Càn-khôn vũ-trụ cũng có Luật-định. Chúng-sanh tu nếu biết đi đúng theo luật-định ấy mới mong hiệp một cùng Thầy. Do vậy mà phương tu phải có Luật có Pháp là phương định-vị là vậy. Thế nên nền Đại-Đạo này có Luật là Tân-Luật và Pháp là Pháp-Chánh-Truyền
“Nếu nói lương-tâm nhiều hạng tức nói Đạo Đời nhiều hạng. Chẳng có một giáo-lý nào buộc Đời tùng theo một mực thì chưa có một Đạo nào cầm đặng chủ quyền của đời trường cữu. Phải để cho đời trị đời, tức nhiên phải để cho lương tâm người trị người. Cá-nhân duy tùng lương-tâm mà hành-đạo thì mới thiệt Đạo.
Pháp-luật nào không tùng lương-tâm lập thành thì không phải Đạo, vì cớ mà ĐẠO CAO-ĐÀI để cho QUYỀN VẠN-LINH lập LUẬT.
Nhơn-sanh lập Luật mà tu thì tức nhiên do tâm-lý mà hành-đạo, ngoài ra khuôn viên luật pháp thì cá-nhân đặng trọn tự-do tư-tưởng của mình.
Lương-tâm là giềng mối để cột chặt tánh đức của người đời qui nhứt, vậy phải lấy Lương-tâm lập thành Đại-Đạo. Thế nên Cao-Đài là ĐẠI-ĐẠO!
Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Pháp-luật Tam-giáo tuy phân-biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một”
Chú-giải: Vì coi như một, nên Thầy mới đến cho nhân-loại lập Tân-Luật thế nào cho phù-hợp với nhơn-trí hợp tánh với nhơn-tâm, chung chịu một Đạo-luật, có phương hành Đạo, chẳng nghịch với Thiên-điều, đặng lập vị mình dễ-dàng mới toàn câu phổ-độ.
Buổi trước thì Thiên-điều buộc nhơn-loại phải nâng cao phẩm-hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng đoạt đức tánh mà lập vị mình, còn nay thì các Đấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn-loại đặng dìu cả chơn-hồn lên tột phẩm-vị thiêng-liêng đến ngang bực cùng Thầy. Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn-trí ngày nay đã qua khỏi nguơn “tấn-hóa” thì đã tăng tiến lên địa-vị tối cao; chủ-nghĩa cựu-luật của các Tôn-giáo không đủ sức kềm chế đức-tin, mà hễ nhơn-loại đã mất đức-tin về đạo-đức rồi, thì cơ tự-diệt vốn còn, mà cơ tự-diệt còn thì nhơn-loại khó tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng. Đời phải tùy Đạo mới còn, mà Đạo cũng phải tùy đời mới vững, biết đâu TÂN-LUẬT ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành, trong thời-gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù-hợp với nhơn-trí Đạo đời tương đắc mà dìu-dắt cả nhơn-sanh đời đời kiếp kiếp.
Thí dụ như có kẻ hỏi “Sao Thầy không dùng Cựu-luật trong Tam-giáo đã có sẵn rồi, lại lập chi Tân-Luật nữa, mà buộc nhơn-sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?"
TA lại đáp: Chính thầy đã giáng cơ nói Ngọc-Hư-Cung bác luật, Lôi-Âm-Tự phá cổ; ấy vậy Cựu-luật thì Ngọc-Hư-Cung đã biếm-bác, còn cổ-pháp thì Lôi-Âm-Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu-luật và Cổ-pháp chẳng còn ý-vị chi hết. Những bực tu-hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu luật hay Cổ-pháp thì trái hẳn với Thiên-điều của ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ thể thiên hành chánh.
Bởi cớ ấy nên Chí-Tôn đã cấm Ngũ-chi phái ngọc dùng Cổ-luật mà mê-hoặc nhơn-sanh nữa.
Hễ tùng Cựu-luật tức phải tùng Thiên-điều, hễ tùng Thiên-điều thì khó mà lập vị cho mình đặng.
Xin xem tiếp đây thì thấy rõ Thầy đã quyết-định điều ấy nên Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Vậy một mà thành ba, mà ba cũng như một”
Ấy vậy, TÂN-LUẬT ĐÃ GỒM TRỌN TAM-GIÁO” tức là một thành ba, mà ba Cựu-luật của Tam-giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là TÂN-LUẬT". (PCT)
Giải-nghĩa: Tân là mới. Luật là cái đồ ngày xưa dùng để thẩm xét thanh-âm, nói rộng ra là những phép khuôn đã đặt định để làm chuẩn, cứ do theo đó mà thực-hiện, không làm sai trái, ví như pháp-luật là những qui-tắc, hành-vi để cho nhơn-sanh tùy theo tập-quán của dân-tộc mà thi hành, mục-đích để giữ vững trật-tự an-ninh cho cuộc sống.
Gọi là TÂN-LUẬT để phân biệt với Cựu luật. Chữ tân là mới, ý-nghĩa ở đây rất linh-động, thể hiện tinh-thần của Tiên-Nho “Nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân” (ngày mới, ngày ngày mới, mỗi ngày mỗi mới). Có như vậy mới phù hợp với trào-lưu tiến-hóa của nhơn-sanh. Có nghĩa là Tân-Luật của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay sẽ được thay đổi theo từng thời-gian cho hợp theo dân-trí chớ không phải cứng ngắt, bất di bất dịch.
Sự thành hình bộ TÂN-LUẬT được dẫn giải qua các giai-đoạn sau đây, diễn tiến theo từng thời-gian mà các Đấng giáng cơ chỉ dẫn buổi đầu, nghĩa là lúc mới khai Đại-Đạo:
- Một là ý-nghĩa Tân-Luật.
