Tính-chất của mỗi quẻ là: * Càn ☰ vi Thiên (Càn là trời) tượng sự cao cả, là ngôi tôn quí, là Cha, Vua. * Đoài ☱ vi Trạch, tức là đầm, ao, hồ chứa nước. * Ly ☲ vi Hỏa, Ly là lửa. * Chấn ☳ vi Lôi, Chấn là sấm. * Tốn ☴ vi Phong, Tốn là gió. * Khảm ☵ vi Thủy, thủy là nước. * Cấn ☶ vi Sơn, sơn là núi. * Khôn ☷ vi Địa, Khôn là đất. Khi các quẻ được phối-hợp với nhau, thì: Thứ nhất không còn gọi chính danh của nó nữa, mà phải gọi “nghĩa” của nó. Thí-dụ:
3- Cách đọc 64 quẻ trên đồ vuông của Phục-Hi
Đây là cách đọc quẻ kép trên đồ hình: Dòng trên tức là dòng thứ nhất khởi từ Khôn 8 cho đến cuối là càn 1 (hàng ngang) Dòng dưới là dòng thứ hai, đều là càn 1, đến chữ cuối cùng. Hai quẻ này phối hợp nhau sẽ cho các quẻ ở hàng thứ ba. Như ở quẻ có biệt số 81: là do Khôn vi Địa số 8 hiệp với Càn vi Thiên số 1 sẽ thành quẻ kép là Địa Thiên Thái, biệt số là 81. Một biệt số nữa là 71 do quẻ Cấn vi Sơn số 7 hiệp với Càn vi Thiên số 1 sẽ thành quẻ kép có tên là Sơn Thiên Đại-Súc cứ thế tiếp-tục đến quẻ thứ 64 Vậy, nhìn chung cột đứng thứ nhất, tức là các quẻ khi phối hợp nhau sẽ đặt phía “dưới”. Cột nằm ngang, khi phối hợp thành quẻ kép sẽ đặt phía “trên”. Các hình-thức quẻ, xin nhìn ở bảng lập thành ở trên, còn bảng này là tên của quẻ có kèm theo biệt số. Thí-dụ: Cột đứng thứ nhất là khôn số 8, đặt chồng lên Khôn số 8 nữa, hợp số sẽ là 88, tên quẻ là Bát-Thuần Khôn. Cột ngang quẻ Cấn số 7 đặt chồng lên khôn số 8, biệt số là 78, (Cấn vi sơn, Khôn vi địa) tên quẻ là Sơn Địa Bác. Bác có nghĩa là vật sắp sụp đổ, như tượng quẻ chỉ có một hào dương treo lơ-lửng trên 5 hào âm, báo động cho một nguy-cơ khốn đốn không thể tránh khỏi. Với 64 quẻ như vậy là 64 trường-hợp khác nhau, để chỉ những biến-cố trong ngày, tháng, năm, hoặc một chu-kỳ dài hạn: một đời người, một thế kỷ, vận, hội… Bản-đồ tròn là vận ở ngoài, bản-đồ vuông thì vận ở trong là chỉ Trời ĐỘNG đất TỊNH. Một khí đi đi lại lại, lấy Kiền-Khôn làm bao la (bao-quát). Lấy lục thiếu (6 quẻ nhỏ) Chấn-Tốn, Khảm-Ly, Cấn-Đoài làm biến-hóa. Dương nghịch thì Âm sanh. Dương thuận thì Âm thoái. Tứ thời hành thì trăm vật sanh. Cái đạo Tiên-thiên tạo-hóa tới đây là rõ ràng rồi. Nhưng cái đạo trong vuông ngoài tròn, trời động, Đất tịnh lại còn ở chỗ bí-mật. Quẻ sấp làm hai bảng đồ vuông tròn mà thôi. Thiệu-Tử cũng không thể viết ra cho người thấy, chỉ lấy hai bản-đồ vuông tròn hiệp làm một bản-đồ trong vuông ngoài tròn mà thôi. Phục-Hi chẳng phải là không muốn dạy, nhưng dạy chẳng qua là vẽ các quẻ làm bản đồ, còn phần nào không thể vẽ quẻ làm bản-đồ thì không dạy được. Thiệu-Tử chẳng phải là không muốn viết ra, chẳng qua là làm bản-đồ trong vuông ngoài tròn, còn phần sở dĩ nhiên (lý-do làm sao mà ra vậy) không ở tròn vuông, không dính với tròn vuông thì không viết ra được. Nhưng có quẻ có bản-đồ, những chỗ không dạy không viết ra được, ta có thể suy tìm.
