CHƯƠNG IV

 

TIÊN THIÊN – HẬU THIÊN

E: Ante-Creation, Post-Creation
F: Ante-Création, Post-Création

              

A- HÀ ĐỒ TIÊN THIÊN BÁT QUÁI: 

        Vua Phục Hi sanh về đời tối cổ bên xứ Trung Hoa. Thời đại ấy, Thần linh học phát triển đến tột độ cao siêu. Ngài là một ông vua Minh quân, Thánh trí tài cao, đức rộng; tinh thần minh mẫn, hàm dưỡng được trọn vẹn trí huệ của Trời ban cho. Huệ nhãn của Ngài xem suốt cõi vô hình. Khi dạo trên bờ sông Hà (ngày nay gọi là Hoàng-Hà). Ngài trông thấy một con thú mình ngựa đầu rồng, mạng danh là Long Mã, trên lưng có năm mươi lăm chấm. Vua Phục Hi do đó mà chế ra bản đồ "Tiên Thiên Bát Quái", đời thường gọi là Phục Hi Bát Quái        

1-Sự tích Long Mã: Theo sách Nho, Long Mã bề cao 8 thước, năm tấc (thước Tàu), xương cổ dài, chưn ngựa đầu rồng, trên mình có vảy như rồng. Kinh Dịch chép rằng:

         Long Mã là vật linh kết hợp bởi 8 tinh túy của Thái

dương hệ biến hiện dưới tầm mắt của vua Phục Hi là một vị chí Thánh, xem được các vật trong cõi vô hình, thấy rõ Linh vật của Trời Đất, mang chở những cái tinh anh của Thái dương hệ. Rồng là một Linh vật trong số Tứ Linh "Long, Lân, Qui, Phụng", có đủ nơi mình tinh túy của Vũ Trụ. Ngựa là vật chở người và đồ vật đi mau lẹ. Tóm lại, Long Mã tượng trưng Âm Dương tương hiệp, tức thời gian trôi qua mau lẹ và mang theo những tinh túy của Trời đất để chan rưới sự sống cho muôn loài vạn vật. (Giáo lý của Tiếp Pháp Trương văn Tràng).

        2- Long Mã phụ Hà Đồ:

 

 

 Trên nóc Tòa Thánh Tây Ninh, chỗ Nghinh Phong Đài, Đức Hộ Pháp cho làm một bán cầu tượng trưng Địa cầu 68 của nhơn loại, trên có có đắp hình Long Mã phụ Hà đồ, Long mã, mình hướng theo chiều Tòa Thánh, bộ điệu đang chạy từ hướng Đông sang hướng Tây, nhưng đầu Long mã ngoáy nhìn lại hướng Đông. Với ý nghĩa là Long Mã tượng trưng Âm Dương (Rồng tượng trưng Dương vì rồng bay trên Trời, ngựa tượng trưng Âm, vì ngựa chạy trên mặt Đất), Âm Dương phối hiệp là ĐẠO, nên Long mã tượng trưng Đạo. Long mã chạy từ Đông sang Tây, ý nói “Đạo xuất ư Đông” và truyền qua hướng Tây. Nhưng đầu Long Mã ngó ngoáy lại phương Đông, ý nghĩa là Đạo sẽ xuất hiện ở hướng Đông, vì đây là gốc của Đạo. Chứng tỏ lời Thánh nhân là “Thiên địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ”. Đạo Cao Đài mở ra tại nước Việt-Nam là nước mà Âu Châu gọi là “Hòn Ngọc Viễn Đông, rồi Đạo Cao Đài sẽ truyền qua hướng Tây để cứu độ các sắc dân ở đó. Sau cùng Đạo Cao Đài cũng  khởi phát từ nước Việt-Nam đến toàn Thế giới, vì Đức Chí Tôn đã chọn Việt-Nam là Thánh địa và chi chi cũng tại Tây-Ninh mà thôi.

Trấn Thần con Long Mã: “Sớm mai ngày mùng 6 tháng Giêng năm Đinh Hợi (dl: 27-01-1947), Đức Phạm Hộ Pháp hành lễ Trấn Thần Toà Thánh và trấn Thần con Long Mã:

Đức Hộ-Pháp sang bên Nam, phía tả Đền Thánh, ngang Cửu Trùng Đài đúng 12 bước thẳng, trấn Thần con Long Mã. Ngài giải: “Long Mã tượng trưng Đạo là cơ sanh hóa vạn vật, trên lưng nó có bộ Bát Quái Đồ Thơ và cây Bửu kiếm, nên có câu “Long Mã phụ Hà đồ”. Ý nghĩa: Đạo xuất từ Đông, đem từ Đông sang Tây cứu vớt chúng sanh, đem Vạn linh trở về nơi sanh hóa, tránh cơ tự diệt, nên hình Long Mã chạy về Tây mà đầu ngó ngoéo về Đông. (Sau nầy Đức Ngài sẽ giải thêm hay là nhờ các bậc uyên thâm đạo đức giải rõ)          

3- Tám quẻ gồm có:

CÀN       Càn tam liên   (tức là ba vạch liền)

ĐOÀI     Đoài thượng khuyết  (trên lõm vào)

LY           Ly trung hư  (ở giữa trống không)

CHẤN    Chấn ngưỡng bồn (giống như chậu ngửa)

TỐN       Tốn hạ đoạn (ngang dưới đứt ra)

KHẢM   Khảm trung mãn (ở giữa đầy)

CẤN       Cấn phúc uyển  (như cái bát úp xuống).

