TRƯỜNG CHƠN LÝ

Hiền Tài  ĐOÀN KIM SƠN
 

 

3. SỰ THẬT

 

3.1. Thật Tế và Chúng Sanh Tế

3.2. Đạo giúp trở về với Thật Tế

3.2.1. Chánh và Chơn

3.2.2. Từ Chánh Đến Chơn hay Từ Chơn Đến Chánh

3.3. Tầm Chơn, Hành Chơn và Luận Chơn

3.4. Cái Thật Ta là Vô Biên

 

Xã hội hòa hiệp nhau định ra các qui điều cho Thiện, Mỹ nhưng không hề lập công thức luật lệ cho cái thật. Ai cũng có thể biết rằng trong thế giới thực tế của con mối ăn tờ giấy không hề có cái hiện thực của văn chương trên tờ giấy nó đang ăn. Không thể chứng minh cái có thực của văn chương trên tờ giấy cho con mối biết. Cũng vậy, cái chơn tại mỗi trình độ khó thể chứng minh cho trình độ khác cảm thông được.

3.1. THẬT TẾ VÀ CHÚNG SANH TẾ

Nhưng nói như vậy không có nghĩa rằng gối rơm theo phận gối rơm, có đâu dưới thấp mà chồm lên cao. Cái chơn của bậc giác ngộ, cái chơn thật sự có trong trời đất, không khác gì cái chơn của chúng sanh. Chỉ vì chúng sanh mê lầm, không nhìn thấy cái chơn ấy thôi. Nếu ai nấy cùng có cái thấy như Phật, thấy thẳng y như thật, giữa cái thấy và vật bị thấy không có ý tưởng gì che án thì cũng sẽ thấy như Phật thôi. Phật Thích Ca từng bảo:

Này Tu Bồ Đề! Nếu thật tế cùng chúng sanh tế dị biệt thì Bồ Tát chẳng hành Bát Nhã Ba La Mật. Nhưng do vì thật tế, chúng sanh tế chẳng dị biệt nên Đại Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh mà hành Bát Nhã Ba La Mật.

Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, Phẩm Thật Tế

Nói khác, nếu cái thật của chúng sanh khác với cái thật của Phật, Bồ Tát không thể giúp chúng sanh được. Chỉ vì thương chúng sanh mê lầm không rõ quyền pháp chơn thật có của mình nên mới hành pháp phương tiện chuyển truyền tiên thiên khí mở trí huệ (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa) cho chúng sanh.

3.2. ĐẠO GIÚP TRỞ VỀ VỚI THẬT TẾ

Con đường chơn thật lẽ ra phải dễ đi hơn tất cả các con đường khác nhưng tập quán và tín niệm vô minh đã chất chồng nhiều ngàn năm, bợn trần khó rửa sạch, dù phải dùng nước của trập trùng sóng nhồi nơi biển khổ. Cái cường lực che án sự thật, hại thay, lại mang màu lẽ phải của số đông, khoác áo vinh sang quyền thế đạo đời hoặc triết lý hàn lâm.

Tuy nhiên, một số người vẫn âm thầm tin tưởng và sống theo cái thật của mình dù các lực đối kháng vẫn có tính áp đảo:

Thanh sơn nguyên bất lão vị tuyết bạch đầu,

Lục thủy bổn vô sầu nhơn phong sô diện.

 

(Núi kia chẳng phải già, mà bị tuyết đóng nên bạc đầu. Nước kia chẳng phải sầu mà bị gió thổi nên nhăn mặt.)

…Có con sông nào khỏi nhăn mặt, nước bị gió thổi như người bị cưởng-quyền, nếu chẳng thoát ra quyền ấy, thì chưa dễ chắc còn thân. Ðạo là phương dìu người khỏi quyền ấy mà thôi.