- Hai là sự diễn-tiến của việc lập thành Tân-Luật
1- Ý-NGHĨA TÂN-LUẬT
Đã nói rằng Ngọc-Hư-Cung bác luật, Lôi Âm-Tự phá cổ” tức là không tùng Cựu-luật, mà hễ không tùng Cựu-luật tất nhiên phải tùng Tân-Luật.
Buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức Chí-Tôn dùng huyền-diệu Cơ-bút giáng trần dạy Đạo xưng mình là Thầy, kêu chúng-sanh là Môn-đệ, chính mình Thầy đến để độ rỗi con cái của Thầy. Thầy không giao Chánh-giáo cho tay phàm, vì phàm-gian hữu-hình hữu hoại, lần lần canh-cải chánh-giáo ra phàm-giáo.
Giáo-điều của các Tôn-giáo xưa phát-xuất nhằm nguơn hội Nhị-Kỳ Phổ-Độ tuy tương-đối cao siêu đặc-sắc, nhưng cũng phải do ảnh-hưởng dân tâm, dân trí địa-phương khai Đạo, do các Đấng Giáo-chủ cũng phải mang hình-thể con người của địa-phương để dễ bề truyền Đạo.
Nay là buổi Hạ-nguơn, càn-khôn dĩ tận thức, tức nhiên nhân-loại đã thực sự hiểu biết nhau, thông-cảm nhau qua phong-tục, tập-quán, phương-tiện giao-thông, hệ-thống truyền thanh, truyền hình các thứ, xem năm Châu chung chợ, bốn biển chung nhà, ấy là nhân-loại đã hiệp đồng. Do vậy mà Đức Chí-Tôn đến lập Tam-Kỳ Phổ-Độ, không lâm phàm với xác thân hình-hài sắc tộc; mà chính Đại-Từ-Phụ giáng cơ lập nên mối Đạo Đại-đồng, vì vậy luật Đạo cũng lập trên căn bản Đại-đồng, nghĩa là phải do toàn cả chúng-sanh, phát xuất từ các Tôn-giáo cổ-truyền tổng hợp thành TÂN-LUẬT. Chí đến việc thờ-phượng Đức Chí-Tôn phải dùng THIÊN-NHÃN làm tiêu biểu lương-tâm (La conscience) của cả nhơn-loại để tránh nạn hình cốt (Idolâtrie).
Bí-quyết của Đạo Cao-Đài là luôn luôn có quyền Thiên-Thượng và Thiên-hạ (Dieu et Humanité) tức là quyền Chí-linh và Vạn-linh hiệp một. Thánh-ý Đức Chí-Tôn muốn để con cái của Ngài tự lập Luật, tùy theo sức khép mình vào con đường tu-luyện để khỏi than rằng Luật quá mắc mỏ rồi không đoạt thành phẩm-vị sanh ra chán nản, hoặc viện lẽ rằng quá rẻ mà sanh dạ dễ-duôi.
Bởi cớ nên bộ Luật của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ gọi là TÂN-LUẬT do chư Môn-đệ của Thầy hợp nhau lập thành rồi dâng lên cho Đức Lý Giáo-Tông phê-chuẩn.
Tân-Luật sau này có thể tu-chỉnh tùy trình độ tiến-hóa của nhân-sanh từng thế-hệ nhưng dù được sửa đổi hay bổ-túc cũng phải cầu xin phê chuẩn như trước.
Cũng bởi lẽ tùy sự tiến-hóa của loài người, sửa đổi Luật cho phù-hợp trình-độ dân trí nên dù trải bao thế-kỷ hậu lai Luật vẫn mang tính cách mới mãi mãi nên gọi là TÂN LUẬT.
2- SỰ DIỄN-TIẾN của việc LẬP TÂN-LUẬT
TÂN-LUẬT của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ được diễn-tiến qua các giai-đoạn:
* Soạn thảo Tân-Luật.
* Bàn thảo Tân-Luật.
* Dâng Tân-Luật.
* Thành Tân-Luật.
Với thời-gian 3 tháng kể từ ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (19-11-1926) các vị Hoà thượng họp bàn thảo đến ngày 8 tháng 1 năm Đinh-Mão (dl 9-2-1927).
a/- Soạn thảo Tân-Luật:
Việc soạn thảo Tân-Luật Đức Chí-Tôn giao cho Hòa-Thượng Như-Nhãn hội các Hòa-thượng, từ ngày rằm tháng mười năm Bính-Dần, phải nạp bản dự thảo Luật để họp chư Thánh bàn thảo do chứng tích và ý-nghĩa còn ghi trong Đạo-Sử của Bà Hương-Hiếu.
Đức Chí-Tôn dạy:
“Thời-kỳ dấu-diếm Thiên-cơ đã qua rồi, Thầy phong cho con (Hòa-Thượng Như-Nhãn) là Quản-Pháp Thiền-sư Thích-Đạo chuyển Luật-lịnh Diêu-đạo-sĩ, con vừa lòng chăng?