D- HẬU-THIÊN BÁT-QUÁI của VĂN-VƯƠNG
|
![]() |
Khác là trong các quẻ đã thành lập mà lại nhận thấy một thứ đạo-lý riêng biệt cho nên đổi nghĩa quẻ và khí của quẻ mà phát-minh điều vua Phục-Hi chưa phát-minh chớ không phải cượng cầu bịa đặt.
Như Càn ☰ là lão dương, tổ-tông của các khí dương, làm cha. Khôn ☷ là lão âm, chủ tể của các khí âm, làm mẹ.
![]() |
- Cha Mẹ phối nhau, âm dương hiệp nhau, tất nhiên sanh ra con trai con gái. Cho nên khi Kiền đi lại với Khôn, gặp được cái vạch dưới cùng (sơ hào) của khôn thì sanh ra Tốn ☴ làm trưởng nữ (con gái lớn).
- Khi Khôn đi lại với Kiền, gặp được cái vạch dưới của (Càn) Kiền thì sanh ra Chấn ☳ làm trưởng nam (con trai lớn).
- Khi Kiền đi lại với Khôn lần nữa, gặp được cái vạch giữa (trung hào) của Khôn thì sanh ra Ly ☲ làm trung nữ (con gái giữa).
- Khi Khôn đi lại với Kiền nữa, gặp được cái vạch giữa của Kiền thì sanh ra Khảm ☵ làm trung nam (con trai giữa).
- Khi Kiền đi lại với Khôn lần thứ ba, gặp được cái vạch trên (thượng hào) của Khôn thì sanh ra Đoài ☱ làm thiếu nữ (con gái út).
- Khi Khôn đi lại với Kiền lần thứ ba, gặp được cái vạch trên của Kiền thì sanh ra Cấn ☶ làm thiếu nam (con trai út).
Quẻ Kiền gặp được ba hào âm của Khôn, thì dương biến làm âm bèn sanh ba gái.
Quẻ Khôn gặp được ba hào dương của Kiền, Âm biến làm dương bèn sanh ba trai.
Trai gái đã sanh thì trai theo cha, gái theo mẹ. Kiền coi hết ba trai ở hướng Tây-Bắc.
Khôn coi hết ba gái ở hướng Tây-Nam, Kiền là Lão phụ (cha gìa), ba hào khí chơn dương lọt về tay của ba con trai nên kiện đức thâu liễm phải ẩn núp cảnh Tây-Bắc là hướng rất lạnh.
Khôn là lão mẫu (mẹ già), ba hào khí chân âm đã lọt về tay của ba gái nên thuận tánh thất thường phải dời qua cảnh Tây-Nam là nơi sát cơ.
![]() |
LY ☲ được cái vạch âm ở giữa của Khôn, âm nhốt trong dương, âm mượn sức dương mà phát ra sáng, cho nên ở chánh Nam là hướng hỏa vượng.
KHẢM ☵ Được cái vạch dương ở giữa của Kiền, dương ra trong âm, dương lọt vào âm mà làm ra thủy-triều (nước lớn nước ròng) cho nên ở chánh Bắc là hướng thủy vượng.
CHẤN ☳ được cái vạch dương ở dưới của Kiền, hào dương đầu, chủ về sanh trưởng cho nên ở chánh Đông là hướng cây cỏ vượng.
ĐOÀI ☱ đặng cái vạch âm ở trên của Khôn, hào âm cuối cùng chủ về tiêu-hóa, cho nên ở chánh Tây là hướng Kim (là hướng thuộc các loài kim) vượng.
