CHƯƠNG III

 

Chương III

A –LỄ TRẤN THẦN & HÀNH PHÁP

   -Ma Ha thuỷ và Cách luyện

I- Lễ Trấn Thần Toà Thánh 

II- Trấn Thần tượng Tam Thánh 

III- Trấn Thần Trí-Huệ-Cung  Thiên Hỉ Động 

IV- Trấn Thần chợ Long Hoa 

            B-Đức Hộ pháp nhập tịnh Trí Huệ cung

 

 

C-Hành Bí pháp:

1-Đức Chí-Tôn hành pháp tại Kiêm biên  

2-Đức Hộ-pháp Ban phép lành

3-Hộ-pháp hành pháp mỗi khi vô Cúng Đàn  

4-Đức Hộ-pháp hành pháp trong giờ Cúng Đàn 

            D-Hành pháp độ thăng cho chức sắc

            E-Đức Tin thể hiện ở Sự cầu nguyện

 

 

A- LỄ TRẤN THẦN & HÀNH PHÁP

Pháp Đạo ngày nay khi Trấn Thần hay Trấn pháp thì dùng NƯỚC TRẮNG để luyện thành NƯỚC PHÁP gọi là MA-HA-THUỶ.

Trấn Thần là dùng phép Huyền diệu của Đức Chí Tôn ban cho để ban rải thanh điển vào một vật, khử trừ các trược điển và đưa một vị Thần đến trấn giữ, không cho tà quái xâm nhập khuấy phá. Nơi cửa Đạo, Đức Hộ Pháp trấn Thần các Dinh thự như: Trấn Thần Đền Thánh, Báo Quốc Từ, Chợ Long hoa…Trấn Thần trên vật như Áo Mão của Chức sắc…

Hành pháp là trên hài cốt đối với người giữ Đạo đã qui Thiên gọi là hành phép xác; với Chức sắc gọi là hành pháp độ thăng… tất cả các Bí-pháp này có được trong buổi Đại Ân Xá của Chí-Tôn mà thôi.

                             Ma Ha thủy 

      A: The Holy water.

      P: L'Eau bénite.

1-Ý nghĩa của Ma Ha Thủy:

Ma Ha thủy, nghĩa đen là nước của con sông lớn linh thiêng ở Ấn Độ, đó là sông Gange, tức là Hằng hà. Đây là con sông mà Đức Phật Thích Ca xuống tắm, tẩy trần và đạt Đạo.(Ma Ha: do tiếng Phạn phiên âm: lớn, đại. Thủy: nước). Nơi Tây Ninh Thánh Địa thì sông Cẩm giang tương lai cũng sẽ là huyền diệu như sông Gange vậy.

Trong Đạo Cao Đài, Ma Ha thủy là nước đã được làm phép, dùng trong hai Bí pháp:Tắm Thánh và Giải oan Sách “Bí Truyền Chơn Pháp” các Ngài dẫn giải về Ma Ha  thủy và cách luyện Ma  Ha  thủy  để dùng trong Phép Tắm

Thánh và Giải Oan. Nguyên văn như sau:

“Khi Đức Phật Tổ từ ngôi báu, tầm Đạo, thì Người gặp phải manh sư truyền giáo, cố lấy phương ép xác đặng đạt huyền diệu thiêng liêng. Người tập tuyệt thực, ngồi tại hòn núi chịu khổ hạnh 6 năm, thân hình yếu ớt, sức lực hao mòn, đến đỗi ngày cùng tận của Ngài duy có ăn một hạt cơm mà thôi (theo lời kinh nói). Buổi ấy cái thảm tượng sắp chết của Ngài hầu đến, thoạt nhiên có một người tiều phu đến nơi núi của Người đang trì định; lần đến bên Người, ôm đờn, đờn một điệu rất nên hòa nhã thâm thúy không cùng, nhưng có một điều là lên dây đờn quá thẳng, làm cho đến khúc hay thì đứt dây loan. Đứt rồi nối, nối rồi lên thẳng, đờn lại đứt nữa, chẳng biết mấy lần, làm cho Phật đang nhập thiền trì định phải tỉnh hồn, day qua mà than với ông ấy rằng: Ông đờn thì hay mà lên dây chi cho cao quá, mỗi lần hay phải đứt dây, thì cái hay ấy phải mất đi sự tuyệt diệu, tôi rất nên thương tiếc.

Ông tiều ấy liền trả lời rằng: Tiếng Đờn của tôi hay cũng giống như sự tu của Phật. Dây đờn của tôi lên cao quá nó phải đứt thì cái hay của nó chẳng hữu ích chút nào; còn sự tu của Phật, nếu cái cao siêu huyền bí của nó mà đạt cơ bất diệt, cái cao của nó cũng phải chết theo Phật, còn chi cứu thế độ đời.

Thốt như thế rồi liền đứng dậy xách đờn mà đi (Kinh cho rằng ông ấy là Bồ Tát đến kiến tánh cho Phật). Mấy lời ấy làm cho Phật tỉnh giác, biết mình lầm theo Tà pháp Bàn môn, liền đứng dậy, vội vàng xuống núi, làm cho bốn vị Đệ tử theo bên Người, mong cho thấy Người đạt pháp. Khi thấy Phật xuống núi mông phàm thì ngã lòng thối chí, bỏ Phật không làm Môn đệ nữa.

Trước khi Phật xuống núi, nơi xứ của Phật tu có một vị thiện nữ giàu có sang trọng, nuôi thú vật rất nhiều. Ban đêm nằm mộng thấy một vị Bồ Tát dặn rằng: Ngày ấy, giờ ấy, sẽ có Phật tại rừng Bồ đề, nàng phải bắt 72 con bò cho ăn bông mai mà thôi, vắt sữa 72 con bò ấy, cho 12 con uống, rồi vắt sữa 12 con cho một con uống, lấy sữa của con ấy đựng vào Bình bát vàng đem dâng cho Phật.

Khi Phật bộ hành đến  mé rừng Bồ-đề  thì mệt mỏi quá, thân hình rã rượi, thần sắc lờ mờ, sa vào một cội Bồ đề mà chết giấc, nhờ chết giấc ấy mới xuất thần đặng hội diện cùng chư Phật, thấy rõ trước mắt Địa ngục, Niết Bàn. Ấy là giờ của Người đạt pháp. Duy lạ một điều cả cảnh tượng ấy mịt mịt mờ mờ, Người không gần đặng. Thoạt thấy một vị Bồ Tát dặn rằng: Thây phàm xác tục của Người và chơn thần của Người đã chịu nhiều quả kiếp cho nên ô trược nhớp nhơ, khi tái nhập thế trần, phải đến sông Ma Ha tẩy trược. Trong cơn ấy, người đàn bà bưng bình bát sữa vừa đến rừng Bồ đề, tìm chẳng thấy ai khác hơn là một thầy tu nằm dựa gốc cây mà chết, sờ nơi ngực còn nghe hơi ấm của trái tim, vội vàng tất cả cùng ra tay hô hấp.

Phật vừa tỉnh dậy thì nàng dâng bình bát sữa cho Người. Phật uống đặng bình bát sữa ấy rồi trụ Thần, định Khí, mạnh lại như xưa.

Ấy là cơ hiệp Tam bửu: Tinh – Khí- Thần hiệp nhứt. Tinh là hình hài, Khí là chơn thần, Thần là chơn linh. Nhờ Tam bửu phối tế, người định giác lần lần, thấy đặng cõi Hư linh và cảnh phàm trần xa nhau không đầy một sợi tóc. Thăng thì đến cõi Hư linh, đọa thì sa vào phàm tục.

Khi đã định tâm đạt Pháp rồi, Phật liền nhớ lời Bồ Tát dặn, nên lần hồi tới bãi sông Gange, nhưng có một điều lạ là chơn thần và xác thịt của Ngài chưa trọn tương liên hòa hiệp, nên người mờ hồ chưa biết chắc mình đã quả nhiên đạt Pháp.

Xuống tắm sông Gange rồi lên khỏi bờ, cầm Bình Bát vu nơi tay mà vái rằng: Nếu quả nhiên tôi đã đặng đạt Pháp, xin chư Phật cho cái Bình Bát Vu nầy trôi ngược dòng nước.

Nói rồi, Người liệng Bình-Bát-Vu giữa dòng thì Bình-Bát-Vu từ từ trôi ngược dòng nước.

Phật mừng quá, ngoắt nó vô bờ, cầm Bình Bát Vu mà nói rằng: Nước sông Gange sẽ rửa sạch oan nghiệt tội tình của kiếp sống “Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa”.

Kể từ ngày tắm nơi sông Gange rồi thì mỗi phen trì định xuất thần, Phật mới đến đặng gần chư Phật, nhập vào đặng Tây Phương Cực Lạc. Ấy là nhờ Phép Giải Oan mà đạt vị.”

 

2-Cách luyện Ma Ha Thủy

Hành Phép Giải Oan

(Baptême de l’eau)

"Múc một tô nước lạnh để tại Thiên bàn. Người hành pháp đứng, định thần ngó ngay lên Thiên Nhãn, vẽ bằng con mắt chữ (. ) trong con ngươi của Thiên Nhãn, rồi co chơn trái lên vẽ chữ (. ), đạp trên chữ (.) ấy, rút chân mặt ký chữ Đinh,  gọi là đạp Đinh Giáp.

Khi hành pháp rồi tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, tay mặt cũng bắt ấn Hộ Pháp để trên tô nước,  buông ấn ra, co ngón tay giữa vẽ bùa (.) đoạn ngay tay ra truyền thần xuống nước, niệm câu chú: “Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt  tội chướng chi đọa”. Nhắm mắt định thần đợi thấy Thiên Nhãn giáng trên mặt nước thì xả Ấn liền rút tay ra liền.

Cầm tô nước tay mặt, đến trước mặt người Giải oan biểu cúi đầu xuống, lấy con mắt vẽ chữ (.) ngay Nê Hoàn. Hễ vẽ vừa rồi liền chụp ngay ngón tay trái lên mỏ ác gọi là ẤN NGŨ-HÀNH SƠN, vừa chụp vừa niệm câu Chú này: “Úm Ma ni bát ri hồng”. Đoạn cầm tô nước đổ xuống ngay mỏ ác mà niệm: Nam mô Phật; giọt thứ nhì: Nam-mô Pháp, rồi trút hết tô nước niệm: nam Mô Tăng. “Nam-Mô  CAO-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma-Ha-Tát”.

Hành Phép Tắm Thánh

(Baptême de l’eau)

             Phép Tắm Thánh cho trẻ nhỏ cũng vậy, nhưng vừa niệm câu chú “ÚM MA NI BÁT RI HỒNG” phải niệm tiếp câu này: “Nầy là con cái Thiêng liêng của Thầy, xin Thầy gìn giữ trong sạch vậy hoài”.

            Đoạn cầm tô nước đổ xuống ngay mỏ ác mà

- Niệm Nam Mô Phật.

- Giọt thứ nhì niệm: Nam mô Pháp.

- Rồi trút hết tô nước niệm: Nam mô Tăng.

“Nam-Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”

 

CHÚ GIẢI PHÉP XÁC

(Mystère de la délivrance)

Sự sống của con người do nơi Khí Sanh Quang (Vialité) nuôi nấng. Khí Sanh Quang nơi mình chúng ta tu tại 7 khiếu làm nên điển lực. Hễ còn điển lực thì thi hài còn vận chuyển, sanh hoạt, dứt điển lực thì thi hài “Bất động tử kỳ” (Inaction)

Ai cũng hiểu rằng: Khi tử kỳ đã chí thì thi hài phải chịu một phen đau đớn thảm khổ quá chừng, vì Phật Thích Ca biết cái sự đau đớn ấy dường nào nên Ngài gọi là Tứ Khổ. Sự đau đớn khởi ra  từ ngày điển lực đã giảm hao tiều tuỵ, thi hài phải bịnh hoạn, mòn mỏi, vì điển lực đã yếu hấp thụ Sanh quang  thì  cái sanh  mạng của con người

không còn phương bảo tồn đặng nữa..

Kể từ năng lực mòn mỏi cho đến ngày tuyệt Khí Sanh quang thì là một thời gian dài ngắn tuỳ theo quả kiếp của con người, chẳng một vị tu hành nào đã đạt pháp mà định đặng cái thời gian ấy nỗi. Có nhiều kẻ đã chết mà cái năng lực Sanh quang hãy còn, chỉ còn mảy mún mà thôi, nhưng sự mảy mún ấy nó làm cái dây điển lực mà truyền sự đau đớn của thi hài lại với tâm hồn. Sự đau đớn ấy đã quá sức phàm tính để hiểu. Ấy là một quả kiếp đáng ghê sợ. Có kẻ hiểu rằng: Thi hài đã bị nứt nở tiêu huỷ, dòi ăn, hôi thúi mà tinh thần thoát ra không khỏi, rồi chịu sự đau đớn ấy cho tới xương tàn cốt rụi mới thôi. Ấy là một cái hình phạt Thiêng Liêng oai nghiêm hơn hết. Hễ còn biết đau thì còn tưởng đến mình, tưởng đến mình thì còn nhớ sự đời, nhớ sự đời thì còn thương kiếp sống, thương kiếp sống thì còn chuyển kiếp luận hồi.

Vì Chí-Tôn biết lẽ ấy là một lẽ đày đoạ cả con cái của Người nên Người nhứt định dùng diệu pháp cắt bảy cái mối năng lực gọi là Thất khiếu Sanh Quang gọi là bảy dây oan nghiệt đặng cho Chơn Thần xa lìa xác tục rồi cũng dùng diệu pháp mà đưa vào cõi Hư linh mới rõ ràng là Cơ TẬN ĐỘ.

Ấy vậy làm PHÉP XÁC cốt yếu là tắm gội xác tục và hồn với giọt nước Cam Lồ, cắt đứt 7 dây oan nghiệt cho Chơn Thần lìa khỏi xác, rồi đưa Chơn-Thần vào cõi Hư linh nghĩa là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, Tứ Đại Bộ Châu và Tam Thập Lục Thiên.

Ở trong Tam Thập lục Thiên có Ngọc Hư Cung và Niết Bàn ở đó.      

 

PHÉP XÁC

          Trước khi hành phép Xác biểu sắm sẵn một cái chén, một nhành dương, một cái kéo và 9 cây nhang.

            Dùng chén ấy đựng nước Cam-lồ.

            Đoạn vẽ bằng con mắt trong con ngươi Thiên Nhãn chữ (.) vẽ dưới chơn trái của mình chữ (.) vẽ trên đầu người chết chữ (.)

        CAM-LỒ-THUỶ

            Nơi Lôi-Âm-Tự có một Cây Dương bao trùm  cả LÔI ÂM, mỗi chót nhánh của lá Dương có một giọt sương. Một giọt sương là một sanh mạng của con người. Hễ giọt sương ấy rơi thì con người phải tuyệt. Vậy phải đến LÔI-ÂM-TỰ lấy nước Cam lồ (Bí pháp này phải luyện mới đặng).

Cách luyện Cam-lồ-Thuỷ:

            Để chén ngay thiên Bàn, gát ngang nhành Dương liễu qua miệng chén, đoạn lấy hai chén nước Âm Dương xáp lại cùng nhau cho Âm Dương Ký Tế, nghĩa là hai mặt nước hiệp nhau rồi đổ ngay giọt xuống chén mà niệm câu Chú này: “Cam-lồ-Thuỷ năng huỷ trược kiếp ô sanh oan nghiệp tội chướng chi đoạ”.

Hễ dứt câu niệm thì phải ngưng giọt nước, đoạn tay trái bắt ấn Hộ-Pháp để chén nước Cam lồ trên Ấn; tay mặt cũng bắt Ấn Hộ-pháp chụp lên miệng chén, co ngón tay giữa tay mặt vẽ bùa (.) trên mặt nước rồi buông ngón ra, truyền thần xuống mặt nước. Đoạn nhắm hai mắt định Thần, hễ thấy Thiên Nhãn giáng ngay mặt nước thì tức cấp giựt tay ra, đừng đứng đợi để tiêu Thiên Nhãn thì thất Pháp. Nước CAM LỒ đã thành.  

 

PHÉP ĐOẠN CĂN

            Cầm cái kéo nơi tay trái, ngón cái và ngón giữa xỏ vô hai lỗ kéo, còn ngón trỏ thì để ngay lỗ kéo cho đủ ba chấm: PHẬT –PHÁP- TĂNG. Đưa cái kéo ngay lên Thiên Nhãn (làm thế nào cho cái kẽ kéo ngay Con Ngươi của Thiên Nhãn rồi cầm chín mũi nhang đốt vẽ chữ (.)

