CHƯƠNG II
CÂU II: Lịch sử ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ
và Chánh- Trị của ĐẠO theo
TÂN LUẬT & PHÁP CHÁNH TRUYỀN
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
大 道 三 期 普 度
E: The Great Way of Third Universal Salvation
F: Troisième Amnistie de Dieu en Orient.
Chương II: Câu 2: Lịch sử Đại Đạo Tam kỳ Phổ Độ và
chánh Trị của Đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền
A- Khái quát
B- Sự ra đời của Đại Đạo tam Kỳ Phổ Độ
C- Nghiên cứu về chánh trị của Đạo theo Tân Luật
và Pháp Chánh Truyền
1- Hội Thánh CTĐ nam phái
2-Ngoại lệ: Giáo-Tông có ba
A- KHÁI QUÁT:
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một nền Đạo lớn mở ra vào thời kỳ thứ ba để cứu giúp toàn cả chúng sanh nơi cõi trần này, hầu thoát khỏi cảnh khổ của luân hồi mà trở về cõi Thiêng-Liêng Hằng Sống, chính là Niết Bàn đó vậy..
(Đại Đạo là một nền Đạo lớn, nhưng khi nói lớn thì không còn gì lớn hơn nữa, nên nói là Đại Đạo.Tam Kỳ là thời kỳ thứ ba. Phổ Độ là cứu giúp chúng sanh rộng khắp)
Khi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn xưng danh hiệu là:“CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT” nên nền Đại-Đạo này còn được gọi theo danh
xưng của Đấng Thượng-Đế là ĐẠO CAO ĐÀI.
Gọi là Đại Đạo bởi vì Đạo Cao Đài là một nền Đạo
lớn do Đức Thượng Đế sáng lập. Mục đích của Đại Đạo là Qui Tam giáo: Nho – Thích - Lão và hiệp nhứt Ngũ Chi là
Nhơn đạo - Thần đạo - Thánh đạo - Tiên đạo - Phật đạo.
Gọi là Tam Kỳ Phổ Độ là vì trước đây đã có hai thời kỳ Phổ Độ:
■ Nhứt Kỳ Phổ Độ khai thời thượng cổ có các Tôn giáo:
- Phật giáo do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật khai mở .
- Tiên giáo do Đức Thái Thượng Đạo Tổ khai mở.
- Nho giáo do Đức Văn Tuyên Đế Quân khai mở.
Đồng thời:
- Đức Brahma-Phật mở Đạo Bà La Môn,
- Đức Moïse mở Thánh giáo ở nước Do Thái gọi là
Do Thái giáo
■ Nhị Kỳ Phổ Độ khai thời Trung cổ có các Tôn giáo: - Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ.
- Đức Lão Tử mở Tiên giáo ở Trung hoa.
- Đức Khổng Tử mở Nho giáo ở Trung hoa.
- Đức Chúa Jésus mở Thánh giáo ở nước Do Thái.
- Đức Mahomét mở Hồi giáo ở nước Á Rập,
- Đức Khương Thượng cầm Bảng Phong Thần mở
ra Thần đạo Trung hoa...
■ Nay, thời Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm cuối Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, Đức Chí Tôn đến “Qui nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” vì ngày nay Càn khôn dĩ tận thức, năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà, nên Đức Ngài đến mở ra một nền Đại Đạo tại nước Việt Nam, thống nhứt thành một mối, để nhơn loại không còn bị chia rẽ nhau vì khác Tôn giáo, hầu tiến đến một THẾ GIỚI ĐẠI-ĐỒNG.
Vì lẽ đó Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn Oai Nghiêm
thay quyền Tam giáo mới trấn phục nỗi hoàn cầu, gồm có:
- Phật Quan Âm thay quyền Phật giáo, là Nhị trấn
Oai Nghiêm.
- Đức Lý Đại Tiên Thái Bạch Kim Tinh thay quyền Tiên giáo, là Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
- Đức Quan Thánh Đế Quân thay quyền Thánh giáo, là Tam Trấn Oai Nghiêm, lập Nho Tông Chuyển thế.
Tóm tắt Ba thời kỳ Phổ Độ:
Đức Chí Tôn cho biết đây là kỳ Phổ Độ chót, trước khi mở Đại Hội Long Hoa là có cuộc Phán Xét cuối cùng, tận độ toàn cả chúng sanh, cứu giúp không để sót một ai. Đức Chí Tôn khẳng định:
“Gặp TAM KỲ PHỔ ĐỘ” nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi”.
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chánh thức mở ra vào ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (dl: 19-11-1926) và Đức Chí Tôn chọn dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam để Khai Đạo, dùng Tây Ninh làm Thánh Địa xây dựng các cơ
quan trung ương, để từ nơi đây truyền bá khắp hoàn cầu.
Thầy dạy: “Chi chi cũng tại TÂY-NINH mà thôi”.
B- SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Đức Hộ-Pháp nói:“Có nhiều người viết Đạo-sử và đã nói cho người ngoại-quốc hiểu Đạo. Trong ấy có nhiều điều không đúng sự thật, nhứt là trong các bài Cơ.
Đạo ban sơ thế nào? - Nhiều người đã nói đến, đã giảng lịch-sử Đạo, nhưng không đúng lịch-sử chút nào hết. Sự thật như thế này:
Trong năm Ất-Sửu: các Thầy, các Ông, từ hàng Thẩm-phán, Phủ, Huyện, muốn tìm một sự thật mà thiên hạ đã làm đảo-lộn trong giới trí-thức đương thời là “Con người có thể thông-công cùng các Đấng thiêng-liêng vô hình được” nhứt là thuyết này đã làm cho cả Âu-Châu sôi nổi, nhiều sách vở đã tung ra cả hoàn-cầu do các Hội Thần linh-học và Thông-thiên-học đã khảo-cứu một cách rõ-rệt. “Loài người có thể sống với cảnh thiêng-liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy” .Cái triết-lý ấy làm cho nhiều người, nhứt là người học-thức muốn tìm-tàng thấu đáo.
Nơi hạng học-thức ấy có một người cố tâm hơn hết là Đức Cao Thượng-Phẩm. Ban sơ chưa biết gì, chỉ làm theo phương-pháp bên Âu-Châu hay bên Pháp là Xây bàn.
Cái duyên ngộ Đạo của chúng tôi lúc đó chưa có quyền-năng thiêng-liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi muốn tìm hiểu huyền-vi bí-mật thiêng-liêng của Đức Chí Tôn đã tạo ra CànKhôn Vũ trụ. Sách vở để lại cũng nhiều, nhưng thật ra lý-thuyết ấy làm cho chúng tôi chưa quyết định về tín-ngưỡng cách nào mà đức-tin đã có thật vậy.
Khi Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí Tôn
mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo
CAO-ĐÀI.
Tới chừng Ngài biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn bút đi các nơi thâu Môn-Đệ. Trọng-yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông-đồ có sứ-mạng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này làm môi-giới độ ĐẠO sau này.
Đức Chí-Tôn biểu chúng tôi phò-loan đặng Ngài dùng quyền-năng Thiêng-liêng kêu gọi mấy vị Tông-đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển hiện ra, trong số các vị Thời-quân ấy có Cao Tiếp Đạo ở tại Kim-Biên chớ không phải ở Sài-Gòn.
Đi thâu Thập-Nhị Thời-quân rồi, Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một người thờ Ngài là ông Ngô-văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu may sắc-phục Giáo-Tông cho Người, kỳ hạn trong mười ngày Người sẽ được lên làm Giáo Tông.
Trong thời-gian mười ngày, chỉ có mười ngày mà thôi ! Chúng tôi không hiểu nguyên-cớ nào Ông Ngô-văn Chiêu không hưởng được điạ vị ấy. Ông Ngô-văn-Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ-sứ buổi nọ, ở tại Hà-Tiên, do nơi Cơ bút, Đức Chí-Tôn đến với Ngài và thâu Ngài làm Môn-Đệ đầu tiên hết, là Người được Đức Chí Tôn xưng là “CAO ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.”
Trong khi đó Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Đức Chí-Tôn chỉ nhà của Ông Ngô-văn-Chiêu cho chúng tôi và nói:
- Ngô-văn-Chiêu thờ Thầy lâu rồi, các con đến đó kết Bạn cùng nó, vì cớ cho nên chúng tôi mới đến Ông
Ngô-văn-Chiêu.
Một buổi nọ chúng tôi phò-loan học hỏi như thường
ngày. Đức Chí-Tôn kêu chúng tôi và Đức Cao Thượng
Phẩm phải đi vô trong Chợ Lớn, đến tại nhà của Đức Quyền Giáo-Tông của chúng ta bây giờ là Ông Lê-Văn Trung. Buổi nọ Ông Lê-Văn-Trung đang làm Thượng nghị-Viện. Hội-đồng Thượng-Nghị-Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng-Thống đời Pháp-thuộc. Chức Nghị Viện lớn lắm! Ông là người Nam làm đến bực đó thôi; mà nghe ra Ông là người quá sức đời, Tôi với Đức Cao Thượng-Phẩm không hạp chút nào! Nhứt định không làm điều đó được, nghe danh quá đời, chơi bời phóng túng không thể tả hết; buổi chúng tôi ôm Cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí-Tôn độ Ngài. Khi vô tới nhà, thú thật với Ngài rằng:
-“Chúng tôi được lịnh của Đức Chí-Tôn dạy Đạo, Anh tính sao Anh tính !”
Ngộ quá chừng quá đỗi. Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi biết: lo sắp đặt bàn ghế, sửa-soạn buổi phò loan; rồi thì chúng tôi tiếp rước Ông, độ Ông, bắt Ông Nhập-môn đủ hết; chúng tôi không hiểu Ông có tin nơi Đức Chí-Tôn hay không?
Có khi tưởng Ông không tin nơi Đức Chí Tôn nữa chớ! Trong nhà Ông có nuôi một người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12, 13 tuổi gì đó. Hai Cha con kiếm đâu ra được một cây Cơ không biết. Vái Đức Chí-Tôn rồi cầu Cơ. Khi phò-loan, thằng nhỏ kia cầm đến cây Cơ thì ngủ, ông thì thức, Cơ thì chạy hoài. Đức Chí-Tôn dạy Ông nhiều lắm, không biết dạy những gì. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Từ đó Ông mới tin nơi Đức Chí Tôn.
Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông
rồi mới xuất hiện ra Hội-Thánh. Nếu chúng tôi làm chứng
thì chúng tôi có thể nói rằng: Do nơi Đức Quyền Giáo Tông mới xuất hiện ra Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài đó vậy.
Ngôi vị của Ông Saint-Pière, Giáo-Hoàng của Thiên Chúa-Giáo ở La-Mã như thế nào thì ngôi vị của Đức Quyền Giáo-Tông ngày nay cũng thế. Bởi vì chính mình Đức Chí-Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội Thánh. Ngài đi đến đâu, Tôi và Đức Cao Thượng Phẩm theo phò-loan để Đức Chí-Tôn thâu Môn-Đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung-Nhựt giáo-hóa, chính do nơi Ngài cầu khẩn Đức Chí-Tôn thâu Môn-Đệ. Ngài luôn luôn đi các nơi để Phổ độ chúng sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo. Đức Chí-Tôn sai hết chúng tôi, tức Thập-Nhị Thời-Quân đi phò-loan cùng hết, không chỗ nào không có Cơ Bút:
Người thì xuống miền Tây, người đi miền Trung, đi cùng hết. Thâu Môn đệ xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng, không có một miếng đất cắm dùi làm sao mở Đạo?
Khi đó Đức Chí-Tôn thâu Ông Nguyễn-Ngọc Thơ tức là Phối-Sư Thái-Thơ Thanh làm Môn-Đệ, Thái Thơ Thanh tức là bạn chí-thân, tức là chồng của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh. Thành thử mỗi người đều có Thiên mạng nơi mình mà không ai biết, chính Bà là người cầm đầu Nữ-phái đó vậy. Đức Chí Tôn thâu rồi mới biểu hai vợ chồng Ông Thái-Thơ Thanh vào mượn Từ Lâm Tự ở Gò kén đặng mở Đạo; Chùa Từ-Lâm chưa xong gì hết, có Chánh điện, còn Đông-lang, Tây-lang thì chưa có, đằng này mấy Anh lớn họp nhau xuất tiền ra làm cho xong.
