng của mình do các kiếp sanh của mình chất chứa từ thử. Đẳng đẳng Linh-đài nối tiếp nhau tạo thành một gia nghiệp chung. Tất cả các con đều có chung một gia nghiệp duy nhất, trên ấy vi chủ là THẦY, gần Thầy có các chơn linh Cổ Phật cao-trọng. Hệ thống ấy chẳng khác nào như hệ thống ở trần gian. Còn tà ma chúng nó là do ở phần chất trược mà tạo thành, các con không biết mà sợ, cho rằng những ma-quái, chứ thật ra cũng là con cái của Thầy thôi. Tiên Phật là phần tiến-hóa cao trọng, còn tà ma là phần thối trược u-mê nên ở tại Tam-Thiên Thế-Giái, Tứ Đại-Bộ-Châu, Tam Thập Lục Thiên còn có chúng nó thay! Đó cũng là lý tương phản để xây cơ tạo-hóa. Luật thiêng liêng, cán cân Công bình buộc phải vậy. Vì vậy mà Thầy khuyên con phải Thương yêu tất cả không phân thiện-ác là vậy, còn phân thiện-ác là với kẻ hiền-nhơn thấp thỏi kìa, chớ bậc gíác-ngộ không phân chi hết cả. Đó là cái lý nhiệm-mầu của Đại-Đạo, Thầy phân giải cho con hiểu rõ: Thầy nói vạn-vật có tương-liên lẫn nhau nên sự chi ở Thiên-Đình sở-định đều có tương-quan đến cả Càn Khôn. Hễ biết được cái lẽ tương-quan ấy là biết được nguyên-lý của Đạo và do nguyên-lý ấy mà suy ra nguyên nhân vì sao có sinh có diệt của Càn-Khôn vũ trụ, vạn-vật và con người; chừng nào, ngày nào và ở nơi đâu mà vạn hữu bị diệt hay sẽ sinh ra. Lẽ sinh diệt là cơ thường chuyển biến hóa chớ không chi rằng lạ."

Thầy dạy: Thứ năm, 22-7-1926 (âl 13-6-Bính Dần)

"Một Chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới. Nên chi, các con là Thầy, Thầy là các con.

- Như kẻ bên Phật giáo hay tặng Nhiên Ðăng là Chưởng giáo, Nhiên Ðăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Ðế.

- Người gọi Quan Âm là Nữ Phật Tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Ðạo Nhân biến thân. Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần đời nhà Thương.

- Người gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ, Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.

- Người gọi Lão Tử là Tiên Tổ giáo, thì Lão Tử cũng sanh ra đời nhà Châu.

- Người gọi Jésus là Thánh đạo Chưởng giáo, thì Jésus lại sanh nhằm đời nhà Hớn.

Thầy hỏi: Vậy chớ ai sanh ra các Ðấng ấy?

Khí Hư Vô sanh có một Thầy. Còn mấy Ðấng Thầy kể đó ai sanh? Ấy là Ðạo. Các con nên biết. Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn khôn Thế giới nầy, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy."

Đức Ngài giáng Cơ: (Thánh-ngôn II trang 62)

"Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn khôn thế-giới thì Khí Hư-vô sanh có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-cực. Thầy phân Thái cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra TứTtượng, Tứ-Tượng biến Bát-Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn Khôn thế-giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà phân ra vạn vật là: Vật-chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh. Các con đủ hiểu rằng:

Chi chi hữu-sanh cũng do bởi Chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.

Cái sống của cả chúng sanh Thầy phân phát khắp Càn-Khôn thế-giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa.

Mỗi mạng sống đều hữu căn, hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa-sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống đều chịu quả báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy."

 

 

KHÍ PHÁCH


E: The strong mind.
F: Le moral puissant.

Khí: hơi thở, sức mạnh thể chất hay tinh thần. Phách: chỉ cái tinh thần của con người. Khí phách là cái tinh thần mạnh mẽ của con người.

Đức Hộ-Pháp nói: "Lý do thờ các vì Vương nơi Báo Quốc Từ như Vua Hàm Nghi, Vua Thành Thái, Vua Duy Tân và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đều đương tuổi ấu thơ, sống trong nhung lụa, nhứt hô bá ứng, sung sướng vô song. Thế mà hồi 13, 14 tuổi đã có khí phách anh hùng, đã có tinh thần hy sinh, đã nghe theo tiếng gọi Thiêng liêng của đất nước, từ bỏ ngôi báu mà đặt tấm thân non nớt vào con đường gian lao nguy hiểm để mưu đồ khôi phục cứu nước, cứu nòi. Rồi sau khi thất bại cam chịu gian truân suốt đời, không mảy may thay đổi chí khí, thì thật là vô cùng hy hữu. Lịch sử Đông Tây chưa chắc có một nhân vật phi thường nào khác. Vì vậy, tuy sự nghiệp không thành, mà bốn vị Vua Chúa ấy được thần dân vô cùng thán phục, luôn luôn tưởng nhớ. Nên chi Đức Chí Tôn giáng Cơ dạy bảo tôn thờ các Ngài để tiêu biểu cho khí phách anh hùng, tinh thần bất khuất của dân tộc"

 

 

KHÍ SẮC

氣 色
E: Complexion.
F: Complexion.

Khí: hơi thở, sức mạnh thể chất hay tinh thần. Sắc: dung mạo bên ngoài. Khí sắc là cái vẻ bên ngoài biểu thị sức mạnh bên trong (tinh thần và khí khái của người).

 

 

KHÍ SỐ


E: Destiny
F: Destinée.

Khí: vận mạng. Số: số phận, số mạng. Khí số là vận mạng của mỗi người.

Vận mạng nầy được định bởi cái nghiệp của mỗi người.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Con cũng đồng thương, nhưng khí số phải mang lấy về buổi sau nầy.

 

 

KHÍ NỘ

(Xem Nộ khí. vần N)

 

 

KHÍ TỊNH THẦN AN

Khí tịnh Thần an nghĩa là Khí con người trong sạch. (Khí là một trong Tam bửu, đây là Chơn Thần của con người. Thần của con người được yên tĩnh, không xao động, là một trong Tam bửu. Thần là Chơn linh của con người). Cầu xin cho khí của Chơn thần được trong sạch, Thần tức là Chơn linh được yên-ổn không xao động.

Kinh Thuyết Pháp có câu:

"Nguyện cho Khí tịnh Thần an,
"Nguyện xin thính giả hiểu đàng chơn tu."

 

 

KHỈ DẠO DÒM NHÀ

Kinh Sám hối có câu:

"Phải chừa thói loài ong tay áo,
"Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà."

 

 

KHIÊM Quẻ 15. Quẻ Địa Sơn Khiêm

 

 

Quẻ 15. Quẻ Địa Sơn Khiêm

 

 

Tượng: Tam Thánh ký Hoà-ước

Quẻ này là Quẻ Địa Sơn Khiêm. Cấn hạ là nội Cấn.

Khôn thượng là ngoại Khôn. Khôn là Địa, Cấn là Sơn, nên tên quẻ đọc bằng Địa Sơn Khiêm. Biệt số 87

Ý sắp đặt thứ tự quẻ, sau quẻ Đại-hữu tiếp lấy quẻ Khiêm là cớ vì sao?

Hễ vật lý quá đầy thì nghiêng, mà nghiêng thì đổ. Vậy nên, đã Hữu được Đại thời không nên để cho quá đầy, tất phải Khiêm ty mới được. Nên sau quẻ Đại-hữu, tiếp lấy quẻ Khiêm.Về tượng quẻ Cấn vi sơn là giống sùng cao mà chịu lún ở dưới Khôn địa, ấy là nghĩa tượng Khiêm.

Vì cớ gì mà sau quẻ Đại-hữu tiếp lấy quẻ Khiêm?

Quẻ Khiêm trái với Đại-hữu, quẻ này có năm Âm và một Dương cứng chính ngôi nhưng không giữa, có tính mạnh, làm ngưng chỉ những điều mà các hào Âm định thi hành. Âm tượng tiểu-nhân, Dương cứng mạnh nổi lên để ngăn cản và thu phục cả hào Âm về với nó, ngăn điều bậy.

Chữ Khiêm có hai phần: bên trái là ngôn là lời nói, bên phải là Kiêm là gồm. Làm bất cứ việc gì cũng phải có kèm theo một lời nói khiêm tốn, đạo đức.

Việc khó-khăn đến đâu mà lời nói ôn hòa, nhã nhặn, khiêm tốn chắc hẳn sẽ thành công. Nên Khiêm mới được coi như một đức tính cần thiết, gọi là đức Khiêm.

Trong 64 quẻ, chỉ lời chiếm quẻ Khiêm là thật đẹp. Đức Phu-Tử làm lời thoán truyện chỉ lấy lời tán quẻ Khiêm thật nhiều. Ba hào trong (Cấn) đều tốt, ba hào ngoài (Khôn) đều lợi. Lời quẻ là hanh thông và có lợi sau cùng. Bởi có chỗ ích của trời, chỗ lưu loát của đất, chỗ ưa thích của người, chỗ phúc lành của quỉ thần. Tất cả hợp trong thân người có đức Khiêm, đó là quẻ Khiêm đã đến chỗ CHÍ ĐỨC vậy. Việt nam có các đức tính ấy thế nên:

Thiên-thơ đã định cho nước Việt-Nam này có được cán cân công-lý

Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn dạy:

"Phàm Pháp-luật lập thành đều tùng sở dụng, buộc kẻ chung công hiệp trí tác thành một cơ-sở vĩ-đại, Đông Tây tương-thân tương-ái.

Bởi cớ mà pháp-luật vẫn nhiều mặt đặc biệt cùng nhau, tùy theo phương dụng, chẳng thế dùng một mặt pháp-luật nào mà thay thế vào một cơ-sở khác hành-vi cho đặng, cần thì mới lập, còn vô ích thì bỏ.

Vậy các Pháp-Luật của Chí-Tôn đã đào-tạo đều hữu-ích cho cơ-quan hành-động cho Chánh giáo của Người, một cái dấu bỏ ra cũng chẳng đặng. Hễ tùng thì Đạo thành, còn nghịch thì Đạo diệt. Cả thảy Hội-Thánh chưa ai đặng quyền ra khỏi ngoại luật. Chúng ta vâng theo mới đắc thành quyền-hành Hội-Thánh, thảng có một người nghịch thì làm rối loạn chơn-truyền.

Kẻ nghịch cùng Thế-đạo thì trục ngoại xã hội hay là diệt tàn cho khỏi lưu hại, còn kẻ nghịch cùng Đạo-pháp thì tội trục ngoại Thánh-thể Chí Tôn hay là có ngày quyền Thiêng-liêng diệt thác.

Chúng ta từ đây coi kẻ phạm Pháp-luật như thù địch của Đạo, dùng phương trừ khử. Bần-Đạo đã thọ sắc lịnh Ngọc-Hư lo chuyển Pháp, thì không phương tha thứ điều phạm bao giờ. Từ đây Hội-Thánh Ngoại-giáo giữ nghiêm Pháp-luật.

Bần-Đạo xin để lời cầu-khẩn cùng Giáo Tông và Hộ-pháp cũng để lòng lo phương trừ hại, đừng vì Bác-ái, Từ-bi vị nễ" (3-3 Quí-Dậu dl 26-5-1933)

Từ xưa đến giờ chưa thấy LUẬT nào lạ lùng và mới mẻ như luật của Đạo Cao Đài là LUẬT THƯƠNG YÊU.

Đức Chí-Tôn đến Ký Hòa-ước thứ ba với loài người: Là Tam Thánh ký Hoà-ước:

Thầy dạy: "Mấy người làm Thánh-Thể cho Tôi đặng Tôi phụng sự cho Vạn linh thì Tôi sẽ lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật lại cho mấy người. Nếu mấy người chịu thì ký Hòa Ước với Tôi, kế các người làm "tôi" cho con cái của Tôi cho vừa sức của Tôi muốn hay vừa ý của Tôi định, thì Tôi sẽ trả lụng lại là lập ngôi vị cho mấy người, trong Thánh Thể ấy Tôi đã định phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật. Tôi đã lập vị sẵn cho mấy người mà mấy người đoạt được tại mặt thế này, tới chừng về cõi vô hình Tôi không chối cải gì hết.Trái lại còn trả hơn khi Phụng sự cho Vạn linh tại mặt thế này nữa là khác".

Khi Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa-ước thành hình, thì:

*Về phía người: Phải làm Thánh Thể cho Đức Chí Tôn. Phải phụng sự cho Vạn linh (làm đầy tớ cho vạn linh)

*Về phía Trời: Lập ngôi Thần Thánh Tiên Phật cho xứng đáng.

Hai điều khoản trên thực thi là làm nên bộ luật:

- BÁC-ÁI ( Thương yêu)

- CÔNG CHÁNH (Công bình chánh trực)

 

 

KHIÊM CUNG


E: Modest and respectable.
F: Modeste et respectueux.

Khiêm cung là Kính cẩn, nhún nhường.

Chợ Lớn, ngày 23-5-1928 (âl 5-4-Mậu Thìn).

Thanh Tâm Tài Nữ nói: "Đức Chí Tôn còn phải khiêm cung để dìu sanh chúng. Những kẻ nào đem quyền hành mà nâng mình lên cao thì kỳ thật quyền hành ấy phải vô dụng. Trong Đạo, nếu còn quyền hành áp chế thì là Đạo của Tà quái đó; mà những kẻ nào hay làm quyền riêng đó cũng chẳng tránh khỏi mãnh lực của Tà quái xung nhập. Chơn đạo chẳng dụng quyền áp chế bao giờ. Mấy anh cũng đủ rõ."

Ðức Khổng-Tử nói: dầu mình có thông-minh trí huệ hơn người cũng phải coi mình như ngu dốt vậy, dầu mình có công lao đầy-đủ trong thiên-hạ, thì cũng phải kính nhường người, mình có sức mạnh hơn đời, cũng phải coi mình như kẻ mềm yếu vậy, dầu mình giàu có trong bốn biển, thì cũng xem mình như nghèo khổ vậy. Ấy là cái hạnh khiêm-nhượng của Ðức Thánh-Nhân, để roi truyền cho đoàn hậu tấn. Chữ khiêm đối với các phương-diện cần phải thật-hành tất cả. Người bác-học mà biết khiêm nhượng thì kẻ tài sơ mới hết lòng mến phục, còn kẻ tài sơ mà biết khiêm-nhượng, thì người bác-học mới vui dạ dắt dìu. Còn tánh hiu-hiu tự đắc, thì thành ra người không được tiến hóa. Trong gia-đình mà biết khiêm-nhượng thì mới được trên thuận dưới hòa. Trong xã-hội mà nhiều người biết khiêm-nhượng, thì xã-hội mới được thái-bình. Còn người tu-hành đạo-đức mà biết khiêm-nhượng thì mới đặng hoàn-toàn. Trong quyển Phương-Châm Hành Ðạo của Ðức Quyền Giáo-Tông dạy rằng: Quí hóa thay cái hạnh khiêm-nhượng, nguy-hiểm thay cho tánh tự-kiêu.

THI

Khiêm cung nhẫn-nại mới là hay,
Tự-đại tự-tôn chẳng phải tài.
Xem hạnh người xưa gương trước mắt,
Mắt dầu không thấy vẫn còn tai.

 

 

KHIÊM NHƯỢNG


E: Modest.
F: Modeste.

Thầy dạy: "Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!. "Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các con phải khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi, đâu đến nhọc công Thầy. Ấy vậy, các con ráng độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết."

Đức khiêm nhượng của Thầy thể hiện bằng danh xưng "Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma Ha Tát" là gồm cả Tam-giáo gọi là Tam Giáo Qui Nguyên:

- Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo.

- Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo.

- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật Giáo.

Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản Càn Khôn vũ trụ là một mà ba,mà ba cũng như một đầy đủ đức tính khiêm nhường (Với từ khiêm nhượng cũng đồng một nghĩa)

Kinh Sám Hối có câu:

"Thuận cùng chú bác cậu cô,
"Bà con chòm xóm ra vô khiêm-nhường."

 

 

KHIÊM TỪ


E: The modest speech.
F: La parole modeste.

Thầy dạy: "Các con nên bỏ, đừng nhắc mình là chơn linh cao thượng, nên dụng khiêm từ, coi mình như một thân phàm thường bực như ai kia, rồi kẻ trí đứa công, ráng độ lần sanh chúng. Thầy cho các con tự liệu, làm điều chi hợp với Đạo và đời mà thi hành trách nhiệm".

 

 

KHIẾP NHƯỢC


F: lâche.

Khiếp nhược: hèn nhát.

Đức Lý dạy: "Bước đã lắm trờ tới rồi, còn lắm kẻ vô đạo yếu trọng trong trách-nhậm của chư Đạo Hữu, nhưng Bần Đạo chẳng lẽ cạn chê, để vậy cho có cớ chư Đạo Hữu có công trình chút ít. Hộ-Pháp ráng suy xét lời của Bần Đạo, sau có chi chi trắc trở thì có Thượng Phẩm giúp lời, đừng nao núng nghe! Từ đây chớ khiếp nhược nữa, chư Đạo Hữu sanh chỉ để hiến mình cho Đạo. Đạo đã nắm nơi tay, há để cho lũ tà tâm nhiễu loạn sao? Nên liệu lấy với hai đứa đó, rồi sau sẽ có phương khác, chớ lo nhọc đến ai nữa".

 

 

KHIẾT KỶ


E: To purify oneself.
F: Se purifier.

Khiết: trong sạch. Kỷ: mình. Khiết kỷ là giữ mình cho trong sạch.  (giữ lấy mình cho trong sạch).

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền.

 

 

KHIẾU

Khiếu nghĩa đen là cái lỗ. Ý nói cái khả năng thông minh của con người còn tìm ẩn, cái năng khiếu hiểu biết đặc biệt của con người về văn chương, âm nhạc, hội họa, khoa học. Sự chuyên luyện, trau giồi đạo đức sẽ được Thiêng liêng khai khiếu tức là mở năng khiếu.

Con người ai cũng có những năng khiếu đặc biệt thiên phú còn tiềm ẩn, chưa có điều kiện bộc phát ra. Khi được mở khiếu hay gặp cơ duyên, những khả năng tài giỏi mới được bộc lộ ra ngoài.

 

 

KHIẾU HUYỀN QUAN

(Huyền là sự mầu nhiệm, linh diệu; Quan là cửa ải, ải địa đầu, (chứ không phải Quang là ánh sáng, như bản Kinh của Hội Thánh xuất bản năm 1928). Khiếu là một cái lỗ sâu kín làm cửa ải trong thân thể con người, nó ngăn lại, khó mở ra được, làm cho con người mê muội vô minh. Tu luyện là cốt để khai thông cái cửa ải nầy.

Trong Kinh có câu "Phá nhứt khiếu chi huyền quan"

Trong mấy khiếu duy có một cái Khiếu Huyền Quan là Chúa tể. Khiếu Huyền Quan hay Huyền Quan khiếu là vua một nước, Tam quan Tam điền tỷ như Lục Bộ Thượng Thơ, 9 Khiếu kia phía trước phía sau ví như quan văn tướng võ, những cái lỗ nhỏ chơn lông ví như muôn dân. Nếu như chẳng có Khiếu Huyền Quan thì cũng như nước không vua, nhà không chủ, dân chúng phải điêu đứng khổ sở. Thân con người mà không có Khiếu Huyền Quan thì cái thân không chủ, tức nhiên Thần phải mệt, Khí phải bị hại, ắt bị mê muội theo tửu điếm thanh lâu thì làm sao sống lâu cho được, vì Tinh - Khí - Thần hao mòn lần lần. Trong kinh Thượng thừa chơn pháp có viết:

Tam quan Cửu khiếu qui huờn,
Rõ thông đắc bộ là chơn ứng thành.
Phá nhứt khiếu điểm thanh bày lộ,
Ứng vào trong mấy độ đặng âu,
Tri quan chơn pháp diệu mầu,
Tầm sưu chánh lý đạt thâu máy huyền.

Theo Tính mệnh khuê chỉ (dịch giả Nhân Tử Nguyễn văn Thọ) thì khiếu này có rất nhiều tên và chẳng biết nằm tại đâu. Đan kinh thường nói bằng ví dụ làm cho học giả không biết đường vào. Tiền bối chỉ là "Tiên Thiên chủ nhân, vạn tượng chủ tể, Thái cực chi đế, Hỗn độn chi căn, Chí thiện chi địa, ngưng kết chi sở, Hư vô chi cốc, Tạo hóa chi nguyên, bất nhị Pháp môn, Thậm thâm pháp giới, Qui căn khiếu, Phục mệnh quan, Trung hoàng cung, Hi Di phủ, Tổng Trì môn, Cực lạc quốc, Hư không tạng, Tây Nam hương, Mậu Kỷ môn, Chân Nhất xứ, Huỳnh Bà xá, Thủ nhất đàn, Tịnh thổ, Tây phương, Hoàng trung, Chính vị, Giá cá, Thần thất, Chân thổ, Huỳnh Đình, trăm nghìn tên khác nhau, khó mà ghi hết cho được.

Cái khiếu này phải cầu nơi thân: không phải mồm, không phải mũi, không phải tâm, không phải thận, không phải gan, không phải phổi, không phải tỳ-vị, không phải rốn, không phải Vĩ-lư, không phải bàng quang, không phải Cốc đạo, không phải huyệt giữa hai thận, không phải huyệt dưới rốn một tấc ba phân, không phải Minh Đường, nê hoàn, không phải Quan nguyên, Khí hải. Như vậy nó thực nằm ở đâu?

Thuần Dương Lữ-Tổ (Lữ Đồng Tân) nói:

Huyền Tẫn, Huyền Tẫn, chân Huyền Tẫn
Bất tại tâm hề, bất tại Thận.
Cùng thủ sinh thân thụ khí sơ,
Mạc quái Thiên cơ đô bất tận




Giải nghĩa:

Huyền Tẫn, Huyền Tẫn, chân Huyền Tẫn,
Không phải ở Tâm, không phải Thận,
Ở tại chỗ người vừa thụ Khí,
Không sợ Thiên cơ đã tiết lộ.

La Công Viễn (Mộng Cửu tập) nói:

Nhất khiếu Hư vô Thiên địa trung,
Triền miên bí mật bất thông phong,
Hoảng hốt yểu minh vô sắc tượng,
Chân nhân hiện tại bảo châu trung


綿

Dịch nghĩa:

Một khiếu Hư-vô giữa đất trời,
Triền miên bí mật gió không chui,
Khiếu đó sắc trần không có bợn,
Chân nhân coi nó Ngọc châu thôi.