Con đã giúp Thầy gìn-giữ Thích-Đạo nguyên luật từ thử nay mới còn đặng như vậy, không thì đã ra Bàn-môn Tả đạo rồi, con phải biết Thầy ngày nay trông công con mà lập thành Tân-Luật Thích-giáo. Con phải đại tịnh kể từ tháng 9 cho tới rằm tháng 10. Thầy không muốn cho con lo-lắng điều gì khác hơn là xét xem kinh điển lại. Con biết Ngũ-chi: Minh-Đường, Minh-Sư, Minh-Nghĩa, Minh-Lý, Minh-Thiện, cũng đều do nơi Phật-giáo mà ra, duy có giáo-lý của các chi ấy thì có Tiểu-học, Đại-học, Trung-dung và Tứ thư là kinh-điển mà thôi. Còn phái Lão duy có Đạo Đức-Kinh và Huỳnh-Đình-Kinh làm căn-bản, con phải xem-xét hết lại mà lập Tân-Luật.
Thầy nhứt định giao Thánh-Thất này lại cho Thơ lo-lắng thế cho con, song sự thờ-phượng phải có thay đổi chút ít. Sau Thầy sẽ dạy chư Đạo-hữu con định-liệu. Rằm tháng mười này Thầy xin con hội cả chư Hòa-Thượng tại Thánh Thất đây chung lo lập Tân-Luật, ngày ấy Thầy sẽ dạy cho hai vị Hòa-Thượng phò-loan, đặng có điều chi bợ-ngợ thì cầu Thầy mà hỏi.
Thầy phú-thác một trách-nhiệm nặng-nề cho con, nhưng mà con đừng ái-ngại, danh giá con, Thánh-đạo Thầy trong ấy con khá hết lòng, con phải hiểu rằng hội chư Hòa-thượng trong đôi ba tháng thì là hao tổn. Song chẳng hề chi, để Thầy định-liệu.
Tuy vân, Thầy biết sức một mình con cũng đủ lập Tân-Luật, nhưng mà Thầy muốn có Hòa thượng đặng cho khỏi trành-tròn lại còn làm tay chơn Thầy để thâu phục Thích-đạo”.
Đức Chí-Tôn còn dạy thêm rằng:
- “Các con! Thầy đã lập Thánh-Thất, nơi ấy là nhà chung của các con, biết à?
- Thầy lại qui Tam-giáo lập Tân-Luật trong rằm tháng mười, có Đại-hội cả Tam-giáo nơi Thánh-Thất, các con hay à?
- Sự tế lễ sửa theo “Tam-Kỳ Phổ-Độ” cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à?
- Thầy nhập ba chi lại làm một, Thầy là Cha Chưởng-quản, hiểu à?
- Từ đây trong nước Nam duy có một Đạo chơn-thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là “Quốc-Đạo” hiểu à?
- Thầy phải buộc các con hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à!” (TNI/46)
b/- Bàn thảo Tân-Luật:
* 2-11 Bính-Dần Lundi 6 Décembre 1926
(Lẽ ra phải nạp bản Tân-Luật vào ngày 2-11 Bính-Dần. Vì lý-do trễ nãi Ngài Thượng-Đầu-Sư cầu xin dừng lại một tuần và nhân dịp này Đức Chí-Tôn giải-thích thêm). Trung bạch Thầy xin cho đình lại qua ngày thứ bảy tới sẽ nạp luật cho Thầy phê-chuẩn.
Phải ở luôn luôn nơi Thánh-Thất đặng lập Luật sẵn. Nghe Thầy dạy, khởi đầu lập:
- Luật TU gọi là “Tịnh-thất-luật”
- Kế nữa, lập Luật trị gọi là “Đạo-pháp-luật”
- Ba là lập Luật đời gọi là “Thế-luật” các con hiểu à?
Sau khi soạn thảo Tân-Luật xong ngày 14 tháng 11 Bính-Dần (Samedi, 18 Décembre 1926)
Đức Lý Giáo-Tông dạy:
Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu nghe dạy:
Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng “buổi lập Luật phải ngưng sự phổ-độ lại đôi chút” lo cho xong “Tân-Luật” thì mới truyền-bá chơn-đạo rõ lý hơn.
Vậy ngày Đại-lễ Thánh-giáo giáng-sanh phải có mặt tại đây cho đủ và nạp Luật cho kịp ngày ấy. Làm lễ xong qua ngày kế thì chư Thánh mặc Đại-phục vào Điện bái rồi Hiền-hữu biểu sắp ghế vòng theo Đại-điện. Hiền-hữu và Ngọc-Lịch-Nguyệt lên tọa Bửu-vị, rồi theo chức-phận chư “Thánh” ngồi vòng hai bên như lúc Hiền-hữu còn tại “Thượng-Nghị-viện” đặng cải Luật đó vậy.
Hiền-hữu Chưởng-quản làm chủ Hội, mỗi vị “Thánh” đều đặng quyền cải lẽ, nghe à!
Phải giữ phép kẻ trước người sau, tùy phiên nhau cho có lễ: Phái Thái trước, phái Ngọc giữa, phái Thượng chót.
Phải viết thơ cho Tương và Trang nạp Luật cho kịp một lượt với Thơ, nghe à!
* Qua ngày 16-11 Bính-Dần (dl 20-12-1926)
Đức Chí-Tôn giáng dạy:
Chư Môn-đệ nghe!
Thầy đã nói muốn cho hoàn-toàn phải có Luật, mà hễ có Luật thì cần phải do theo đó mà hành Đạo mới khỏi điều sơ thất đặng. Nhiều đứa nhờ công-quả chút ít mà được Thầy trọng-dụng là có ý để cho chúng nó đặng vui lòng mà bước tới, dè đâu chẳng trọng sợ lịnh Thầy, lại lấy ý riêng mà làm cho có lời kích-bác trong Đạo. Nếu Thầy chẳng lấy Đức từ-bi mà dìu-dắt các con thì chư Thần, Thánh đã phạt mấy đứa ấy một cách nặng nề hơn, các con khá liệu mà hành Đạo”.