Nhàn Âm Đạo Trưởng,12-4-1930

Chung đụng với môi trường sống quanh mình, tâm người phải tự điều chỉnh cho thích nghi. Sự thích nghi nhất cho sự tồn tại của tập thể có các khuynh hướng đối nghịch (như Thủy khắc Hỏa, Kim khắc Mộc…) là Thổ, Tín hay Hòa ở trung cung. Tâm không nghiêng lệch, ngay chỗ giữa ấy là Chính Tâm.

3.2.1. Chánh và Chơn

Với Chính Tâm giữa thế gian có tứ diện đối kháng ấy, ta có thể liên hệ được với Chơn Tâm tam thể thiêng liêng của mình. Cho nên nỗ lực tầm về chính tâm của mình trong cuộc sống tại thế gian cũng đồng thời là nỗ lực tầm về với Chơn Tâm thiêng liêng của mình.

Như đã diễn tả ở hình 29, sự sống do Nhật kích hoạt trong thân thể vật chất Ngũ Hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ thăng hoa thành tâm ý Nhơn Lễ Nghĩa Trí Tín và tinh thần Cung Khiêm Hòa Ái Nhẫn. Cái Tâm gần với Địa thì mang dấu ấn của Thổ trung cung, gần với Thiên thì mang dấu ấn của chữ Hòa còn cái tâm xác minh tiểu ngã của mình giữa đồng loại thì mang dấu ấn chữ Tín nhưng cái Nguyên Tâm vẫn là sự làm chứng mà thôi.

3.2.2. TỪ Chánh đẾn Chơn hay tỪ Chơn đẾn ChÁnh?

Con đường tiệm ngộ Chơn Tâm của sự tồn sinh vô tướng vĩnh cữu của ta khởi đầu từ Chính Tâm của ta trong cuộc tồn sinh hữu tướng, hữu căn kiếp của ta. Tuy nhiên, vẫn có con đường đốn ngộ Chơn Tâm mà không buộc phải trăn trở nhiều phen lắm kiếp trong sự tranh đấu để tìm về cái Chính. Nói khác, có thể có con đường Chơn rồi chơn nữa chơn thêm bên cạnh con đường chơn chính nữa chơn chính nữa chơn chính nữa.

Mỗi trình độ thật sự của chúng sanh (về thân thể và tinh thần) có một khuynh hướng hiểu vê sự chánh đáng một cách khác nhau. Nếu phân biệt trình độ sức mạnh thể chất và tinh thần thành ba cấp Hạ, Trung và Thượng, ta có chín phối hợp sau đây:

1.      Thượng Phẩm Thượng Sanh,

2.      Thượng Phẩm Trung Sanh,

3.      Thượng Phẩm Hạ Sanh,

4.      Trung Phẩm Thượng Sanh,

5.      Trung Phẩm Trung Sanh,

6.      Trung Phẩm Hạ Sanh,

7.      Hạ Phẩm Thượng Sanh,

8.      Hạ Phẩm Trung Sanh,

9.      Hạ Phẩm Hạ Sanh.

Vì tinh thần là điều linh hoạt, dễ cải thiện hơn sanh khí nên sanh khí thấp kém vốn là một ràng buộc nặng nề hơn tinh thần thấp kém: Thượng Phẩm Hạ Sanh chậm tiến bộ hơn Hạ Phẩm Thượng Sanh. Đường Đạo cụ thể nhắm vào sự phục hồi Sanh Khí trước. Có được Sanh Khí rồi, sự chuyển hóa thành Tinh Lực và Thần Lực dễ thực hiện hơn. Sanh Khí là tình Nam Nữ âm dương. Thần Lực hay sức điều hòa tự chủ để không thái quá bất cập liên hệ đến tinh thần an nhiên đạo đức, không có sự mâu thuẫn trong nội tâm. Vậy để giữ Khí và Thần, từ đó có sức mạnh (Tinh lực), Chơn Đạo không hề tách rời tình yêu và sự đạo đức.

