C- HỘ-PHÁP
CHƯỞNG-QUẢN NHỊ HỮU-HÌNH-ĐÀI
- Cửu-Trùng-Đài là Đời.
- Hiệp-Thiên-Đài là pháp-giới tạo ra vạn-linh, đó là Đạo.
* Cửu-Trùng-Đài dưới quyền-hành Giáo-Tông chưởng-quản.
* Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền của Hộ-Pháp chưởng-quản.
Nguyên-tắc:
Đức Hộ-Pháp nói: “Hễ Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế, nên quyền vạn-linh tức là quyền Chí-Tôn tại thế định cho Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài nắm quyền vi chủ nơi tay mới làm được, điều ấy bí-pháp Chí-Tôn đã giao phó tất cả.
“Đức Chí-Tôn định cho Hộ-Pháp cầm quyền hai Đài tức nhiên Thiên-điều quyết định Đạo phải làm Chủ của Đời, oai-quyền ấy sẽ cứu đời khỏi tận diệt.
“Vì cớ ấy mà Đức Lý nói Thiên-điều trong tay Bần-Đạo là vậy đó.
“Trong nền Đạo luôn luôn phải có Giáo-Tông và Hộ-Pháp, dầu có sự biến thiên xây chuyển thế nào, sớm hoặc muộn đều phải có Giáo-Tông và Hộ-Pháp.
“Dầu xác thể của Qua là con kỵ-vật của Hộ-Pháp, có thay đổi thế nào Hộ-Pháp vẫn là Hộ-Pháp. Ngày kia chủ-quyền của Đạo: hữu-hình này là Giáo-Tông làm chủ không lẽ Ngài vô tình chiết bớt cánh tay, tức là giải tán Phước-Thiện. Bởi vì:
“Hội-Thánh Phước-Thiện là của Hộ-Pháp.
“Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài là của Giáo-Tông.
“Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài còn. Mà Hiệp-Thiên-Đài còn thì các cơ thể trong cửa Đạo vẫn còn tức là nhơn-sanh còn thì quyền Vạn-linh không bao giờ tuyệt. Bởi vậy đại-nghiệp thiêng-liêng Chí-Tôn đã để tại mặt thế này là nền Đại-Đạo giao cho quyền Vạn-linh nắm giữ, còn Thánh-thể Đức Chí-Tôn là chủ quyền nó sẽ bảo thủ vĩnh-viễn, trường-tồn mãi mãi".
1- Nguyên-nhân nào Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài?
Khi Đức Quyền Giáo-Tông đăng Tiên ngày 13 tháng 10 năm Giáp-Tuất (dl 19-11-1934) qua ngày rằm khai mạc Đại-hội nhơn-sanh nên Hội-Thánh phải đình lại ngày Hội để lo cử hành lễ Thánh-tang cho Đức Quyền Giáo-Tông xong. Qua ngày 26 Hội-Thánh nhóm Đại-hội Hội-Thánh mời cả Chức-sắc Nam Nữ lo mở Đại-hội nhơn sanh, đồng thời cũng đệ trình kiến-nghị cả hai Hội-Thánh Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng quyết-nghị giao quyền Thống nhứt cho Đức “Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài”.
Giờ phút này Đức Hộ-Pháp thật sự nắm quyền Hộ-Pháp và Giáo-Tông, tức là cầm quyền Vạn-linh, đủ quyền đối cùng Chí-Linh, tức nhiên Ngài là Giáo-chủ hữu-hình của nền Đại-Đạo.
Hộ-Pháp có quyền đặc biệt về ân-xá cũng như Giáo-Tông có quyền chánh-trị vậy.
Đức Hộ-Pháp xác định:
“Hễ Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế, nên Quyền Vạn-linh tức là Quyền Chí-Tôn tại thế định cho Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài, nắm quyền vi chủ nơi tay mới làm được, điều ấy bí-pháp Chí-Tôn đã giao phó tất cả. Mấy con không hiểu đặng, chỉ có Đức Lý Giáo-Tông và Qua mà thôi”.
Đức Lý Đại Tiên ban cho thi:
HỘ giá Chí-Tôn trước đến giờ,
PHÁP luân thường chuyển máy Thiên-cơ.
CHƯỞNG quyền cực-lạc phân ngôi vị,
QUẢN suất càn-khôn định cõi bờ.
NHỊ kiếp Tây Âu cầm máy tạo,
HỮU duyên Đông Á nắm Thiên-thơ.
HÌNH hài Thánh-thể chừ nên tướng,
ĐÀI trọng hồng-ân gắng cậy nhờ.
Ngày 15-5 Mậu-Tý (dl 21-6-1948) là ngày Đức Hộ-Pháp vấn nạn Đức Lý Giáo-Tông “Về một lý thuyết tối trọng-yếu trong nền Chánh-giáo của Đức Chí-Tôn, việc Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình Đài là việc này có điều bí-ẩn tiên tri, sự tiên-tri ấy kết liễu cùng chăng không rõ, nhưng hiện giờ ta cũng đoán xét được.
Đức Lý Giáo-Tông đã có giáng cơ nói:
Giao quyền Cửu-Trùng-Đài trong tay Bần-Đạo đặng thống nhất quyền-hành Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài, ấy là do Ngọc-Hư-Cung quyết-định tức là do Thiên-điều quyết-định vậy.
Điều ấy Bần-Đạo lấy làm khó nghĩ, nhứt là chịu nhận đảm-nhiệm ấy làm cho tinh-thần của Bần-Đạo phải kiếm hiểu, kiếm hiểu coi vì cớ nào mà giao cho Bần-Đạo QUYỀN THỐNG NHẤT, nhưng tìm kiếm không ra được.
“May thay, Đức Lý Giáo-Tông đến. Bần-Đạo thú thiệt với Ngài và xin Ngài nói rõ cho biết đôi việc nhỏ đặng chỉnh-đốn, Bần-Đạo nói:
- Bạch Ngài, sự bí-mật ấy nếu Ngài có thể cho Tôi biết được đôi chút mới có thể an tâm, an trí được. Ngài cười và nói:
- Bần-Đạo vẫn biết trước thế nào Hiền-hữu cũng vấn nạn nên Bần-Đạo đã cố tâm đối-đáp lại cùng Hiền-hữu. Trước khi muốn biết sự bí-mật ấy, chúng ta nên tìm hiểu coi Nhị Hữu-Hình-Đài là gì?
