DỊCH LÝ CAO ĐÀI

Chương VII:

TÂN PHÁP CAO-ĐÀI

I.

Ý-niệm khái quát

  1. Giá trị của Tân-pháp Cao-Đài
  2. Pháp-điều Tam-Kỳ Phổ-Độ là gì?
  3. Trọng-tâm là luật Thương-yêu và Công-chánh

II.

Tân-Luật

  1. Tại sao Đạo Cao-Đài để quyền Vạn-linh lập Luật?
  2. Tân-Luật đã gồm trọn Tam-giáo
  3. Tân-Luật là gì?
    1. Ý-nghĩa Tân-Luật
    2. Sự diễn biến của việc thành lập Tân-Luật
      1. Sọan thảo Tân-Luật
      2. Bàn thảo Tân-Luật
      3. Dâng Tân-Luật
      4. Thành Tân-Luật
  4. Luận Đạo: Luận về Tân-Luật
    1. Đạo quí tại HÒA: Âm dương hoà-hiệp
    2. Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt
    3. Các con số Bát-quái
    4. Luật phản phục
    5. Dâng Tân-Luật là phương định vị là con đường về
    6. Nội-dung bộ Tân-Luật

III.

Pháp-Chánh-Truyền

  1. Giai-đoạn thành hình Pháp-Chánh-Truyền
  2. Pháp-Chánh-Truyền chú giải
  3. Về quyền-hành của ba Đài
  4. Trước tiên gọi Toà-Đạo là Hiệp-Thiên-Đài
  5. Danh-từ Bộ Pháp-Chánh ra đời
  6. Lý do phải lập Đạo
  7. Phương-diện thực-hành.
  8. Tại sao phải lập Pháp-Chánh?
  9. Lòng Từ-bi của Thầy
  10. Pháp-quyền tự trị
  1. Lập Pháp-Chánh-Truyền Cửu-Trùng-Đài
  2. Lập Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên-Đài
  3. Lập Pháp-Chánh-Truyền Nữ-phái
  4. Luận Đạo
    1. Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan quản-trị càn-khôn
    2. Hiệp-Thiên-Đài là cơ sanh biến vạn-linh
    3. Sự bình quyền bình đẳng trong nền Đại-Đạo

A- LẬP PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN
CHO CỬU-TRÙNG-ĐÀI

Trước khi lập Pháp-Chánh-Truyền Thầy có dạy “Đêm nay các con phải thành tâm cầu-nguyện đặng ngày mai Thầy lập Pháp-Chánh-Truyền, nghe à!”

Ngày 16-10 Bính-Dần, tại Từ-Lâm-tự

Samedi 20 Novembre 1926

NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ viết
CAO-ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM-PHƯƠNG

Giáo-Tông nghĩa là Anh Cả các con, có quyền thay mặt Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chứ không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông-công cùng Tam-Thập-Lục-Thiên và Thất-Thập-Nhị-Địa đặng cầu-rỗi cho các con, nghe à! Môn-đệ tuân mạng!

Chưởng-Pháp của ba phái là Đạo, Nho, Thích. Pháp-luật Tam-giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vốn coi như một. Chúng nó có quyền xem-xét luật-lệ trước buổi thi-hành, hoặc là nơi Giáo-Tông truyền xuống, hoặc là nơi Đầu-Sư dâng lên. Như hai đàng chẳng thuận thì chúng nó phải dâng lên cho Hộ-Pháp đến “Hiệp-Thiên-Đài” cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại, hay là tùy ý mà lập luật lại. Vậy chúng nó có quyền xem-xét kinh-điển trước khi phổ-thông. Như thảng có “kinh-luật” chi làm hại phong-hóa, thì chúng nó phải trừ bỏ chẳng cho xuất bản. Buộc cả Tín-đồ phải vùa sức mà hành-sự trước mặt luật đời. Thầy khuyên các con ráng xúm nhau vùa giúp chúng nó. Mỗi Chưởng-Pháp có ấn riêng. Ba ấn phải có đủ trên mỗi luật, mới đặng thi-hành. Chư Môn-đệ tuân mạng!