Nếu phân biệt chỉ có ba hạng:

1.      Thượng: thuộc về cõi tinh thần hay thiên về tinh thần,

2.      Trung: thuộc về cõi vía hay thiên về thất tình,

3.      Hạ: thuộc về thân thể hay thiên về lục dục

thì ta có các phương cách tìm về sự chính chơn như sau:

THƯƠNG yêu chỉnh tự tâm,

ĐẠO pháp quả phi tầm.

TRUNG lập như điền chính,

THUYẾT hoà dung nhiên tâm.

                              Thượng

ĐẠI Đạo nhiếp kỳ tâm

NHƠN hoà trung tín tầm

THIÊN cơ hiệp đài chính

ĐỊA pháp ứng nhiên tâm.

                              Trung

TU tạo đắc thiền tâm

TỈNH  mê vô kháng tầm

THI trung hoà lý chính

CÔNG pháp đạo liên tâm.

                                          Hạ

 

Tóm tắt:

 

Hành

Tu

Thủ Chính

Phục Chơn

Thượng

Theo tự tâm thương yêu

Không tầm Đạo Pháp Quả chi cả

Như

Chơn Vô nhưng thuyết hòa là Dung Nhiên

Trung

Nhiếp tiểu tâm,

Trung  Tín để hòa nhơn

Thiên cơ hiệp Đài

Ứng Nhiên

Hạ

Tu tạo để đắc thiền tâm

Không cượng cầu tầm tnh tránh mê

Hành: trung

Lý: hòa

Liên tâm công pháp

 

Bậc Hạ khó biết đâu là cái Chơn của chính mình, càng bảo họ tầm tỉnh tránh mê họ càng thêm rối nên đối với họ, càng lập công tu tạo, tâm họ càng an và liên tâm công pháp là điều thích ứng nhất.

Bậc Thượng vốn có tâm thương yêu làm chun thằng nên không cần Đạo, Pháp, Quả hay luật tắc chi hết. Cái chơn thật của tâm họ là chẳng có chấp chứa chi nhưng khó làm cho đa số chúng sanh hiểu được cái Như Tâm này nên họ tạm nói là NhiênTâm cho dễ hiểu.

Trung Đạo hiệp hòa Thiên Địa Nhơn là thích ứng nhất cho đa số quần chúng: Với bản thân thì cố nhiếp tiểu tâm của mình lại, ứng Nhiên Địa, Thiên cơ và thủ tín để hòa Nhơn.

3.3. TẦM CHƠN, HÀNH CHƠN VÀ LUẬN CHƠN

Nỗ lực tầm chơn là của các tín hữu tôn giáo bậc trung, nỗ lực hành chơn là của các hành giã bậc thượng trên con đường tâm linh còn nỗ lực luận chơn hay tầm chun cho cái được chấp nhận là chơn là của các triết gia.

Phái Duy Lý cho rằng từ một hay nhiều tiền đề nền tảng hiển nhiên, người ta có thể suy diễn ra các thuyết lý về sự thật, thí dụ như phép đếm số là hiển nhiên cho phép cộng,

Phái Duy Nghiệm cho rằng phải đi từ sự quan sát trực tiếp mà qui nạp thành các lý thuyết,

Phái Duy Thực Ngây Thơ cho rằng vạn vật là thật có tồn tại như giác quan ta ghi nhận và không phải do tính chủ quan hay do cái trí con người mà có,

Phái Duy Thực Có Phê Phán cho rằng còn phải có suy tư lọc lừa về các kết quả mà giác quan ghi nhận mới có cái biết đúng,

Phái Duy Tâm Chủ Quan như George Berkeley minh thị nói ra năm 1713 rằng chính do cái tâm chủ quan của con người mà vạn vật có các ảo tưởng phi thực,

Phái đòi hỏi sự Nhất Quán cho rằng lý thật phải thống nhất với các lý khác trong hệ thống,

Phái Kiến Tạo cho rằng lý thật là cái do mình kiến tạo ra chứ không phải cái mình tìm ra được từ sự quan sát. Câu nói năm 1710 Verum esse ipsum factum  ("cái qui pháp của sự thât là phải tạo lập ra nó - the norm of the truth is to have made it," hay là  "sự thật đúng là cái được tạo ra - the true is precisely what is made") của Giambattista Vico (1668-1744) đã dấy lên nhiều đáp ứng trong nhiều lãnh vực.