KHÔN   Khôn lục đoạn (Khôn sáu nét đứt ngang).

           Phương vị các số trong Hà Đồ:

Hà Đồ gồm có 10 số: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9,10.

Năm số lẻ, số Dương là số Trời: 1,3,5,7,9.

Năm số chẵn, số Âm, là số đất:   2,4,6,8,10.

Cộng riêng các số Âm Dương sẽ có kết quả là:

                1+3+5+7+9= 25     2+4+6+8+10=30

      Vậy:  Tổng số Âm Dương trong Hà Đồ là: 25+30= 55

Dịch nói rằng: “Thiên số ngũ, Địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hạp. Thiên số nhị thập ngũ, Địa số tam thập. Thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử sở dĩ thành biến hóa nhi hành quỉ thần”; nghĩa là số trời có năm số, số đất có năm số; năm ngôi cùng tương đắc mà điều hợp nhau. Số Trời có 25, số đất có 30. Tổng số của số Trời đất là 55. Các số ấy tạo nên sự biến hóa và điều hành quỉ thần.

            Ngũ hành trong Hà Đồ: Sự biến hóa các số sinh thành trong Hà Đồ:

- Thiên nhất sanh Thủy, Địa lục thành chi.

- Địa nhị sinh Hỏa,        Thiên thất thành chi.

- Thiên tam sanh Mộc,  Địa bát thành chi.

- Địa tứ sanh Kim,        Thiên cửu thành chi.

-Thiên ngũ sanh Thổ,   Địa thập thành chi.

Nghĩa là:

- Trời số 1 sanh nước,  Đất số 6 thành nước,

- Đất số 2 sanh Hỏa,    Trời số 7 thành Hỏa

- Trời số 3 sanh Mộc,  Đất số  8 thành mộc.

- Đất số 4 sanh Kim,   Trời số 9 thành Kim.

- Trời số 5 sanh Thổ,   Đất số 10 thành Thổ.

Số 5 là số đặc biệt, nếu đem nó cộng với số sinh sẽ

 được số thành. Tức nhiên số sinh ra nước là 1+5= 6 là số thành của nước. Tương tự như vậy sẽ có các kết quả như trên. Khi sanh bởi Dương số thì thành ra Âm số và ngược lại; Âm Dương phối hợp có công dụng sinh thành.

Bởi vậy, nếu không có số 5 làm trụ cột; bất di bất dịch ở trung cung thì không có sinh cũng chẳng có thành, vạn vật do đó mà phát sinh và chung qui cũng trở về đó.

Số 5 và số 10  (Ngũ, thập tại trung cung) là huyền cơ của trời đất. Chính nó là ngôi Thái cực, căn bản của tạo hóa. Đó là số bất dịch của Dịch.

          Nhìn trên Hà Đồ cho thấy rõ lẽ Âm Dương tiến hóa và Tiên Thiên Bát Quái một cách rõ nét:

          Phân nửa bên trái thì Âm hàm Dương (Tiên Thiên), còn nửa phần bên mặt (Hậu Thiên) thì Dương hàm Âm. Bởi Dương ở trong thì tụ, Dương ra ngoài thì tán. Tụ thì mạnh, tán thì yếu.

          Hà Đồ có những đặc điểm cần lưu ý:  -Trong Dương thì ngoài Âm, trong Âm thì ngoài Dương nghĩa là trong Dương có Âm và trong Âm có Dương.

- Âm căn là: 2, 4. Dương căn là 1, 3.

- Tổng số Âm là 30, Tổng số Dương là 25, tức là Âm phải bao bọc che chở cho Dương. Dương tụ bên trong.

- Phía bên phải (hướng Tây) các số Dương tản ra (số 7,9) các số Âm lại ở bên trong (2, 4) Dương tán ra ngoài.

Như thế HÀ ĐỒ chủ trương Âm dương nội ngoại tương ứng, biến thiên đều đặn, đổi thay ngôi vị Đông Tây.

 

 

Số 5 rất quan trọng trong Hà Đồ:

Số 5 nằm ở vị trí trung ương của Hà-Đồ. Vạn vật không có nó không sanh và cũng không thành được vì đó là Thái cực, là nguyên lý của Âm Dương.

         Luận về Thái cực và Lưỡng nghi (Âm Dương) Hệ Từ Thượng trong Kinh Dịch đã cho biết: cốt tủy Kinh Dịch nằm trong câu “Dịch hữu Thái cực nhi sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái;  Bát quái sinh vạn vật” nghĩa là Dịch có ngôi Thái cực, Thái cực sanh Lưỡng nghi (tức là Âm Dương), Lưỡng nghi sinh Tứ Tượng (là Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm). Tứ Tượng sanh Bát Quái  (CÀN  nhất, ĐOÀI nhị, LY tam, CHẤN tứ, TỐN ngũ, KHẢM lục, CẤN thất, KHÔN bát). Bát Quái sinh ra vạn vật.