Tư-Mã Tử Vi cho biết khiếu đó cũng gọi là "Huyền Quan khiếu".

Hư vô nhứt khiếu hiệu Huyền quan,
Chính tại thân nhân Thiên địa gian.
Bát vạn tứ thiên phân thượng hạ,
Cửu tam ngũ lục liệt tuần hoàn.
Đại bao pháp giới hồn vô tích,
Tế nhập trần ai bất kiến nhan,
Giá cá danh vi Tổ khiếu huyệt
Thử châu nhứt lạp chính trung huyền.

一竅






Dịch nghĩa:

Hư vô một khiếu gọi Huyền quan,
Giữa lòng trời đất với nhơn gian,
Tám vạn bốn ngàn phân thượng hạ,
Chín, ba, năm, sáu liệt tuần hoàn,
Lớn trùm pháp giới không lưu vết,
Nhỏ nhập trần ai chẳng thấy nhan.
Cái đó gọi là chân Tổ khiếu,
Trường sinh, linh bảo vốn hàm tàng.

Người tu luyện phải đem hết Chơn tâm Thực ý (Lòng ngay ý thiệt) mà luyện cho đến lúc hư cực. Ðược như vậy cũng như cái cây trăm thước mà mình đã leo đến mức chót, nhưng phải rán lên cao hơn nữa thì Huyền Quan Nhứt Khiếu mới tự nhiên xuất hiện. Huyền Quan màu như sương tuyết. Luyện Huyền Quan hóa ra Kim Ðơn, hơi nó đỏ như màu châu sa, hơi nó sáng chói như màu thủy ngân. Nó không chân mà đi được, không hình mà động được, hễ tụ thì có, tán thì không còn, nên Huyền Quan Kim Ðơn hiện ra hay ẩn ẩn, thiệt là mầu nhiệm, không thể tả hết được. Cho nên có câu: "Thiên đắc nhứt dĩ thanh, Ðịa đắc nhứt dĩ ninh, Nhơn đắc nhứt dĩ Thánh" (Trời được một thì trong, Ðất được một thì yên, Người được một thì thành Thánh). Ðược một đó là được một Khiếu Huyền Quan, được món Kim Ðơn.

Kinh Kim Cang: "Nhứt hiệp tướng bất khả thuyết". Nghĩa là: Âm Dương hiệp lại thành Kim đơn, khó tả khó nói cho rõ được. Sách Ðại Học: "Chí thiện chi Ðịa" nghĩa là: Chỗ đất tốt hơn hết, không chi bì kịp. Kinh Dịch nói: "Huỳnh trung thông lý" nghĩa là: Giữa Huỳnh Ðình thì thông lẽ nhiệm mầu. Ðó là những tên đặt ra cho nhiều, kể chẳng hết, chớ chung cuộc cũng chỉ cái Huyền Quan Nhứt Khiếu ấy mà thôi."

Ngài Bảo Pháp Nguyễn trung Hậu, trong sách THIÊN ÐẠO của Ngài, có giải về Huyền Quan Khiếu, trang 125-126: "Người tu hành, chừng nào luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần huờn Hư, luyện Hư huờn Vô, thì Huyền Quan Nhứt Khiếu ấy mở hoát ra.

Huyền Quan Nhứt Khiếu ấy là chi? Là Thiên Nhãn vậy. Nó ở ngay Nê Hoàn Cung, gom trọn Chơn Dương chánh đạo. Khi Tâm người đi đến chỗ Hư không rồi, thì Huyền Quan Nhứt Khiếu được mở hoát ra, tức là Thiên Nhãn đó, ấy là ngôi Thái Cực. Chừng ấy, sự hiểu biết không lo nghĩ mà biết, không học tập mà hay. Cái biết đó vốn có sẵn từ mấy kiếp trước, nay nhờ tu tỉnh mà được xuất hiện ở kiếp nầy, nhà Tôn giáo gọi là Phát Huệ."

 

 

KHINH KHI

Kinh Sám Hối có câu:

"Tánh ngoan-ngạnh không vì cô bác,
"Thói lăng-loàn bạn tác khinh-khi."

 

 

KHINH KHI VI LỊNH

"Phải giữ lễ nghĩa khiêm cung đối với Chức Sắc Hội Thánh cho vẹn toàn bổn phận làm em, dầu người có kém trí đi nữa, đàn em cũng chẳng nên khinh khi, vi lịnh. Khinh khi vi lịnh người tức là buộc vào mình cái tội bất tuân Luật Pháp".

 

 

KHINH KHINH


E: Very light.
F: Très léger.

Khinh khinh là Nhẹ nhàng. Sự nhẹ nhàng ấy có thể tưởng tượng tốc độ mau như điển chiếu và cũng nhẹ thành bóng mây: Nhẹ nhàng như đám mây bay.

Kinh Khi Đã Chết Rồi có câu:

"Năng lai năng khứ khinh khinh,
"Mau như điển chiếu nhẹ thành bóng mây."

 

 

KHINH NGẠO


E : To scorn.
F: Mépriser.

Khinh: Nhẹ nhàng, coi rẻ, khinh thường. Ngạo: hỗn xược. Khinh ngạo là khi dể hỗn xược.

Giới Tâm Kinh có câu rằng:

"Chớ tự phụ, cũng đừng khinh ngạo,
"Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.
"Lời khuyên già trẻ gái trai,
"Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành."

 

 

KHOA HỌC

科學:

Học thuật có hệ-thống gọi là khoa học.

Thầy dạy: "Các con có biết chăng hiện nay vì thế gian rất hung-bạo nên thời-kỳ tận diệt đã hầu kề. Nhân loại tàn-sát lẫn nhau, bởi không biết dùng khoa-học vào việc phải, nên nó biến thành chia rẻ nhau và chiến-tranh. Thánh-Đạo của Chúa Cứu Thế (vì sự hiểu lầm) làm tăng gia dục vọng của kẻ mạnh đối người yếu và giúp giáo cho bọn trên hiếp người dưới. Phải có một giáo-lý mới-mẻ đủ khả năng kềm chế nhân-loại trong sự thương-xót chúng sanh. (TNI/131)

Ngài Bảo-Thế có lời rằng: "Văn minh vật chất càng ngày càng tiến triển như hiện giờ, khoa học gần như muốn chiếm đoạt cơ mầu nhiệm của Tạo đoan, thì trái lại, tinh thần Đạo Đức của nhơn sanh ngày càng lu mờ. Mặc dầu, các Tôn giáo kia đã tận lực giáo nhơn qui thiện".

 

 

KHOA HỌC PHỤNG SỰ TÔN GIÁO

Ngài Hồ Bảo Đạo thuyết về Duy Tâm, Duy Vật có nói: "Khoa học duy vật chỉ thấy có một mặt của vạn vật và chú trọng vào sự nghiên cứu những cái nhơn quả nhãn tiền mà không chịu suy tầm chu đáo cái nguyên căn của nhơn quả để cho vấn đề vũ trụ và nhân sinh vẫn ở trong vòng bí mật mà không giải quyết. Thay vì để ý đến những điều giễu cợt vô vị như là chẳng hề thấy linh hồn hay là chẳng hề thấy Đức Chúa Trời ống thí nghiệm. Đáng lẽ khoa học nên gạt bỏ những lập luận vô căn cứ đó để chú ý đến bao nhiêu việc lạ lùng như việc thay hồn đổi xác, việc chụp hình được cái phách con người, việc Cơ Bút chẳng hạn mà bàn đến việc nghiên cứu vấn đề Thiêng liêng của sự sống theo những điều kiện tất yếu đã sẵn có… Như vậy mới đúng với câu Đức Chí Tôn Cao Đài đã nói: "Ngày kia khoa học sẽ phụng sự cho Tôn giáo". Và ngày ấy duy vật và duy tâm sẽ cùng đi theo chung một lý".

 

 

KHOA MÔN


E: Examination.
F: Examen.

Khoa: Môn học, kỳ thi tuyển chọn nhơn tài. Môn: cái cửa. Khoa môn là trường thi để tuyển chọn người tài đức.

Phật Mẫu Chơn Kinh có câu:

"Tam-kỳ khai-hiệp Thiên-thi,
"Khoa-môn Tiên-vị ngộ kỳ Phật duyên."

 

 

KHOA MỤC

科 目
E: List of laureates.
F: List de lauréats.

Đức Hộ-Pháp nói: "Đức Chí-Tôn mở Tam-Kỳ Phổ Độ này gọi là mở Cơ-quan tận độ chúng sanh tức nhiên là lập một khoa thi sang Tam chuyển tái phục Thiêng-liêng vị nơi cảnh vô hình, mỗi chuyển tức nhiên mỗi khoa mục của các Đẳng chơn hồn cần phải thi đoạt vị: thăng hay đoạ. Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn gọi là trường thi công quả là vậy. Đức Chí-Tôn cho Hộ-Pháp và Thập Nhị Thời Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí pháp ấy đặng cho vạn linh đoạt vị. Cả thảy đều hiểu rằng Đức Chí-Tôn buổi mới sơ khai, chưa tạo thiên lập địa, Ngài muốn cho vạn linh đặng hiệp cùng Nhứt linh của Ngài do quyền năng sở hữu của quyền hạn Thần linh".

Đứng về chuyên môn cũng có khoa mục: "Bộ Nhạc chuyên chú về tài năng nghệ thuật thì từ hạ phẩm đến thượng phẩm, mỗi cấp đều có khoa mục đặng tuyển chọn danh nhơn để điều khiển nội Ban. Trong mỗi kỳ khoa mục, vị nào đủ tài ứng thí thì được phép xin thi và mỗi khi thi đậu là mỗi lần được thăng phẩm, nhưng không được xin ứng thí vượt bậc".

 

 

KHOA MỤC NHẠC SĨ

Chiếu theo kỷ-luật Hội-Thánh ấn-định, những người có học nghệ-thuật Âm-nhạc; các Tỉnh cũng như Tòa-Thánh phải dự-thí khoa-mục Nhạc-sĩ do Ban Giám Khảo tuyển-chọn.

LỜI-PHÊ của ĐỨC HỘ-PHÁP: "Hễ không thì dầu nơi Tòa-Thánh cũng không kể vào Bộ-Nhạc." [ HỘ-PHÁP (Ấn-Ký)]

 

 

KHOÁI LẠC

Khoái lạc 快樂 là vui vẻ trong lòng một cách tự nhiên.

Thánh ngôn: "Phần đông bực thông minh, lại đem trí khôn làm món binh khí hại người; kẻ tước trọng lại dùng thế quyền mà đè ép dân đen ra bạc trắng. Quanh năm chỉ lo xác thân hưởng điều khoái lạc, vợ ấm con no, được ngày nào vui ngày ấy; cho kiếp chết là kiếp mất; gọi Thiên-đường, Ðịa ngục là câu chuyện hoang-đàng. Bậu bạn lỗi câu tín-nghĩa, vợ chồng quên đạo tào-khương; mảng vụ chữ kim thời mà phong dời tục đổi."

Kinh Đệ Tam Cửu có câu:

"Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn,
"Chơn thần khoái lạc lên đàng vọng Thiên."

 

 

KHOAN DUNG


F: généreux.

Khoan dung : rộng lòng bao-dung.

Đây là điều hai trong 10 điều khuyến tu của Đức Chí-Tôn:

Ðiều thứ hai: Thầy trông đệ tử,
Tình bạn bè phải giữ thủy chung;
Luôn luôn tha thứ khoan dung,
Nói năng nhỏ nhẹ chớ dùng lời thô.
Dìu dắt nhau điểm tô công quả,
Phải thật hành với cả chung quanh;
Thiệt thòi cam chịu đã đành,
Vô vi phẩm vị Thầy dành cho con.

 

 

KHOAN HỒNG

Khoan hồng là Rộng rãi mà tha thứ hết lỗi lầm cho người khác.

Lòng Sớ dâng lên vào lễ Vía Đức Thích Ca Mâu-Ni:

"Ngưỡng nguyện: Đức Thích-Ca Mâu-Ni từ bi bác ái, quảng đại khoan hồng, bố hóa chư Đệ tử minh tâm kiến tánh"

: , , "

 

 

KHOÁNG ĐẠT


E: : Generous.
F: Généreux.

Khoáng: rộng rãi, mênh mông. Đạt: tới, thông suốt.

• Khoáng đạt là lòng dạ rộng rãi.

• Khoáng đạt là nơi rộng rãi thông thoáng.

 

 

KHOE KHOANG

Đức Hộ-Pháp nói trong bài Diễn văn ngày 15-07-Nhâm Thân (dl: 16-08-1932) rằng: "Muốn khoe khoang mình thì phải chê bai người, có chê bai người mới có thể khoe khoang mình, khoe khoang mình đặng mưu đoạt công danh quyền lợi là thường tình thế sự. Hễ mình dưỡng nhơn chi ác thì tự nhiên mình muốn khoe mình, đôi khi lại khỏa lấp chỗ phải của người đi nữa".

 

 

KHỔ (Phật Học)

Chính nghĩa của Khổ là đắng. Vị đắng phải chịu đựng ngoài ý muốn nên gọi là khổ. Phân tích chữ khổ gồm âm cổ là xưa và bộ thảo là loài rau quả, cỏ cây. Ví như khổ qua là mướp đắng.

Khổ (S: duḥkha; P: dukkha) Khái niệm quan trọng của Phật giáo, là cơ sở của Tứ diệu đế. Khổ là một trong Ba tính của sự vật. Không phải chỉ là những cảm thụ khó chịu mới là Khổ; Khổ dùng để chỉ tất cả mọi hiện tượng vật chất và tâm thức, xuất phát từ Ngũ uẩn, chịu dưới qui luật của sự thay đổi và biến hoại. Như thế tất cả những điều an lạc đang có cũng là khổ vì chúng sẽ hoại diệt. Khổ xuất phát từ Ái (s: tṛṣṇā) và con đường thoát khổ là Bát chính đạo. Chân lý thứ nhất của Tứ diệu đế nói về tính chất của khổ như sau: "Sinh là khổ; già là khổ; bệnh là khổ; chết là khổ; lo lắng, than thở, buồn rầu, tuyệt vọng là khổ; không đạt gì mình ưa thích là khổ; nói tóm lại: mọi thứ dính líu đến Ngũ uẩn là khổ". (Tham khảo: TỪ ĐIỂN PHẬT HỌC - ĐẠO UYỂN)

"Đức Jésus de Nazareth hằng dạy rằng: "Cái khổ của thế gian là sự nghiệp của con người, phải Thọ khổ mới rõ cơ thoát tục"

Với Đạo Cao-Đài: Đức Hộ-Pháp nói về Cảnh thiêng liêng Hằng Sống: "Chúng ta dòm phía dưới thấy Đại-Hải mênh mông, nước cuồn-cuộn xanh như biếc, sóng dợn ba đào, mỗi làn sóng có đề chữ "Khổ". Chúng ta chia ra đi trên ấy, chúng ta thấy dợn hào-quang nổi lên dữ tợn lắm; mấy chữ lớn là: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, làn sóng dợn lên rồi hạ xuống, mỗi làn đều có một chữ "Khổ", chúng ta thấy đau khổ trong buổi sanh, thấy làn sóng rồi chúng ta thấy khổ nhục, khổ dữ lắm, mỗi làn sóng đều thấy khổ, thử nghĩ Đại Hải như thế nào thì khổ hải là cả nước của chúng ta như thế ấy."

Pháp Chánh Truyền: "Cái chương trình ấy là những cơ chỉ sanh ra bởi các tư tưởng của cả Tôn Giáo đã lập thành nên Ðạo. Chữ Ðạo là đường đặt ra bởi đó, đặng dìu dắt nhơn sanh khỏi bước đời gay trở; cốt yếu là lập mục đích, định chuẩn thằng cho kẻ trước hiệp người sau, kẻ kim hòa người cổ, tóm cả trí lự của nhơn loại, đặng làm ngọn huệ quang soi rọi khắp nhơn gian, mượn cả sự tội tình sầu thảm của thế, mà tạo Bát-Nhã-Thuyền đặng vớt người nơi khổ hải:

- Phật, vì thương đời, mà tìm cơ giải khổ.
- Tiên, vì thương đời, mà bày cơ thoát khổ.
- Thánh, vì thương đời, mà dạy cơ thọ khổ.
- Thần, vì thương đời, mà lập cơ thắng khổ.
- Hiền, vì thương đời, mà đạt cơ tùng khổ.

Chữ Khổ là đề mục của khoa học trường đời, phẩm vị Hiền, Thần, Thánh, Tiên, Phật, là ngôi vị của trang đắc cử.

 

 

KHỔ ÁCH

Đức Hộ-Pháp nhắc lời của Chí-Tôn nói rằng:

-"Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi đó hết khổ và Chí Tôn cho biết rằng cái khổ ách của nhơn loại là cùng khắp thế gian, nên Thánh-ý Thầy muốn giao cơ cứu khổ cho con phải làm thế nào nêu ngọn cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn sanh cùng khắp mặt địa cầu nầy".

 

 

KHỔ CỰC

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn trả lời câu hỏi của Đức Hộ Pháp về Thầy khai địa cầu Thần thông thế nào? CƠ của Đức Nguyệt Tâm đáp:

Chịu cho đủ các điều khổ cực,
Lần nấc thang theo bực Thiêng liêng.
Thánh Thần Tiên Phật đều kiêng,
Nắm cơ Tạo Hóa thâu quyền Hư linh.

 

 

KHỔ HẢI


E: Ocean of pains.
F: Océan de douleurs.

(Khổ: đắng, chỉ sự đau khổ. Hải: biển) là biển khổ. Cuộc đời hữu hình này quá nhiều truân chuyên, gian khổ có thể ví như khổ hải vậy. Khổ hải là biển khổ, ấy là chỉ cõi trần ta đang sống đây trong Địa cầu thứ 68. Sở dĩ dùng "Biển khổ" là vì Đức Phật Thích Ca hiểu nỗi khổ của chúng sanh rất nhiều nên nói "nước mắt của chúng sanh nếu góp lại còn nhiều hơn bốn biển".

Đạo Phật ví sự đau khổ của con người trong cõi trần gian nầy dẫy đầy như những dòng nước biển mênh mông, bát ngát, không bờ không bến, như bài Kệ viết:

Ái hà thiên xích lãng

 

Khổ hải vạn trùng ba

 

Dục thoát luân hồi khổ

 

Tảo cấp niệm Di Đà

 

Nghĩa là tình ái như dòng sông ngàn thước sóng, sự khổ đau ở thế gian như muôn lượn sóng dồn dập ở biển khơi đã nhận chìm biết bao sanh linh từ muôn đời ngàn kiếp. Muốn thoát khỏi khổ luân hồi, thì mau sớm niệm danh Di Đà Phật.

Đức Hộ-Pháp nói:"Chúng ta ở giữa trường đời nầy, chịu thống khổ tâm hồn mọi nỗi, nhà Phật gọi cảnh trần nầy là khổ hải. Chúng ta ngó thấy hiện tượng trước mắt nhiều lẽ bất công, kiếp sống chúng ta sanh ra trong xã hội nhơn quần nầy, ta thấy cái tương quan nó làm cho chúng ta nhiều nỗi khổ não, buồn thảm hơn là ngày vui của hạnh phúc".

Đức Ngài thuyết về Cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống: "Kỳ rồi Bần-Đạo rủ cả thảy các Bạn đi Cung Diêu Trì, chúng ta lại còn rủ nhau ra trước Cung Diêu-Trì dòm trở lộn lại xem cảnh tục của chúng ta vừa thoát qua coi thế nào? - Bần-Đạo chỉ nói nơi xa-xăm của chúng ta đi qua, chúng ta thấy hình trạng Bát-Quái-Đài, dưới chân có Thất Đầu-Xà và dưới mình của Thất-Đầu-Xà là khổ hải tức là cảnh trần của chúng ta vậy. Bên kia có liên-tiếp mật thiết vô một nẻo sông Ngân-Hà, rồi Bần-Đạo chỉ cho hiểu rằng, từ khổ hải ấy về cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống phải đi ngang qua Ngân-Hà, có một chiếc thuyền Bát-Nhã của Đức Quan-Âm Bồ-Tát vâng lịnh Đức Di-Lạc Vương Phật chèo qua lại sông Ngân-Hà và khổ hải đặng độ sanh thiên hạ.".

Phật-Mẫu Chơn Kinh có câu:

"Trung khổ-hải độ thuyền Bát-Nhã,
"Phước từ-bi giải quả trừ căn."

 

 

KHỔ HẠNH


E: Ascetic.
F: Ascétique.

Khổ hạnh là đức hạnh của người tu phải biết sống khổ: giản dị nhưng thanh cao, không se-sua mà đạo đức, khiêm nhượng mà không cúi lòn..những điều này Thầy đã dạy phải quần bô áo vải, "chay lạt để ngừa loài khí độc"..

Lời Thầy khuyên: "Thầy nói cho các con hiểu rằng: Muốn xứng đáng làm Môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành bấy nhiêu. Như đáng làm Môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời. Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi!

Thầy dạy Bà Hiếu về gương khổ hạnh: Tòa Thánh, Le 28 Juin 1928 (Âl: 11-5-Mậu Thìn):

Hiếu! Con nghe Thầy nói chuyện làm đường cát trắng con. Thầy đố con biết làm sao cho đường đen ra trắng... Cười... Nghe con, nè làm theo nghe: Ðổ đường đen vào một cái hủ thọc lủng đít, rồi định chừng cho vừa hai phần hủ đường, còn một phần hủ thì đổ bùn non cho tới miệng, đem phơi nắng chừng một tuần thì là đường trở nên trắng; gạt lớp bùn đi thì con đặng một thứ đường trắng phau phau rất ngon rất đẹp đó con.

Cái khổ hạnh của con giống như đường đó con à. Con có biết Thầy khóc như con vậy chăng con? Nếu con không vậy làm sao đáng con cái của Thầy. Con chỉ nhớ rằng Thầy thương con là đủ. Ðặng thế gian yêu mến ắt Thầy phải ghét, mà Thầy ghét con thì còn chi con, con khá nhớ!"

Thi văn dạy Đạo có câu:

Ngừa thuyền Thầy đợi kẻ sang chơn,
Khổ hạnh khuyên con chớ dạ hờn.
Sắm nghiệp trần gian còn phải khó,
Lựa là nghi trưởng tại Bồng Sơn.