Đến ngày rằm tháng mười năm Bính-Dần thì mở Đạo, chúng tôi gởi Đơn lên Chánh-phủ Pháp xin mở Đạo công-khai, trong đơn có kể tên những người Môn-Đệ đầu tiên. Sau khi mở Đạo nơi Chùa Gò-kén, tức là Chùa Từ Lâm-Tự. Người cầu Đạo càng ngày càng đông. Người Pháp buổi nọ sợ chúng tôi làm loạn, nên xúi-giục Hoà Thượng Giác-Hải đòi chùa ấy lại, đuổi chúng tôi đi cho hết mở Đạo; đồng thời người Pháp bắt đầu làm khó Đạo, hăm he các Chức-sắc, họ lập hồ-sơ đen để trừng-trị những người theo Đạo.
Riêng phần Bần-Đạo là Công-chức, khi vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến Chùa Gò-kén mở Đạo, Bần-Đạo có xin phép nghỉ sáu tháng, đến chừng trở lại làm việc người ta không cho Bần đạo ở Nam-Việt nữa, đổi Bần-Đạo lên Kim Biên, tức Nam-Vang ( xứ Cam-Bốt bây giờ ).
Nơi đó Bần-Đạo vừa làm việc vừa lo mở Đạo, mục đích là làm thế nào cho Đạo chóng thành-tựu. Riêng phần mấy Anh lớn trong hàng phủ, huyện, đã có chức phận làm quan triều Pháp bị người doạ nạt đủ điều. Nếu theo Đạo Cao-Đài người ta sẽ bắt bỏ tù, người ta còn hăm-he con cái Đức Chí-Tôn sẽ bị Chánh-quyền Pháp triệt-để bắt bớ nữa, vì cớ cho nên mấy Anh phải sợ, một cái sợ rất nên phi-lý. Nhưng người Pháp buổi nọ cầm quyền sanh-sát trong tay, hễ thuận thì còn, nghịch thì chết, không còn ai lạ gì việc đó nữa. Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ chỉ còn lại có ba người. Ba người ấy thiên-hạ gọi là ba người lỳ. Ba người ấy là:
- Đức Quyền Giáo-Tông,
- Đức Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo đây.
Chúng tôi nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn, bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí Tôn và tự-nhiên quyền-năng Thiêng-liêng giúp chúng tôi biết Đạo Cao-Đài này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng tộc và giống-nòi, chúng tôi hiểu rõ-rệt như thế, nên ba Anh em chúng tôi nhứt định hy-sinh kiếp sống mình, hy sinh cả hạnh-phúc để tạo cho nên tướng, nhứt quyết như thế nào, bất kể sống chết. Cả ba chúng tôi, nhứt định phải làm cho Đạo Cao-Đài thành, thành đặng cứu khổ, cứu chủng tộc chúng tôi. Sự quyết chí về tương-lai như thế, nên phải bỏ Chùa Gò-kén, tức là Từ-Lâm Tự, để về đây, về làng Long-Thành Tây-Ninh để lập nên Toà-Thánh bây giờ.
Trong lúc chinh-nghiêng như vậy, tiếc thay Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Cao Thượng Phẩm phải về cảnh Thiêng-liêng trước, còn lại có một mình Bần-Đạo, Bần Đạo thấy rằng nạn nước nguy-vong, thân nô-lệ ra với hai bàn tay trắng, bắt gió nắn hình, muôn điều khổ-não, lập nghiệp Đạo cho thành, cho con cái Đức Chí-Tôn. Hôm nay Đạo là máu, là xương của con cái Chí-hiếu của Ngài dựng thành đó vậy.
Ba mươi năm khổ não, toàn con cái Đức Chí-Tôn lập nghiệp cho Đạo hôm nay đặng thành tựu. Ngó dĩ-vãng, ngó đương nhiên bây giờ xa cách như Trời với vực. Yếu buổi nọ, so-sánh mạnh hôm nay. Nhục buổi nọ so-sánh vinh-hiển hôm nay, giá-trị xa nhau thiên-lý.
Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn từ khi lập Đạo chịu khổ-hạnh truân-chuyên, chịu nhục-nhã, chịu mọi điều thống-khổ, thì hôm nay được vinh hiển như thế. Bây giờ Đạo nên hình là cả một khối tâm-đức vô biên của con cái Đức Chí-Tôn tạo nên tướng” (ĐHP:13-10-Giáp-Ngọ 1.954)
1-Tìm hiểu Cao-Đài là gì? Lý do nào khai Đạo?
Đức Hộ-Pháp nói về Tân giáo Cao-Đài:
“Đạo Cao-Đài tức là ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ khai sáng vào thời-kỳ này là do Thiên cơ tiền định và cũng hợp với lời tiên-tri của các Đấng Giáo Chủ đã khai mở các Đạo-giáo trên thế-giới.
“Theo Phật-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo thì đều dạy rằng: thời-kỳ này là thời-kỳ Hạ nguơn khiến đời tận diệt để chuyển xây trở lại Thượng nguơn Thánh-đức với một kỷ-nguyên mới. Đặc biệt Đức Thích-Ca Mâu-Ni khi lập giáo có cho biết đến năm 2.500 kỷ-nguyên Phật giáo, là thời-kỳ để cho Đức Di-Lạc ra đời mở Hội-Long Hoa lập một kỷ nguyên mới đó vậy”.
Cao-Đài là gì?
Nho-Giáo nói rằng trên đỉnh đầu là Đấng Cao-Đài. Đã nói là Cao thì không còn chi cao hơn nữa để tôn tặng Đức Thượng-Đế là Đấng tối cao, tối đại. Ngày nay chính Đấng Thượng-Đế mở Đại-ĐạoTam-Kỳ Phổ-Độ xưng danh là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam phương.
CAO-ĐÀI là cái Đài cao, xưa muốn cầu Thần Tiên thì cất một cái Đài cao bằng tranh lá rồi lên đó để cầu-đảo gọi là thảo-đài. Nay chính Đấng Thượng-Đế đến với nhân loại mở Đại-Đạo nơi đất nước Việt-Nam chính là mở cơ Đại-Ân-Xá lần ba để độ dẫn 92 ức nguyên-nhân còn mê đắm hồng-trần.Danh xưng “Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ Tát Ma Ha Tát” là gồm cả Tam-giáo, gọi là Tam Giáo Qui Nguyên:
- Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo.
- Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo.
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật Giáo.
Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản Càn Khôn vũ trụ là một mà ba,mà ba cũng như một đầy đủ đức tính khiêm nhường
Thầy dạy:
“Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!.
“Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các con phải khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi, đâu đến nhọc công Thầy.
“Ấy vậy, các con ráng độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết.
2- Tại sao gọi là CAO-ĐÀI ?
Có nhiều Hội-giáo đã lập thành có trót trăm năm trước khi mở Đạo đặng dạy lần cho Vạn-quốc rõ thấu chánh-truyền.
"Ngày nay Thầy mới đến lập một cái CAO-ĐÀI 高臺 nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức-tin lớn tại thế này (La haute Église ou plus grande foi du Monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn-hạ nhỏ-nhít của hướng Á-Đông là An-Nam ta, đặng cho trọn lời tiên tri “Đạo xuất ư Đông” 道出於東 và cho trúng Thánh-ý chìu lụy hạ mình của Thầy lập thành Hội-Thánh, làm hình thể Thiêng-liêng của Thầy hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định-tánh làm cho cả con cái của Thầy thức tỉnh, nhìn Thầy mà trở về quê cũ” (PCT)
3- Hiện-tượng Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao-Đài
Chí-Tôn lập Cao Đài để làm Tòa ngự của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến hồng-trần này làm BẠN cùng người, hiệp cả loài người làm một.
Đức Hộ-Pháp cũng xác nhận rằng:
Nếu giờ phút này thiên-hạ đừng cho ta dị-đoan, chúng ta có thể nói Đức Chí-Tôn biết tình trạng nhơn-loại
đã đến mức tự diệt nhau nên Ngài đến tạo nền Chơn-giáo của Ngài, tức nhiên ĐẠO CAO-ĐÀI, cho nhơn-loại gìn giữ phần hồn đặng định chuẩn-thằng cái sống của họ, đừng cho nó đến cảnh điên của nó, mà họ đến cảnh điên tức đến cảnh tự diệt. Đức Chí-Tôn đến đặng cho huờn thuốc phục sinh đặng cho nhơn-loại sống lại là Đạo-đức tinh thần của Đức Chí-Tôn tạo cho họ, ĐẠO CAO-ĐÀI chính là cái sống linh-hồn nhơn-loại, bảo vệ tánh mạng tức nhiên Chơn-thần của họ, đặng họ tránh cái nạn tiêu-diệt.
Lời tiên-tri trong sách “Ấu-học Tầm nguyên”
về sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài: trong quyển “Giác mê ca” mà tác-giả là một Đạo-gia có ghi lại đoạn văn sau:
Hữu duyên mới gặp Tam-kỳ Phổ-độ
Muôn đời còn tử-phủ nêu danh,
Ba ngàn công-quả đặng viên thành,
Mới đặng Thiên-thơ chiếu-triệu.
Đây có mục-đích báo cho nhân-loại biết trước rằng chỉ có người hữu-duyên mới gặp được Tam Kỳ Phổ Độ, hầu do theo chơn-lý Chánh-truyền ấy mà làm phương thoát tục mới mong trở về ngôi xưa vị cũ. Bởi Đạo Cao Đài là Tu nhập thế nên phải lập công bằng cách Phụng sự Vạn linh, mà phụng sự Vạn linh tức nhiên phụng sự Trời. Điểm tới đích là Niết-bàn.Đạo Cao-Đài nói là cảnh Thiêng liêng Hằng sống. Niềm tin hứa-hẹn của Tam-Kỳ Phổ-Độ đã đến, đã ứng hiệp,nhất định không có gạt gẫm, nguỵ tạo.
Phải lập cho được Ba ngàn công quả chính là phải tu chơn thực theo phương thức sau, mà sách Trang Tử nói:
Chí nhân vô kỷ.Thần nhân vô công.Thánh nhân vô danh.
- Quên mình làm nên cho người, đạt (một số 0)
- Làm mà không tính công đạt (hai số 0)
- Làm mà không ham danh đạt (ba số 0)
Đây là nói lý: phải hiểu rằng: Đặt số 3 trước ba số (000)
thành 3.000 công quả.
4- Đạo Cao-Đài dạy phải lập cho được
3.000 công quả nghĩa là gì ?
Đúng như lời tiên-tri. Nay người tu theo Cao-Đài phải lập cho được “Ba ngàn công-quả” ấy là cơ đắc Đạo tại thế đó vậy. Bởi:
*Chí-nhân vô kỷ: người có lòng nhân thì quên mình mà lo cho người. Không nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ đến người,đến chúng-sanh, đến mối Đạo phải được sớm hoằng khai, sớm được Phổ-độ. Hằng ngày ta cầu nguyện gì ?
"Nam mô nhứt nguyện Đại-đạo hoằng khai,
"Nhì nguyện Phổ độ chúng sanh"...
*Thần-nhân vô công: đứng bậc Thần, làm mà không tính công. Người làm Đạo phải hết mình lo cho lý tưởng Đạo-pháp, làm cho hết việc chớ chẳng phải đợi hết giờ.
*Thánh-nhân vô danh: vào bậc Thánh thì làm mà không kể đến danh. Không tham công, chẳng mến danh mới đạt được cái chơn lý phụng sự. Một người tu hành thật sự là phải thể-hiện cho được các yếu lý ấy, mà cũng là lúc được Đức Phật-Mẫu ban cho Quả Đào Tiên. Chính là người TU phải nắm vững đầu mối hai quẻ Càn Khôn, là am tường về Bát Quái. Nếu nói như vậy thì tại sao các Chức-sắc ngày hôm nay theo luật công-cử phải có đủ thời-gian công-quả ?