* Ngày 20-11 Bính-Dần (Vendredi 24-12-1926)
Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy thêm:
Trung, Hiền-hữu nhớ mời hội:
- Từ 6 giờ mơi chí 11 giờ, nghỉ.
- Từ 2 giờ tới 6 giờ, nghỉ.
- Tối từ 8 giờ tới 11 giờ, nghỉ.
Như chưa hoàn-toàn, ngày mai cũng phải vậy. Thầy dặn phải tuân y lời. Luật-lệ truyền lâu dài chư Đạo-hữu phải ráng cẩn-thận, nghe à!
Cũng trong ngày, có Đức Chí-Tôn giáng cơ giải thích:
“Các con ôi!
Nếu nói rằng Thầy đã nhiều cực nhọc từ ngày khai Đạo đến chừ, Đạo đặng phổ-thông mau chóng dường này thì đáng lẽ Thầy mừng cho các con lắm mới phải, sao Thầy lại buồn?
Các con ôi! Các con đã chịu lắm khổ-não nơi biển trần này từ mười ngàn năm rồi, đã ở dưới quyền Tà-quái áp chế, vì vậy mà Thầy phải phế hết Bạch-Ngọc-Kinh, Huỳnh-Kim-Khuyết giáng trần độ-rỗi các con, chớ chi Thầy đến mà làm giảm bớt sự khổ-não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào còn lập Tân-Luật ràng buộc các con thêm nữa, vì cớ mà Thầy buồn!
Thầy tỏ thật, các luật-lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí mà lập thành đây, nó có ảnh hưởng về Thiên-phong Phật-sắc của các con nên Thầy buộc mình cam chịu vậy. Chẳng luật-lệ thì là trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch-Ngọc-Kinh cho đặng.
Vậy các con gắng làm phận-sự cho hoàn toàn rồi có Thái-Bạch giáng cơ sửa Luật.
* Ngày 21-11 Bính-Dần (Samedi, 25-12-1926)
Nay, ngày chính thức bàn thảo Tân-Luật, nhưng buổi hội chư Thánh suốt ngày hôm đó không đem lại kết-quả nên Đức Lý giáng cơ chỉ vẽ dặn-dò:
“Thượng-Trung-Nhựt. Hiền-hữu hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết. Việc tán thành Tân-Luật nếu Chí-Tôn để cho Lão nội trong 2 giờ hoàn thành tất cả, ngặt một điều là nếu Lão lập Luật chẳng một ai trong hàng Đạo-hữu hành Đạo đặng. Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho chư Đạo hữu lập thành là chủ ý để phần nhơn-lực vào đó chút ít, rồi lấy huyền-diệu làm ra Thiên-lực, ấy là một hạnh Công-bình đó.
- Vậy Lão giao ba bộ Luật hiệp một cho Thái-Thơ-Thanh trước, nội trong một tuần-lễ phải hiệp thế nào cho ba bộ ba phái chung vô làm một.
- Qua tuần nữa tới Thượng-Tương-Thanh.
- Kế một tuần nữa tới Ngọc-Trang Thanh.
Nghĩa là trong ba tuần nữa phải lập thế nào cho rồi luật-lệ đem về Thánh-Thất đặng cải lại nữa.
* Ngày 22-11 Bính-Dần (Dimanche 26-12- 1926)
Đức Lý nhắc:
Trung, Hiền-hữu nhớ viết thơ cho chư Thánh, ngày cải Luật phải đủ mặt, bằng ai chẳng tuân mạng Lão trục xuất, nghe à!
* Ngày 12-12 Bính-Dần (Samedi 15-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy:
Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu cũng nên để tịnh tâm đặng lo cải Luật, chẳng nên ham vui quá nghe!
Thầy sẽ ngự trong lúc cải Luật. Lão giáng cơ trước khi mở hội. Vậy khi chư Thánh đủ mặt phải cầu cho Lão dạy việc, chừng Lão ngự Đại Điện thì tức cấp khai hội liền.
Hết thảy đều mặc đại-phục trong khi cải Luật chẳng nên thay Tiểu phục, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ngự xem, coi ra khiếm lễ vậy… nghe à! Tuân!
Ngày nay chẳng dạy văn. Lão để cho chư Đạo-hữu tịnh trí.
Tái cầu: Đức Chí-Tôn nhắc-nhở:
“Trước mắt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật phải cải Luật cho nghiêm-chỉnh, Thầy khuyên Thái-Bạch cho kẻ hầu săn-sóc các con”… đến đây là ngày cuối cùng về việc cải Luật (bàn thảo đã xong)
c/- Dâng Tân-Luật
* Ngày hôm sau 13-12 Bính-Dần (16-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông dạy cách dâng Tân-Luật như sau:
Lão khen chư Hiền-hữu. Đại hỉ! Đại hỉ!
Thượng-Tương-thanh! Coi Lão hành-sự mà bắt chước.
Mời Chưởng-Pháp phái Nho, chư Hiền hữu bình thân.
Đứng bài ban. Chưởng-Pháp, Đầu-Sư toạ vị Phối-Sư Tam-giáo tới trước.
Thái-Thơ-Thanh phải ôm bộ chú giải các Luật: Tân-Luật của chư Hiền-hữu cải đó nữa.
Thơ-Thanh ôm chí mày dâng cho Tương Thanh, rồi Tương-Thanh cũng phải làm như vậy mà trao cho Trang-Thanh phò.
Bái nhau.
Trang Thanh ôm Luật hiệp với nhị vị Hiền hữu đến dâng cho ba vị Đầu-Sư đồng đứng dậy bái nhau mà tiếp Luật một lượt, thế nào sáu bàn tay đều có trong mấy bộ Luật
Ngay giữa.