CẤN ☶ được cái vạch dương ở trên của Kiền, hào dương cuối cùng chủ về tịnh-dưỡng nên ở Đông-Bắc là hướng khí dương yếu.
TỐN ☴ đựơc caí vạch âm ở dưới của Khôn, âm hào là hào âm đầu chủ về tiệm tiến, cho nên ở Đông-Nam là hướng khí dương thạnh..
Kiền, Khảm, Cấn, Chấn thuộc về dương tạo sanh muôn vật.
Tốn, Ly, Khôn, Đoài thuộc về âm, dưỡng thành muôn vật. Cha mẹ, trai gái, tự nhiên phối hợp với nhau để vận-hành khí của các quẻ. 64 quẻ Hậu-thiên cũng sanh ra tại đây. 64 quẻ sanh ra rồi thì có tạo có hóa, có sanh có thành.
Tạo rồi lại hóa, hóa rồi lại tạo; sanh rồi lại thành, thành rồi lại sanh. Khi lớn, khi mòn, khi đầy, khi vơi không có lúc nào ngừng nghỉ. Đây là nói lúc sanh ra rồi cho nên gọi là Hậu-thiên.
Hậu-thiên là Đạo thuận sanh mà đạo nghịch vận cũng ẩn trong đó
![]() |
Quẻ LY vốn thuộc dương mà trở lại là con gái là ý nói ngoài dương mà trong âm. Âm ở ngôi giữa tức là chơn âm.
Quẻ KHẢM Vốn là âm mà trở lại làm con trai là ý nói ngoài âm mà trong dương. Dương ở ngôi giữa tức là chân dương.
- Dương ở ngoài là dương hậu-thiên, dương ở trong là dương tiên-thiên.
- Âm ở ngoài là âm hậu-thiên, âm ở trong là âm tiên-thiên.
TIÊN-THIÊN là chủ. Hậu-thiên là khách. Khảm Ly qua lại, nước lửa trợ nhau, lạnh nóng có giờ cho nên đủ sức thay thế cho Kiền Khôn mà vận hành tạo hóa.
QUẺ CHẤN ☳ âm nhiều dương ít, làm con trai là ý nói Chấn là khí dương vừa mới thay, mà khí dương thay thì đủ sức giúp-đỡ khí âm.
Quẻ ĐOÀI ☱ dương nhiều âm ít, làm con gái là ý nói Đoài là khí âm hiện phía ngoài, mà khí âm hiện thì đủ sức diệt khí dương. Chấn là sanh cơ, Đoài thì sát cơ.
Kim Mộc hiệp nhau có sanh sát thấy rõ ràng cho nên đủ sức thay thế cho Kiền-Khôn mà đoạt thành Tạo-Hóa.
Việc trong trời đất, tất cả đều có duyên cớ. Lập lại lời giảng của Thầy:
“Trước khi chưa phân Trời đất, KHÍ-HƯ-VÔ bao-quát càn-khôn, sáng-soi đầy vũ-trụ. Đó là một cái Trung-Tâm-điểm tức là ĐẠO. Rồi Đạo ấy mới sanh ra Thái-cực. Hồng-mông sơ khởi, huyền huyền hạo hạo khối lại thành ngôi Thái-cực, rất đầm-ấm lưng-chừng trong đó toàn là một khối, đúng mấy muôn năm bùng nổ ra tiếng dường như thiên khuynh điạ khúc, thì đã có Thầy ngự trong ngôi Thái-cực.
Rồi có một tầng ÂM và một tầng DƯƠNG gát chồng nhau thành hình chữ thập ló ra bốn cánh gọi là Lưỡng-nghi.
Lưỡng-nghi sanh ra Tứ-tượng. Chữ thập mới dần dần quay lộn chạy lăn tròn như chong chóng, lăn tủa ra muôn ngàn quả tinh-cầu thế-giới, chữ thập ấy dưới có bốn cánh bông kêu là Tứ âm Tứ dương tác thành Bát-quái là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài”.