- Đó chỉ là cái lằn mức để được thăng phẩm-vị hầu tiếp-tục con đường Phụng sự, còn đã là công-quả thật sự thì phải đo bằng “cây thước lương-tâm”chứ không phải là cây thước thời gian. Dù cho nói rằng năm năm, ba năm, nhưng chính thực mỗi người phải “tự biết xét mình” là điều trọng-hệ nhứt.
Đạo là lý, muốn cho thấu-lý Đạo phải luận, từ đó mới có lý-luận, thuyết-luận, giảng-luận, luận đạo.
Lẽ ra phải nói là “Tam vô” nhưng từ này, nó sẽ trùng hợp với những gì đã có trong cơ hữu hình rồi.
Truyền thuyết cho rằng vườn Đào
của Đức Phật Mẫu
Phải 3.000 năm đào mới trổ bông, 3.000 năm đào mới sanh trái, 3.000 năm đào mới chín. Như vậy muốn ăn một trái đào chín như vậy phải qua 9.000 năm. Nếu thật như thế thì chắc không một ai hưởng được.
Nhưng người Đạo Cao-Đài vẫn được “ăn Đào” mỗi năm. Vì sao ? Đây là lý Đạo nhiệm mầu để tượng trưng: Nếu lấy Cửu Trùng Đài làm chuẩn, cùng các đối phẩm, thì Cửu Trùng Đài có 3 cấp, mỗi cấp có 3 phẩm. Mỗi phẩm như vậy là phải đạt cho được 3.000 công quả như nói trên (vô kỷ, vô công, vô danh). Khi đạt đến bực Thiên Tiên tức nhiên hoàn thành con số 9 (Ấy là lúc Đào Chín: "Tây Vương Mẫu vườn đào ướm chín" (Cửu II) để thưởng công cho người đắc Đạo.
“Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chiếu theo luật Thiên đình, Hội Tam-giáo mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn-sanh bước lên con đường Cực-Lạc tránh khỏi đoạ luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách-nhiệm nặng-nề của Đấng làm người, về bực nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn này”.
5- Triết-lý của Đạo-Giáo
Đức Hộ-Pháp nói:
“Các vị Giáo-Chủ, lập giáo đều nương nơi một tinh thần của họ, tinh-thần hữu-định ấy có căn-nguyên trong tinh-thần của toàn nhơn-loại. Họ chỉ lấy một thuyết trọng yếu đặng làm triết-lý Đạo-Giáo của họ, tỷ như:
- Thánh-Giáo Gia-Tô lấy TÂM làm căn bản,
- Lão-Giáo lấy THÂN làm căn bản,
- Hồi-Giáo lấy TÍN-NGƯỠNG làm căn bản.
Mỗi Giáo-lý đều có sở-năng làm trung-tâm-điểm đặng vi-chủ tinh-thần của con người trong chỗ khuyết điểm của họ”.
“Có một điều Bần-Đạo xét đoán lấy làm sợ sệt hơn
hết là nền Tôn-Giáo của Đức Chí-Tôn lấy Tinh Thần làm căn-bản. Hỏi vậy, tinh-thần của nhơn-loại hiện ở dưới quyền áp bức của văn-minh vật-chất, tinh-thần ấy có đủ quyền-năng tự-vệ lấy họ chăng?
Tinh-thần họ có đủ lực-lượng chiến thắng chăng? Nếu thoảng tinh-thần của nhơn-loại không quật khởi lên, tự-quyết, tự-chủ, tự định-phận đặng mà phải chịu làm nô lệ cho văn-minh vật-chất, thì tương-lai của Đạo Cao-Đài sẽ ra sao? Mà chẳng những phải tự bảo vệ chiến thắng mà thôi, mà còn phải bảo vệ chơn tướng của đạo đức tinh thần của loài người trở mặt ra đối với tinh-thần cường liệt của Chí-Tôn, thì tương-lai nơi mặt thế này sẽ như thế nào? Chúng ta cũng nên để có một câu hỏi. Có một điều ta nên để mắt nhìn coi Chí-Tôn tạo hình thể nào đặng bảo trọng tinh-thần đạo-đức ấy. Ấy là một phương pháp ta nương theo đó đặng tạo dựng khối đức tin vững chắc bền-bĩ vậy.”
Qua hình vẽ tượng trưng dưới đây thì Lão giáo do Đức Lão Tử làm Chưởng Giáo, chủ trương rằng chính con người khổ đây là vì có THÂN này, nếu không có thân thì đâu có khổ.“Hữu THÂN hữu khổ”.Thế nên Lão Giáo老 教 thì cho vạn vật đều gốc ở Đạo, Đời là một cuộc phù vân, hơi đâu mà để trí lo-nghĩ, người ta chỉ nên cùng với Đạo mà vui chơi cùng Tạo hóa, không cần chi đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí; không thiết gì đến pháp luật, chế độ, miễn là được thảnh thơi vô-vi thì thôi. Vì THâN đây chính là cái gốc làm ra Tứ khổ của con người, là lý do đó.
Thánh Giáo Gia Tô, Đức Chúa đã chịu chết trên cây Thánh giá để chịu tội cho nhân loại, phải chịu một mũi kiếm đâm vào trái tim Ngài, là tinh thần phụng sự cao độ.
Hồi-Giáo thì lấy Tín ngưỡng làm căn bản: Tín ngưỡng cũng có hai: Chánh tín và Mê tín. Nếu là chánh tín thì Tôn giáo ấy bền bĩ, lâu dài với thời gian..
Ngày nay ĐẠO CAO ĐÀI chủ trương tu nhập thế là phải Tu thân, Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tập sửa tánh thành cho ngoài trong trọn vẹn, lập ba ngàn công quả như đã nói trên, theo phương Luyện kỷ của Đức Hộ-Pháp đặng vào Con đường thứ ba Đại-Đạo. Hay nói khác đi là TÁNH MẠNG SONG TU: tức là phải tu cả Tâm và Thân.
Ấy là lấy cả TINH THẦN triết lý của các Tôn giáo trên Thế giới từ xưa đến giờ đó vậy.
6-Tôn chỉ cao thượng của Đạo Cao-Đài là gì?
Đức Hộ-Pháp nói: “Cái Tôn-chỉ của Đại-Đạo ngày nay là gồm cả ba nhà Đạo Chánh là Nho – Thích - Đạo. Chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm một, nên chi chúng ta tu Đại Đạo thì phải noi theo Tôn-chỉ của Tam Giáo mà tập rèn tâm tánh. Nghĩa là phải nắm trọn:
- Tam cang Ngũ Thường (Nho-giáo)
- Vẹn giữ Tam qui Ngũ giới (Phật-giáo)
- Luyện Tam bửu Ngũ hành (Tiên-giáo)
Người mà gồm được cả ba thì là gần Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy”.
Đạo Cao-Đài là “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” cho nên có Tôn chỉ rõ rệt:
- Tín-ngưỡng thì thờ Trời và thờ Người.
- Về Luật-pháp thì Bác-ái và Công-Bình.
- Mục-đích là đưa nhân-loại tấn-hoá trên con đường Chân- Thiện- Mỹ. Chung qui dầu ở nơi Tôn-giáo nào cũng lấy TÂM làm gốc:
Tìm hiểu các nhà Tôn-giáo đã dạy đời những gì, đó chính là Tôn-chỉ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay.
-Thích-giáo Phật Thích-Ca làm Chưởng-giáo, dạy:
. Tam qui Ngũ giới
. Minh tâm kiến tánh.
. Thật hành Bác-ái, Từ bi
-Tiên-giáo Đức Thái Thượng làm Chưởng-giáo, dạy
. Tam bửu Ngũ hành.
. Tu tâm luyện tánh.
. Thủ cảm ứng chứng minh.
- Thánh-giáo Khổng-Tử làm Chưởng-giáo, dạy:
. Tam cang Ngũ thường.
. Tồn tâm dưỡng tánh.
. Lấy Nhân-Nghĩa làm hành tàng.
TÓM LẠI: Nho nói: Tồn tâm dưỡng tánh.
Tiên nói: Tu Tâm luyện tánh.
Thích nói: Minh tâm kiến tánh.
Thích nói: TỪ BI,
Nho nói: TRUNG THỨ
Tiên nói: CẢM ỨNG
Tiên nói: Bảo nguơn thủ nhất.
Thích nói: Vạn pháp qui nhứt.
Nho nói: Chấp trung quán nhứt
Cứ đôi câu đại khái đó thì hiểu biết nghĩa lý nào có khác chi? Nên Đức Thể Hà Tiên có bài thi rằng:
Tam giáo nguyên lai nhứt lý đồng,
Hà tu phân biệt các Tây Đông?
Tam hoa, Tam bửu, Tam tài lý.
Ngũ đức, Ngũ hành, Ngũ giới trung.
Nghĩa là: Tam giáo nguyên lai đồng một lẽ, không tất phân biệt khác nhau làm chi, xem như lời: Tam hoa, tam bửu, tam tài; Ngũ đức, ngũ hành, ngũ giới đều dùng chữ TAM, chữ NGŨ mà dạy đời. Vậy thì từ thuở xưa các Đấng Giáo chủ của Tam giáo đã công nhận Tam giáo y nhau như một mới có thuyết Tam Giáo đồng nguyên..
Bài Khai Kinh (Trong Kinh Tứ thời nhựt tụng) nầy do Đức Lữ Tổ (Đại Tiên Lữ-Đồng-Tân) giáng cơ ban cho Minh Lý Đạo (Tam Tông Miếu). Đây chỉ là bài diễn nôm của bài Khai Kinh Kệ Hán-văn trong Kinh Huyền Môn Nhựt Tụng, từ bên Tàu truyền sang nước Ta.
Hội Thánh vâng lịnh Đức Chí Tôn đến Minh Lý Đạo thỉnh bài Khai Kinh nầy về làm Kinh Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ. Nguyên văn bài Khai Kinh bằng Hán văn:
Trần hải man man thủy nhựt Đông,
Vãn hồi toàn trượng Chủ Nhân Công.
Yếu tri Tam giáo TÂM nguyên hiệp,
Trung Thứ, Từ Bi, Cảm Ứng, đồng.塵 海 茫 茫 水 日 東
挽 回 全 仗 主 人 公
要 知 三 教 心 源 合
忠 恕 慈 悲 感 應 同Giải câu 1: Biển trần bát ngát mênh mông nước, mặt Trời mọc ở phương Đông. Đạo cũng phát khởi từ phương Đông
Câu 2: Đạo được trải qua nhiều thời kỳ, cũng nhờ vào Đức Phật Tổ (Tổ Sư), Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức Khổng Thánh, Giáo Chủ của Tam Giáo duy trì đến nay.
Câu 3: Tôn giáo quan trọng nhất là Tâm. Chính cái Tâm này mà Tam giáo làm gốc cho sự qui hợp.
Câu 4: Nho dạy Trung thứ, Phật dạy Từ bi, Lão dạy Cảm ứng (Kinh Cảm Ứng), tất cả đều có bộ TÂM 心.
Bài Khai Kinh được dịch ra như sau:
“Biển trần khổ vơi vơi Trời nước,
Ánh Thái Dương giọi trước phương Đông..
Tổ Sư, Thái Thượng, Đức Ông,
Ra tay dẫn độ, dày công giúp Đời.
Trong Tam giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng làm phải làm lành,
Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành,
TỪ BI Phật dặn: Lòng thành, lòng nhơn.
Phép Tiên Đạo: Tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau,
Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh”.
Bốn câu Hán văn trên được Đức Lữ Tổ giáng cơ diễn nôm thành bài Khai Kinh mà chúng ta thường tụng: Đặc biệt là câu cuối dùng cách chơi chữ rất tuyệt; tức nhiên mỗi chữ trong các từ này đều có bộ TÂM đặt ở dưới Trung thứ 忠 恕 hết lòng thật của mình là Trung, đem lòng mình nghĩ đến người là Thứ. Trung thứ chính là đạo Nhân Nghĩa của Đức Khổng Tử.
Từ bi 慈悲 là lòng thương người mến vật, thương
khắp chúng sanh và muốn giúp chúng sanh thoát khổ. Từ bi là hạnh đặc trưng của Phật.