Cả ba tiếp dâng lên Chưởng-Pháp.
Hai vị Chưởng-Pháp cũng phải bái mà tiếp một lượt, đội dâng lên Đại-điện
Day vô.
Đưa lên chí trán nghe dạy:
Lão giao Luật này cho nhị vị Chưởng-Pháp xem-xét lại nữa trong một tháng phải rồi, mà giao lại cho Hộ-Pháp cầu Lão sửa Luật, phải làm một phòng thanh-tịnh mà giả Hiệp-Thiên-Đài, Thập-Nhị Thời-Quân phải có mặt; Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm phải có mặt khi cầu Lão.
Phải tái cầu nghe dạy:
Nhị vị Chưởng-Pháp đem Luật để ngay tượng Lão một đêm nay. Dương! Phải đội Hiệp Chưởng như Luật và đắp khậu như Luật (Yết-Ma)
Nương! Phải sắm Thiên-phục như Thơ Thanh vậy nghe!
Đem Luật để lên rồi xuống tọa vị.
Lên đầu…để xuống.
Chư Thiên-phong đồng lạy Thầy”.
Về điểm này sau Đức Hộ-Pháp có giải thích:
“Buổi ba vị Chánh-Phối-Sư dâng Luật, Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm phò-loan cho Đức Giáo-Tông sửa (13 tháng chạp năm Bính-Dần). Ngài có truyền dạy ba vị Đầu-Sư và Chưởng-Pháp phải ngự trên ngai; đoạn đòi ba vị Chánh-Phối-Sư vào hành lễ, rồi kêu Chánh-Phối-Sư Thượng Tương-Thanh mà dạy rằng “Hiền-Hữu coi Lão hành-sự đây mà bắt chước”.
- Ngài lại dạy ba vị Chánh-Phối-Sư mỗi người phải dâng Luật thế nào cho đủ sáu bàn tay dâng Luật ấy, chẳng nên cho hở, đặng dâng lại cho Đầu-Sư.
- Đầu-Sư cũng phải cho đủ sáu bàn tay mà dâng lên cho Chưởng-Pháp;
- Rồi Chưởng-Pháp cũng đủ sáu bàn tay mà dâng lên cho Ngài.
Khi ấy Ngài dạy phải đi ngay lên Đại-điện đưa qua khỏi đầu Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm. Ngài hạ Ngọc-Cơ xuống dưới, đặng đi ngang qua cho khỏi Ngài nữa (1) (Hay!) Chưởng-Pháp tiếp Luật rồi, lại đưa ngay qua khỏi đầu Khương-Thái-Công và Thánh Chúa Jésus nữa. Sau Hộ-Pháp có để lời than cùng Thầy về điều ấy, thì Thầy cười mà phán dạy rằng “Mắc Tiên-vị của Thái-Bạch còn ở dưới Thích-Ca, Khổng-Tử và Lão-Tử, bằng chẳng vậy thì bộ Luật cũng đi ngang qua đầu các Đấng ấy nữa, vì nó là Thiên-luật đó con! (2)
Bộ Tân-Luật để trước Tiên-vị của Đức Giáo-Tông một ngày một đêm cho Ngài xét đoán; bữa sau Ngài giáng cơ than rằng: “Thiên-điều mầu-nhiệm của Đạo còn thiếu sót lắm” Ngài cười rồi nói tiếp “những điều ấy chư Hiền-hữu biết đâu mà lập cho đặng”.
Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu-nhiệm bí mật ấy, thì chẳng thành Luật; nếu chẳng thành Luật, thế nào thành Đạo. Ngài cười rồi tiếp “Lão tâu cùng Đại-Từ-Phụ xin thêm vào Luật những điều bí-mật yếu-trọng.
Chú thích:
(1) Hay! ấy là lời khen của Đức Lý.
(2) cái giá-trị của Tân-Luật dường đó, mà cả Hội-Thánh coi rẻ-rúng chẳng kể, làm cho Lão phải từ ngôi Giáo-Tông, đặng lấy Thiên-điều khảo tội. Ôi thôi! Biết bao kẻ đoạ lạc Phong-đô, vì đó.
Ấy vậy chư Hiền-hữu cũng phải cầu-khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng này thì khởi nguyện, dặn các Thánh-Thất, các Đạo-hữu phải để lòng thành-khẩn; hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh-Luật, nghe à! (Cười!).
Hễ Đạo trọng thì tức nhiên chư Hiền-hữu trọng, vậy thì chư Hiền-hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời … Từ đây Lão hằng gìn-giữ cho chư Hiền-hữu hơn nữa, nếu thảng Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân-minh, là cố ý muốn giá-trị chư Hiền-hữu thêm cao trọng nữa.
Vậy Lão xin đừng để dạ phiền-hà nghe!
Ngài liền kêu hai vị Chưởng-Pháp lên lấy bộ Luật xuống đặng dâng qua cho Hiệp-Thiên Đài, lại dạy Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm xuống Cửu-Trùng-Đài đứng nơi vị mình. Hộ-Pháp thì bắt ấn Hộ-Pháp trấn trên bộ Luật, còn Thượng-Phẩm thì cầm Long-Tu-phiến che trên ấn ấy, rồi dạy hai vị Chưởng-Pháp như vầy “Ta kỳ cho một tháng phải nạp Luật”.