Sinh đây là biến hóa bất diệt và vô cùng huyền diệu.

 

            Bát Quái Tiên Thiên đặt nằm ngang:

           Dưới đây là sự biến hóa từ Thái cực đến khi thành hình một Bát Quái đầu tiên đó là Bát Quái Tiên Thiên đặt nằm ngang:

            Đạo Cao Đài ra đời Đức Chí-Tôn xác định điều ấy: “Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn Khôn thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra:

            - Có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực,

              - Thầy phân Thái cực ra Lưỡng Nghi,

- Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng,

 

- Tứ Tượng biến Bát Quái,

           - Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sinh ra vạn vật là: vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh” (TN II /62)

Thầy nói tiếp: “Một Chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới. Nên chi, các con là Thầy, Thầy là các con”.

Thánh nhân đã chỉ rõ rằng: đầu tiên ngôi Thái cực phân hóa thành hai, gọi là Âm Dương. Ví như hột giống khi nứt mầm thì có hai lá đầu tiên, gọi là song-tử-diệp, tức là Âm Dương đó. Nhưng khi biểu tượng là dùng: nét liền  tượng Dương, nét đứt  tượng Âm. Với 1 nét như vậy thì gọi Nghi (tức nghi Dương và nghi Âm).

Khi sanh biến thì hai nghi Âm Dương sẽ sanh ra Tứ tượng. Khi gọi là Tượng thì biểu hiệu bằng hai nét, có bốn Tượng là: Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm.

Gọi là sinh tức là làm tăng thêm, luôn luôn nghi ban đầu vẫn làm gốc có nghĩa là hai nét Âm Dương vẫn đặt nằm dưới cùng, vì đó là gốc, là khởi điểm để từ đó tiếp diễn sinh ra.

Khi thành Tượng thì lấy Nghi dương làm gốc, đặt nét Dương lên nghi dương thành hai Dương là Thái Dương  lần biến thứ nhì thì đặt nét Âm lên nghi dương sẽ là Thiếu Âm * Đến nghi Âm cũng qua hai lần biến hóa thành ra Thái Âm và Thiếu Dương .

Tứ Tượng biến Bát Quái lấy Tượng làm gốc:

-Thái Dương  lần biến thứ nhất là thêm một nét Dương

lên trên thành ra CÀN   lần biến thứ nhì ra ĐOÀI  

-Thiếu Âm * lần biến thứ nhứt là thêm một nét Dương lên trên thành LY   lần biến thứ nhì sinh ra CHẤN

-Thiếu Dương  lần biến thứ nhứt là thêm một nét Dương lên trên thành TỐN  lần biến thứ nhì sinh ra KHẢM

-Thái Âm lần biến thứ nhứt là thêm một nét Dương lên là CẤN  lần biến thứ nhì sinh ra KHÔN  

            Thành phần mới sinh có 3 nét gọi là Quẻ. Chỉ có 8 quẻ căn bản này mà thôi, từ đó biến hóa vô cùng, gọi đây là BÁT QUÁI, tức là 8 hiện tượng quái dị, lạ lùng. Thầy cũng có nói lẽ ra phải gọi là Bát Tượng hay Bát Tướng, nhưng vì đã quen gọi nên không sửa được, nên gọi là BÁT QUÁI.

 Điều nên lưu ý:

-Thứ nhứt là phần gốc bao giờ cũng đặt dưới hết, nét mới sinh sẽ đặt lên trên.

- Thứ hai là Âm Dương luôn đi liền nhau, không bao giờ  sai lệch

            Trên nguyên tắc thì vẽ quẻ từ dưới lên, khi đọc quẻ từ trên đọc xuống, cũng là thể hiện vòng Âm Dương, thuận nghịch đó vậy.

            Hà Đồ Tiên Thiên Bát Quái:

          Những hiện tượng Thiên thể xét theo Tiên Thiên Bát quái thì 4 quẻ: Kiền , Ly , Chấn , Cấn của Tiên Thiên chứng minh những thời kỳ biến hóa của khí thể đi dần đến cố thể

- KIỀN tượng cho định tinh nóng sáng (mặt trời 6500 độ) có những sao nóng trên 20.000 độ.

- LY  Mặt trời hay Tinh tú sáng lâu năm, phí rất nhiều nhiệt độ chỉ còn khối than hồng ngoài đỏ, trong đen, nên biến thành Ly. Hào Âm ở giữa tượng trưng cho đất, đá, than….ở trong một hành tinh ấy.

- CHẤN hành  tinh, vệ tinh có những chất cháy như than dầu, khi sao đen va chạm vào sao sáng bốc cháy dữ dội, vì vỏ ngoài dồn ép phát ra tiếng nổ.

- CẤN  tượng cho cái sao sáng khi nhiệt độ hạ thấp, chất nguội ở nội tâm tăng lên và sức nóng chỉ làm cho các chất kim thạch ở bên ngoài chảy ra nước.

4 quẻ còn lại là: KHÔN ☷  ĐOÀI KHẢM TỐN ở Tiên Thiên chứng minh những thời kỳ biến hóa của cố thể tan dần ra khí thể:

-KHÔN là một khí Âm đen, lạnh, tượng cho vệ tinh lạnh giá, bao phủ bởi một lớp băng.