 

 

KHỔ HIỀN TRANG (PHÚ MỸ) (Địa Danh)

Đức Hộ-Pháp nói: "Lập trường Qui-thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một đặng bảo thủ Chơn Truyền của Đạo. Buổi đầu tiên nó sản xuất tại nơi Mỹ-Tho, Qua lập "Khổ Hiền Trang" mấy em biết hai chữ Khổ Hiền ý định Qua thế nào không? Trong bảy mươi hai anh em chung sức cùng nhau mà làm đầu trường Qui Thiện ấy là Đinh Công Trứ vẫn là một trong đó vậy. Nhờ cả sự giáo hóa của Qua cái nghĩa lý tối yếu, tối trọng của Chơn Pháp Đức Chí Tôn Qua giao lại cho nó, để làm thế nào cho thiên hạ hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất. Sự biết Đạo của Đinh-Công-Trứ là vậy."

Lập Thảo Đường: Đức Hộ Pháp và Gíao Hữu Thượng Minh Thanh đi xe đò xuống làng Phú Mỹ, quận Châu Thành (Mỹ Tho) để lập Thảo Đường, tức là cái am, cái động để tu niệm. Thảo Đường cất trên thửa ruộng thuộc Đồng-Tháp-Mười trên rạch Láng Cát. Ngài ở Phú Mỹ một tháng để thăm người vào Phạm Môn và dạy Đạo cho họ. Có ngày nọ, Đức Lý Giáo Tông không giáng cơ mà khiến Đức Hộ Pháp đọc miệng bài thơ như vầy(xem lại)?

Thảo Đường phước địa ngộ Tòng Hoa,
Lục ức dư niên vũ trụ hòa.
Cộng hưởng phàm gian, an lạc trị,
Thể đăng Bồng đảo vịnh âu ca.

Mở ếm của Tàu để tìm Long Tuyền Kiếm:

Đức Ngài được lệnh Thiêng Liêng mở ếm của Tàu để tìm Long-Tuyền-Kiếm (theo sự hướng dẫn của Bát Nương Diêu Trì Cung và Sư Lỗ Ban giáng mách bảo). Hai ông Giáo Hữu Minh và Lê Văn Trung (sau làm Chưởng Qủan Phước Thiện) đào được 12 con cờ tướng bằng sừng, 1 hình nhân bằng chì lá, 1 con dao cùn. Vụ ếm nầy do thầy Địa Lý Tàu làm để Việt-Nam không sản xuất nhơn tài được. Ngoài việc cất Thảo Đường, mở ếm, Ngài còn cân Thần lập thệ cho các tu sĩ để chọn vào Phạm Môn.

- Nhắc lại ngày 12-05-Canh Ngũ (1930) tại Thủ Đức Ngài lập hồng thệ cho 23 người đó là lần thứ nhứt.

- Ngày 28-09-Tân Mùi (1931) Ngài cân Thần cho 344 vị.

- Ngày 03-02-Nhâm Thân (1932) Ngài lập hồng thệ cho 72 người tại Khổ Hiền Trang, đó là hồng thệ kỳ nhì.

- Ngày 18-08-Ất Hợi (1935) Ngài lập hồng thệ cho 77 người tại Trường Hòa đó là hồng thệ kỳ ba.(Ngài lập hồng thệ cho 52 nam và 25 nữ, trong số nầy có:

Ngài Khai Pháp:

 

Trần Duy Nghĩa

Ông Tiếp Lễ Nhạc Quân:

 

Trần Quang Thế

Ông Phối Sư:

 

Thượng Trí Thanh

Ông Giáo Hữu:

 

Thái Gấm Thanh

Ông Tả Phan Quân:

Trang văn Giáo

Đây là hồng thệ lần thứ tư.

(Xem lập Hồng thệ và Cân Thần. Vần L.)

....Ông Tấn nói Đức Hộ Pháp có tiên tri rằng: "Đất Khổ Hiền Trang là cái mũi thuyền Bát Nhã, còn cái lái là Tòa Thánh, đất nầy phải xuất Thánh mới được."

Ông Phối Sư Thái Ca Thanh lập phái Chơn Minh Lý ở Mỹ-Tho chống lại Tòa Thánh Trung Ương. Khi Thánh Thất Khổ Hiền Trang tạo xong, Đức Hộ Pháp tính làm lễ Khánh Thành long trọng nhưng chánh phủ Pháp tín-nhiệm ông Đốc Phủ Ca, hỏi ý kiến nên cho phép hay không? Thì ông Ca đề nghị bát đơn. Ông trách Đức Hộ Pháp lập Thánh Thất nơi làng vắng ai mà theo và tại sao xuống Mỹ-Tho mà không ra mắt ông. Trong lúc băn khoăn Đức Ngài thấy Đức Thái Thượng đến mà không cỡi Thanh Ngưu. Ngài hỏi lý do thì Đức Thái Thượng nói: "Ta đến dẫn Thanh Ngưu về, để nó phá Hiền-hữu không thi hành Thiên mạng được". Đức Hộ-Pháp hiểu ý, năn nỉ Ngài cứ để y như vậy, Thanh Ngưu không hại Ngài đặng đâu. (Vì lòng bác ái, Ngài không muốn để ông Ca tuyệt mạng, thà Ngài chịu khổ). Đức Hộ Pháp nói trên Thiêng Liêng có Đông Khổ Hiền là nơi Đức Thái Thượng ngự. Nên nơi Khổ Hiền Trang Ngài hằng viếng thăm. Mấy em hãy giữ gìn Khổ Hiền Trang cho sạch sẽ, thanh khiết để khỏi lỗi cùng Đức Thái Thượng.

Đức Lý còn cho tại Khổ Hiền Trang bài thơ như vầy:

GIÁO truyền Đại Đạo khắp Đông Tây,
TÔNG chỉ Tây Ninh với cảnh nầy.
THÁI cực ôm gồm trong Pháp Chánh,
BẠCH minh điều luật sửa tà tây.

Tà tây Nghị định Đạo ban hành,
Chớ cải Thiên Điều sửa quẩn quanh.
Luật lịnh Ngọc Hư đâu để sót,
Phàm nầy sửa thử, sửa sao ranh.?

Tòa Thánh lần lần yên tịnh Đức Quyền Giáo Tông xuống Khổ Hiền Trang rước Đức Hộ Pháp về Tòa Thánh. Tùy tùng Đức Quyền Giáo Tông có ông Giáo Hữu Thượng Latapie-Thanh là người Pháp. Cuộc tiếp rước Đức Quyền Giáo Tông và tiễn đưa Đức Hộ Pháp thật là long trọng, nhờ ông Latapie quen với Tỉnh Trưởng Pháp nên ông Ca không phá được. Mọi sự đều êm đẹp, có lẽ nhờ Ơn Trên giúp sức nên Khổ Hiền Trang tạo được lắm nhân tài, lắm Chức Sắc rường cột của Phước Thiện sau nầy, tức là nơi xuất Thánh nhiều nhất ở Miền Nam.

LẬP HỒNG THỆ & CÂN THẦN

Xin nói rõ cách lập hồng thệ là dùng rượu đỏ (vin rouge) đổ vào một ly lớn, mỗi người nhúng ngón tay giữa của bàn tay mặt vào rượu mà nói rằng: "Đây là huyết thệ của tôi" rồi uống mỗi người 1 hớp. Cha mẹ, vợ con của người chánh danh cũng phải uống mỗi người 1 hớp. Người chánh danh Phạm Môn được hồng thệ quì trước Thiên Bàn nguyện như vầy:

"Tôi là….tuổi, "Thề rằng, từ nay tôi coi anh em Phạm Môn như ruột thịt, sanh tử bất ly, thoản có điều chi hoạn nạn thì tôi liều mình với anh em tôi. Nếu ngày sau tôi thất nguyện, quyền Thiêng Liêng hành Pháp tận đọa tam đồ bất năng thoát tục và Thầy tôi không nhìn đến tôi nữa".

Đức Hộ Pháp nói: Đáng lẽ mỗi người phải cắt tay mình lấy máu đựng chung, rồi mỗi người uống 1 hớp, nhưng mấy em làm người Đạo, mỗi người đều giữ trường trai, không thể làm như vậy được, nên phải dùng rượu chát đỏ để thay thế.

CÂN THẦN

Đức Hộ Pháp nói : Cân Thần có 12 điều kiện:

1- Là Hạnh

 

2- Là Đức

 

3- Là Trí

 

4- Là Lực

5- Là Tinh

 

6- Là Thần

 

7- Là Thân

 

8- Là Tình

9- Là Mạng

 

10- Là Căn

 

11- Là Kiếp

 

12- Là Số

Ngài chỉ xài 4 điều-kiện đầu là: Hạnh, Đức, Trí, Lực. Cũng như Hạnh được 5 điểm, Đức được 4 điểm, Trí được 6 điểm, Lực được 7 điểm; cộng 6 + 4 + 6 + 7 = 22 điểm chia lại cho 4 thì được 5,5 điểm. Người đủ trung bình là 5 điểm thì được đậu. Ai dưới trung bình thì lập công đức thêm, sẽ thâu nhận sau. Trước khi Lập Hồng thệ phải được Cân Thần trước, nếu đậu mới được thọ "Đào Viên Pháp" tức là làm Lễ hồng thệ. Lập hồng thệ thì mới là người chánh thức của Phạm Môn.

Đức Lý Giáo Tông có giáng cơ tại Thảo Xá Hiền Cung cho bài Thánh Giáo như vầy:

Gặp cảnh khó tùy cơ xoay chuyển,
Lập minh từ trước diễn thi văn.
Tả biên có tạo Dịch Đình,
Hữu biên tạo Phong Vân Kinh Thơ Viện,
Sau sẽ tạo Thảo Đường Bửu Điện,
Có Thích Ca Bạch Mã hiện thân.
Lão khuyên vậy khá lo lần.

 

 

KHỔ HÌNH

極 邢
E: The torture.
F: Le supplice.

Khổ: Đắng, chỉ sự vất vả, cực nhọc về thể xác hay về tinh thần. Hình: hình phạt. Khổ hình là hình phạt khổ sở.

Phật Mẫu Chơn Kinh:

"Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan."

 

 

KHỔ NÃO


F: Douleur.

Khổ não : Khổ sở phiền não.

Thầy than: "Các con ôi! Thầy hỏi vậy chớ mỗi phen độ rỗi cho đặng các con, các con có biết Thầy chịu khổ não dường nào chăng?"

 

 

KHỔ NHỤC

Đức Hộ-Pháp nói: "Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó. Để nói rõ Thánh ý của Đức Chí-Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì? Giờ phút này cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc-mắc. Vì vậy: Nội tình của Đạo gặp nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta không nói rằng nó đã chịu một khó khăn về mọi phương diện. Nhưng đối với Bần-Đạo, Bần-Đạo thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục, chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần-Đạo lại vui mừng mới chướng cho chớ! Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó, tô điểm nó đến một địa vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức Chí-Tôn đều tin nơi Bần-Đạo để con mắt quan sát coi có quả như vậy hay không? Cái khó đảm-đương đương-nhiên bây giờ là không làm cho thêm nhục cơ-thể Đạo là sửa soạn tô điểm đặng một Đài vinh diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây, nếu cả con cái Đức Chí-Tôn có Đức-tin thì hiểu rõ điều ấy."

 

 

KHỔ TÂM


E: Moral pain.
F: Douleur morale.

Khổ: Đắng, chỉ sự vất vả, cực nhọc về thể xác hay về tinh thần. Tâm: lòng dạ. Khổ tâm là đau khổ trong lòng, hay sự đau khổ tinh thần (Cái nông nổi trong lòng không thể nói ra).

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh.

 

 

KHỔ TRẦN

Khổ trần hay trần khổ 塵苦 là những nỗi khổ nơi cõi trần.

Kinh Cầu Siêu có câu:

"Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,
"Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc."

 

 

KHÔI GIÁP


E: Helmet and cuirass.
F: Casque et cuirasse.

Đến ngày 15-03-Bính Dần (dl: 25-04-1926) thì thiết lễ Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, Thầy dạy "CƯ nghe dặn: con bảo TẮC tắm rửa sạch sẽ, xông trầm hương cho nó, biểu nó lựa một bộ đồ Tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón, cười … Đáng lẽ nó phải sắm khôi giáp giống như hát bội mà mắc nó nghèo nên Thầy không bảo. Bắt nó lên đứng trên ngó mặt vô ngay ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đấp mặt nó lại, biểu Đức, Hậu đứng gần, kẻo nó xuất hồn té tội nghiệp."

 

 

KHÔI KHOA MẠO

 

 

 

 

Chú Giải Pháp Chánh Truyền: Ðạo phục của Lễ Sanh cũng y như của Giáo Hữu toàn bằng hàng tùy theo sắc phái, đầu đội Khôi Khoa Mạo toàn bằng hàng trắng, dầu cho phái nào cũng vậy. Ngay trước trán có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí, Lễ Sanh không đặng phép đi giày.

 

 

 

KHÔI NGUYÊN MẠO

 

 

 

 

Mão của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài Ông truyền Trạng Ngọ có công trong việc tạo kiểu Mão, tức Thiên Phục cho Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, Đức Hộ Pháp đặt tên mão ấy là Khôi Khoa Mạo. Lúc trước mão Tiểu phục của Chức Sắc tiểu cấp Hiệp Thiên Đài đầu đội ca-lô quân đội màu trắng. Sau, Bảo Thể? cùng Đầu Phòng Văn Khoa-mục cũng đội mão ấy. Đức Hộ Pháp biểu mỗi người làm một kiểu mão cho Ngài xem. Có lối hơn 10 kiểu, Đức Ngài chọn kiểu của ông Ngọ, tức là kiểu mão mà Chức Sắc Hiệp-Thiên-Đài đội bây giờ.

Ðạo phục của Luật Sự có hai bộ: Ðại và Tiểu phục:

1- Ðại phục: Mặc áo tràng trắng, hai bên vai áo có dấu hiệu Tam Giáo và Cổ Pháp, trên Cổ Pháp có Cân công bình, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo.

2--Tiểu phục: Mặc trường y trắng có 6 nút, lưng mang dây nịt trắng, đầu đội Khôi Nguyên Mạo, trước mão có thêu Thiên Nhãn, có dấu hiệu Cổ Pháp, trên Cổ Pháp có cân công bình và hai chữ LUẬT SỰ bằng quốc tự.

 

 

KHỐI HÌNH HÀI

Khối hình hài hay hình hài khối là khi thân xác của con người bằng thịt xương khi phải chịu chôn vùi trong lòng đất thì thời gian cũng phải chịu sự tan rã ra từng phần rồi tiêu ra thành đất bụi."Của thổ huờn thổ"

Theo Phật giáo, sự vật ở thế gian, tuy chúng ta trông thấy thật tướng, song nó chẳng thường tồn, mà vốn do nhơn duyên cấu sanh. Hễ nhơn duyên hiệp thì sanh, mà nhơn duyên tan thì mất. Thân xác con người cũng vậy, do Tứ đại (đất, nước, lửa, gió) duyên hiệp lại mà thành; khi thân Tứ đại tan thì con người chết, hình hài tiêu rã để trở về với đất.

Kinh Đệ Nhất Cửu có câu:

"Vườn Ngạn-Uyển sanh hoa đã héo,
"Khối hình-hài đã chịu rã tan.
"Bảy dây oan-nghiệt hết ràng,
"Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương."

 

 

KHỐI LINH QUANG

Vấn: Anh nói Thượng Đế biến hóa vô cùng mà anh tưởng tượng Ngài ra thế nào?

ĐÁP: Chúng ta không thế nào lấy trí phàm mà tưởng tượng hình dạng Ngài cho được. Thượng Đế không hình dạng riêng như người phàm vậy. Nếu Ngài giáng sanh bên Tây Âu thì lấy hình dạng người Tây Âu, Ngài giáng sanh bên Đông Á thì lấy hình dạng người Đông Á, Thượng Đế vẫn là một khối linh quang vô cùng vô tận, nhờ đó mà nhơn loại, thú cầm và thảo mộc mới có sự hằng sống. Cái ánh sáng chói rọi của các ngôi tinh đẩu là Ngài, cái dạng non cao rừng thẵm là Ngài, cái vẻ nông sâu, biển cả là Ngài, chòm thảo mộc sum suê, thạnh mậu là Ngài, cái giác tánh của thú cầm là Ngài, cái linh tâm của nhơn loại là Ngài. Tóm lại vạn loại đều có chất sanh, mà cái chất sanh vẫn một phần trong khối linh quang của Thượng Đế, tức là Thượng Đế vậy. Tôi giải sơ cho anh hiểu chút ít vậy thôi, chớ không thể nào giải cho tận lý được. Muốn giải cho tận lý, thì không khác nào giải cho một người đui từ trong bụng mẹ biết cái màu đỏ là làm sao."

 

 

KHỐI TÌNH

Khối tình là chỉ Tình yêu tha thiết giữa trai gái, khi chết đi, tình yêu cũng không tan, nên gọi là khối tình. Xem như những tình cảm được cô đọng lại

Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu:

Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

Theo quyển "Thành ngữ điển tích" của Diên Hương thì từ Khối tình do điển tích sau đây:

Trong tình sử có kể lại một người con gái có tình với một người lái buôn. Anh này đi mãi không về, nàng ở nhà thương nhớ, đau tương tư rồi chết. Đem nàng đi táng thì thịt xương sau này đều chảy ra thành nước, duy còn lại một khối, đập không nát. Sau anh lái buôn về, ôm khối đó mà khóc, nước mắt chảy dính vào thì khối đó liền ra nước. Đó là khối tình.

Có sách cũng cho rằng Khối tình lấy từ điển tích trong truyện Trương Chi và Mỵ Nương.

Trong Kiến Văn Lục của Võ Nguyên Hanh (dịch giả Đàm Duy Tạo) có kể lại "Truyện Tình ở Thành Trì" giống như điển tích trên và truyện Trương Chi Mỵ Nương:

Nghĩa là kết quả của hai người Nam Nữ yêu nhau, nhưng nhiều hoàn cảnh trắc trở khiến họ phải âm thầm thương tưởng, tình cảm đậm đà đó kết lại thành khối, gọi là "Khối tình".

 

 

KHỐI TRÁI CHỦ

Kinh Giải Oan có câu:

"Khối trái chủ nhẫng lo vay trả,
"Mới gây nên nhân quả nợ đời.
"Rảnh mình đâu đặng thảnh-thơi,
"Thiên cung lỡ lối chơi-vơi cõi trần."

 

 

KHỐI VẬT CHẤT

Khối vật chất hay vật chất khối 物質塊 là Xác thân con người được kết hợp bởi vật chất nơi thế gian mà thành, nên gọi là khối vật chất. Xác thân này theo Phật, do bốn nguyên tố kết thành hay còn gọi là "Tứ đại giả hợp" là Đất, nước, gió, lửa duyên hợp tạo ra, nên xác thân này còn gọi là "Thân Tứ đại". Lại nữa để được sống, con người phải ăn uống vật thực, hoa quả, đó là những thứ vật chất nơi thế gian nuôi dưỡng nhục thể. Do vậy Xác thân con người chính là một khối vật chất.

Kinh Tẩn Liệm có câu:

"Khối vật chất vô hồn viết tử,
"Đất biến hình tự thử qui căn."

 

 

KHÔN Quẻ 02: Quẻ Bát Thuần Khôn

 

 

Quẻ 02. Quẻ Bát-Thuần Khôn

 

 

Tượng: Ngôi Phật-Mẫu

Khôn hạ là nội Khôn. Khôn thượng là ngoại Khôn. Quẻ này sáu nét hết thảy đều là Âm, tượng về thể đất, mà lại hoàn-toàn thuộc về chất nhu thuận. Trên dưới tất thảy đều là Khôn, nên tên là quẻ Bát Thuần Khôn. Biệt số 88

Khôn nghĩa là thuận, mềm yếu, nhu, trái với cương.

Từ đây sắp xuống là lời thoán của Văn-Vương.

Nếu nói rằng quẻ 1 là Thuần Kiền, thì quẻ 2 phải là Thuần Khôn. Tại sao vậy?

Bởi vì về Đạo-pháp thì Đức Chí-Tôn là ngôi Dương còn Đức Phật-Mẫu là ngôi Âm. Từ xưa đến giờ các Tôn giáo xuất hiện chỉ riêng thờ một Đấng Thượng-Đế mà thôi. Nay là kỳ Đại Ân-xá của Chí-Tôn nên nhân loại được hạnh-phúc có đầy-đủ Cha Mẹ Thiêng-liêng song toàn.

Thế nên ngày nay Đạo Cao-Đài có hai ngôi:

1- Đền thờ Đấng Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.

2- Điện thờ Đức Phật Mẫu Diêu-Trì.

Vì vậy Kinh Cao-Đài có cả Kinh cúng Phật-Mẫu, gọi là Phật-Mẫu Chơn-kinh. Tìm hiểu kinh Phật-Mẫu tức là tìm biết quyền hành của Đức Mẹ Diêu-Trì trong kỳ ba

Chuyển thế và Cứu thế đó vậy.

Tại sao có Phật-Mẫu?

Đức Hộ-Pháp thuyết ngày 01-10 Đinh-Hợi (1948)

"Trước khi có Đức Chí-Tôn là Đấng không mà có, nếu nói có tất cả có mà không ấy là Đấng vô hình, vô ảnh ở trong cảnh vô tướng.

Đức Chí-Tôn là nguồn cội cả Bí-pháp nên gọi là Phật. Trong Bí-pháp buổi ban sơ phân tích ra Âm Dương, phần Âm là Phật-Mẫu sản xuất cả cơ hữu vi của vũ-trụ. Bởi thế nên quyền-năng của Phật-Mẫu là Mẹ khí thể của ta. Nên ta có ba hình thể là Tam-bửu đó vậy.

Tam-bửu là ba khí chất tạo nên hình-hài xác thịt: cái xác là con kỵ vật, thiên hạ lầm tưởng, hễ xác chết là mất, vậy thì thử hỏi trời đất vạn-vật một khi đã hoại thì tan nát không còn sanh hoá nữa hay sao?

Bởi mang thân phàm xác thịt không thể thấy chớ nếu có huệ-nhãn thì thấy cái xác của người có ba thể:

- Thể thứ nhứt là xác hài thuộc vật-chất-khí biến sanh và sống bằng trái tim.

- Thể thứ nhì là Chơn-thần do tinh-ba của vật-chất khí mà sản xuất từ phẩm Địa Thần đến Thiên Thần do Phật-Mẫu ban cho.

- Thể thứ ba là ngươn khí do Chơn-linh mà có từ bậc Thánh đổ lên do Chí-Tôn phân tánh".

