Trong Hội-thánh có chia ra hai phần hữu-hình:
- Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hóa dưới quyền Giáo-Tông chưởng-quản.
- Hiệp-Thiên-Đài là cơ-quan bảo-thủ chơn truyền, dưới quyền Hộ-Pháp chưởng-quản.
“Cửu-Trùng-Đài là Đời, Hiệp-Thiên-Đài là Đạo, cho nên buộc Đời phải nương Đạo mà lập ra thiệt tướng, mới mong độ rỗi nhơn-sanh chuyển cơ tạo-hóa.
“Cái hệ-trọng là nếu không có Hiệp-Thiên-Đài thì không có Đạo. Trời đất qua chớ Đạo không qua, nhơn-loại tuyệt chớ Hiệp-Thiên-Đài không tuyệt.
“Hiệp-Thiên-Đài là tay vén màn bí-mật cho sự hữu-hình và vô-vi hiệp làm một tức là tay phàm làm cho Đạo và Đời tương-đắc vậy, vì cớ ấy mà Thầy giáng cơ buộc cả chư Môn-đệ Thầy chẳng khi nào đặng phép trái mạng lịnh của Thầy.”
Như vậy trong nền Đại-Đạo hiện thời dưới quyền của hai nhà lãnh-đạo là Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Khi nào Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế.
Phần I- GIÁO-TÔNG CHƯỞNG-QUẢN CỬU TRÙNG-ĐÀI
Trong cửa Đạo ngày nay thì ngôi-vị:
- “Giáo-Tông Đạo Cao-Đài do Đức Lý cầm quyền gìn-giữ Thánh-chất dung-hòa nửa Thánh nửa phàm.
- “Còn tạo ngôi-vị tại thế là Thượng-Trung-Nhựt đó. Ấy vậy, Thượng-Trung-Nhựt tạo ngôi-vị Giáo-Tông cho Đạo Cao-Đài như ông Thánh Pière tạo ngôi Thánh-Hoàng cho Phapha tại Rome vậy".
Đạo có GIÁO và TÔNG.
Giáo là những phương-tiện mượn để biểu thị một cách gián-tiếp.
Tông là chơn-lý nội tại.
Giáo là hình tượng kinh sách, chữ nghĩa, lời nói. Tông là tâm, là hình.
1- Duyên khởi
Những ngày tiền khai Đại-Đạo (ngày 5 tháng 12 Ất Sửu dl 28-1-1926). Đức Lê-Văn-Trung được Đấng Thượng-Đế tá-danh là AĂÂ ban cho nhiều bài thi trong thời-kỳ còn xây bàn để xướng họa thi văn do ba ông: Cư, Tắc, Sang, tiếp điển. Sau quí Ngài đắc phong là Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh trong cơ-quan Hiệp-Thiên-Đài của nền Đại-Đạo.
Riêng Đức Lê-Văn-Trung lần-lượt được Thiên-phong vào phẩm Thượng Đầu-Sư, Thánh danh là Thượng-Trung-Nhựt (cùng với hai vị Đầu-Sư nữa là Thái-Nương-Tinh và Ngọc-Lịch Nguyệt)
Sau đó Ngài được nhận lãnh phẩm Quyền Giáo-Tông nữa, tức là đứng đầu cơ-quan Cửu-Trùng-Đài, là một trong hai cơ-quan hữu-hình, để giáo-hóa nhơn-sanh.
2- Thượng-Đế thâu-phục ông Cựu Thượng Nghị-viện Lê-Văn-Trung
“Vào khoảng tháng tư nhuần năm Ất-Sửu (Juin 1925) trong Chợ-Gạo (Chợ-Lớn) thường đêm có thiết đàn thỉnh Tiên. Một hôm, có ông Hội-đồng thành-phố tên Nguyễn-Hữu-Đắc gặp ông Lê-Văn-Trung đương đi dạo mát, ông Đắc bèn rủ ông Trung lên Chợ-Lớn hầu đàn.
Biết chỗ rồi, từ đây mỗi lần bên chợ Gạo có cầu cơ thì ông Trung đều đến. Lần lần ông nhiễm thâm mùi Đạo, một ngày một tỉnh-ngộ, phế lần gia-đình thế sự, rồi trường trai giữ giới mà chuyên việc tu-hành. Sau khi độ được ông Trung rồi, chư Tiên liền dạy bế đàn Chợ-gạo, làm cho chư Nhu ngẩn-ngơ không hiểu cớ chi.
Mãi đến ngày mùng 5 tháng chạp năm Ất-Sửu, ở Sài-Gòn Đức Thượng-Đế giáng cơ dạy hai ông Cư, Tắc đem cơ vô nhà ông Trung ở tại Chợ Lớn (Quai Testard) cho Ngài dạy việc. Hai ông này lấy làm bợ-ngợ vì thuở nay chưa hề quen biết ông Trung, nhưng lịnh trên đã dạy dưới phải tuân theo.
Hỏi thăm tìm đến nhà ông Trung, ông Cư thuật rõ đầu đuôi thì ông Trung lòng rất hoan nghinh, lật-đật sắm-sửa thiết đàn. Thượng-Đế giáng cơ dạy Đạo và khuyên việc tu-hành. Ngài đã phân rằng Ngài đã sai Lý-Bạch dìu-dắt ông Trung nơi đàn Chợ-Gạo đã lâu rồi. Ngài lại dạy:
“TRUNG, nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng sủa của con mà suy lấy”
Thầy cho thi:
Một Trời, một đất, một nhà riêng.
Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền,
Cầm mối Thiên-thơ lo cứu chúng.
Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên.
(AĂÂ)
3- Quyền-hành của Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt
Xét kỹ ra mới thấy quyền-hành Giáo-Tông quá ư quan-trọng. Nhất là khi Thầy dạy làm bảy cái Ngai cho Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, việc thực hiện Thầy giao cho ông Kiệt, ngày 12 tháng 8 năm Bính-Dần, như sau:
“Kiệt, con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh-thất, Thầy giao cho con phải săn-sóc mướn thợ làm bảy cái Ngai:
- Một cái trọng hơn cho Giáo-Tông.
- Ba cái cho ba vị Chưởng-Pháp.
- Ba cái cho ba vị Đầu-Sư.
Nhất là cái Ngai của Giáo-Tông phải làm cho kỹ-lưỡng, chạm trổ Tứ linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng,
Còn của Chưởng-Pháp chạm hai con Phụng.
Của Đầu-Sư chạm hai con Lân, nghe à!” (TNI/44)
Khi Hộ-Pháp có hỏi Thầy về sự sắp đặt bảy cái ngai.
Thầy dạy:
“Toà-Thánh day mặt ngay hướng Tây, tức là chánh cung Đoài, ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là cung Càn, bên tay mặt Thầy là cung Khôn, đáng lẽ phải để bảy cái Ngai của phái Nam bên tay trái Thầy tức cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn-đạo cho đủ Ngũ-chi cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là cung Đoài cho đủ số.
“Ấy vậy, cái Ngai của Đầu-Sư Nữ-phái phải để vào bên cung Khôn, tức là bên tay mặt Thầy.
Hộ-Pháp hỏi cái Ngai ấy ra sao? Thì Thầy dạy:
“Giống y như cái Ngai của Quan-Âm Bồ Tát, nghĩa là một cái Cẩm-đôn để trong vườn Trước-tử trên Nam-Hải, dưới chơn đạp hai bông sen nở nhụy”.
Lại nữa Thầy còn dạy:
“Trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ, Thầy giáng thế chọn đến:
- Nhứt Phật
- Tam Tiên.
- Tam-thập-lục Thánh,
- Thất-thập-nhị hiền,
- Tam-thiên đồ-đệ.
“Các con coi đó mà hiểu rằng: Các con có sự mà thiên-hạ từ tạo thế đến chừ, chưa hề có chăng”?
|
Tiên Vị |
 |
Nhứt Phật: |
1 phẩm Giáo-Tông |
Tam Tiên: |
3 phẩm Chưởng-Pháp |
|
3 phẩm Đầu-Sư |
|
Thánh Vị |
 |
Tam-thập-lục Thánh |
36 vị Phối-Sư |
Thất-thập-nhị Hiền |
72 vị Giáo-Sư |
Tam-thiên đồ-đệ |
3000 vị Giáo-Hữu |
|
Giáo-Tông là người đứng đầu của những Chức-sắc vào hàng Thánh-thể Đức Chí-Tôn bên Cửu-Trùng-Đài: vào hàng Tiên-vị và Thánh-vị:
Các hàng phẩm từ Chưởng-Pháp đến Giáo-Hữu đều có đủ ba phái: Thái-Thanh, Thượng Thanh, Ngọc-Thanh, chia đều các con số trên, không được tăng thêm hay là giảm bớt. Con số này tính cho Chức-sắc Nam-phái mà thôi, còn Nữ-phái thì không có hạn định, nghĩa là con số bao nhiêu cũng được. Đó là những Chức-sắc vào hàng Thánh-thể của Chí-Tôn. Ông Mỹ-Ngọc tức Bảo-Văn-Pháp-Quân có lời thỉnh-giáo:
- Bạch Thầy về bảy cái ngai Nhơn-đạo, Chưởng-Pháp và Đầu-Sư ngồi đặng chăng?