Bần-Đạo xin Ngài giải-nghĩa. Ngài đáp:
- Cửu-Trùng-Đài là chơn-tướng của Cửu-Thiên Khai-Hóa tức là cơ hữu-vi của càn-khôn vũ-trụ, do Cửu-Thiên Khai-Hóa tạo thành.
Hỏi: Bởi quyền-năng nào tạo thành?
Do nơi quyền-năng vô đối của Chí-Tôn. Phép lạ thành tướng ấy là do Pháp. Pháp ấy từ đời thượng-cổ tới giờ liên-hiệp Vạn-linh và Chí-linh. Bởi vậy ta tìm Đạo là cốt-yếu tìm hiểu cái bí-pháp ấy như thế nào và có phương thế gì làm cho ta đoạt đặng chăng?
Ấy vậy, Cửu-Trùng-Đài là Cửu-Thiên Khai-Hóa tạo-đoan cả vạn-linh trong vòng càn-khôn vũ-trụ. Chúng ta ngước mặt lên trời, mắt thấy hằng hà sa-số là địa-giới, ta gọi là sao, mỗi vì tinh-tú ấy là một quả địa-cầu có người ở, cho nên Đức Chí-Tôn mới nói rằng càn-khôn vũ-trụ này chứa đầy vạn-linh. Nói rõ hơn nữa Cửu-Trùng-Đài là Đời.
Hiệp-Thiên-Đài là pháp-giới tạo ra vạn-linh, tức là Đạo, rõ-rệt như vậy.
Bây giờ Bần-Đạo hỏi tại sao, cớ nào mà Ngài đến đây cầm quyền trị thế?
Ngài trả lời:
Ta tìm hiểu cao sâu hơn nữa trong sự bí mật ấy coi hiện thời chúng ta thấy gì? Ta thấy đời đương phấn-khởi, bồng-bột; tự năng, tự tạo, tự đoán, tự chủ, không còn đạo-đức gì hết mà đương nhiên lại có hai hình tượng:
- Cộng-sản tinh-thần thể chất,
- Các ban máy-móc, cách-vật, hóa học, tức là thuộc về hình tượng thể chất.
Hai hình tượng ấy ngày nay đối chọi nhau. Thảng như ngày kia có hiệp đồng lại, thì thể chất ấy có hình tướng lại có hồn-phách thì ta thử tưởng-tượng lại coi nhơn-loại trên mặt địa-cầu này sẽ thế nào?
Thể chất thì lúc nào cũng xu-hướng theo thể tánh duy-vật mà thôi. Thoảng như các Tôn-giáo đương cầm tương-lai linh-hồn của loài người mà trên mặt địa-cầu này không đủ năng-lực, thì cả tài-năng thể chất ấy nó sẽ xô đuổi cả xác thịt lẫn linh-hồn của con người đến chỗ tự diệt đó.
Ấy vậy, tinh-thần tức là đạo-đức phải làm thế nào đặng đối phó lại cho vừa sức với thể chất ấy. Đời bây giờ quá tiến-triển về hình-thể thì phải có cơ Đạo đủ năng-lực thức tỉnh tâm-hồn của loài người và giữ-gìn, dìu-dắt mới có thể tồn-tại được. Nhưng ta thấy các Tôn-giáo hiện hữu tại mặt địa cầu này đã mất quyền hẳn vậy. Sự loạn-lạc gây ra hai trận đại-chiến ở Âu-châu là do nơi Công-giáo mất quyền, tinh-thần của nhơn-loại loạn-đả mà không ai cầm quyền điều-khiển nên mới tự-do sát hại lấy nhau như thế ấy.
Chí-Tôn đến! Đến đặng cứu con cái của Người!
Vậy hỏi Người đã làm thế nào? Có chi lạ! Người chỉ tăng cường đạo-đức làm giềng mối cho tâm-lý loài người đặng bảo-tồn sanh mạng cho cả nhơn-loại với phép duy-tâm thì đời mới tồn-tại.
Ngài vừa luận tới đó thì Bần-Đạo nói:
Than ôi! Đạo Cao-Đài đã 23 năm mà còn lẩn-quẩn trong nội địa Việt-Nam, có đâu đủ đảm lực ra toàn cầu đặng độ rỗi nhơn-sanh, cái đặc phận ấy quyết-định con đường của Đạo đi còn dài, còn sở cấp tương-lai vận-mạng của loài người lại cấp bách. Vậy làm thế nào mà chuyển thế cho kịp đặng hoàn tất đảm-nhiệm thiêng-liêng ấy?
Ngài trả lời một câu rất hữu duyên, chúng ta không thể tưởng-tượng được. Ngài nói rằng:
- Cái nhà máy xay, vốn nó không cấy, không gặt, mà nó vẫn có gạo ra cho toàn nhơn sanh ăn. Đạo Cao-Đài không ra khỏi nước mà có thể làm phận-sự trọn vẹn đặng.
Bần-Đạo hỏi câu ấy có nghĩa thế nào?
Ngài đáp:
Mối chơn-truyền của Đức Chí-Tôn đem Đạo đến tại thế là mối dây liên-lạc tương-quan cùng các Tôn-giáo trên thế-giới đương nhiên cầm quyền nhơn-loại, bởi không có giềng mối kết-liên với nhau thành ra chia rẻ, phân biệt trắng đen, hơn thiệt. Trận giặc Tôn-giáo trên địa-cầu hiện giờ ta thấy tại Ấn-Độ và Palestine. Vậy có thể nào làm cho các Tôn-giáo hiệp đồng tâm-đức đặng chăng?
Duy có năng lực của Chí-Tôn tạo thành mối dây liên-hệ các Tôn-giáo cùng nhau đó thôi.