Cảm ứng 感應 lấy tinh thần mà cảm với Thần linh: Cảm là nhân, ứng là quả; cảm là nguyên động lực, ứng là bị động lực; tỷ như thiện cảm thì phước báo ứng, ác cảm thì họa báo ứng.
Ngày nay, Đạo Cao-Đài Qui Tam Hiệp Ngũ, bởi vì:
“Tam giáo là ba nền Đạo Chánh thuở nay, song bị tay phàm canh cải càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hóa ra phàm giáo. Thượng-Đế lấy làm đau đớn, hằng thấy nhơn sanh phải bị sa đoạ tội lỗi, mạt kiếp chốn A-tỳ, nên nhứt định chuyển "Tam-giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt", chấn hưng Tôn-giáo lại cho hoàn toàn rồi khêu sáng ngọn đèn thiêng-liêng lên để dìu dắt bước đường cho kẻ có công TU- HÀNH mà khỏi xảy chân, lạc lối.
Ấy vậy, tất cả các yếu chỉ này làm tiêu-chuẩn cho mọi hành-vi. Cả Luật-Pháp khuôn viên điều-mục của ba nền Tôn-giáo ấy từ buổi sơ khai có đủ phương diện, quyền năng dìu đời thống khổ. Nhơn sanh trong thời kỳ Thượng cổ còn tính đức, biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng, qui củ của ba nhà: Thích- Đạo- Nho tức là Phật, Tiên, Thánh; nghĩa là phải làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, mới chung hưởng thái-bình, hạnh-phúc.”
7- CAO-ĐÀI là Phật Giáo chấn hưng:
Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I trang 14, chúng ta nhận thấy Đức Phật Thích Ca giáng cơ dạy về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lần đầu tiên vào ngày 26-2-Bính Dần (dl: 8-4-1926) tại đàn Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc). Bài Thánh ngôn do Đức Thích Ca Mâu Ni giáng
THÍCH CA MÂU NI PHẬT:
Chuyển Phật Đạo,
Chuyển Phật Pháp,Chuyển Phật Tăng,
Qui nguyên Đại Đạo.
Tri hồ chư chúng sanh?
Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ.
Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đại hỷ phát đại tiếu.
Ngã vô lự tam đồ chi khổ.
Khả tùng giáo Ngọc Đế viết Cao Đài Đại Bồ Tát
Ma Ha Tát.
(Thích nghĩa: Qui nguyên Đại Đạo: Trở về nguồn gốc là nền Đại Đạo. Tri hồ chư chúng sanh? Chư chúng sanh có biết chăng? Khánh hỷ: Vui mừng. Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ: Hợp được vào Tam Kỳ Phổ Độ. Đại hỷ phát đại tiếu: Mừng lớn, phát cười lớn tiếng. Ngã vô lự tam đồ chi khổ: Ta không lo cái khổ của ba đường luân hồi đày đọa. Khả tùng giáo Ngọc Đế: Khá nghe theo lời dạy của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế.)
Cũng trong đàn cơ nầy, khi tái cầu, Đức Chí Tôn giáng dạy như sau đây:
CAO ĐÀI
Lịch! Con nghe Phật Như Lai nói chưa?
- Tam Kỳ Phổ Độ là gì? - Là Phổ Độ lần thứ ba.
Sao gọi là Phổ độ? Phổ độ nghĩa là gì?
- Phổ là bày ra. Độ là gì? - Là cứu Chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ Phổ Độ phải làm thế nào? Chúng sanh là gì?
- Chúng sanh là toàn cả nhơn loại, chớ không phải là lựa chọn một phần người, như ý phàm các con tính rối. Muốn trọn hai chữ Phổ Độ phải làm thế nào? Thầy hỏi? - Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa.”
8- Đạo Cao-Đài là Tôn giáo toàn cầu
Đức Hộ-Pháp nói:
Tôn giáo, Ngài vi chủ năm châu hiệp Tín ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi. Nắm cả Tín-ngưỡng của loài người lại, chính CHÍ TÔN là CHÚA TỂ Càn Khôn Thế Giái, làm CHÚA nền chính trị tại nước NAM, vi chủ tinh thần loài người tức đủ quyền năng lập QUỐC ĐẠO.
Kỳ khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ tạo một linh-đài qui Tín
ngưỡng của toàn nhơn-loại, đủ quyền năng tiêu-diệt Tà
pháp đặng đem nhơn-loại đến ĐẠI-ĐỒNG.
Nay Đức Chí-Tôn khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là
đúng theo lời Sấm truyền của các vì GIÁO CHỦ ngày xưa.
Chỉ có hai phương diện:
1- Là do TAM GIÁO thất kỳ truyền,
2-Là chính mình ĐỨC CHÍ TÔN giáng cơ lập ĐẠO đặng Qui Nguyên Phục Nhứt, gọi là chấn hưng TAM GIÁO lại cho hoàn toàn, lập Luật Pháp khuôn viên cho phù hợp theo dân trí buổi này mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh, hiệp cả TINH THẦN của các dân tộc biết nhìn nhau một CHA chung là thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ quyền THƯƠNG-YÊU, chung thờ một Tôn-giáo ĐẠI ĐỒNG thì nhơn loại mới gội nhuần ân huệ và đời tranh đấu tự diệt sẽ trở nên đời MỸ TỤC THUẦN PHONG thì vạn loại mới chung hưởng cơ HÒA-BÌNH, phục hồi THƯỢNG CỔ là do THIÊN THƠ tiền định buổi Hạ nguơn chuyển thế hoán cựu duy tân.
Tóm lại: ĐỨC CHÍ TÔN khai ĐẠO kỳ thứ ba này là thuận theo “Lẽ tuần-hoàn châu nhi phục thủy”.
“ĐẠO CAO ĐÀI là nền CHÁNH GIÁO tức là nền ĐẠO CAO ĐÀI này để thay thế tất cả Tôn Giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn Giáo ấy ngày nay không phù hợp với lương tri, lương năng của loài người nữa. Hay nói một
cách khác là các nền Tôn Giáo ấy ngày nay đã bị BẾ.
“Những điều bí yếu bí trọng trong nền ĐẠO CAO ĐÀI, những triết lý cao siêu mà chỉ ĐẠO CAO ĐÀI mới có, tuy nhiên âu cũng là một đặc ân của ĐỨC CHÍ TÔN dành cho ĐẠO CAO ĐÀI là HỘ PHÁP thay lời ĐỨC CHÍ TÔN nói ĐẠO cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quí hay chăng là chỗ đó” (ĐHP).
9- Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà:
Đức Chí-Tôn đã xác nhận qua bài thơ:
Từ thử nước Nam chẳng Đạo Nhà,
Nay TA gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nã ?
Rằng trẻ noi sau biến hoá già !
Đức Quyền Gíáo-Tông cũng nói rõ lý-do là Việt Nam từ trước đến giờ không có Đạo nhà:
“Quả thật vậy !
“Người nước Nam từ cổ chí kim thật không có ĐẠO trong nưóc nhà, mà người Nam ta có tâm đạo, người Nam trổi danh khắp địa-cầu về bề tín-ngưỡng: đạo PHẬT, đạo TIÊN, đạo NHO tuy khai bên ẤN-ĐỘ và TRUNG HOA, sau người Nam biết đặng cũng hết lòng sùng bái. Đạo GIA-TÔ của mấy vị Linh-mục bên Thái-Tây đem truyền bá bên nước ta thì người Nam cũng kính trọng. Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa, đi miễu, đi nhà thờ cầu-khẩn, vọng tưởng hết lòng, ngưỡng-mộ trời Phật. Người không đi chùa, đi miễu, không đi nhà thờ thì trong nhà cũng thờ cha mẹ quá vãng ấy là đạo NHO.
Mấy bằng cớ trên đây chỉ rõ-ràng người Nam-Việt tin-tưởng Trời, Phật, Thánh, Thần; tin-tưởng chắc rằng người chết thì cái xác phàm này chết, tiêu diệt, chớ linh hồn bất tiêu bất-diệt. Vì Đạo-Tâm ấy mà trong thời-kỳ chuyển Đạo này ĐẤNG CHÍ-TÔN thương lòng thành-thật của nhơn sanh nơi đây mà khai TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ (Ân-xá lần thứ ba).
10- Đức Chí-Tôn đến chuyển Quốc-Đạo:
(Đức Hộ-Pháp thuyết ngày 14-10-Quí-Tỵ)
“Thật ra, nếu không phải cái huyền linh vô đối của
Đức Chí-Tôn đến đặng chuyển Quốc Đạo thì trong một thời gian ngắn ngủi nền Đạo chưa rõ đến địa vị cao trọng
và qúi hóa như thế này.!
ĐẠO CAO-ĐÀI tức Đạo Tổ-Phụ của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi; nếu chúng ta kể từ ngày Chuyển thế của nó. Nhưng Thánh-thể Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái Nam Nữ của Ngài nên nhớ rằng: Đạo Tổ Phụ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải nhớ điều đó.
Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó.
Để nói rõ Thánh ý của Đức Chí-Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì ? Giờ phút này cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc-mắc. Vì vậy: Nội tình của Đạo gặp nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta không nói rằng nó đã chịu một khó khăn về mọi phương diện.
Nhưng đối với Bần-Đạo, Bần-Đạo thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục, chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần-Đạo lại vui mừng mới chướng cho chớ ! Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó, tô điểm nó đến một địa vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức Chí-Tôn đều tin nơi Bần-Đạo để con mắt quan sát coi có quả như vậy hay không?
Cái khó đảm-đương đương-nhiên bây giờ là không làm cho thêm nhục cơ-thể Đạo là sửa soạn tô điểm đặng một Đài vinh diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây, nếu cả con cái Đức Chí-Tôn có Đức-tin thì hiểu rõ điều ấy.”
C- Nghiên cứu về Chánh-Trị của ĐẠO theo
TÂN LUẬT & PHÁP CHÁNH TRUYỀN
Theo lời Đức Hộ-Pháp giảng giải trên cho biết là:
- Đạo Cao Đài thành hình là do HUYỀN DIỆU CƠ BÚT.
- Đức Thượng Phẩm là chi Đạo, tức mở đường xuất Thánh
- Danh “ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ” ra đời.
- Thập nhị Thời Quân xuất hiện tức Thập Nhị Thời Thần.
- Trước đó đã có ông Ngô văn Chiêu biết Đạo Thầy.
- Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất hiện ra
Hội-Thánh Cửu Trùng Đài..
Xem thế thì Đức Chí-Tôn đã “Khai Đạo muôn năm trước định giờ” nhưng khi mở Đạo tại thế gian này thì mở Thể pháp trước.Việt Nam hân hạnh đón nhận nền Đạo mới
1- Dùng huyền diệu Cơ Bút Chí-Tôn dụng tánh đức lương sanh lập Hội-Thánh
“Buổi Hạ nguơn Tam Kỳ Phổ độ là thời kỳ Ân xá tội tình cho toàn cả chúng sanh; lại nhơn buổi văn minh, nhơn loại thông đồng, càn khôn dĩ tận thức, cho nên Đức Chí-Tôn dùng Huyền diệu Cơ bút giáng Cơ khai Đại Đạo, chủ nghĩa là độ tận 92 ức nguyên nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đoạ cõi hồng trần nên gọi là cơ quan cứu thế.
Nếu Đức Chí-Tôn chiết chơn linh giáng thế như các vì Giáo chủ trước thì phải tá mẫu đầu thai, mang phàm thể hữu vi, lại nữa là Đạo khai trong nước Việt-Nam thì phải thọ sanh hình hài người Nam Việt thì có thể nào chuyển ba mối Đạo khắp Ngũ châu và toàn cầu thế giới đặng. Lại nữa các dân tộc trong Vạn quốc không thể hiệp đồng sự Tín ngưỡng làm một thì khó mà độ tận chúng sanh, cho nên Đức Chí-Tôn giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút đặng làm cho các nước để trọn đức tin rằng một Đấng Chí-linh giáng thế cứu đời qui tụ cả khối tinh thần của nhơn loại duy nhất. Chỉ rõ bằng cớ như kỳ các Tôn giáo tại Luân đôn thì các nước đều công nhận Đạo Cao-Đài là chơn thật có thể qui nguyên Đại-Đồng Tôn giáo và tại Toà Nội các năm 1933 Hạ Nghị Viện có 424 vị thân sĩ cùng đồng bỏ thăm toàn công nhận Đạo Cao-Đài.