Ấy thành Pháp của cơ thể Đoạn căn (nhớ đếm cho đủ 9 cây đặng cho đủ Cửu Tiêu là ảnh hưởng Cửu Thiên Khai Hoá. Hễ thiếu tắt một cây là thất pháp)

 

HÀNH PHÉP XÁC

          Phải có một người phụ lễ cầm cả một món Bí-pháp theo mình, đứng ngay đầu hàn rồi chính mình người Hành pháp phải xướng đọc BÀI CẦU HỒN. Khi Đồng Nhi đã tiếp đọc rồi thì tay trái bắt ẤN HỘ-PHÁP để chén nước Cam lồ lên. Tay mặt cầm nhành dương liễu ngay lên Trời gọi là “chỉ thiên”, định Thần thế nào thấy thây kẻ chết cho rõ rệt,chớ không đặng phép thấy hòm. Nhún nhành Dương vào Cam-lồ-Thuỷ mà rải cùng thi hài ấy. Hễ mỗi phen rải thì phải niệm câu Chú: “Cam Lồ thuỷ năng huỷ trược kiếp ô sanh oan nghiệt tội chướng chi đoạ”.

            Hễ cái Thần mình biết nước Cam-lồ rửa cùng mình của kẻ chết thì thôi (đừng thấy cái hòm trước mắt đó mà cứ rải nước thì không ăn thua gì ráo).

            Đi giáp vòng ra chính giữa đầu hàn, tiếp tụng kinh với Đồng nhi cho mãn hồi thứ nhứt.

           

HÀNH PHÉP ĐOẠN CĂN

Người Hành xướng tụng BÀI CẦU HỒN lần thứ nhì, khi Đồng nhi tiếp đọc rồi thì lấy cái kéo cầm như khi

nãy (nhớ đừng tưởng cái kéo, chỉ tưởng cái “Cắc” của nó mà thôi) đoạn định Thần cho thấy thây chết, đi vòng chung quanh cắt bảy dây oan nghiệt ấy nơi:

1- Trên đầu (mỏ ác)     2- Ngay trán       3- Ngay cổ

4- Ngay tim                 5- Ngay hông bên trái

6- Dưới dạ dưới           7- Dươi xương khu.

Hễ cắt đủ bảy dây rồi, trao cái kéo cho người hầu Lễ, vào đứng tại đầu hàn tiếp tụng kinh cùng Đồng nhi cho mãn hồi thứ nhì.

 

HÀNH PHÉP ĐỘ THĂNG

            Người Hành lễ xướng tụng Kinh CẦU HỒN. Khi Đồng nhi tiếp tụng rồi thì cầm 9 cây nhang bên tay mặt. Tay trái bắt Ấn Hộ-Pháp để ngay trái tim, định thần vẽ chữ (.) trên thây kẻ chết, truyền Thần vô 9 cây nhang rồi thấy cho đặng thi hài hoặc còn nằm hoặc ngồi. Đưa chín mũi nhang ngay vào nguyệt cung (ngay miếng kính trước đầu hàn) định Thần, trục chơn thần của kẻ chết ngồi trên 9 cây nhang rồi nán đợi cho Chơn Thần thăng đủ ba Tam giới, nghĩa là ba bậc thăng rồi lại cầm vững cho Tam bửu nhập định đủ ba lần. Hễ thăng thì lên, trầm thì đoạ. Rồi giao 9 cây nhang cho người hầu lễ, đứng tụng tiếp Kinh  cho mãn hồi thứ ba.

 

CHÚ GIẢI KINH HÔN PHỐI

(Mystère d’union)

Cả cơ thể hữu vi của Tạo Hoá từ Càn khôn  thế giới cùng vạn vật đến loài người đều do khối lửa THÁI CỰC mà sanh ra. Khối Thái cực là chỉ một khối lửa..

Khối lửa ấy vì nhờ vật chất trong Càn khôn thế giới chụm vào càng ngày càng lớn, quá sức lớn thì chẳng còn trụ  nguyên  làm  một  đặng nữa, phải  phân đôi.  Hai khối

phân đôi ấy chạy khít nhau và xây tròn nơi không trung mau lẹ quá đỗi, chạm nhau biến hình ra như hai cây. Thoạt nhiên hai cây ấy xấp nhau mà thành chữ Thập, giống in như chong chóng của trẻ thường làm mà chơi đó vậy. Chong chóng ấy xoay rất mau, từ Đông qua Tây và vì sự vụt động quá lẹ, bốn cái đuôi chữ Thập ấy liền cuốn mà thành ra chữ VẠN. Những cuống đuôi chữ Vạn ấy đứt, liệng lửa cùng trong thế giới mà thành ra địa cầu (Tam Thiên Thế giái và Thất thập Nhị địa). Ấy cũng là những đóm lửa của Thái cực đã văng ra, nguội lại thành Địạ cầu.

            Hai không khí ấm lạnh do: nhiệt (Calorie) của Thái cực Hàn (Froid) của Càn Khôn tương khắc biến thành nguơn Khí. Cái nguơn Khí ấy y theo lời của Đức Nguyệt Tâm chứa đầy dẫy sanh quang (Vialité). Khí sanh Quang lại biến ra muôn hình vạn tượng mà tạo thành vạn vật toàn trong Càn khôn thế giới. Thật sự thì Thái cực chỉ sanh Tứ tượng  mà thôi gọi là Tứ Dương, nhưng bởi vận động giữa  không trung mau chóng quá đỗi mới biến bóng hình thêm bốn cánh. Bốn cánh ấy chỉ là bóng mà thôi nên gọi rằng Tứ Âm. Nhưng nhờ cái Tứ Âm ấy vốn là bốn khoản trống để cho Sanh Quang ra vào biến đổi mới có linh cảm hình tượng của vạn vật trong Càn khôn (cũng như chúng ta đánh trứng gà, biến ra hình này hình kia, rồi Thầy dùng huyền diệu Thiêng Liêng hoá sanh ra vạn vật). Mỗi hình thể của vạn vật không giống nhau là vì đó.

            Chúng ta đưa cả và hai tay hai chơn ra thì thành chữ Thập gọi là Tứ Dương hiệp lại với hình thể của đàn bà thì thành ra Tứ Âm nữa. Âm Dương tương hiệp thì mới đủ Bát Quái, mới ra cơ sanh hoá:

            - Nam là Tứ Dương.

            - Nữ là Tứ Âm

            Hành pháp bí mật chỉ hiệp Tứ Dương và Tứ Âm

của tinh thần đặng cho biến hoá thêm nữa, sản xuất thêm nữa, chẳng phải sanh hình thể của con mà thôi, mà sanh cả hồn phách của chúng nó nữa.

            Ấy vậy khi hành LỄ HÔN PHỐI phải biểu chàng rễ và cô dâu vào quì giữa Bửu Điện trên hết mọi người, dầu cho cha mẹ cũng phải quì sau (Quyền phép ấy Đạo chỉ coi rễ là Tứ Dương, dâu là Tứ Âm của Tạo Hoá mà thôi, ngoài nhơn luân và nhơn tình, Hội Thánh chẳng biết chi khác hơn nữa).

 

HÀNH PHÉP HÔN PHỐI

          Bảo Cô dâu và chàng rễ phải nắm tay nhau, tay tả của nam nắm tay hữu của nữ, tay hữu của Nam nắm tay hữu của nữ, thành ra Ấn Bát-Quái, đoạn vị hành pháp ngó ngay Thiên Nhãn định Thần lấy con mắt của mình viết chữ (.) trong con ngươi của Thiên Nhãn, rồi co chân trái lên viết chữ  (   ) đạp trên chữ (  ) ấy rút chơn mặt ký chữ Đinh (  ) gọi là đạp Đinh Giáp, day lưng lại ngó ngay vào đầu của con dâu và chàng rễ viết chữ (  ) ngó ngay Nê Hoàn nghĩa là mỏ ác của chúng nó, viết chữ cho lớn, đặng bao trùm cả hai mỏ ác, viết bằng con mắt (  ).

            Đợi chừng Thiên Nhãn giáng ngay Nê hoàn ấy, chụp trên Thần hai bàn tay ngay Thiên Nhãn và đỡ nó lên lưng bàn tay cho hiệp hai Thiên Nhãn ấy lại kề nhau  thì thấy mặt của CHÍ-TÔN hiện tượng, đoạn đỡ hình tượng của Chí-Tôn day lại ngay Thiên Nhãn mà cho nhập chung vào đó (nhớ đừng lo ra thì mất mà thành ra nguy hiểm cho hai người Nam Nữ ấy lắm). Khi cho nhập rồi thì để hình tượng ấy yên tịnh nơi Thiên Nhãn đứng cầu nguyện dùm cho hai trẻ dài dòng cả họ, hữu hạnh hữu phước, truyền kế không ngừng, nương nơi quyền Thiêng Liêng của Chí-Tôn

đặng tấn  hoá  trong   đường Thánh  Đức, nối  tóc  đến già,

đồng tịch đồng sàng, đồng sanh đồng tử.

Đoạn ngó ngay lên Thiên Nhãn của Chí-Tôn định thần trục Thiên Tượng ấy ra (nhớ lấy cho đủ hai con mắt) day lại lừa Thiên Tượng ấy ngay đầu hai trẻ trả lại như xưa, tức làm tiêu Thánh Tượng (hồi đem xuống cũng bắt Ấn Bát Quái Dương nằm trên Âm)

Đứng ngay giữa đôi đứa đọc bài thi của Đức Chí Tôn dạy làm phép Hôn phối:

Bài Thi:

Thiên ân thử nhựt tứ thành hôn,

Mãn thế bất ly thể dữ hồn.

Đạo-đức nhất tâm tu đảo cáo.

Chủ trung thị Ngã chí Thiên Tôn (1)

Rồi khuyên lơn hai trẻ và dặn rằng: phải giữ nhơn luân đạo nghĩa (dạy dỗ giữ vẹn nhơn luân và cho biết rằng quyền Hội-Thánh định không cho đặng lìa nhau cho đến trọn đời. Nếu như đôi lứa phản nhau, có lẽ phải sa đoạ Phong đô định tội) Khi dạy khuyên đôi trẻ rồi thì vị hành pháp vói tay nắm hai tay ngoài của nam và nữ đỡ đứng dậy sắp hai mặt vào nhau, xây cho hai đứa cặp nhau (đừng day lưng mà khổ cho hai trẻ) còn mình đi chính giữa, nắm tay hai trẻ dìu dắt đưa ra cho khỏi Toà Thánh, tức nhiên ngoài cửa Hiệp Thiên Đài mới cúi đầu từ tạ trở lại Điện)

             Ghi lại nguyên văn “BÍ TRUYỀN CHƠN PHÁP”

của Hội Thánh giữ bản quyền, được Ngài Hiến Pháp quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài kiểm duyệt và chỉnh văn ngày 12-8-1972

          Lời Bà tường thuật như vầy:

“Nhắc lại hồi Tôi mới gặp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Chú thích (1) Bài thi này là của Đức Chí-Tôn ban cho Bà Lâm Hương Thanh trong ngày thành hôn của Ông Nguyễn Ngọc Thơ và Bà. Chính Thầy làm Lễ Hôn phối cho:            

Độ nhằm ngày mùng 5 tháng 6 năm Bính-Dần (Mardi 15 Juillet 1926) Thầy giáng Cơ kêu hai Tôi quì trước Thiên bàn, Thầy ban ơn cho hai Tôi, Thầy làm phép Hôn-phối đầu tiên hết. (Phò loan có Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp). Thầy cho 4 câu thi cùng dạy ĐạoTại nhà ông Nguyễn-Ngọc-Thơ ở Tân Định (5-6 Bính Dần)

            Thầy,

            “Thơ, con với vợ con quì ngay giữa, nắm tay nhau:

Dạy con hiểu à!

Thầy bảo ông Nguyễn-Ngọc-Thơ viết ra Hán văn: dưới là bút tích của Ngài Thái Thơ Thanh(Trích: Tam vị Nữ Đầu sư)

天 恩 此 日 賜 成 婚

滿世 不 離 體 與 魂

道德 一 心 須 到 告

                             主 中 是 我 至 天 尊

 

 

        I- Lễ Trấn Thần Tòa Thánh

           “Sớm mai ngày mùng 6 tháng Giêng năm Đinh Hợi (dl 27-01-1947), Đức Phạm Hộ Pháp hành lễ Trấn Thần Toà Thánh và có ghi lời thuyết minh. (Lời ký chú của Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài đã thừa lịnh Đức Hộ Pháp) minh tả:

Khởi đầu:

Đức Hộ Pháp mặc Tiểu phục, dạy Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi, Truyền-Trạng Phạm-Ngọc-Trấn và các Chức sắc có trách nhiệm đồng theo Ngài đến Báo-Ân-Từ triều bái Đức Chí-Tôn xong (vì Quả Càn Khôn còn thờ nơi Báo Ân Từ), Ngài dùng nước Âm Dương cúng thời Mẹo hành pháp, xin Cam Lồ Thủy và một nhành dương giao cho Thừa Sử Lợi.  

Đức Hộ Pháp lấy 3 bó hương, hành pháp xong, Ngài giao cho Truyền Trạng Trấn. 

    1-Trấn Thần Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài:

Đức Ngài ra đi thẳng lại Đền Thánh là 9 giờ 28 phút. Ngài đứng  trước Đền-Thánh, ngó ngay Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài rải Cam Lồ Thủy và cầm bó hương hành pháp Trấn Thần.

Ý nghĩa là:

Từ đây, Đức Chí Tôn hằng để mắt dìu dẫn con cái của Ngài và mong mỏi được vui thấy con cái của Ngài về chầu Ngài nơi Bạch Ngọc Kinh, sau khi làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng của Ngài phú thác.”  

2-Trấn Thần tượng Đức Phật Di-Lạc:

Đoạn tiếp hành pháp Trấn Thần như thế lần lượt đến tượng Đức Phật Di-Lạc trên nóc Phi Tưởng Đài.

Đức Hộ Pháp nói:

  “Đức Phật Di-Lạc đã ngự vào tượng, ngồi thị chứng cho nhơn loại thập phương thế giới day hướng về Đền Thánh mà cầu nguyện Ngài ban ân huệ cho toàn sanh chúng.”

3-Trấn Thần Tượng Đức Quyền Giáo Tông và Bà Nữ Đầu Sư  Lâm Hương Thanh

Với ý nghĩa là:

Nhị vị ngự thường xuyên trước Đền Thánh để tiếp rước nhơn sanh tiến bước vào đường Chánh giáo, năng lo dìu dắt con cái Chí-Tôn mỗi khi vào Cầu nguyện và chiêm bái Đức Chí-Tôn”.

4-Trấn Thần  hai vị Thiện Thần và Ác Thần:

Pho tượng hai vị Thiện Thần và Ác Thần đặt hai bên mặt tiền Đền Thánh Toà Thánh Tây ninh, ở cấp hạ của Tịnh Tâm Đài.

Đức Phạm Hộ Pháp nói: 

“Đời thường lầm lạc, làm điều ác cho là thiện và thường lấy điều lành cho là ác. Nên từ đây, năng lực của Thiện Thần sẽ phô bày ra mặt đời, thế nào là chánh, việc nào là thiện, làm thế nào là phước cho thiên hạ rõ.

Còn Ác Thần thì phô bày ra mặt đời, thế nào là tà, việc nào là ác, sao gọi là tội, cho nhơn loại rõ.

Hai Ông Thần nầy rất linh hiển, dùng quyền năng thiêng liêng đưa ra thiệt tướng trong hai con đường: Phước và Tội, Siêu và Đọa, Sanh và Tử để cho con cái Đức Chí Tôn khỏi lầm lạc, hầu tránh khỏi con đường tự diệt. Đi vào con đường sanh, thì nhơn loại mới mong hòa bình được”.

5-Trấn Thần cây Cân Công Bình:

Đức Hộ Pháp vào cửa Đền Thánh, đứng ngay ngó vào Tịnh Tâm Điện, Trấn Thần cái Cân trên ngưỡng cửa. Ngài nói:

“Từ đây, cái Cân Công Bình thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã biến tướng thiệt hiện ở thế gian nầy để phân công chiết tội mà định phẩm vị Tòa sen cho toàn con cái của Ngài”.

6- Trấn Thần con Long Mã:

Đức Hộ-Pháp sang bên Nam, phía tả Đền Thánh, ngang Cửu Trùng Đài đúng 12 bước thẳng, trấn Thần con Long Mã.

Ngài giải: “Long Mã tượng trưng Đạo là cơ sanh hóa vạn vật, trên lưng nó có bộ Bát Quái Đồ Thơ và cây Bửu kiếm, nên có câu “Long Mã phụ Hà đồ”.