Phật-Mẫu đã thừa thuận với Chí-Tôn tức là:

"Chúng ta có một Bà Mẹ là Đức Phật-Mẫu cầm quyền-năng tạo-đoan xác thịt, hình-hài của ta.

- Chí-Tôn là Cha của Hồn cho nhứt điểm Tinh.

- Phật-Mẫu là Mẹ của xác cho nhứt điểm Khí, thi hài ta và cả vạn-vật.

Cha Mẹ hữu hình vâng lịnh Phật-Mẫu tạo xác thịt hiện hữu đây, còn quyền-năng thi-hành Đấng ấy làm Chủ. Phật-Mẫu có tính chất của một Bà Mẹ. Bần-Đạo xin làm chứng rằng tánh chất Bà Mẹ hữu hình như thế nào thì tánh chất Bà Mẹ là Phật-Mẫu cũng hiện y nhiên như vậy, nhưng có phần yêu-ái hơn, bảo-trọng hơn, binh-vực hơn.

Chúng ta khi vào Đại Điện của Chí-Tôn, tức là Cửu-Trùng-Thiên đó, đứng trong hàng phẩm Cửu-Thiên Khai-Hoá, có trật-tự, phẩm vị, quyền-hành, hạng thứ, nên phải mặc Thiên-phục vào chầu, còn vào Đền Thờ Phật Mẫu đều Bạch-y tất cả, dầu Giáo-Tông hay Hộ-Pháp cũng phải cỗi Thiên-phục để ở ngoài.

Hỏi tại sao phải như vậy?

Lấy tánh đức thường tình của một Bà Mẹ, không có gì lạ. Ta thấy như trong một gia-đình kia dầu rân-rát, một người dầu quyền cao chức trọng, dầu làm quan Toà, quan Tham-biện hay Tể tướng đi nữa mà bước vào nhà còn làm Tể-tướng thì Bà mẹ không ưa lại thêm phiền luỵ, làm quan với ai kia chớ về nhà làm quan với gia đình à? Oai quyền với thiên hạ ở ngoài kia chớ ở đây không thể làm oai quyền với Mẹ được. Dầu bực nào cũng vậy, vẫn là con mà thôi!....

Còn giờ Bần-Đạo phải kết-luận như sau đây:

- Về tới cửa Mẹ rồi, coi như đồng sanh đồng tử, cốt nhục tương thân, đừng để tâm tôn trọng, tôn-ti làm mất khuôn mẫu của Mẹ hằng mong-ước. Cả thảy Nam Nữ cũng vậy, phẩm vị bên Cửu Thiên Khai-hoá không giống như ở đây, mấy Em dầu có tâm thương mến ở bên kia cũng phải nhớ nơi Bà Mẹ. Ở sao cho xứng đáng là con đối với Mẹ, là Anh Em đối với anh em cốt nhục của mình chung một gia đình là phải Đạo".

Ý nghĩa số 2:

Số 2 là số biến-hóa do số 1 mà ra. 1 biến thêm 1 nữa thành 2.

Số 2 là số tịnh, ấy là cơ Âm dương thuộc về Pháp. Pháp là tương-liên nên phải nhỏ-nhẹ, mềm-mỏng.

Con thấy một Bà mẹ hiền-từ, ưu-ái, dịu-dàng.

Số 2 chỉ vào lẽ ấy. Tóm lại số 2 chỉ cơ hòa-hiệp.

 

 

KHÔN BƯ

Thi văn dạy Đạo rằng:

Ðời thường chẳng rõ lẽ nên hư,
Chưa biết mà chê mới lạ chừ.
Thiệt thiệt hư hư con chớ ngại,
Gắng công theo dõi biết khôn bư.

 

 

KHÔN ĐỨC

坤 德
E: The virtue of woman.
F: La vertu de femme.

Khôn: Quẻ Khôn trong Bát quái, chỉ về tính Âm như: đất, đàn bà. Đức: hạnh nết. Khôn đức là đức hạnh của đàn bà.

 

 

KHÔN NGOAN

Thầy dạy rằng: "Chúng nó lại tưởng rằng kiếp người là kiếp sống chỉ có giây giờ rồi tiêu mất, nên tìm những chước sâu kế độc cho đặng của nhiều, no lòng sướng dạ, trối kệ luân hồi. Thầy hỏi: Vậy chớ cái trí khôn của con người biết thương ghét, vui buồn mà toàn nhơn loại đều có, khi rốt cuộc thì trí khôn ấy đi đâu? Không lẽ cái trí khôn ngoan dường ấy mà cũng mất đi đặng sao các con? Thầy hỏi như vậy đặng cho các con mỗi đứa về suy nghĩ mà trả lời cho mình. Hễ trả lời phù hạp thì dễ biết Ðạo, còn ngu xuẩn thì cũng huờn ngu xuẩn...

Kinh Sám Hối có câu:

"Con người có trí khôn-ngoan,
"Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi."

 

 

KHÔN NGOAN ĐẠO ĐỨC

Thầy dạy: "Thầy dặn các con đừng ỷ mình, mà cũng đừng hạ mình, lấy sự mềm mỏng mà oai quyền đối đãi cùng đời. Khôn ngoan đạo đức là khôn ngoan nhịn nhục, kiên nhẫn. Từ bấy lâu nay, ai cũng cho các con là bạc nhược, chẳng đủ trí biết đặng cái mạnh thiêng liêng là thế nào. Thầy đã đến un đúc một tòa Thánh-chất, tức là cái mạnh thiêng liêng đó vậy. Tòa Thánh-chất thiêng liêng phải biến ra hữu hình trước mắt kẻ phàm phu tục tử, đặng thấy, mới biết kiêng oai Thầy. Hỏi Tòa Thánh-chất ấy là gì? - Các con nói thử. Cười! Các con chẳng biết đâu, nghĩa là một Tòa chứa trọn cả đức tin của các con. Cái đức tin ấy càng ngày càng tăng thêm hoài theo số nhơn sanh các con độ rỗi. Nay Thầy muốn nó biến ra hữu hình là sao? Thầy muốn Tòa Thánh-chất của Thầy tức là cả đức tin của các con biến thành một Tòa Thánh, cũng như xác phàm của Noln biến thành Long vị, hầu vùa giúp cho đức tin càng lớn thêm, đủ sức kềm thúc đức tin của cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy. Mà hễ kềm thúc đặng cả nhơn loại thì chưa khí giới nào mong diệt đặng. Vì vậy, Thầy lập Tòa Thánh".

 

 

KHỐN ĐỐN

困 頓
E: Very unhappy.
F: Très malheureux.

Khốn: cùng khổ. Đốn: sa sút. Khốn đốn là sa sút đến cùng khổ, quá vất vả (Khốn cùng quẩn bách).

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Về bực nhơn phẩm ở cõi trần ai khốn đốn nầy.

 

 

KHỔN TRẦN

(Khổn hay khốn là nhiều cay đắng, khó nhọc, khổ sở; Trần là bụi, nghĩa bóng là chỉ quả địa cầu mà nhân loại đang sống, đây là nơi để học hỏi, là trường tiến hóa của tất cả Vạn linh sanh chúng chứ không phải là nơi hưởng thụ. Thế nên người đến thế này là phải gấp rút học hỏi để mang những kết quả tốt đẹp mà trở về cảnh thật, còn đây là cảnh giả, là quán trọ, là khách trần mà thôi, là cảnh đọa.

Thầy dạy ngày 20-4-Bính Dần (Thứ hai, 31-5-1926)

"Thánh tâm dầu phải chịu khổn trần đi nữa thì chất nó cũng vẫn còn. Các con khác hơn kẻ phàm là duy tại bấy nhiêu đó mà thôi. Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng hoài vọng. Chí Thánh dầu bị đọa trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh. Nếu chẳng vậy, ai còn dám ưng thuận hạ thế cứu đời? Con chỉ có tu mà đắc đạo. Phải ngó đến hằng ức thiên vạn kẻ nhơn sanh chưa đặng khỏi luân hồi, để lòng từ bi độ rỗi, kẻo tội nghiệp".

 

 

KHÔNG (SỐ 0)

Tại sao trong Toán học từ xưa đến giờ lấy Tâm vòng tròn là 0?

Số O là số vô-vi nó có tánh-chất trung tính, nhiệm yếu, hiền-hòa, sáng-suốt.Vật mang số O là vật trung dung, nhậm lẹ, không khuynh-đảo nhưng chưa tiến-hóa. Người mang số O là người lưỡng tính, phần tấn-hóa chưa nhiều.

Số O chỉ năng-lực tiềm-ẩn nhưng chưa phát-triển đúng mức. Nhưng khi nào một vật chi được thử về O ấy về lẽ Đạo, nhưng qui cơ tịnh lặng hoàn-toàn được gặp nhiều chân phúc quí báu. "Không không ấy thiệt lý trường sinh". Phép bói-toán tính đến số O là rốt-ráo vẹn toàn, viên-mãn. Rồi O sẽ biến dịch vòng quanh thành nhiều bản thể. Số O sẽ là cơ khởi đầu cũng như là cơ chót hết, nó tiếp nối giữa hai đường tấn-hóa và qui-nguyên. Hai đầu tấn-hóa, qui nguyên, nó ở giữa làm mấu chốt.

 

 

KHÔNG ĐI CÚNG BỊ PHẠT

Số 362/ VP.HP "HỘ-PHÁP Chưởng-Quản Nhị Hữu Hình-Đài Hiệp Thiên và Cửu-Trùng gởi cho Quyền Ngọc Chánh Phối-Sư Cửu-Trùng-Đài.

Hiền-Hữu ra lịnh đòi các vị Chức-Sắc làm biếng đi Cúng theo tờ phúc của bản thông-qui ghim theo đây cho biết vì lẽ gì? Cho biết lý-do từ xử định tự-nhiên của họ là sao cho Bần-Đạo biết. Các Bàn-Trị-Sự của mỗi Phận đạo cùng Hương-đạo từ đây nếu các ngày Đại-Đàn và Tiểu Đàn mà thiếu mặt sẽ bị phạt một hình-phạt gắt-gao là bị cách chức hay là thêm vào hạnh-kiểm nương-bóng Đạo chớ không phải thật Đạo, sẽ bị trục-ngoại ra khỏi Thánh Địa." HỘ-PHÁP (Ấn-Ký) [(ngày 11-02-Giáp Ngọ)]

 

 

KHÔNG GIAN - THỜI GIAN

-
E: The space and time.
F: L’espace et le temps.

*Không-gian là một khoảng giới-hạn vật-chất hữu vi trong đó vạn-vật đang sống, đang tấn-triển như thế nào.

*Còn Thời-gian là cái thời-khắc chuyển biến của vạn-vật tức là cái sự lâu mau để sinh-hóa hay tiêu-diệt Càn khôn.

Thầy dạy: "Luật luân-hồi quả báo và phương tu đoạt Đạo là vậy. Chẳng phải chỉ có một quả địa-cầu này có người ở mà thôi, mà đã có hằng-hà sa-số quả địa-cầu có người ở, tuỳ theo những trình-độ tấn-hóa khác nhau.

Cùng một không-gian, cùng một cấp bực thì trông thấy, hiểu thấu nhau. Bậc cao hơn thì thấy được bậc thấp, còn bậc thấp khó thấy bậc cao, ấy cũng lẽ thường.

Còn thời-gian là cái mực thước đo-lường cơ tấn hóa.

Đây Thầy giải rõ hai chữ không-gian với thời-gian:

*Không-gian là một khoảng giới-hạn vật-chất hữu vi trong đó vạn-vật đang sống, đang tấn-triển như thế nào.

Không-gian là cái vòng chứa đựng vạn-vật trong đó. Như vậy có rất nhiều không-gian khác nhau:

- Phàm thể không-gian tức là cõi các con hiện trông thấy đây.

- Thần-trí không-gian là cõi các con sẽ thấy trong lúc ngủ, ở cảnh trí.

- Nhận chân không-gian là cõi của linh-hồn.

- Chân không không-gian là cõi cao hơn nữa.

- Chơn-như không-gian,

- Thái-hư không-gian.

- Và cả Hư-vô không-gian nữa,

Đó tức là cơ hữu tướng của càn-khôn.

* Còn Thời-gian là cái thời-khắc chuyển biến của vạn-vật tức là cái sự lâu mau để sinh-hóa hay tiêu-diệt Càn khôn. Thời-gian là cái lệ định cho vạn-vật phải diễn-tiến như thế nào trong một khuôn-khổ đã sắp đặt trước cho vạn-vật.Ấy chẳng khác nào hai cái lý tương-tiếp gát chồng lên nhau, Âm Dương hỗn-hợp, hữu-hình và vô-hình theo tiếng gọi của đời thường vậy.

Không-gian âý là Dương mà Thời-gian âý là Âm.

Ngoài không-gian và thời-gian, còn có các luật điều hòa cả hai thứ ấy là lý duy nhất tuyệt-đối. Đến một trình độ cao hơn lại còn phân ra nhiều cơ từng nữa. Điều này con sẽ biết ở ngày sau.

Hễ có động có tịnh ắt có cơ sanh hóa, động thì sanh biến mà tịnh qui hồi. Luật sanh biến qui hồi ấy chuyển luân bất tận nhưng vạn-vật vẫn tiến mãi thôi, vật nào không tiến nỗi ắt để cho ngừng chớ Càn-Khôn không cho phép thoái, nếu thoái hết là tiêu-diệt hết rồi còn gì".

Đức Hộ-Pháp kể lại rằng: "Chính Bần Đạo buổi nọ, Đại Từ-Phụ xin Bần-Đạo, nói xin lại với một lời yếu thiết: - "TẮC! dâng cả mảnh thân con đặng Thầy tạo Đạo cứu đời, con có chịu chăng?

Bần-Đạo trả lời với Ngài một cách quả quyết rằng:

Nòi giống con còn nô-lệ, nước nhà còn lệ thuộc, thì làm thế nào con TU cho đặng!

Ngài cười nói: Nhưng điều ấy các con làm không đặng đâu, để đó cho Thầy.

Tiếng "để đó cho Thầy" Bần-Đạo nhớ lại nói dễ như không không, mà đã hai mươi mấy năm trường rồi đó. Ngài hứa khi Ngài mới đến cùng Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo cuối năm Tý đó vậy, theo phàm tánh của ta có lẽ buồn, nhưng vì chúng ta sống trong thời-gian, còn Đức Chí-Tôn sống trong không-gian; chúng ta tính từ ngày, tháng, năm; còn Ngài chỉ lấy quyết-định của Ngài làm căn-bản mà thôi".

 

 

KHÔNG KHÍ

Không khí 空氣 là khí sống cho vạn linh; nhưng đây không phải là khí thường mà là Hạo Nhiên chi khí 然之氣 còn gọi là Hỗn-nguơn-khí 混元氣 hay sinh quang khí 生光氣 là cái khí chất to lớn, sáng sủa trong bầu trời.

Kinh Đệ Thất Cửu có câu:

"Nhẹ phơ phới dồi dào không khí,
"Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan."

Thầy dạy về Không ăn mà sống: "Trong không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng, mà không khí ấy chứa đầy vật chất tiếp dưỡng "Matières Nutritives" của xác trần, vì nhờ nó biến hóa chúng sanh đặng. Thầy nói chúng sanh là nói toàn cả vật loại hữu sanh, nghĩa là vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, vật loại hữu sanh, thú cầm hữu sanh, nhơn kiếp hữu sanh, hiểu à?

Vật chất phải tiêu, mà khí phách vẫn còn, tỷ như đá núi có thể xay tiêu ra bột làm ciment mà khí phách đá cũng còn giữ tánh cứng của nó; trộn nước cho đóng khối lại thì nó trở lại huờn đá như thường mà cái mùi đá cũng giữ mùi đá. Thảo mộc dầu phải chặt rả ra thì khí phách cũng vậy. Con tưởng xác chôn rồi trong xác ấy cho huờn nguyên khí phách mà hiệp lại cùng không khí chăng?

Không khí "Air respiratoire" chứa đầy khí phách tiếp dưỡng mà nuôi nấng lại chúng sanh, nếu các con thấy đặng thì chẳng khác nào ly nước lạnh mà đổ đường vào trong đó có màu lợn cợn. Sự nuôi nấng chúng sanh thì chẳng chi hơn là nước đường. Tuy vân, không thấy đường mà uống rõ ràng có ra mùi ngọt. Cái khí con hớp hằng ngày ấy thì như bữa cơm con ăn đó vậy, Thầy chỉ có sửa cơ khí phàm các con, nhứt là bao tử cho nó có huyền-diệu-pháp mà tiếp cho đặng cái khí phách mà làm vật thực nuôi nấng lấy mình; vì vậy nhiều đứa phàm xác vẫn còn mà đắc Ðạo tại thế, tuyệt cốc xác thân chẳng hại chút nào. Coi rồi kiếm hiểu, nói lại cho Thầy nghe rồi Thầy mới dạy nữa".

 

 

KHÔNG MÀNG THẢO NGAY

Kinh Sám Hối có câu:

"Dương-gian ngỗ-nghịch lăng-loàn,
"Liều mình tự-vận không màng thảo ngay."

 

 

KHÔNG MÔN

(Tầm : Tìm kiếm. Không môn : Cửa không, cửa chùa hay cửa Phật) Tìm đến cửa Không. Giáo lý nhà Phật cho rằng "Pháp không", mọi pháp hữu vi đều là không, tức mọi sự vật đều không có thực thể tự tánh sinh khởi, do các nhân duyên giả hợp lại (giả danh) tạo thành.

- Ngã không: Không có thực thể độc lập, riêng biệt, thường còn, nên không có ngã.

- Sắc không: Sắc không khác với không, không không khác với sắc, sắc là không, không là sắc.

Nhờ không mà vạn vật mới hiện hữu được và chính bởi vì cái sự kiện hiện hữu, vạn vật phải là không. Chính vì chủ trương của Phật giáo là "Vạn pháp giai không" 萬法皆空 nên người ta thường gọi cửa chùa hay cửa nhà Phật là Không môn.

Thực tế con người chúng ta duyên khởi từ cái "‘không" của tinh cha huyết mẹ đã tạo nên con người. Người sống để tấn hóa trên cõi trần, sau cùng chết chôn vào lòng đất "không" và cứ xoay chuyển trong vòng tấn hóa, đó là định luật "không sắc; sắc không" là không môn

Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu có câu:

"Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,
"Tầm không môn đặng đợi Như Lai."

 

 

KHÔNG THĂNG GIÁO HỮU

(Còn vợ chồng con cái, không thăng Giáo Hữu)

Do tờ của Nữ Chánh Phối-Sư Lại-Viện xin phép cho Lễ-Sanh Hương-Tình từ-chức đặng sanh.

LỜI-PHÊ của ĐỨC HỘ-PHÁP: "Phê cho nghỉ phép đặng sanh, may là còn phẩm Lễ-Sanh thì còn dễ giải quyết, còn nếu đã lên hàng Giáo Hữu thì đem ra Toà Pháp-Chánh. Xin nhớ hễ còn vợ chồng con cái thì Hội-Thánh đừng cho thăng Giáo-Hữu.. [(HỘ-PHÁP (Ấn-Ký) ]

 

 

KHÔNG THƯƠNG THÌ ĐỪNG GHÉT

Đức Hộ-Pháp nói: "Hôm nay Qua giảng một điều thiết yếu cho mấy Em nghe quyền siêu thoát. Mấy em xét coi nơi mình mấy Em từ chân, tay trong xác thân cho tới cả tinh thần đầu óc mấy Em nó đều có linh cảm cả. Khốn nạn thay! Con người không biết thương nhau mà lại ghét lẫn nhau, mà hễ ghét lẫn nhau tức nhiên ghét Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, nếu ghét Thánh Thể Đức Chí Tôn rồi, thì ngày Qua về cảnh Thiêng Liêng đứng trước Cực Lạc Thế Giới, mấy em chẳng hề khi nào chối tội đặng. Nếu mấy em thương nhau không được thì không được phép ghét nhau."

 

 

KHÔNG TƯ CHẲNG VÌ

Kinh Sám Hối có câu:

"Phước nhiều tội quá tiêu trừ,
"Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì."

 

 

KHỔNG MẠNH


E: Confucius and Mencius.
F: Confucius et Mencius.

Khổng: Họ Khổng, chỉ Đức Khổng Tử. Mạnh: Mạnh Tử. Khổng Mạnh là Đức Khổng Tử và Mạnh Tử.

Khổng Tử được xem là người lập ra Nho giáo, và Mạnh Tử, sanh sau Đức Khổng Tử 179 năm, là người phát huy Nho giáo lên đỉnh cao rực rỡ. Sau đời Mạnh Tử thì Nho giáo bắt đầu suy tàn dần vì không có người thừa kế siêu việt.

(Xem tiểu sử của Đức Khổng Tử ngay bên dưới..Xem tiểu sử của Mạnh Tử nơi chữ: Mạnh Tử, vần M)

 

 

KHỔNG THÁNH TIÊN SƯ

Khổng Thánh Tiên Sư chính là Đức Khổng Tử húy là Khâu (Khưu) tự là Trọng-Ni, quê quán tại làng Xương bình, huyện Khúc phụ, thuộc lãnh thổ nước Lỗ (nay là phủ Duyên châu, tỉnh Sơn đông- Trung hoa). Thân phụ Ngài là Khổng Thúc Lương tự là Thúc Lương Ngột, thân mẫu là Nhan thị. Ngài bắt đầu ra làm quan vào năm 19 tuổi, đi chu du khắp các nước chư hầu để truyền Đạo vào năm 56 tuổi và bắt đầu dạy học trò, san định kinh sách vào năm 68 tuổi. Đến năm 73 tuổi, nhằm ngày Kỷ Sửu, tháng tư, năm Nhâm Tuất (478 trước Tây lịch) Ngài mất.

Lòng sớ dâng lên Chí-Tôn có câu:

Tam Tông chơn giáo:
-"Tây Phương Giáo Chủ Thích-Ca Mâu-Ni Thế Tôn,
-"Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh ứng hóa Thiên Tôn.
-"Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho thạnh thế thiên Tôn."

 

 

KHỔNG TỬ (KHỔNG THÁNH) (Tên)

孔 子
E: Confucius.
F: Confucius.