Đức Chí-Tôn chẳng giáng bằng xác thân mà lại dụng tánh đức lương sanh lập quyền Hội-Thánh thay hình thể hữu vi cho Đức Chí-Tôn, thay thế và lập Vạn linh đối phó cùng quyền Chí linh, ấy là cơ mầu nhiệm cứu vớt quần sanh giải thoát khỏi chốn sông mê bể khổ.
Kỳ Hạ nguơn này dầu chúng sanh có tàn bạo hung ác thế nào cũng không làm hại xác thân của Đức Chí-Tôn như các vì Giáo chủ buổi trước vậy.
Bởi quyền Vạn linh có đủ nghị lực tinh thần lập khuôn viên Luật pháp xây chuyển cơ Đạo và cơ Đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn của tạo hoá. Đức Chí-Tôn khai Đạo kỳ ba này giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút là do nơi Thiên thơ tiền định chuyển Đạo vô vi hiệp Tam giáo Ngũ chi làm một” (ĐHP: 1-7 Mậu-Dần – 1938)
2- Nước Nam có một CHỦ mà thôi: là Thầy
Thầy dạy: ngày 21-8-Bính Dần ( Thứ hai, 27-9-1926)
“Các con. Thầy dặn các con, từ đây ai nói chi tùy ý, cứ nghe một Thầy thì khỏi lầm lạc.
Con TRUNG cứ lo khai Đạo, món binh khí tà quái vì đó mà tiêu diệt. Nước Nam có một chủ mà thôi:là Thầy. Từ trước vì nhiều Đạo trong nước mà chẳng một Đạo nào chơn chánh, làm mạnh quốc dân, nên nước phải yếu, dân phải hèn. Dân tộc các con duy biết làm tớ chớ chưa biết làm Chủ. Thầy vì thất lẽ công bình thiêng liêng ấy mới giáng trần lập Đạo tại Nam phương, tức là thay mặt Càn Khôn Thế giới mà qui chánh truyền nhơn loại.
Trong mối Đạo Thầy đã lập thì hằng nói tiên tri rằng: Ngày kia có một nước đương trong vòng nô lệ, vì Ta mà làm Chủ nhơn loại, các con hiểu à !”
Đừng nghe, vì nếu chẳng vậy, ngôi Giáo Tông chẳng ai dám ngồi. Tất cả sáu ngôi kia, hễ các con đến dựa thì quỉ giết chết, nghe à !
Lập Nhơn phẩm làm Thiên phẩm chẳng dễ chi mà không dùng huyền diệu.
Còn Nhạc Lễ là phép nhà Nam, Thầy muốn giữ gìn sao cho trọn vẹn, các con hiểu ?
Các con hơi nào nghe lời thế sự, một điều nào cũng chưa quyết đoán cho cùng phải quấy.
- Khi Thích Ca truyền Đạo, dân Brahma cho là Bàng môn vì khác Thánh giáo Phật đạo.
- Khi Lão Tử truyền Đạo thì đời cho là phép mê hoặc.
- Khi Chúa Jésus truyền Đạo thì nhà Israel gọi là cải Chánh đạo, đến đỗi bắt giết.
Các con muốn vừa lòng Thiên hạ thì là giỏi hơn Thầy rồi. Thầy khuyên đừng nao núng, các con ngó Thầy trước, các con coi bước Thầy đi trước, các con cứ đi theo sau Thầy là đủ. Cười !”
3- LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN CỬU TRÙNG ĐÀI
Pháp Chánh Truyền của Đạo Cao Đài là thành văn Hiến pháp Thiêng Liêng, do Đức Chí-Tôn giáng cơ lập thành sau ngày Khai Đạo (là 15-10-Bính Dần) một ngày
Qua ngày 16-10-Bính Dần (dl 20-11-1926) Đức Chí Tôn giáng Cơ lập Pháp Chánh Truyền tại Thánh Thất Gò Kén (Từ Lâm Tự) Tây Ninh.
Trước tiên là lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài phân định rõ phẩm cấp và chức năng của mỗi phẩm từ
Giáo Tông đến Lễ Sanh. Mỗi phẩm đều có chữ GIÁO hay chữ SƯ. Đến phẩm Đầu Sư là Thầy của các Thầy; nghĩa là từ Giáo Hữu trở lên mới đứng vào hàng Chức Sắc, Thánh
Thể của Chí-Tôn.
Phẩm Lễ Sanh chưa được vào hàng Chức sắc, chỉ là người có hạnh đức dùng vào việc lễ nghi. Ngày xưa dùng phẩm Lễ sanh này là người dâng Lễ (nay đổi ra là Lễ Sĩ)
Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ là Phổ Độ, thế nên quyền Chí Tôn hữu hình tại thế là khi nào Giáo Tông hiệp cùng Hộ-Pháp làm một.Từ khi Đức Lý Giáo Tông hiệp với Đức Hộ-Pháp mới lập thêm Bàn Trị sự gọi là Hội Thánh Em, do vậy mà phẩm Lễ Sanh mới được nâng lên hàng Chức sắc, có trách nhiệm thuyên bổ, đảm trách vụ đặc sứ, sau này Cai quản Tộc Đạo nên còn là Đầu-Tộc Đạo.
Hội-Thánh Cửu Trùng Đài là cơ quan Hành pháp, nắm quyền hành-chánh-đạo, phổ thông chơn đạo đến khắp chúng sanh, nên Luật ghi: nếu có vị nào nói rằng không thông lý Đạo thì Chức việc Bàn Trị Sự phải chịu trách nhiệm thiếu giáo hoá mà cấp lãnh đạo là Lễ Sanh và Giáo Hữu (Đầu Tộc đạo, Khâm Châu Đạo).
Ấy phần Thế Đạo tượng trưng xác thể của Chí-Tôn.
4- LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN HIỆP-THIÊN-ĐÀI:
Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền Thiêng liêng mối Đạo. Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài còn. Hiệp Thiên Đài là Chơn thần trung gian giữa xác và hồn. Cửu Trùng Đài muốn thông công cùng Bát Quái Đài, phải nhờ Hiệp-Thiên-Đài làm trung gian, ấy là nơi của Giáo Tông đến để thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Địa cầu mà cầu siêu-rỗi cho nhơn loại. Thế nên Pháp Chánh Hiệp-Thiên-Đài phải lập riêng, đó là cơ quan TƯ PHÁP, bảo thủ chơn truyền.
Ngày 12-01-Đinh Mão (dl 13-02-1927) Đức Chí Tôn giáng Cơ lập Pháp Chánh Truyền Hiệp-Thiên-Đài. Từ đây Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Chưởng Quản của Hộ Pháp,Tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân chia làm ba Chi: Pháp,Đạo, Thế
5- LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN NỮ PHÁI:
Qua tháng Giêng năm Đinh Mão. Đức Lý dạy:
Trước khi bàn đến việc lập Pháp-Chánh-Truyền Nữ
phái, nên nói qua lý-do vì sao Đức Chí-Tôn không lập mà để cho Đức Lý đứng ra lập ?
(Trích y Thánh-ngôn của Giáo-Tông Lý Thái-Bạch)
“Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục Nữ phái:
PCT: Nữ-phái phải tùng Đầu-sư Nữ-phái, songĐầu sư lại phải tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng Pháp.
CG: Hội-Thánh Nữ-phái phải tùng quyền Đầu-sư Nữ-phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo-Tông và Chưởng-Pháp. Nữ-Đầu-sư quyền như Nam-phái, song điều đình bên Nữ-phái mà thôi, chẳng đặng xen lộn qua Nam, cũng như Nam chẳng đặng xen lộn qua Nữ. Mỗi điều chi thuộc về Nữ-phái thì Giáo-Tông và Hộ-Pháp chỉ do nơi Nữ-Đầu-sư.
PCT: “Đầu sư Nữ phái chịu công cử theo luật Hội Thánh ban hành, theo luật Hội-Thánh phân xử đường Đời và đường Đạo”.
Chú-giải: Đầu Sư Nữ-phái phải tuân y Tân-Luật của Hội Thánh về đường Đạo và đường Đời, phải chịu dưới quyền Hội-Thánh xử trị cũng như Nam-phái vậy, dầu cho sự công cử lên các phẩm vị cũng phải tùng y như luật Hội Thánh ban hành; nhứt nhứt y quyền Nam-phái, không điều chi cải sửa, dầu cho sự hành chánh cũng vậy. Quyền hành sự cũng về nơi Chánh Phối-sư. Đầu-sư không đặng phép lấn quyền; hễ lấn quyền thì phạm Pháp Chánh Truyền, cũng như Đầu sư Nam-phái vậy.
PCT: Đầu-sư Nữ-phái mặc một bộ Đạo phục y như Đạo phục Đầu sư Nam phái, phải đội một Ni-Kim-Cô như các Vãi Chùa, toàn hàng trắng, áo chín dải có thêu bông sen. Trên Kim Cô có choàng từ đầu tới gót. Đội Mão Phương Thiên, trên chót Phương Thiên ngay đầu tóc có Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, đi giày vô ưu màu trắng, trên chót có đề chữ “Hương” nghe à!”.
Chú Gỉai: Đầu-sư Nữ phái mặc một bộ Đạo phục toàn là hàng trắng có thêu bông sen, y như Đạo phục Đầu sư Nam phái, áo chín dải, đội một cái Ni-kim-cô; nghĩa là cái Ni kim Cô bằng hàng trắng, y như của các vãi chùa, có thêu bông sen, bao quanh đầu một cái Kim-Cô bằng vàng. Trên Ni-kim-cô ấy phải choàng một cái Mão Phương Thiên, nghĩa là: cái choàng bằng hàng cho thiêt mỏng, trên chót thêm một cái Mũ bằng vàng chụp trọn đầu tóc, chính giữa ngay trước mặt có chạm Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí. Cái choàng của Mão Phương Thiên phải cho thiệt dài, ba thước ba tấc ba phân, vì mỗi phen lên ngự trên Ngai; thì phải có hai vị Lễ Sanh Nữ phái theo sau, nâng đỡ chẳng cho phết dưới đất, chơn đi giày vô ưu toàn bằng hàng trắng, trên chót mũi giày có chữ “HƯƠNG” là Tịch Đạo.”
Nhận thấy qua ba thời điểm lập Pháp Chánh Truyền:
* Ngày 16-10-Bính Dần (dl:20-11-1926) lập Pháp Chánh
Truyền Cửu Trùng Đài.Cửu Trùng Đài tượng quẻ Khảm ☵ (xem Dịch Lý Cao Đài I cùng Soạn giả có giải rõ)
- Ngày 12-01-Đinh Mão (dl: 13-02-1927) lập Pháp Chánh
Truyền Hiệp-Thiên-Đài. Hiệp Thiên Đài tượng quẻ Ly ☲
-Tháng 1 năm Đinh Mão lập Pháp Chánh Truyền Nữ-phái
Vậy là đủ Âm Dương rồi. Bấy giờ lập PCT Nữ phái nữa là hoàn thành con số 3 là Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân.
“Như vậy số 3 gọi là Tam, mà Tam là Càn khôn vũ trụ định thể. Số 3 là con số thiêng-liêng tạo-đoan vạn-vật là vậy”.
Thấy ra con “SỐ 3” này là con số huyền diệu, là con số căn bản nhất.
Hơn nữa: Thầy lập PCT Cửu Trùng Đài trước rồi mới lập PCT Hiệp Thiên Đài sau, tức là mở Thể pháp trước, mở Bí pháp sau. Tất cả đều đi vào nhất quán. Lý Đạo nhiệm mầu là thế !
Pháp Chánh Truyền tức là cơ quan truyền Chánh Pháp thì do quyền năng của Thượng Đế giáng Cơ lập thành. Song song với thời gian này Đức Chí-Tôn dạy nhơn sanh lập Luật để tu, tức là Tân Luật. Như vậy thì Tân Luật này uyển chuyển hơn, tức là có thể thay đổi tùy theo trình độ tiến hóa của nhơn sanh.