Đầu-Sư có quyền cai-trị phần Đạo và phần Đời của chư Môn-đệ. Nó đặng quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo-Tông phê-chuẩn. Luật-lệ ấy phải xem-xét một cách nghiêm-nhặc, coi phải có ích chi cho nhơn-sanh chăng? Giáo-Tông buộc phải giao cho Chưởng-Pháp xét-nét trước khi phê-chuẩn.

Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo-Tông, làm y như luật-lệ Giáo-Tông truyền dạy. Như thảng luật-lệ nào nghịch với sự sanh-hoạt của nhơn-sanh thì chúng nó đặng phép nài xin hủy bỏ.

Thầy khuyên các con phải thương-yêu và giúp đỡ lấy nó. Thầy lại dặn các con; như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó.

Ba chi tuy khác, chớ quyền-luật như nhau. Như luật-lệ nào Giáo-Tông đã truyền dạy, mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật-lệ ấy phải trả lại cho Giáo-Tông. Giáo-Tông truyền lịnh cho Chưởng-Pháp xét-nét lại. Chúng nó có ba cái Ấn riêng nhau, mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành, nghe à! Chư Môn-đệ tuân mạng!

Phối-Sư mỗi phái là 12 người, cọng là 36 người; trong 36 vị ấy có ba vị Chánh-Phối-Sư. Ba vị ấy đặng thế quyền cho Đầu-Sư mà hành-sự; song chẳng quyền cầu phá luật-lệ, nghe à! Chư Môn-đệ tuân mạng!

Phối-Sư mỗi phái là 12 người, cọng là 36 người; trong 36 vị ấy có ba vị Chánh-Phối-Sư. Ba vị ấy đặng thế quyền cho Đầu-Sư mà hành-sự; song chẳng quyền cầu phá luật-lệ,

Giáo-Sư có 72 người, trong mỗi phái là 24 người. Giáo-Sư là người để dạy-dỗ chư Môn-đệ trong đường Đạo với đường đời. Buộc chúng nó lo-lắng cho các con như anh ruột lo cho em. Chúng nó cầm sổ bộ của cả tín-đồ. Chúng nó phải chăm-nom về sự tang, hôn của mỗi đứa.

Như tại Châu-thành lớn, thì mỗi đứa đặng quyền cai-quản cúng tế Thầy như thể Đầu-Sư và Phối-Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về luật-lệ làm hại nhơn-sanh, hay là cầu xin chế giảm luật-lệ ấy. Chúng nó phải thân-cận với mỗi Môn-đệ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ, nghe à! Chư Môn-đệ tuân mạng!

Giáo-Hữu là người để phổ-thông nền chơn-đạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật-lệ Đạo. Ba ngàn Giáo-Hữu chia ra đều, mỗi phái là một ngàn, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng phép hành lễ khi làm chủ các chùa trong mấy tỉnh nhỏ.

Lễ-Sanh là người có hạnh, lựa chọn trong chư Môn-đệ mà hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi khai đàn cho mỗi tín-đồ. Thầy dặn các con hiểu rõ rằng Lễ-Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. Như vào đặng hàng Lễ-Sanh mới mong bước qua hàng Chức-sắc. Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới đi khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à! Chư Môn-đệ tuân mạng!

Đầu-Sư muốn lên Chưởng-Pháp thì nhờ ba vị công-cử nhau.

Phối-Sư muốn lên Đầu-Sư thì nhờ 36 vị kia công-cử

Giáo-Sư muốn lên Phối-Sư thì nhờ 72 vị kia xúm nhau công-cử.

Giáo-Hữu muốn lên Giáo-Sư, thì nhờ 3.000 vị kia xúm nhau công-cử.

Lễ-Sanh muốn lên Giáo-Hữu, thì nhờ cả Lễ-Sanh xúm nhau công-cử.

Môn-đệ muốn lên Lễ-Sanh thì nhờ cả Môn-đệ xúm nhau công-cử.

Kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào thì mới ra khỏi luật-lệ ấy mà thôi.