Bần-Đạo vấn nữa: Thoảng như Chí-Tôn đem các Tôn-giáo ấy dung-hòa đặng tương-hội cùng nhau mà họ không nghe thì ta mới làm sao? Ngài nói:
- Dầu đương nhiên họ không nghe, nhơn-sanh sẽ biết điều trọng-yếu ấy mà đòi hỏi thì họ phải chịu, chừng ấy nhơn-sanh buộc họ phải hiệp, bằng chẳng vậy họ sẽ tự diệt lấy họ.
Ấy vậy, Đức Chí-Tôn định cho Hộ-Pháp cầm quyền hai Đài, tức nhiên Thiên-điều quyết định Đạo phải làm chủ của Đời, oai-quyền ấy cứu đời khỏi tận-diệt.
Vì cớ ấy mà Ngài nói Thiên-điều trong tay Bần-Đạo là vậy đó”.
Đức Lý Đại-Tiên nói về quyền-hành của HỘ-PHÁP.
“Hiền-hữu khuynh tâm vì Lão và Thượng-Trung-Nhựt lập quân-đội khi Hiền-hữu vắng mặt có phải?
Tình cảnh đôi ta phản-trắc:
- Lão là Thiên-điều mà cầm quyền trị thế,
- Còn Hiền-hữu tại thế mà nắm Thiên-điều.
Lão xin nhắc, khi Hiền-hữu tịnh pháp tại Thủ-Đức, Lão đã nói cơ chuyển thế Trời người hiệp một. Hiền-hữu có nhớ? Cười!...
Thiên-đình tại thế. Thế tại Thiên-đình, cơ huyền-bí độ tận chúng-sanh mới đặng, có phải?
Thoảng như vậy thì cơ chuyển thế nguy hiểm này, nhơn-sanh sẽ định số phận Hiền-hữu thế nào có biết?
Cười!.. Chẳng lẽ phải chịu một phen khảo đảo xác nữa! Thì nạn chiến-tranh Lão đã tiên-tri từ trước, vì chủng-tộc Việt-Nam vô đạo mới khó giải-kiết cứu nguy. Nếu Hiền-hữu ngày nào cầm lại Thiên-thơ thì mới rõ phần nhơn-quả.
Chẳng lẽ Lão là chủ phần xác của nhơn sanh mà ngồi khoanh tay, không tìm phương cứu chữa. Địa-vị của Hiền-hữu như Lão thì Hiền-hữu mới thế nào?
Chẳng lẽ vì những kẻ lợi dụng vô tâm, đọa-đày thiên-hạ mà lại đố kỵ chẳng dám cứu đời. Hiền-hữu căn-dặn cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn ráng sức ăn-năn, cầu-nguyện.
THI
Việt-thường hữu phúc xuất chơn-quân,
Chuyển thế Chí-Tôn dĩ định tuần.
Trị loạn Nam-phương trừ mãnh-hổ,
Thừa bình Bắc địa kiến Kỳ-lân.
Hoàng-triều hậu nhựt nghi tùng cổ,
Văn-hiến tương-lai khả hoán tân.
Thánh chúa hiền thần phò Tổ nghiệp,
Khải ca định phận tại thu phân.
(Đức Lý, 1-3 Mậu-Tý)
Đức Lý dạy tiếp:
“Hộ-Pháp, Hiền-hữu muốn Lão ký tên Thánh-lịnh thăng vị cho Chức-sắc Thiên-phong, điều ấy vốn không khó, chỉ sợ nghịch Thiên-điều.
Lão đã nói, hoàn cảnh của đôi ta phản trắc:
- Lão vô-hình lại đảm-nhiệm trách-nhậm trị thế định vị, tức là chủ-khảo thiêng-liêng-vị. Bởi thế cho nên khi Hộ-Pháp trấn Thánh Phi-Châu, Lão mới cầm quyền đặng định vị cho các Thánh tử đạo, vì đó mà lập quân-đội.
- Còn Hiền-hữu hữu-hình mà lại nắm Thiên điều hành-pháp lập giáo, Hiền-hữu là chủ khảo hữu-hình-vị, bởi cớ cho nên Hiền-hữu làm đầu toàn Hội-Thánh.
Khi Ngọc-Hư-Cung giáng lịnh thì Hiền hữu vẫn nhớ hai câu thi này:
“Cửu-trùng không kế an thiên-hạ,
“Phải để Hiệp-Thiên đứng trị vì.”
Bởi lẽ ấy, Lão đến khi nọ giao quyền trong bài thi “Hộ-Pháp Chưởng-Quản Nhị Hữu-Hình-Đài”
Ấy vậy, nơi tay Hiền-hữu đủ quyền Chí-Tôn mà chuyển thế. Lão bất quá là một Gián-nghị Đại-phu ở gần Hiền-hữu, chia lo sớt nhọc mà thôi.
Lão tưởng khi thiên-hạ chưa an có phải?
Cười!... thì nay đã hiện-diện là Quốc-sư Việt-Nam đặng bước qua Quốc-sư thiên-hạ. Xong chưa mà toan thối thác?
Cứ ký đi như trước tới giờ là đúng phép.”
* HIỆP-THIÊN-ĐÀI dưới quyền Hộ-Pháp chưởng-quản, tả có Thượng-Sanh, hữu có Thượng-Phẩm. Phần của Hộ-Pháp chưởng-quản về Pháp.
2- HỘ-PHÁP LÀ AI?
HỘ-PHÁP 護 法
(F: Chef suprême du Temple de l’Alliance Divine).
Pháp-Chánh-Truyền qui định:
“Huyền-vi mầu-nhiệm của Đạo có Thiên điều, cơ bí-mật của đời có luật-pháp. Hộ-Pháp là người nắm cơ mầu-nhiệm của Đạo, nắm luật của Đời, xử-đoán chư Chức-sắc Thiên-phong và cả Tín-đồ cùng là xin ban thưởng, công thưởng tội trừng nơi thế này. Hễ có phàm trị mới khỏi Thiên trị; phải chiếu luật Đạo cho toàn cả Tín-đồ khỏi bị Thiên-điều, giữ phẩm-vị thiêng-liêng mỗi Chức-sắc, ắt phải gìn-giữ đạo-đức của mọi người. Người dùng hình phàm làm cho giảm tội thiêng-liêng, nắm cơ mầu-nhiệm công-bình mà đưa các chơn-hồn vào Bát-Quái-Đài, hiệp cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Người nắm trọn cả luật Đạo và luật Đời đặng xử-đoán, làm chủ phòng xử đoán.