-ĐOÀI tượng cho cái sao đen đi dần từ tối đến sáng. Nhiệt độ bên trong khá cao.

-KHẢM tượng cho cái sao đen lạnh có khí nóng ở trong.

- TỐN tượng trưng cho bão lửa trên định tinh.

       Tiên Thiên Bát Quái là bản đồ về khí hóa của vũ trụ.

B- Sự tích Hậu Thiên Bát Quái:

            Lạc Thư là sách do nơi sông Lạc mà được lập thành. Nguyên vua Võ, sanh lối 2.206 năm trước Tây lịch, Thỉ Tổ nhà Hạ, khi nước lụt, người ta trấn nước ở bực sông Lạc, khi nước cạn, có một con Linh Qui đội cầu, trên lưng có 9 số, vua Võ theo đó mà sắp đặt thành bản đồ Hậu Thiên Bát Quái. Chính Vua Đại Võ có công trị thủy, nhân đó mà lập ra Cửu trù “Lạc Qui trình triệu, Đại  Võ nhân liệt Cửu Trù”

            Sau, vua Văn Vương phỏng theo Lạc Thư và lập thành TÁM QUẺ Hậu Thiên Bát Quái, để hình dung những hiện tượng trong trời đất. Thế nên vị trí các quẻ của Hậu Thiên Bát quái hoàn toàn khác với Quẻ của Tiên Thiên Bát Quái.

          Lạc Thư có 9 số gồm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Cũng chia ra Âm Dương:

- Nếu cộng các số dương là: 1+3 +5+7+9= 25

- Cộng các số Âm là: 2+4+6+8= 20 (không có số 10)     

Vậy Tổng số của số Âm Dương Hậu Thiên Bát Quái là:

25 +20 = 45

1- Cách sắp đặt các số trong Lạc Thư:

         Các số này được xếp theo dạng con Rùa Thần (Linh Qui).

Đầu đội 9, chân đạp 1          “Đới Cửu, lý nhất”

Bên trái 3, bên phải 7          “Tả tam, hữu thất”

Vai trái 4, vai phải  2           “Nhị Tứ vi kiên”

Chân trái 8, chân phải 6      “Lục bát vi túc”

          Số 5 ở giữa lưng                     “Ngũ tại kỳ trung”

        3- Vị trí và phương hướng Hậu Thiên Bát Quái:

Các con  số nằm trên đồ Hậu Thiên Bát Quái được phân bố như sau: nhất KHẢM, nhì KHÔN, Tam CHẤN, Tứ TỐN, Ngũ Trung, Lục CÀN, Thất  ĐOÀI, Bát  CẤN, Cửu LY. Đồ hình này chỉ có biểu tượng bằng các Quẻ và định vị các phương hướng của Quẻ mà thôi

            Như thế 8 quẻ Hậu Thiên Bát Quái hình dung được những hiện tượng trên quả Địa cầu, mà:

- Quẻ Kiền đây tượng trưng cho khoảng thiên không lồng lộng.

- Quẻ Khôn tượng trưng cho mặt đất mênh mông, vì trời đất rộng lớn vô cùng, thế nên KIỀN KHÔN trong Hậu Thiên Bát Quái không lấy gì làm quan trọng cho lắm.

Sáu quẻ còn lại: Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Đoài đều chiếm hữu những vị trí quan trọng vô cùng: bởi có tác dụng trên mặt đất như:

- Quẻ Đoài: chỉ hơi nước bốc lên thành sương mù.

- Quẻ Chấn: chỉ sự động đất.

- Quẻ Khảm: chỉ nước băng giá.

- Quẻ Ly: chỉ lửa ở Hỏa-Diệm-Sơn phun lên.

- Quẻ Tốn:  chỉ gió.

- Quẻ Cấn: địa chấn làm cho chất nóng trong quả đất trào ra  biến thành dung nham đóng lại thành núi.

           Phương vị của Hậu Thiên Bát Quái khác với Tiên Thiên Bát Quái là vì:

- Một bên nói về hành tinh nguội (quả đất);

- Một bên nói về hành tinh nóng (mặt trời).

 

 

 

4-Công dụng của Lạc Thư và Hậu Thiên Bát Quái:

          Đây là một Hâu Thiên Bát Quái qua sự cấu tạo một cách chặt chẽ với vị trí quẻ và các phương hướng rõ rệt.

Đầu tiên vẽ một vòng tròn, tượng trưng Càn Khôn vũ trụ. Kế đến vẽ hai tam giác đều, chính là Tam Âm tam Dương là hình ảnh của Càn ☰  (3 nét Dương) Khôn  (3 nét Âm). Xong vẽ hai hình vuông đặt lên nhau gọi là Tứ Âm Tứ Dương. Bấy giờ cho Quẻ vào các vị trí thích hợp mà Thánh nhân đã đặt từ xưa đến giờ: Hậu Thiên Bát Quái thuận chiều kim đồng hồ. Khởi trước là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài

-CÀN Tam liên (ba  vạch liền) Tây- Bắc. TUẤT, HỢI.