Còn Giáo-Tông thì hai phẩm Chưởng-Pháp và Đầu-Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn Môn-đệ công-cử mới đặng, kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật-lệ ấy mà thôi! Chư Môn-đệ tuân mạng!

Thầy ban ơn cho các con. (TNI /62-65)

 

B- LẬP PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN
CHO HIỆP-THIÊN-ĐÀI

Như trên đã thấy Đức Chí-Tôn lập Pháp-chánh Cửu-Trùng-Đài ngày 16-10 Bính-Dần, nhưng đến hôm nay ngày 12-1 Đinh-Mão mới lập Pháp-Chánh Hiệp-Thiên-Đài. Một lần nữa xin nhắc lý-do, bởi:

Tân-Luật ngày nay khi đã dâng lên cho Thầy thì nó đã thành Thiên-Luật.

“Thiên-luật thì phải vô-tư, tỷ như Thiên điều, dầu cho chính mình Thầy là Chí-Tôn cũng chẳng vị tình. Bởi cớ ấy mà khi lập Pháp-Chánh-Truyền Thầy không lập Hiệp-Thiên-Đài một lượt với Cửu-Trùng-Đài, e cho cả Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài ra ngoại Luật. Thầy lại để cho Chức-sắc ấy dự hội lập Luật cùng chư Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài thì phàm thân họ cũng dưới quyền luật lệ như mọi người vậy”.

Ngày 12-1 Đinh-Mão (13 Février 1927)

NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ viết
CAO-ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM-PHƯƠNG

Các con, cả chư Môn-đệ khá tuân mạng!

HIỆP-THIÊN-ĐÀI là nơi Thầy ngự cầm quyền thiêng-liêng mối Đạo. Hễ Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài vẫn còn.

Thầy đã nói Ngũ-chi Đại-Đạo bị qui phàm là vì khi trước Thầy giao Chánh-giao cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh-giáo mà lập ra phàm-giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy-dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh-giáo cho tay phàm nữa.

Lại nữa HIỆP-THIÊN-ĐÀI là nơi của Giáo-Tông đến thông-công cùng Tam-Thập-Lục-Thiên, Tam-Thiên-Thế-Giới; Lục-Thập-Thất-Địa-Cầu, Thập-Điện-Diêm-Cung mà cầu-siêu cho cả nhân-loại. Thầy đã nói sở dụng thiêng-liêng; Thầy cũng nên nói sở dụng phàm-trần của nó nữa.

Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền HỘ-PHÁP Chưởng-quản, tả có THƯỢNG-SANH, hữu có THƯỢNG-PHẨM. Thầy lại chọn THẬP NHỊ THỜI-QUÂN chia ra làm ba:

1- Phần của Hộ-Pháp chưởng-quyền về PHÁP thì:

- HẬU là BẢO-PHÁP (1)

- ĐỨC là HIẾN-PHÁP.

- NGHĨA là KHAI-PHÁP

- TRÀNG là TIẾP-PHÁP.

Lo bảo-hộ luật đời và luật Đạo; chẳng ai qua Luật mà Hiệp-Thiên-Đài chẳng biết.

2- Thượng-Phẩm thì quyền về phần ĐẠO, dưới quyền:

- CHƯƠNG là BẢO-ĐẠO

- TƯƠI là HIẾN-ĐẠO.

- ĐÃI là KHAI-ĐẠO

- TRỌNG là TIẾP-ĐẠO (2)

Lo về phần ĐẠO nơi Tịnh-Thất, mấy Thánh-Thất, đều xem-sóc chư Môn-đệ Thầy, binh-vực chẳng cho ai phạm Luật đến đỗi khổ-khắc cho đặng.

3- Thượng-Sanh thì lo về phần đời:

- BẢO-THẾ thì PHƯỚC.

- HIẾN-THẾ: MẠNH.

- KHAI-THẾ: THÂU.

- TIÊP-THẾ: VĨNH.

Thầy khuyên các con lấy tánh đức vô-tư mà hành đạo.