- Thầy cười…Bảy ngai ấy, Thầy lập ra là để cho mỗi Chức-sắc lớn biết ngôi-vị của mình nơi Bửu-điện. Kế theo Thầy, Tam-Trấn cùng chư Tiên, Thánh, nhập về Tam-Kỳ Phổ-Độ mà thôi. Lúc hành lễ, nếu chúng nó ngồi đối diện với các Môn-đệ khác của Thầy mà khứng chịu sự thành kỉnh của nhơn-sanh đối với các phẩm-vị lớn cao kia thì mất vẻ thành-kính của chúng nó.
Chức-sắc đặng ngồi ngai riêng của mỗi đứa là lúc nào có Hội Tòa Tam-giáo phân-xử các đạo-hữu của chúng nó mà thôi.”
Đối với nền Đại-Đạo đã thể hiện rõ lý âm dương nên lúc nào cũng có hai phần vô-vi và hữu-hình tương-đắc cùng nhau, như:
- Đức Lý-Thái-Bạch cầm quyền Giáo-Tông vô-vi “gìn-giữ Thánh-chất dung-hòa nửa Thánh nửa phàm”.
- Còn tạo ngôi vị tại thế là Thượng-Trung-Nhựt đó. Người có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt con cái của Thầy trong đường Đạo và đường đời.
Thuở Đức Quyền Giáo-Tông còn sinh tiền Ngài có thuyết về phương-diện Chánh-Thể Đạo, có nói rõ quyền-hạn của Ngài rằng:
“Tệ-huynh có thọ lãnh chỉ rõ phương-diện chánh-thể của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ của Thầy trong cuối Hạ-nguơn chuyển thế đây. Xin chư Hiền hữu lưỡng phái ráng nhớ và lo phận-sự, đừng sai luật Đạo mà bị tội và mình tuân trọn luật Đạo của Thầy là món binh-khí diệt tà-quyền giả mị đó.
“Tệ-huynh xin nhắc lời tuyên-ngôn của Đại-Từ-Phụ nói buổi ban sơ. Thầy có nói: Thầy lập Đạo kỳ này là lập một cái trường công-quả, nếu các con đi ngoài trường công-quả ấy thì không trông mong gì về cùng Thầy đặng.
“Trường công-quả của Thầy có đôi bên:
- Một bên vô-hình là các Đấng Thiêng-Liêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần) cùng lập công-quả trong buổi chuyển thế này, các Đấng Thiêng-Liêng thường theo một bên chúng ta đặng ám-trợ chúng ta về phần vô-vi.
- Các việc hữu-hình tại thế là các việc phải có thi-hành như chúng ta giờ đây mới làm đặng, thì về phần chúng ta phải lo làm rồi có các Đấng Thiêng-Liêng ám-trợ.
“Thí-dụ như đi độ rỗi nhơn-sanh phải nói Đạo cho người nghe, như phải lập phương để giúp thế đang nguy-nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc-học, nhà thương, nhà dưỡng-lão cùng các nghề-nghiệp cho đạo-hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần đặng che thân ấm cật... thì chúng ta phải lo hết, rồi các Đấng Thiêng-Liêng ám-trợ cho thành-tựu.
“Nếu chúng ta làm biếng không làm công quả chi cho Đạo bên hữu-hình thì các Đấng Thiêng-Liêng theo mình không lập công-quả được thì tội trọng về phần mình chịu lấy.
“Từ hồi tạo thiên lập địa tới ngày nay, trong mỗi thời-kỳ khai Đạo không có thời-kỳ nào mà chính mình Thầy là chủ-tể Càn-Khôn Thế-Giới xuống mà lập ra, không có một Tôn-giáo nào đặng một vị Đại-Tiên là Đức Lý-Thái-Bạch lãnh làm Giáo-Tông như ngày nay.
“Tệ-huynh đây là lãnh về phần xác thay thế cho Ngài đặng lo làm các việc hữu-hình tại thế cho Ngài, rồi ở trong có Người ám-trợ.
“Tệ-huynh xin chỉ rõ quyền-hành lớn-lao của Đức Lý Đại-Tiên Thái-Bạch Kim-Tinh cho mấy em rõ:
Ngài giáng cơ ban cho:
THI
Ánh Thái-cực biến sanh Thái-Bạch,
Hiện Kim-Tinh trọng trách Linh-Tiêu.
Quyền-năng vâng thuở Thiên-triều,
Càn-Khôn Thế-Giới dắt-dìu Tinh-quân.
Tinh-quân thọ sắc thuở Phong-thần,
Cho đến Đường-triều mới biến thân.
Thái-Bạch Kim-Tinh đương trị thế,
Trường-Canh Trích-Tử đến thăm trần.
Động-Đình thơ rượu đong muôn đấu,
Bồng-Đảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc-Hư nay xuống thế,
Tam-kỳ độ rỗi các nguyên-nhân.
Đại-Tiên Lý-Thái-Bạch
Đức Lý, Ngài dạy rằng:
“Hễ Đạo trọng tức nhiên chư Hiền-hữu trọng, vậy thì chư Hiền-hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời.
“Từ đây Lão hằng gìn-giữ cho chư Hiền hữu hơn nữa. Nếu thoảng ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân-minh là cố ý muốn giá-trị chư Hiền-hữu thêm cao-trọng hơn nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền-hà nghe!”
Đức Hộ-Pháp có giải-nghĩa mấy câu thơ trên, Người nói như sau:
“Trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển có bốn câu thi của Ngài rất ngộ-nghĩnh:
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn,
Hạnh phùng Thiên-mạng Đạo khai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử?
Tử giả hà tồn chủ “Tịch Hương”
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn là cảnh trần Ta chết đã lâu mà hôm nay Ta được phục sanh lại trong Thánh-thể của Đức Chí-Tôn.
Hạnh phùng Thiên-mạng Đạo khai nguơn là còn hạnh-phúc đặng Thiên-mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến? Bần-Đạo đã thuyết: Cuối hạ-nguơn Tam chuyển khởi Thượng-nguơn Tứ chuyển, Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ. Bần-Đạo dám chắc rằng Đấng nào khác hơn Ngài thì không thi-hành được. Ngài đến đặng mở Thượng-nguơn Tứ chuyển.
Thế trung kỵ tử hà tri tử? Thế-gian sợ chết mà không biết cái chết là gì! Chính Ngài hỏi rồi nói:
Tử giả hà tồn chủ tịch Huơng: Tịch Hương là tịch của Nữ-phái. Nữ-phái là nguồn sống của nhơn-loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ-phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế-gian này chi?
Bây giờ nói đến quyền-hành của Ngài, chính Ngài cầm bút viết bài thơ trên cũng được Đức Hộ-Pháp thuyết giải rành:
Ánh Thái-cực biến sanh Thái-Bạch là buổi Thái-cực vừa nổ hiện ra ánh-sáng Thái-cực chính là Ngài, duy Đức Chí-Tôn cầm pháp; xin cả thảy nhớ nghe! Khi Đức Chí-Tôn cầm pháp hiện ra hai lằn Hạo-nhiên-khí đụng lại với nhau nổ, tức nhiên trái khối lửa đó tạo càn-khôn vũ-trụ, ánh-sáng Thái-cực đó là Ngài.
Hiện Kim-Tinh trọng-trách Linh-Tiêu là các cung đẩu trên mặt địa-cầu này đều hưởng ánh-sáng ấy, mà chính ánh-sáng duy chủ và điều khiển là Ngài.
Quyền-năng vâng thuở Thiên-triều là quyền-năng vâng lịnh của Thiên-điều.
Càn-Khôn Thế-Giới dắt-dìu Tinh-quân là các cung đẩu trong Càn-Khôn Thế-Giới này, có Ngài duy chủ hết thảy.
Giải bài thơ kế tiếp:
Tinh-quân thọ sắc thuở phong-thần là Ngài đoạt ngôi vị cùng quyền-hành của Ngài có sắc phong thiệt hiện hồi đời Phong-Thần.
Cho đến Đường-triều mới biến thân là đến đời Đường Ngài mới biến thân.
Thái-Bạch Kim-Tinh đương trị thế là vì nguyên-linh ấy cầm quyền trị thế.
Trường-Canh Trích-Tử đến thăm trần
Động-đình thi rượu đong muôn đấu là nơi Động-đình, hỏi đến Ngài thì thiên-hạ đều biết danh Ngài.
Bồng-Đảo câu Tiên nắm một cần là nơi Bồng-đảo Ngài cầm Thiên-thai cho Khổng-giáo.
Vâng lịnh Ngọc-Hư nay xuống thế là buổi Đại-Đạo Tam-kỳ khai mở đây, Ngài thọ lịnh Ngọc-Hư đến trị Đạo.
Tam-kỳ độ-rỗi các nguyên-nhân là chín mươi hai ức nguyên-nhân thì Tam-kỳ này Ngài độ-rỗi.”
Quyền-hành của Ngài như thế, chính Thầy cũng đến nhắc-nhở:
“CƯ, con phải nhớ lời Thầy dặn rằng: Phải sợ Thái-Bạch cho lắm, khi Thầy giao quyền thưởng phạt cho Người. Chỉ sợ cho ba đứa con mà xin bớt tính nghiêm-khắc; song Thần, Thánh, Tiên, Phật kia mà Người còn chẳng vị, huống lựa là các con.”
Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt xác nhận rằng:
“Cái năng-lực của Đạo hôm nay được như thế là nhờ Đức Lý Đại-Tiên cầm quyền thiêng-liêng vô đối, nhờ người Anh Cả của ta là Đức Lý Giáo-Tông điều-khiển quyền-năng vô-hình của Ngài.”
* Đức Hộ-Pháp nói về Đức Lý Giáo-Tông
“Bần-Đạo quên nói cái tiên-tri của Ngài rất ngộ-nghĩnh, thời buổi ấy Ngài đến dạy, biểu Bần-Đạo nghe lời, nếu không nghe lời ngày kia cái tai hại ấy tiêu-diệt hay đạt Đạo thì Hiền-hữu gánh trách-nhiệm ấy nặng-nề trước. Bần-Đạo buổi nọ không hiểu gì cả, Bần-Đạo nói toàn Thánh-thể Đức Chí-Tôn cả triệu con người, cớ sao một mình Bần-Đạo gánh vác? Nói tiên-tri ấy là thời giờ Ngài giao quyền GIÁO-TÔNG này cho Bần-Đạo, Chưởng-quản luôn Cửu-Trùng-Đài, nếu không nghe thì Bần-Đạo gánh hết.
Nếu không nghe lời Ngài buổi nọ, thì gánh này giao lại cho ai? Nếu giờ phút này có muốn bỏ chớ không thể sống với Đạo. Bần-Đạo xin nói, thế-gian này cầm quyền cơ-quan Chánh-trị-đạo hay định-luật trước, dưới tám Đạo-Nghị-định lập nên Chánh-trị của nước như Ngài, Bần-Đạo chưa ngó thấy. Đức Lý ra tám Đạo-nghị-định mà Ngài lập trọn vẹn hết, chúng ta cũng nên tôn-sùng đáng kính, đáng sợ quá đỗi. Đấng cứu Đạo như thế Bần-Đạo đáng khen, kính Người cho đến tận thế.
Nếu nền Đạo Cao-Đài còn mãi mãi thì công-nghiệp của Đức Lý Giáo-Tông còn tồn-tại trong tâm-trí nhơn-sanh luôn luôn” (18-8 Kỷ-Sửu)
1- Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan quản-trị càn-khôn thế-giới
Những lời thuyết giảng trên đây về ngôi vị Giáo-Tông nếu vẽ bằng hình sẽ thấy rõ:
Vòng tròn tượng-trưng cho cơ-quan Cửu-Trùng-Đài.
Tâm 0 là ngôi-vị Giáo-Tông (giữa vòng tròn).
Thầy dạy: “Giáo-Tông là Anh Cả các con”.
Thầy mở Đạo kỳ này chọn; nhứt Phật, Tam Tiên đó là hàng Tiên-vị.
Tiên-vị là 1 Giáo-Tông, 3 Chưởng-Pháp, 3 Đầu-Sư.
Thế nên dưới quyền Giáo-Tông có hai con số 3: tượng tam Âm tam Dương.
Tam Âm Tam Dương là gì?
Như trên đã nói Tam Âm Tam Dương sẽ vẽ nên hình sao sáu cánh, tức là do hai hình tam-giác đều gát chồng lên nhau, đặt nghịch chiều mà thành ngôi sao sáu cánh. Họp bởi:
- 3 ngôi Chưởng-Pháp (là người của Hiệp-Thiên-Đài, tượng dương)
- 3 ngôi Đầu-Sư (Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, tượng trưng cơ âm)
Tức là trong âm có dương; âm dương tương hiệp, tương đắc, tương-hòa.
Mỗi phẩm có ba phái, trừ ngôi Giáo-Tông chỉ có 1 và Ngài mặc sắc phục trắng.
(Hình ảnh trên đây Ngài mặc phẩm-phục xanh là còn ở ngôi vị Thượng Đầu-Sư, là phẩm được thọ phong trước. Sau đó Ngài mới được ân-phong thêm một phẩm mới nữa là Quyền Giáo-Tông tức là Giáo-Tông chưa vào chánh vị. Giáo-Tông mặc phẩm-phục màu trắng.)
* Trên hình vẽ làm biểu-tượng:
Chữ A, tượng ngôi Thượng Chưởng-Pháp.
Chữ B, tượng ngôi Thái Chưởng-Pháp.
Chữ C, tượng ngôi Ngọc Chưởng-Pháp
Như vậy, ngôi Chưởng-Pháp thuộc về Đạo, nên đỉnh tam-giác quay lên trên.
Ba ngôi Đầu-Sư là Đời trong Đạo nên đỉnh tam-giác quay xuống phía dưới, do đó:
A’ là tượng cho ngôi Thượng Đầu-Sư.
B’ là tượng cho ngôi Thái Đầu-Sư.
C’ là tượng cho ngôi Ngọc Đầu-Sư.
Ba phái: Thái, Thượng, Ngọc tức là đại-diện cho Tam-giáo Phật, Tiên, Thánh.
- Chưởng-Pháp thế quyền cho Hộ-Pháp nơi Cửu-Trùng-Đài thuộc về Đạo.
- Đầu-Sư đặng quyền thay mặt cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp trước mặt nhơn-sanh thuộc về Đời trong Đạo.
Hai hình tam-giác này là tam-giác đều nội tiếp trong vòng tròn, gát chồng lên nhau, tượng trưng lý Âm Dương, Đạo Đời tương-hiệp.
* Tại sao lại đặt chữ Thượng trên đỉnh cao của tam-giác?
Bởi Đạo lúc nào cũng lấy trung, chánh làm điểm yếu-trọng, mà ba phái theo thứ tự thì (Thái chỉ về Phật, bên trái; Thượng chỉ về Tiên ở giữa; Ngọc chỉ về Thánh, bên phải).
Mỗi hình tam-giác được thành hình là do 1 sanh ba, 3 sanh vạn-vật, thuộc về cơ-quan chưởng-quản; do đó mà ngôi Giáo-Tông ở vào tâm của vòng tròn, mà vòng tròn chỉ càn-khôn vũ-trụ, cho nên Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan quản-trị càn-khôn vũ-trụ thuộc về trời là vậy.
Mỗi phẩm có 3 ngôi mà “pháp-luật Tam-giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một.” Vốn cũng đồng quyền, đồng đẳng nhau nên “Một thành ba, mà ba cũng như một.”
Số 3 là hình ảnh của tam-giác đều có ba cạnh bằng nhau và ba góc bằng nhau, bằng 60°. Tam-giác đều nội tiếp trong vòng tròn và đồng tâm với vòng tròn.
Ngôi Giáo-Tông ở vào vị-trí tâm của vòng tròn. Thầy qui-định:
“Giáo-Tông là Anh Cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
“Nó đặng phép thông-công cùng Tam-Thập-Lục-Thiên, Tam-Thiên-Thế-Giái, Lục-Thập-Thất-Địa-Cầu và Thập-Điện-Diêm-Cung đặng cầu rỗi cho các con.” (PCT)
Do vậy mà hai tam-giác gát chồng lên nhau tạo thành ngôi sao sáu cánh là lý tam âm, tam dương điều-hòa vũ-trụ, thể dương tượng Trời; nên hình sao sáu cánh trên nội-tiếp trong vòng tròn ứng với “Một Trời” trong câu thơ mà Đức Chí-Tôn cho buổi ban đầu: “Một trời, một đất, một nhà riêng." (xem lại bài thơ trên)
Vậy Giáo-Tông là làm chủ con số 3, tức nhiên đứng đầu tam Tiên, là gồm 3 phẩm Chưởng-Pháp và 3 phẩm Đầu-Sư đó vậy.
Như trên, hình tam-giác có ba cạnh biểu tượng cơ dương, mà chính nó cũng có âm dương của nó nữa, vì thế nên mới có tam âm, tam dương.
Luật vũ-trụ khi nói đến Âm tất có Dương, hay nói khác đi ngoài ra có tứ âm tứ dương nữa.
Tứ âm tứ dương là gì?
Âm dương không lìa nhau, thế nên hình vuông là biểu tượng cơ Âm, cũng có tứ âm, tứ dương. Hai hình này nội tiếp trong vòng tròn tạo thành một hình có tám cạnh, Dịch gọi đó là Bát-quái.
Ngôi Giáo-Tông vẫn ngự trị ở giữa hình vuông là ý chỉ “Một đất” trong câu thơ trước đây “Một trời, một đất, một nhà riêng”.
* Tại sao lại có con số 4 này?
Bởi Pháp-Chánh-Truyền định phần Tiên-vị cho Cửu-Trùng-Đài là ngoài ngôi Giáo-Tông ra, còn lại thì mỗi phẩm có ba vị, là:
3 Chưởng-Pháp, 3 Đầu-Sư. Nhưng thực tế mỗi phẩm lại có 4 vị (tức là 4 Chưởng-Pháp, 4 Đầu-Sư) cho nên số 4 thuộc âm phải có mặt.
* Hiện tại đã có 4 Chưởng-Pháp:
- Thái Chưởng-Pháp Nguyễn-văn-Tường (1864-1939). Đó là Hòa-Thượng Như Nhãn, về sau bỏ Đạo.
- Thượng Chưởng-Pháp Nguyễn-văn-Tương (1897-1927).