- KHẢM Trung mãn (giữa đầy) Chánh Bắc. Đương TÝ

- CẤN    Phúc uyển (chậu úp) Đông - Bắc SỬU- DẦN

- CHẤN Ngưỡng bồn (chậu ngửa) chánh Đông. Đương MẸO

- TỐN    ☴  Hạ đoạn (dưới đứt) Đông- Nam THÌN TỴ

- LY   Trung hư (giữa  rỗng) Chánh Nam, đương NGỌ

- KHÔN Lục đoạn (đứt làm 6) Tây – Nam, MÙI THÂN

-ĐOÀI Thượng khuyết (trên lõm) chánh Tây, đương DẬU

        Lý giải:

- Sở dĩ nói CÀN tam liên là  chỉ cho cách vẽ, gồm ba vạch liền, Càn ở vào hướng TÂY BẮC, giữa hai cung Tuất

và Hợi (về các cung sẽ vẽ sau để giản dị hóa đồ hình này)

- KHẢM giữa đầy, tức nhiên nét giữa liền (dương) hai bên là hai nét đứt (âm), ngay chánh BẮC,  ở vào Cung Tý.

- CẤN như chậu úp, nghĩa là nét trên đầy (dương) như đáy chậu mà úp xuống; hai nét dưới đứt (âm), ở ngay ĐÔNG BẮC,  vào Cung Sửu Dần

-CHẤN như chậu ngửa, chánh ĐÔNG, ở vào Cung Mẹo

-TỐN đứt nét dưới, ĐÔNG NAM, ở  Cung  Thìn Tỵ.

- LY   giữa rỗng, chánh NAM, ở vào Cung Ngọ.

- KHÔN đứt  6 khúc, TÂY NAM,  ở Cung Mùi Thân.

- ĐOÀI Trên lõm, chánh TÂY, ở vào Cung Dậu

Thật ra Dịch là bài toán Số rất tinh vi, phải nhận định các ký hiệu về QUẺ một cách tường tận, không thể sai lầm. Sau đây là một Hậu Thiên Bát Quái có đủ 12 Cung ấy là 12 Thời Thần đó.

Cách vẽ Hậu Thiên Bát Quái:

Hậu Thiên Bát quái  cũng có thể vẽ theo một hình thức khác, rất khoa học qua sự cấu hợp của hình học phẳng, thường dùng đến ba hình căn bản: Tròn, vuông và tam giác đều; Ở đây gồm có hai tam giác đều gát chồng lên nhau và hai hình vuông đặt trong một vòng tròn. Vòng tròn tượng Càn Khôn vũ trụ. Hình tam giác là ngôi Dương, hình vuông là ngôi Âm. Âm dương luôn hòa quyện vào nhau.

Ngày  xưa Thánh nhân chế ra Lạc Thư được người đời dùng vào việc nhân sự, như Chánh trị thì có Cửu trù, Địa lý thì có Cửu châu, canh nông thì lập Tỉnh điền…

            Ngày nay thường dùng Lạc Thư áp dụng vào những

việc khoa học thực dụng như: Y-học, Toán-học, Hóa học..

nhất là cách cấu tạo nên Ma-phương-số (carré magique).

            Sở dĩ gọi là Ma Phương số là vì những số này xếp lên một bản ô số có giá trị một cách kỳ quặc, nhưng linh diệu vô cùng ….Do đó mà Hậu Thiên Bát Quái có mặt trên 6.000 năm nay đủ cho nhân loại khai triển để làm nên “Túi khôn cho loài người”. Kết quả là ngày nay nhân loại đã đạt đến văn minh vật chất đến chỗ tuyệt đỉnh. Vì lẽ đó mà họ quên đi Thượng Đế là Đấng tạo hóa đã tạo nên sự khôn sáng cho tất cả loài người. Vì một khi vật chất quá đầy đủ thì tâm linh bị xem nhẹ. Thế nên nay là cuối Hạ Nguơn Tam chuyển, cả Thế giới hầu như đang đi vào cơ thanh lọc của Thượng Đế.

 

 

 

 

Hậu Thiên Bát Quái áp dụng trong cuộc sống.

 

Dựa theo hình vuông trên (Ma phương số) nhận thấy các số sinh sản và hoàn thành cũng như Hà Đồ Tiên Thiên Bát  Quái. Ngoài ra cổ nhân còn áp dụng  9 cung của Lạc Thư trong việc quan chế (theo chương Hồng phạm Cửu Trù)            

 

               

 

 

CÁCH BIẾN ĐỔI TỪ TIÊN THIÊN

QUA HẬU THIÊN BÁT QUÁI

 

So sánh theo bản đồ trước đây chúng ta thấy từ Tiên Thiên qua Hậu Thiên  có những sự thay đổi:

a/-Vị thứ các quẻ Tiên Thiên biến thành Hậu Thiên:

CÀN      1  Tiên Thiên biến thành    LY    9 Hậu Thiên 

ĐOÀI    2   ………………………TỐN    4………………..

LY         3   ………………………CHẤN 3……………….

CHẤN   4……………………….. CẤN    8………………..

TỐN      5………………………..KHÔN  2…………………

KHẢM  6  ……………………….ĐOÀI   7………………..

CẤN     7 …………………………CÀN   6 ………………..

KHÔN  8 ………………………..KHẢM  1………………..

           b/- Trục Kiền Khôn (Nam bắc ở Tiên Thiên) chuyển qua  Hậu Thiên thành trục Ly Khảm.