Thầy cho các con biết trước rằng: hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt.

Thầy ban ơn cho các con” (TNI/101)

(1) Bảo là giữ-gìn. Hiến là dâng. Khai là mở (bày ra). Tiếp là rước.
(2) Ông Cao-Đức-Trọng đắc phong Tiếp-Đạo sau hết.

 

C- LẬP PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN
CHO NỮ-PHÁI

Trước khi bàn đến việc lập Pháp-Chánh-Truyền Nữ-phái, nên nói qua lý-do vì sao Đức Chí-Tôn không lập mà để cho Đức Lý đứng ra lập?

(Trích y Thánh-ngôn của Giáo-Tông Lý Thái-Bạch)

Nữ-phái vốn của Lý Giáo-Tông lập thành.

Hộ-Pháp nhắc lại lời Thầy nói cùng Chánh-Phối-Sư Hương-Thanh rằng: Muốn phế Nữ-phái, song con cũng đồng con, hễ bao nhiêu Nam tức cũng bao nhiêu Nữ; Nam Nữ vốn như nhau, nên Thầy đến phong cho Nữ-phái buổi lập Pháp-Chánh-Truyền, chẳng hiểu có điều chi huyền-bí với Thầy cùng Ngọc-Hư-Cung nên Thầy mới đành lòng nói ra lời ấy, rồi lại cam lòng để cho Đức Giáo-Tông đứng lập đặng tránh cho khỏi luật-lệ Thiên-điều hay chăng? Hễ càng suy-nghĩ lại càng thêm sợ hằng ngày.

Xem lại Nữ-phái không biết trau-giồi trí thức đặng làm trách-nhậm cho xứng vị mình, thì lại càng âu-lo hơn nữa!

Chính mình Cao Thượng-Phẩm mới giáng cơ nói rằng nhờ Ngài cầu xin tha-thứ cho Nữ-phái nơi Ngọc-Hư, bằng chẳng thì đã bị phế; xin chư Đạo-Tỷ để dạ lo lấy phận mình”

(1-1 Đinh-Mão (Tây-Ninh, 1 Février 1927)

THÁI-BẠCH

Hội-Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ-phái, nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành-lễ theo đẳng-cấp.

Nữ-phái phải tùng Đầu-Sư Nữ-phái, song tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng-Pháp. Đầu-Sư Nữ-phái cũng phải chịu công-cử theo luật Hội-Thánh ban hành, theo luật-lệ Hội-Thánh ban xử đường đời và đường Đạo.

Đầu-Sư Nữ-phái mặc một Đạo-phục y như Đạo-phục Đầu-Sư Nam-phái, phải đội một Ni kim-cô như các vãi chùa, toàn hàng trắng chín giải, áo có thêu bông sen. Cái Kim-cô có choàng từ đầu tới gót. Đội mão Phương-Thiên, trên chót Phương-Thiên ngang đầu tóc, có Thiên-nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh-khí, đi giày vô ưu màu trắng, trên chót để chữ Hương, nghe à!

Phối-Sư cũng mặc in như vậy, song không có Mão Phương-Thiên, áo ba giải nhưng trước ngực có Thiên-nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh-Khí, nghe à!

Giáo-Sư mặc áo ba giải, đội Kim-cô bằng hàng trắng không đi giày.

Giáo-Hữu mặc Đạo-phục như Giáo-Sư, đầu không đội mão, mà giắt một bông sen, trên bông sen có Thiên-nhãn Thầy.

Lễ-Sanh Nữ-phái mặc như Giáo-Hữu, nhưng choàng ngang trên đầu một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí dài một mí vắn; ngay đầu tóc có giắt một bông sen.

Thầy vì thấy nhiều người vắng mặt nên phải đợi đủ mới phong chức.

Lâm-Hương-Thanh, Hiền-muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm này. Thầy đến phong chức lập thành Nữ-phái, nghe à! (TN/ 95)

PCT- “Hội-Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ-phái: Nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp”

CG: Đức Giáo-Tông đến kêu Hội-Thánh Nam-phái nói rằng: Từ đây phải xem sắc tốt của Nữ-phái Ngài đến ban đặng hành lễ theo đẳng cấp.