 

 

 

"Đức Khổng-Phu-Tử tự là Trọng-Ni cũng vì nhơn thấy đặng hung bạo của đời nên lo trù hoạch phương châm giảm ác mới đặng đoạt triết lý chí thiện là cơ quan bảo thế. Ngài đắc thông nên tự nhiên biết rằng cơ Tạo, nghĩa là Trời, Đất và vạn vật hữu hình phải tấn hóa lần lần cho tận con đường chí thiện (nghĩa là người thì tận thiện, vật thì tận mỹ) gọi là Đạo. Ngài chỉnh chiếu theo sự tự nhiên hành động tâm lý của người đời đặng làm mục đích chuẩn thằng đoán xét; ngoài phép trau tâm luyện tánh, Ngài không nhìn phương pháp nào đặng tự giác đặng "bổn thiện" và kềm chế lấy điểm lương tâm, nên không chịu tin theo lý thuyết mỵ thuật huyền vi, mà trí khôn ngoan của người không thấu đáo. Ngài đã thấy phép trị thế, dầu cho dân sanh phản kháng thế nào, cũng tùng một chủ quyền chánh thể hoặc là do nơi đông tay xúm nhau đào tạo hay là do ở một người đã đặng mạng Trời làm Chúa người đời, cầm Luật Pháp trị an bá tánh. Sự quả quyết ấy đã nhìn thật toàn mặt thế. Ngài cho chánh trị hành tàng của xác thịt thế nào thì tinh thần cũng vậy; nên nhìn nhận rằng trên các chủ quyền trị thế có quyền vô vi của Đấng Chí-Tôn, Ngài gọi là "nhứt đại viết Thiên" (一大曰天) nắm trọn phép thiêng liêng thưởng phạt. Đấng Chí-Tôn ấy chẳng phải có quyền năng về phần hồn mà thôi, lại cũng đặng oai linh phần xác; lý thuyết Trời- Người đồng trị nảy sanh từ đó.

Cơ nghiệp Văn Vương qua đến Đông châu là cùng tận, mà Ngài cố quyết duy trì, mong lòng hiệp quốc, đem Luật pháp đặng trị bình, lấy Nghĩa Nhân ra khử bạo.

Ngài hiểu rõ rằng quyền hành Chánh trị chia làm hai phần:

1-Sanh hoạt của thi hài.

2-Biến hóa về tâm lý.

 

 

 

Nên Ngài cho Luật pháp là cơ quan độc thiện để trị an thiên hạ, còn đạo nhân-nghĩa đủ thế kềm thúc tánh đức của người đời, nên ngài mới cầm nhiếp chánh nhà Châu để sở vọng chấn hưng Vương Đạo. Thương thay một Đạng chí thánh như Ngài mà cũng phải chịu bề thất vọng. bởi gặp buổi đời đã quá bạo tàn, nên cây quạt và mảnh mền là đạo Nhân Nghĩa của Ngài, không đủ thế quạt nồng đấp lạnh. Ngài phải thối bước về quê, cam phận thối bước về quê, trọn đời ngồi dạy học. Bài tự thán "Chi lan" của Ngài, ai đọc đến cũng phải rơi châu đổ ngọc.

May thay! Qua đến đời Khổng Cấp (Tử Tư) là đích tôn của Ngài, dạy đặng một trang Môn đệ là Mạnh Tử, rất nên đáng bậc hiền triết nối chí của Thánh nhân, cố mở mang Đại học" (ĐHP: Trích Khuê bài Thiêng liêng vị)

Tiểu sử:

Ðức Khổng Tử sanh ngày 27 tháng 8 năm Canh Tuất (551 trước Tây lịch), năm thứ 21 đời vua Châu Linh Vương, ở sông Thù, ấp Tu, làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Ðông, nước Lỗ. Các sách xưa không thống nhứt nhau về ngày sanh của Ðức Khổng Tử. Có 3 tài liệu:

- Nho giáo của Trần trọng Kim, Ngài sanh vào mùa Ðông tháng 10 năm Canh Tuất.

- Khổng Môn Liệt Truyện của Tổng Hội Khổng Học Việt Nam: Ngài sanh ngày mùng 1 tháng 11 năm Canh Tuất.

- Tự Ðiển: Thành Ngữ Ðiển Tích của Diên Hương: Ngài sanh nhằm ngày 27 tháng 8 năm Canh Tuất. Ðại Lễ Vía Ðức Khổng Tử trong Ðạo Cao Ðài là ngày 27 tháng 8 âm lịch hằng năm. Ðó là ngày Lễ Kỷ Niệm Thánh đản của Ðức Khổng Tử, đúng theo Từ Ðiển của Diên Hương. Thân phụ của Ngài là Thúc Lương Ngột, mẹ là Trưng Tại, họ Nhan. Hai Ông Bà lên núi Ni Khâu cầu tự, nên chừng sanh Ngài thì lấy tên núi mà đặt tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Theo truyền thuyết, trước khi sanh Ngài, Bà Nhan thị nằm mơ thấy có người dắt con Kỳ Lân đến cho và nói rằng: "Thủy Tinh chi tử, kế suy Châu vi Tố vương". Nghĩa là: Con của Thủy Tinh, nối nhà Châu suy, mà làm vua không ngôi. Bà sờ vào con Kỳ Lân thì nó hét lên làm bà giật mình tỉnh dậy, kế chuyển bụng và sanh ra Ngài. Lúc sanh Ngài, Bà Nhan thị vào ở trong hang đá Không Tang, núi Nam Sơn, nghe trên Trời có âm nhạc và tiếng nói: Trời cảm lòng cầu nguyện cho sanh con Thánh. Khi gần sanh Ngài, hang đá nứt, một dòng suối chảy ra. Bà Nhan thị lấy nước suối ấy tắm cho Ngài, tắm xong, suối liền khô. Ngài cao lớn và có nhiều tướng lạ: Môi trâu, tay cọp, vai uyên, lưng rùa, miệng rộng, mắt lồi, tai to, răng lộ, trán gồ, mình cao 9 thước 6 tấc (thước Tàu), đi nhanh. Ngài học rộng, biết nhiều, thấy xa. Vua nước Lỗ dùng Ngài làm quan Tư Khấu, song chẳng bao lâu, vua đắm mê Nữ nhạc, bỏ việc triều chánh. Ngài cản ngăn không được, liền từ chức, đi chu du các nước chư Hầu như: Tề, Vệ, Trần, Sở, Tống, thuyết phục các vua chư Hầu, mong đem cái Ðạo của Ngài ra giúp đời. Nhưng đến đâu, các vua chư Hầu đều chuộng Bá đạo, nên không dùng Vương đạo của Ngài. Tuy nhiên các vua chư Hầu rất kính trọng Ngài, xem Ngài là thượng khách. Mãi đến khi Ðức Khổng Tử được 68 tuổi, Ngài mới quay trở về nước Lỗ, mở trường dạy học ở Hạnh Ðàn, san định Ngũ Kinh và trước tác sách Xuân Thu. Học trò của Ðức Khổng Tử có tới 3000 người (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào bực Hiền (Thất thập nhị Hiền) mà Nhan Hồi đứng đầu, là bực Ðại Hiền. Ngày mất của Ðức Khổng Tử ghi trong các sách cũng không thống nhứt nhau, nhưng năm mất đều ghi là năm Nhâm Tuất (479 trước Tây lịch), Ðức Khổng Tử hưởng thọ 73 tuổi. Sách Nho giáo của Trần trọng Kim ghi: Ngài mất nhằm tháng 4. Sách Khổng Môn Liệt Truyện ghi: Ngài mất nhằm ngày Kỷ Sửu tháng 4. Từ Ðiển Thành Ngữ Ðiển Tích của Diên Hương: Ngài mất ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất.

Kinh Cao Đài đọc bài Nho Giáo, ghi là: "Khổng Thánh Chí tâm qui mạng lễ" nghĩa là cúng lạy với cả ý chí

Đức Hộ-Pháp nói: Chúng ta thử đoán xét từ cái thử coi, tỷ như: Nho Giáo của Đức Khổng-Thánh tạo thành, mà người ta còn trích điểm cái chơn, cái giả, miệng lưỡi và đầu óc của nhơn sanh bao giờ cũng thế. Về ly luận: người ta có thể nói Ngài sanh ra trong nước Lỗ, Ngài là một Giáo Chủ của Nho-Tông, tức nhiên Giáo Chủ của Nhơn luân chi Đạo, mà tại sao Đạo của Ngài không thể gì cứu nước Lỗ cho còn tồn tại đến ngày nay? Ấy vậy Đạo của Ngài bất lực! Đạo của Ngài sản xuất ra hồi buổi Đông Châu Liệt Quốc, thiên hạ thống khổ đảo huyền, nếu nói rằng: Nhơn luân chi Đạo của Ngài đủ năng lực có thể đem Hòa bình cho thiên hạ buổi đó, trái lại Đông Châu Liệt Quốc đã loạn và vì loạn ấy mới sản xuất Nhơn luân chi Đạo của Ngài, trong Tam Cang Ngũ Thường của Ngài bị Đạo chích công kích triệt để. Thử nắm quyền hành của Ngài và kiếm lý luận điều đó, trích điểm điều đó, chúng ta khó định được cái phải cái quấy chỗ ấy."

Trong Kinh Thư; Đức Khổng Tử có nói: "Duy Thiên vô thân, khuất kỉnh duy thân, Quỉ Thần vô thường hưởng, hưởng vụ khất thành" nghĩa là Trời không thân với ai, chỉ thân với người hay kỉnh. Quỉ Thần không thường chứng giám cho ai, chỉ chứng giám cho kẻ hay thành. Vậy chỉ có kỉnh và thành mới cảm động đến Trời đất và Qủi Thần được.

Bài Diễn Văn của Ðức Quyền Giáo Tông đọc tại Tòa Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (1934).

"Khổng Phu Tử thọ lịnh Thiên Ðình xuống khai Ðạo Nho đặng sửa nhơn luân trong buổi Châu mạt. Vì trong buổi ấy cang thường, luân lý suy đồi, nên nhơn sanh thấy cái Ðạo nhơn luân của Ngài hay sửa đời đặng thì khâm phục. Ngài cũng lắm công nhọc nhằn với đời, qua Tề bị Yến Anh, qua Yên bị phế, qua Triệu bị đuổi, kẻ bắt người buộc, ăn vác nằm sương nhọc nhằn biết mấy. Ðến đổi nhà Tần tàn bạo không xiết kể, phần thi khanh Nho (đốt sách, chôn học trò) mà Ðạo Nho cũng loan truyền khắp hoàn cầu".

Trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, Đức Khổng Tử có giáng cơ dạy Đạo.

Dưới đây là bài Thánh giáo của Ngài:

Ngày 17 tháng giêng năm Nhâm Thân (dl: Thứ Hai, 22-02-1932). Ngài cho Thi:

NGÃ, dĩ từ chương giáo nghĩa phương,
KHỔNG văn hoằng hóa sự luân thường
PHU thê, phụ tử, quân thần đạo
TỬ đệ phùng thời độ thiện lương.

Diễn dụ: Các sĩ cùng chư khanh nghe rõ: việc Tam Giáo Hiệp Nhứt.:

Từ mới mở mang Trời đất đã có Đại Đạo, Tam giáo vốn một nhà, đời sau chia làm ba, chớ kỳ trung một bổn, kẻ thế không hiểu nên tranh luận giành điều chơn giả với nhau hoài. Những người xưng mình là Minh sư, thọ truyền cho đồ đệ, thì mỗi người cũng muốn khoe tài mình mà truyền khẩu với chúng sanh rằng: Đạo mình chánh, Đạo khác là tà. Té ra, mình là manh sư gạt chúng

Nên Đạo Tiên, Đạo Phật mà không dùng văn chương thì lấy chi mà tả kinh diễn kệ. Còn học Nho mà không học Đạo thì ra người người cuồng si kiêu căng. Vậy khuyên mấy sĩ Ba Đạo cũng đồng tìm kiếm gốc cho minh chơn lý, đặng trước độ mình, sau độ chúng.

Vậy mới gọi là chánh kỷ hóa nhơn.

Thi rằng:

Tam giáo từ xưa vốn một nhà,
Người sau lầm tưởng, vọng chia ba.
Minh tâm may hiểu đường chơn giả,
Mẫn tánh mới thông nẻo chánh tà.
Thích, Đạo tỷ như hành bộ khách,
Nền Nho ví tợ chiếc đò qua.
Muôn ngàn kinh kệ do nơi chữ,
Tam giáo từ xưa vốn một nhà.
                        (Khổng Phu Tử)

Câu 24 trong bài U-Minh-Chung có câu:

"Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư hưng Nho thạnh thế Thiên Tôn."

Giới Tâm Kinh có câu rằng:

"Nguyền Khổng-Thánh bảo toàn Nho-Giáo,
"Lấy nghĩa nhơn Đại-Đạo truyền ra.
"Tây-phương Phật-Tổ Di-Đà,
"Nam-Hải Phổ-Đà cứu khổ Quan-Âm."

 

 

KHỔNG TƯỚC

Khổng Tước là loại Chim công, giống như chim trĩ: Thân dài hơn ba thước, cánh ngắn nhỏ, chim trống rực rỡ, hoa lệ. Lông đuôi cực dài, lúc xoè ra dựng lên như cái quạt lớn, sắc biếc, có những điểm vàng viền xanh, trông như những con mắt to. Giống chim này sống ở những nước thuộc nhiệt đới như Ấn Độ, Thái Lan...

Khổng tước là một loại điểu thú của Chuẩn Đề Bồ Tát cỡi. Nguyên căn là một con công, tu thành Tiên với tên là Khổng Tuyên, vào thời nhà Châu bên Trung Hoa. Sau được Đức Chuẩn Đề thu phục, làm một vị tôn giả cho Ngài và chở Ngài đi vân du các cõi.

Kinh Đệ Lục Cửu có câu:

"Minh Vương Khổng Tước cao bay,
"Đem Chơn thần đến tận đài Huệ Hương."

 

 

KHỜ KHẠO

Bần-Đạo xin nhắc lại lời nói của Đức Chúa Jésus Christ:

"Hạnh phúc thay cho những kẻ khờ khạo! Vì nó được quyền năng của ông Cha của Thiêng Liêng kia binh vực nó, hồi nó sống đây nó dại khờ, nhưng không phải cái dại ấy mà nó cô độc, bởi vì nó còn ông Cha oai quyền vô tận vô biên, Ổng thay thế cái khôn cho nó."

 

 

KHỞI ĐỘNG


E: To start.
F: Commencer.

Khởi: Bắt đầu, dấy lên. Động: hoạt động, cử động. Khởi động là bắt đầu hoạt động (Dấy lên).

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Từ Nam chí Bắc, khắp Đông qua Tây, thỉnh thoảng trường náo nhiệt khởi động diệt tàn kẻ vô đạo.

 

 

KHỞI NHẠC


E: To begin the music.
F: Commencer la musique..

Câu xướng "Khởi Nhạc" tức là ra lịnh cho ban Nhạc bắt đầu hành Lễ theo nghi thức Tôn giáo, nhưng vì buổi ban đầu nên chính Thầy giáng dạy một cách tỉ-mỉ, để từ đó làm khuôn mẫu cho ngày sau. Đức Thượng Đế dạy ngày 27-6-1926 (âl 18-5-Bính Dần): "Nhơn, con phải khởi sự kể từ ngày nay cho tới bữa Ngọc Ðàn Vĩnh Nguyên Tự, tập NHẠC đủ lại hết. Như nhập lễ thì đừng đánh trống Bát Nhã, mà đánh Ngọc Hoàng Sấm, nghĩa là mỗi hồi 12 tiếng, đổ xuống đủ 12 hồi, 3 lần như vậy. Bạch Ngọc Chung cũng dộng ấy.

Khi nhập lễ, xướng "Khởi Nhạc" thì phải đánh trống và đờn bảy bài cho đủ. Chừng hiến lễ, phải đờn Nam Xuân ba bài, vì Lễ-sanh phải hiến lễ bảy lái, đi chữ Tâm. Tới khi thài, thì đờn Ðảo Ngũ Cung, rồi con lại bắt đầu đờn lại, cho Môn đệ tụng kinh.

 

 

KHUA ĐỘNG ĐỒNG TIỀN

E: To make noise with the coin.
F: Fair du bruit avec la sa pèque.

Kinh Sám Hối có câu:

"Hễ nghe khua động đồng tiền,
"Sửa ngay làm vạy không kiêng chút nào."

 

 

KHUA MÔI

E: To speak very loud but nothing.
F: Parler avec grand loquence.

Giới Tâm Kinh có câu rằng:

"Tình chung đặng cậy thế người sang,
"Mượn tiếng khua môi với xóm làng,
"Lời dạy Thần Tiên không kể đến,
"Đạo mầu chẳng cứ, cứ khoe-khoang."

Thơ Thán Đạo ngâm của Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh

Rồi những kẻ lòng Tần dạ Sở,
Mới thừa cơ tráo-trở thị phi.
Khua môi uốn lưỡi thiếu chi,
Kẻ quanh đường tắt, người đi ngõ thầm.

 

 

KHUẨN BÁCH

Đức Hộ-Pháp nói: "Túng tiền, Bần-Đạo phải đến tại Vũng-Liêm, tưởng đâu Chị có dư-dả mới đến, con người như thế này không đến nước túng thiếu quá lẽ. Xuống tới dưới, tới chừng khi hỏi Chị đặng mượn số tiền về khởi công cất Tòa Thánh, Chị dắt đi xuống chỉ mấy kho lúa đầy nhóc hết, mà lúa 0$20 một giạ, hồi đời đương khuẩn bách từ Á tới Âu. No thì no triệu, bán lúa nếu có thể với giá bây giờ dầu 10 triệu trả cũng được. Một giạ có 0$20 tiền Chị đó Em."

May thay trong buổi khuẩn bách tinh thần ấy, có Đấng huyền linh đem lại với một phương pháp vô hình, không hình mà làm cho chúng ta thấy, không nói mà làm cho chúng ta nghe là Đức Cao Đài Thượng Đế, nhờ đó mà Bần Đạo khỏi đi đâu hết. Nếu không có Đấng ấy thì có lẽ Bần Đạo điên đi mà chớ, điên vì cái khổ não của Đời, điên vì gớm ghiết cái cơ quan tranh sống của nó.

 

 

KHUẤT LẤP

Đức Hộ-Pháp nói: "Đừng mộng tưởng một hành tàng nào trong kiếp sống thế gian này của ta có thể khuất lấp qua khỏi quyền Thiêng Liêng của Đức Chí-Tôn được. Ta minh mẫn, sáng suốt, biết phân biệt tội phước đặng định số phận Thiêng-Liêng, quyết hẳn rằng không có điều nào khuất lấp Luật-Pháp Thiêng-Liêng của Đức Chí Tôn đã định cả".

 

 

KHUÊ Quẻ 38. Quẻ Hoả Trạch Khuê

 

 

Quẻ 38. Quẻ Hoả Trạch Khuê

 

 

Tượng: Tam Hội lập Quyền

Đây là quẻ Hoả Trạch Khuê. Ly thượng là ngoại Ly, Đoài hạ là nội Đoài. Ly là Hoả, Đoài là Trạch, thế nên đặt tên quẻ là Hoả Trạch Khuê.

Tự-quái-truyện nói rằng: Đạo nhà cùng cuối tất nhiên có sự trái lìa, nên tiếp theo Gia-nhân là quẻ Khuê. Khuê có nghĩa là trái lìa, tức là không hoà nhau được, mà không hoà nhau được ắt phải kình chống nhau thôi, vì thế mà phải đường ai nấy đi. Đó là quẻ Khuê vậy.

Ly và Đoài cùng là quẻ Âm, theo định-lý về từ lực thì Âm với Âm đẩy nhau; đẩy nhau thì không bao giờ hợp nhau được ắt phải trái lìa vậy. Tính tình của Kim và Hoả thì khắc chế nhau, theo lý Ngũ-hành thì tính của Hoả là bốc lên, tính của Đoài thì luôn trầm xuống, hai tính không thể gặp nhau được và cũng không hợp tác được, nên phải xa nhau thôi, vì thế mới đặt tên cho quẻ là Khuê.

Qua rồi là quẻ Phong Hoả Gia Nhơn tượng cho nền Quốc Đạo Nam phong, tức là phong hoá nhà Nam. Theo đợt sóng văn minh Tây phương tràn vào một cách ồ ạt quá làm nghiêng ngửa nền phong hoá tốt đẹp của Việt Nam ta đã bao đời ông cha ta khổ công xây dựng. Nay Đức Chí Tôn đến trao cho một mối Đạo nhà cốt yếu giải khổ cho nhân loại vừa thể xác cũng vừa về tâm hồn, hầu an ủi cho nhân sinh. Nhưng bước đầu vì một Hiến pháp quá mới mẻ của một nền Tân Tôn giáo như Cao Đài này, mà Đức Hộ pháp là vị Giáo chủ nhiều công lao nhứt trong việc xây dựng, đã lao tâm tiêu tứ, tốn nhiều mồ hôi nước mắt để đem lại sự bình an cho dân tộc, nhưng anh em trong nhà Đạo một phần tử vì lợi lộc riêng, ham danh mến tước mà làm cho chia lìa nhau. Đức Ngài sau 5 năm 2 tháng bị Pháp nghi kỵ làm chánh trị để giành độc lập lại cho Việt Nam. Trong khi đó Việt Nam đang chịu sự đô hộ của Đế quốc Pháp.

Khai mạc Ðại Hội Phước Thiện.

Ngày rằm tháng chạp năm Bính Tuất (1947)

"Ngày nay, nhóm Ðại Hội Phước Thiện cũng là một Hội trong quyền Vạn Linh, Bần Ðạo cần giải rõ cái nhiệm vụ rất trọng yếu của Phước Thiện cho Chức Sắc, chư Phái Viên và Nghị Viên được hiểu.

Từ thử Thiên Phong nam, nữ Phước Thiện chỉ hiểu mảy may cái trách nhiệm tối cao tối trọng của mình chớ chưa hiểu cùng tột. Bởi cớ cho nên nhiều người không hiểu phận sự, hành Ðạo không đúng theo chơn truyền, sái hẳn giá trị của Cơ Quan Phước Thiện, việc làm của chư vị không ra gì hết, thành thử Cơ Quan Phước Thiện chưa có kết quả chi, lại còn theo lối giành giựt nhau.

Hội Thánh có hai Cơ Quan: Hành Chánh và Phước Thiện thường tương khắc nhau, song chưa tìm chơn lý để hòa nhau, ngày nào chưa hòa nhau là còn thất sách, bất lực thì không thi thố phận sự trọng yếu cho ra thiệt tướng được.

 

 

KHUÊ CÁC

Khuê-các 閨 閤: Chỗ con gái ở.