Trục Ly  Khảm Tiên Thiên (Đông Tây) chuyển qua Hậu Thiên thành trục Chấn Đoài.

Khi trục  thay đổi thì phương hướng cũng theo đó

 

mà thay đổi

Phương  thức HÀ ĐỒ  thành TIÊN THIÊN BÁT QUÁI

 

Hà Đồ biến thành Tiên Thiên Bát Quái. Trong hình vẽ Hà Đồ biến thành Tiên Thiên Bát Quái, có đủ Thái cực, Lưỡng Nghi, Tam Tài, Tứ Tượng, Ngũ hành, Bát Quái.

Thái cực 5 điểm trắng và 10 điểm đen ở trung tâm.

Lưỡng nghi được phân chia bằng một gạch chéo, bắt đầu từ điểm cuối cùng của 9 điểm trắng. Chín là số thành của hành Kim, ở giữa quẻ Kiền và quẻ Tốn (giữa phương Nam và phương Tây Nam) chạy dài đến điểm đen cuối cùng của 6 điểm đen (6 là số thành của Thủy) ở giữa hai quẻ Khôn và Chấn  (giữa phương Bắc và Đông Bắc.


           Tam Tài biểu tượng bằng Ba vạch ở giữa hình vuông ấy là: Thiên- Nhân- Địa. Trời theo Thái Dương. Đất theo Thái Âm, người theo Thiếu Dương và Thiếu Âm. Về triết học  đây là ba ngôi quan trọng trong vũ trụ  Đạo trời là Âm Dương, đạo đất là Cương nhu, đạo Người là Nhân Nghĩa. Người ở ngôi giữa phải hòa được cái đạo của Trời đất để dựng nền tảng Nhân cực một phương cách sáng tạo về Dịch học, nhằm mục đích mưu cầu hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại.

Tứ Tượng là:

- Thái Dương ở phần hành của Kim, quẻ Đoài và quẻ Càn ở phương Đông Nam và Nam.

- Thái Âm ở phần của hành Thủy, quẻ Cấn và quẻ Khôn phương Tây Bắc và Bắc.

- Thiếu Dương ở phần của hành Hỏa, quẻ Tốn và quẻ Khảm  phương Tây Nam và Tây.

- Thiếu Nam ở phần hành Mộc, quẻ Chấn và quẻ Ly phương Đông bắc và Đông.

 Ngũ hành là:

- THỦY ở Thái Âm (Cấn và Khôn ở Tây Bắc và Bắc)

- HỎA ở với Thiếu Dương (Tốn và Khảm ở Tây Nam và Tây),

- MỘC ở với Thiếu Âm (Chấn và Ly, ở Đông Bắc và Đông

- KIM ở với Thái Dương (Đoài và Kiền, ở Đông Nam và Nam) - THỔ ở trung ương

Bát Quái là Kiền ở Nam, Tốn ở Tây Nam, Khảm ở Tây, Cấn ở Tây Bắc, Chấn ở Đông Bắc, Ly ở Đông, Đoài ở Đông Nam

 

 

 

* * *

 

Hai cơ-quan hữu-hình trong nền Đại-Đạo là sự cấu-tạo Càn-khôn thế-giới

1- Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan quản-trị Càn Khôn:

              Lập Đạo kỳ này Thầy chọn đến:

           Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị Hiền,Tam Thiên đồ đệ. Các con số này ứng với:

           “Trước khi chưa phân Trời đất, KHÍ HƯ VÔ bao quát càn-khôn, sáng-soi đầy vũ-trụ. Đó là một cái Trung Tâm-điểm tức là ĐẠO. Rồi Đạo ấy mới sanh ra Thái-cực. Hồng-mông sơ khởi, huyền huyền hạo hạo khối lại thành ngôi Thái-cực, rất đầm-ấm lưng-chừng trong đó toàn là một khối, đúng mấy muôn năm bùng nổ ra tiếng dường như thiên khuynh điạ khúc, thì đã có Thầy ngự trong ngôi THÁI-CỰC; rồi có một tầng ÂM  và một tầng DƯƠNG gát chồng nhau thành hình chữ thập ló ra bốn cánh gọi là LƯỠNG-NGHI sanh ra TỨ TƯỢNG. Chữ thập mới dần dần quay lộn chạy lăn tròn như chong-chóng, lăn tủa ra muôn ngàn quả tinh-cầu thế giới, chữ thập ấy dưới có bốn cánh bóng kêu là TỨ ÂM, TỨ DƯƠNG tác thành Bát quái là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

           Bát-quái mới biến-hóa vô cùng, phân định Ngũ hành, Càn-khôn muôn vật. Thái-cực sanh Lưỡng-nghi tức Tam thiên-vị (ba ngôi Trời). Dưới ba ngôi ấy có Tam thập tam thiên (ba mươi ba từng trời) cộng với ba ngôi trên là ba mươi sáu từng trời, nên gọi là Tam thập lục Thiên. Trong mỗi từng Thầy chia chơn-linh, có một vị Đại-La Thiên-Đế Chưởng-quản.