Nếu Tân Luật là Âm, thì Pháp Chánh Truyền là Dương. Âm Dương tương hiệp thì từ đó mới biến hóa và mãi mãi trường tồn. Đạo Cao Đài thất ức niên là bởi đó. Lại nữa
- LẬP HỘI-THÁNH
Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ gồm ba Đài: Hiệp-Thiên, Cửu Trùng và Bát Quái.
“Thể Ðạo của Chí Tôn cũng phải nương theo chữ HÒA mới toan thành lập, Chí Tôn định thành Hội Thánh, đặng thay thế hình thể của Người, thì cũng tùng theo phép Tạo Hóa cá nhân mà gây nên ảnh tượng:
- Cửu Trùng Ðài là thi hài, ấy là TINH.
- Hiệp Thiên Ðài là chơn thần, ấy là KHÍ.
- Bát Quái Ðài là linh hồn, ấy là THẦN.Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Ðạo cho đặng. Nếu có một quyền hành nào tại thế nầy mà làm cho thân thể Chí Tôn phải chia phui manh mún ra đặng, thì là Ðạo ta là giả Ðạo, tất nó phải tiêu diệt
trong một lúc ngắn ngủi chi đây.
Còn như quả là Chí Tôn vì thương yêu con cái của Người, chính mình đến lập Ðạo đặng giải thoát cho chúng sanh, thì những mưu chước của tà quyền ngăn cản bước Ðạo của Thầy khó mong nghịch mạng với Chí Tôn, ắt là không mong bền vững” (PCT).
Hai Đài Hiệp-Thiên và Cửu Trùng thuộc hữu vi, dưới quyền Chưởng quản của Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Âm Dương tương đắc, tương điều hòa nhau. Riêng Bát Quái Đài thuộc vô vi, dưới quyền Đức Chí-Tôn Chưởng Quản, gồm các Đấng Trọn lành (biểu tượng phần trên nóc Tòa Thánh từ Tam Thế Phật đến tượng Đức Di Lạc Vương Phật trên nóc Phi Tưởng Đài) cũng hoàn thành số 3 tam tài
A- Hội-Thánh Cửu Trùng Đài
Lần nầy Thầy chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị hiền, Tam Thiên Đồ Đệ.
Thầy dạy: “Giáo-Tông là Anh Cả các con” (PCT)
Chú giải: “Giáo Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại thế, thì Anh Cả nhơn sanh đặng dìu dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi, quyền Thiêng Liêng đã định vậy.
Tuy trong Hội Thánh có chia ra hai phần hữu hình là: “Cửu Trùng Ðài” và “Hiệp Thiên Ðài” mà nơi Hiệp Thiên Ðài, dầu cho Hộ Pháp cũng phải là em của Giáo Tông, song Hộ Pháp phải nhỏ về phần hữu hình đã nói trên đây, chớ phần Thiêng Liêng thì đồng vị.”
Thầy mở Đạo kỳ này chọn: nhứt Phật, Tam Tiên, đó là hàng Tiên-vị. Cái siêu tuyệt của Đạo Cao-Đài ở chỗ là quyền Giáo Tông so với Giáo Hoàng của Tòa Thánh Vatican (La Mã) nhưng nhơn sanh chỉ xem Ngài là “Anh Cả”. Tiếng Anh Cả này tức là “Quyền Huynh thế ngôn” hay là “Quyền Huynh thế phụ” mà thôi. Nghĩa là nền Đại Đạo này là một đại gia đình Tôn giáo. Chữ Huynh 兄 là ANH tự nó đã nói lên: Anh là người chỉ dùng miệng (khẩu 口) để khuyên dạy em mà thôi, chứ không được đánh đập hành hạ. Bởi “Giáo-Tông là Anh Cả các con”. Suốt hệ thống tổ chức Cửu Trùng Đài có tính nhất quán như thế:
1- Hội-Thánh Cửu Trùng Đài Nam phái gồm:
- 1 Phẩm Giáo Tông (Nhứt Phật) Lãnh đạo tối cao toàn Đạo có phận-sự dìu dắt Đạo-hữu trong đường Đạo và đường Đời. Pháp Chánh Truyền qui định:
“Giáo-Tông là Anh Cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông-công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên thế-giái, Lục thập thất Địa cầu và Thập điện Diêm-cung đặng cầu rỗi cho các con” (PCT)
- 3 Chưởng Pháp (Tam Tiên) Lãnh nhiệm vụ nghiên cứu Luật Pháp Đạo trước khi ban hành cho toàn Đạo.
- 3 Đầu Sư (Tam Tiên): Cầm quyền Chánh Trị Đạo ban hành Luật Pháp Đạo.
- 36 Phối Sư (Tam Thập lục Thánh): Mỗi phái 12 vị. Trong số này có 3 vị Chánh Phối Sư làm đầu, dưới quyền ba vị Đầu Sư cai trị Đạo.
- 72 Giáo Sư (Thất thập nhị Hiền): Mỗi phái 24 vị. Có phận sự dạy dỗ Đạo Hữu trong đường Đạo và đường Đời. Được quyền dâng sớ cầu nài về Luật Lệ làm hại Nhơn Sanh hay là cầu xin chế giảm Luật lệ ấy.
- 3.000 Giáo Hữu (Tam thiên Đồ đệ): Chia đều mỗi phái 1.000, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. Lãnh phận sự phổ thông Chơn Đạo.
- Lễ Sanh: Không hạn định số. Lễ Sanh là người có
hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai đàn cho mỗi Tín Đồ.
Nam Phái chia làm 3 phái: Phái Thái (màu vàng), Phái Thượng (màu xanh da trời), Phái Ngọc (màu đỏ). Như vậy các bậc phẩm gồm có: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng Pháp với các con số chia đều nhau, lấy số 3 làm ước số. Trừ Giáo Tông có một.mà thôi. Tức nhiên dù hiện tại hay mãi mãi về sau cũng vậy:
GIÁO TÔNG CHỈ CÓ MỘT.
Vì là người thay mặt cho Đức Chí-Tôn, chữ “thay mặt” phải là một người chứ không thể nhiều người được ?. Ông Trời chỉ có một, người thay mặt chỉ có một. Không thể nào có ông Trời nơi này, ông Trời nơi khác. Cũng như mặt Trời chỉ có MỘT mà thôi vậy.
Tuy nhiên lý đạo cao siêu mầu nhiệm quá !
Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hóa nhơn sanh, là môi-trường học-hỏi, tiến-hóa theo ba bực, mỗi bực có ba phẩm-cấp. Như trên đã nói là hàng Tiên-vị tượng-trưng bằng 7 cái Ngai, mà Ngai của Giáo-Tông ở giữa, đặt trên hết và lớn hơn hết. Các phẩm cấp lần-lượt là Tiên-vị, Thánh vị rồi đến Thần-vị.Vậy trường Đại-Đạo theo như Đức Hộ-Pháp dạy:
-“Thể-pháp của Đạo Cao-Đài là một trường công quả của chúng ta, trường công-quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công, lập ngôn.
- Bí-pháp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con cái của Ngài giải-thoát.”
2- Trường hợp ngoại lệ:
- Thực tế ngôi Giáo Tông có ba:
Hình vẽ sau đây biểu hiện rõ 7 phẩm tước của hàng Tiên vị, Giáo Tông vẫn làm Chủ Cửu Trùng Đài. Đồ hình có 7 vòng tròn nhỏ có đường kính bằng nhau. Một vòng giữa định cái tâm, 6 vòng xoay chung quanh là vai trò của
mỗi vị gọi là "Các hữu thái cực". Pháp chánh Truyền qui định ngôi Giáo Tông chỉ có một, nhưng thực tế có ba:-Ban đầu Đức Chí-Tôn định phong phẩm Giáo Tông cho Ông Ngô văn Chiêu, nhưng trong 10 ngày ông không vượt qua được sự thử thách của Quỉ khảo, nên rớt, ông lập Chi phái Chiếu Minh Vô vi rồi đến Chiếu Minh Tam Thanh...
- Đối với nền Đại Đạo hiện giờ thì Đức Lê văn Trung là Quyền Giáo Tông để điều hành Hội-Thánh Cửu Trùng Đài hữu hình (Quyền tức là chưa chánh vị).
- Đức Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh giờ
này kiêm thêm chức Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
tức là Giáo Tông vô vi.
Xem như ba vị Giáo-Tông đứng vào ba đỉnh của Tam giác nội tiếp trong vòng tròn giữa, là hình ảnh của KHÍ mà ba ly rượu trên Thiên bàn (6-7-8) làm biểu tượng.
Vậy: - Đức Lý tượng cho Thần (số 8).
- Đức Quyền Giáo Tông tượng cho Khí (số 7)
- Ngài Ngô văn Chiêu tượng cho Tinh (Ngài tượng cho số 6 như nói trên, tức là còn chịu ảnh hưởng của Lục dục, do đó Ngài không thắng nỗi Tà quái khảo. Sau Ngài lập phái Chiếu Minh và khi Ngài qui thì liệm xác hài trong tháp hình Lục giác) (số 6)
Đức Quyền Giáo Tông đăng Tiên nhập bửu tháp hình Bát giác. Tuy số 7 tượng Thất tình nhưng Ngài đã biến nó thành Thất bửu, tức là thăng hoa vào hàng Tiên vị.
Số 8 là thuần thành, là đạt LÝ vậy (Lý Đại Tiên)
"Một mà ba, tuy ba mà một" là vậy.
3- Hành tàng của các Giáo-Tông:
Pháp chánh Truyền dạy: “Giáo Tông chỉ có một” nhưng thực tế thì có đến ba Giáo Tông:
1/-
Ông Ngô văn Chiêu: Đức Hộ-Pháp xác nhận:
“Đi thâu Thập-Nhị Thời-quân rồi, Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một người thờ Ngài là ông Ngô-văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh Phối-Sư Hương-Hiếu may sắc-phục Giáo-Tông cho Người, kỳ hạn trong mười ngày Người sẽ được lên làm Giáo Tông. Trong thời-gian mười ngày, chỉ có mười ngày mà thôi ! Chúng tôi không hiểu nguyên-cớ nào Ông Ngô văn Chiêu không hưởng được điạ vị ấy. Ông Ngô-văn Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ-sứ buổi nọ, ở tại Hà-Tiên, do nơi Cơ bút, Đức Chí Tôn đến với Ngài và thâu Ngài làm Môn-Đệ đầu tiên hết, là Người được Đức Chí Tôn xưng là “CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT”.
Đàn Ngày 25-6-Bính Dần (dl: 3-8-1926) có giải rõ:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
Giáo Đạo Nam Phương“Chư môn đệ nghe dạy:
Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ, Chưởng quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.
CHIÊU, thiệt là Nhứt Phật đó. Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức Giáo Tông cho nó, thì Chúa Quỉ sai Tam thập lục động địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy và kiện rằng Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng TA. Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức Giáo Tông cho nó. Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó và phải để cho Tam thập lục động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác.
Rủi thay ! Đau đớn thay ! Buổi khảo nó phải bị Tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng.
Đại lụy! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải Tịnh thất.
Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục động khảo nữa thì mới liệu sao? Ta phải giáng cơ biểu nó.
Con Thơ! con phải tuân nơi lịnh Thầy đã dạy khi Thầy giáng cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe. Kẻ bị tù còn có thế rỗi ai chăng?
Chư Môn đệ khá nghe lịnh dạy, từ đây, ai còn phạm đến thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của
Thầy.” Thầy thăng.
(Trích trong tập Thánh Ngôn chép tay của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, trang 237)
Ngày 9-1 Bính-Dần (dl 21-2-1926)
Đức Chí-Tôn giáng Cơ ban cho Ông Chiêu bài thơ:
Bao năm dạy-dỗ quá dày công (1) .
Lời hứa năm xưa gắng giữ lòng.
Siêu đọa đôi đường tua chọn lấy.
Lơi chơn một bước sẽ hoàn không!