Dưới quyền Hộ-Pháp có 4 vị: Tiếp-Pháp, Khai-Pháp, Hiến-Pháp, Bảo-Pháp.
Bốn vị ấy đồng quyền cùng Hộ-Pháp khi đặng lịnh Người sai đi hành-chánh, song mỗi vị có mỗi phận-sự riêng, quyền-hành riêng.” (PCT)
3- Luận về quyền-hành của HỘ-PHÁP tức là luận về Đạo-phục của Người
Đạo-phục của Hộ-Pháp được Pháp-Chánh-Truyền qui định:
“Đạo-phục của Hộ-Pháp có hai bộ, một bộ Đại-phục và một bộ Tiểu-phục”
Điều ấy chứng tỏ rằng “Hộ-Pháp là người nắm cơ mầu-nhiệm của Đạo, nắm luật của đời” tức nhiên là Ngài còn nắm cả hai Bát-quái của Đại-Đạo này cũng như Giáo-Tông vậy.
Đại phục:
“Bộ Đại phục, Người phải mặc giáp, đầu đội Kim-Khôi toàn bằng vàng, trên Kim-khôi có thể Tam sơn, giống như cái chĩa ba ngạnh, chủ-nghĩa là Chưởng-quản Tam-Thiên bên Tây-Phương-Cực-lạc”.
Giáp là bộ đồ của người lính khi ra chiến-trận để bảo vệ sanh mạng, quan-trọng cho hàng tướng-soái. Ở đây Hộ-Pháp mặc khôi-giáp là chỉ một uy-quyền tối thượng, oai-phong lẫm-liệt, một Tướng trời tức là Ngự-Mã Thiên-Quân của Chí-Tôn. Giáp của Ngài là một thiết-giáp đạo-bào nên chỉ để “trừ tà diệt mị hộ chơn truyền” mà thôi.
Đầu đội Kim-khôi màu vàng; màu vàng chỉ về Phật-giáo chấn-hưng mà Đạo Cao-Đài đang chủ-trương tinh-thần ấy. Trên Kim-Khôi có thể Tam sơn chứng tỏ quyền-hành của Ngài hiện đang Chưởng-quản cả Tam châu là Đông thắng thần châu, Tây ngưu hạ châu, Nam thiệm bộ châu; còn lại một châu thứ tư là Bắc cù lư châu thì giao cho Kim-Quan-sứ cai trị.
Thế nên câu niệm danh Ngài thường là “Nam-mô Tam Châu Bát Bộ Hộ-Pháp Thiên-Tôn” nhưng Ngài còn dạy rằng: lẽ ra phải niệm là “Nam-mô Tam-Thiên Thế-Giới Hộ-Pháp Giáng Lâm” mới đúng, nay vì đã quen rồi nên không sửa.
“Chơn đi hia, trên chót mũi hia có chữ “PHÁP”.
Với nền Tôn-giáo, chỉ duy các Chức-sắc Đại Thiên-phong mới được phép mang hia hoặc giày vào chầu lễ Chí-Tôn, nhưng các giày hay hia này chỉ dành riêng sử-dụng trong lúc chầu lễ Chí-Tôn mà thôi. Trước mũi hia có chữ “Pháp 法” chỉ nghĩa rằng Ngài chưởng-quản “chi Pháp” là một trong ba chi “Pháp, Đạo, Thế”.
“Ngoài giáp thì choàng mảng-bào, thế nào bên tả phải giáp, bên hữu thì mảng. Tay hữu (bên Đạo, nghĩa là bên Thượng-Phẩm) cầm Giáng-Ma-Xử (thể lấy Đời chế Đạo), còn tay tả (bên Thế nghĩa là bên Thượng-Sanh) nắm xâu chuỗi “Từ-Bi” (thể, lấy Đạo chế Đời), thành ra nửa Đời nửa Đạo”
Điều lý giải như trên đã rõ nghĩa, tuy nhiên:
“Trong Hiệp-Thiên-Đài thì có Hộ-Pháp thay quyền cho các Đấng Thiêng-Liêng và Thầy mà giữ-gìn công-bình tạo-hóa, bảo-hộ nhơn-loại và vạn-vật lên cho tới tận thiện tận mỹ, người thì tận thiện còn vật thì tận mỹ.
“Hộ-Pháp là thể các Đấng trọn lành, Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo, đặng dìu-dắt các chơn-hồn lên tột phẩm-vị của mình, tức là nâng-đỡ binh-vực cả Tín-đồ và Chức-sắc Thiên-phong ngồi an địa-vị, cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật điều-đình Càn-Khôn Thế-Giới cho an-tịnh”.
“Ngang lưng cột dây lịnh sắc có ba màu Đạo (thể Chưởng-quản Tam-giáo nơi mình, nắm trọn thể-pháp và bí-pháp đặng qui nhứt, cái mối dây lịnh sắc phải ngay chính giữa bụng”.
Quyền-hành của Hộ-Pháp rất lớn, nhất là việc qui Tam-giáo là một việc khó-khăn vô cùng, bấy nhiêu hình ảnh trên sắc phục của Ngài cũng đã thấy quyền-uy của Ngài trong cơ Đạo này là tối thượng. Thế nên, bộ Đại-phục chỉ mặc khi chầu lễ Chí-Tôn mà thôi.
Bộ Đại-phục này đủ yếu-tố cho một Bát-quái Đồ-thiên trong nền Đại-Đạo.
Việc cúng kính thường thì mặc Tiểu phục.
Tiểu phục:
“Bộ Tiểu phục thì toàn bằng hàng vàng (màu Đạo).”
Màu vàng thuộc phái Phật, tức nhiên Đạo Cao-Đài là Phật-giáo chấn hưng, dù tu ở bên nào (Cửu-Trùng-Đài hay Hiệp-Thiên-Đài) khi đắc Đạo cũng vào Phật-vị, Ngài là Nhứt Phật.