Cái tiếng “sắc tốt” không, dầu ai đọc đến cũng thầm hiểu nghĩa-lý sâu xa (1)

Giáo-Tông duy chỉ dặn xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp, ấy là Ngài buộc phải có trật-tự cho lắm, vì vậy mà cũng chính mình Ngài đến lập lệ Nam Nữ-phải phân biệt nhau, chẳng đặng chung hiệp nhau về phần xác và phần hồn cũng vậy.

Hộ-Pháp có hỏi Ngài về sự tôn-ti phẩm-trật, thì Ngài dạy rằng:Nam Nữ vốn đồng quyền. Còn hỏi về Lễ-nghĩa giao-thiệp về phần đời, thì Ngài dạy: Giáo-Hữu Nam-phái cũng chịu dưới quyền Giáo-Sư Nữ-phái (2). Còn lễ thì khi vào Đại-Điện,

PCT: Nữ-phái phải tùng Đầu-Sư Nữ-phái, song Đầu-Sư lại phải tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.

CG: Hội-Thánh Nữ-phái phải tùng quyền Đầu-Sư Nữ-phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.

Xem rõ lại, thì Pháp-Chánh-Truyền truất quyền Nữ-phái không cho lên địa-vị Chưởng-Pháp và Giáo-Tông.

Hộ-Pháp để lời phân phiền cùng Thầy như vầy:

- Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất quyền của Nữ-phái không cho lên địa-vị Chưởng-Pháp và Giáo-Tông, thì con e mất lẽ công-bình chăng?

Thầy dạy: Thiên địa hữu âm dương, dương thạnh tắc sanh, âm thạnh tắc tử. Cả càn-khôn thế-giới nhờ dương thạnh mới bền vững; cả chúng-sanh sống bởi dương-quang, ngày nào mà dương quang đã tuyệt, âm-khí lẫy-lừng, ấy là ngày càn-khôn thế-giới phải chịu trong hắc-ám, mà bị tiêu diệt. Nam ấy dương, Nữ ấy âm, nếu Thầy cho Nữ-phái cầm quyền Giáo-Tông làm chủ nền Đạo thì là Thầy cho âm thắng dương, nền Đạo ắt bị tiêu tàn ám-muội.

Hộ-Pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy truất quyền Giáo-Tông Nữ-phái đã đành, song quyền Chưởng-Pháp thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.

Thầy dạy: Chưởng-Pháp cũng là Giáo-Tông, mà còn trọng-hệ hơn, là vì Người thay mặt cho Hộ-Pháp nơi Cửu-Trùng-Đài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa-vị Giáo-Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa-vị Hộ-Pháp con! Bởi chịu phận rủi sanh nên cam phận thiệt-thòi, lẽ Thiên-cơ đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương-yêu binh-vực thay Thầy kẻo tội-nghiệp!” (PCT)

* Ngày 11-12 Bính-Dần (Vendredi 14-1-1927)

Đức Lý giáng đàn nói với chư Nữ-chức chi Minh-Đường rằng “Thầy dạy Lão phải lập phái Nữ cho thành tựu. Em gắng lo phổ-độ nhơn-sanh. Cửu nhị ức nguyên-nhân hãy còn trong vòng hắc ám, chẳng lẽ em biết Đạo ngồi đó cho đành. Lão trông công em”

* Nơi chùa Gò-Kén, ngày 12 tháng giêng năm Đinh-Mão, Thầy phân-phiền với Bà Lâm Hương-Thanh rằng:

“Thầy lập Đạo nơi cõi Nam này, là cốt để ban thưởng cho một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thịnh nộ của Thầy, Thầy lại tha-thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh-diệu.

Từ tạo thiên lập địa, chưa nước nào dưới quả địa-cầu 68 này đặng vậy, cốt để ban thưởng các con thì các con hưởng phần hơn đã đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều cho các nước khác sao!