- Ngọc Chưởng-Pháp có hai vị:
1- Trần-văn-Thụ (1857-1927)
2- Trần-Đạo-Quang (1870-1946)
* 4 Đầu-Sư:
- Thái Đầu-Sư có hai vị:
1- Thái-Minh-Tinh (mất năm 1927) bị Đức Lý cách chức.
2- Thái-Nương-Tinh (1870-1929)
- Thượng Đầu-Sư
3- Thượng-Trung-Nhựt (1876-1934) thế danh Lê-Văn-Trung.
- Ngọc Đầu-Sư
4- Ngọc-Lịch-Nguyệt (1890-1947) Thế danh Lê-Văn-Lịch.
Xem thế, con số 3 ở trên là con số thiên định, nhưng khi hành sự thì đây là sự biến dịch bởi con người, dù biến đổi thế nào cũng trong vòng luật định của Chí-Tôn mà thôi. Vì vậy hình vuông ứng với cơ âm.
Điều này cũng cho ta thấy rằng:
Trong hình ngôi sao, thực-tế là sáu cánh, nhưng có tâm ở giữa, cộng chung là 7 điểm.
Đồ hình có hai hình vuông họp lại tuy có 8 mà có 1 tâm, thành ra 9 điểm. Đây cũng trở lại số 7, số 9 tức là nằm trong lý “thất phản cửu hoàn” vậy.
Bởi Pháp-Chánh-Truyền dạy: “Giáo-Tông thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.”
Do vậy mà chữ “phần xác và phần hồn” đã ứng với hai hình ảnh âm dương trên đây. Đó là chính do quyền-hành của Giáo-Tông phải đảm trách “một nhà riêng” đó! Ứng với câu thơ trên.
Bát-quái thành hình
Bây giờ hai hình tam-giác và hai hình vuông phối-hợp vào nhau sẽ thành hình 3, là một hình toàn diện, đó là Bát-quái Đồ-thiên, hay Trung-Thiên-Đồ, mà ngày nay chính Đức Chí-Tôn xử-dụng trong Cao-Đài Đại-Đạo, mà chỉ riêng Đạo Cao-Đài mới dùng Bát-quái này nên còn gọi là Bát-quái Cao-Đài. Người nắm Bát-quái này vào tay chính là Giáo-Tông vậy. Hình 3 này cũng ứng vào chữ “Một nhà riêng” trong câu thơ “Một Trời, Một đất, Một nhà riêng.”
Do vậy mà câu thơ trên đã nói lên đầy-đủ cho một Bát-quái thành hình.
Khi đã có một Bát-quái toàn diện như vậy, chúng ta có quyền đặt các quẻ vào các góc cạnh tương ứng ta sẽ được hình trên đây là do lời dạy của Thầy khi Thánh-ý Chí-Tôn dạy sắp 7 cái ngai:
Thầy dạy:
“Tòa-Thánh day mặt ngay hướng Tây là chánh cung Đoài ấy là Cung Đạo. Bên mặt Thầy là cung Khôn, bên trái Thầy là cung Càn. Đáng lẽ phải để bảy cái ngai của phái Nam bên trái Thầy là cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn-đạo cho đủ Ngũ-chi nên Thầy buộc phải để Cung Đạo là cung Đoài cho đủ số".
2- Bát-quái Đồ-thiên hay Bát-quái Cao-Đài
Nhìn vào Bát-quái trên đây, tức nhiên các cung được xác-định qua trục đứng là Đông Tây, trục nằm là hướng Nam Bắc là hướng của Đền-Thánh Tây-Ninh hiện giờ:
Đoài ☱ chánh Tây ( hướng của Cung Đạo, ở chính giữa và là mặt tiền của Đền-Thánh)
Càn ☰ Tây Nam (từ trong Đền nhìn ra là bên tay trái của Thầy).
Khôn ☷ Tây Bắc (từ trong Đền nhìn ra là bên tay phải của Thầy)
Khi ba cung đã được định hướng rồi thì những cung còn lại của Bát-quái Đồ-thiên cứ theo thứ-tự của Bát-quái Hậu-thiên mà xếp các quẻ còn lại vào vị-trí.
* Thứ-tự Bát-quái Hậu-thiên là:
Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, vận hành theo chiều thuận với kim đồng-hồ.
Chỉ riêng Bát-quái Đồ-thiên đi nghịch với chiều kim đồng-hồ, gọi là nghịch chuyển.
Về số, lấy theo số của Bát-quái Hậu-thiên:
Nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly. Như vậy phương hướng của Bát-quái Đồ-thiên được định-vị là theo hướng Đền-Thánh hiện nay theo Thánh-ý của Thầy, 4 phương chánh là:
Đoài ☱ Chánh Tây
Chấn ☳ Chánh Đông
Ly ☲ Chánh Bắc
Khảm ☵ Chánh Nam
Phương hướng của Bát-quái Đồ-thiên đặt nghịch chuyển với Bát-quái Hậu-thiên và lật ngược lại, cho nên bấy giờ khác hẳn với Bát-quái Hậu-thiên là Ly ở Bắc, Khảm ở Nam.
* Tại sao Bát-quái Cao-Đài phải đặt nghịch chuyển với Bát-quái Hậu-thiên?
- Thứ nhứt là đường Đạo phải đi nghịch lại như vậy mới gọi là trở về nguồn, Thầy cũng dạy “Tu-hành vẫn trái với thế tục, mà trái với thế tục mới đặng gần ánh thiêng-liêng”.
- Thứ hai là chính Thầy đã “chiết Khảm điền Ly phản vị Càn” như trên đây chúng ta có bàn đến, vì trước đây Bát-quái Hậu-thiên là còn ở thời-kỳ bó-buộc nên Ly ☲ Nam, Khảm ☵ Bắc, buộc người tu phải gắng công-phu luyện tập riêng mỗi cá-nhân. Nay là thế-giới đại-đồng, lại nhằm cơ Đại-Ân-Xá của Chí-Tôn nên có sự rộng-rãi hơn.
Thầy đến chuyển đổi lại là: Khảm ☵ ở Nam, Ly ☲ ở Bắc.
Do đó vị-trí của các cung Bát-quái Đồ-thiên nằm vào các hướng sau đây:
Càn là hướng khởi ở Tây Nam (thay vì Tây Bắc của Bát-quái Hậu-thiên).
Càn ☰ Tây Nam, Tốn ☴ Đông Bắc
Khảm ☵ chánh Nam, Ly ☲ chánh Bắc
Cấn ☶ Đông Nam, Khôn ☷ Tây Bắc.
Chấn ☳ chánh Đông, Đoài ☱ chánh Tây
Như vậy, Bát-quái mà Giáo-Tông làm chủ đây là Bát-quái Đồ-thiên, chỉ riêng Đạo Cao-Đài mới có; đó là tổng hợp của hai cái âm dương hợp lại, tức là âm-dương hỗn-hợp trong cơ sanh biến của vạn-linh. Vậy có phải kỳ khai Đại-Đạo này Ngài đã đặt Ly lên Khảm và đặt Khảm lên Ly để tất cả thành quẻ CÀN ☰ hay không?
Có nghĩa là lần này trong nguơn hội mới của Đạo Cao-Đài người tu đúng nghĩa là phụng-sự cho nhơn-sanh tức phụng-sự Chí-linh. Phụng sự Chí-linh là phụng-sự Trời đó vậy.
Một người đứng đầu của nhơn-sanh để giáo-hóa nhơn-sanh là Giáo-Tông, cho nên “Giáo-Tông có quyền thay thế cho Thầy mà dìu-dắt con cái của Thầy trong đường Đạo và đường Đời.”
Trách-nhiệm thiêng-liêng của ông Lê-Văn-Trung là một sự được đặt để trước, giờ đến đây để làm sứ-mạng, vì vậy bài thơ đầu tiên Chí-Tôn ban cho, xem như là một bản-đồ được để trước mắt cho Người để nhắc-nhớ, đồng thời nhơn-loại nhìn vào đó để do theo cử-chỉ, lời dạy của Người làm “bài học tắt” trong việc tu-hành. Thường nói “Giáo-Tông là giống tao”.
Người chính là một trong những lương sanh được chọn để cứu vớt quần-sanh:
- Câu 1 “Một trời, một đất, một nhà riêng” đó là đầy-đủ ý-tứ trong các hình vẽ.
- Câu 2 “Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền” đó là trách-nhiệm giáo-hóa nhơn-sanh trong con đường hành thiện của kỳ ba chuyển thế và cứu thế của Cao-Đài mà Giáo-Tông là Anh Cả của nhơn-sanh.
- Câu 3 “Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng” Thiên-thơ chính là quyển sách trời. Hiện nay trong cửa Đạo này là quyển “Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển”, trong đó xuất phát những yếu-lý của Đạo là Tân-Luật, Pháp-Chánh-Truyền làm thước khuôn cho người tu-hành để thành Tiên tác Phật. Vì tính cách quan-trọng đó nếu ai sửa đổi chơn-truyền phải đắc tội là vậy.
Quyển sách nơi tay Ngài là hình ảnh của Ngài đặt trên bức tượng ở mặt tiền Đền-Thánh (nơi lầu chuông tức Bạch-Ngọc Chung-Đài) là cuốn Thiên-thơ đó vậy. Vai trò của Ngài là chuyển thế và cứu thế.