           Chỗ Thầy ngự gọi là Bạch-Ngọc-Kinh, là kinh toàn ngọc trắng, rộng cao vòi-vọi, ngoài có Huỳnh-Kim-Khuyết

là cửa ngõ bằng vàng ròng cực kỳ mỹ-lệ.

           Dưới ba mươi sáu từng Trời còn có một từng nữa là nhứt mạch đẳng tinh-vi gọi là cảnh Niết Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên khai hóa tức là chín phương Trời cộng với Niết-Bàn là mười, gọi là Thập phương Chư Phật. Gọi “chín phương Trời, mười phương Phật” là do đó…

           Rồi tới Hạ tầng Thế-giái, Tam Thiên thế giái. Ba ngàn quả tinh-cầu phân làm Tứ đại bộ châu rồi nối theo Thất thập nhị điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68.”…

           Như vậy sự đặt định đều có duyên cớ mà cơ Đạo ngày nay đều được nhịp-nhàng trong sự ứng hợp giữa hữu hình và vô hình đó vậy.

           Khi lập Pháp-Chánh-truyền cho cả Nam Nữ Chức sắc Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài là hiệp đủ ba ngôi. Thật ra mỗi việc chi chi Thầy lập ra không ngoài các con số huyền-diệu, nhiệm-mầu ấy.

 

 

 

 

LUẬN  VỀ BÁT-QUÁI

TIÊN-THIÊN & HẬU-THIÊN

A- Bát quái Tiên  Thiên:

           Xin lập lại lời Thánh-ngôn có dạy:

“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi  trong càn-khôn thế-giới thì Khí Hư-vô sanh có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-cực.

           “Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi phân ra Tứ tượng, Tứ tượng biến Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn-khôn thế-giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà phân ra vạn-vật là: Vật-chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh.

           “Các con đủ hiểu rằng: Chi chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận”.

 

 

Thử hỏi ngày nay Thầy đến thế mở Đạo, Thầy lập Pháp Chánh-Truyền Cửu-Trùng-Đài do đâu mà lập “Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền,Tam thiên đồ đệ”?

 Từ xưa đến nay nhân-lọai đã thừa hưởng cái di-sản quí báu của các bậc tiền Thánh để lại là hai Bát-Quái: Tiên Thiên và Hậu Thiên. Vậy xin bàn đến Bát-Quái Tiên-Thiên trước cũng đồng thời trả lời câu hỏi trên qua tinh-thần của các Bát-Quái ấy trong cương vị của Hà-Đồ, Lạc-Thư mà Thánh nhân đã lưu lại.

1-  Cách lập thành Bát-Quái Tiên-Thiên:

           Khi nói đến Đạo là nói đến đầu mối ÂM DƯƠNG. Âm dương tương-hiệp mới phát khởi càn khôn, tức là Nhứt khí Hư-vô sanh Lưỡng-nghi, nghĩa là ánh Thái-cực biến tướng ra phân làm hai ngôi: âm-quang và dương quang. Ví bằng hai ngôi này muốn biến sanh ra nữa thì cần phải tương-hiệp, nếu không tương hiệp thì không thế nào sanh biến thêm được: đó là hình chữ thập. Nếu âm dương mà để riêng ra, thì hai cũng vẫn là hai: phải hiệp mới có sanh biến. 

 

 

 

          Muốn âm dương tương-hiệp nghĩa là phải đặt chồng lên nhau thành một góc vuông, điểm gặp nhau là điểm 0, đó gọi là Thái-cực làm căn bản. Bởi có hiệp với ngôi Thái cực mới thành ra bốn, ấy gọi Lưỡng-nghi sinh Tứ-Tượng. Nếu muốn biến ra thêm nữa thì cũng phải có Tứ Tượng nữa rồi nhập lại vào tâm, mới có thể biến ra được mà thành 8 cánh. Gọi là Tứ tượng biến Bát-Quái (Tứ Ấm tứ Dương)

           Khởi đầu: vua Phục-Hi ngẩng lên xem Thiên-văn, cúi xuống thì xét lý đất, gần thì lấy thân mình mà suy nghiệm. Ngài mới đặt ra những nét chẵn, lẻ tức là vạch liền tượng dươngvạch đứt tượng âm  cũng từ trong lý tính của nam, nữ mà ra để làm chuẩn, định cho cái âm dương ấy. Lấy hai điểm này làm gốc, khởi đầu, nên luôn luôn điểm chuẩn đặt ở dưới hết của quẻ gọi là Hào. Hào, tính từ dưới tính lên. Đọc quẻ từ trên đọc xuống.

           Người dân-tộc thiểu-số hay người Chàm họ cũng lấy cái vật biểu tượng âm dương là hình ảnh cối, chày đặt lên nhau gọi là cái “Linga”. Đó cũng là một bước tiến của dân-tộc bán khai. Người Á-Đông văn-minh hơn nên dùng phù hiệu bằng những nét liền, nét đứt làm ký hiệu.

 


Giai-đoạn kế mới thêm nét Âm Dương nữa cho mỗi cái gốc đó, để lần-lượt biến-hóa thêm, theo luật song-tiến số (nghĩa là cứ gấp đôi lên) tức là nếu lấy dương làm gốc rồi thêm dương nữa thành ra:

         - Hai nét dương gọi là Thái-dương (số 1)  

         - Cũng từ gốc dương thêm nét âm lên trên thành ra gọi  là Thiếu-âm (số 2)   

 - Tới gốc âm cũng qua hai lần biến hóa, tiếp-tục thêm dương, thêm âm sẽ có là Thiếu-dương (số 3) và là Thái-âm (số 4) .