Cao Đài
(1) có bản chép “Ba năm” thì hợp với thời gian trường trai mà Thầy đến dạy dỗ ông.
2/- Đức Lý Giáo Tông ban “Quyền Giáo Tông” cho Ngài Thượng Trung Nhựt
Theo Đạo Nghị Định thứ hai. Điều thứ nhứt:
“Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo-Tông về phần xác, còn phần Thiêng Liêng có Lão.
Làm tại Toà Thánh Tây Ninh, ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ. Ký tên Hộ-Pháp Phạm Công Tắc và Giáo Tông Lý Thái Bạch”.
Đức Hộ Pháp xác nhận:
“Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông
rồi mới xuất-hiện Hội-Thánh Cửu Trùng-Đài đó vậy. Sự vinh-dự này chính Đức Quyền Giáo-Tông đã được hưởng một cách xứng đáng. Bởi vì chính mình Đức Chí-Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội-Thánh. Ngài đi đến đâu Hộ-Pháp cùng Đức Cao Thượng-Phẩm theo phò-loan để Đức Chí-Tôn thâu Môn-đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt giáo hóa, chính do nơi Ngài cầu-khẩn Đức Chí-Tôn thâu Môn đệ, Ngài luôn luôn đi các nơi để Phổ-độ chúng-sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo, Đức Chí-Tôn sai hết các Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài tức Thập-Nhị Thời Quân đi phò-loan cùng
hết, không có chỗ nào không có Cơ Bút. Người thì xuống miền Tây, người đi miền Trung, đi cùng hết.
Thâu Môn-đệ xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây Ninh
mở Đạo. Với hai bàn tay trắng không có một miếng đất
cắm dùi làm sao mở Đạo !”
Khi Đức quyền Giáo-tông qui Tiên, Ngài ngậm ngùi:
- “Vì sao Ðức Thượng-Ðế không chọn người nào khác, lại đem mối Ðạo lớn lao mà trao lại cho Người lúc ban sơ ? Mà những người có công tu luyện theo Ðạo này, Ðạo khác cũng chẳng hiếm gì, mà sao Ðấng Chí-Tôn không dùng ai trước ? Có ai dám nói Ðấng Chí-Tôn dùng lầm ! Vậy thì, Tôn-chỉ của Ðại-Ðạo đã biểu lộ ra rõ-ràng, bí quyết đoạt Ðạo chẳng phải do một mặt yểm thế để tịnh dưỡng tinh thần, mà lại phải lịch-lãm nhơn sự và phải siêu quần xuất chúng, rồi lấy đạo đức mà cứu vớt nhơn quần. xã hội, phải tùy sở nhu của chúng sanh mà lập phương phổ hóa, thì cái công tu luyện kia mới bổ ích cho. Vì vậy mà Anh Cả chúng tôi mới đắc dụng trong Ðại-Ðạo Tam Kỳ Phổ-Ðộ.
Anh Cả chúng tôi là người gồm có nhiều điều kiện hạp với tân thời, mà cũng không nghịch với phong hóa cũ. Vậy nên, Ðấng Chí-Tôn mới dùng Người để làm mô phạm cho anh em Ðạo Hữu và cho Đời thấy rõ một phần chơn lý trong Tôn chỉ Ðại-Ðạo. Theo thời đại khoa học đương nỗ lực phát dương này, nếu đem cái thuyết Duy tâm cực đoan mà phổ hóa chúng sanh không khỏi bĩ-lậu, còn nếu chuyên một mặt Duy vật mà tiến hành thì xã hội phải có ngày tiêu diệt về nạn cạnh tranh phấn đấu. Vậy phải chiết trung hai thuyết mà dung hòa thì đời mới đặng vừa tấn hóa theo văn minh khoa học, vừa duy trì đặng tâm hồn đạo đức. Nhờ hiểu ý nghĩa cao thâm như vậy mà Anh Cả chúng tôi không vì hoàn cảnh mà phải quá ư thiên lệch về một mặt nào.
Chúng tôi còn nhớ lời tuyên bố rất thành thật của Anh Cả chúng tôi như vầy: “Ngày nào nhơn sanh còn khốn khổ, thì chưa phải ngày Anh tọa hưởng an nhàn. Dầu Anh đắc quả mà qui Tiên đặng sớm, Anh cũng nguyện tái kiếp để độ tận chúng sanh”.
3/-Thầy giao Đức Lý Thái Bạch kiêm nhiệm
Giáo Tông Đại-Đạo:
Từ khi Thầy định ban chức Giáo Tông cho Ngài Ngô văn Chiêu, thì Quỉ Vương xin thử thách ông Chiêu. Ông Chiêu không vượt qua nỗi các thử thách này nên đành chịu mất ngôi Giáo Tông. Kể từ đó ngôi Giáo Tông để trống. Nay cần phải có phẩm vị Giáo Tông để điều hành nền Đạo nên Đức Chí Tôn giao quyền cho Đức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, để điều khiển nền Đạo này. Do Thánh ngôn sau đây:
Ðại Ðàn Chợ Lớn [tại Nhà Ngài Lê văn Trung]
Ngày 23-9-Bính Dần (dl: 29-10-1926)NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
Giáo Đạo Nam phươngHỉ chư Môn đệ, chư Nhu, chư Ái nữ. Các con nghe:
“Thầy buộc phải nói rõ cho các con đừng lầm mà trách Thầy. Cha hiền chả biết hành hạ con cái bao giờ. Thầy đã đến mà dìu dắt từ đứa thì lẽ nào lại đành lòng xô đuổi. Thầy thấy các con bị phép thử thất Ba Trấn lập thành thì đã hiểu nhiều đứa bị hành. Thầy ngậm đau nuốt thảm ngồi nhìn. Thầy chẳng để thử thất, Ba Trấn trách Thầy vì yêu mến quá lẽ mà làm mất hết công bình, nhứt là Lý Thái Bạch kêu nài hơn hết.
Dầu Quan Âm và Quan Thánh xin cũng chẳng đặng. Nhứt là buổi thử thất ấy, lại nhằm ngày khai Thánh Thất thì các con đủ hiểu là hại dường nào, song phải dằn
lòng chịu vậy. Các con ngã thì tại nơi Thầy. Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế nào cũng chẳng chịu. Lại để lời tiên tri mà dặn trước, nào dè Thánh Ngôn các con không đọc, lời Thầy nói cũng như không, mới ra tội lỗi các con phạm thượng thế ấy.
Vậy từ đây, quyền thưởng phạt đã giao vào tay Lý Thái Bạch. Các con liệu mình mà cầu rỗi nơi Người. Thầy dạy dỗ, các con không nghe, đợi có hình phạt thì các con chịu lấy.
(Ð.Q... thượng sớ). Cười.!...
Ð.Q: Cả môn đệ Thầy duy có biết một chớ không biết hai. Kẻ nào cưu tâm chia phe phân phái là đứa thù nghịch của Thầy. Con hiểu à!
Tái cầu:
LÝ THÁI BẠCH
Hỉ chư Đạo hữu. Thiên phong bình thân.
Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo. Vậy các Đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền Đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn đã hết sức
nhọc nhằn cùng sanh chúng.
Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối Đạo cũng chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy.
Thưởng phạt tuy chẳng phải hữu hình, nhưng là một sự mừng vui, chưa có bậc cao thượng ở thế nào bằng và một sự buồn bã nào sánh đặng. Dầu có ăn năn hối hận mấy kiếp, ngày giờ cũng đã qua rồi. Ngôi Cực Lạc vẫn có người choán hết. Phần nhiều các Đạo hữu dày công mà xây đắp nền Đạo, nhưng sự ham muốn còn bôn chôn theo tình thế. Công đã nhiều mà bước tới nữa, dường như ngán bước, gặp sự gay go đã mỏn lòng. Than thay! Tiếc thay!
Ðặng bậc Chí Tôn cầm quyền thế giới dìu dắt, rửa lỗi, mà chẳng bươn chải cho kịp thì, để đua nhau nghĩ tính về miếng đỉnh chung, nếu Thầy chẳng Đại từ Đại bi thì công quả đã chảy theo dòng nước.
Từ đây Bần Đạo phải để ý dìu dắt bước đường cho các Đạo Hữu, phải gắng công thêm nữa cho hiệp với cơ Trời. Ai hữu phước thì địa vị đặng cao thêm, ai vô phần thì bị đọa Tam pháp. Phước phần cũng khó lựa người, rủi rủi may may đừng trách nơi Bần Đạo.
Bần Đạo xin chào các Đạo hữu. Bần Đạo kiếu”.
Xem thế:
Từ nay: ngày 29-10-1926, Ðức Chí Tôn giao quyền thưởng phạt Chức sắc cho Ðức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Phép thử thất Ba Trấn lập thành, tức là Cách thử thất do Tam Trấn Oai Nghiêm lập ra để chọn lọc Chức sắc làm cho giá trị thêm cao. Thử thất là bày ra cuộc thi khả năng đạo đức, thử xem ai chịu nỗi thì đậu, ai không chịu nỗi thì rớt..Ba Trấn là Tam Trấn gồm: Lý Thái Bạch, Quan Âm Bồ Tát, Quan Thánh Ðế Quân.
Ð.Q. là Ngài Trần Ðạo Quang, Quyền Thượng Chưởng Pháp. Sau rồi Ngài cũng bỏ Đạo lập Chi Phái.
Ðọa Tam Pháp là nếu “tội phạm Thiên điều” thì bị đọa Tam đồ bất năng thoát tục. Nếu phạm các tội nặng khác như thập ác, ngũ nghịch thì bị đọa vào ba đường khổ trong Lục đạo luân hồi. Ba đường khổ nầy theo Phật giáo là: Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.
Nhân sanh niệm danh Ngài là:“Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”.
Như vậy Giáo Tông có 3 người tức nhiên hiệp đủ
TINH- KHÍ –THẦN rồi.
- Ông Ngô văn Chiêu là TINH
- Ông Lê văn Trung thuộc về KHÍ
- Đức Lý thuộc về THẦN
“Ba mà một, một mà ba là vậy”.
4- Đức Quyền Giáo-Tông thi-hành
Thể-pháp Đại-Đạo
Nơi Cửu-Trùng-Đài “Thầy định-quyết cho Người (Giáo-Tông) có quyền dạy-dỗ mà thôi, song quyền-hành có rộng thêm đôi chút là dạy-dỗ trọn cả đường Đạo và đường Đời. Nghĩ cũng chẳng chi làm lạ, vì cả Chức-sắc Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài của Thầy lập, phải tùy theo tôn chỉ Đạo, nghĩa là xu-hướng về phần giáo-dục mà thôi. Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy-dỗ, còn tên của Chức-sắc đủ chỉ rõ-ràng phận-sự giáo-hóa, là chánh vai của mỗi người, như Giáo Hữu, Giáo-Sư, Phối-Sư, Đầu sư, Giáo Tông…Xem rõ lại thì tên mỗi vị chẳng mất chữ “Giáo” hay chữ “Sư”. Cơ Đạo từ cổ chí kim vẫn vậy, lại hiệp lời này “Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị Đạo, tu Đạo chi vị giáo”. Thầy chỉ cậy Hội Thánh Thầy đã đến lập, thay quyền cho Thầy mà dạy-dỗ cả con cái của Thầy, nghĩa là chúng sanh đặng lành, ấy là phận-sự cần nhứt của Hội-Thánh đó” (PCT)
Thế nên, trong buổi Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này:
Đức Quyền Giáo-Tông có bổn-phận “Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng”.
Quyển Thiên-Thơ Ngài đã nắm trọn vào tay.
Vạn sự khởi đầu nan là thế! Nhưng sự kiên-nhẫn đã giúp các Ngài thành công là thế ! Sau cùng, Ngài đã lập vị một cách vẻ-vang, một cách xứng đáng, tám năm tròn, không dư không thiếu một ngày. Phải chăng Ngài đã thực hiện trọn hai Bát-Quái vào tay mà dìu-dắt nhơn-sanh trên con đường hành-thiện?