Lại có phái cho rằng lý thật là lý mà tập thể ưng tùng, do đó họ coi các kết quả đầu phiếu là đáng tin tưởng.

Giáo lý anekāntavāda trong Đạo Kỳ Na (Jainism) do Mahavira (599–527 tTL) dạy ra thì nói rằng các đối tượng nhận thức thì vô lượng phẩm chất và thuộc các tầng thức giác khác nhau, chỉ bậc Đại Giác mới biết hết các lẽ thật, thường nhân không thể nào dùng nhận thức của con người mà biết hết được.

Trừ giáo lý của Tam Giáo, quan điểm nhị nguyên trong môn luận lý học được phần lớn các triết gia hiện đại, các nhà toán học và các lập trình viên máy tính công nhận và khai triển. Theo môn luận lý Boolean,

𝒶  ¬𝒶 = 1    (nhị nguyên: chỉ có hoặc 𝒶 hoặc không 𝒶)

𝒶  ¬𝒶 = 0    (𝒶 không có chi chung với cái khác)

𝒶    0  = 𝒶    (hư vô không chi phối 𝒶)

𝒶    1  = 𝒶   (toàn thể không chi phối 𝒶)

𝒶    1  = 1   (𝒶 không chi phối toàn thể)       

𝒶   0  = 0    (𝒶 và hư vô loại trừ nhau). . .

Luật loại trừ trung lập (the law of the excluded middle) hiện diện trong mọi lý luận truy tầm cái thật là một luật của tính nhị nguyên. Theo quan điểm nhị nguyên về có và không thì không là không có chi cả và có thì chỉ có dương hoặc âm chứ không thể có cái chi khác.

Quan điểm này chỉ là một trong nhiều thứ tùy chọn mà người ta đã có thể nghĩ ra và quyết chọn chứ không hề phải là quan điểm phù hợp nhất với sự thật.

Trong niềm hăng say muốn hiểu biết thực tại của chúng ta, chúng ta cũng hơi tương tự như một người cố tìm hiểu cơ chế của một chiếc đồng hồ đóng kín. Ông ta nhìn mặt đồng hồ và các kim chuyển động, còn nghe cả tiếng tíc tắc của nó nữa, nhưng không có cách mở cái hộp ra. Nếu ông ta khéo léo ông ta có thể lập nên một hình ảnh nào đó cho cơ chế tạo ra mọi thứ ông thấy, nhưng ông ta có thể không bao giờ chắc chắn rằng hình ảnh của mình là hình ảnh duy nhất có thể giải thích được những quan sát của mình,

Albert Einstein, Evolution of Physics, p.31

Hình ảnh thời thượng hiện nay là quan điểm nhị nguyên và luật loại trừ trung lập này. Nếu các tiên đề như nói trên được sửa lại cho phù hợp với thực tế của cái sống thì thực trạng tiến hóa của nhân loại ắt khác đi rất nhiều. Trong cảnh giới không gian có sự sống không hề có cái thực vô và mỗi con số đều liên hệ đến một đội hình và một tính chất đặc trưng của cái sống hữu thần chứ không phải chỉ là những tập họp các đơn vị có tính loại trừ nhau.