- Câu 4 “Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên” bổn-phận của Giáo-Tông là giáo-hóa nhơn-sanh do theo Thánh-ý của Thầy, chỉ làm theo Đạo Trời mà thôi.
3- Giáo-Tông làm chủ Bát-quái Đồ-thiên
Pháp-Chánh-Truyền Chú-Giải có dạy rõ về quyền-hành của Giáo-Tông:
“Trên đây Thầy đã nói rằng: có quyền dìu-dắt trong đường Đạo và đường Đời, thì Thầy đã chỉ cho rằng có quyền dìu-dắt các con cái Thầy trên con đường Đạo-đức của chính mình Thầy khai tạo và trên con đường Đời cơ Đạo gầy nên chớ chẳng phải nói trọn về phần Đạo và phần Đời, nghĩa-lý phân biệt nhau duy chỉ có chữ đường và chữ phần, xin ráng hiểu đừng lầm hai chữ ấy.”
Điều này đã báo cho biết Đạo Cao-Đài có đến 4 Bát-quái, mà trách-nhiệm của Giáo-Tông là chỉ đảm-nhiệm hai Bát-quái Cao-Đài nói về Thiên-đạo mà thôi, có nghĩa là Đức Chí-Tôn mở Đạo kỳ này có thêm hai Bát-quái nữa tức là tạo con đường trở về, là con đường cho nhân-loại được thành Tiên tác Phật trong nguơn hội mới. Nói rõ hơn đó là chơn-pháp, chơn-truyền của Đức Chí-Tôn.
Vậy phần Đạo là bí-pháp của Thế-đạo, phần Đời là thể-pháp của Thế-đạo đó.
Nay Thầy nhấn mạnh “Nghĩa lý phân biệt nhau duy chỉ có chữ “đường” và chữ “phần”.
- Bởi phần Đời tức nhiên là thể-pháp có Bát-quái Hậu-thiên.
- Phần Đạo là bí-pháp có Bát-quái Tiên-thiên (cả hai thuộc về Thế-đạo).
Hai Bát-quái này đã có cách nay 6.000 năm do Vua Phục-Hi sáng tạo, rồi đến Văn-Vương, Châu-Công, Khổng-Tử tiếp tục bổ cứu thêm, còn lại đến ngày nay.
Giờ phút này Đức Chí-Tôn đến ban cho nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tam-giáo qui-nguyên Ngũ-chi phục-nhứt, không phải Ngài hủy bỏ các Bát-quái ấy, mà chính là do theo các Bát-quái trước đây rồi mở thêm hai Bát-quái nữa, tức là tạo cho nhân-loại một con đường trở về trong cảnh an-nhàn tự toại cho linh-hồn.
Nay, nhiệm-vụ của Giáo-Tông là đảm nhiệm hai Bát-quái Cao-Đài này, chính là thực hiện cho được con đường “Thiên-đạo”
- Đường Đạo tức nhiên bí-pháp của Thiên-đạo là Bát-quái Hư-vô.
- Đường Đời tức nhiên thể-pháp của Thiên-đạo là Bát-quái Đồ-thiên.
Hơn nữa, Pháp-Chánh-Truyền đã qui-định:
“Giáo-Tông thay mặt cho Thầy đặng bảo-tồn chơn-đạo của Thầy tại thế thì Anh Cả nhơn-sanh đặng dìu-dắt con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi quyền thiêng-liêng đã định vậy”
Trong Hội-Thánh có chia ra hai phần hữu-hình là Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài:
Đây là hệ-thống tổ-chức của Cửu-Trùng-Đài từ trên xuống dưới là:
Tiên Vị |
 |
1 phẩm Giáo-Tông (Nhứt Phật) |
đối với |
Thiên Tiên |
3 phẩm Chưởng-Pháp (Tam Tiên) |
đối với |
Nhơn Tiên |
3 phẩm Đầu-Sư (cũng là Tam Tiên) |
đối với |
Địa Tiên |
Thánh Vị |
 |
36 vị Phối-Sư (Tam-thập-lục Thánh) |
đối với |
Thiên Thánh |
72 vị Giáo-Sư (Thất-thập-nhị Hiền) |
đối với |
Nhơn Thánh |
3000 vị Giáo-Hữu ( Tam-thiên đồ-đệ) |
đối với |
Địa Thánh |
Thần Vị |
 |
Lễ-Sanh (không hạn định) |
đối với |
Thiên Thần |
Bàn Trị Sự (Chánh & Phó & Thông Sự) |
đối với |
Nhơn Thần |
Tín đồ |
đối với |
Địa Thần |
|
Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hóa nhơn sanh, là môi-trường học-hỏi, tiến-hóa theo ba bực, mỗi bực có ba phẩm-cấp. Như trên đã nói là hàng Tiên-vị tượng-trưng bằng 7 cái Ngai, mà Ngai của Giáo-Tông ở giữa, đặt trên hết và lớn hơn hết.
Các phẩm cấp lần-lượt là Tiên-vị, Thánh-vị rồi đến Thần-vị theo hình-thức trên đây.
Như vậy trường Đại-Đạo theo như Đức Hộ-Pháp dạy về đường Đạo và đường Đời rằng:
-“Thể-pháp của Đạo Cao-Đài là một trường công-quả của chúng ta, trường công-quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công, lập ngôn.
- Bí-pháp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con cái của Ngài giải-thoát.”
Lần-lượt tìm biết qua:
Thể-pháp của Đạo Cao-Đài
Đức Hộ-Pháp nói:
“Nói về thể-pháp chúng ta hân-hạnh làm sao, muốn cho chúng ta lập đức chính mình Đức Chí-Tôn đã cho chúng ta mượn danh thể của Ngài, chúng ta đã làm Thánh-thể của Ngài nơi mặt thế của Ngài.
Ôi! Quyền-lực về phương-pháp lập đức đối lại với cảnh thiêng-liêng là mua ngôi-vị của chúng ta đó vậy.
Lập công là Ngài đã tạo hình-thể của Ngài, tức nhiên Đền-Thánh đó là Đền thờ hữu-hình của Ngài để tại mặt thế này. Chúng ta phải lập công với sanh-chúng tức nhiên lập công cùng con cái của Ngài. Ngài để cho chúng ta lập công chớ không phải làm nô-lệ cho ai tất cả. Chúng ta thấy Ngài phụng-sự cho con cái của Ngài, chúng ta lập công là tạo danh thể của Ngài, do lập công mà ra.
Bây giờ tới lập ngôn. Chính mình Ngài, Ngài phải làm, cầm cây Cơ, bút, viết dạy chúng ta từ lời nói, việc làm; từ tánh đức, từ đạo-lý. Còn ngôn, có ngôn gì hơn Ngài nữa, để cả thảy các thể-pháp đặng chúng ta định vị chúng ta, chính tay Ngài cho chúng ta mượn cả thảy.”
4- Đức Quyền Giáo-Tông thi-hành thể-pháp Đại-Đạo
Nơi Cửu-Trùng-Đài “Thầy định-quyết cho Người (Giáo-Tông) có quyền dạy-dỗ mà thôi, song quyền-hành có rộng thêm đôi chút là dạy-dỗ trọn cả đường Đạo và đường Đời. Nghĩ cũng chẳng chi làm lạ, vì cả Chức-sắc Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài của Thầy lập, phải tùy theo Tôn-chỉ Đạo, nghĩa là xu-hướng về phần giáo-dục mà thôi. Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy-dỗ, còn tên của Chức-sắc đủ chỉ rõ-ràng phận-sự giáo-hóa, là chánh vai của mỗi người, như Giáo-Hữu, Giáo-Sư, Phối-Sư, Đầu-Sư, Giáo-Tông... Xem rõ lại thì tên mỗi vị chẳng mất chữ “Giáo” hay chữ “Sư”. Cơ Đạo từ cổ chí kim vẫn vậy, lại hiệp lời này “Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị Đạo, tu Đạo chi vị giáo”. Thầy chỉ cậy Hội-Thánh Thầy đã đến lập, thay quyền cho Thầy mà dạy-dỗ cả con cái của Thầy, nghĩa là chúng-sanh đặng lành, ấy là phận-sự cần nhứt của Hội-Thánh đó.” (PCT)
Thế nên, trong buổi Cao-Đài Đại-Đạo:
Đức Quyền Giáo-Tông có bổn-phận
“Cầm mối Thiên-thơ lo cứu chúng”.
Quyển Thiên-thơ Ngài đã nắm trọn vào tay.
Đức Hộ-Pháp xác nhận:
“Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo-Tông rồi mới xuất-hiện Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài đó vậy. Sự vinh-dự này chính Đức Quyền Giáo-Tông đã được hưởng một cách xứng đáng. Bởi vì chính mình Đức Chí-Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội-Thánh. Ngài đi đến đâu Hộ-Pháp cùng Đức Cao Thượng-Phẩm theo phò-loan để Đức Chí-Tôn thâu Môn-đệ, thâu được bao nhiêu thì giao Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt giáo-hóa, chính do nơi Ngài cầu-khẩn Đức Chí-Tôn thâu Môn-đệ, Ngài luôn luôn đi các nơi để phổ-độ chúng-sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo, Đức Chí-Tôn sai hết các Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài tức Thập-Nhị Thời-Quân đi phò-loan cùng hết, không có chỗ nào không có Cơ-bút. Người thì xuống miền Tây, người đi miền Trung, đi cùng hết.