“Đầu đội Hỗn-Nguơn-Mạo màu vàng, bề cao một tấc ngay trước trán, chính giữa có thêu ba cổ-pháp của Tam-giáo là bình Bát-vu, cây Phất-Chủ và bộ Xuân-thu, ngay trên ba cổ-pháp ấy có chữ “Pháp 法”.
Chỉ riêng chữ Pháp 法 phân-tích sẽ thấy cái lý mầu-nhiệm vô-vi trong đó là gồm bộ thuỷ氵và chữ khử 去 tức nhiên là dùng nước để khử trược. Bộ thuỷ có 3 nét ứng với Tam tài, chữ khử có 5 nét là lý Ngũ-hành; cộng 3 và 5 là 8 là một Bát-quái vô-hình, tức là một yếu-tố để chứng tỏ đây là Hư-vô Bát-quái.
Hộ-Pháp là người của cung Hỗn-Nguơn-Thiên (số 11), thế nên trên bàn thờ của Hộ-Pháp có cả thảy 11 cúng-phẩm, đúng ra đó là quẻ Bát Thuần Càn, chứng tỏ Ngài là người đã thay trời tạo thế trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này, từ đó những vấn-đề có liên-quan cũng phải đúng vào con số biểu-tượng là 11, mới đúng thời, đúng lúc đó vậy. Vì thế trên chiếc mão của Ngài đội có tên là “Hỗn-Nguơn-Mạo”
Bề cao một tấc trước trán (số 1).
Số 1 là số đầu tiên sau số 0, tức là cái nguồn sanh-hoạt trước nhất để biến-vi hữu-tướng. Số 1 chỉ về Thái-cực tức dương, người mang số này có tánh chuyên nhất và cầm quyền vi chủ. Số 1 là số động, nó vốn là lý Thái-cực suy ra nên nó huyền-diệu, nhiệm-mầu, hiện biến nên Đạo-gia nói “Thiên đắc nhứt linh, địa đắc nhứt minh, nhơn đắc nhứt thành” là vậy. Ngôi số 1 thuộc về ngôi Phật chủ quyền cai-trị và giáo-hóa vạn-linh.
Tại sao phải đặt trước trán? Bởi Đạo là lấy chính trung, nên chi đặt ở trán là điểm giữa của mặt. Lại nữa chính giữa “có thêu ba cổ-pháp của Tam-giáo” là Xuân-thu, Phất-chủ và bình Bát-vu.
Nay đứng đầu của Tam-giáo thì có ngôi “Chưởng-Pháp của ba phái là Thích, Đạo, Nho. Nghĩa là mỗi phái là một vị, mà ba đạo vẫn khác nhau; nội dung, ngoại dung đều khác hẳn, luật-lệ vốn không đồng chỉ nhờ luật-lệ làm cơ qui nhứt”.
“Mỗi Chưởng-Pháp phải có ấn riêng:
- Thái Chưởng-Pháp thì Bình-Bát-vu,
- Thượng Chưởng-Pháp thì cây Phất-chủ,
- Ngọc Chưởng-Pháp thì bộ Xuân-thu.
Hiệp một gọi là cổ-pháp. Ba cái cổ-pháp ấy vốn của Hộ-Pháp hằng kỉnh trọng. Nơi mão Tiểu-phục của Người phải có ba cổ-pháp ấy” (PCT) (xem thêm về cổ-pháp).
Sở dĩ “ngay trên ba cổ-pháp ấy có chữ “Pháp” là vì Ngài đứng đầu “chi Pháp”.
“Chơn đi giày vô ưu màu trắng, nơi chót mũi có chữ “Pháp”
Giày vô-ưu. Riêng chữ vô-ưu là không còn ưu-phiền, tức là một bậc đã giải-thoát. Màu trắng là màu Đại-đồng, màu tổng hợp bảy màu của sắc cầu vồng. Như vậy có cả thảy ba chữ “Pháp” (một trên mão, hai chân hai chữ ở trước mũi hia) là hoàn thành con số 3 huyền-diệu nơi bộ Tiểu phục.
Tuy nhiên nếu cộng cả thảy thì có đến 5 chữ “pháp”, bởi vì bộ đại phục cũng có hai chữ ở chót mũi hia nữa. Đây là do con số 2 cộng với số 3 thành ra số 5; số 2 chỉ âm dương hiệp với số 3 là Tam tài, số 5 là “Ngũ trung” ở trong Bát-quái.
“Lưng nịt dây lịnh sắc y như Đại phục”
Nghĩa là “ngang lưng cột dây lịnh sắc ba màu Đạo, cái mối dây lịnh sắc phải ngay chính giữa bụng”, tức là hiệp Tam-bửu: Tinh, Khí, Thần.
"Khi ngồi Tòa Tam-giáo thì phải mặc bộ Tiểu phục, còn Đại phục thì chỉ để ngự trên ngai mình”
Xem thế thì quyền-hành của Hộ-Pháp đã đầy-đủ các yếu-tố của Bát-quái Đồ-thiên hiện rõ trên bộ Đại-phục
Bộ Tiểu-phục hiện rõ Bát-quái Hư-vô.
4- Thầy lấy tánh-đức PHẠM-CÔNG-TẮC lập Giáo trong cơ chuyển thế
Đức Hộ-Pháp nói:
“Đức Chí-Tôn đến dạy Bần-Đạo lúc nọ, đức-tin của Bần-Đạo chưa có gì hết. Không biết Ông tạo nền chơn-giáo như thế nào mà Ông biểu Bần-Đạo dâng cả:
Thi hài, Trí não, hồn phách cho ông lập Đạo.
Bần-Đạo không tin, không nói, không nghĩ một cách nào quá đáng, Bần-Đạo trả lời:
- Thưa Thầy, cảm-tưởng của con biết con và con biết Đạo. Thầy biểu con làm phận-sự bắt chước Đức Phật Thích-Ca, Đức Lão-Tử, Đức Khổng-Phu-Tử hay là Đức Chúa Jésus-Christ thì con không làm đặng, con chỉ biết con là TẮC đây thôi.