Hai vị Chưởng-Pháp lãnh kiểm-duợt Luật trong một tháng đem nạp hồi cho Lý Giáo-Tông; rồi Ngài mới cậy hai vị Đầu-Sư thay mặt cho Ngài, đệ lên Hiệp-Thiên-Đài dâng cho Hộ-Pháp cầu Thầy giáng xuống sửa lại. Nhờ Ngài và Hội-Thánh cầu-khẩn, Thầy đã giáng bút truyền các bí-pháp ấy cho Hộ-Pháp. (3)
Coi theo đây thì thấy rõ: Đức Giáo-Tông kêu Chánh-Phối-Sư Thượng-Tương-Thanh xem người hành-sự đây mà bắt chước, thì đủ chỉ rõ rằng: Ngài ban quyền-hành-sự trọn vẹn cho Chánh-Phối-Sư lại buộc cả ba đều để sáu bàn tay vào cho đủ, tức là buộc cả ba hiệp một mới đặng.
Đầu-Sư cũng vậy, mà Chưởng-Pháp cũng vậy, phải hiệp một mới phù-hạp câu Thánh-ngôn “Một thành ba mà ba cũng như một”.
Chú-thích:
(3) Mừng thay cho nhân-loại chút ít rồi. Hội-Thánh chơn truyền Tân-Pháp đã đạt đặng như phép “Giải-Oan”, phép “Khai Sanh-Môn, Ban Kim-Quan”…lại còn nhiều bí-pháp nữa mà Hộ-Pháp chưa có lịnh truyền và lại bị chúng-sanh và Hội-Thánh còn mờ-hồ không nạp dụng. Ngày nay chẳng biết các Đấng Thiêng-Liêng là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Bát-Quái-Đài đã thọ lịnh của Thầy mà hành-pháp vì thuộc về quyền-hành của các Đấng ấy, ngày nay mới tính sao? Trong các bí-pháp có cơ mầu-nhiệm đắc Đạo, bây giờ các Đấng ấy có cho hay là không? Thảm! (cười!) nếu Lão có phương chỉnh-đốn nền Đạo lại thì đặng, bằng chẳng vậy, thì không có một người đắc Pháp, Cửu-Trùng-Đài cũng đã yểm quyền Bát-Quái-Đài mà chớ!. Thật vậy đó chút” Ấy là cơ vô-vi: TINH KHÍ THẦN hiệp nhứt, chư Hiền-hữu có biết à! Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Thái là Thần, nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ
Sao lại giao cho Chánh-Phối-Sư chỉnh-đốn Tân-Luật, ngày sau có phải giao cho Chánh-Phối-Sư như vậy nữa chăng?
Trên kia đã nói: Chánh-Phối-Sư là người thay mặt cho cả nhơn-sanh giữa Hội-Thánh, ấy là người làm chủ nhơn-sanh trong nền Đạo (4), hễ gọi là chủ nhơn-sanh ấy là nhơn-sanh vậy.
Đức Lý dạy tiếp “Đạo đã thành, Đạo đã mạnh, cho đến đỗi trái càn-khôn này dở hổng lên khỏi ngất mấy từng, làm cho các Tôn-giáo đã lập thành trên mặt địa-cầu này phải kinh-khủng, sợ sệt. Cười!
Chư Hiền-hữu cầm trọn nhơn-loại vào tay, Lão hỏi có chi quí trọng mạnh-mẽ bằng chăng?
Chú thích:
(4) Đây cũng nên giải vì cớ nào kể từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở xuống thuộc về Thế, nghĩa là Đời và từ phẩm Đầu-Sư đổ lên thuộc về Thánh, nghĩa là Đạo, bên Hiệp-Thiên-Đài cũng có Đời và Đạo, mà Bát-Quái-Đài cũng phải có vậy, mới nhằm cơ hiệp một Đời cùng Đạo. Tức là trong Đạo có Đời, mà trong Đời cũng có Đạo.
* Ngày 14-12 Bính-Dần (17-1-1927)
Đức Lý Giáo-Tông giáng cơ dạy tiếp:
“Lão đương quyền là Giáo-Tông, ngặt nỗi lễ-chức chưa có đặng giao Luật lại. Vậy Lão cậy Nhị vị Hiền-hữu: Thượng-Trung-Nhựt và Ngọc Lịch-Nguyệt thế giùm chức ấy lên Đại-điện phò Luật đặng giao Hiệp-Thiên-Đài cho Hộ-Pháp (Thượng-Sanh vắng mặt) một ngày bỏ làm việc chẳng đặng sao há!”
Trong khi Đức Lý Giáo-Tông giao cho hai vị Chưởng-Pháp kiểm-duợt thì Bạch-Ngọc-Kinh cũng họp Đại-hội để cải Luật Tam-Kỳ Phổ-Độ mà Đức Lý Giáo-Tông có trách-nhiệm vấn đáp với các Đấng Thiêng-Liêng. Được biết sự mầu-nhiệm đó nhờ đàn cơ của Đức Quan-Âm như sau:
“Hà sự cầu cơ? (5) Bạch-Ngọc-Kinh đại-hội cải Luật Tam-Kỳ Phổ-Độ. Lý Đại-Tiên hữu trọng trách, trọng nhậm, vấn đáp chơn-lý Tam-kỳ cứu tận chúng-sanh, nhựt nhựt thường tại bất đắc hạ trần giáng cơ chỉ giáo. Chư Đạo-hữu vật khi mạng-lịnh chí tự nhựt tân niên Đại-Tiên tái hiệp. Kính lễ.