Ý nghĩa: Đạo xuất từ Đông, đem từ Đông sang Tây cứu vớt chúng sanh, đem Vạn linh trở về nơi sanh hóa, tránh cơ tự diệt, nên hình Long Mã chạy về Tây mà đầu ngó ngoéo về Đông. (Sau nầy Đức Ngài sẽ giải thêm hay là nhờ các bậc uyên thâm đạo đức giải rõ)          

7-Trấn Thần tượng Tam Thế Phật:

Đức Hộ-Pháp đến Bát-Quái-Đài, ngó lên trên, trấn Thần pho tượng Tam Thế Phật (Tam Thanh). 

- Brahma Phật đứng trên lưng con Thiên nga (Ngỗng trời) ngó tới (ngó hướng Tây), ấy là ngôi thứ nhứt, tượng trưng ngôi Thánh đức, thuộc về Cơ Sanh hóa, ấy là Đấng tự hữu hằng hữu, hữu nguyên hữu thỉ của vạn vật.

- Đức Phật Civa đứng trên Thất đầu Xà (rắn bảy đầu) ngó qua phía chánh Bắc, ấy là ngôi thứ hai tượng trưng phần Âm Dương: Cơ Sanh cũng là cơ Cơ Diệt, ấy là ngôi Bảo tồn. 

- Đức Phật Christna đứng trên con Giao long (Cá hóa rồng) ngó về phía chánh Nam ấy là ngôi thứ ba, tượng trưng cuộc tuần hoàn, tiên tri cho nhơn loại biết việc trí xảo thuộc Cơ Tranh đấu, cũng là cuối Hạ nguơn, khởi Thượng nguơn Tứ Chuyển.

 8-Trấn Thần  tám con Kim Mao Hẩu:

Đức Hộ Pháp trấn Thần hai con Kim Mao Hẩu ở

hai bên nấc thang bên hữu Đền Thánh, rồi Ngài vào Cửu Trùng Đài sang qua bên tả Đền  Thánh  trấn  Thần hai con

Kim Mao Hẩu ở nấc thang luôn.  

Giải: Con Kim Mao Hẩu rất mạnh và khỏe, tượng trưng cái năng lực tinh thần người tu, nhờ nó mà qua các từng Trời và về cùng Thầy.  

Ngày nay, Đền Thánh cất xong, Đức Chí Tôn cho tám con Kim Mao Hẩu xuống trần để trấn Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài tại thế, là không cho ai dùng bạo quyền nào mà chạm đến nó vậy. 

9-Trấn Thần 23 Thiên Nhãn bên ngoài Đền:

 Đức Hộ Pháp vào bên tả Cửu Trùng Đài, trấn Thần Thiên Nhãn xung quanh Tổ đình, khởi từ giữa xuống đến Bát-Quái-Đài, rồi sang qua bên hữu, hết thảy là 23 Thiên Nhãn ngó ra ngoài hành lang.

10- Trấn Thần bên trong Đền:

 Rồi Đức Ngài trở vào trong cửa bên hữu Cửu Trùng Đài, trấn Thần tượng Tam giáo Ngũ Chi, sang bên hữu trấn Thần tượng Bát Tiên: Hớn Chung Ly, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lý Thiết Quả, Hàn Tương Tử, Lữ Đồng Tân, Hà Tiên Cô, Lam Thể Hòa.  Sang bên tả Đức Hộ Pháp trấn Thần Thất Thánh: Lý Tịnh, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử, Na Tra, Kim Tra, Mộc tra.

         11-12- Trở xuống, Ngài trấn Thần chữ KHÍ và Thất Đầu Xà:.

Nơi Ngai của Đức Hộ Pháp ngự có một con rắn Thần 7 đầu, quấn vào thân dưới của Ngai, ngóc lên sau lưng 3 đầu, cúi xuống 4 đầu, cái mình quấn ngôi Thượng Phẩm, cái đuôi quấn ngôi Thượng Sanh.  

Rắn Thần 7 đầu tượng trưng con người có Thất tình: 3 đầu rắn ngó lên sau lưng Hộ Pháp có chữ: HỈ, ÁI, LẠC. Người tu nên luyện tập nâng đỡ 3 tình này tức là Mừng, Vui, Thương. Còn 4 tình: AI, NỘ, Ố, DỤC (buồn, giận, ghét, muốn) thì đè nén xuống, đừng cho ngóc lên.  

Đức Hộ-Pháp trấn pháp. Hành Bí pháp trong các Đàn Vía, Sóc, Vọng: khi Ngài đứng là Chuyển Pháp, Ngài ngồi là Trụ Pháp; nên khi Ngài ngồi, hai chân đạp lên 2 đầu: AI (bên tả), NỘ (bên hữu); hai tay đè: DỤC (bên tả), Ố (bên hữu).  

Đức Ngài nói:

Khi Hộ Pháp trấn trên Thất Đầu Xà là đè nén các vật dục ở thế nầy gom lại để đời khỏi cấu xé nhau, để Mừng, Vui, Thương cho mọi người chung hưởng, để gìn giữ đạo đức, tu hành dễ dàng, nước nhà thạnh trị. E sau nầy Hộ Pháp xuất ngoại, Thượng Sanh về ngự nơi đuôi, thì tự do Thất tình lôi cuốn cấu xé lẫn nhau, không phương kềm chế. Ấy là cơ thử thách nội và ngoại…

Ngày nào Hộ Pháp trấn lại trên Ngai thì mới có thể dễ dàng mọi việc cho Đời Đạo.

Quyền thiêng liêng phải vậy, đặng vay trả cho sạch oan khiên, mới đem thuần phong mỹ tục, vãn hồi hòa bình trật tự, tháng Thuấn ngày Nghiêu, trở nên thời Thượng cổ.”

Còn chữ KHÍ ở sau ngai Hộ Pháp là Khí Sanh Quang của Càn Khôn Vũ Trụ. Vạn vật nhờ Khí Sanh Quang hiện tượng ra mặt thế để bảo tồn Cơ Sanh hóa hay Tấn hóa của toàn thể vạn loại, tức là hữu sanh.   

            Đã xong Lễ Trấn Thần, Đức Phạm Hộ Pháp đứng giữa Đền Thánh, thì cô Lễ Sanh Hương Tranh hỏi:

- Bạch Thầy, còn 23 Thiên Nhãn ngó vào trong Đền Thánh, sao Thầy không trấn Thần luôn ? 

Ngài dạy rằng:

“Thiên Nhãn bên ngoài, thì để cho thiện nam tín nữ quì ở ngoài, khi chầu Lễ nếu chật chỗ thì ở ngoài xung quanh Đền Thánh lạy vào chiêm bái trong giờ hành Lễ. Đó cũng là nêu ra từ Đông, Tây, Nam, Bắc, dầu ven trời góc bể, nơi nào đến giờ lễ bái, day về hướng Đền Thánh lạy thì đều có Thiên Nhãn cả. Ấy là Thể pháp tượng trưng Bí pháp. Còn Thiên Nhãn ở vách ngó vô Đền Thánh, vì người đạo quì ngang, sợ ô-uế, không coi sóc cho tinh khiết được”.

 

II-Trấn Thần tượng Tam Thánh

          1- Đại cương về Tượng Tam Thánh:

Bức hình “Truyên ký Tượng Tam Thánh” đặt tại Tịnh-Tâm-Đài thuộc phạm vi Hiệp-Thiên Đài của Đền Thánh Toà Thánh Tây ninh. Bên cạnh bức Tượng Tam Thánh, có tấm bia để giải thích về bức tranh:

- Cụ NGUYỄN BỈNH KHIÊM: Nhà tiên tri danh tiếng lớn ở đời Mạt Lê, thi đậu Trạng Nguyên, tước vị là Trình Quốc Công, tục gọi là Trạng-Trình, giáng cơ tự xưng là Thanh Sơn Đạo Sĩ, tức là Sư Phó của Bạch Vân Động.

- Cụ VICTOR HUGO: Một Thi gia trứ danh của Pháp quốc, giáng cơ tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là Đệ tử của Cụ Nguyễn-Bĩnh-Khiêm ở Bạch-Vân Động.

- Cụ TÔN DẬT TIÊN: Đại-Cách-mạng-gia nước Trung Hoa, nhũ danh là Tôn-Văn, giáng cơ tự xưng là Trung Sơn Chơn Nhơn, tức là Đệ tử Cụ Nguyễn-Bĩnh

Khiêm ở Bạch Vân Động.

Ba vị Thánh-nhơn trên đây là Thiên-sứ đắc lịnh làm Hướng đạo cho nhơn loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước”.

            2- Nguồn gốc Tượng Tam Thánh:

Bức tượng Tam Thánh nầy do vị Hiền Tài Lê Minh Tòng vâng lịnh  Đức Hộ Pháp truyền họa, khuôn  khổ mỗi

bề:  2 m 80 X 1 m 90. Hình tượng bằng người thường.

- Đức Thanh Sơn cầm bút lông thỏ viết lên  8 chữ Hán.

- Đức Nguyệt Tâm cầm bút lông ngỗng viết 4 chữ Pháp.

- Đức Tôn Sơn cầm nghiên mực dùng cho việc viết chữ

           Hai Đấng đang viết trên bia đá những chữ, như:

* 8 chữ bằng Hán văn:

Thiên thượng - Thiên hạ - Bác ái -  Công bình      

          天 上     天 下     博 愛      公 平

* 4 chữ bằng Pháp-văn:

           DIEU et HUMANITÉ- AMOUR et JUSTICE

 

3- Trấn Thần Tượng Tam Thánh:

Đức Hộ-Pháp nói:

“Trấn Thần ba vị Thánh rất khó, vì phải kêu Chơn linh họ đến nhập vào tượng ảnh, mà muốn Chơn-linh họ đến phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng. Còn 9 cây nhang dùng để trấn Thần là 9 cái thang bắc lên Cửu Trùng-Thiên cho các Chơn-linh nương theo đó. Chẳng biết họ ở từng Trời thứ mấy mình cứ đưa lên đủ, họ gặp họ tới ngay. Quan hệ là trước khi trấn Thần, phải xem lại coi có tắt cây nhang nào không. Thảng như họ ở từng thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi, thành ra bị cách khoảng, họ không thể tới được. Bây giờ chúng ta chỉ thông công với các Đấng trong Cửu Thiên Khai Hóa, rồi đây cũng có ngày Bần Đạo kêu lên Đức Di-Lạc ở từng thứ 11 chưa biết chừng, khi ấy sẽ phải dùng đến 11 cây nhang, chớ không phải 9 cây nữa.”            

4-Giải thích Ba vị Thánh:

Khi Đức Hộ-Pháp Trấn Thần tượng ảnh Tam Thánh

xong, cả nhân viên tùng sự lui theo cửa hông trở ra, vòng ra cửa trước, đi vào Hiệp-Thiên-Đài, thỉnh Thánh Tượng đặt lên vách tường, ngó mặt ra trước cửa Đền-Thánh.
           Đức Hộ Pháp giải thích về Ba vị Thánh:

1. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
2. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ.
3. Đức Tôn Trung Sơn.

           Là đại diện của Hội-Thánh Ngoại-Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo Ngoại quốc (Missionnaires étrangers) cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên-Đài, day mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi Thiêng liêng của các Ngài..

            Cả ba  vị Thánh đều mặc Cổ phục.

Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn Trung Sơn có hào quang chiếu diệu, tượng trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung Hoa.

Cái khuôn xi măng đúc trên vách Hiệp-Thiên-Đài, từ ngày tạo tác Tổ đình, là để dành ngày nay đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó. Trước kia, Bần đạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông.         

 Ngày nay thời cuộc biến thiên, vị Hiền Tài LÊ MINH TÒNG ở Hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh cho vẽ tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến.       

           Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết vì Chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy.          

           Kể từ ngày 10-7 Mậu-Tý (dl 19-8-1948) tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp-Thiên-Đài là biểu hiệu cho Chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh Vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi đoan sự bành trướng ngoại giáo”.          

                  Cuộc lễ bế mạc lúc 9 giờ cùng ngày."

Tòa Thánh, ngày 10-7 Mậu-Tý (dl 19-8-1948)
Luật Sự VÕ QUANG TÂM tường thuật.

 

III- Trấn Pháp nơi Trí Huệ-Cung

Thiên Hỉ Động

            Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền Thánh đêm 14 tháng chạp năm Canh Dần (1950)

            “Ngày mai nầy Trấn Pháp Thiên Hỉ Động - Trí Huệ Cung. Bần Đạo lấy làm mừng đã làm tròn phận sự đặc biệt của Bần Đạo. Từ thử đến giờ Bần Đạo đã nhiều phen giảng giải về hình thể Đức Chí Tôn.

Bần Đạo đã gánh vác về Thể pháp Cửu Trùng Đài, tạo nghiệp cho Đạo là làm giùm cho thiên hạ chớ không phải phận sự của Bần Đạo. Ngày nay là ngày vui mừng của Bần Đạo hơn hết, là Bần Đạo còn sức khỏe đầy đủ cầm Bí Pháp của Đức Chí Tôn đã giao phó, ấy là phận sự đặc biệt của Bần Đạo đó vậy.

Hộ Pháp đến kỳ Long Hoa nầy cốt để rước Cửu nhị ức Nguyên Nhân là bạn chí thân của Người đã bị đọa lạc nơi hồng trần không phương giải thoát, muốn rước các Bạn chí thân của Bần Đạo, Đức Chí Tôn buộc phải lấy Pháp Giới tận độ chúng sanh.

Hôm nay là ngày mở cửa Thiêng Liêng và đưa nơi tay các Đấng Nguyên Nhân ấy là một quyền năng đặng tự giải thoát lấy mình hai món Bí Pháp ấy là:

1-Long Tu Phiến của Đức Cao Thượng Phẩm để lại.
2-Kim Tiên của Bần Đạo
.

Hiệp với ba vòng Vô Vi, tức nhiên Diệu Quang Tam Giáo hay là hình trạng Càn Khôn Võ Trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ Quang Khiếu của chúng ta đó vậy.

KIM TIÊN là gì? Là tượng hình ảnh điển lực điều

khiển Càn Khôn Võ Trụ mà chính nơi đó là điển lực tức nhiên là sanh lực đó vậy. Với nó mới có thể mở Đệ Bát Khiếu, trong thân thể con người có Thất Khiếu và còn có một khiếu vô hình là Huệ Quang Khiếu, vì nó là điển lực, nên nó mở Khiếu ấy mới được.

Nói rõ con người có Ngũ quan hữu tướng và Lục quan vô hình mà phải nhờ cây Kim Tiên ấy mới có đủ quyền hành mở Lục quan của mình đặng.

LONG TU PHIẾN có thể vận chuyển Càn Khôn Vũ Trụ, do nguơn khí đào độn sanh ra đó vậy. Nó có quyền đào độn nguơn khí, thâu hoạch nguơn khí để trong sanh lực.

Con người nắm được điều ấy là kẻ đắc Pháp, nhờ nó mới có thể luyện TINH hóa KHÍ, luyện KHÍ hóa THẦN được.

Ấy là Bí Pháp trấn tại Thiên Hỉ Động Trí Huệ Cung. Toàn thể ngó thấy không có gì hết, mà trong đó có quyền pháp vô biên, vô giới. Giải thoát đặng cùng chăng là do bao nhiêu đó.

 

IV- Ban phép lành và Trấn Thần

chợ Long Hoa.

          Long Hoa Thị, ngày 5 tháng 6 năm Tân Mão (1951)

            Đức Hộ-Pháp nói:

“Cái cơ Chuyển thế đã đến ngày lập: hiệp nhứt Đạo Giáo, khiến toàn thể con cái Đức Chí Tôn lo quay về một mối sống dưới lá cờ NHÂN NGHĨA của Đạo Cao Đài. Ngoài thì được sự bảo vệ của Quân Đội, trong thì được sự dìu dắt của Hội Thánh, càng ngày nhơn sanh qui tụ càng đông, vì thế nguồn sanh sống càng bị bóp nghẹt, nên Bần Đạo cho lập gấp cái Chợ nầy để tạo lại một nguồn sanh sống dễ dàng cho nhơn sanh.

Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần-Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển thế và huyền diệu Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy.”

 

B- ĐỨC HỘ-PHÁP NHẬP TỊNH

 1-Nhập Tịnh 3 tháng nơi Trí Huệ Cung:

Đức Hộ-pháp thuyết tại Đền Thánh, đêm 17-04 năm Tân Mão (1951)

“Kể từ ngày nhập tịnh nơi Trí Huệ Cung, chắc con cái Đức Chí Tôn đều đánh dấu hỏi? Đức Hộ Pháp nhập tịnh để làm gì? Muốn làm gì? Nghĩa lý gì mà nhập Trí Huệ Cung trong 3 tháng nay?