Ông đáp:
- TẮC, thoảng như Thầy lấy tánh đức của con để lập giáo, con mới nghĩ sao?
Bần-Đạo hết đường trả lời.
Từ thử đến giờ, Bần-Đạo ỷ mình hễ đi đến đâu hay đứng trên giảng-đài nào Thuyết-đạo, Bần-Đạo cứ nói càng, không hiểu mình nói trúng hay trật, ai ngờ là nói trúng. Có một điều rất ngộ nghĩnh khi Bần-Đạo đến Miên-triều, Miên-Hoàng tuyên-bố cho cả quốc-dân hay “Đấng này đi đến đây đem Hòa-bình cho nước nhà Miên, nòi giống Miên đó”.
Hồi qua Âu-châu, vừa bước chân lên đất Pháp, họ cũng nói ra điều ấy “Đem Hòa-bình cho thiên-hạ”. Hòa-bình làm sao không biết, điều đó Bần-Đạo chỉ tin nơi Đức Chí-Tôn làm sao hay vậy”
Ngày nay:
Nơi “Cung Thượng Thiên Hỗn-ngươn chúng ta thấy đương giờ này đang trong đệ tứ chuyển. Thượng-nguơn Tứ chuyển này giao quyền chưởng-quản trị phần hồn và phần xác của càn-khôn vũ-trụ do nơi tay của Đức Di-lạc Vương-Phật mà trong cung ấy là cung chúng ta thấy mặt Đức Chí-Tôn tức nhiên gần Đức Đại-Từ-Phụ hơn hết.
Chơn-lý của Đạo Cao-Đài đã tỏ cho toàn thể nhơn-sanh đều hiểu lời tiên-tri của Phật-giáo đã nói “qua cuối Hạ-nguơn Đức Chí-Tôn đến mở Hội-Long-Hoa đặng lập vị cho Đức Di-Lạc Vương-Phật. Nhưng khi ấy cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Ngọc-Hư-Cung cầu xin Đức Ngài để cho các Đấng ấy đảm-đang phận-sự thay thế cho Ngài, vì cớ cho nên Ngài không đi; Ngài không có đến, tức nhiên Ngài không có giáng trần tái kiếp.
Từ thử đến giờ, Bần-Đạo chưa hề nói đến sứ-mạng thiêng-liêng của Bần-Đạo, là vì Đức Chí-Tôn không đi, nên mới có Hộ-Pháp của Ngài đến, cốt-yếu thay thế cho Ngài đặng lập vị cho Đức Di-Lạc-Vương-Phật mở Hội Long-Hoa, tức nhiên sứ-mạng của Hộ-Pháp là cầm CÂN CÔNG-BÌNH THIÊNG-LIÊNG của Đức Chí-Tôn giao phó nắm cả tâm-lý tinh-thần nơi mặt địa-cầu này đặng hòa-giải hầu sửa đương tâm đức tinh-thần của nhân-loại, tức nhiên là Ngài đến trước khi mở Hội Long-Hoa tạo Tiên, Phật; tâm đức từ trong cửa Thánh của họ đặng họ từ từ bước đến phẩm-vị của họ tại mặt thế này.”
Vì sao vậy?
“Vì trong đạo-binh thiêng-liêng hộ-giá Đức Chí-Tôn từ khi khai thiên lập Đạo đến giờ, do theo Thánh-giáo Đức Chí-Tôn có nói Bần-Đạo là Ngự-Mã-Quân, phẩm-tước và quyền-hành cao trọng ấy phải thế nào? Để dấu hỏi (?)
Ta có thể đền đáp, có thể thay thế hình ảnh Đức Chí-Tôn đặng làm phận-sự của Ngài hay không? Hay một ngày kia khi trở về thiêng-liêng phải thẹn khi ngó mặt Ngài!
Bần-Đạo nhứt định một hơi thở cuối cùng dầu cho thế nào Bần-Đạo cũng quyết tùng mạng lịnh của Đại-Từ-Phụ làm cho con cái của Ngài đặng giảm bớt khổ-não. Tưởng khi các Bạn cũng đồng chí-hướng với Bần-Đạo vậy” (ĐHP 1-1 Ất-Mùi)
Ngự-Mã-Quân là ai?
- “Tức là Thập-Nhị Thời-Quân, Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp gọi là Ngự-Mã-Quân của Chí-Tôn. Phật-Mẫu sợ Chí-Tôn tạo Đạo không xong phải tái kiếp, nên Bà phải cho theo xuống Thập-Nhị Thời-Quân, phẩm-tước cao trọng thay!”
Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
- “Thưa các Bạn Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng và Phước-Thiện Nam Nữ,
Tưởng từ khi Tôi đã phế đời, hiến mảnh thân phàm này cho Đức Chí-Tôn làm khí-cụ tạo nước nhà Việt-Nam, một nền Tôn-giáo này, không ngày nào được phần thưởng vô giá như ngày hôm nay, mà chỉ có một ly rượu. Theo sự hưởng-ứng của các Bạn biết, nếu con người ta lấy sức-lực phàm làm môi-giới cho cái sở-hành riêng thì hẳn không ai can-đảm chịu. Cái người đã thả mình vô cảnh khổ với một sự vui tươi thì hồi xưa đến giờ chưa có. Tại sao vậy? Tôi đã hiểu bí-mật ấy, Tôi hiểu cả, nên cho các Bạn hiểu.
Các Đấng tự-hữu, hằng-hữu, thiên-hạ tưởng không có, họ lầm. Từ trước người ta tưởng Đấng ấy không có. Đấng ấy đã có từ tạo thiên lập địa; Tôi biết, Tôi hiểu, Tôi đã chịu khổ-não để thay-thế hạnh-phúc cho đời là do nơi đâu? Không phải tại nhà Tôi hay tại Tôi, chưa chắc, do nước Việt-Nam chăng?