Giải thích:
(5) Có việc chi phải cầu cơ? Bạch-Ngọc-Kinh có Đại-hội cải Luật cho buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ. Đức Lý Đại-Tiên có trọng-trách lớn, nhiệm-vụ lớn, bận vấn đáp chơn-lý Tam-Kỳ lo cứu độ chúng-sanh, ngày ngày phải có mặt nên không thể giáng cơ để tiếp xúc với trần thế mà chỉ dạy được. Chư Đạo-hữu chớ khá khi lịnh mà xem thường. Đợi đến ngày đầu năm mới sẽ gặp lại.
d/- Thành Tân-Luật:
* Ngày 8-1 Tân-Mão Đức Lý giáng cơ cho biết:
Đại hỉ! Đại hỉ!
Lão đã nói Đạo đã lập thành, vậy cây cờ chơn-chánh đã vững gốc đặng làm biểu-hiệu cho cả chúng-sanh dòm lấy đó mà đến nơi Bạch-Ngọc-Kinh, nghĩ mà mừng, mà hễ mừng thì lại càng thêm giận lẫn vào trong.
Thượng-Trung-Nhựt! Lão đã nói, mà Thầy cũng đã nói trước rằng: Khi thành Đạo, nghĩa là khi “Tân-Luật” phát hành thì trong hàng Môn-đệ may lắm còn lại nửa phần, trong đám Thiên-phong nhiều kẻ e còn bị trục-xuất thay! Thầy vì lòng Từ-bi can-gián Lão, bằng chẳng Lão đã dụng hình-phạt mà răn những kẻ giả dối ấy và nay là ngày Vía của Chí-Tôn, nhiều kẻ cầu Đạo không đáng dung-nạp, nhưng mà Từ-Bi biểu Lão ân-xá, nên toàn thâu không đuổi ai hết.
Ban phước cho cả chư Đạo-hữu, chư Đạo muội.
Chư Đạo-muội khá hội đủ mặt ngày nạp Luật đặng Lão ban “Thiên-phục”
1- Đạo quí ở chữ “Hòa” tức là Âm Dương
Hòa-hợp:
Thể-pháp của Đại-Đạo đâu đâu cũng thấy sự hoà-hiệp một cách khít-khao, do vậy mà thể-pháp đã hiện hình bí-pháp làm chơn-truyền để phổ-thông nền chơn-đạo của Chí-Tôn trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ. Hòa là sự hỗn-hợp của âm dương, đến mức độ quân-bình nhau, gọi là âm dương tương-hiệp.
“Theo bí-pháp chơn-truyền của cơ sanh hoá phải có đủ âm-dương. Trong sanh-quang chúng ta có điện-quang (Positif và Négatif) cũng như vạn-vật có trống mái. Nền Tôn-giáo nào có đủ âm-dương thì mới vĩnh-cữu”.
Riêng về Pháp-Luật Đại-Đạo thì có:
* Tân-Luật thì do Đức Chí-Tôn dạy nhóm Hội-Thánh lập Luật. Tân-Luật được thành hình, tuy nhiên theo thời-gian cũng phải thay đổi cho phù-hạp với trình-độ tiến-hóa của nhơn-sanh, nên đó là cơ âm.
* Pháp-Chánh-Truyền thì do chính Đức Chí-Tôn truyền Chánh-pháp đời đời không thay đổi, nó sẽ bất di bất dịch với thời-gian, đó là cơ dương.
Âm dương đã hòa-hiệp để được lưu-truyền đến thất ức niên như Thầy đã dạy:
2- Tân-Luật đã gồm trọn Tam-giáo Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt
Người tu theo Đạo Cao-Đài nếu tùng theo Cựu-luật thì trái hẳn với Thiên-điều của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Vì tùng Cựu-luật tức tùng Thiên điều, hễ tùng Thiên-điều thì khó mà lập-vị cho mình đặng.
Nay thầy đã quyết-định điều ấy nên Pháp-Chánh-Truyền dạy “Tân-Luật đã gồm trọn Tam-giáo mà ba Cựu-luật của Tam-giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là Tân-Luật”. Vậy một mà thành ba, mà ba cũng như một. Chẳng luật-lệ thì là trái phép, mà trái phép thì thế nào vào Bạch-Ngọc-Kinh cho đặng.
Tân-Luật có ảnh-hưởng đến Tiên phong Phật-sắc của người tu.
Bởi Tân-Luật đã thể hiện được Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt:
Cửu-Trùng-Đài thể hiện cơ vô-vi Tinh, Khí, Thần ấy. Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Thái là Thần. Nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ.
Từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở xuống thuộc về Thế là Đời, từ Đầu-Sư trở lên thuộc về Thánh nghĩa là Đạo.
Bên Hiệp-Thiên-Đài cũng có Đời và Đạo.
Mà Bát-Quái-Đài cũng phải vậy, tức là trong Đạo có Đời mà trong Đời cũng có Đạo. Nghĩa là trong âm có dương, trong dương có âm.
Con số 3 đã đứng vào vị-thế tối ư quan trọng trong Tân-Luật này.
3- Các con số của Bát-quái
Trong “cái tinh-túy của Tân-Luật là Chí-Tôn định cho Ngũ-Giới-Cấm, Tứ-Đại Điều-Qui và trong ấy cốt-yếu bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của toàn thể con cái của Ngài. Đó là Thiên-luật của Đại-Đạo”. Như vậy đã gồm đủ các con số Tam (tam âm tam dương), con số tứ (tứ âm tứ dương), số ngũ, là ngũ trung để hoàn thành Bát-quái Cao-Đài, tức là Bát-quái Đồ-thiên đó vậy.
4- Luật phản-phục
Khi lập Luật, Thầy dạy khởi đầu:
- Lập tu gọi là “Tịnh-thất-luật”.
- Kế nữa lập luật trị gọi là “Đạo-pháp-luật”.