Thâu Môn-đệ xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây-Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng không có một miếng đất cắm dùi làm sao mở Đạo?”
Vạn sự khởi đầu nan là thế! Nhưng sự kiên-nhẫn đã giúp các Ngài thành công là thế! Sau cùng, Ngài đã lập vị một cách vẻ-vang, một cách xứng đáng, tám năm tròn, không dư không thiếu một ngày. Phải chăng Ngài đã thực hiện trọn hai Bát-quái vào tay mà dìu-dắt nhơn-sanh trên con đường hành-thiện?
Hằng năm toàn Đạo đều ghi nhớ ngày 13-10 âm-lịch là ngày qui Thiên của Đức Ngài:
Từ ngày 14-10 Bính-Dần dl 19-11-1926 là ngày nhập vào Đại-Đạo Tam-Kỳ này, hành Đạo suốt.
Ngày qui 13-10 Giáp-Tuất dl 19-11-1934.
Tính ra là tám năm (8) tròn không dư không thiếu một ngày.
Đức Hộ-Pháp thường nhắc-nhớ đến:
“Cái ngôi của Ngài đã tạo dựng, cái ngôi Giáo-Tông-Đường của Ngài ngồi trên ấy, đầu tiên hết cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất nước Việt-Nam này một cái báu-vật quí-giá vô cùng. Từ thử tới giờ chưa hề có. Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo-Hoàng Saint Pierre thế nào, thì nay Bần-Đạo có lẽ nói và có thể mơ-ước rằng cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”
* Các con số biến-hóa đối với Đức Quyền Giáo-Tông
Thực-tế Ngài đã làm chủ con số 7, con số 7 là con số chỉ Thất tình đó vậy: Bởi hàng Tiên-vị là gồm:
1 Giáo-Tông + 3 Chưởng-Pháp + 3 Đầu-Sư = 7 vị.
Nhìn vào Bát-quái Đồ-thiên thì số 7 là quẻ Đoài, Đoài ở chánh Tây, tượng hình là cái miệng; trong thời buổi này là thực hiện Cơ phổ-độ chúng-sanh, thì mới hoằng khai Đại-Đạo được.
Số 7 là số ngưng kết: 1+2+4=7 tức là Thái-cực cộng Lưỡng-nghi và Tứ-tượng. Thái-cực là dương, Lưỡng-nghi là cơ biến tướng, Tứ-tượng là cơ sanh-hóa. Nhưng cơ biến tướng và sanh-hóa chạm nhau lại khắc nên số 7 trở thành số riêng biệt không có biến động, có nghĩa là trạng-thái yên-tịnh ngừng nghỉ, nên nó cũng ám chỉ vào thể Âm.
Số 7 cũng chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình, trong thân người nó là Thất khiếu ở trên đầu.
Số 7 ấy là do 3 ngôi cộng 4 biến hay là 1+2+1+2+1 nên vô-cực vi-chủ.
Nhưng,
Giáo-Tông chưởng-quản Cửu-Trùng-Đài tức là đứng đầu Cửu-Phẩm Thần-Tiên là con số 9. Hai con số: số 7 và số 9 trong trường hợp này gọi là “Thất phản cửu hoàn”. Thất phản là cứ chu-kỳ đi đến 7 là trở lại (như một tuần-lễ 7 ngày, giáp một vòng lại trở lại), cửu hoàn là sự luân-lưu của sự biến dịch không ngừng dứt. Cho nên nói “thất phản cửu hoàn” là điểm mấu chốt: cùng cực cái động để trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.
Ngôi số 1 là chỉ trời, là Thái-cực. Từ 1 sanh 3, ba sanh vạn-vật. Như vậy một mà ba, ba cũng là một.
Nhìn vào Bát-quái Đồ-thiên thấy quẻ Chấn mang số 3, chánh Đông, đó là biểu tượng ngôi trời mà Giáo-Tông đang thay Trời tạo thế.
Ta thử làm một việc so-sánh quyền-hành của Giáo-Tông có những điểm tương-đồng nào với lời chiêm-đoán về Quẻ CHẤN mà tiền Thánh đã để lại cách đây hàng ngàn năm coi có trùng khớp với nhau không?
5- Ngôi vị Giáo-Tông ứng vào quẻ Chấn trong phương-vị Bát-quái
a/- Tính chất của quẻ Chấn ☳
Quẻ Chấn tượng là con Cả của Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, do câu “Đế xuất hồ Chấn”.
Theo Văn-Vương Bát-quái tức là Bát-quái Hậu-thiên có đủ lý lẽ của mỗi ngôi trong các quẻ thì quẻ CHẤN ☳ là quẻ ở phương Đông, là quẻ có một hào dương ở dưới bị hai hào âm đè lên trên. Hào dương tượng sự bắt đầu sinh ra, vạn-vật cũng theo cái lý đó mà khởi, nên Dịch cũng nói là: Thượng-Đế ra ở cung Chấn. Điểm dương nhỏ bé ấy chính là nguyên-động lực bắt đầu buổi sơ khai, nên quẻ Chấn là quẻ khởi thủy.
Trong một năm có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, mà mùa Xuân là mùa dương khí thịnh nên muôn vật vui tươi sinh nở. Mùa Xuân ở vào 3 tháng: Dần, Mão, Thìn tức là tháng giêng, tháng hai, tháng ba. Tháng Mão là giữa mùa Xuân, ứng vào cung Chấn ☳. Trong giờ Mão dương mới sanh, chính là lúc mặt trời mọc trong một ngày, nói rộng ra cho đến thế, vận, hội cũng đều đi theo luật tuần-huờn ấy.
Chấn ☳ tức là cái vi dương bắt đầu huy động lấy hướng mặt trời nên gọi là “Nhật xuất ư đông”, hướng bắt đầu cho một khí dương hiện ra, nên tượng quẻ Chấn ở phương Đông.
Với Đạo-pháp cũng cùng một định-luật. Nay đã giáp một chu-kỳ nên Đức Chí-Tôn mở Đạo ở phương Đông.
Trước đây Đạo Phật mở ra ở Ấn-Độ, Trung-Hoa là nơi phát xuất Đạo Thánh, có các Thánh như: Khổng, Mạnh, Lão, Trang; kế đến truyền qua Tây-phương, Chúa Jésus Christ khai Đạo Thánh ở phương Tây làm ông Thánh-Tây.
Nay đã giáp một vòng rồi lại trở về Đông: Chí-Tôn khai mối Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này tại Việt-Nam là miền Đông Nam Châu-Á đối với bản-đồ thế-giới, Tây-Ninh là nơi phát xuất Đạo Trời được chọn làm Thánh-địa là miền Đông của Nam-phần Việt-Nam.
Đạo-pháp gọi đó là “Thiên địa tuần-hoàn châu nhi phục thủy”. Hình ảnh này đã biểu-tượng bằng hình con Long-mã phụ Hà-đồ đặt trên nóc Nghinh Phong-Đài Đền-Thánh, Long-mã chạy từ Đông sang Tây rồi lại ngó ngoáy về Đông.
 |
Long-Mã Phụ Hà-Đồ đặt trên nóc Nghinh Phong-Đài |
b/- Tình thế Việt-Nam ứng vào quẻ Chấn
Chính buổi khai Đạo tại chùa Gò-kén thật vô cùng khó-khăn bởi hai sức ép của Đời và Đạo đối với Việt-Nam thuở ấy:
- Đời lâm vào cảnh đô-hộ của Pháp.
- Đạo thì dân-chúng tín-ngưỡng thập tàng, đa thần-giáo, vì vậy phải cần có một sự đổi mới để đáp ứng nguyện-vọng của toàn nhân-sanh. Sự việc này có khác nào hai hào âm đang đè nặng lên quẻ Chấn không?
Bấy giờ, chính là lúc Đức Chí-Tôn ban cho một mối Đạo nhà, Thầy đã nói:
Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà,
Nay Ta gầy dựng lập nên ra....
c/- Nhiệm-vụ đến với Đức Quyền Giáo-Tông
Nền Đại-Đạo Cao-Đài ra đời năm Bính Dần (1926) với mục-đích:
“Vì muốn độ 92 ức nguyên-nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa-đọa hồng-trần. Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo không giáng trần bằng xác thân mà chỉ giáng bằng Huyền-diệu Cơ-bút mới qui đặng cả Đại-Đồng Thế-Giới.”
Hơn nữa Ngài không có nhân thân phàm ngữ làm sao độ dẫn chúng-sanh cả toàn cầu cho đặng nên Ngài phải giao quyền cho “Con Cả” của Ngài để lập thành Chánh-thể tức là Hội-Thánh làm Thánh-thể của Ngài vậy. Người con Cả của Thượng-Đế đây ứng vào quẻ Chấn, nằm vào chính Đông trên bản-đồ, mang số 3 thuộc về Mộc, tức nhiên hình ảnh của ngôi vị Giáo-Tông đó.