- Ấy là do toàn nhơn-loại. Đấng Cha lành âý dầu thấy con bạc-bẽo thế nào, Đấng ấy cũng còn thương-yêu. Sự thương-yêu của ông Cha lành nó truyền-nhiễm Tôi, do nơi chỗ Tôi nghe được, Tôi hiểu được, biết rõ đặng Người.
Đấng ấy có mơ-vọng gì vô-hạn?
Nhứt là Ngự-Mã-Quân của Chí-Tôn biết trước hơn ai hết, bởi vì Ngài có dạy, trước hết là Ngài bỏ Huỳnh-Kim-Khuyết, bỏ Thiên-cung đòi xuống trần dạy con cái của Ngài lập phương giải khổ. Nếu Tôi không lầm, Cơ-bút đã cho Tôi biết các Bạn Hiệp-Thiên-Đài do nơi đâu sản-xuất?
- Do để giữ quyền thiêng-liêng nên mới có 12 vị Thời-Quân, Thập-nhị địa-chi tức là cảnh thiêng-liêng vô-hình của chúng ta. Tôi tưởng tấn tuồng Tôi đã làm trọn và làm nơi cõi vô-hình. Ngày kia về thiêng-liêng các Bạn sẽ thấy hình tối đại, tối thiểu. Phận-sự Tôi đối ý với các Bạn nó có thâm tình vô hạn, vì đồng tâm, đồng chí, một mực đề-xướng, cả thảy đều nghe chịu một hoàn cảnh. Bần-Đạo làm không hết, số là Bần-Đạo và các Bạn Hiệp-Thiên-Đài đã hứa với Đức Chí-Tôn.
Bần-Đạo lo cho toàn cả nhân-loại hoàn cầu, chứ không phải thương một cá-nhân nào hay một đoàn-thể nào, một quốc-gia nào; không phải làm tôi mọi cho Đời mà làm tôi mọi cho Đạo, nhưng vì cái năng lực vô-hình kia mà thôi.
Trước khi lãnh lịnh trên Ngọc-Hư-Cung tạo nền Chơn-giáo, Chí-Tôn quyết-định có Ngài giáng thế mới được, Ngự-Mã-Quân không cho, bắt buộc phải có Người thay-thế cho Ngài tức là Thánh-thể của Ngài tại đây.
Ngài đi mà không cho thì phải có hình-ảnh thế cho Ngài mới được. Hình ảnh của Ngài là Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài. Hộ-Pháp có khôn-ngoan nào hơn là cầu-khẩn cho có người đến với mình đặng tạo Thánh-thể đó, chớ một mình Hộ-Pháp xuống không thể được, nên phải cám-dỗ cung này, điện kia, đến Cửu-Thiên Khai-Hóa, biết chắc làm được mới đi.
Các Bạn cứ làm đi, vì cái phận-sự đối với thế-gian, đối với lời hứa ở trên kia; sự làm bây giờ, biết hai cái đó có đúng không? Bần-Đạo lui cui làm mãi không biết làm sao cho rồi, nào lo cho Cửu-Trùng rồi đến Phước-Thiện. Đầu óc của Hộ-Pháp đã chịu thâm-giao cùng các Bạn, cứ làm mãi thôi, sống giờ nào làm giờ nấy. Không phải kiếp này tại đây có Thánh-thể, không phải tại xứ Việt-Nam ta mới có, chúng ta chỉ là người cặm bông tiêu thôi, chớ không phải người tạo, chúng ta sáng lập là để cho đoàn hậu-tấn vì chúng nó đứng chàng-ràng, không biết đứa nào gánh vác đảm-đương.
Bổn-phận làm Anh phải tạo nghiệp cho em, mở đường trước cho con cháu đi, sau nhờ có chúng nó Thánh-thể của Chí-Tôn mới tồn-tại. Thầy không phải đến một kiếp này thôi, mà đến phải ở đời đời, không phải Thánh-thể đương nhiên, họ sẽ đến nữa hay đã đến rồi, nó còn lộn xộn không biết đứa nào.
Biết còn nữa thì tức nhiên phải mở con đường cho chúng nó đi và tạo nghiệp cho chúng nó. Tôi là đầy-tớ trong những đầy-tớ của Đức Chí-Tôn, biết có bao nhiêu đó, cứ đảm-nhận cương-quyết nâng-đỡ cho Đạo và Đời thôi.
May một điều là Tôi còn thiếu với Đức Chí-Tôn, Tôi xin đầu kiếp, thiếu hay không mà kiếp này Tôi là tên dân nô-lệ cho nước Việt-Nam, đã chịu thống-khổ tâm-hồn lẫn hình-thể trên 35 năm.
Tôi không xin, không biết tại sao Tôi đầu kiếp xuống dân Việt-Nam, Tôi cảm-kích vô-hạn, nào chịu khổ, nào chịu bạc-nhược và yếu hèn. Tại thấy nhơn-loại đau-đớn Chí-Tôn mới đến mở một nền Tôn-giáo, làm một khối sanh-quang cho toàn nhân-loại, đó là cái danh-dự cho nước Việt-Nam đã chịu khổ.
Vì cái tình của Chí-Tôn đối với dân-tộc Việt-Nam nên Tôi thí thân phải chết mới đền bồi xứng đáng.
Còn một việc khác nữa là Ngài tạo đầu óc, từ ngày mở Đạo Cao-Đài đến giờ tạo đầu óc nòi giống Việt-Nam để vãn-hồi quốc-vận, như thế cũng đủ cho mình đưa sanh mạng mà đổi.
Vậy sự làm của chúng ta phải cương-quyết và nhẫn-nại đủ điều, không nhút-nhác, vui chịu, bởi đã hiểu giá-trị ân-đức của Đức Chí-Tôn như thế nào rồi, muốn trả được hết, phải học làm đầy tớ của những đầy-tớ của Đức Chí-Tôn, làm được vậy chừng đó mới trả nợ tình Đức Chí-Tôn đặng.”
5- Tại sao Đức Chí-Tôn lại giao trọng-trách cứu thế cho Hộ-Pháp?