- Ba là lập luật đời gọi là “Thế-luật”. Các con hiểu à? (18-12-1926)
Nhưng thực tế khi thành Luật:
* Thì “Đạo-pháp-luật” được lập trước, cả thảy có 8 chương, tổng cộng 32 điều.
* Kế đến là “Thế-luật” 24 điều.
* Sau cùng là “Tịnh-thất-luật” 8 điều. Cọng chung là 64 điều ứng với 64 quẻ Bát-quái biến-hóa (8x8=64).
Đó là Tân-Luật đã thể hiện theo hai chiều của chữ “vạn” tức là theo “cơ tấn-hóa” trước, để rồi trở về theo “cơ phục-nguyên” đều theo chu-kỳ của Bát-quái biến-hóa, mà Đức Chí-Tôn gọi là “phản tiền vi hậu”.
5- Dâng Tân-Luật là “cơ định-vị” tức là con đường trở về với Đại-ngã
- 3 vị Chánh-Phối-Sư dâng luật thế nào cho đủ 6 bàn tay trên bộ luật ấy chẳng cho hở đặng dâng lại cho Đầu-Sư (số 6)
- 3 vị Đầu-Sư phải đủ 6 bàn tay trên bộ luật đặng dâng lại cho Chưởng-Pháp (số 6)
- 3 vị Chưởng-Pháp phải đủ 6 bàn tay trên bộ luật đặng dâng lên cho Đức Lý Giáo-Tông (số 6)
Xem thế thì mỗi phẩm cấp có 3 vị, mà 3 phẩm-cấp là 3x3=9 vị (con số 9)
Kế đến mỗi phẩm phải đủ 6 bàn tay, mà mỗi phẩm-cấp thì 3 vị cho nên bằng (6x3=18). Nếu lấy 1+8=9 ta sẽ có đến 3 con số 9 nữa, cọng chung là 4 con số 9.
4 lần 9 tức là 36 (4x9=36) ấy là thành số của Bát-quái Hư-vô, ứng hiệp với câu:
“Ba mươi sáu cõi Thiên-tào,
“Nhập trong Bát-quái mới vào Ngọc-Hư”
“Quê xưa trở, cõi đọa từ,
“Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.”
Tức là sau khi đã đến con số 9, là con số huyền-diệu nhiệm-mầu, chuyển biến đến mức độ tận thiện, tận mỹ, toàn tri, toàn năng ở trạng-thái tĩnh vận-hành suốt thông trời đất, rồi từ đó mới biến-hóa ở chu-kỳ kế tiếp.
“Bộ luật được đặt tại “nơi Tiên-vị của Đức Lý Giáo-Tông một ngày một đêm”. Số 1 mở ra cho chu-kỳ mới, cho nên sau cùng thì hai vị Chưởng-Pháp lên lấy bộ Luật xuống giao cho Hiệp-Thiên-Đài, có nghĩa là cái sự vận-hành không bao giờ ngừng dứt.
Tóm lại Tân-Luật đã thể hiện rõ nét của hai Bát-quái:
* Bát-quái Đồ-thiên.
* Bát-quái Hư-vô.
6- Nội-dung bộ Tân-Luật
Toàn bộ Tân-Luật chỉ có ba vấn-đề:
- Đạo-pháp có 8 chương:
Chương I: Chức-sắc cai-trị trong Đạo có 8 điều.
Chương II: Về người giữ Đạo có 7 điều.
Chương III: Về việc lập họ có 5 điều.
Chương IV: Về Ngũ-giới-cấm có 1 điều.
Chương V: Về Tứ-đại-điều-qui có 1điều.
Chương VI ; Về giáo-huấn có 3 điều.
Chương VII: Về hình-phạt có 6 điều.
Chương VIII: Việc ban hành luật-pháp có 1 điều.
Tổng-cộng 32 điều.
- Thế-luật có 24 điều .
- Tịnh thất có 8 điều.
Như thế toàn bộ Tân-Luật có cả thảy 64 điều.
Việc này cho ta một kết-luận về con số Bát-quái đã thành hình:
* 3 vấn-đề lớn tượng-trưng lý tam-tài thật rõ nét.
* Về Đạo-pháp có 8 chương, đó là con số chỉ Bát-quái quẻ đơn. Nhưng khi biến thành quẻ kép thì bằng (8x8=64 quẻ kép); thế nên tổng cộng có 64 đề mục.
Đây là sự biến-hóa của Bát-quái đó vậy.(Xem chương VIII)
Trọng-yếu của Tân-Luật là người giữ Đạo phải biết “giữ Ngũ-Giới-Cấm và Tứ-Đại Điều-Qui”.
Nhất là về Thế-luật ở điều thứ ba là:
“Phải giữ Tam-cang Ngũ-thường là nguồn cội của Nhơn-đạo: Nam thì hiếu-đễ, trung-tín, lễ-nghĩa, liêm-sĩ. Nữ thì tùng phu, tùng phụ, tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh”.
“Trong Tân-Luật ấy Chí-Tôn định cho Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại điều-qui và trong ấy cốt yếu bảo-vệ Tam-cang Ngũ-thường của toàn thể con cái của Ngài. Thật ra cái Thiên-luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm-não con cái của Ngài:
Đây là vấn-đề căn-bản của Nhơn-đạo nên trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển: Thầy dạy Nữ-phái biết trọng Tam-tùng Tứ-đức, Nam-phái Tam-cang Ngũ-thường. Hễ Nhơn-đạo thành thì là phù-hạp Thiên-đạo, nghe à! (TNI/ 101)

►Xem tiếp CHƯƠNG VII / ... Pháp-Chánh-Truyền