Đoạn 2.1 trang 101 sách Principia Mathematica của Whitehead và Russell viết Luật Loại Trừ Trung Lập là:

*2.1            ~p p                        (không phải p p loại trừ nhau,

                                                     có cái này thì không có cái kia)

Chứng minh của *2.1 này dựa vào “ý niệm tiên khởi” (primitive idea) nói ở định nghĩa tại

*1.08         p q = ~p q          (p hàm ngụ q có nghĩa rằng

                                             không pq loại trừ nhau)

Thay p cho q ta có p p = ~p p. Vì p p là đúng (đây là Định Lý 2.08, được chứng minh riêng), nên ~p p phải đúng.

Chứng minh này có chỗ dựa là định nghĩa *1.08 nhưng trên thực tế, đó là một quan niệm cượng ép. Nếu trong *1.08, thay ớt cho p cay cho q, ta có:

ớt cay = không ớt cay chẳng thể cùng xảy ra.

Thực tế cho thấy chẳng phải chỉ có ớt mới gây ra cay. Nói rằng chỉ có ớt mới gây ra cay thôi là đã có quan niệm cượng ép về nhị nguyên ớt/cay. Tiền đề của lập luận, định nghĩa (*1.08 ) dựa vào quan điểm thông thường về nguyên nhân p và hậu quả q thực ra đã là một quan điểm nhị nguyên, điều đáng lẽ phải được chứng minh (*2.1).

Từ *1.08 suy ra *2.1 có nghĩa là “Nếu công nhận có tương quan nhân quả p q tất phải công nhận luật loại trừ trung lập của quan điểm nhị nguyên. Nói khác, nếu công nhận quan điểm nhị nguyên thì cũng đồng thời công nhận luật nhân quả. Vậy, muốn nghiên cứu sự tiến hóa liên cảnh giới của cái sống, vượt khỏi nhân quả, ắt phải lập một tiền đề khác.

Quan điểm thông thường về nguyên nhân và hậu quả không thể được dùng làm luận cứ cho các truy tầm sâu xa vượt tầm của ngôn ngữ. Có tên gọi là có ý niệm nhị nguyên, không tên gọi là trước các phân định nhị nguyên. Thực tế sự sống gồm cả cái có tên gọi và cái không tên nữa. Nếu dùng quan điểm nhị nguyên trong các tiền đề này để chứng minh tính nhị nguyên của các sự tồn tại thì e là một lỗi luận lý xác nhận hậu quả trước khi chứng minh nó.

Aristotle xưa đã nói

“Nói cái thật vậy là không thật vậy, hay nói cái không như vậy là như vậy, đó là sai, còn nói cái thật vậy là thật vậy, cái chẳng như vậy là chẳng như vậy, đó là đúng[1]".

Đây cũng có thể hiểu là luật loại trừ trung lập chẳng thể có cái vừa sai vừa đúng. Đây có thể là một qui luật của cảnh giới tưởng tượng nào đó chớ không phải là qui luật tiến hóa liên cảnh giới. Nói đến liên cảnh giới biệt lập nhau, vẫn có vô vàn việc đúng ở cảnh giới này nhưng hoàn toàn sai ở cảnh giới khác. Có nhiều điều mà con cua thấy là đúng nhưng con chó không cảm nhận như vậy. Sự sống trong trời đất cũng muôn màu muôn vẻ, không chỉ như tại trình độ của loài người trên địa cầu này.

Lại có những liên cảnh giới hòa trộn nhau, vì khả năng của ngũ quan bị giới hạn nên không nhận biết có các tồn tại theo một kiểu cách ngoài tầm mà ngũ quan và lý trí có thể tưởng đến.

Có những thực tế đa nguyên mà khi ta thiếu thông tin thì cũng chẳng biết nhận định ra sao cho chắc. Giáo lý anekāntavāda nói trên quả là để cảnh giác sự hạn hẹp nhãn kiến của ta vậy.

Khi ta bảo rằng anh A nào đó vẫn mãi là A thôi, chẳng thể là một ai khác thì thoạt nghe như bình thường nhưng xét kỹ lời nói này cũng có vấn đề. Ta hãy xét một câu phát biểu của anh A:

“Tôi cảm thấy mình dại quá.”