Tất cả các yếu-tố sau đây là đặc tính của quẻ CHẤN làm biểu tượng mà Dịch đã xác định, thử đem đối-chiếu lời chiêm-đoán của quẻ với cuộc đời của một người mang sứ-mạng thể thiên hành-hóa xem có trùng khớp với nhau chăng. Nếu trùng khớp với nhau được thì quả thật Đạo ta là Chánh đạo, ngược bằng không, thì có thể kết-luận rằng đây là giả Đạo.
Tại sao mua vàng thì mọi người cần phải thử mà nền Đại-Đạo lớn-lao như vầy mọi người dám gởi cả đức-tin của cuộc đời mình không chịu thử-thách để tìm hiểu cho thật chính-chắn, tìm hiểu để tin và niềm tin đó mới thật là chánh-tín.
6- Lời chiêm-đoán về quẻ CHẤN ☳
a/- Đoán về Thiên-thời
Chấn tượng hướng Đông, hướng của mặt trời mọc. Mặt trời mọc ở hướng Đông vào giờ Mẹo (mão) nên nói “Đế xuất hồ Chấn”. Để cũng chỉ muôn loài, theo thiên-thể thì lấy mặt nhựt là mặt trời tượng Thượng-Đế, mang dưỡng khí nuôi khắp cùng vũ-trụ.
- Với đạo-pháp: Đức Lê-Văn-Trung được Đức Chí-Tôn ban cho Thánh-danh Thượng-Trung-NHỰT. Ngài nhận phẩm Đầu-Sư đầu tiên cùng với hai vị nữa mang chữ Nguyệt và Tinh, đây là ba bửu của Trời: Nhựt, Nguyệt, Tinh.
- Về mặt đời: Ngài là ngôi sao sáng, là Nghị-viên Hội-Đồng Thượng-Nghị-Viện, thưởng thọ Bắc-Đẩu Bội-Tinh.
- Về mặt Đạo: Ngài là Giáo-Tông, Người thay trời tạo thế. Làm Anh Cả của nhân-loại.
b/- Đoán về các đặc-tính
Chấn có năng-lực động, tượng là sấm, muôn vật không có vật nào chấn-động nhanh bằng sấm (Chấn vi lôi, Chấn là sấm). Bởi quẻ Chấn ☳ là quẻ có một hào dương chịu nén dưới hai hào âm.
Quẻ này ứng với cuộc đời của Đức Lê-Văn-Trung:
- Về phần Đời: buổi đó bị một sức ép của thời Pháp-thuộc, dân-tộc Việt chịu dưới nạn quốc phá gia vong vừa hết Tàu lại đến Tây, dù Ngài là một viên chức cao của Hội-đồng Thượng-nghị viện nhưng vẫn khổ đau vì dân-tộc chịu áp-bức, lệ nô của người Pháp.
- Về phần Đạo: Dân Việt-Nam bấy giờ tinh-thần tín-ngưỡng theo thuyết đa thần, trong nước không có đạo, dù nhiều Đạo nhưng chỉ là mượn đạo, xin Đạo của người ta mà thôi; vì Đạo Phật du nhập từ Ấn-Độ; Đạo Thánh, Đạo Tiên thì từ Trung-Hoa truyền sang, nhưng khi vào Việt Nam như một mảnh đất tốt để cấy mầm móng Đạo-giáo, người dân mình đều giữ lại mà tôn thờ, sùng kính. Chính cái lòng thiết-tha tôn-sùng Trời Phật của Việt-Nam ta mà Thượng-Đế mới đến trao cho một mối Đạo nhà, mà cũng là Quốc-Đạo. Vậy nên Thầy mới cho câu:
“QUỐC-ĐẠO kim triêu thành ĐẠI-ĐẠO
“NAM-PHONG thử nhựt biến NHƠN-PHONG”
c/- Đoán về động vật
Chấn tượng Rồng (chấn vi long). Rồng là con vật linh, đứng đầu trong Tứ linh: Long, Lân, Qui, Phụng. Con vật linh ấy khi dấy lên để rồi sẽ được yên-tĩnh, nghỉ-ngơi, từ dưới chỗ âm-u thì rồng dậy.
- Đạo-pháp: nhắc về khi làm 7 cái ngai cho các Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài Thầy cũng bảo chạm Tứ linh, nhưng ngai của Giáo-Tông “chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng” ấy là lý âm dương biến hóa vô cùng.
Rồng là con vật đứng đầu hết, nên các giống thú cũng phải nương theo Tứ linh này chuyển-hóa để thăng tiến. Nay Cao-Đài Đại-Đạo mở ra là để cho các chơn-hồn tiến-hóa, tức là kể cả vật-chất, thảo-mộc, thú cầm, nhơn-loại gọi chung là chúng-sanh và bốn phẩm-cấp cao hơn là Thần, Thánh, Tiên, Phật, gồm chung là bát-phẩm chơn-hồn vậy.
Theo lý vạn-vật xuất ra ở cung Chấn là nơi huy động đầu tiên sinh ra muôn vật. Từ đó người Á-đông ta cảm nhận lý biến-hóa của vũ-trụ nên lấy vật Tổ là Rồng để biểu-dương một tinh-thần bất-khuất của dân-tộc-tính. Từ xưa đến giờ đều tự-hào là “con Rồng cháu Tiên”. Ngay trong Đền-Thánh cũng đều trang-trí hình ảnh Tứ linh, nhiều nhất là Rồng đủ màu sắc và là rồng hả miệng để nói lên thời kỳ Phổ-độ chúng-sanh trong kỳ ba Đại-ân-xá, tận-độ chúng-sanh qui-nguyên-vị.
 |
Cột Rồng ở Đền-Thánh (Tòa-Thánh Tây-Ninh) |
d/- Đoán về màu sắc
Lấy màu huyền hoàng (huyền là sắc đen của trời; hoàng là sắc vàng của đất).
Về Đạo-pháp: ngôi Thượng-Đế ở về phương Bắc (thuộc Khảm vi thủy, tức là tượng trưng màu đen). Màu đen, màu huyền là chỉ sự huyền-bí nhiệm-mầu, cao-thâm ấy là danh vị của Đấng Huyền-Khung-Cao-Thượng-Đế-Ngọc-Hoàng-Đại-Thiên-Tôn.
Màu vàng óng-ả là sắc vàng của kim-loại quí: vàng (or) chính là vua của kim-loại, thế nên tượng cho Phật-Mẫu. Nhưng kim-loại thường là sắc trắng, vì vậy nhơn-sanh về đến ngôi của Phật-Mẫu thì đều mặc sắc phục trắng, cũng là màu Đại-Đồng. Nhưng riêng màu sắc dùng cho ngôi Phật-Mẫu lại là màu vàng “Phái vàng Mẹ lãnh dắt-dìu trẻ thơ”.
Nếu luận về quẻ ở Bát-quái Tiên-thiên thì quẻ Chấn ở giữa, hai bên là Khảm, Ly. Chấn thuộc Mộc theo lý Ngũ-hành là màu xanh. Ly thuộc Hỏa màu đỏ, xanh đỏ có sự xê-dịch lên xuống lẫn-lộn nên mới thành màu huyền. Còn màu vàng vì Chấn gần Khôn thuộc Thổ nên là màu vàng vậy.
e/- Đoán về tịnh vật
Theo hình vạch quẻ Chấn ☳ thì một hào dương nằm dưới hai hào âm. Khi Chấn sấm nổ lên thì tiếng dội vang xa. Lấy tượng cây cỏ, tượng là tre non, cây sậy.
Luận: Ngày xưa Pascal nói người là “cây sậy biết tư-tưởng” tức nhiên chỉ một tinh-thần bất-khuất, ý-chí quật cường của con người luôn muốn vươn lên, đạo-giáo nói là dục-tấn. Vì sự dục-tấn nên con người mới tìm đến con đường tu để được giải-thoát những gì gọi là ràng buộc, để cho tư-tưởng được thăng hoa. Người Việt-Nam được Thượng-Đế nắn đúc nhiều trong lò gian khổ nay đủ sức để cho Ngài đến giao cho một mối Đạo đủ quyền-năng “xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn-linh". Đó mới là yếu-tố về.
Yếu-tố ĐỊA, thì đất nước Việt-Nam này là một Thái-cực-đồ uốn cong như con rồng lượn, một bên là biển một bên là đất liền là hai điểm âm dương tương-tiếp nhau gọi là Lưỡng-nghi, cũng gọi là Thái-âm, Thái-dương. Từ Lưỡng-nghi sanh ra Tứ-tượng cho nên có thêm hai yếu-tố nữa đó là đảo Hải-Nam, tức nhiên đất trong nước đó là Thiếu-dương; bên trong có Biển-Hồ, tức là nước trong đất, gọi là Thiếu-âm. Từ đó Tứ-tượng mới biến ra Bát-quái.
Đất nước ta có núi Ngũ-Hành là tâm điểm, nếu đặt compas quay một vòng tròn thì điểm trên sẽ qua ải Nam-Quan và điểm dưới sẽ đụng vào Mũi-Cà-Mau tạo thành một vòng tròn đó là một Thái-cực-đồ trọn vẹn.
Yếu-tố THIÊN, Thầy đã nói rõ:
“Ta vì lòng Đại-từ đại-bi, vẫn lấy đức háo sanh mà dựng nên mối Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ; tôn-chỉ để vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa-vị cao-thượng, để tránh khỏi số mạng luân-hồi và nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế này”. Yếu-tố Tam-tài được thể hiện.
f/- Đoán tật bịnh
Người mang quẻ Chấn thường có tật chân, bịnh gan thông thường.