Đức Hộ-Pháp nói:
“Nếu nói Bát-phẩm chơn-hồn thì kể từ: vật-chất hồn, thảo-mộc hồn, thú-cầm hồn, nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn, cũng gọi đó là “bộ”, thế nên nói chung là Bát bộ (tức là Tám bộ)
“Tám bộ ấy thuộc quyền hạn HỘ-PHÁP THIÊN-VỊ nơi Đức Chí-Tôn gọi đến tạo cơ-quan tận-độ chúng-sanh không còn ai khác hơn Hộ-Pháp. Chính Hộ-Pháp chịu trách-nhiệm ấy.
Hạnh-phúc thay cho nhân-loại!
Hạnh-phúc thay cho vạn-linh!
Đức Chí-Tôn đem một hồng-ân tối đại để nơi mặt địa-cầu 68 này”.
Đức Ngài nói tiếp:
“Bần-Đạo nói thật giờ phút nào bí-pháp duy chủ quyền Đạo là giả-tướng mà thôi, không có chơn-thật gì hết. Nếu chúng ta TU mà không đoạt Pháp đặng tức nhiên chúng ta không giải-thoát đặng, thì kiếp tu chúng ta không hữu-ích chi hết.
“Hộ-Pháp đến cốt-yếu đem Bát-phẩm chơn-hồn thăng vị nhiều hoặc ít; có thể một đẳng cấp từ vật-chất Hộ-Pháp đem lên thảo-mộc, thảo-mộc đem lên thú-cầm, thú-cầm đem lên nhơn-loại dĩ chí Phật-vị. Hộ-Pháp có thể chỉ định cho họ đặng. Bởi trong quyền-hành ấy Chí-Tôn nói “trọng quyền thì trọng phạt”.
“Quyền-hành nắm chẳng phải nơi mặt thế gian này mà thôi, Hộ-Pháp và Thập-Nhị Thời-Quân chẳng phải quyền tại thế-gian này, quyền nơi cửa Đạo Cao-Đài này, cũng không phải tại đây nữa. Bần-Đạo nói sống đây là quyền cả Thiêng-Liêng Hằng-Sống.”
 |
Đức Hộ-Pháp dâng sớ cầu nguyện |
D- LUẬN VỀ
Quyền-hành của GIÁOTÔNG và HỘ-PHÁP
Xem thế đủ thấy rằng bên Cửu-Trùng-Đài thì Giáo-Tông làm chủ Bát-quái Đồ-thiên mà bên Hiệp-Thiên-Đài Hộ-Pháp cũng làm chủ Bát-quái Đồ-thiên.
Hễ Giáo-Tông hữu-hình thì Hộ-Pháp vô-vi, nhưng quyền-hành phân-biệt và được Đức Chí-Tôn phân-giải hẳn-hòi, Pháp-Chánh-Truyền qui định: Nơi Cửu-Trùng-Đài, thì:
“Giáo-Tông là Anh Cả các con”
“Giáo-Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn-đạo của Thầy tại thế, thì Anh Cả nhơn sanh đặng dìu-dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay nhỏ tuổi quyền thiêng-liêng đã định vậy.
“Tuy trong Hội-Thánh có chia ra hai phần hữu-hình là “Cửu-Trùng-Đài” và “Hiệp-Thiên-Đài”, mà nơi Hiệp-Thiên-Đài dầu cho Hộ-Pháp cũng phải là em của Giáo-Tông, song Hộ-Pháp phải nhỏ về phần hữu-hình đã nói trên đây, chớ phần thiêng-liêng thì đồng vị”.
Thầy dạy:
“Các con phải nhớ rằng toàn thế-giới càn-khôn chỉnh có hai quyền:
- Trên là quyền-hành Chí-Tôn của Thầy.
- Dưới là quyền-hành của sanh-chúng.
Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh của Đại-Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng ban quyền-hành trọn vẹn của Thầy cho hình-thể ấy đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh, còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh-chúng, dưới quyền-hành chuyển thế của đời, nghĩa là toàn nhơn-loại đặng đồng quyền cùng Thầy, mà tạo-hóa vạn-linh vốn là con cái của Thầy, vậy thì vạn-linh cũng có thể đoạt vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.
Trong quyền-hành ấy có nhiều đẳng cấp, nên khỏi phải chịu phẩm người, ấy vậy Người là chủ quyền của vạn-linh.
Thầy nói rõ: Quyền Chí-Tôn là Thầy, quyền vạn-linh là sanh-chúng. Ngày nào quyền lực Chí-Tôn đặng hiệp một cùng vạn-linh thì Đạo mới ra thiệt tướng. Thầy đã ban quyền Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là GIÁO-TÔNG cùng HỘ-PHÁP. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một. Còn cả nhơn-loại thì là quyền vạn-linh. Quyền-hành Chí-Tôn của Thầy duy có quyền vạn-linh đối phó mà thôi”
Quyền-hành này đã thể hiện rõ khi Ông Hồ-Bảo-Đạo nắm Quyền Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài có dâng sớ xin Đức Lý hủy bỏ Đạo nghị-định thứ tám.
Đức Lý giải-thích là:
“Không thể hủy được, vì cái gì của Ngài và Hộ-Pháp ký là Thiên-điều, nó phải tồn-tại đến Thất ức niên. Hơn nữa nó là lá bùa để trừ diệt chi-phái lồng vào nội-bộ của Đạo.
Ngài nói Đạo Thiên-Chúa có một trăm mấy chục Chi-phái, Đức Giáo-Hòang không biết làm sao mà thống-nhất được.
Đạo Phật có hơn 300 Chi-phái cũng không một quyền-lực nào đem lại sự thống-nhứt được làm một mối. Nếu hủy bỏ Đạo Nghị-định thứ tám, Đạo Cao-Đài bị Chi-phái lồng vào Hội-Thánh rồi làm sao đuổi nó ra? Nên nó là lá bùa trừ sự chia rẻ. Để họ tự-do lập phái rồi họ tự tiêu-tàn với thời-gian dài hay ngắn”.
Nay Đạo Trời có những qui-luật kết-hợp bởi:
1- Cơ-quan quản-trị càn-khôn.
2- Cơ sanh biến vạn-linh mà làm thành
Hội-Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đó vậy.

►Xem tiếp CHƯƠNG V: >>>>>