Đây là hình ảnh Bát-quái Hậu-thiên có đủ Tứ dương, Tứ âm: là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Theo thứ tự quẻ mà Thầy đã dạy như vậy thì ngoài Bát-quái Đồ-thiên mà chúng ta đã nói ở trên ra, tức là Bát-quái Cao-Đài ngày nay, thì chỉ duy còn có Bát-quái Hậu-thiên, mà trước đây khoảng 6.000 năm các bậc tiền Thánh như Văn-Vương, Châu-Công, Khổng-Tử, đã lần lượt bổ-cứu thêm cho nhân-lọai hưởng nhờ đến ngày nay.
Bát-quái Hậu-thiên duy khác Bát-quái Đồ-thiên ở điểm thứ nhất là khởi ở Càn nhưng quay thuận chiều kim đồng hồ. Trục đứng là Nam Bắc.
Điểm kế là phương hướng: Chiều đứng Ly Khảm ở Nam Bắc và chiều ngang là Chấn Đoài ở Đông Tây. Thứ tự là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Theo Hậu-thiên Bát-quái với phương-vị của Ngũ-hành, thì đã có 4 quẻ giữa có 4 hành chính yếu:
![]() |
Ly ☲ thuộc hành Hỏa
Khảm ☵ thuộc hành Thủy
Chấn ☳ thuộc hành Mộc.
Đoài ☱ thuộc hành Kim.
Theo trục đứng Nam Bắc là Ly Khảm. Duy chỉ có hỏa là đơn hành chỉ có Ly thuộc Hỏa. Quẻ đối là quẻ Khảm thuộc Thủy là đơn hành thôi. Vì các đôi quẻ này tương-đối nhau.
Bởi:
Hai quẻ Ly Khảm cũng đồng loại mà khác giống:
Ly ☲ tượng cho con gái giữa, gọi là trung-nữ.
Khảm ☵ tượng cho con trai giữa, là trung-nam
1- Giải-thích lý-do của Ngũ-hành có mặt trên đồ Hậu-thiên như sau
Theo đồ hình trên đây chia ra 2 phần dương và âm đó là đường thẳng xy đi qua giữa quẻ Chấn và Tốn, Đoài và Càn, tức là con đường giao nhau giữa âm dương. Bởi có sự giao-cảm của âm dương thì tất nhiên là sự cứng mềm giao nhau, tuy nhiên phải là đồng-loại mới có thể hòa với nhau được. Như dung-dịch nước hòa với nước chớ không hòa được với dầu…
Theo đường xy làm ranh-giới cho sự giao hợp của âm dương thì cái thể của hai quẻ Chấn, Tốn phải cùng một loại mà khác giống.
Chấn ☳ tượng cho con trai trưởng, là trưởng nam
Tốn ☴ tượng cho con gái trưởng là trưởng-nữ. Như thế cả hai quẻ này cùng loại (cùng đứng vào hàng trưởng), khác giống tức là Chấn giống đực (Masculin), Tốn là giống cái (Féminin)
Nhưng, trục ngang Đông Tây là Chấn Đoài.
- Mộc không phải là đơn hành, vì Chấn thuộc mộc mà Tốn cũng thuộc mộc, mà Chấn ở vào vị dương tức là dương mộc, quẻ Tốn ở vào vị âm tức là âm mộc.
- Kim thì quẻ Đoài và Càn cũng cùng một loài, thuộc hành Kim, mà Càn ở vị dương, cho nên Càn là dương kim, Đoài ở vào vị âm nên là âm kim.
Bản-đồ trên cho biết Chấn thuộc hành Mộc và Đoài thuộc hành Kim. Vì vậy Chấn và Tốn thuộc hành Mộc mà Càn và Đoài thuộc hành Kim. Vì những lẽ trên cho nên mới thành Âm kim, dương kim; âm mộc dương mộc là vậy.
Hỏi sao quẻ Khôn và Cấn thuộc Thổ? Hành thổ lại ở giữa Hà-đồ là nghĩa làm sao?