Hằng năm toàn Đạo đều ghi nhớ ngày 13-10 âm lịch là ngày qui Thiên của Đức Ngài. Nếu tính:
Từ ngày 14-10 Bính-Dần dl 19-11-1.926 là ngày nhập vào Đại-Đạo Tam-Kỳ này, Ngài hành Đạo suốt đến:
Ngày qui 13-10 Giáp-Tuất dl 19-11-1.934
Tính ra là tám năm tròn không dư không thiếu một ngày.
Đức Hộ-Pháp thường nhắc-nhớ đến:
“Cái ngôi của Ngài đã tạo dựng, cái ngôi Giáo Tông-Đường của Ngài ngồi trên ấy, đầu tiên hết cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất nước Việt-Nam này một cái báu-vật quí-giá vô cùng. Từ thử tới giờ chưa hề có. Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo-Hoàng Saint Pierre thế nào, thì nay Bần-Đạo có lẽ nói và có thể mơ-ước rằng cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”
Về Đạo phục thì “Nơi mão Ðại phục của Ðức Giáo Tông thì lại có ba Cổ Pháp khác nữa, nghĩa là:
- Long Tu Phiến. - Thư Hùng Kiếm - Phất Chủ.
Ấy là Cổ Pháp của Thượng Phẩm cùng Thượng Sanh.
Mỗi Chưởng Pháp phải có ấn riêng:
Ba ấn phải có trên mỗi luật mới đặng thi hành”.
- Thái Chưởng Pháp thì bình Bát Vu,
- Thượng Chưởng Pháp thì cây Phất Chủ,
- Ngọc Chưởng Pháp thì bộ Xuân Thu .
Hiệp một gọi là Cổ Pháp. Ba cái Cổ Pháp ấy vốn của Hộ Pháp hằng kỉnh trọng. Nơi mão Tiểu phục của Người phải có ba Cổ Pháp ấy.
Thầy dạy: “Chưởng Pháp cũng là Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng Ðài”.Phải nói rằng sự tuyệt diệu về chánh trị của Đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền quá cao siêu. Âm Dương luôn hòa quyện vào nhau như mắc lưới, ấy Lưới Trời: Pháp luật Thiên điều không còn một kẽ hở !
Tóm lại: Ðây là lời Thánh giáo của Thầy đã dạy Hộ Pháp khi Người hỏi Thầy về quyền của Giáo Tông.
Hộ Pháp hỏi:
“Thưa Thầy theo như luật lệ Thánh Giáo Gia Tô Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về phần hồn và phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Ðạo Thánh mới có thế lực hữu hình như vậy. Ðến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con về phần hồn đi, thì con sợ e cho Người không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng ?"
Thầy đáp: "Cười! Ấy là một điều lầm lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt hơn nữa. Cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho các con.
Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó; nếu muốn trừ cái hại
ấy thì chẳng chi hay hơn là chia đôi nó ra, không cho một người nhứt thống.
Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế.
4- Người Nữ rất nhiều quyền lợi: là Chức sắc cũng như bình quyền, bình đẳng trong cửa Đạo
*Là Chức sắc: Nữ phái không chia phái và có Đạo phục màu trắng. Quyền hành Nữ Chức sắc Cửu Trùng-Đài cũng y như Nam Phái, song chỉ trông coi phái Nữ mà thôi. Chức Sắc Nữ Phái khởi từ phẩm Đầu Sư trở xuống Lễ Sanh, quyền hành y như Nam. Nhưng tất cả tùng lịnh của Giáo Tông và Hộ-Pháp.Về Nữ chức sắc thì số lượng vô hạn định. Riêng về Nữ Đầu sư (1 vị) Nữ chánh Phối sư (1vị)
Đây là một trường hợp hi hữu từ xưa đến giờ là Nữ phái được tham dự vào việc tu hành: bình đẳng, bình quyền với Nam phái. Nhưng khi hành sự thì Nam chánh, Nữ phó, trong một trật tự nghiêm trang. Chính đây là thể hiện “Cơ Đại Ân Xá của Chí-Tôn” mà Thầy đã cho biết:
"Trên Bạch Ngọc Kinh có đủ Nam và Nữ, các con
chớ lầm tưởng là phân biệt. Có các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều.”
Hỏi: Vì sao từ xưa Nữ phái không được tu hành, không được học hỏi có trí thức, không được tiếp xúc với bên ngoài, thậm chí muốn tu phải cải Nam trang, vậy thì làm sao có được “các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều” ?
- Ấy là nhờ huấn ngôn của Mẹ đã truyền dạy từ lúc
còn thơ: Nữ công, nữ hạnh, tức là Tứ đức Tam tùng; ngay
từ bé người con gái đã được rèn luyện trong cái khuôn sáo
Nho phong đẹp đẽ ấy, dù không tu mà đã thực sự tu sửa
tánh tình, tu tâm dưỡng tánh. Ra lễ vào phép đoan trang. Cái nền luân lý tốt đẹp ấy theo suốt cuộc đời người con gái, cho đến khi làm vợ, làm mẹ, làm dâu thì đã quá thuần thục rồi. Tức nhiên người Nữ đã tu Nhơn đạo một cách rất mực, chính chắn, đoan trang Vậy khi thoát xác lìa đời thì gần ngôi Tiên phẩm Phật, ấy là xem như đã bước qua tu Thiên Đạo rồi vậy. Đúng với câu: “Dục tu Thiên đạo, tiên tu Nhơn đạo. Nhơn đạo bất tu Thiên đạo viễn hỉ !”
Hiện nay: các bậc phẩm của Nữ phái bao gồm: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư (không có phẩm Chưởng Pháp và Giáo Tông).
“Xem rõ lại thì Pháp Chánh Truyền truất quyền Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông.
Hộ Pháp để lời phân phiền cùng Thầy như vầy:
- “Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất quyền của Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông, thì con e mất lẽ công bình chăng?
Thầy dạy: Thiên Ðịa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn Khôn Thế Giái nhờ Dương thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương quang đã tuyệt, Âm khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn Thế Giái phải chịu trong hắc ám, mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ Phái cầm quyền Giáo Tông làm chủ nền Ðạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Ðạo ắt bị tiêu tàn ám muội.
Hộ Pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy truất quyền Giáo Tông Nữ Phái thì đã đành, song quyền Chưởng Pháp
thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.
Thầy dạy: "Chưởng Pháp cũng là Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng Ðài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị Giáo Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa vị Hộ Pháp con ! Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt thòi, lẽ Thiên Cơ đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương yêu binh vực thay Thầy kẻo tội
nghiệp!”
*Vinh diệu của người NỮ PHÁI:
Tuy nhiên người Nữ-phái nếu biết làm trách nhiệm của mình cho xứng phận là dạy dỗ con cái cho nên người, thì sau này con nên danh phận, khi về Thiêng liêng thì hình ảnh của Mẹ sẽ là hình ảnh của Đức Phật Mẫu đó. Đức Hộ-Pháp nói về “Huyền-bí vô biên của Phật-Mẫu”:
“Bần-Đạo nói sơ lược huyền-năng thế nào, mà khi chúng ta vào kiến diện Ngài, ta ngó trên mặt Ngài ta thấy mặt Bà Mẹ ta, sanh ta, đương như buổi sống, đương lo buổi trở về, Bần-Đạo tưởng ngó thấy Bà Mẹ sanh Bần Đạo, tưởng cả thảy cũng đều ngó thấy người Mẹ của họ vậy. Nếu lấy theo cái trí học tưởng-tượng không biết con mắt Thiêng-Liêng có chiếu hình Mẹ ta chiếu diệu ra không? Hay là huyền-diệu vô biên của Phật-Mẫu cho chúng ta thấy như vậy. Bà Mẹ hình hài chúng ta đây, là nhơn-viên của Đức Phật-Mẫu bên phái Nữ đó.
Phái Nữ rán để tâm nghe điều ấy, là nhân-viên mật thiết của Đức Phật-Mẫu, trước khi đã để tại thế-gian này một hình-hài vào lòng mình sản-xuất, tức nhiên là Phật Mẫu đã giao quyền năng Tạo Đoan trong tay mình đó vậy.
Chẳng cần nói cái vinh-diệu của người đàn bà khi người con ấy nên người, biết dục tấn trên con đường Thiêng Liêng Hằng-Sống. Mình về tại Cung Diêu-Trì dòm lên thấy tượng ảnh của mình, không vinh-diệu nào bằng, cái vinh-diệu ấy, có điều trọng hệ là dầu Nam, Nữ cũng vậy rán giữ một điều này: coi chừng đừng thất hiếu với cha mẹ. Ngày mình ngó thấy hình ảnh của Đức Phật-Mẫu thì thấy người Mẹ nhơn từ, hiền-hậu vô cùng, hạnh-phúc mình được hưởng đó, còn trái ngược lụng lại nếu ta thất hiếu, ta dòm vào hình ảnh của Phật-Mẫu, ta thấy nét mặt
nghiêm-nghị và lãnh đạm, chúng ta sẽ hết sức đau khổ đó”
*Đạo vợ chồng: tương kính như tân
Một điều tuyệt diệu là chỉ Đạo Cao Đài ngày nay mới có là: Thầy đã cho Nam Nữ bình quyền, không cần đòi hỏi, xuống đường biểu tình hay hô hào chi cả. Luật của Đạo Cao-Đài là vợ chồng phải biết tôn trọng nhau: “tương kính như tân” tức nhiên là xem nhau như khách.
Đức Hộ Pháp nhắc nhở qua Con đường Hằng Sống:
“Đạo vợ chồng ở trên thế gian này chúng ta nên cẩn thận để ngày kia về đến Bát-Quái-Đài khỏi thất lỗi với vợ, nếu người vợ đối tròn bổn-phận với mình thì họ được hóa Nam, chừng ấy là người bạn mật thiết với chúng ta; thoảng như chúng ta làm sai với Bạn chúng ta, thì ngày kia Bạn ta trách ta rằng: Tôi xuống trần chung sống với Bạn, những cảnh khổ Bạn không dìu dắt tôi, Bạn còn hân hủi tôi nữa, câu trách ấy ta phải chịu không thể gì trả lời được. Vì cớ cho nên Phật-Giáo cho Nữ đồng quyền Nam, Bần-Đạo nói quả quyết rằng: Chừng nào chúng ta thấy nơi mặt thế này đoàn em Nữ phái mình biết sợ, kiêng nể Pháp Luật thì nó cũng như Nam vậy. Nếu bạc đãi nó, hủy bỏ nó không dìu-dắt đồng sống nhau, ngày giờ đến Bát Quái-Đài nó hóa Nam dòm lại nó là người Bạn quí nhứt của mình, cũng chịu đau khổ trọn kiếp sanh, chúng ta tưởng lấy làm đau đớn không giúp được, trái lại còn khi rẻ gớm ghiết. Chúng ta đến sẽ thấy chỗ đó không còn Nam Nữ nữa. Hư-Linh kia quả quyết rằng: Có nhiều bạn Nam ta quen biết, đầu kiếp Nữ tại thế-gian này, không biết là bao nhiêu, nhiều lắm.”
*Đặc biệt là tự vận thác vì tình, là một đại tội:
“Là những người trước kia đã có tình thương yêu với nhau mà những khi có sự trắc trở nhơn tình nên họ bị quả kiếp mà họ phải tự sát lấy họ. Người đàn bà nào tự vận hay người đàn ông nào tự sát, rồi người nào có thiệt lòng thương yêu chơn thật ấy, trước đã xuống Uổng-Tử Thành để đầu kiếp mà trở lại căn quả, vì không trọn căn số của mình còn niên kỷ bao nhiêu cũng phải trở lại đầu kiếp. Vừa đến tuổi cập kê Nam Nữ đôi bên vừa có tình-dục đã phát động ra thì là chết, làm cho chết, dầu hai đàng đứng trước mặt nhau cũng không khi nào làm chồng vợ với nhau đặng. Chừng ấy người trọn lòng thương yêu chơn thật thì Đức Phật-Mẫu siêu độ cầu rỗi với Đức Chí Tôn đem vào cảnh Thiêng-Liêng Hằng Sống, còn người nào không biết tình thương, thương bằng tình giả dối xảo trá phải đầu kiếp trao lại từ người.”