Ôi! Mà hại thay! Thảm thay! Đau-đớn thay! “Hòn ngọc” đẹp-đẽ quí báu dường này Thầy đến cho các con, các con lại học kiêu-căng, trề nhún, Thầy đã chán mắt thấy phái Nữ hành-đạo thế nào, biết bao phen Thầy buồn, mà buồn rồi lại giận, muốn chẳng lập Nữ-phái mà làm gì. Nhưng trai gái cũng đồng con, Thầy không nỡ đành lòng từ bỏ, Thầy lại thương con (3) nên đã lắm phen lấy khảo trừ công cho con trở lại phẩm cũ, bởi một lời đã hứa với Quan-Âm, Thầy mới nhứt định dành phần công-quả ấy cho con.

Con ôi! Thầy thấy con đau thảm bấy nhiêu, một phen lầm-lỡ lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm!

Con coi đó mà coi, Thầy thương con là bao nhiêu, Thầy giữ Nữ-phái lại cũng vì con. Thầy kêu nó không đến, Thầy dạy nó không nghe, muốn phạt cho đáng kiếp mà bụng cũng chẳng đành. Con là Chị, Thầy đến lập Tam-Kỳ Phổ-Độ, chỉ vụ một chữ “Hoà”, con liệu đứa nên, dùng đẹp lòng con kêu tên cho Thầy phán-đoán.

Tr…! Con giúp em con!” (TNII/26)

Chú thích:
(1) Nếu chư Hiền-hữu biết coi Nữ-phái như em thơ dại, chỉ biết mến đẹp ham xinh, liệu phương dụ-dỗ như Lão vậy mới đáng làm trai, con Thầy mà chớ!
(2) Phải vậy.Tỷ như Giáo-Sư Nam-phái gặp Phối-Sư Nữ-phái thì Nam phải đảnh lễ Nữ trước, lớn nhỏ vẫn đồng, quyền-hành tùy Chức-sắc.
(3) “Con” là Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương-Thanh.

Lý do Thầy buồn Nữ-phái:

Bà Nữ Đầu-Sư Hương-Hiếu là người có mặt ngay từ buổi mới khai Đạo, cùng là bậc tiền bối, nên Bà có dẫn giải lý do vì sao Thầy giận không muốn lập Nữ-phái:

“Hồi mở Đạo, chư vị Nữ-phái Sai-Gòn chưa hiểu Đạo cho lắm, cũng vì có bổn-phận tề gia nội trợ nên sự hành Đạo bê-trễ, vắng mặt mấy kỳ đàn nên bị Thầy quở. Bài thánh-giáo trước đây, Đức Chí-Tôn nói với Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương-Thanh. Do bài trường thiên của Đức Phật Bà cho biết về chơn-linh Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương-Thanh:

Chơn-linh Bà Nữ Đầu-Sư là Long-Nữ hầu phật Bà Quan-Âm Bồ-Tát. Lúc Bà Long-Nữ tình nguyện lãnh lịnh nơi Ngọc-Hư-Cung xuống thế độ Nữ-phái. Bà Long-Nữ hứa với Phật Bà nên Thầy nhứt định dành phần công-quả lại cho Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương-Thanh.

Xin xem kỹ câu văn Thầy nói “Một phen lầm-lỡ lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm”.

Nghĩa là Thầy định lập kỳ Phổ-độ mười ngàn năm nay, không vì sự lỗi của Nữ-phái mà bỏ cho đành. Nhận xét lòng Bác-ái của Thầy vô tận, vô biên. Thầy quở mà Thầy thương, rồi lại ban thưởng nữa; nên Thầy kêu bà Nữ Đầu-Sư lập thông-qui kêu tên Nữ-phái cho Thầy chấm phong.

Tóm lại, nhờ Bà Nữ Đầu-Sư, tất cả Nữ-phái có hầu đàn đêm 14 tháng giêng năm Đinh-Mão (15 Février 1927) đặng thọ phẩm tước hết”.

Như vậy Thiên-phong Chức-sắc cho Nữ-phái vào ngày này, Thầy dạy:

Lâm-thị Ái-nữ, con và Đạo-Minh lên chức Phối-Sư. Con nói lại với Nữ-Thánh rằng Thầy ban ơn cho chúng nó.