- Giải về lý-do này lấy sự sinh khắc của Ngũ-hành mà giải:
Hỏa ở hướng Nam sinh nó tức là Hỏa sinh Thổ và Thổ sinh Kim. Được Hỏa sinh mình, mình lại sinh người thì lại có sự trung chính, không chênh-lệch và hoà nhau. Như thế tức là nó còn nguyên-chất để phân chia cho hai quẻ Cấn và Khôn, hai quẻ tương-đối nhau và là hai quẻ chót chưa được tiêu-biểu bằng thể gì, cho nên lấy tượng của nó là Khôn tượng là trái đất, Cấn tượng núi tức là đều có cái thể của hành Thổ vậy. Đây là hành Thổ ở trung-ương phân-phát cho hai quẻ ấy.
… Như vậy có một năng-lực đi phân cho Khôn thuộc về Âm gọi là âm thổ, một năng-lực thuộc dương đi phân cho Cấn, Cấn là dương thổ. Đây là nói sự phân chia của hành Thổ vậy.
Ngoài ra quẻ Khôn xen vào giữa Ly (hỏa) và Đoài (kim) thì ta lấy lý Ngũ-hành sinh khắc ra mà giải thì trong âm-nghi có sự sinh khắc của Ngũ-hành đi từ Nam sang Tây tức là Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Trong dương-nghi thì sự khắc đi từ Đông sang Bắc tức là Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.
Chấn, Cấn, Khảm ba quẻ khắc nhau ở thể dương.
Ly, Khôn, Đoài ba quẻ sinh nhau ở thể âm. Nhờ vậy mới có sự tương-đối, tương đồng, hòa nhau mà muôn vật mới sinh ra được. Hóa cho nên về nguyên-lý của Dịch cho hành Thổ xen vào hai quẻ Cấn và Khôn rất thích-hợp với thiên-lý lắm”.
Ngũ-hành có sinh, có khắc, nguyên-tố này chế lẫn nguyên-tố kia, gọi là quan-hệ chế hóa, hễ nguyên-tố nào mạnh hơn tất thắng. Có phân thắng bại tất có cơ hòa. Có cơ hòa tất có biến sanh. Sanh sanh, hóa hóa, rồi lại khắc. lại chế, lại hòa và trở lại biến sanh. Luật khắc chế, hòa, sanh ấy cứ luân luân chuyển-chuyển cũng lẽ thường, nó in khuôn rập với luật “thành, trụ, hoại, không” 成 住 壞 空 đi theo từng giai-đoạn một.
Trong trời đất không có cái gì thừa cũng không có cái gì thiếu, không có gì mất đi cũng không có cái gì thêm, chỉ là những phẩm-vật có sẵn từ khi Thầy tạo càn-khôn, nhưng là những phẩm-vật càng ngày càng tăng-tiến thêm lên mãi mãi về phương-diện tâm-đức. Do càng ngày càng toàn năng, toàn tri, toàn thiện, toàn mỹ để hiệp một cùng Thầy.
2- Ngũ-hành qua hai lý tương-sanh tương-khắc
![]() |
* Luật tương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Đấy là vòng luân-chuyển vậy.
* Luật tương sanh: Kim sanh Thủy, Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sanh Kim. Luật Ngũ-hành có sinh, có khắc. Hễ sanh thì an-bày, vững đạt; còn khắc thì đổ vỡ, hư hoại.
Luật trời thoạt hiện, thoạt biến chuyển-luân. Thế đất chuyển di, lòng người thay đổi. Ngũ tạng, lục phủ luân-lưu. Vật-chất, thảo-mộc biến sanh, hủy-diệt cũng đều do lý Ngũ-hành. Nhưng hoặc lâu, hoặc mau là tùy ở hình chất của mỗi một thể hình. Lâu hay mau cũng đều có định-luật tất cả. Trong có có không, mà trong không có có. Vạn-vật thay màu đổi sắc mà tựu trung cũng vẫn những nguyên-tố ấy mà thôi.
Thi văn dạy Đạo Khuya sớm tương dưa hết dục lòng, |
(Xem tiếp: DỊCH-LÝ CAO-ĐÀI Quyển 2)
DỊCH LÝ CAO ĐÀI Tài liệu tham khảo kính biếu . |