Chủ thể của hành động cảm thấy là “tôi, khách thể của hành động cảm thấy là “mình dại quá”. Sao chủ thể lại có thể là khách thể? Sao cây thước có thể đo được cây thước? Sao lửa có thể làm nóng được lửa? Ắt phải có tới mấy cái “ta”:

Coi ta là một thực thể bất phân tách biệt và độc lập với các thực thể khác thì không hiểu được thực tế tương quan tiến hóa xuyên cảnh giới của ta cũng như của vạn loại. Dùng trí năng định ra các tiên đề (axioms) hay các mạng (lattices) chối bỏ cái chi đó ngự vào từng cá thể và thống hợp mọi cá thể thì các phép tính từ tiên đề đó làm sao chứng minh được sự tồn tại của cái mà mình đã chối bỏ từ đầu?

Sự vận trí có thể cho biết cái sai của trí nhưng chỉ thuần cái trí thôi thì không đưa đến kinh nghiệm nào bên trên khả năng ấy.

Do có sự tương liên giao tiếp với các thực thể tiến hóa cao siêu hơn qua cơ bút mà loài người nay đã được xác nhận rằng Chơn Thần trong thân thể có trung tâm là bộ não và Chơn Linh ở ngoài thân thể có thể hoặc không thể liên hệ với nhau được. Dùng trí lự của Chơn Thần thật khó mà lường được Chơn Linh nếu Chơn Linh không gặp lúc Chơn Thần ở điều kiện tốt để hội được với nó.

Cũng qua sự giao tiếp bút cơ hay đồng tử mà nhơn loại trên địa cầu lúc này được Thượng Đế đến chỉ dạy nhiều điều. Rất nhiều người, kể cả phần lớn những người tự coi là có Đạo, đã hiểu sai về Thượng Đế. Hơn nữa, chính Thượng Đế đã đến chứ tuyệt nhiên không phải loài người tưởng tượng nên.

Do khởi hướng đã là các “lattice” bác bỏ sự có trong cái không, người ta không thể thấy được Thái Cực sinh ra từ Vô Cực , lại càng không biết Khí Hư Vô là gì. Lại nữa, hạt nhỏ nhất mà con người biết được vẫn không thể đo được các hạt nhỏ hơn, những suy luận có thời gian và vận tốc không thể giúp biết được cảnh giới phi thời gian.

3.4.           CÁI THẬT TA LÀ VÔ BIÊN

Chúng ta hãy nghe lời nhắn nhủ của Galileo trong cuộc xây bàn tại nhà của Victor Hugo ở New Jersey.

9 giờ tối Chủ Nhật 1-12-1854

Có mặt: Bà Victor Hugo, Charles Hugo, François-Victor Hugo, Mlle Adèle Hugo, Auguste Vacquerie, Guérin.

Đồng tử đặt tay lên bàn: Bà Hugo và Charles.

Trước khi được hỏi, bàn nói:

Galilée.

“Hãy nói đi.”

Tôi sẽ trả lời sự phản đối của Victor Hugo liên quan đến sự không có tính chính xác khoa học trong khoa Vũ trụ Học của các chơn linh xây bàn. Vì Huynh ấy có ý muốn lập lý trình bày.

Victor Hugo vào và cầm bút lên.