- Vậy Bần Đạo giải rõ hành tàng trong 3 tháng mà Bần Đạo đã làm, cái hành tàng đó cũ kỹ chớ không mấy lạ gì. Cái hành tàng về mặt Đạo giống như 40 ngày của Đức Chúa Jésus ra ngoài sa mạc cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban bố hồng ân cho toàn nhơn loại, đặng đem cơ quan Cứu thế của Ngài giao cho khắp xã hội nhơn quần được hưởng, giống như Đức Thích Ca vào vườn Bồ đề ngồi thoàn định đặng xin giải thoát cho chúng sanh.

Còn về mặt thế, nó giống như Vua David vì tội tình nhơn loại mà buổi nọ ra đồng Sa mạc cầu đảo, xin giải pháp cứu khổ cho dân Y-sơ-Ra-Ên, giống như Vua Hạ Võ mặc hài gai đội nón lá, chịu phong trần đặng cầu đảo cho quốc dân khỏi tội.

Muốn nói rõ hành tàng căn mạng của toàn thể nhơn loại và toàn thể quốc dân Việt Nam đã làm cho Bần Đạo phải chịu 3 tháng nơi chốn tịch mịch, để cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban hồng ân đặc biệt đặng cứu rỗi lấy họ, là đem cơ quan Cứu khổ của Ngài đã thiệt hiện cho toàn thể nhơn loại nhứt là sắc dân yêu ái đồng chủng cùng Bần Đạo là sắc dân Việt Nam.

Chúng ta thử hỏi, một người tượng trưng tinh thần của một dân tộc, tinh thần đạo đức cho nước Việt Nam đã có sứ mạng đem tinh thần đạo đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa lại cái hành tàng hung ác của người đời cho thành giọt nước Thiêng liêng của Đức Chí Tôn, nước Thiêng liêng đạo đức của Ngài gội rửa con đường Thánh Đức cho sạch-sẽ đừng cho nhơ bẩn, ấy là nước chí Thánh của Ngài, cầm giọt Cam lồ đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi mặt địa cầu nầy, người ấy còn phải làm thế nào hơn?

Ôi! Cái cao vọng buổi nầy ai cũng muốn làm, được hay chăng không phải do quyền của mình, kẻ xin thì khác, mà kẻ cho lại khác.

Hại thay, tạo nghiệp của nhơn loại từ khi có nơi

mặt địa cầu nầy, đến bao giờ mới bảo vệ được sanh mạng của họ, cấp tiến trong con đường giải khổ, họ đã gây thêm trong sự nghiệp của họ tội chướng thì nhiều, mà phúc hậu lại ít, biểu sao không có trường lưu huyết!.

Nếu chúng ta dở lịch sử ra xem từ năm mươi năm nay, khởi đầu thế kỷ hai mươi dĩ chí đến 1951, không buổi nào nhơn loại hưởng đặng hanh phúc Hòa bình, chỉ tương tàn tương sát với nhau mà thôi. Nếu không có quyền năng Thiêng Liêng kia thì Bần Đạo nói quả quyết rằng: Không ai cứu chữa tội tình nhơn loại được. Chúng ta thương nhơn loại không bằng Cha sanh ra con, đã sanh họ ra vừa hình thể, vừa linh hồn tức là Đại Từ Phụ. Ngài đã cầm quyền sanh mạng của nhơn loại mà không cứu chữa tội tình của nhơn loại được, phải chịu khoanh tay ngồi để lụy, vì căn quả của nhơn loại đã định vậy. Chính mình Đức Chí Tôn cũng không phương sửa cải, nếu có phương sửa cải, thì không cần gì Bần Đạo phải vào Trí Huệ Cung cầu khẩn, Ngài đã làm trước rồi.

May thay! Nhờ đạo tâm của toàn Thánh Thể của Ngài và toàn con cái nam, nữ cũng vậy, nhứt là đám thiếu niên đã làm cho cảm động Đức Chí Tôn, nên Ngài cho Bần Đạo hội diện cùng quyền năng thiêng liêng bốn phen trong ba tháng.

Bần Đạo nói rằng: Cái định mệnh của nhơn loại, cũng như cái định mạng của toàn thể quốc dân Việt Nam, trong giờ phút nầy ở trong tay Đức Chí Tôn và Bần Đạo dám quả quyết rằng: Luật nhơn quả của nhơn loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc được.

Cái mơ vọng của thiên hạ đạt đặng cùng chăng là khi nào khối Thánh đức của họ cao hơn phàm tâm của họ, thì giờ phút ấy hạnh phúc của họ mới có, và cơ quan cứu

khổ của Đức Chí Tôn mới thiệt hiện được.”

2- Đức Chí-Tôn mở con đường  Thiêng liêng Hằng sống

 Trí Huệ Cung: 16 tháng chạp, Canh Dần (1950)

            “Ngày hôm nay nếu chúng ta biết đặng hồng ân của

Đức Chí Tôn ban thưởng thế nào, thì đây là một ngày vui của chúng ta không thế gì tả đặng. Bởi giờ phút nầy, sau khi 20 năm chúng ta chịu khổ hạnh vì Đạo mà lăn lóc, cực nhọc về phần xác lẫn phần hồn.

Ngày nay Đức Chí Tôn đã mở cho chúng ta một con

đường Thiêng Liêng Hằng Sống và Bần Đạo đã vâng mạng lịnh Đức Ngài tạo dựng một bến giải thoát cho toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy.

Bần Đạo nói: từ đây, kể từ ngày nay cửa Thiêng Liêng của Đạo đã mở rộng, Bần Đạo kêu toàn thể con cái Đức Chí Tôn, ai hiểu biết mình đứng trong hàng phẩm Cửu nhị ức Nguyên Nhân (92 Ức Nguyên Nhân) hãy tỉnh mộng lại đặng về cùng Đức Chí Tôn.

Cửa nầy là cửa của các người đến đoạt Pháp  đặng giải thoát lấy mình, đến trong lòng Đức Chí Tôn, vì Đức Chí Tôn đã đưa tay ra nâng đỡ  mà chúng ta không đến, không tưởng nghĩ đến, thì sau nầy ắt sẽ bị đọa lạc nơi cõi Phong Đô. Giờ phút ấy không còn trách Đức Chí Tôn rằng: không thương yêu con cái của Người, không đem cơ quan tận độ chúng sanh để nơi mặt địa cầu nầy cứu vớt nữa. Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể con cái Đức ChíTôn một phen nữa.

 

3- Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ

chúng sanh:

           Trí Huệ Cung, 26 tháng chạp Canh Dần (1950)

            “Các Bạn, ngày nay Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp; giờ phút nầy là người Bạn tu của các Bạn mà thôi. Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp đặng đến với các con cái của Ngài, với một tình nồng nàn, Hộ Pháp cũng là người Bạn Thiêng Liêng về phần hồn với con cái của Ngài.

Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh đã xuất hiện nơi cửa Đạo Cao Đài nầy. Bần Đạo nói rằng: nó không phải của ta, của đặc biệt của chúng ta, mà nó là của toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy; bởi nó tượng trưng hình ảnh Chí Linh Đức Chí Tôn nơi thế nầy, mà hễ tượng trưng hình ảnh Chí Linh tức nhiên không có quyền nào nắm nó được, vì nó là của đặc biệt của toàn thể nhơn loại, tức nhiên toàn thể con cái Đức Chí Tôn. Nó không có phép phân biệt đảng phái, Tôn giáo hay nòi giống nơi mặt địa cầu nầy.

Cửa Thiên Hỉ Động là cửa Thiêng Liêng Hằng Sống của toàn thể các đẳng chơn linh, nên nó không chịu thúc phược hay là nô lệ cho một tư tưởng nào, hơn là tượng trưng cái quyền vô tận, vô đối của Đấng Chí Linh, hằng tạo dựng đại nghiệp cho con cái của Ngài nơi mặt địa cầu nầy, tức nhiên toàn thể nhơn loại đó vậy.

Nó đã đến, đến đặng chi?

Đặng làm Bạn chí thân cùng toàn thể con cái của Ngài, thì nó phải có độ lượng yêu ái nồng nàn, nó không phân biệt tư tưởng hay hình thể, nếu nó có còn tư tâm để cả tinh thần nơi một chủ hướng nào, thì nó đã phạm quyền vô biên của Đức Chí Tôn tại thế đó vậy.

Ấy vậy, toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, các Bạn đồng cùng Bần Đạo không phân biệt đảng phái hay nòi giống tư tưởng nào, Bần Đạo đã thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn đến làm Bạn với các con cái của Ngài; nhứt là Cửu nhị ức Nguyên Nhân tỉnh mộng lại. Những hình thể của thiên hạ đã do nơi trí óc con người từ thử đến giờ, chưa có ai đặng quyền nắm cơ giải thoát, thì giờ phút nầy Cửu nhị ức Nguyên Nhân vẫn còn đọa lạc.

Bần Đạo cả tiếng kêu con cái Đức Chí Tôn nhứt là Cửu nhị ức Nguyên Nhân tỉnh mộng lại, ngó nơi Trí Huệ Cung phải vào cửa ấy mới đoạt đặng mà thôi, đoạt cơ giải thoát đặng, mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mà Đức Chí Tôn đã tạo dựng riêng biệt dành để cho mọi người.”

 

C- HÀNH  BÍ-PHÁP

 

           1- Đức Chí-Tôn hành pháp tại Kiêm biên  

Đức Hộ-Pháp thuyết tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 24 tháng 5 năm Mậu Tý (dl. 30-06-1948)

            “Bần Ðạo nhớ khi lên mở Hội Thánh Ngoại Giáo trên Kiêm Biên năm 1927, đặng truyền giáo, Ðức Chí Tôn cho vị Phối Sư Hương Lự của chúng ta đây được thông công cùng Ngài, nhờ nghe, nhờ thấy, truyền pháp cho Bần Ðạo.

Khi nọ, Chí Tôn biểu Bần Ðạo lại kệ “bàn viết” có sắp một dãy nhựt trình đặng rút ra hai tờ. Ngài lại dạy Chị chúng ta là Bà Phối Sư Bảy đứng bắt ấn, kế Bần Ðạo trải hai tờ nhựt trình sau lưng mà bà Chị vẫn không biết. Tới lúc bắt Ấn rồi, Bần Ðạo thưa “Ðã trải rồi”. Tức thì bà Chị nhảy ngược lại, đạp hai tờ nhựt trình. Bần Ðạo không hiểu nghĩa gì. Ðức Chí Tôn biểu coi hai chơn đạp cái gì ?

Bần Ðạo coi chơn trước giở lên là hình Tưởng Giới Thạch, đạp ngay trên đầu, còn chơn sau Bần Ðạo biểu giở nhón lên, coi thấy hình Roosevelt, quan Tổng Thống của nước Mỹ đạp ngay ngực và miệng. Ðức Chí Tôn nói với Bần Ðạo rằng:

- "Một ngày kia Trung Hoa sẽ thờ phụng Ðạo đáo để, còn nước Mỹ sẽ lãnh trách nhậm đi truyền giáo toàn cầu”.

Ngày nay, chúng ta đã thấy tưởng chừng như Chí Tôn đã khiến mấy vị phóng viên bên Mỹ đến lấy hình trọn vẹn của Ðạo, đủ cả chi tiết, Kinh Luật đem về xứ để truyền bá, thì mấy vị nầy chẳng khác như Ðức Tam Tạng ngày xưa đến Ấn Ðộ thỉnh Kinh. Bần Ðạo dám chắc sự bí mật mà Bần Ðạo thấy Chí Tôn Hành pháp buổi nọ, đã kết liễu ngày hôm nay.

Ấy vậy, chúng ta phải chịu nhọc một chút đặng nghinh tiếp họ, trong buổi lễ nầy.

Bần Ðạo tưởng khi những người có mặt ngồi tại đây hầu lễ nầy, biết chừng đâu, cũng sẽ được hạnh phúc như đi truyền giáo bên Mỹ sau này mà chớ.!

Bần Ðạo để lời cám ơn toàn cả nam nữ và các BÍ PHÁP ấy chúng ta sẽ thấy Chí Tôn làm thành tướng trong thời gian ngắn ngủi sau đây.”

 

2- Đức Hộ Pháp "Ban Phép Lành" 

 Đền Thánh, đêm 01-01- Ất Mùi (24-01-1955)

“Đêm nay, đêm giao thừa năm Ất Mùi. Cũng như các năm trước, Bần Đạo đã nhớ dường như Đức Chí Tôn khi mở Đạo ngày 15-10 năm Bính-Dần tại Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén). Qua đầu năm Đinh Mão cũng giờ này, cũng đêm nay, khi hầu Đàn rồi phò loan Đức Chí Tôn - Ngài biểu cả thảy con cái của Ngài hiện diện nơi đó ra:

“Thầy đưa Cơ lên các con chung ngang qua Cơ Thầy ban Phép Lành cho các con”.

Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo bị Đức Chí Tôn xách đứng lên ra ngay giữa Đại Điện đưa cần Cơ lên cho cả thảy con cái của Ngài Nam Nữ chung ngang qua.

Bần Đạo vâng mạng lịnh của Đức Chí Tôn, đêm nay Bần Đạo Ban Phép Lành cho toàn cả con cái của Ngài Nam, Nữ. Cả thảy cầu nguyện Đức Chí Tôn chan rưới “Hồng Ân Thiêng Liêng”, Hồng Ân của Ngài rải khắp cho con cái Nam, Nữ.

Thơ Xuân đầu năm Ất Mùi.

Đêm nay Bần Đạo không giảng Đạo chỉ đọc bức

thơ của Bần Đạo gởi cho toàn cả Quốc Dân Việt Nam. Tiếp theo bức thơ Bần Đạo có làm một bảng “Tuyên Ngôn” gởi các Quốc Trưởng và các nhà cầm vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Lát nữa Bần Đạo sẽ giải nghĩa bức thơ này sơ lược cho nghe.

Bây giờ Bần Đạo đọc bức thơ Bần Đạo gởi cho toàn Quốc Dân Việt Nam:

Bức thơ Xuân gởi cho toàn thể đồng bào Việt Nam

đầu năm Ất-Mùi của Đức Hộ-Pháp

Giáo chủ Đạo Cao-Đài

Cùng toàn cả Quốc Dân đồng bào Việt Nam,

Nhơn dịp ngày Xuân năm Ất Mùi, Bần Đạo thành tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn chan rưới hồng ân cho toàn dân nước Việt đặng mau thoát khỏi ly loạn tương tàn. Sau nữa Bần Đạo có mấy lời thống thiết ngõ cùng toàn thể quốc dân.

Trót mười năm quật cường giải ách lệ thuộc, thâu hoạch độc lập cho Tổ quốc giống nòi thì toàn thể đồng bào đã góp vào biết bao nhiêu xương máu và đau khổ. Lập trường tranh đấu thâu hoạch cho kỳ đặng hạnh phúc tự do cơm áo của nòi giống sau 80 năm đô hộ, đã khiến cho

lòng ái quốc nồng nàn của mỗi công dân Việt Nam để tâm

vào một chí hướng là Độc Lập và Thống Nhứt non sông.

Hại thay! Cơ cấu tranh đấu cho kỳ đặng ấy nó đã chia rẽ dân tộc ra nhiều phương pháp và nhiều chí hướng: Việt Minh là gì ? Và Quốc Gia là gì?

Thì cũng là đồng bào Việt Nam tìm phương tranh đấu. Nhưng các danh từ và nhãn hiệu ấy chẳng lẽ có năng lực đặng chia rẽ con cái của một nước, một chủng tộc và xem lẫn nhau là kẻ tử thù?

Đau đớn thay nạn tương tàn tương sát đã xảy ra cũng do nơi định nghĩa bất đồng của các phương pháp và

danh từ tranh đấu.!

Từ ngày mùng 9 tháng 3 năm 1945 dương lịch, cuộc giải phóng dân tộc đã khởi đầu. Các biện pháp đem thắng lợi cho nước nhà hôm nay cũng chưa thâu hoạch đặng trọn vẹn, lại còn gây thêm nạn qua phân lãnh thổ: Từ vĩ tuyến 17 đổ vô là của khối Quốc Gia, còn vĩ tuyến 17 đổ ra là của Việt Minh làm chủ. Nạn nhị Chúa phân tranh Nguyễn Trịnh ngày xưa đã biểu diễn lại.

Bần Đạo thử hỏi cuộc tranh đấu giải ách lệ thuộc đặng đem hạnh phúc đó lại cho ai?