Cả Hội-Thánh Nam-phái tung hô mừng lớn rằng

“Vinh-hạnh thay cho Nữ-phái!”

 

D- Luận Đạo:
Hai cơ-quan hữu-hình trong Đại-Đạo là sự cấu-tạo càn-khôn thế-giới

1- Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan quản-trị càn-khôn

Nhứt Phật.

Tam Tiên.

Tam-thập-lục Thánh.

Thất-thập-nhị Hiền.

Tam-thiên đồ-đệ.

Tất cả các con số về Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài mà Thầy chọn đều ứng hợp với việc thành lập càn-khôn vũ-trụ. Theo lời Thầy dạy, thì:

“Trước khi chưa phân Trời đất, KHÍ-HƯ-VÔ bao-quát càn-khôn, sáng-soi đầy vũ-trụ. Đó là một cái Trung-Tâm-điểm tức là ĐẠO. Rồi Đạo ấy mới sanh ra Thái-cực. Hồng-mông sơ khởi, huyền huyền hạo hạo khối lại thành ngôi Thái-cực, rất đầm-ấm lưng-chừng trong đó toàn là một khối, đúng mấy muôn năm bùng nổ ra tiếng dường như thiên khuynh điạ khúc, thì đã có Thầy ngự trong ngôi THÁI-CỰC; rồi có một tầng ÂM và một tầng DƯƠNG gát chồng nhau thành hình chữ thập ló ra bốn cánh gọi là LƯỠNG-NGHI sanh ra TỨ TƯỢNG. Chữ thập mới dần dần quay lộn chạy lăn tròn như chong-chóng, lăn tủa ra muôn ngàn quả tinh-cầu thế-giới, chữ thập ấy dưới có bốn cánh bông kêu là TỨ ÂM, TỨ DƯƠNG tác thành Bát-quái là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Bát-quái mới biến-hóa vô cùng, phân định Ngũ-hành, càn-khôn muôn vật. Thái-cực sanh Lưỡng-nghi tức Tam-thiên-vị (ba ngôi Trời). Dưới ba ngôi ấy có Tam-thập-tam-Thiên (ba mươi ba từng trời) cộng với ba ngôi trên là ba mươi sáu từng trời, nên gọi là Tam-Thập-Lục-Thiên. Trong mỗi từng Thầy chia chơn-linh, có một vị Đại-La Thiên-Đế Chưởng-quản.

Chỗ Thầy ngự gọi là Bạch-Ngọc-Kinh, là kinh toàn ngọc trắng, rộng cao vòi-vọi, ngoài có Huỳnh-Kim-Khuyết là cửa ngõ bằng vàng ròng cực kỳ mỹ-lệ.

Dưới ba mươi sáu từng Trời còn có một từng nữa là nhứt mạch đẳng tinh-vi gọi là cảnh Niết-Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu-Thiên Khai-Hóa tức là chín phương Trời cộng với Niết-Bàn là mười, gọi là Thập phương Chư Phật. Gọi “chín phương Trời, mười phương Phật” là do đó…

Rồi tới Hạ tầng Thế-giái, Tam-Thiên-Thế-Giái. Ba ngàn quả tinh-cầu phân làm Tứ đại bộ châu rồi nối theo Thất-Thập-Nhị-Điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68.

Như vậy sự đặt định đều có duyên cớ mà cơ Đạo ngày nay đều được nhịp-nhàng trong sự ứng hợp giữa hữu-hình và vô-hình đó vậy.

Khi lập Pháp-Chánh-Truyền cho cả Nam Nữ Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài là hiệp đủ ba ngôi. Thật ra mỗi việc chi chi Thầy lập ra không ngoài các con số huyền-diệu, nhiệm-mầu ấy.