Bài hoạ của Ông Cao-Quỳnh-Cư qua bài "Thác vì Tình" của Thất Nương Vương thị Lễ có câu:

Rằng liễu khóc oanh có mấy ai?
Mộ người quốc-sắc Đấng thiên-tài,
Nhìn văn độ phẩm hàng khuê-các.
Xót Bạn tri-âm cõi dạ-đài.

 

 

KHUÊ MÔN


E: Women’s apartment.
F: Chamber de femme.

Khuê: chỗ ở của đàn bà con gái. Môn: cửa. Khuê môn là chỗ ở của phụ nữ trong nhà.

 

 

KHỦNG BỐ


F: Terreur, terroriser.

Khủng bố là một hình thức phá rối làm cho mọi người sợ hãi. Ngày nay phong trào chánh trị và xã hội phát sinh nhiều cuộc biến cố to, như lũng đoạn kinh tế, nạn thất nghiệp, thiên tai, động đất…sinh mệnh và tài sản của nhân dân hầu như bị đe dọa từng giờ dưới bàn tay khủng bố nguy hiểm, xem như xuất quỉ nhập thần, thiên hạ đều lấy làm sợ hãi. Đáng chú ý nhất là sự Khủng bố này do người Á-Rập theo Đạo Hồi

(Trích quyển Đạo Hồi thế giới Á-Rập- Văn minh- Lịch sử. Nhà xb tổng hợp TP. HCM Từ trang-45. Kinh Thánh Coran).

Cũng do tài liệu trên, dưới tiểu mục: "Đạo Hồi, một nhân tố mới trên bàn cờ địa chánh trị Thế giới" Sự kiện ngày 11-09-2001 tại Mỹ Quốc (Trích trang 7-10)

*8 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 09 năm 2001, một chiếc máy bay Boeng 767 của hãng Hàng-không American Airlines xuất phát từ Boston đâm thẳng vào một trong hai Toà nhà chọc trời của Trung tâm Thương mãi Quốc tế ở phía Nam thành phố New-York.. Trong khi lửa đang ngùn ngụt bốc cháy trên các tầng thượng của toà nhà này, nơi chiếc máy bay đâm vào.

*Thì lúc 9 giờ 26 phút một chiếc Boeng 767 khác của hãng Hàng Không United Airlines cũng xuất phát từ Boston, như một mũi tên, xuyên thẳng vào toà nhà chọc trời thứ hai của Trung tâm.

Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau, cả hai Toà nhà cao 110 tầng đã đổ sụp xuống, khói lửa và bụi bay ngất trời; một vệ-tinh nhân tạo của Mỹ bay qua đã chụp được cảnh tượng rùng rợn ấy. Hàng nghìn người bị kẹt trong hai toà nhà kể cả hàng trăm cảnh sát và lính cứu hoả của thành phố New-York đều bị chôn vùi dưới hàng trăm ngàn tấn sắt, thép và bê-tông. Toàn nước Mỹ được tin bàng hoàng sửng sốt thì:

*Lúc 9 giờ 30 một chiếc Boeng 757 của hãng American Airlines xuất phát từ Washington đi Los Angeles đã quay mũi bay trở lại Washington và đâm thẳng vào một cạnh của lầu Năm góc, nơi tập trung đầu não Quân sự của siêu cường Hoa-kỳ, làm chết hàng trăm Quân nhân Mỹ.

*Lúc 10 giờ 37, một chiếc Boeng 757 của hãng United Airlines chở đầy hành khách đã rơi xuống một cánh đồng ở Tiểu bang Pennsylvania, có lẽ đã hụt mục tiêu chính là Toà Nhà Trắng, phủ Tổng Thống Mỹ ở Washington.

Đứng trước một hành động khủng bố đánh vào giữa lòng nước Mỹ, điều mà từ xưa đến giờ chưa hề xảy ra, chánh quyền Liên bang đã nhanh chóng tiến hành các cuộc điều tra và xác định được tên tuổi của 19 người trực tiếp nhúng tay vào hành động cướp 4 máy bay dân dụng rồi tự tay lái đâm vào các mục tiêu là những biểu tượng của sức mạnh Kinh tế, Quân sự, Chánh trị của Mỹ và cũng của Thế giới Tây phương.

Tất cả 19 người khủng bố này đều là người ÁRập theo đạo Hồi và mang nhiều quốc tịch khác nhau.

Trong số họ, 6 người là nòng cốt và là những thanh niên có trình độ học thức cao. Họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng và có phương pháp từ nhiều tháng trước cuộc tập kích: nắm vững được kỹ thuật lái máy bay dân dụng cỡ lớn phải tốn hàng năm tập luyện. Mấy tháng trôi qua. Lửa vẫn cháy âm-ĩ và khói vẫn bốc trên bầu trời New-York, chánh phủ Mỹ ra tuyên bố là người chủ mưu đứng sau vụ khủng bố làm chấn động cả Thế giới ấy chính là tổ chức Hồi giáo quá khích Al Qaeda (Al Qaeda có nghĩa là Tổ chức Hồi giáo quá khích) mà người sáng lập và chỉ huy là nhà triệu phú Usama Bin Laden hiện đang trú tại Afghanistan lúc ấy là quốc gia độc nhất trên thế giới có một chánh thể giáo quyền Hồi giáo cực đoan. Với lý do tìm diệt Bin Laden và tổ chức của ông ta, Mỹ tiến hành thả bom và bắn phá Afghanistan bị kết tội là đã chứa chấp ông trùm khủng bố này. Sau đó Mỹ đã thành công trong việc giúp những người chống đối lật đổ chánh quyền Hồi giáo ở đây. Các hành động của Mỹ đã gây nên nhiều thương vong cho thường dân Afghanistan nên nhân dân các nước Hồi giáo trên thế giới đã rầm rộ xuống đường biểu tình phản đối, nhiều tín đồ Hồi giáo ở Pakistan và nhiều nước Á-Rập đã lên đường sang Afghanistan để chiến đấu bên cạnh những người anh em cùng tôn giáo với họ. Chiến tranh kết thúc, họ đều bị bắt và bị giam tại căn cứ Guantanamo của Mỹ ở Cuba.

Cuộc chiến tranh khủng bố này phải chăng là một cuộc chiến tranh chống Đạo Hồi? Mặc dầu trong các lời tuyên bố chính thức, cả hai bên đều bác bỏ cách giải thích này nhưng người ta vẫn tìm thấy ở đây ít nhiều đặc điểm của một cuộc "Thánh chiến". Về phía Mỹ, Tổng Thống George W. Bush đã vô tình hay cố ý tuyên bố đây là một cuộc "Thập tự chinh" làm người ta liên tưởng ngay đến các hiệp sĩ thời Trung cổ mang gươm sang vùng Trung Đông đánh chiếm lại những vùng đất Thánh như Palestine, Jérusalem đã bị các giáo chủ Hồi giáo đưa quân xâm lấn. Tổng Thống Mỹ còn nhiều lần lên án những khủng bố cố ý nhắm vào dân lành theo các đạo Cơ-Đốc và Do-Thái trên Thế giới. Hàng triệu người Hồi giáo, từ Trung Cận Đông sang Đông Nam-Á, từ vùng Balkan đến các nước Phi châu đều cho rằng đây là một cuộc Thánh chiến mới của họ. Từ Di-hát (Jihâd, Thánh chiến) được thốt lên trên cửa miệng của hàng vạn thanh niên sẵn sàng cầm vũ khí đi bảo vệ Tôn giáo của mình. Nhiều nhà phân tích chánh trị trên thế giới cũng cho đây là giai đoạn mở đầu của một cuộc "đụng đầu giữa các nền văn minh" mà Giáo sư Samuel Huntington đã tiên đoán trong một bài báo nổi tiếng đăng trên Tạp chí ngoại giao (Foreign Affair)của Mỹ năm 1995. Quan điểm này cũng được nhiều giới Hồi giáo chấp nhận. Tình hình ở Afghanistan vẫn chưa ổn định, tổ chức Al Qaeda vẫn chưa dẹp tan thì ngày 20 tháng 03 năm 2003, liên quân Mỹ - Anh lại tấn công và xâm lược Iraq, một nước Hồi giáo khác. Sau 20 ngày tiến quân và dùng các vũ khí vô cùng hiện đại tàn phá thủ đô Baghdad của nước này. Mỹ đã lật đổ được chánh quyền hợp pháp của Iraq do Tổng Thống Saddam Hussein lãnh đạo. Mặc dầu cả thế giới đều thấy rõ, động cơ chính của cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai này là tài nguyên dầu mỏ của Iraq, đứng hàng thứ hai trên thế giới chỉ sau Saudi Arabia, mà Mỹ và thế giới rất cần để phát triển, nhưng đối với người dân Hồi giáo nói chung và người dân A-Rập nói riêng, đây là một xúc phạm không tha thứ được đối với tôn giáo của họ. Thành phố Baghdad đã một thời, dưới triều đại các Giáo chủ Áp-bát, là trung tâm huy hoàng của Đạo Hồi. Đối với họ, nền văn minh Hồi giáo xưa kia vô cùng xán-lạn nay đang có nguy cơ bị huỷ diệt." (Trích từ trang 7-10- Hồi giáo thế giới Á-Rập)

 

 

KHỦNG HOẢNG

恐 慌
E: The crisis.
F: La crise.

Khủng: Sợ hãi, dọa nạt, rối loạn. Hoảng: vì gấp nên trong lòng rối loạn. Khủng hoảng là tình trạng rối loạn trong quá trình chuyển biến của sự việc (Tình trạng nguy cấp sợ hãi).

 

 

KHỦNG KHIẾP

Đức Hộ-Pháp nói: "Qua biết phận sự của Qua là Đại Từ Phụ giao phó với một lời yếu thiết như thế này: TẮC, Đời quá khổ chẳng phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại khổ đến tinh thần nữa, nạn của nhơn loại tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao cho con một cây Cờ Cứu Khổ, chẳng phải cứu khổ tinh thần mà thôi, lại lẫn cả thể xác nữa. Trọng hệ hơn hết là điều ấy Thầy giao phó cho con, nhưng mà con phải hiểu: có khổ về tinh thần mới biến sanh ra khổ của thể xác. Thầy nói rõ Thầy giao cho một gánh Đạo và Đời. Thật sự ra Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi nào làm cho Bần-Đạo khủng khiếp. Duy có gánh của Đời Ngài giao phó nó nặng nề hơn hết."

 

 

KHUÔN HỒNG

Khuôn hồng là một dụng cụ to để đúc ra các thứ đồ vật, khuôn thiêng liêng, được ví như Đấng Tạo Hóa đã sản xuất ra vạn vật. Đây chỉ Đức Thượng Đế hay Chí Tôn.

Kinh Vào Học có câu:

"Dò đường Thánh khó khăn chẳng nại,
"Tùng khuôn Hồng nhỏ dại lớn khôn."

 

 

KHUÔN KHỔ

E: Form and dimensions.
F: Forme et dimensions.

Khuôn: Dụng cụ dùng để đúc ra các vật, chỉ cái mẫu mực phải tuân theo. Khổ: kích thước. Khuôn khổ là phạm vi giới hạn chặt chẽ, là mẫu mực đã được qui định sẵn.

Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938):

Nam là chánh, nữ là phó, đặng thi hành Luật Đạo theo một khuôn khổ và luật lịnh.

 

 

KHUÔN LINH

Khuôn linh cùng ý nghĩ như khuôn hồng hay khuôn thiêng, chỉ Đấng Tạo hóa, hóa sanh muôn loài.

Đức Quan Thánh để lời rằng: "Than ôi! Trời cao minh soi xét mà người vẫn mê muội ám mờ, đem mảnh trí cỏn con kia chống kình với khuôn linh Tạo hóa. Muốn học mùi Ðạo mà lại kèo nài giao kết thì dầu cho bậc phẩm nào đi nữa, cái ân đức Từ bi cũng khó chiều theo được. Các Ðấng Thiêng liêng xưa kia khổ hạnh, công cán thế nào mới được về ngôi cao phẩm quí, há chẳng phải là gương tín thành đáng noi dấu hay sao?"

Bài Thài tế điện cho Bà Lâm Hương Thanh có câu:

Đầy giỏ Hoa Lam chất ái tình,
Y theo mặt luật của khuôn linh.
Thử căn linh thể nơi phàm tục,
Mới hưởng hồng ân chốn Ngọc đình.

 

 

KHUÔN LUẬT HỮU HÌNH

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn trả lời câu hỏi của Đức Hộ Pháp về Thầy khai địa cầu Thần thông thế nào? CƠ của Đức Nguyệt Tâm đáp:

Các võ trụ lớn hơn hoặc nhỏ,
Cơ sanh tồn do ngõ Hư linh.
In theo khuôn luật hữu hình,
Cũng nguời cũng vật cũng tình yêu thương.

 

 

KHUÔN THUYỀN TẾ ĐỘ

LỜI-PHÊ của ĐỨC HỘ-PHÁP qua Tờ xin trả chức của Lễ-Sanh Ngọc-Giác-Thanh. Nguyên ông Lễ Sanh Giác là nhân viên Ban Tổng Trạo, giữ vai Tổng Khậu vào thời điểm đầu tiên Ban Tổng mới thành lập. Thầy phê như vầy:

"Bần-Đạo buồn-cười mà để dấu hỏi coi ai dạy Giác mà nó ngoan Đạo quá vậy. Đương chèo thuyền Bát Nhã là một tên bạn chèo mà coi mình trọng hơn phẩm Lễ Sanh cũng là một điều hi-hữu. Ừ phải! Nó chỉ biết nó theo khuôn thuyền tế-độ, ấy là vì biết chủ chiếc thuyền là Đức Di-Lạc Vương-Phật, nên nó nghĩ: "Thà làm tôi cho một vị PHẬT đặng đưa bước Thiêng Liêng cho các Chơn Hồn, hơn là làm tôi-đòi cho Vạn-Linh Sanh-Chúng".

 

 

KHUÔN VÀNG THƯỚC NGỌC

E: The pricious rules.
F: Les règles précieuses.

Khuôn: Dụng cụ dùng để đúc ra các vật, chỉ cái mẫu mực phải tuân theo. Khuôn thước: chỉ mẫu mực phải tuân theo. Vàng ngọc: chỉ sự quí báu. Khuôn vàng thước ngọc là chỉ những cái được xem là mẫu mực hoàn hảo nhất để mọi người noi theo.

 

 

KHUYÊN

F: conseiller, consoler.

Thi văn dạy Đạo:

Trình Ta, Ta phải đỡ nâng chơn,
Khuyên một điều con khá giảm hờn.
Hễ ghét người thì Trời ghét lại,
Ghét người Trời ghét lẽ nào hơn.

 

 

KHUYÊN DẠY

Thầy cho biết: "Thầy đã hết lời khuyên dạy buổi đầu, lại để lời tiên tri dặn bảo, mà các con chẳng biết vâng lời, cứ gây đoan những điều hờn giận, dối trá, gạt nhau, đòi phen lại dám mượn danh Thầy mà làm lợi khí."

 

 

KHUYÊN NHỦ

Lời của Đức Chí-Tôn: "Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con; các con duy có tu mà đắc đạo; phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi".

Đức Hộ-pháp nói rõ cho biết: "Bần-Đạo lấy làm mừng cho nước Việt-Nam trả hết món nợ tiền khiên mà Tổ tiên chúng ta vay từ thuở bị nô lệ, nay không còn nô lệ nữa. Vậy thời oan trái đã trả xong. Các con để tâm suy nghĩ, ngó thấy dưới thế gian này ai mạnh cho bằng Tần Thủy Hoàng và Thành Cát Tư Hãn? Có ai mưu sĩ cho bằng Tào Tháo? Còn Đức Thích-Ca và Đức Chúa Jésus không có một tấc thép trong tay để bảo vệ lấy thân mà làm bá chủ hoàn cầu mới là lạ chớ! Hành ác trả ác, hành thiện trả lại thiện mà thôi "Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu" nghĩa là tuy lưới trời lồng lộng mà chẳng lọt mảy lông mày, không bao giờ sai chạy. Bần Đạo nói ra đây các con rán mà nhớ, các con đừng có mộng làm giàu cho mắc công, các con bây giờ sống trên nắp thùng nổ của bom nguyên-tử, dù muốn dù không các con phải chịu ăn bom mà thôi, các con muốn trốn bom nguyên tử phải chun trong đám đậu nành mà trốn chớ không trốn đâu cho khỏi hết. Sau này nước Việt-Nam còn sống nhiều nhờ biết chay lạt, tu hành; còn các nước khác chỉ còn sống lưa thưa mà thôi. Vì họ hành ác chạy đua theo vũ trang giết người hàng loạt nên Đức Chí-Tôn mới phạt họ. Năm ngàn năm trở lại đây biết bao nhiêu Đấng xuống trần dạy Đạo, khuyên nhủ cho người ta biết làm lành lánh dữ, nhưng tánh nào tật ấy, dữ cũng vẫn dữ mà thôi. Họ không có hiền bảo người ta hiền làm sao cho được? Trước khi dạy người, ta phải hiền trước để làm gương mẫu: hiền lành trước đi, thì người khác mới noi theo, nên Đức Chí Tôn mới mở Đạo, lấy Thương yêu làm gốc và công bình, bác ái. Ngày nào cả nhân loại trên mặt địa cầu này biết nhìn nhận Đức Chí-Tôn là Đấng Cha chung thì ngày ấy mới được Hòa bình vĩnh cữu. Tóm lại, ai hành ác mặc họ, Tín đồ Cao Đài rán lo tu, chay lạt, đi Cúng hằng ngày, phải nhiều thời, nhiều pháp, nhiều Kinh cầu xin Đức Chí Tôn giảm tội cho họ. Nếu họ biết ăn năn hối cải mà làm lành lánh dữ bằng không phải trả giá rất đắc".

Thơ Thán Đạo ngâm của Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh:

Vì tổn bấy công lao khuyên nhủ,
Mới qui nguyên đạo hữu một nhà.
Mà nay không-khí bất hoà,
Thình-lình xúi giục người ra cửa ngoài.

 

 

KHUYÊN RĂN

F: Réprimander, reprendre.

Để lời nhắc nhở, dạy bảo, là thái độ của người lớn.

Bát Nương giáng: 14-8-Mậu Tý (dl: 16-9-1948)

"Em rất vui lòng mà đặng thấy quí Anh và các Bạn hội họp nơi đây đồng một dạ chiêm ngưỡng các Đấng đến đàn Tiên chỉ bảo đôi lời đạo hạnh, khuyên răn tánh đức và các Bạn cùng nhau lo bồi đắp nền Tôn giáo, là cũng một phần lo bồi bổ giang sơn, từ mỗi vị lo thi hành nhiệm vụ của mình.

Em phụng lịnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu đến ban phước lành cho tất cả quí anh cùng tất cả các bạn Hiệp Thiên Đài và để đôi lời cùng các Bạn, cứ vững tâm lo tròn nhiệm vụ của mình là phải Bác-ái, Từ-tâm, Công-bình, Chánh-trực, hằng ngày gieo mối cảm tình với đồng chủng.

Các Bạn chớ tưởng nền Đại-Đạo ở hoài trong khuôn khổ chật hẹp nầy đâu, nó phải lướt qua bốn biển Năm Châu, chừng ấy nơi nào cũng có các Bạn, nếu vắng mặt các Bạn thì nơi ấy không thành Đạo được.

Vậy thì chẳng nơi nào mà chẳng có chơn của Chức sắc Hiệp Thiên Đài.

Còn nói về quyền hành, tuy không mà có, tưởng nhỏ mà to, cả Luật lệ nắm trong tay, Cân công lý nằm trên vai, đố ai chạy đường nào cho khỏi.

Nhưng thương thì hay gần gũi khuyên răn, có lời chi nặng nề, xin các Bạn miễn nghị và vui lòng đàm luận thì em lấy làm may mắn lắm.

Cuộc Hội Yến đến đây rất long trọng. Các chị nơi Diêu Trì Cung đều sửa soạn trang hoàng, hô hào nô nức đặng đến phó hội. Các chị đồng để lời cảm ơn đức của quí Anh và các Bạn. Cho Thi:

Hạc trắng bay về hội hướng Tây,
Cùng nhau hạnh hưởng cuộc vui vầy.
Đạo phòng mỹ ý toan truyền bá,
Kết nghĩa gồm thâu trọng Đạo Thầy.

 

 

KHUYẾN CÁO

Đức Hộ Pháp giáng dạy ngày 14-12-1968 dạy rằng:

"Bần Đạo để lời khuyến cáo chư Hiền Đệ Hiệp Thiên, phải chứng tỏ tánh cao thượng của mình mà đừng so sánh phẩm tước mà làm gì, cứ lo xây dựng cho nền Đạo được cao thâm thì không mất phần thưởng Thiêng Liêng đâu?"

 

 

KHUYẾN DỤ

Khuyến dụ : khuyên nhủ nên làm điều phải.

Thầy dạy: "Bởi vậy cho nên Thầy chẳng vì ghét mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành. Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình, chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con."

 

 

KHUYẾN GIÁO


E: To advise and teach.
F: Conseiller et enseigner.

Thất Nương nói: "Em xin nhắc nhở điều nầy: Ngày hội Ngọc Hư đặng lo phương tiếp pháp của Tây Phương Cực Lạc qua, Em đã đặng nghe thấy những lời của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát than thở rằng: Ngài là Phật nên khó gần gũi các hồn Nữ phái mà khuyến giáo cơ giải thoát mê đồ. Bởi cớ, nơi Âm quang, Nữ hồn còn bị luyện tội nhiều hơn Nam phái bội phần. Em lại nghe Người ước rằng: Chớ chi có một Ðấng Nữ Tiên dám đảm đương đến phổ tế mới mong tận độ chư vong của Phong đô thoát kiếp."

 

 

KHUYẾN THIỆN

Khuyến thiện : khuyên làm việc thiện.

Kinh Sám Hối có câu:

"Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,
"Câu văn từ luận biện thật-thà."

 

 

KHUYẾN TU

Khuyến tu : lời khuyên nên ra sức tu hành.

Đây là mười điều Khuyến tu của Đức Chí-Tôn:

Ðiều thứ nhứt: Thầy khuyên nên nhớ,
Lòng trung kiên muôn thuở còn nêu;
Dầu ai nặng nhẹ trăm điều,
Quyết không bỏ lý cao siêu của Thầỵ
Nhiều thử thách vây quanh con đó,
Nếu ngã lòng công khó tiêu tan;
Việc chi dầu ở trần gian,
Là điều huyễn hoặc chớ mang nơi lòng.