Phải chăng cho Tổ Quốc và cho toàn thể đồng bào thì lý ra chẳng lẽ có một nguyên cớ nào làm cho nòi giống Việt nầy chia phân cho đặng. Chủng tộc duy có một thì Hoàng Đồ chỉ có một. Rồi ta lại thử hỏi: Ai đã gây nên nội loạn ly tán giống nòi? Phải chăng vì năng lực ngoại bang đã gây nạn phân chia tộc chủng.?

Hai chí hướng đương nhiên của Quốc tế và lý thuyết Dân chủ xã hội và Cộng sản xã hội. Hai lý thuyết ấy đều hứa hẹn rằng nhân loại phải duy tân và cải tổ xã hội, vì tổ chức xã hội đương nhiên đã gây thất vọng cho nhân loại quá nhiều nên đem lại cho họ nhiều đau thảm hơn là hạnh phúc. Đôi bên đều hứa hẹn tìm một phương pháp sửa chữa đặng tìm cái hay trừ cái dở, lời hứa hẹn ấy đã thấm nhuần trong trí não đau khổ của nhân loại nhất là hạng bần dân và các quốc gia lạc hậu đều mong ước chóng được thực hiện điều ấy.

Hai triết lý xã hội mới mẻ kia đương tranh đấu đặng thâu hoạch tín nhiệm của toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này. Cuộc tranh đấu của họ đã hiển nhiên kịch liệt và hỗn độn nhưng họ cũng đã đủ năng lực phân chia nhân

loại làm đôi chí hướng.

Hại nỗi, hạnh phúc đâu chẳng thấy, chỉ gây cho nhân loại một tấm thảm kịch tương sát, tương tàn. Ta nên để đức tin cho thời gian và không gian định nên hư của họ, nhưng hiển nhiên hôm nay ta chịu biết bao nhiêu đau khổ. Ta muốn cho vay đặng hưởng lợi, mà lợi đâu chẳng thấy vì hứa hẹn ấy chỉ với lỗ miệng, không bảo kê, không chứng chắc mà giờ phút nầy ta bị lỗ vốn một cách đau đớn và oan uổng.

Cuộc chạy theo bóng bỏ hình của nòi giống Việt Nam từ xưa đã vậy; nó đã làm nên bịnh chủng tộc. Đồng bào sẽ hỏi Bần Đạo dùng phương pháp nào để trừ hại thì Bần Đạo chỉ trả lời một cách đơn giản như thế này:

- Ngày nào cả chủng tộc Việt Nam đặng định tỉnh trong Quốc hồn của họ thì họ mới có thể cố thủ và bảo vệ sanh tồn của họ.

- Ngày nào lòng ái quốc nồng nàn của nước Việt Nam thoát khỏi lợi dụng đặng biến thành một ngọn lửa thiêng dâng lên bàn thờ Tổ Quốc của họ thì họ mới bảo thủ được trọn vẹn Hoàng Đồ cùng tộc chủng.

- Ngày nào đầu óc của cả khối Quốc Dân biết trọng dĩ vãng lịch sử của mình rồi định phận cho mình xứng đáng làm một nước đủ liệt cường, đủ uy tín hầu đối diện cùng Quốc Tế rồi chủ định số phận của mình do năng lực của mình, không ỷ lại nơi một ngoại bang nào thì ngày ấy mới giải ách lệ thuộc về tinh thần lẫn vật chất của mình mới đặng.

Tình thế đương nhiên là Bắc Việt đã bị lệ thuộc của Trung Cộng, còn Nam thì bị sống gởi nơi tay người, thì kiếp số tương lai của ta chưa biết nương nơi đâu mà an đặng. Nếu tình thế này mà kéo dài tới mãi thì hòa bình của họ đã hứa hẹn cùng ta thì là mộng ảo.

Bần Đạo ước mong và cầu xin cho toàn thể đồng bào sáng suốt hơn đặng tự định số mạng và tương lai của

mình.

Bần Đạo để lời chào mừng toàn thể đồng bào và cầu chúc cho các gia đình đều hạnh phúc.

            Bức thơ Bần Đạo có gởi cho đài phát thanh Sài Gòn, đêm nay có lẽ giờ này đã đọc rồi.

Cái nạn qua phân lãnh thổ, Bần Đạo nói sẽ làm cho nhơn loại đau khổ và nguy hiểm không thể tưởng tượng vì năng lực tàn phá của võ khí tối tân nhứt là bom nguyên tử. Nếu nhơn loại không rán sức đem hòa bình hạnh phúc do con đường thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã đến thì nhơn loại sẽ bị tiêu diệt. Nhơn loại mắc nạn tiêu diệt ấy là do tội tình của họ. Một điều Bần Đạo nói cho nước Pháp biết rằng: “Sắc dân này không quen chịu lệ thuộc, cả sự tranh đấu đặng giải ách lệ thuộc của họ đối với nòi giống Trung Quốc buổi nọ không ai cản họ được. Hốt Tất Liệt thâu cả Hoàng đồ bên Âu Châu, đặt gót tới Việt Nam bị thảm bại”.

Bần Đạo xin hai chánh phủ phải hiệp với nhau làm một và toàn thể quốc dân Việt Nam không phân biệt đảng phái, Tôn Giáo phải hiệp nhau làm một đừng chia đôi ra. Bần Đạo cầu xin họ sáng suốt đặng định tương lai mình, do mình vi chủ không muốn cầu ai. Nhứt là nước Việt Nam nhờ Pháp nói với Mỹ. Nước Việt Nam đã đánh đổ quyền hành của Pháp, không muốn quyền hành nào thay thế là vậy.

Đạo mở tức là Cơ Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn:

 

3- HỘ PHÁP Hành Pháp mỗi khi

vô Cúng Đàn

Ðền Thánh, đêm 14-2- Mậu Tý (dl. 24-03-1948)

Hôm nay Bần Ðạo chẳng phải thuyết Đạo.

Bần Ðạo chỉ nói chuyện mà thôi: Nói chuyện Hộ Pháp, mỗi phen vô CÚNG ĐÀN làm việc chi, theo như lời Bần Ðạo đã hứa.

Bần Ðạo nói đây để cả thảy được biết điều ấy trọng hệ như thế nào, đặng giữ gìn và giúp Bần Ðạo mỗi phen HÀNH PHÁP được dễ dàng một chút. Bần Ðạo nói hôm nay, để đêm mai có nhiều thì giờ giảng những điều thiết yếu hơn, trọng hệ hơn.

- Mỗi phen nhập Đàn, hễ trống chuông rồi, thì tất cả đi vô, cả thảy đi vô thong thả, chỉ có Bần Ðạo thật bối rối. Bước lên Ngai rồi, trụ Pháp lại, vẽ bùa niệm chú. Câu chú mà khi thượng sớ, chúng ta thường nghe đọc “Tam Châu Bát Bộ Hộ-Pháp Thiên-Tôn”. Thật sự thì như vầy “TAM THIÊN THẾ GIÁI HỘ PHÁP GIÁNG LÂM”. Từ trước đến giờ, các bậc tiền bối của chúng ta đã để như nói trên nên không thể sửa cải được, phải để y như vậy.

Khi bái đàn rồi cả thảy quì tụng kinh, còn Bần Ðạo tịnh niệm, mỗi câu Kinh mấy em đọc vẫn dễ, vì thuộc mà đọc thôi, riêng Bần Ðạo mỗi câu Kinh phải mật niệm, tụ hết cả nghĩa lý của nó dâng lên Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng. Rồi còn điều nầy rắc rối hơn hết, hễ khi nào cả thảy tụng rồi bài Kinh Chí Tôn hoặc Kinh Tam Giáo: khi Bần Ðạo thấy nín hết, buổi đó đem hết tinh thần trụ lại, dâng lời mặc niệm ấy vào Bát Quái Ðài. Ðến khi tất cả niệm Ngũ nguyện cũng vậy, Bần Ðạo định tâm, dồn cả đức tin biến thành một Huệ-quang chiếu diệu đem vào Bát-Quái-Ðài rồi, đợi cho Bát-Quái-Ðài trả lời, khi ấy ở trong đó ánh sáng tủa ra, Bần Ðạo cúi đầu niệm thế cho cả thảy.

Còn dâng Tam Bửu: Bần Ðạo hiểu cả nghĩa lý của nó đang khi dâng Bông, cả thảy hình thể con cái của Chí Tôn tức là Thánh Thể của Ngài, trụ hết xác Thánh đó dâng cho Ngài đặng Ngài làm phương cứu thế. Ðó là dâng Bông.

Tới dâng rượu: cả thảy khi dứt câu Kinh, nín lặng hết, Bần Ðạo vận dụng cả trí não tinh thần, đem đức tin của cả thảy dâng vào Bát Quái Ðài.

Tới dâng Trà: là dâng cả Linh hồn cho Chí Tôn. Bần Ðạo để cả tinh thần trụ lại, đem linh hồn của cả con cái Chí Tôn dâng cho Ngài.

Khi các người Cầu nguyện, buổi cầu nguyện biết vậy thì nguyện như vậy thôi, còn Bần Ðạo phải trụ hết tinh thần định trở lại, đem cả những lời cầu nguyện ấy đặng dâng cho Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng.

Khi Chí Tôn truyền cho Pháp ấy, Bần Ðạo nghĩ rằng: Ðó là chiếu theo Cổ pháp của nhà Phật buổi trước, nhứt là Thiền Môn mỗi khi làm chay, thí của, cầu siêu, hay tuần tự chi đều rước một vị Hòa Thượng trụ trì đến. Không gì khác hơn là Bí-pháp của Chí Tôn trụ thần. Bần Ðạo dám chắc rằng không ai biết, họ tụng kinh như hát mà thôi, không ai để hết tinh thần vào câu kinh, nên mấy thầy chùa gõ mõ tụng kinh có ăn thua gì. Trọng hệ là vị Hòa Thượng trụ trì ngồi hành pháp, nhưng không hiểu họ có biết mà làm y theo đó hay không? Cái trọng hệ ấy, nếu ai làm cho y, thì là trúng với Bí pháp. Tiểu Ðàn thì vậy.

Còn Ðại Ðàn lại còn rối cho Hộ Pháp hơn nữa, là có ba ấn: Thượng Nguơn, Trung Nguơn, Hạ Nguơn, ấn ấy không phải do tay Hộ Pháp không? Khi đứng lên Ngai rồi bắt ấn Hộ Pháp, lấy cả Tam Bộ Thiêng Liêng tức là sanh khí mà ta thấy trước mắt tỏa ra cùng khắp. Rồi đến trụ Thần lại bao trùm cả trái đất nầy như vòng bao một trái cây gì vậy, để cái cuống lên trên, đem dâng cho Chí Tôn ngự.

Kế dâng Bông, bắt Ấn Thượng Nguơn dưới đạp Ngưu Ðẩu, tay đưa Gián Ma Xử lên hiệp với chữ Khí, đem Khí ấy đưa ra cả Càn Khôn thế giới. Ấn Thượng Nguơn làm chủ chữ Khí, đem Khí ấy hiệp hết cả Ngươn Khí đặng bao trùm vũ trụ.

Ðến Trung Nguơn bắt Ấn Hiệp Chưởng biến hóa, Gián Ma Xử để nằm ngang, đuôi bên Thế, cán bên Ðạo, ý nghĩa Ðạo cầm cán đặng trị Ðời. Bắt ấn Hiệp Chưởng, cầm cả cơ pháp của vạn vật biến sanh đặng bảo tồn không cho tương tranh, tự diệt nhau.

Tới Hạ Nguơn, tay tả thuộc Dương để trên, tay hữu thuộc Âm để dưới, rồi để Gián Ma Xử chúi xuống, trụ Thần đem cả Càn Khôn hiệp cả vạn vật. Bắt ba Ấn phải trụ thần, làm sao cho ấn ấy đừng thất pháp. Cho nên ban sơ, buổi Chí Tôn mới giao cho Bần Ðạo tại Từ Lâm Tự, cái khó là trí óc vẫn lo ra, vì không quen, không phải mình làm thầy phù, thầy pháp gì ổng giao cho học mãi làm không trúng. Vì cớ nên mới có quỉ lộng tại Từ Lâm Tự buổi nọ, các Ấn khác của Hộ Pháp có linh hay không mà quỉ lộng? Ấy là Thiên Cơ khiến vậy. Chí Tôn mở Tam Thập Lục Ðộng coi có phá nổi Ngài không? Có thể làm cho tiêu diệt nền Chánh Giáo không? Ðể cho chúng sanh thí nghiệm mà thay quyền năng vô tận của Ngài. Buổi nọ vì thời gian ngắn ngủi, nên công việc chưa rành rẽ, vì không đủ thì giờ để chuyên luyện, hoặc cho là chưa trọng hệ cho lắm, nên có điều sơ lược. Ðó là Thánh ý của Ðức Chí Tôn muốn như vậy.

Trong một thời Cúng, Bần Ðạo đã căn dặn nhiều phen trọng hệ hơn hết, là khi Dâng Tam Bửu, dầu cho tinh thần suốt buổi Cúng có nhiều lúc lo ra đi nữa, đến khi Dâng Tam Bửu, khuyên cả thảy định thần đặng mật niệm, dâng ba bửu trọng hệ cho Chí Tôn, tức là giúp sức Bần Ðạo hành pháp dễ dàng một chút đó.”

 

4- Vía Đức Phật Quan-Âm Đức Hộ-Pháp HÀNH PHÁP trong thời Cúng Đàn

Đền Thánh đêm 18 /02 năm Nhâm Thìn (1952)

            Mỗi kỳ Đại Đàn kể từ 12 giờ cho đến 2 giờ, trong hai giờ đồng hồ nếu mấy người mặc một bộ đồ võ phục như vầy, có buộc dây như Tôi, chịu thử như Tôi coi ra sao mấy người biết. Từ lúc mới vô dĩ chí cho tới mãn lễ, không có lúc nào ở không, luôn luôn hành pháp không nghỉ, tới xong lễ lại lên giảng đài giáo Đạo cho con cái Đức Chí Tôn, nếu ngày kia có tuổi thêm chút nữa, chắc làm không nỗi, không thể đứng nỗi, chịu không nỗi nữa.

Hạng nhứt dòm trở lại thấy họ làm biếng đi Cúng, thấy nó não nề làm sao! Thối chí làm sao! Bần Đạo cho hay lần này là lần chót, ngày giờ nào có Đại lễ như vầy, Bần Đạo ngó thấy trước mắt nếu còn sự biếng nhác của con cái Đức Chí Tôn, Bần Đạo không thuyết Đạo nữa, lần này là lần chót!

Đêm nay Bần Đạo thuyết cái đề rất trọng yếu là:

       Con người đi tìm Đạo hay Đạo đi tìm người?

Từ Thượng Cổ đến giờ đã lắm người tự nhiên biết rằng: Cả cái khuôn luật thiên nhiên của tạo đoan thế nào là Thánh ý của Đức Đại Từ Phụ cũng đã định vậy. Luật thiên nhiên của tạo đoan buộc chúng ta phải nhìn nhận cái khuôn luật tối yếu, tối trọng của Ngài. Trong vạn vật hữu sinh chúng ta thấy chúng ta đứng đầu hơn hết, vì chúng ta linh hơn vạn vật. Vì cớ cho nên khi chúng ta còn thiếu niên chúng ta chưa đủ trí thức, chúng ta vẫn thường theo một khuôn luật là tìm sống thôi. Bởi phương bảo vệ cái sống của mình là khuôn luật thiên nhiên đã định vậy, hễ khi nào chúng ta tìm sống tức nhiên chúng ta làm thế nào cho chúng ta sống được. Tức nhiên chúng ta không chịu nhịn sống cho ai hết, nói rõ ra cái tấn tuồng tranh sống mà Bần Đạo đã thuyết cái yếu lý của toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này, để định vận mạng tương lai của họ, cái yếu lý ấy hệ trọng hơn hết. Hễ nhượng sống thì còn tồn tại với nhau, mà tranh sống thì tức nhiên tự diệt với nhau vậy.

Ấy vậy, chúng ta tìm Đạo là gì? Là chúng ta thoát ly cho đặng cái thú tánh, để bảo tồn cái thiên mạng của mình. Dầu cá nhân của chúng ta, dầu toàn thể nhơn loại cũng vậy, duy chịu có khuôn luật ấy mà thôi.