2- Hiệp-Thiên-Đài cơ sanh biến vạn-linh

Còn Như-Lai là cảnh Phật chớ không phải danh Phật, nên trong kinh có câu “Bổn giác vị kim giác Như-lai.” Bồ-Đề là chỗ Phật ngự, Phạm-Môn là cửa Phật, Bĩ-ngạn là đất Phật.

Huỳnh-Kim bố điạ là vàng ròng đầy đất. Còn chỗ Nam-Hải Ngạn thượng là Quan-Âm ngự, gần bờ biển nơi hướng Nam cảnh Phật, chớ không phải hướng Nam nơi cảnh phàm. Đó là còn ở Thượng tầng không-khí hay là VÔ-VI CHI-KHÍ.

Rồi kế đó là Đại-Thiên-Thế-Giái,

Kế là Thượng-Phương-Thế-Giái là chỗ Đức Tây-Vương Mẫu ngự nơi Cung Diêu-Trì, gần đó có vườn Ngạn-Uyển Bàn-Đào, Ngũ nhạc Bồng-lai Nhược-thủy.

Các Đấng Thiêng-Liêng Nam Nữ hằng-hà sa số lâu đài cung điện toàn bằng ngọc-ngà châu báu, hỗ-phách san-hô…

Rồi tới Hạ-Tầng-Thế-Giái, Tam-Thiên-Thế-Giái, Ba ngàn quả tinh-cầu phân làm Tứ-Đại-Bộ-Châu rồi nối theo Thất-Thập-Nhị-Điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68”.

Ấy là trên cõi trí-tuệ vô-hình, vô ảnh, tức là cõi tuyệt đối là cõi trời, cho nên Thánh-nhân cảm thấy thế mà nói là Tam-Thiên.

Và có 4 cõi dưới thì phân ra có hai cõi rõ ràng:

- Một cõi vô-vi nhưng đó là cõi vô-vi theo Lão-Tử, nghĩa là không phải là không có hẳn, mà có ý-nghĩa là cái “không” đối với sức con mắt thường của người ta, cho nên ở trong cõi dưới thì ta thấy rõ-ràng một cõi vô-vi hay cõi tinh-thần tuy đối với con mắt ta là cõi vô-hình nhưng đối với quan-năng cao siêu như các nhà đạo-sĩ thấu thị thì các cõi vô-vi mà ta thường gọi là hữu-hình và một cõi hữu vi hay là cõi vật-chất, tức là cõi đời ta ở vậy. Hoá cho nên gọi là Lưỡng-địa, tức là trên cõi đất ắt có hai cõi rõ-rệt. Một vật nào đã ở trên cõi đất ắt phải qua 7 cõi luân-hồi để nhờ cõi vật-chất lên được cõi tinh-thần rồi, thì lúc đó tức là đã ra khỏi được cái bánh xe luân-hồi mà lên trên tam-thiên tức là cõi Đại-Đồng vô-hình vô-ảnh. Vậy Tam-thiên Lưỡng-địa còn bao hàm một cái ý nghĩa huyền-bí sâu xa, duy chỉ bậc Thần-minh trông rõ được sự phân chia ra từng giai-cấp từ trên xuống dưới thì mới dùngđể ngụ cái ý theo thứ bậc trong cõi vô-hình mà mắt ta không thấy được.

3- Sự đồng quyền đồng đẳng trong Đại-Đạo

Tuy nhiên, Thầy vẫn cho biết sự đồng quyền, đồng đẳng đã thể hiện trong nền Đại-Đạo này là:

“Chẳng phải vì đờn-bà mà sớm nồi cơm, chiều trả cháo hoài.

Phần các con truyền Đạo kỳ Phổ-Độ này cũng lắm nặng-nề: bao nhiên Nam tức bao nhiêu Nữ; Nam biết thành Tiên Phật chớ Nữ lại không sao? Thầy đã nói Bạch-Ngọc-Kinh có cả Nam và Nữ, mà phần nhiều Nữ lấn quyền thế hơn nam nhiều. Vậy con phải tuân lịnh mà lập thành Nữ-phái…” (TNI/29)

►Xem tiếp CHƯƠNG VIII: >>>>>

 

Cập nhật ngày: 09-09-2007