VICTOR HUGO: “Đây không phải là phản đối mà là nhận xét thôi. Bằng lời lẽ đáng kính trọng trong buổi đàn thứ hai ngày 22 tháng 10, đấng khổng lồ nói chuyện với tôi có vẻ như đã chiếu cố nhiều đến quan điểm của loài người, ý nói là chiếu cố đến ảo giác mà chúng tôi có về bầu trời khi chúng tôi nhìn lên đó. Rõ ràng rằng những gì chính chúng tôi gọi là những chòm sao, đều là những nhóm ảo do cái nhìn của chúng tôi tạo ra về các ngôi sao mà chúng tôi thấy có vẻ như có độ lớn như nhau. Hay là chúng tôi coi một sao nhỏ ở gần như là lớn, một sao lớn ở xa như là nhỏ. Chúng tôi thấy như hai sao ở cạnh nhau có độ lớn như nhau và gán chúng vào cùng một chòm sao nhưng thật ra có thể chúng cách xa nhau nhiều lắm, và thuộc về các chòm sao hoàn toàn khác nhau trong cõi vô biên. Cấu tạo chòm sao mà chúng tôi định ra cũng thuần túy tùy tiện, do ảo giác quang học mà có. Quả nhiên có các chòm sao thật. Những gì chúng tôi thấy là những chòm sao giả. Hay là, chính vì cái sức nhỏ nhoi của loài người chúng tôi biết như vậy, mà tôi nghĩ có vẻ như các đấng xây bàn đã rõ được nên nói với chúng tôi những điều thực cao vời, với toàn những lời lẽ lộng lẫy về sự thật. Chúng tôi không nghĩ rằng mình chẳng phải không đáng nghe về sự thật ấy. Vậy các đấng xây bàn ắt có thể nói với chúng tôi rằng: Các chòm sao mà các bạn thấy, do mắt các bạn nhóm chòm chúng lại và do ảo giác của các bạn tạo ra; tất cả các tên mà các bạn đặt ra cho chúng: sao Lion, sao Capricorne, sao Sagittaire, là những tên của các quỉ dữ và mơ mộng của các bạn. Có những chòm sao thật trên trời không có các tên gọi thế gian, nhưng có tên gọi thiên đình. Các chòm sao có tên như vậy. Tôi muốn nói với Huynh về các chòm sao ấy; và như vậy từ cõi trên Huynh có thể cho xây bàn xác nhận những giải thích thiêng liêng về những sự thật này mà chúng tôi đã nhận được từ xây bàn. Việc ấy có thể không là chuyện quá lớn đối với những người có đức tin như tôi, và với những kẻ có lòng ngờ vực, chuyện ấy đã từng là chuyện khó công kích hơn, và tôi thấy có lẽ phải nói lên với họ nữa. Đã nói xong. Tôi nghe Huynh trả lời đây.