Ðiều thứ hai: Thầy trông đệ tử,
Tình bạn bè phải giữ thủy chung;
Luôn luôn tha thứ khoan dung,
Nói năng nhỏ nhẹ chớ dùng lời thô.
Dìu dắt nhau điểm tô công quả,
Phải thật hành với cả chung quanh;
Thiệt thòi cam chịu đã đành,
Vô vi phẩm vị Thầy dành cho con.

Ðiều thứ ba: Vẹn tròn hạnh đức,
Tuy bán buôn cực khổ tảo tần;
Ðủ công nuôi nấng tấm thân,
Ðừng ham những chuyện phi nhân gạt lường.
Dầu tiền bạc đầy rương tràn tủ,
Cuộc trần nầy chưa đủ con ơi!
Ác gian cũng chỉ một đời,
Thà nghèo trong sạch thảnh thơi linh hồn.

Ðiều thứ tư: Pháp môn qui luật,
Lục, thập trai cố sức trau giồi;
Thịt thì xương máu tanh hôi,
Cỏ cây rau cải cũng rồi bữa ăn.
Ðức từ bi thường hằng thể hiện,
Không sát sanh lòng thiện ta còn;
Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon,
Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng.

Đây là điều 5 trong 10 điều Khuyến tu của Đức Chí-Tôn:

Ðiều thứ năm: Quyết không hờn giận,
Ghét ganh chi cho bận lòng mình;
Con xem vạn quyển Thiên Kinh,
Hiền nhân quân tử rộng tình ví câu.
Muôn việc xảy bắt đầu phẫn nộ,
Là nguyên nhân thống khổ ly tan;
Chơn truyền Pháp chánh Ðạo Vàng,
Tập xong chữ Nhẫn Niết Bàn không xa.

Ðiều thứ sáu: Thiết tha Thầy dặn,
Ngày hai thời lẳng lặng công phu;
Việc chi dầu quá cần cù,
Cũng nhơn vài khắc tập Tu nguyện cầu.
Khi rảnh việc đồng sâu chợ búa,
Ðem sấm, kinh, thi... của Thầy ban;
Học cho thông thuộc đôi hàng,
Ngâm nga trong lúc thanh nhàn bâng khuâng.

Ðiều thứ bảy: Quyết tăng công quả,
Ta cứu người già cả ốm đau;
Tùy duyên có thể giúp vào,
Lâm cơn hoạn nạn khi nào cần con.
Phước đức đó vẫn còn muôn thuở,
Tuy vô hình đừng ngỡ rằng không,
Con ôi! trong cõi trần hồng,
Mấy ai nghĩ đến tấm lòng thanh cao.

Ðiều thứ tám: lời nào Thầy dạy,
Dầu khổ đau chớ ngại công trình;
Biết rằng con phải hy sinh,
Phật Tiên đâu nỡ quên tình hay sao?
Ðừng chấp việc núi cao rừng thẵm,
Hãy dò đường muôn dặm xa trông;
Nếu con thề giữ trọn lòng,
Ðương nhiên đắc Đạo thoát vòng tử sanh.

Ðiều thứ chín: Ðạo hành cơ bản,
Giữ làm sao có bạn không thù;
Từ đây con nhớ rằng Tu,
Hạ mình nhận lỗi mặc dù là không.
Lời nói sao hòa trong hiệp ngoại,
Ðừng hơn người nếu phải ép lòng;
Không ham những chuyện mênh mông,
Trừ no đủ ấm ép lòng mà chi.

Ðiều chót hết: Mười ghi trăm nhớ,
Phật - Pháp - Tăng con chớ quên ơn;
Gia đình nghĩa trọng nhiều hơn,
Tình thương xã hội trong cơn thiết cần.
Ơn Tổ Tiên dành phần con cháu,
Do những lời dạy bảo Thầy mong;
Con ơi! Hãy khá ghi lòng,
Bấy nhiêu tâm huyết mấy dòng thi văn.

 

 

KHUYẾT ĐIỂM

Sự thiếu kém về một phương diện nào.

Về việc viết sách phổ truyền Giáo lý Đạo Cao Đài, Ngài Bảo-Pháp lo ngại có điều sai sót không tránh khỏi, nên Ngài cầu hỏi Đức Chí-Tôn, Đức Ngài giáng cơ trả lời như sau: [(Phò loan: Bảo Pháp - Hiến Pháp) -Tháng 5-1927] "Hậu! Sách con làm ra đều có giá trị, là nhờ Thầy giáng tâm con. Con sợ sai lầm cũng phải, nhưng về sự sai siển, dầu bậc Thánh xưa làm sách cũng còn nhiều chỗ khuyết điểm. Vậy con cứ an lòng mà làm ích thêm nữa. Thầy hằng ở bên con mà dìu dắt cho trí hóa rộng thêm, nghe con! Năm 1928, Ngài Bảo Pháp cũng có hỏi Đức Chí Tôn về việc viết sách Đạo, Đức Chí Tôn đáp: Hay đó con! Con cứ lần lần đến đâu thì có giá trị đến đó, tùy theo trình độ học cứu mà tấn hóa, nghe!"

Đó là khuyết điểm về phương diện viết sách.

Đức Hộ-Pháp còn cho biết khuyết điểm về mặt chánh trị: "Có một điều khuyết-điểm chúng ta ngó thấy, một trường hỗn-loạn, tương-tàn tương sát với nhau, vì muốn thi hành mặt công-lý, tức nhiên lấy cân công chánh làm mô giới cả cơ quan trị thế. Nhơn-loại loạn lạc tức nhiên mặt Luật công-bình chúng ta đã ngó thấy, quả nhiên không thể chối cải cái gì được. Công chánh là nơi miệng lưỡi loài người, tức nhiên vạn-quốc đương dùng bây giờ là một phương-pháp để lường gạt tâm-lý nhơn-loại."

 

 

KHUYẾT ĐIỂM TRÍ THỨC TINH THẦN

Bát Nương Diêu Trì Cung nhắc nhở: "Thưa chị Hương Thanh: Em vưng mạng lịnh Thầy lo về sự khuyết điểm trí thức tinh thần của Nữ phái, còn Chị thì lo về phần vật chất tuồng đời. Vậy thì Em sở cậy chị sự hành động làm thế nào cho việc dạy dỗ của mấy Em ra thiệt hành thì mới mong cải sửa đặng tà tâm của nhiều kẻ."

 

 

KHUYNH HƯỚNG


F: Se pencher vers.

Khuynh hướng : xu hướng về, xoay theo.

"Ðạo mở vào buổi nhơn sanh đang khuynh hướng về đường vật-chất thì cái Tôn-chỉ Ðạo tất phải có thiệt lực gì cực kỳ mãnh liệt mới dung hòa nỗi hai thuyết duy tâm và duy vật và phải hạp thời thì nhơn sanh mới chịu hoan nghinh mà bước vào cửa Ðạo. Nếu Ðạo mà không có cái Tôn-chỉ duy-tân cải cách theo trình-độ tiến hóa của nhơn sanh thì Ðức Thượng-Ðế chẳng cần nhọc công tái lập, vì Ðạo vẫn có từ tạo Thiên lập Ðịa mà trong nhân-gian cũng đã lập thành nhiều nền Tôn-giáo để tùy thời mà tế độ quần linh".

 

 

KHUYNH GIA BẠI SẢN


E: To ruine one’s family.
F: Ruiner sa famille.

Khuynh: nghiêng đổ. Gia: nhà. Bại: tiêu tan, đổ nát. Sản: của cải làm ra. Khuynh gia bại sản là nhà cửa đổ nát, tài sản tiêu tan (làm cho tan nhà nát cửa, tiêu tan sự nghiệp).

Thành ngữ nầy đồng nghĩa với: Tán gia bại sản, Khuynh gia đãng sản.

 

 

KHỨ HỒI

:
E: To go and come back.
F: Aller et revenir.

Khứ: Đi, đã qua, bỏ mất. Hồi: trở về. Khứ hồi là đi và về.

 

KHỬ ÁM HỒI MINH

Khử ám hồi minh : bỏ chỗ tối về chỗ sáng.

Đức Hộ-Pháp dâng Sớ chung niên năm Ất Mùi về Thiêng liêng có đoạn rằng: "Như Đệ-Tử đã thượng trình về sự vui mừng trong năm thì vào thượng tuần tháng Giêng, lễ Khánh Thành Đền Thờ Đức Chí-Tôn và Đền Thờ Đức Phật-Mẫu đã được cực kỳ mỹ mãn, danh Đạo bay khắp trời Nam, cả loáng ra hoàn cầu, bởi có cả Sứ thần ngoại quốc hưởng ứng dự lễ. Hồn Đạo vững chắc, Thánh Địa hoàn toàn trở thành Thánh Địa vô phòng thủ võ trang thì đại nghiệp Đạo từ đây là đại nghiệp của chung nhơn loại. Thừa dịp Lễ Khánh Thành này: Đệ-Tử có thiết lễ thiêu phàm thân của Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt (Lê-Văn-Trung); Đức Cao-Thượng-Phẩm (Cao Quỳnh-Cư), Đức Nữ Đầu Sư (Lâm-Ngọc-Thanh) và Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang). Xá-lợi đang thờ nơi Bát-Quái-Đài, tro tàn đã rải trên dòng sông Giang Tân tại Tỉnh Tây-Ninh. Nhờ hồng ân Đại-Từ-Phụ và Đức Phật Mẫu, Đệ-Tử khẩn nguyện nước sông Giang Tân sẽ là Cam-Lồ-Thủy tẩy trược cho kẻ hữu căn, người hữu phước như dòng sông Gange bên Ấn-Độ-quốc thì may mắn cho chúng sanh sẽ có nơi gội rửa bụi trần giải bớt oan khiên nghiệp chướng hầu khử ám hồi minh cải tà qui chánh".

Kinh Sám Hối có câu:

"Ăn-năn khử ám hồi minh,
"Từ-bi Trời Phật rộng tình xét cho."

 

 

KHỬ ÁM TỰU MINH

Khử ám tựu minh : bỏ tà theo chánh.

Thơ Thán Đạo ngâm của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh có câu:

Lời Thầy dạy Thánh-ngôn ghi chữ,
Biểu chúng ta lánh dữ làm lành.
Phải lo khử ám tựu minh,
Cải tà qui chánh lập thành chơn tu.

 

 

KHỬ QUỈ TRỪ MA


E: To eliminate the demons.
F: Éliminer les demons.

Khử quỉ trừ ma : vứt bỏ những tánh xảo quyệt, ganh ghét, tị hiềm.

Kinh Giải Oan có câu:

"Nhập Thánh-thể dò đường cựu vị,
"Noi Chơn-Truyền khử quỉ trừ ma.
"Huệ-quang chiếu thấu chánh tà,
"Chèo thuyền Bát-Nhã Ngân-hà độ sanh."

 

 

KHỬ TỘI


E: To eliminate the sin.
F: Éliminer de péché.

Khử: Trừ bỏ, làm cho tiêu mất. Tội: tội lỗi. Khử tội là tiêu trừ tội lỗi, tức là làm cho hết tội.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:

Các con nên lấy lời răn của Thầy đây làm vị thuốc khử tội của các con.

 

 

KHƯƠNG HY

Thi văn dạy Đạo rằng:

Khương Hy bất phục Hớn trào vong,
Thiên tải hưng suy nhử kiến đồng.
Thạch đảo lãng xâm phong khí hoại,
Từ tâm đức vượng thạnh kỳ phòng.

 

 

KHƯƠNG NINH


E: Health and peace.
F: Santé et paix.

Khương ninh : An ổn mạnh khoẻ.

Kinh Cầu Siêu có câu:

"Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,
"Hộ thương sanh u hiển khương ninh."

Thất Nương giáng ngày 3-2-Đinh Hợi (dl: 23-2-1947)

Người tu thì được khương ninh,
Kẻ vô đạo đức chôn mình vực sâu.
Khá mau thức tỉnh hồi đầu,
Ăn chay chuộc tội khỏi hầu Phong đô.

 

 

KHƯƠNG THƯỢNG TỬ NHA

上子

Ngài cũng được gọi là Khương Thái Công, húy là Thượng, tự là Tử Nha, biệt hiệu là Phi Hùng, người Đông Hải thuộc đất Hứa châu (Trung Hoa), sinh vào cuối đời nhà Thương. Tuy là người học rộng tài cao, nhưng mãi đến năm 72 tuổi, Thái Công mới được Tây Bá Hầu Cơ Xương rước về phong làm Thừa tướng. Sau khi Cơ Xương mất, con là Cơ Phát lên nối nghiệp, Thái Công lại giúp Tây Bá Phát (Cơ Phát) hưng binh diệt Trụ lập ra nhà Chu hoàn thành xong sứ mạng. Thái Công lập một đài ở núi Kỳ Sơn để phong Thần cho các vong linh tướng sĩ tử trận và các mệnh phụ tiết liệt hiếu trung đã mệnh chung. Riêng Thái Công thì được Vũ Vương (tức Cơ Phát) phong làm Chúa nước Tề thuo65cti3nh Sơn Đông.

"Ông Khương Thái Công (gọi là Thái Công Vọng hay là Tử Nha) vâng lịnh Đức Nguơn-Thỉ Thiên Tôn ở Côn-Lôn-sơn lập Phong-Thần-bảng, đến giúp nghiệp châu, cũng vì Nhơn mà khai minh Chơn lý của quyền hành thưởng phạt thiêng liêng giúp thế trị đặng thêm mỹ mãn. Tôn sùng trung liệt, trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm nhuệ khí đặng trừ tan ác nghiệt của xác thân, ấy là dùng quyền phép vô hình đặng điều khiển hành tàng mặt thế; Ngài giúp cho thế gian kinh nghiệm đủ cớ hiển nhiên rằng vạn ác đã đào tạo của kiếp sống con người, chẳng trốn tội khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt Thiêng liêng có đủ quyền năng của xác cùng hồn; Thể thì có trí tuệ của loài người, còn Đạo lại có Thần minh ám sát. Triết lý Thần linh nghĩa là quyền phép của lương tâm, do đó mà lập thành căn bổn và năng lực vận hành hiện tượng của tư tưởng cùng bổn nguyên Thần pháp đặng nảy sanh.

Ôi! Cũng vì cớ quả nhiên thật sự Bí pháp này đây đời chất chứa nhiều điều mê tín..Tuy vân, chẳng phải chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền vi Bí mật Phong Thần, song Ngài biết tùng lịnh thật hành những tư tưởng cao thượng của Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn thì công ấy đủ làm đầu Thần giáo.

Đời khi ấy dường như đang bị phát phối ung thư chịu đau đớn sầu than chẳng xiết, mà Ngài lãnh hoàn thuốc linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế. Ngài nhờ thấy bạo tàn Thương, Trụ và thương đạo Nhơn Nghĩa của nhà Châu vua Văn Vương và Võ Vương dục khai "bổn thiện", nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn mà dám chịu nhọc nhằn cực khổ, giúp đạo đức khử bạo tàn, thâu cơ nghiệp Thành Thang cứu dân đen trong nước lửa. Tuy đôi bên Thương Châu khác giá, mà đối với bậc trung cang, trí dõng, vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô tư, không thân vị, chỉ ngó mặt công phong phẩm tước.Dầu điều dị đoan mê tín trong truyện Phong Thần dẫy đầy, nhưng ngó đến Bảng Phong Thần lẽ công chánh phải đành nhìn mặt". (Ðức Hộ Pháp: Trích Khuê bài Thiêng liêng vị)

Tiều sử: Ngài họ Khương, tên Thượng, tên chữ là Tử Nha. Khương Thượng Tử Nha là học trò của Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn, Giáo chủ Xiển giáo. Ông Khương Thượng không có số thành Tiên, nên Đức Giáo chủ Nguơn Thủy truyền cho Khương Thượng trở về trần lập Bảng Phong Thần và thay mặt cho Giáo chủ đọc Sắc Phong Thần. Do đó, Đức Khương Thượng Tử Nha là vị đứng đầu các Thần, tượng trưng Thần-Đạo Trung Hoa và cũng có thể xem Ngài là Giáo chủ Thần Đạo Trung Hoa vậy. Đức Khương Thượng lại được vua Châu Võ Vương phong chức Thái Công và được vua gọi là Thượng phụ hay Tướng Phụ. Do đó, trong Đạo Cao Đài gọi Ngài là: "Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn".Ngài vâng lịnh thầy xuống núi lãnh sứ mạng nắm quyền chủ khảo Thần Đạo mà còn thực hành cái giáo thuyết của Phật, tất nhiên con Kỵ vật của Ngài ngự với cái danh Tứ Bất Tướng nên chí khí đại hùng không chịu ảnh hưởng bốn sắc tướng ở kiếp người là "Ly hợp vi thuận" dầu Thần cũng vậy, không trọng lấy cái bản ngã của thân "Tứ đại giả hợp".

Đức Hộ-Pháp nói: "Đức Khương Tử Nha khi Ông lãnh lịnh lập Bảng Phong-Thần, đi giữa đường còn bị Thân Công Báo trích điểm, chính người sau lên án Đức Khương-Tử-Nha phản Trụ đầu Châu, so sánh Đức Khương Tử Nha với Bá-Di Thúc-Tề, người ta trích điểm một cách kịch liệt, người ta cho Ngài đã thất Nhơn luân chi Đạo của Ngài, như thế thì đầu óc trí não của chúng ta khó suy nghĩ lắm."

Trên Thánh tượng Ngũ Chi thờ tại Thiên bàn, Đức Khương Thượng Tử Nha là Đấng ngồi dưới chót hết ở hàng giữa, tượng trưng Thần Đạo. Ngài mặc áo vàng có thêu Bát Quái, tay mặt cầm cây roi gọi là Đả Thần tiên, tay trái cầm một cây cờ vàng gọi là Hạnh Huỳnh Kỳ.

- Đả Thần tiên (Đả là đánh, Thần là các vị Thần, tiên là cây roi) do Đức Nguơn Thủy ban cho, dài 3 thước 5 tấc 6 phân (thước Tàu) gồm có 26 mắc, mỗi mắc có 4 điệu bùa. (Tức là roi Thần để trừ yêu quái)

- Hạnh Huỳnh Kỳ là cây cờ vàng do Đức Nguơn Thủy ban cho, trong lá cờ có thẻ mà không có chữ. Khi gặp việc nguy biến, chữ sẽ hiện ra trên thẻ, chỉ cho cách đối phó và giải quyết. Khi xổ cờ ra che thân thì có hàng ngàn bông sen vàng rủ xuống bảo vệ khắp thân thể không cho bất cứ vật gì xâm phạm vào thân thể.

Ngày kỷ niệm Thánh đản Đức Khương Thượng Tử Nha là ngày 18 tháng 4 âm lịch hằng năm, nhưng Ngài không có được ngày Vía riêng biệt vì Ngài không để lại một học thuyết hay một triết lý nào cho nhân loại. Nguyên thuở trước, Ông Tổ của Khương Thượng là cháu của vua Thần Nông, tên Bá Ích, được phong làm Lữ Hầu, nên kể từ đó lấy họ Lữ (hay Lã), sau lại có công trị thủy nên theo họ Khương. Bởi vậy có hai họ: Lữ và Khương. Đức Khương Thượng, tên tộc là Vọng, nên gọi là Lữ Vọng hay Lã Vọng, tên chữ là Tử Nha, hiệu là Phi Hùng (gấu bay), quê quán ở Hứa Châu. Năm Khương Thượng 32 tuổi, lòng mộ Đạo, nên đi lên núi Côn Lôn xin học Đạo với Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn, Giáo chủ Xiển giáo. Ở núi tu 40 năm, Khương Thượng được 72 tuổi, thì Đức Nguơn Thủy gọi lên bảo: - Số ngươi chưa thành Tiên đặng, hưởng lộc có dư. Nay Thành Thang hết vận có Tây Châu ra đời. Ngươi phải thay mặt Ta mà xuống thế, ra công giúp nhà Châu, cầm Bảng Phong Thần, sống làm tướng, thác làm Thần, công tu 40 năm, danh để muôn thuở. Khương Thượng nói: Nay vâng lời thầy trở lại chốn phàm trần, chẳng hay việc tới thế nào, xin thầy cho biết.

- Ta có 8 câu kệ chỉ rõ trọn đời của ngươi, giống như lời sấm, rán mà nhớ lấy:

Mười năm chịu túng áo còn bâu,
Gượng gạo mua vui chớ chác sầu.
Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận,
Chờ xe Vương giả rước về lầu.
Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc,
Chín chục dư ba buộc ấn hầu.
Mậu Ngũ chư Hầu trăm trấn phục,
Phong Thần chín tám bốn Xuân Thu.

Đức Nguơn Thỉ ngâm kệ xong, nói bây giờ ngươi xuống trần, ngày sau cũng trở về núi. Tử Nha lạy thầy, giã bạn, ra khỏi Cung Ngọc Hư, trở về trần. Nhớ lại không còn bà con, chỉ có người bạn là Tống Dị Nhơn đang ở đất Triều Ca, Tử Nha liền đến đó để nương nhờ. Tống Dị Nhơn gặp Tử Nha mừng rỡ hỏi: Chú bây giờ ăn chay hay mặn để bầy trẻ lo cơm? Cũng tiếng là kẻ tu hành, đâu dám dùng rượu thịt. Tống Dị Nhơn nhận Tử Nha làm em kết nghĩa, thấy Tử Nha đã già mà không có con nối hậu, nên tính cưới vợ cho Tử Nha. Dị Nhơn hỏi cưới Mã thị, con gái lỡ thời của Mã Viên Ngoại cho Tử Nha. Mã Thị năm đó đã 68 tuổi.

Có bài thơ ghi lại việc nầy:

Tu chẳng thành Tiên, tiếc Tử Nha,
Về trần cưới vợ lạ thay là!
Sáu mươi tám tuổi nhành dâu xế,
Bảy chục dư hai cái rễ già.
Xem đuốc hàm râu e lửa táp,
Soi gương mái tóc tợ sương sa.
Lá lay Nguyệt Lão xe tơ muộn,
Dẫu đến trăm năm nhắm chẳng xa.