- Ở Đức Quyền Giáo-Tông, Bà Bát-Nương thường trêu là “Anh què” tức là nhắc đến nguơn linh của Ngài là Đại Tiên Lý-Ngưng-Dương, thuở Ngài còn tu Tiên ở tiền kiếp, đắc Đạo. Một hôm Ngài xuất chơn-thần, bỏ xác lại nhờ học-trò giữ xác, dặn đừng vội chôn. Nhưng cảnh đời thường trái nhau, khó xử cho anh học-trò, nhằm lúc mẹ anh cũng vừa chết, làm sao toan liệu cả hai, anh đành đốt xác Thầy để trở về còn lo chôn xác Mẹ. Thế là khi hồn của Đạo-sĩ trở về không còn xác để nhập vô, cùng lúc thấy có xác một người đi ăn mày chết gần đó, vị Đạo-sĩ mới nhập vô xác người ăn mày này. Nhờ đắc Đạo Tiên nên Ngài biến cây gậy và chiếc bị thành hai món bửu bối, sau này trở thành “Bầu linh gậy sắt” Nên thơ của Đức Hộ-Pháp có viết về: “Thần Lý Ngưng-Dương du Nam”:
Bầu linh gậy sắt quảy du Nam,
Nương bóng Từ-bi đến cõi phàm.
Độ thế so đồng cân Nhựt nguyệt,
Phục sinh đổ trọn giỏ Hoa lam.
Non Tiên lối cũ thân dầu toại,
Bợn tục đường xưa bước đã nhàm.
Bảy bạn ai còn chơi cõi thế,
Đông-du xin nhắc chuyện Ông Lam.
g/- Đoán về việc quan tụng
Việc kiện cáo đứng về phía mạnh, sửa đổi để xét lại, có sự phản-phúc.
- Trong cuộc đời hành-đạo của Đức Quyền Giáo-Tông đã bị ở tù. Ngài bị nhốt trong khám đường Tây-Ninh mấy bữa vì nạn không tiền đóng thuế thân cho các bổn đạo, Ngài đứng ra nhận, chúng bắt bỏ tù luôn Ngũ đẳng bội-tinh mang trong mình Ngài, chứng tỏ rằng nó không có giá trị gì hết. Nếu có giá-trị thì người mang nó không bị thị-nhục dường ấy. Khi ra khám, Ngài gỡ trả mà người ta không dám nhận, phải năn-nỉ đưa lại cho Ngài. Tình trạng Anh Cả chúng ta như vậy.
h/- Đoán về phần mộ
Lời đoán cho người mang quẻ Chấn lợi về phần mộ đặt ở hướng Đông, giữa chốn sơn lâm.
- Ngày nay Tháp của Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt đặt chính hướng Đông thuộc cung Chấn (xem hình Bát-quái Đồ-thiên) Sau Bát-Quái-Đài của Đền-Thánh Tòa-Thánh Tây-Ninh. Hình ảnh Đền-Thánh có dạng chữ sơn 山 mà là 7 chữ sơn, nên còn gọi là Thất sơn.
Lý giải: trước Đền khi kiến-trúc Tòa Thánh, Đức Hộ-Pháp có chừa ra hai khu rừng nhỏ gọi là “rừng thiên-nhiên” để kỹ-niệm nơi này khi xưa là rừng cấm, hoang-vu, rậm rạp. Nếu lấy biểu-tượng chữ mộc 木 làm tượng chỉ rừng thì hai khu rừng tượng là chữ lâm 林. Nhưng trước Đền còn có cội Bồ-Đề, thêm một chữ mộc 木 vào giữa chữ lâm thành ra chữ sâm 森 (sâm là rậm). Ghép hai chữ Sâm lâm 森 林 là đủ rõ nghĩa nơi đây xưa kia là thế, còn nay là thế.
Nhờ ánh-sáng đạo-mầu của Đức Thượng-Đế nhân-loại mới được hưởng như ngày nay. Cũng như tâm tánh người nhờ đạo-đức giồi tâm mà sáng-láng. Như vậy lời đoán về người mang quẻ Chấn có phần mộ đặt nơi chốn “sơn lâm” thì hoàn-toàn ứng hiệp vậy.
i/- Đoán tính tự (họ tên người)
Người mang quẻ Chấn có họ hoặc tên có chữ bộ mộc 木
- Đức Quyền Giáo-Tông có tên là Lê-Văn-Trung, họ LÊ viết thành chữ Hán có dạng là 梨 tức nhiên cấu tạo bởi các phần sau: phía trên là Hòa 禾 (cây lúa) họp với Đao 刂 và dưới là bộ MỘC 木 Quả nhiên họ Lê của Ngài có bộ mộc vậy.
j/- Đoán số mục
Người mang quẻ Chấn có ảnh-hưởng các con số: 4, 8, 3.
- Quẻ Chấn số 3 là dương-số, lại là hướng cung Mão nên Chấn cũng là Càn; ba thành một, một mà ba. Vai trò này hết sức quan-trọng đứng vào Tam ngôi nhất thể. Số 3 cũng là Trời, “thay mặt Thầy mà dạy-dỗ nhơn-sanh” thế nên Giáo-Tông là Anh Cả của nhơn-sanh.
Ngài hành-đạo vừa tròn 8 năm, không dư không thiếu một ngày. Phải chăng tất cả đều có quyền thiêng-liêng đã đặt để trước.
7- Đức Quyền Giáo-Tông là một mẫu người đáng kính
Đức Quyền Giáo-Tông đã nắm trọn Bát-quái Đồ-thiên trong một thiên-trách hết sức là nhọc-nhằn và đau-khổ. Tuy nhiên không vì thế mà làm cho Ngài nản chí hay phiền-hà. Hãy nghe Ngài trả lời về những việc đã xảy ra làm cho nhọc trí Ngài.
Qua lời thuật của một báo-giới nói về Ngài, sau ngày qui Thiên:
- “Tôi còn nhớ, cách chừng một năm nay, sau khi ông Nguyễn-Phan-Long lấy tư-cách Giáo-Sư Cao-Đài lên Tòa-Thánh Tây-Ninh ngồi làm chủ-tọa “Hội Vạn-Linh” để buộc tội ông Giáo-Tông mà rồi cũng không có hiệu-quả, ông Lê-Văn-Trung kêu tôi mà nói: cái kết-quả của “Hội Vạn-Linh” này không phải là để rửa sạch những điều họ đã vu-cáo cho tôi, mà chính là để cho “Đạo” được thêm một tín-đồ trí-thức “Nguyễn-Phan Long".
Lại một hôm bàn về vấn-đề Tôn-giáo, tôi nói với Ông Lê-Văn-Trung:
Tôi nhớ như tuồng một nhà văn-sĩ Ăng-lê kia đã nói:
“Tôn-giáo này mà khác với Tôn-giáo kia cũng giống như những nhà đăng cao, tuy là khi mới trèo lên, thì người ở bên chân núi này, kẻ ở chân núi kia, chớ chừng đến trên đảnh cũng gặp nhau một chỗ.”
Ông trả lời:
- Đạo Cao-Đài chúng tôi cũng vậy. Song chỉ có một điều khác, là muốn sao từ khi đương ở dưới chân núi, thì tất cả các nhà đăng cao đều đã biết nhau, yêu nhau.
Gần đây, sau khi Ông đi diện-yết quan Toàn-quyền Robin vừa ra, tôi hỏi:
- Quan Toàn-quyền có hỏi chi đến việc Ngài trả Bắc-Đẩu Bội-tinh lại cho Chánh-phủ chăng?
- Có, Quan Toàn-quyền có khuyên tôi lấy lại. Song tôi đã bẩm với Ngài rằng: Trả hay không trả Bắc-Đẩu Bội-tinh là một việc nhỏ dễ tính.
Kết-luận về Đức Quyền Giáo-Tông
“Cái người của Ông, bình sanh, bất kỳ là đối với việc gì, cảnh ngộ nào Ông cũng vẫn ung dung, hòa-nhã; nói chậm-rãi, mới nghe qua tuồng như thờ-ơ, mà xét kỹ lại, thì thâm-trầm, ý-vị.
Chỉ duy trong những lúc tàn đêm canh vắng hay là dưới bóng trăng nuối, ông mới đem ít nhiều tâm-sự mà than-thở với những người bạn thanh-niên như chúng tôi đây.
Cái tâm-sự mà ông đã đặt tên cho nó là “Nhơn-đạo”.
- Cái “Nhơn-đạo” ấy, ai là người trong Đạo Cao-Đài sẽ kế chí ông?
Về phần tôi, tôi chỉ biết lấy tình tri-kỷ mà vẽ sơ lại con đường của ông đã trải qua, để họa may gần đây sẽ có kẻ nối theo đó mà đi cho đến mục-đích của ông đã tự-kỳ: do Thiên-đạo mà lo Nhơn-đạo cho xong để tròn phận-sự đối với Thiên-đạo” (Tiểu-sử Đức Quyền Giáo-Tông, trg 148)

►Xem tiếp CHƯƠNG IV /... Quyền-hành của Đạo phải có Giáo-Tông và Hộ-Pháp