 

 

 Thái là rất, là ròng một thứ; thái dương  là rất dương, cho nên tượng bằng hai vạch liền; thái-âm  là rất âm, tượng bằng hai vạch đứt.

            Thiếu là trẻ, nghĩa là mới sinh ra, nên đặt lên trên, vì nét âm mới sinh nên gọi là Thiếu-âm  cũng như nét dương mới sinh nên gọi là Thiếu dương  Họp chung gọi là Tứ tượng, tức là bốn hình tượng. Tứ tượng có một vị-thế rất quan trọng, không thể không nhớ kỹ được; từ cái phù-hiệu cho đến con số biểu tượng của nó. Trên là Tứ tượng đặt trên đường thẳng.

           Tứ tượng có thể đặt trong vòng tròn, đồng thời xác định phương vị của nó nữa.

           Xem hình thấy rõ phía bên trái là dương, bởi gốc nó

là dương mới biến ra Thái-dương số 1 và Thiếu âm số 2. Âm dương luôn đi liền nhau.

           Bên phải là Âm: bởi gốc nó là âm, biến qua hai lần là Thiếu-dương số 3 và Thái-âm số 4 tức là trong âm vẫn có dương và trong dương vẫn có âm.

           Lý dịch luôn luôn như vậy, không bao giờ có tình trạng cô âm hay cô dương (tức là thuần âm hay thuần dương) Cô dương thì không sanh, cô âm thì không hóa.

       Giai-đoạn thứ tư là Tứ-tượng biến Bát-quái, cũng từ gốc của Tứ tượng, rồi thêm dương, thêm âm, lần-lượt gấp đôi lên thành ra  8 quẻ, tức là:  Càn 1, Đòai 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Đây cũng là phù-hiệu về quẻ và số của Bát-quái Tiên-Thiên vậy.   

 

     

 

 

 Trước nhứt:                                                                  

*Gốc Thái-dương cho ra hai quẻ là   Càn 1 và Đòai 2

*Gốc Thiếu-âm cho ra hai quẻ là       Ly 3 và Chấn 4

*Gốc Thiếu-dương cho ra hai quẻ    Tốn 5 và Khảm 6 

*Gốc Thái-âm cho ra hai quẻ là        Cấn 7 và Khôn 8

             Chú-ý:- Gọi là nghi, khi thành-phần cấu-tạo chỉ có một nét (hào dương hoặc hào âm)

 - Gọi là Tượng là thành-phần cấu-tạo do hai nét họp thành (chỉ có 4 tượng)

- Gọi là quẻ (hay quái) là cấu-tạo bởi ba nét họp thành (chỉ có 8 quẻ đơn thôi). Mỗi một quẻ 3 nét như vậy gọi là quẻ Đơn (đơn quái) đó là lấy Bát-Quái ( 8 quẻ) làm căn-bản cho nhiều trường hợp.

             Bảng tóm-tắt: Đặc biệt một quẻ đơn là có đủ 3 nét, gọi là Tam tài: trên là thiên, Dưới là địa, giữa là nhân. Vì chỉ có con người mới được dự phần vào việc của trời đất. Yếu tố này rất quan trọng trong lý Dịch.

 

 

Tại sao nói là giai-đoạn thứ tư?

           Đức Lão-Tử có nói “Đạo sanh nhứt, nhứt sanh  nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn-vật”.

    Nhìn qua đồ hình sẽ thấy rõ lời nói ấy; tức nhiên khởi đoan là Đạo, có trước nhất. Từ trong Đạo mới sanh ngôi    

 Thái-cực, như Đức Chí-Tôn đã nói “Khi chưa có chi trong

càn khôn thế giới  thì Khí Hư-vô sanh có một Thầy, ngôi

 

 

 

của Thầy là Thái-cực (đây là giai-đoạn thứ nhì), Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi (giai-đoạn thứ ba), Lưỡng nghi phân ra Tứ tượng (giai-đoạn thứ tư), Tứ tượng biến Bát quái (giai-đoạn thứ năm). Bát-quái biến-hóa vô cùng mới thành ra càn-khôn thế giái (đây là giai-đoạn thứ sáu).

   Tức là sự thành hình thành tướng (8x8=64 quẻ). Phải trải qua 6 giai-đoạn để trở về lý Tam âm tam dương là vậy).

          Số 6 đây là quẻ Càn của Hậu-thiên (trời 3 đất 3) trong ý-nghĩa ấy.

 

 

 

 

 

(Lưu ý:

     Phần lý giải về quẻ Tiên Thiên và Hậu Thiên, sọan giả cũng có diễn giải qua các quyển: Dịch lý Cao Đài, Khảo cứu vụ …Nhưng ở đây vẫn được ghi đầy đủ, vì rằng số sách này chưa được phổ biến rộng nên e độc giả phải nhọc công tìm kiếm. Vì vậy mà có sự lập lại nhiều lần, mong chư độc giả thông cảm cho)

Tiếp theo >

Top of Page

      HOME