Mã Thị nói với Tử Nha phải tìm cách làm ăn sinh sống, chớ nên nhờ vả Tống Dị Nhơn hoài. Tử Nha nói biết đan gàu giai, nên đi chẻ tre, đan một gánh gàu giai đem xuống chợ bán. Ngồi từ sáng đến chiều mà chẳng có ai hỏi mua gàu, đành gánh trở về, bụng đói lã, lại khát nước mà chẳng có một đồng trong túi để mua. Mã Thị lại bày ra việc xay bột lúa mì. Xay xong, bảo Tử Nha gánh bột xuống chợ Triều Ca để bán, cũng vẫn không có ai mua, lại bị ngựa của quan chạy qua làm đổ hết gánh bột. Tống Dị Nhơn thấy Mã Thị luôn luôn đốc thúc Tử Nha kiếm việc làm ăn, nên Dị Nhơn đề nghị, mỗi ngày Tử Nha đến một quán rượu của ông nơi chợ Triều Ca, đứng làm chủ bán hàng và sẽ cho Tử Nha tất cả số tiền lời của ngày hôm đó. Ngày mai khởi sự để Tử Nha đứng bán tại quán họ Trương là chỗ đông khách nhứt. Họ Trương truyền cho bọn giúp việc trong quán làm thịt heo, dê, dọn bày đặc biệt hơn ngày thường để Tử Nha có cơ hội bán đắc hàng. Nào ngờ hôm đó, Trời mưa xối xả từ sáng đến chiều, ngoài đường vắng tanh, không khách vào quán, đồ ăn chờ đến chiều sắp thiu, nên Tử Nha đành cho các người làm công dọn ra ăn hết, còn dư thì đem cho các người làm công ở các quán khác. Thế là hôm đó, Tử Nha bị lỗ nặng.

Tống Dị Nhơn an ủi: Hiền Đệ chớ lo, bởi chưa đến thời nên mới xui như vậy. Ngày mai tôi sẽ sai bọn gia đinh đi mua cho Hiền Đệ một số heo, dê, để Hiền Đệ đem ra chợ bán lấy lời, nếu bán không hết thì đem trở về, không sợ lỗ. Hôm ấy, Tử Nha đem heo dê ra chợ bán, rủi nhằm ngày Trụ Vương đảo võ, vì Trời hạn hán đã nửa năm, yết thị dán khắp nơi kêu gọi dân chúng không được làm thịt súc vật trong ngày ấy. Tử Nha không biết, cứ lùa heo dê ra chợ, bị bọn lính rượt bắt. Tử Nha đành bỏ heo, dê, chạy thoát lấy thân mà trở về nhà. Tống Dị Nhơn sai người nhà dọn rượu ra nơi vườn hoa để cùng Tử Nha vừa uống rượu vừa ngắm cảnh cho tiêu sầu. Tử Nha dạo vườn hoa, ngắm nhìn một lát rồi nói: Theo khoa địa lý thì nơi đây có linh khí tụ rất nhiều. Nếu anh cất nơi đây 5 căn nhà lớn thì sau nầy trong nhà anh sẽ có 36 người làm quan.

Dị Nhơn nói: Hiền Đệ thạo về địa lý thì đó cũng là một nghề sanh sống đó. Chỗ nầy, đã nhiều lần ngu huynh dựng lên mấy gian nhà, nhưng sau đó liền bị đốt cháy, tôi chắc đó là lửa ma, không thể làm nhà được, đành chừa đất trống vậy. Để em chọn ngày tốt cho anh xây cất. Anh cứ lo chuẩn bị cây ván và công thợ, còn vụ lửa ma để em lo cho, có em đây, nhứt định nó không làm gì được đâu. Hôm cất nhà, Tử Nha ngồi ẩn trong nhà mát theo dõi sự tình. Nửa đêm hôm ấy, có 5 con yêu nổi gió bay đến, cát bụi bay mù mịt. Tử Nha vội bỏ tóc xỏa, cầm gươm chỉ mặt 5 con yêu rồi hét lớn: Năm con yêu không sa xuống còn đợi chừng nào? Nói vừa dứt tiếng thì Tử Nha bắt ấn, tức thì tiếng sấm nổ vang, 5 con yêu sa xuống quì trước mặt Tử Nha năn nỉ: Chúng tôi không ngờ có Tiên Ông tại đây, xin lượng khoan hồng tha cho chúng tôi khỏi chết.

- Chúng bây quen thói hung hăng làm càn, vô cớ đốt nhà của người ta mấy lượt, tội chúng bây đáng chết. Tử Nha nói rồi cầm gươm toan chém, 5 con yêu khóc van xin: Chúng tôi ra công tu luyện nên mới được như ngày nay, xin Tiên Ông tha mạng chúng tôi làm phước, chúng tôi hứa từ đây về sau chẳng dám làm càn nữa.

- Thôi ta cũng dung tha cho chúng bây một lần làm phước, nhưng chúng bây không được ở đây nữa, phải đến núi Kỳ Sơn tạm trú, chờ lúc chiến chinh ra cho ta sai khiến rồi ta sẽ Phong Thần cho. Dị Nhơn cất nhà được bình an, nên mừng rỡ nói: Hiền Đệ có tài phép như vậy thật không uổng công tu luyện 40 năm. Hiền Đệ lại có tài coi bói, nên tôi dành cho Hiền Đệ một căn phố nơi chợ Triều Ca để Hiền Đệ mở tiệm coi bói, ngày đêm ở đó

Ngọc Mỹ Nhơn thử quẻ Khương Thượng:

Tử Nha nghe lời Tống Dị Nhơn mở tiệm coi bói, bói đâu trúng đó, nổi tiếng là vị Thánh nhân, dân chúng tấp nập đến xem bói, thâu được rất nhiều tiền giao cho Mã Thị. Mã Thị vui mừng và trọng chồng hết sức, không còn chê bai hay đay nghiến chồng như trước nữa. Bói được nửa năm thì xảy ra vụ Tỳ Bà Tinh. Tỳ Bà Tinh là một con yêu do cây đàn Tỳ Bà bằng đá hấp thụ khí Âm Dương của Trời Đất qua hàng ngàn năm biến thành. Hôm đó, Tỳ Bà Tinh đi thăm Đắc Kỷ trở về, lúc bay ngang qua căn phố của Tử Nha thấy thiên hạ tấp nập vào xem bói, ai cũng nói thầy bói linh lắm. Tỳ Bà Tinh không tin, cho là chuyện lừa bịp, nên biến hình thành một người đàn bà đẹp gọi là Ngọc Mỹ Nhơn, vào tiệm để thử quẻ Khương Thượng. Thần nhãn của Khương Thượng thấy rõ người đàn bà nầy là một con yêu quái hiện hình, nên định giết đi để trừ hại cho dân, liền bảo Ngọc Mỹ Nhơn đưa bàn tay ra để xem bói. Tử Nha nắm lấy cổ tay, ấn chặt vào mạch môn, dùng phép âm, không cho yêu quái biến hình. Dân chúng thấy vậy tưởng Tử Nha nắm tay con gái làm chuyện dâm đãng nên la lối. Tử Nha đáp: Đây là con yêu tinh nguy hiểm chớ không phải là người đàn bà bình thường, cần phải giết nó để trừ hại cho dân. Nói rồi lấy nghiên mực đập vào đầu Ngọc Mỹ Nhơn, máu chảy đỏ. Ngọc Mỹ Nhơn dãy dụa lung tung nhưng không biến đi được. Dân chúng thấy vậy rất phẫn nộ, đi báo quan. Lúc ấy Thừa Tướng Tỷ Can cỡi ngựa đi qua. Dân chúng kéo cổ Tử Nha ra cho Thừa Tướng xét xử. Dân chúng nói:

- Có lão thầy bói tên là Khương Thượng Tử Nha làm chuyện phạm pháp, lợi dụng nghề coi bói nắm tay đàn bà con gái. Cô ả không chịu, lão thầy bói làm ngang, lấy nghiên mực đánh nàng đổ máu. Tỷ Can nghe nói vậy thì nổi giận mắng Tử Nha:

- Trên đầu ngươi đã hai thứ tóc, sao không biết xét mình mà làm chi chuyện xấu xa như vậy?

Tử Nha thưa rằng: Tôi là người có học, lẽ đâu không biết phép vua. Dầu có lì-lợm đến đâu cũng không thể đối xử với đàn bà như vậy. Nhưng quả thật, người đàn bà nầy là yêu quái trá hình. Tôi thấy tại Triều Ca có khí yêu quá lộng, e không trừ sớm thì nước nhà không yên. Xin Thừa Tướng xét lại. Tỷ Can thấy người đàn bà nằm mê như chết, nói: Người đàn bà nầy bị ngươi đánh chết rồi, ngươi tiếc gì mà còn nắm tay? Tử Nha đáp:

- Nó làm bộ yêu đó. Nếu tôi thả tay ra, nó liền biến mất thì còn đâu bằng cớ. Dầu Thừa Tướng không xét, chém đầu tôi, tôi cũng không dám thả tay ra.

Tỷ Can bảo quan địa phương giải Tử Nha và người đàn bà đến trước đền vua, rồi vào tâu với vua Trụ. Vua Trụ truyền dẫn Tử Nha vào. Tử Nha vẫn nắm tay kéo thây Ngọc Mỹ Nhơn theo, quì trước bệ rồng tâu rằng: Tôi là Khương Thượng, quê ở Hứa Châu, trước đây có học phép Tiên nên biết rõ được yêu quái. Nay tôi đang xem bói, gặp con yêu nầy giả hình vào quấy rối, nên bắt nó dâng cho Bệ hạ trừ họa cho dân. Trụ Vương hỏi: Nó là người đàn bà rõ ràng, sao ngươi nói nó là yêu quái? Lúc ấy, Đắc Kỷ ở trong cung biết chuyện than thầm: Khổ quá! Sao em không chịu về thẳng vào động mà lại ghé thử quẻ Khương Thượng làm gì cho phiền. Để chị báo thù cho.

Khương Thượng tâu với Trụ Vương: Con mắt người thường không thể phân biệt được yêu quái hay người thường. Xin Bệ Hạ cho tôi dùng lửa đốt nó thì nó sẽ hiện nguyên hình cho Bệ Hạ thấy. Trụ Vương bằng lòng. Tử Nha họa bùa trên xoáy của Ngọc Mỹ Nhơn để nó không biến đi được, rồi ném vào lửa. Lửa đốt hai giờ mà xác con yêu vẫn còn nguyên, không hề bị cháy. Mọi người lấy làm lạ, có phần tin lời Khương Thượng nó là yêu quái, vì xác người thường thì đã cháy thành tro rồi.

Trụ Vương sai Tỷ Can hỏi xem nó là yêu quái gì?

Tử Nha nói để tôi bắt nó hiện hình cho người thấy. Nói xong, Tử Nha dùng lửa Tam Muội trong con mắt và lỗ mũi phun ra. Tỳ Bà Tinh thất kinh, lồm cồm ngồi dậy nói:

- Ta không cừu oán chi với ngươi, sao ngươi dùng lửa Thần đốt ta?

- Ngươi là yêu quái tác hại mọi người, ta giết ngươi để cứu dân chớ đâu phải thù oán.

Vua Trụ và triều thần thấy người đàn bà đã chết, lửa củi đốt không cháy, lại ngồi dậy trong lửa nói được thì thất kinh hồn vía, hoảng sợ thối lui. Tử Nha tâu: Xin Bệ Hạ lui vào trong cho mau kẻo sấm nổ. Đợi cho vua Trụ vào khuất bên trong, Tử Nha vỗ hai tay, tức thì sấm nổ vang, yêu tinh liền hiện nguyên hình là cây Đàn Tỳ Bà bằng ngọc thạch rất đẹp nằm giữa sân chầu. Hoạn quan vào Cung báo cho vua Trụ biết. Vua Trụ hỏi Đắc Kỷ:

- Đàn Tỳ Bà bằng ngọc thạch làm sao thành Tinh được? Đắc Kỷ rất đau xót, nhưng cố cứu Tỳ Bà Tinh, nói:

- Xin Bệ Hạ cho thần thiếp cây đàn Tỳ Bà ấy để thần thiếp đờn cho Bê Hạ nghe.

Trụ Vương sợ đàn Tỳ Bà thành tinh trở lại nên không muốn đem vào Cung. Đắc Kỷ nói: Yêu tinh đã chết thành cây đàn vô tri, làm sao thành tinh trở lại được, Bệ Hạ chớ lo. Vua Trụ nghe theo, truyền lấy cây Đàn Tỳ Bà giao cho Đắc Kỷ. Đắc Kỷ đem đàn Tỳ Bà đặt trên lầu Trích Tinh để cho hấp thụ khí Âm Dương của Nhựt Nguyệt trong sáu năm, Tỳ Bà Tinh sẽ hiện hình trở lại thành người.

Đắc Kỷ lập kế trả oán Khương Thượng.

…Lần nầy, Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn ban cho Tử Nha một con thú linh để cỡi tên là Tứ Bất Tướng và hai bửu bối là cây Đả Thần tiên và Hạnh Huỳnh kỳ. Nhờ các sư huynh của Tử Nha cho các học trò Tiên có phép báu xuống núi giúp Tử Nha nên Tử Nha đánh thắng và giết chết được 4 đạo sĩ ở Cửu Long Đảo. Thái Sư Văn Trọng lại sai Lỗ Hùng cùng với Vưu Hồn và Bí Trọng đem quân tiếp chiến với Trương Quế Phương. Tử Nha làm phép tuyết sa, bắt sống được cả ba người, chém lấy ba thủ cấp để tế đài Phong Thần tại núi Kỳ Sơn. Thái Sư Văn Trọng lại mời được 10 vị Địa Tiên ở Kim Ngao đảo đến lập trận Thập Tuyệt đánh Khương Thượng. Trận nầy rất dữ, Đức Nhiên Đăng Đạo Nhơn ở núi Linh Tựu động Kim Giáp chỉ huy 12 vị Đại Tiên ở Cung Ngọc Hư, học trò của Đức Nguơn Thủy Chưởng giáo, mới phá được trận. Thập nhị Đại Tiên ở Cung Ngọc Hư, học trò Xiển Giáo… Sau, Khương Thượng Tử Nha có giáng cho:

"Ta khuyên thiện nam tín nữ lo tu và xở cho hết nợ hồng trần thì ngày sau khỏi tái sanh mà trả nợ.

THI

Trần gian là chỗ kết oan gia,
Nợ nước ơn Vua với đạo nhà.
Trái chủ khi cho ra có một,
Người vay lúc trả phải huờn ba.
Bưng vinh thẳng bước niên còn trẻ,
Gánh nhục dừng chơn tuổi đã già.
Thuyền lỡ chơi vơi dòng khổ hải,
Nhắm chừng bỉ ngạn rán lần qua.
(Khương Thái Công)

Khương Thượng ngồi câu:

 

 

 

Sau khi Khương Thượng giết chết Tỳ Bà Tinh, Đắc Kỷ đem lòng thù oán. Đắc Kỷ vẽ họa đồ xây cất Lộc Đài rất xa xỉ, rồi xúi vua Trụ cử Khương Thượng làm Đốc Công cất Lộc Đài. Khương Thượng tìm cách từ chối và khuyên vua Trụ không nên xa xí. Vua Trụ nổi giận, bắt Khương Thượng hành hình bào lạc. Khương Thượng nhanh chân trốn thoát, độn thủy trở về nhà cho vợ là Mã Thị biết, rồi đi qua Tây Kỳ ẩn mặt nơi Bàn Khê, đói ăn trái cây, khát uống nước suối, lấy việc gieo câu sông Vỵ làm vui, chờ thời ra giúp nhà Châu. Thực ra Đức Khương Thượng ngồi câu nơi bàn thạch gọi là "câu thời câu vận" tức là Ông đang sử dụng Bát Quái Tiên Thiên, vì Bát Quái này có dạng như hai con cá đặt nghịch chiều nhau. Ấy là hình ảnh của Âm Dương, Tứ Tượng đó vậy.

 

 

HẾT VẦN KH

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

KHA | KHĂ | KHÂ | KHE | KHI | KHO | KHÔ | KHƠ | KHU | KHƯ

 

 

 

Danh mục vần KH

 

KHẢ

Khả Dĩ

Khả Năng

 

KHÁCH

Khách Càn Khôn

Khách Chương Đài

Khách Dạ Đài

Khách Đình (1)

Khách Đình (2)

Khách Ngoại Bang

Khách Thiên Thai

Khách Trần

Khách Tục

 

KHAI

Khai

Khai Cơ Tận Độ

Khai Cơ Tận Độ Cửu Tuyền Diệt Vong

Khai Cửu Thập Nhị Tào Chi Mê Muội

Khai Đàn

Khai Ðạo (1)

Khai Đạo (2)

Khai Đạo Chơn Quân Phạm Tấn Đãi

Khai Đạo Đại Lễ

Khai Ðạo Muôn Năm

Khai Đạo Nơi Chánh Phủ

Khai Đường Cực Lạc

Khai Giải

Khai Hóa

Khai Kinh

Khai Kinh Vô Tự

Khai Khiếu

Khai Khiếu Linh Quang

Khai Minh Đại Đạo

Khai Ngươn

Khai Nhãn

Khai Pháp

Khai Pháp Chơn Quân Trần Duy Nghĩa

Khai Sáng

Khai Thế

Khai Thế Chơn Quân Thái Văn Thâu

Khai Thiên Lập Ðịa

Khai Thiên Địa Nhơn Vật Chi Tiên

Khai Tông Định Đạo

 

KHẢI

Khải Ca

Khải Định

 

KHAM

Kham

 

KHẢM

Khảm Quẻ Bát Thuần Khảm

 

KHÁN

Khán Đài

Khán Giả

 

KHANH

Khanh Tể

 

KHÁNH

Khánh Chuông

Khánh Đản

Khánh Tiết

Khánh Thọ

 

KHẢO

Khảo (1)

Khảo (2)

Khảo Cứu Vụ

Khảo Dượt

Khảo Đảo

Khảo Hạch

Khảo Luận

Khảo Tội

Khảo Thầy Tu

Khảo Thí

Khảo Thí Tài Lực

 

KHẮC

Khắc Cốt Ghi Xương

 

KHÂM

Khâm Châu Đạo - Khâm Trấn Đạo

Khâm Thành Thánh Địa

 

KHẨN

Khẩn Cầu

Khẩn Nguyền

 

KHẤT

Khất Sĩ

Khất Thực

 

KHẤU

Khấu Bái

Khấu Cung

 

KHẨU

Khẩu Nghiệp

Khẩu Phật Tâm Xà

 

KHEN

Khen Bưởi Chê Bòng

 

KHI

Khi Bạc

Khi Kỳ Tâm Tức Thị Khi Thiên, Thiên Bất Khả Khi Hồ

Khi Lịnh

Khi Thần Thị Thánh

Khi Thị

 

KHÍ

Khí

Khí Hư Vô

Khí Phách

Khí Sắc

Khí Số

Khí Nộ

Khí Tịnh Thần An

 

KHỈ

Khỉ Dạo Dòm Nhà

 

KHIÊM

Khiêm Quẻ Địa Sơn Khiêm

Khiêm Cung

Khiêm Nhượng

Khiêm Từ

 

KHIẾP

Khiếp Nhược

 

KHIẾT

Khiết Kỷ

 

KHIẾU

Khiếu

Khiếu Huyền Quan

 

KHINH

Khinh Khi

Khinh Khi Vi Lịnh

Khinh Khinh

Khinh Ngạo

 

KHOA

Khoa Học

Khoa Học Phụng Sự Tôn Giáo

Khoa Môn

Khoa Mục

Khoa Mục Nhạc Sĩ

 

KHOÁI

Khoái Lạc

 

KHOAN

Khoan Dung

Khoan Hồng

 

KHOÁNG

Khoáng Đạt

 

KHOE

Khoe Khoang

 

KHỔ

Khổ

Khổ Ách

Khổ Cực

Khổ Hải

Khổ Hạnh

Khổ Hiền Trang

Khổ Hình

Khổ Não

Khổ Nhục

Khổ Tâm

Khổ Trần

 

KHÔI

Khôi Giáp

Khôi Khoa Mạo

Khoa Nguyên Mạo

 

KHỐI

Khối Hình Hài

Khối Linh Quang

Khối Tình

Khối Trái Chủ

Khối Vật Chất

 

KHÔN

Khôn Quẻ Bát Thuần Khôn

Khôn Bư

Khôn Đức

Khôn Ngoan

Khôn Ngoan Đạo Đức

 

KHỐN

Khốn Đốn

Khổn Trần

 

KHÔNG

Không (Số 0)

Không Đi Cúng Bị Phạt

Không Gian - Thời Gian

Không Khí

Không Màng Thảo Ngay

Không Môn

Không Thăng Giáo Hữu

Không Thương Thì Đừng Ghét

Không Tư Chẳng Vì

 

KHỔNG

Khổng Mạnh

Khổng Thánh Tiên Sư

Khổng Tử

Khổng Tước

 

KHỜ

Khờ Khạo

 

KHỞI

Khởi Động

Khởi Nhạc

 

KHUA

Khua Động Đồng Tiền

Khua Môi

 

KHUẨN

Khuẩn Bách

 

KHUẤT

Khuẩt Lấp

 

KHUÊ

Khuê Quẻ Hoả Trạch Khuê

Khuê Các

Khuê Môn

 

KHỦNG

Khủng Bố

Khủng Hoảng

Khủng Khiếp

 

KHUÔN

Khuôn Hồng

Khuôn Khổ

Khuôn Linh

Khuôn Luật Hữu Hình

Khuôn Thuyền Tế Độ

Khuôn Vàng Thước Ngọc

 

KHUYÊN

Khuyên

Khuyên Dạy

Khuyên Nhủ

Khuyên Răn

 

KHUYẾN

Khuyến Cáo

Khuyến Dụ

Khuyến Giáo

Khuyến Thiện

Khuyến Tu

 

KHUYẾT

Khuyết Điểm

Khuyết Điểm Tinh Thần

 

KHUYNH

Khuynh Hướng

Khuynh Gia Bại Sản

 

KHỨ

Khứ Hồi

 

KHỬ

Khử Ám Hồi Minh

Khử Ám Tựu Minh

Khử Quỉ Trừ Ma

Khử Tội

 

KHƯƠNG

Khương Hy

Khương Ninh

Khương Thượng Tử Nha

 

 

 

 

 

 

Cập nhật ngày: 27-07-2017

KHA | KHĂ | KHÂ | KHE | KHI | KHO | KHÔ | KHƠ | KHU | KHƯ


A | B | C | CH | D | Đ | G | H | I-Y | K | KH | L | M | N | NG | NH | O | P | Q | R | S | T | TH | TR | U | V | X


[ MỤC LỤC ]

Ấn bản (v.2016)

CAO ÐÀI ĐẠI ĐẠO TẦM NGUYÊN TỪ ÐIỂN
Soạn-giả: Nguyên-Thủy

DOWNLOAD
E-book-PDF