Kỳ trước Bần Đạo đã thuyết hai cái cơ thể: Nhục thể và Linh hồn của chúng ta tức nhiên là cái nguơn linh của chúng ta vậy. Nó phải tương liên mật thiết với nhau, đặng nó điều độ dìu dẫn trên con đường Tu, tức nhiên trong con đường Đạo của chúng ta là tánh và mạng phải song tu, ta phải biết cái tánh của ta vẫn còn cái thú tánh của nó, trong xác thịt thú này, ta tìm phương nào cho thoát ly nó, đừng chịu quyền năng của nó ràng buộc, ta phải đạt cho được cái tinh thần thiêng liêng vô đối đó. Chúng ta đồng thể cùng Đấng Chí Linh tức nhiên đồng thể cùng Đạo. Đạo là cơ quan mà toàn thể nhơn loại từ Thượng Cổ đến giờ, tìm kiếm đó vậy. Họ tìm Đạo là tìm gì? Họ tìm Đạo đặng đạt được chơn pháp giải thoát kiếp sinh của họ. Nhà Phật tìm phương chước đặng diệt quả kiếp của mình đặng đạt cơ siêu thoát. Đạt cơ siêu thoát đặng làm gì? Đặng lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và có phương thế đồng thể cùng Đức Chí Tôn đặng cầm quyền tạo đoan của Càn Khôn Vũ Trụ, ấy là mơ vọng của toàn thể nhơn loại từ xưa đến nay đi tìm Đạo là vậy đấy.

Hỏi từ trước đến giờ họ đã tìm đặng hay chăng? Ta để dấu hỏi mơ hồ. Những Đấng đã đạt Đạo, chúng ta chắc hay không, duy mấy vị Giáo Chủ mà thôi. Còn các môn đệ của các Ngài, sau khi các Ngài đã qui liễu; chúng ta để dấu hỏi họ đã đạt vị được như vậy hay chăng? Chắc cả thảy đều để dấu hỏi mơ hồ hết. Giờ phút nầy chính mình Bần Đạo đứng tại giảng đài này, là người để đức tin vững chắc hơn toàn thể nhơn loại. Mà chính mình Bần Đạo phải để dấu hỏi mơ hồ này, thì tưởng chưa có ai đạt cơ siêu thoát đặng.

Ấy vậy, đạt siêu cơ thoát đặng chi? Đặng đạt phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và cả phẩm vị Trời nữa, có phải như vậy chăng? Hết thảy đều nhìn nhận là phải vậy. Mà giờ phút này Đấng cầm quyền cả Càn Khôn Vũ Trụ, làm Chúa cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, Ngài đến cùng ta đem cái địa vị của Ngài để trong mình của mỗi đứa, tức là Ngôi Chí Thánh của Ngài. Ngài đến lấy cả hình xác của chúng ta đặng làm phần tử Thánh Thể của Ngài. Phải chăng nếu chúng ta lấy cái triết lý chơn lý ấy tìm tòi, chúng ta thấy rằng: Ông Trời đến ở cùng ta, ta là ông Trời tại thế này, cửu phẩm Thần Tiên ở trong Thánh Thể của Ngài; Thần, Thánh, Tiên, Phật Ngài đem để trong tay của chúng ta cả thảy. Lý do là Đạo đến tìm ta, chớ ta không có tìm Đạo. Thượng Cổ không biết chừng nhiều Đấng đã muốn trông thấy như ta đã trông thấy, và họ muốn đặng như ta đã đặng hôm nay, nhưng họ chưa đặng mà chúng ta đã đặng.

Ấy vậy Bần Đạo quả quyết rằng, xưa kia thiên hạ tìm Đạo một cách khó khăn mà giờ phút nầy ta lại thấy Đạo đến tìm ta.

Hồi chiều mấy anh em chúng tôi có ngồi luận Đạo với nhau, đang nhắc Ngài. Đức Chí Tôn mới đến Ngài có than rằng:

Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy;
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy.

Ông thấy mình tội tình quá lẽ, nhơn loại con cái của Ông đã sa ngã, đã tội chướng quá nhiều, chính mình Ông cầm gậy đến ở cùng con cái của Ông. Một là tìm phương giải tội cho nó. Hai là tìm phương đem quyền pháp cơ quan siêu thoát đến trong tay nó. Nếu toàn thể con cái từ Tín Đồ dĩ chí Thiên Phong Chức Sắc không có đạt vị đặng, dám chắc khi trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống cái hổ nhục chẳng thế gì chúng ta thấy đặng các bạn của chúng ta đang tiếp chúng ta nơi cửa Hư linh đó vậy, và lẽ sao đạt không đặng không có gì tệ mạt hơn”

 

5- Ý nghĩa đi Hoán Đàn (Cúng Đại Đàn)

Đêm rằm tháng 2 năm Mậu Tý (dl. 25-03-1948)
(LỄ THÁI THƯỢNG)

            Không có một điều chi Chí Tôn để trong Pháp giới của Ngài, trong cửa Ðạo nầy, mà không có nghĩa lý. Ít nữa mình không biết thì phải tìm cho biết, coi tại sao như thầy chùa chạy kim đàn vậy, tìm cho ra duyên cớ đặng hiểu biết bên trong pháp giới của Ðức Chí Tôn là thế nào mà hình thể bên ngoài lại dị kỳ làm vậy. Không biết phải hỏi, cả thảy nên biết rằng, không một điều gì trong nền Tôn Giáo nầy mà vô nghĩa lý đa nghe.!

Tại sao phải Hoán đàn, nam, nữ chen nhau?

Ðó là Bùa Pháp Luân Thường Chuyển. Tại sao Chí Tôn để bùa Pháp Luân Thường Chuyển tại thế này, đặng chi vậy? Hiện đã mãn Hạ Ngươn tam chuyển, bắt đầu Thượng Ngươn Tứ chuyển ta gọi là khai ngươn nên phải để cho Pháp luân chuyển.

Ta đã biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí chuyển làm một mối mới đạt Ðạo đặng. Cả thảy đều biết qua Cửu Trùng Ðài nầy là Cửu Thiên Khai Hóa, còn Cung trên kia là Cung Ðạo. Từ trước đến nay, mỗi người mải miết tìm Ðạo mà Chí Tôn để giữa đó, trước mắt mà không biết. Ði chín từng Trời để cho phần hồn đi cho cùng tột Cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, đến Phật, tức là Phật xuống phàm, rồi phàm trở lại Phật, chuyển luân như vậy, Bí pháp gọi là đạt Ðạo. Tại sao cả thảy không tìm hiểu, rồi không chịu vô Hoán đàn, sợ mỏi chân, chờ trong nầy thiên hạ đi giáp rồi mới vô cúng mà thôi.

Cũng vì bởi không Hoán Đàn là không đạt được Thể pháp đó không đủ theo pháp giới của Chí Tôn, nên người cầm pháp có phận sự không cho vô tức là không cho làm loạn Ðạo.”

 

6- Hành Bí-pháp trong cửa Đại-Đạo

Ngài Bảo-Đạo Hồ-Tấn-Khoa có nói:

Những điều sơ khởi:

Người mới Nhập môn vào Đạo Cao-Đài lập Minh thệ thì đặng hưởng hồng-ân là thọ phép Giải oan. Phép này rửa sạch tội tiền khiên của mình từ trước.

Phép này cũng là một Đại Ân xá những tội tình, nhưng từ ngày Nhập môn về sau thì phải gìn giữ đừng gây thêm tội mới cho đến ngày chết tức là ngày trở về với Đức Chí-Tôn (Đại-Từ-Phụ) thì được nhẹ nhàng rất nhiều.

Ngoài Bí-Pháp giải-oan này Đức Chí-Tôn còn ban cho Pháp Tắm Thánh, pháp làm Hôn phối và đặc biệt nhứt là phép xác và phép độ thăng.

Người Tín-hữu Cao-Đài nào giữ được 10 ngày chay trong mỗi tháng đổ lên được thọ truyền Bửu pháp tức là hưởng được phép xác, cắt hết 7 dây oan-nghiệt. Linh-hồn không còn bị ràng buộc với thi hài bởi 7 dây oan-nghiệt nữa nên được xuất ra nhẹ-nhàng về cõi Thiêng-liêng Hằng sống.

Còn Phép độ thăng là để giúp cho linh hồn những  Chức-sắc được nhập vào Bát-Quái-Đài dễ-dàng hơn”.

   a/- Tín đồ khi mới Nhập môn phải Minh-Thệ:

Tới phiên các Môn đệ, từ người đến bàn Ngũ Lôi mà thề rằng:

“Tên gì?... Họ gì?... Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn đệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục." (36 chữ)

Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy nhị Ðầu Sư.”

            b/- Cúng Tứ Thời là  Bí pháp Giải thoát:

              Thầy dạy:

Thuở Đức Hộ-Pháp còn sanh tiền Ngài cũng lo ngại

cho loài người vì sự văn-minh tuyệt đỉnh bị “giục thúc bởi phương sống vật chất, họ tìm hạnh phúc trong cái sống vật hình, vì cớ Đạo-giáo mất quyền”.

Ngài vấn nạn Đức Lý Giáo-Tông:

“Đương thế kỷ hai mươi này văn-minh cực điểm  đã đi quá cao rồi, đem đạo-đức tinh thần làm thuyết cứu thế sợ chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng trước hai ngàn năm có lẽ nhơn loại còn bảo thủ được khối thiên lương, biết xu-hướng đạo-đức; tinh thần đạo-đức buổi ấy dường như gặp một mảnh ruộng có nhiều phân nên hột giống mới mọc đặng, còn thế-kỷ hai mươi này là thời-kỳ văn-minh vật chất, nếu đem đạo-đức ra làm môi giới cứu vãn tình thế cho đời e vô hiệu quả.

Đức Lý Ngài than, nói quyết đoán rằng:

- Theo lẽ Hiền-hữu nói nhơn loại ngày giờ này không cần đạo-đức có phải?

Bần-Đạo trả lời:

- Thật vậy! Nhơn-loại buổi này không cần đạo đức,

chỉ tìm hạnh phúc nơi văn-minh khoa học cũng có thể được chứ?

Ngài cười:

- Văn-minh khoa-học chỉ nuôi phần xác thịt mà thôi, con phần linh hồn chắc-chắn họ sẽ đói!

Bần-Đạo vấn nạn tiếp:

- Tại sao Ngài nói linh-hồn đói? Linh-hồn có ăn sao mà đói?

- Phải! Phải có vật-thực đặng bảo dưỡng nó như thi hài vậy, nếu không vật thực nó sẽ tiều-tụy rồi chết mà chớ!

Bần Đạo lại hỏi:

- Đạo-đức tìm nơi đâu mà có đặng?

- Tức nhiên tìm nơi cửa Thiêng-liêng hằng sống mới có, mà tìm nơi cửa Thiêng-liêng hằng sống tức là cửa Đạo. Buổi ăn của linh-hồn là buổi ta vô Đền Thờ cúng đấy! Ta không thấy mùi của nó tức chưa hưởng được, tưởng vô Đền thờ là bị luật buộc, không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh-hồn ăn vậy! Bần Đạo tưởng thấy trong trí cần phải bắt buộc cả thảy đi cúng. Vì trong thâm tâm Bần Đạo định mấy người chưa biết mùi của nó, cũng như kẻ nhà quê đưa cho gói bánh ăn chẳng được, rồi khi đã biết mùi rồi bán cả áo quần mà mua ăn”  (TĐ II/152)

Vì tính cách trọng-yếu đó mà Đức Phật Quan-Âm nhắc nhở rằng:

- Phải năng cúng kiến:

Thánh Giáo của Đức Quan Âm Bồ-Tát dạy:

"... Các em phải lo cúng kiến thường:

1- Một là tập cho Chơn Thần được gần gũi các Đấng Thiêng Liêng cho đặng xán lạn.

2- Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.

3- Ba là có tế lễ thì tâm mới có cảm, cảm rồi mới

ứng, ứng là lẽ tự nhiên.

4- Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương tri, lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ. Các em nhớ à! ..."

          (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2,  ngày 08--05-1933)

- Cúng phải nghiêm trang:

Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy:

"Thầy hằng nói với các con rằng: Thà là các con lỗi với Thầy, thì Thầy vì lòng từ bi mà tha thứ, chớ chẳng động đến oai linh chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, vì họ chẳng tha thứ bao giờ.”

Thầy lại cũng đã nói:

"Mỗi khi Chơn linh Thầy giáng Đàn, thì cả vàn vàn muôn muôn Thần, Thánh, Tiên, Phật theo hầu hạ. Các con nếu mắt phàm thấy đặng, phải khủng khiếp kinh sợ vô cùng! Nhưng thấy chẳng đặng, nên tội cũng giảm nhẹ đó chút.

Thất lễ là đại tội trước mắt các Đấng Chơn linh ấy! Thầy phải thăng cho các con khỏi hành phạt. Thầy chẳng buổi nào chấp trách các con, bởi lòng thương yêu hơn chấp trách rất nhiều. Sợ là sợ cho các con mất đức với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Xem đó, thì các con khá dè dặt, kỉnh Thần, Thánh cho lắm! Vì Thầy là bậc Chí Tôn, lòng hay quảng đại mà tha thứ, chớ Thần, Thánh hễ các con có lỗi, thì cứ Thiên điều mà quở phạt các con nghe à!”

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2,  ngày 15-10-1926)

Cúng là hình thức Xét mình:

“Trước khi vào lạy Thầy buổi tối phải tự hỏi mình coi phận sự ngày ấy xong chưa? Nếu phận-sự chưa rồi, lương tâm chưa an tịnh thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy tội lỗi của mình đã làm thì các con lo chi không bì bực chí Thánh. Thầy mong cho mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình ấy. Đặng vậy thì may-mắn cho Đạo và các con cũng sẽ đặng thung dung nêu gương cho kẻ khác”.

Hiện nay có nhiều vị niên cao kỷ trưởng muốn được nghỉ đi cúng, vậy có đúng chơn pháp không?

Sau đây là lời phê của Đức Hộ-Pháp vào năm 1951qua tờ xin của Chí-Thiện Lê-văn-Trưởng xin nghỉ Cúng thời Tý vì tuổi già bịnh hoạn.

Đức Hộ-Pháp phê rằng:

“Hễ càng già lại càng Cúng nhiều đặng dâng mạng căn số kiếp của mình cho Chí-Tôn định, ấy là Bí mật giải thoát của Chí-Tôn để nơi Cô tận độ. Dầu đương giờ mình Cúng mà chết trước mặt Người lại càng hay. Phải tuyên truyền cho ai cũng đều thấu đáo nghĩa lý Bí pháp này.

Khi đau ốm nằm dưỡng bịnh, hễ nghe thời Cúng là dậy dâng Tam bửu cho Chí-Tôn”.

Đi Cúng quả là hữu ích, nên Thầy ân cần dặn bảo:

“Phải chịu khó cúng Tứ thời và nhìn Thiên-Nhãn cho thường. Mỗi lần Cúng cho được lâu, lâu đặng cảm lòng giáng hỏa hết đau mắt.

Luôn dịp Thầy nói cho các con biết: Cúng Tứ thời có ích cho các con lắm, chớ không phải ích chi cho Thầy. Nếu Cúng được thường thì lòng dạ mở-mang, tứ chi luân chuyển, có nhiều khi tật bịnh tiêu diệt. Con nên biết việc Cúng Tứ thời nghe! (ĐCT:10-11-Bính Dần -14-12-1926)

Đức Hộ-Pháp thường nhắc:

Điều trọng-yếu là cả Bí-pháp Đạo-giáo có liên quan mật thiết với Thể-pháp rồi cả thảy đều nghĩ, từ thử tới giờ Hộ-pháp buộc phải đi Cúng, phải hành Đạo thế nào, không phải Ngài buộc mà Ngài hưởng một quyền lợi gì riêng hết, thử suy đoán chơn pháp  ấy rồi mới biết.

Bần Đạo vì phận sự muốn cho con cái của Đức Chí Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt-gao như vậy thôi”

-Niệm danh Cao-Đài là Bí-pháp giải thoát

Cao-Đài là gì?

           Nho-Giáo nói rằng trên đỉnh đầu là Đấng Cao-Đài. Đã nói là Cao thì không còn chi cao hơn nữa để tôn tặng Đức Thượng-Đế là Đấng tối cao, tối đại. Ngày nay Đấng Thượng-Đế mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ xưng danh là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại-Bồ Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam phương.

           CAO-ĐÀI là cái Đài cao, xưa muốn cầu Thần Tiên thì cất một cái Đài cao bằng tranh lá rồi lên đó để cầu-đảo gọi là thảo-đài. Nay chính Đấng Thượng-Đế đến với nhân loại mở Đại-Đạo nơi đất nước Việt-Nam chính là mở cơ Đại-Ân-Xá lần ba để độ dẫn 92 ức nguyên-nhân còn đắm

mê hồng-trần.

            Danh xưng“CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ TÁT MA-HA-TÁT” là gồm cả Tam-giáo gọi là Tam Giáo Qui nguyên:

                 - Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo.

                 - Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo.

                 - Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật Giáo.

          Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản Càn khôn vũ trụ là một mà ba, mà ba cũng như một là vậy. Thầy dạy:

          “Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!.

          “Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các  con  phải khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói  buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi, đâu đến nhọc công Thầy.  

“Ấy vậy, các con ráng độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết.

 

7- Tại sao Đức Chí-Tôn phải cho Môn đệ của Ngài cả Ấn – Pháp – Bùa - Chú và còn bắt

lập Minh thệ nữa?

Đức Hộ-pháp thuyết 12-7 Mậu-Tý (1948)

“Phương ngôn Pháp có câu “Aide-toi le ciel t'aidera” và Tiên Nho chúng ta nói “Tận nhơn lực tri thiên mạng” điều nầy hiển nhiên chơn thật lạ lùng chúng ta rán cố gắng hết sức mình thì Chí Tôn mới ban cho cái huyền linh của Ngài, nếu không rán không thế gì hưởng được, mấy Em nhận biết điều ấy, chúng ta do Chí-Tôn kêu gọi đặng gầy dựng, ta phải cố gắng, vì lẽ không thăng tức ta phải đọa. Mấy Em nhớ, Ðạo của mấy Em chúng Qua đã tạo dựng cho mấy Em đặng ngày kia mấy Em tiếp theo Chơn Truyền Luật Pháp thay thế cho mấy Qua đặng truyền nghiệp cho hậu tấn.

Pháp nói “Chaque soldat a un bâton de maréchal dans son sacoche” nghĩa là: Mỗi tên lính đều có cây giản của ông Thống Chế trong bị của họ. Qua nói rằng: Mỗi vị Tín đồ đều có cái mão của Giáo Tông và Hộ Pháp đội trước trên đầu, không lấy được là lỗi tại mấy Em, chẳng lẽ có một người mà người đó chết rồi là diệt tiêu nền Ðạo.

Ngày kia không có gì vui hứng cho Qua hơn, khi thấy xuất hiện trong mấy Em, khi Qua đã già vô Tịnh thất an dưỡng tinh thần, mà thấy đặng mấy Em ở dưới bước lên ngồi địa vị cao trọng của Qua”.

8-Người Tín hữu Cao Đài được sử dụng

các Bí pháp

1/-Bắt Ấn Tý:

            Pháp Đạo buổi Tam Kỳ là “Bắt Ấn Tý” tức nhiên nắm cả pháp Thiên điều vào tay, do câu “Ốc trần huờn ư song thủ chi nội”. Do vậy mà người mới nhập môn vào Đạo là được trao cho Ấn, Pháp, bùa, Chú. Ấn là Ấn Tý. Pháp là dùng nước Âm Dương thuỷ hoả Ký Tế, Bùa là bùa chữ Khí, là khí sanh quang tức là sự sống của vạn loại. Chú là câu chú của Thầy, niệm “Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.

Trong kỳ ba giáo Đạo, Đức Chí Tôn đại từ đại bi ban cho toàn Đạo ẤN TÝ để cho mỗi Môn đệ hộ thân, chớ không cầu xuất điển hại người, nên ngón trỏ và ngón út không đưa thẳng ra như cách bắt ấn khác. Vì khi bắt Ấn Tý thì dùng ngón tay trái ấn vào ngón áp út chỗ cung Tý, Tý là nơi khởi đầu vạn vật.

Tam-Kỳ Phổ-Độ: Hiệp đủ Phật, Thánh, Tiên là thời-kỳ kiết quả độ đủ chín mươi hai ức nguyên nhân về nơi nguyên thủy. Có câu: “Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ. Tam Giáo qui nguyên” chắp tay hoa sen đã 

thành trái.

Buổi Tam-kỳ Phổ-Độ, trước khi lạy phải bắt Ấn Tý, gọi là Kiết quả, nghĩa là thời-kỳ này đã thành trái. Tu thì thành, dữ thì đọa.Thưởng phạt phân minh.

Mỗi bàn tay có 5 ngón:

- Ngón cái gọi là mẫu chỉ (ngón mẹ của các ngón)

- Ngón trỏ gọi là thực chỉ (chỉ đúng sự thực)

- Ngón giữa gọi là trung chỉ (ngón ở chính giữa)

- Ngón áp út là Vô danh chỉ (ngón tay không tên)

- Ngón út gọi là Tiểu chỉ (ngón tay nhỏ nhứt)

Bàn tay trái thuộc Dương, bàn tay hữu thuộc Âm.

nắm lại, đó gọi là Ấn Tý (bấm vào cung Tý) như một trái

cây đã thành hạt. Đoạn bàn tay phải đỡ bàn tay trái ôm tròn lại và đầu ngón cái của bàn tay phải bấm vào cung Dần của bàn tay trái, như hình một trái cây đầy đặn.

Nay qua hội Nhơn sanh ư Dần, tức là qua Tam-Kỳ Phổ-Độ- Kiết quả - là ngươn hội mà Chí-Tôn đến mở một nền Đại-Đạo, độ hết cả quần linh về cõi Niết-bàn, chẳng để cho một điểm chơn-linh nào ở nơi Đông-Độ.

Khi ngón tay cái của bàn tay trái ấn vào cung Tý, còn lại bốn ngón của bàn tay trái này là Tứ Dương, ngón tay cái của bàn tay mặt bấm vào tay tả ở cung Dần, bốn ngón bao ngoài là Tứ Âm, hiệp chung nhau lại là Bát quái tức là tám ngón tay biểu thị cho Bát phẩm Chơn hồn.

- Tức nhiên bốn ngón thuộc Âm là: Vật chất hồn, Thảo-mộc-hồn, Thú cầm-hồn, Nhơn hồn.

- Bốn ngón thuộc Dương là chỉ về Thần-hồn, Thánh hồn, Tiên-hồn, Phật hồn.

Ấy là buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí Tôn độ hết nhơn vật quần linh tận qui nguyên vị. Cọng chung  hai lần 4 ngón tay trên lại tức là Tứ tượng biến Bát-quái. Bát quái  biến hóa vô cùng mới thành ra Càn khôn thế giái.

Tay trái (Dương) mà có ngón tay cái ở trong; đồng thời tay trái lại có ngón tay cái của bàn mặt là Âm chỉ vào, đó là trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Âm Dương luôn hòa quyện nhau không bao giờ xa lìa. Một Âm một Dương gọi là Đạo “nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo”. Âm Dương hiệp nhứt mới phát khởi Càn khôn.

Sách có câu: “Vô danh Thiên Địa chi thủy” là trước khi Trời Đất chưa khai, thì một khí không không, sau định hội Tý mới mở Trời, nên chữ Tý ở tại góc ngón tay vô danh. Khi mở Trời rồi mới có hữu danh vạn vật chi mẫu. Muôn vật có hình chất đều thọ nơi mẫu mới hóa sanh.

Như cách lạy nầy là thời kỳ dạy Đạo, còn người

luyện Đạo cách lạy cũng hai tay kiết quả, nhưng mà khi lạy chí đất phải để hai bàn tay ngửa mới cúi đầu. Cách lạy mầu nhiệm, nghĩa lý sâu xa, chưa đến kỳ Tịnh Thất nên không dám giải diệu mầu, e lậu Thiên cơ chẳng dễ”.

          (Lời dạy của Đức Quyền Giáo-Tông)

 Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn này thể hiện cơ tuần-huờn châu nhi phục thủy, Tôn-chỉ lấy Tam giáo qui nguyên Ngũ chi Phục nhứt  để đưa nhân-loại đến Đại-Đồng. Lấy theo nguyên-lý của vũ-trụ thì:

- Thiên khai ư Tý, trời khai vào hội Tý

- Địa tịch ư Sửu, đất thành hình ở hội Sửu

- Nhơn sanh ư Dần, có nhơn-loại vào hội Dần.

  Nay là buổi Nhơn sanh ư Dần nên đây là phần hành của Đức Di-Lạc. Do vậy mà hình ảnh của Ngài ngự ở mặt tiền Đền-thánh, cỡi cọp để làm biểu tượng là năm Dần

*Thiên khai ư Tý: Vì trước khi trời đất chưa khai thì chỉ là một khí không không mờ mịt. Sau khi định hội Tý mới mở trời, nên chữ Tý đặt ở ngón vô danh (ngón tay không tên, gần bên ngón út, nên gọi là áp út). Có câu “Vô danh Thiên địa chi thủy” 無名天地之始 (không tên là trước khi có trời đất)

*Địa tịch ư sửu: là khi mở trời rồi, đất mới được thành hình, do khí nhẹ bay lên làm trời, khí nặng lắng xuống thành đất. Cơ biến hóa này do Mẫu (mẹ) tượng trưng ngón tay cái trên bàn tay gọi là Mẫu chỉ. Vạn-vật hữu hình trong trời đất này đều do Mẹ tạo thành, có câu “Hữu danh vạn-vật chi mẫu” 有名萬物之母.

Đạo Cao-Đài xác nhận trong vũ-trụ bao la đều do Phật-Mẫu điều hành, Phật-Mẫu nắm cơ hữu tướng. Chí Tôn nắm phần vô tướng.

*Nhơn sanh ư Dần: Tức là nay qua Hội Dần là

thời kỳ của nhơn-loại, là người. Bây giờ đủ cả “Cha, Mẹ, Con” Tam tài thống hiệp. Người đứng vào ngôi cùng với trời đất tức là Thiên, Địa, Nhân. Đạo-pháp đã đúng hội Tam-Kỳ kiết quả. Cao-Đài xuất thế là hiệp với Thiên thơ đã định:

“Tam kỳ khai hiệp Thiên thi,

“Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên”.

Do vậy mà Ấn Tý của thời kỳ thứ ba Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ là thời kỳ Thiên Địa hoằng khai.

Đức Hộ-Pháp nói:

Đạo “Là cơ mầu nhiệm, mà cơ mầu nhiệm ấy phải làm ra thế nào có hình thể như một con đường dẫn người ra khỏi chốn trầm luân khổ hải, lại đặng phước siêu phàm nhập Thánh.

Muốn thoát khỏi luân hồi phải làm sao ?

Phải đoạt cho đặng cơ bí mật siêu phàm nhập Thánh. Cơ bí mật ấy, nếu không phải Thầy cho thì chưa ắt xin ai mà đặng.

Ấy vậy, Đạo là cơ bí mật làm cho kẻ phàm có thể đoạt đặng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Thầy đến qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi để cho chúng sanh hiểu cơ mầu nhiệm mà luyện tinh thần.

Thầy đã đến rồi, thoảng muốn lập riêng ra một Tôn giáo khác lại chẳng đặng sao? lại Qui Tam Giáo và Hiệp Ngũ Chi mà làm gì ?

Nếu như kẻ ngoại giáo nói mình bắt chước đoạt cả đạo của người ta mà làm của mình thì mới nói sao?

Ai ai cũng hiểu rằng:

- Nhơn đạo dạy tu luyện phần xác.

- Tiên đạo phần trí thức tinh thần.

- Phật đạo phần Thiêng liêng Hư vô tịch diệt.

 

 

D- HÀNH PHÁP ĐỘ THĂNG

1-Đức Hộ-Pháp hành Pháp độ thăng

ông Phối-sư Thượng Sách Thanh (Đỗ Văn Sách)

  Đức Hộ-Pháp nói tại Báo Ân Từ ngày

19-6-Canh Dần (1950)

“Thưa cùng Chư Thánh, chư Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Đài.

Hôm nay, chúng ta Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, phải chịu một cái tang chung của người Bạn đồng khổ với chúng ta là Phối Sư Thượng Sách Thanh đã qui liễu. Cái trạng huống đời bao giờ cũng vậy, mảnh xác thịt này của chúng ta chung sống với nhau trong một thời gian thôi, dầu cho ngắn ngủi bao nhiêu đi nữa, chúng ta cũng lưu lại một thâm tình thương mến nồng nàn. Nếu không có luật thiên nhiên ấy, chắc cả kiếp sống ta vô vị không có chi hết. Theo Chơn pháp của Đức Chí Tôn ngày chúng ta vui, vì đã biết Bạn trọn trung cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, ngày giờ này Bạn đã hưởng một đặc ân riêng của Đức Chí Tôn đã dành để.

Thương thay!

Cả công nghiệp của ông Bạn đồng khổ với chúng ta đây là ông Phối Sư Thượng Sách Thanh. Kể từ khi phế đời hành Đạo, dầu cho gia đình nghèo khổ khó khăn bao nhiêu nhưng ông chỉ biết Đạo, không biết đời, biết Hội Thánh không biết gia đình.

Thảm cho một điều là bao phen nền Đạo chinh nghiêng, bị khảo đảo như thế mà Người vẫn lo vẫn làm, vì đầu óc Người biết tư tưởng về hành tàng của mình, biết thi thố đầu óc sở định chớ không muốn nói, mà tánh người cũng ít hay nói nữa. Cả thảy Quân Đội, kể từ lúc đảo chánh, đều có ý thấy tại sao một người bịnh hoạn, ốm yếu mà hoạt bát không buổi nào ngừng hành Đạo, không buổi nào nghỉ, mảnh thân yếu ớt bạc nhược mà lo hơn ai hết: lo cho nghiệp Đạo, nghiệp Đời, không nói mà làm là tại sao? Tại cái lòng ái quốc, ái chủng nồng nàn của ông. Một nỗi nữa, cái phần của Đạo quyết đem mảnh thân làm sao cho nên, lấy cái năng lực của mình, đem mặt công lý cho toàn thể thiên hạ thấy rõ cái quyền năng vô tận của Đạo thế nào, sở hành của ông không nói chỉ làm mà thôi, có tư tưởng không ngôn ngữ. Công nghiệp của ông kể sơ từ trước đến giờ:

- Mùng 4 tháng 10 năm Bính Tuất, ông khai công nghiệp

-11 tháng 10 năm Bính Tuất, Thánh Lịnh thuyên bổ trách nhậm Khâm Trấn Đạo (Biên Hòa).

-12 tháng 8 năm Đinh Hợi, bổ làm Thượng Thống Lại Viện.

-17 tháng 4 - Mậu Tý thăng thưởng lên Phối Sư.

-11 tháng 3 năm Canh Dần xin phép nghỉ dưỡng bịnh, chính mình Bần Đạo thấy yếu ớt, bịnh hoạn, nên biểu nghỉ. Nếu không thì Người nhứt định không nghỉ, nhứt định làm Đạo cho đến chết mà thôi. Bần Đạo biết nên để cho nghỉ, mà trong lúc nghỉ không có nghỉ gì hết, nghỉ gì được; người đầu óc như thế mà nghỉ, lo mãi thôi. Phải biết cái tuổi già hồi hưu chỉ lấy an nhàn làm căn bản; nhưng không, vẫn giúp đỡ Đạo, vẫn tìm phương thế làm cho Đạo, Đời chung hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn chan rưới.

Ấy vậy, cái công nghiệp của người Bạn đồng khổ với chúng ta ngày giờ này chúng ta đã giao và chính tay Bần Đạo đã giao Chơn linh của Người đến nơi tay của Đức Chí Tôn cho Người lập vị; còn mấy em, mấy con trong tang quyến cả thảy nên nhớ lời Bần Đạo nói đến, nếu cửa Thiêng liêng vẫn mở, thì có thể ông cha của mấy em đặng hưởng tình yêu vô tận trên cảnh Thiêng liêng Hằng sống. Cảnh đó mới là cảnh hạnh phúc, còn cảnh này đây là cảnh khổ mà thôi. Hy sinh mạng sống tạo nghiệp, mà không phải tạo nghiệp đời cho mấy em. Bởi nghiệp đời vinh hiển bao nhiêu đi nữa cũng không giá trị gì hết, bao nhiêu xã tắc, sơn hà, Vương đế từ trước đến giờ đã tạo dựng mà ngày nay còn tồn tại cái chi không?

Trái lại ông cha của mấy em, đã tìm một con đường vinh hiển cho mấy em là “Đạo nghiệp”. Nghiệp Đạo còn, thì giọt mồ hôi, giọt máu của ông cha mấy em còn; mấy em biết giữ nó cho tồn tại là cái hiếu của mấy em đó. Biết bao nhiêu ông cha đã thương con, lo cho con, nhưng thương là nhiều cách khác nhau, Cha mấy em đã tạo dựng cơ nghiệp cho mấy em đây, mấy em không còn trách cứ được nữa, Cha mấy em đã làm xứng đáng một ông Cha. Bần Đạo xin làm chứng cho mấy em đã được người Cha xứng đáng.”

 

2-LỄ HÀNH PHÁP ĐỘ THĂNG CHO GIÁO HỮU THƯỢNG SANG THANH.

            Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền Thánh ngày 19 tháng 7 năm Canh Dần (1950)

            “Lời dạy của Đức Hộ Pháp căn dặn có một điều nên để ý là làm sao ngày qui liễu, gởi Thánh cốt tại đất Thánh Địa vì trái địa cầu 68 nầy không có chỗ đất nào quí hóa cho bằng đất Thánh Địa, nếu để được cốt hài nơi đây rồi thì rất hạnh phúc cho tương lai con cháu.

Cái quí trọng của đất Thánh Địa, là có Lục Long

phò ấn nên Đền Thánh nằm ngay trung tim của 6 con rồng đoanh lại.

Dầu nơi Cực Lạc cũ, hay đất mới, cùng là Nghĩa Địa; đất 50 mẫu ở Long-Thành cũng vậy, Bần Đạo đã biết bên nước Tàu: hễ ông, bà, cha, mẹ họ có qui, họ quàng lại để chọn ngày hoặc chỗ đất tốt có hàm rồng, dầu phải năm, ba năm họ cũng đợi kiếm được mới làm lễ an táng, vì bên nước Tàu có nhiều nhà biết Thiên văn, hay khoa coi bói họ giỏi. Phần nhiều là các nhà giàu có hay chọn lựa. Ngày nay dân tộc Việt Nam có phước: Chí Tôn đã tiền định cho giòng giống Lạc Hồng sẽ hưởng điều phúc hậu tương lai, ai có duyên mà về đây gởi cốt hài là có phước lắm vậy”.

 

3- Đức Hộ-Pháp hành phép độ thăng cho ông

Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn

Đức Hộ-pháp hành pháp tại Đền Thánh ngày 09

 tháng 7 năm Nhâm thìn (1952).

“Hôm nay là ngày qui liễu của vị Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn, Bần Đạo để lời phân ưu cùng Hiệp Thiên Đài và Quân đội vì các người đã mất một người bạn đồng khổ Từ khi mở Đạo cái kiếp sanh của Thừa Sử Trấn không biết thú vị mùi Đời là gì, trọn hiến thân cho Đạo, hai mươi mấy năm gian lao khổ nhọc, không có một điều chi chúng ta đã chịu, mà Thừa Sử Trấn không chịu.

Gánh nặng của Đạo cũng đã chia sớt, gánh nặng của Đời cũng dám hy sinh, vì nước, vì nhà, vì chủng tộc; hiến thân cho Đạo trọn đời đó vậy.

Hỏi? Từ thử đến giờ Thừa Sử Trấn có đặng vui hưởng hay chăng?

- Bần Đạo nói không, không có gì hết. 

Tuy vẫn biết con người có mặt tại thế gian này thì phải sống. Hễ có sống tức nhiên có chết, bởi không ra ngoài tứ khổ, dù chết thế nào cũng chết; nhỏ cũng chết, lớn cũng chết, luật thiên nhiên ấy không từ bỏ ai. Đã mang mảnh thi hài này, dầu chết thế nào cũng là chết.  Duy có một điều may mắn cho Thừa Sử Trấn hơn hết là biết mình đã mang mảnh thi hài xác tục sống ở mặt thế gian này, mà không có vui sống; nếu có cái sứ mạng thiêng liêng hiệp công tạo Đạo, thì Thừa Sử Trấn là người đã chờ Đức Chí Tôn đến, hiệp cùng Đức Chí Tôn để tạo nền chơn giáo của Ngài. Nay có kẻ đã giết Trấn, thảng như Trấn còn oan nghiệt quả căn tiền kiếp, thì kẻ đã giết Trấn tức nhiên kẻ đó sẽ giải nợ cho Trấn và chịu quả kiếp của Trấn. Từ khi có linh hồn tới giờ, bởi nó đến nó trả mà kẻ ấy không cho nó trả, tức nhiên lãnh cho nó. 

Tội nghiệp thay!... Đi năm non bảy biển, vào sanh ra tử mà không chết, về ở trong nhà máu thịt mà chết, thảm thiết có bao nhiêu đó mà thôi !.  

Dưới bóng cờ CỨU KHỔ, dưới bóng cờ NHƠN NGHĨA, hai bóng ấy tưởng đâu gởi mảnh thân phàm, có thể bảo vệ được! Nhưng ngày nay đã ra nông nỗi, chúng ta buồn duy có bao nhiêu đó mà thôi.!  

Kẻ giết rồi tưởng đâu kiếp sống bền bĩ có hạnh phúc mà hưởng cho tới tận thế, hưởng cho đặng sống nơi mặt địa cầu này hoài, chớ không tưởng có cái chết, nhưng sự thật thì chết cũng chết. Thử hỏi trong lương tâm của họ vui hưởng được cái gì? Nếu kẻ thù địch giết Trấn thì không nói làm chi. Nếu trong cửa Đạo này, có kẻ phản Đạo, phản Thầy, phản bạn, đưa mũi súng bắn Trấn, họ không nghĩ rằng: “Họ bắn chết Đạo của họ” họ không nghĩ rằng họ đã bắn chết thân danh của họ, duy tiếc có bao nhiêu đó mà thôi.! Còn ngoài ra thì con cái Đức Chí Tôn nên mừng giùm cho Trấn, ấy là lời của Bần Đạo nói quả quyết như thế. 

 

4-ĐỨC HỘ PHÁP Hành Lễ Độ Thăng Ngài

Đạo Nhơn PHẠM CÔNG ĐẰNG

  Đền Thánh ngày 10 tháng 2 Giáp Ngọ (1954)

            Phạm Công Đằng là một vị Môn Đệ trong Phạm Môn hồi ban sơ.

Bần Đạo còn nhớ lại, khi Bần Đạo đến Kiêm Biên

mở Hội Thánh Ngoại Giáo. Khi trở về Đức Cao Thượng Phẩm ở nhà dạy đặng một đoàn Môn Đệ: trong số ấy có Ông thân của Phạm Công Đằng. Buổi nọ Ông Đằng chỉ theo cha hành Đạo, có một điều là gia đình của người rất hạnh phúc hơn hết toàn con cái Tông Đường đều mộ Đạo.

Sanh nơi thế kỷ 20 này dưới quyền Pháp thuộc gia tộc của Phạm Công Đằng chỉ thủ cựu, cả phong hóa cổ tục của Tổ Phụ để lại, tức nhiên là gìn giữ Đạo Nho, nhứt là Ông thân của Phạm Công Đằng.

Khi Bần Đạo về: cả cha con phế Đời hành Đạo.

Dầu rằng buổi nọ gia đình ở tại Thanh Phước nhưng cả con cái Nam, Nữ toàn thể đều theo Đạo. Phạm Công Đằng tiếp tục đến khi nền Đạo chinh nghiêng: trong bị quyền Đạo khảo đảo, ngoài bị Pháp buổi họ, áp bức làm cho mấy Anh lớn cầm quyền của Đạo chia rẽ nghịch lẫn nhau với thiên hạ giục cho nghịch, giục cho loạn.

Đức Cao Thượng Phẩm về Thảo Xá Hiền Cung, chỉ còn Đức Quyền Giáo Tông, tình trạng nguy ngập không thể tưởng tượng, chúng tuyệt lương, chúng bắt buộc. Bất cứ ai trong Đền Thánh buổi nọ đi ra hành Đạo đều bị chúng bắt và đem giam cầm. Pháp định diệt Đạo hồi buổi sơ sanh mới phôi thai. Họ bắt buộc cho đến đỗi không có cơm ăn đủ; có sao đặng, miệng ăn đông, việc làm không có gì hết, ba bốn phen đi xin tiền về để tạo Đền Thánh, ba bốn phen đều ăn hết, làm cho thiên hạ thối chí ngã lòng, trong cũng thế, ngoài cũng thế.

Bên ngoài chúng mướn tay sai của Pháp buổi nọ bắt buộc, giam cầm, bị nhục một cách không thể tưởng tượng. Bên trong chia phe phân phái, một đoàn theo Đức Quyền Giáo Tông, một đoàn theo Ông Tương, một đoàn theo Đức Cao Thượng Phẩm (ba bốn phe).

Họ nghịch nhau cho đến nước, Thầy trò Phạm Môn

không có gì hết, để lại bao nhiêu người Môn Đệ thiên hạ lại gọi rằng Tả Đạo Bàn Môn, lập phe lập phái đi đầu cáo Pháp. Pháp bắt Phạm Môn đem ra tòa xử nào phạt vạ, nào tù tội, làm cho Đạo buổi nọ phải chết. Cho đến những kẻ chứa Đức Cao Thượng Phẩm cũng không đặng và những người trọn hiến thân hy sinh vì Đạo cũng bị thiên hạ xô đuổi. Buổi nọ Phạm Môn cũng bị đuổi ra khỏi Đền Thánh Thầy trò dắt nhau mua miếng đất tạo nên Phạm nghiệp làm cho Đạo sống trở lại.

May thay! “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhơn” nhất là Đức Chí Tôn ở bên mình nên những mâu thuẫn phá hoại không thành tựu gì hết.

Trong số 72 Môn Đệ của Bần Đạo, thật sự hành Đạo chỉ có 26 đứa mà nghiệp Đạo hôm nay được thành tướng dường này. Nếu không có Phạm Môn thì Đền Thánh không thành tựu, nếu không có Phạm Môn thì nền Đạo Cao Đài đã chết rồi.

Trong công nghiệp gầy dựng, cứu sống Đạo, Phạm Công Đằng đã có chung chịu trong đó.”

 

E- ĐỨC TIN THỂ HIỆN Ở SỰ CẦU NGUYỆN

Nay Đạo Trời khai mở, người Tín-Hữu Cao-Đài đều có một Đức-tin mạnh-mẽ nhứt, đó là Cầu-nguyện. Vì cầu nguyện là một sự cảm ứng với Thiêng-liêng. Chính chỗ này không ai kiểm soát được, không ai thấy biết được, cũng là chỗ cao thượng của tâm-linh là vậy.

Cầu là xin, nguyện là hứa. Đây là phần tâm linh của người muốn thông-công cùng với Đấng Huyền linh cầu xin một ước muốn mà khả năng của phàm thể này không làm nỗi, phải cậy sự trợ giúp của Thế-giới vô hình, của các Đấng Thiêng-Liêng, để hưởng sự Huyền diệu ấy.

1- Giá trị của sự cầu-nguyện:

“Sự cầu-nguyện có cảm-ứng với chánh-trị Thiêng Liêng tức là các Đấng vô hình đều rõ biết mọi sự hành tàng nơi cõi thế, triết-lý về hình thể của con người, thọ tinh Cha huyết mẹ sản xuất ra thì có sự cảm giác Thiêng Liêng đối cùng nhau rất mật-thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà, khi có bịnh-hoạn hay xảy ra điều gì tai biến thì thân-thể của người con sẽ có điềm máy động: giựt thịt, máy mắt hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác, đó là về phần Tinh Khí hình thức của con người.

Còn về phần linh tánh thì do nơi Đức Chí-Tôn ban cho Nhứt điểm lương tâm nó có cảm giác cùng Chí-linh, cho nên Ta hữu sự thì thành tâm Cầu-nguyện. Nền Đạo là một sự Cảm ứng rất mầu-nhiệm vô cùng, có câu:

“Nhân tâm sanh nhứt niệm thiên địa tất giai tri”

 Giảng về “Con đường Thiêng-liêng hằng sống” Đức Hộ-Pháp có nói:

“Bần-Đạo có những điều trọng-yếu căn dặn: Từ ngày Bần-Đạo giảng cái Bí-Pháp ấy, Bần-Đạo vẫn cầu nguyện với Đức Chí-Tôn luôn, bởi vì nó có nhiều điều khó-khăn, những điều mà mình ngó thấy bằng con mắt Thần, lấy cái nhân-khẩu của mình mà tả chẳng hề khi nào đúng chắc đặng. Bần-Đạo thú thật rằng mười phần có lẽ Bần-Đạo tả đặng năm hay bảy phần là nhiều, sợ còn kém hơn nữa.

Bần-Đạo chỉ có Cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn cũng như hồi trước Tam-Tạng đi thỉnh kinh nơi Ấn-Độ.

Ngài là người Tàu mà kinh viết tiếng Phạn, muốn dịch ra rất khó lắm, lấy cả Kinh Luật trong trong tiếng Phạn đem ra rất khó cho Ngài lắm, cho nên Ngài đại nguyện, Ngài làm thế nào Ngài rán sức âm tiếng Phạn ấy ra chữ Nho. Ngài chắc ý Ngài âm tiếng Phạn ấy chưa đúng, Ngài có hứa chừng nào mà tôi qui liễu, nếu trong Kinh Luật Đạo Giáo mà tôi không minh tả ra đặng thì khi chết cho cái lưỡi tôi đen, nếu tôi tả trọn vẹn thì cho cái lưỡi tôi đỏ.

May phước Bắc Tông được hưởng một ân-huệ của nhà Phật đã ban ân riêng cho Đức Tam-Tạng, khi Ngài chết người ta vạch lưỡi của Ngài ra coi thì lưỡi của Ngài đỏ, vì cớ mà chơn-giáo của nhà Phật là Bắc-Tông có thể nhờ Đức Tam-Tạng đã minh tả ra trọn vẹn.

Ngày nay Bần-Đạo mỗi phen lên giảng về Bí-Pháp thì Cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn cho sáng-suốt, mà biết vẫn còn thiếu kém không thể gì tả bằng con mắt Thần của mình đã ngó thấy đặng trọn một bài.

Nếu đoạt Pháp đặng, thấy đặng, có lẽ cũng chỉnh thêm, giùm giúp tay với Bần-Đạo mới toàn-thiện toàn-mỹ đặng”.

 

2- Cầu-Nguyện những gì?

            Đức Hộ-pháp thuyết tại Đền Thánh, đêm 1-12

 Giáp Ngọ (1954)

“Chúng ta thử giở lịch-sử loài người ra xem, thì không có một thế-kỷ nào mà không có giặc-giã tàn sát lẫn nhau, giờ này chúng ta cũng thế. Các bạn đồng đạo, Tôn giáo cũng thế.

Hôm nay xúm-xích nơi Đền-Thánh chung vào lòng

Từ-bi Bác-ái vô tận vô biên của Đức Chí-Tôn để Cầu nguyện một điều là Đức Chúa Jésus Christ sống lại, là mơ

ước thế nào nhơn loại hưởng đặng đặc ân ấy, để chia khổ não đừng tàn sát lẫn nhau đem trở lại sự yêu-ái lẫn nhau. Nhìn nhau là bạn đồng sanh, lời cầu nguyện quí báu hơn hết với Đức Chí Tôn là cầu nguyện như thế. Bần Đạo nói Đức Chúa Jésus Christ đối với triết lý của Đức Chúa Trời như thế nào thì hôm nay đường lối của Đức Chí Tôn đến dạy chúng ta như thế ấy. Chúng ta chỉ mong mỏi có một điều là nhơn loại đặng Hòa bình mà thôi”.

            Tiếp theo:

Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện:

Một người Pháp hầu đàn Thầy giáng Cơ nói:

“Thầy cho con hiểu rằng nếu không có ý muốn của Thầy, thì trên quả địa cầu nầy chẳng có vật chi sanh tồn tất cả.

Lại có lắm kẻ đáng thương hại tự phụ rằng họ hiểu thấu cả lẽ mầu nhiệm của Ðấng Tạo Hóa. Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần nầy tiết lậu Thiên cơ cả. Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện. Thầy không bao giờ không cảm ứng với những lời cầu nguyện chơn thành. Như thế đủ chứng tỏ cho con tin rằng Thầy là Ðức Jéhovah của dân Hébreux, vị chủ tể của quân lực dân Israël, vị Thánh vô danh của dân Do Thái, Ðức Ðại Từ Phụ của Chúa Jésus Cứu Thế. Con chỉ cần cầu nguyện Thầy với danh hiệu CAO ÐÀI thì sẽ có sự cảm ứng chấp

thuận.

Con đến đây với tấm lòng thành thật để làm việc phải cho giống dân biết phục thiện hiện đang giao phó cho

con. Vậy Thầy nhờ con truyền bá giáo lý nầy cho dân tộc đặt dưới quyền bảo hộ của con. Chỉ có cách đó mới có thể

kềm giữ nhơn loại trong tình yêu sanh chúng và đem lại

cho con một cuộc đời Hoà-bình bền bĩ”.

Bí pháp về đồng 1 Dola xem quyển  THIÊN NHÃN THẦY (Cùng soạn giả)

 


Tiếp theo >


Top of Page

      HOME