Tôi trả lời hai việc: trước hết, nếu để bàn xây nói bằng ngôn ngữ của Thiên Đình chớ không phải ngôn ngữ của nhân thế thì Huynh ắt không hiểu; trong ngôn ngữ của Thiên Đình, người chẳng gọi là người, thú chẳng gọi là thú, cây chẳng gọi là cây, sỏi chẳng gọi là sỏi, đất chẳng gọi là đất, không khí chẳng gọi là không khí, nước chẳng gọi là nước, lửa chẳng gọi là lửa, bầu trời chẳng gọi là bầu trời, tinh chẳng gọi là tinh, tú chẳng gọi là tú, ông Trời chẳng gọi là ông Trời; nơi không có thân thì không có lời, lời nói là thứ mà chư Huynh làm ra từ lý tưởng; vô biên thì vô danh, vô tận không có trích lục khai sinh; không gian, thời gian là những ẩn số hốt hoảng chạy trong cõi bao la; không gian không có cái nhìn, thời gian không có chân đi, cái này là một cái bóng tối rơi vào vực thẳm, cái kia là một cái vực thẳm rơi vào bóng tối; không gian, thời gian: hai mặt nạ, hai hiện tướng, hai cách nhìn, hai giấc mơ, hai điều bất khả, hai mắt nổ ra vì hãi hùng, hai cẳng máu me vì hình phạt, hai hàm răng kinh khủng vì vực thẳm; nhưng kìa, gương mặt thì không. Mặt không nói năng, mặt không nghe ngóng, mặt không trình bày; Trời đang nói, ấy là Trời lưỡi, Trời lưỡi, ấy là Trời miệng, Trời miệng, ấy là Trời thân thể, Trời thân thể, ấy là Trời loài người, Trời loài người, ấy là Trời thú vật, Trời thú vật, ấy là Trời thảo mộc, Trời thảo mộc, ấy là Trời sỏi đá. Huynh có nghĩ đến đó không? Trời sỏi đá! Cả đến ông Trời ấy cũng không là Trời ngôi sao! Không, cái lưỡi của Thiên Đình cũng vậy. Không có bảng mẫu tự cho Đấng không do gì sáng tạo ra, không có ngữ pháp cho cõi trời, người ta không học cái linh như học tiếng Do Thái; cõi trời không có cái phương ngữ của trần gian: vô biên không có một mãnh sứ lạ chưa biết, các thiên thần không là những giáo sư dạy ngôn ngữ thiêng liêng, không là những giảng viên dự khuyết cho chức giảng sư “vô biên”. Không. Tất cả cái ấy không có tên, tất cả cái ấy là ánh sáng và là vô danh; tất cả cái ấy là tia sáng và mặt nạ; tất cả cái ấy là mặt trời và lãng đãng; cõi bao la là gia đình các kẻ lãng du; không gian chẳng có giấy thông hành, cõi trời không có biển báo. Vô tận không có phả hệ, phép Tạo Hóa không có tên thánh, Trời không có mái ấm hay chốn nơi, tất cả Đấng ấy là vô sanh và vô danh; ngôn ngữ cõi trời nói trong sự thán phục; rực sáng lên, ấy là tự thể hiện; cái sáng, ấy là tia chớp; sấm sét, ấy là sự cao cả; nói cái ngôn ngữ thiêng liêng, ấy là quăng ra các ngọn lửa; một bầu trời cất lời lên bằng cách điểm đầy các sao, một bầu trời lặng thinh khép bờ môi tối tăm của mình lại; và mỗi chữ cái của cái ngữ vựng kinh khủng ấy là một cơn lửa cháy trên đó cái miệng tối tăm của bóng đêm thổi ra; quyển tự điển của vô biên đầy các dấu chấm câu là những ngôi sao; vậy Huynh nói sao nếu như để nói cái ngôn ngữ mà Hynh, ông bạn tội nghiệp, đòi hỏi, cái bàn bé tí xíu này, thay vì các vần chữ cái, các chữ, các câu, sẽ lập tức vất vào tai Huynh hằng triệu ngôi sao, quăng Huynh vào mặt của Mộc Tinh, Thổ Tinh, Aldébaran[2], và trãi ra trên tờ giấy của Huynh những đốm mực bao la của đêm sao sáng, và chỉnh sửa bằng những sao chổi dữ dội điên cuồng?

Bàn ngưng viết.

VICTOR HUGO: Đây chỉ mới là phần đầu câu trả lời của Huynh. Huynh có muốn sẽ trở lại vào Chủ Nhật sau để tiếp phần thứ hai?

Vâng.

Buổi đàn chấm dứt lúc mười một giờ rưỡi.

Chez Victor Hugo, Les Tables Tournantes de Jersey,

©1996 L’École des Loisirs, Paris

Sao mắt kinh khủng miệng hãi hùng mà mặt thì không chuyển biến? Vì sự cảm sự xúc có tạo ra xúc này cảm nọ nhưng cái chủ thể vẫn là bất biến. Tam thể Mắt (Căn), Sắc (Trần) và Sự Thấy (Thức) cần có một ngôi Sự Sống ngự vào trong đó. Cái chứng nhân sống động tỉnh thức ở trung cung của tam thể đó không vì những diễn biến mà đổi thay. Ý căn (não), pháp trần (đối tượng nghĩ suy) và ý thức (kết quả lưu đọng lại) cũng cẳng phải là cái Ta tỉnh thức ở trung cung tam thể ấy. Mũi, lưỡi, da và tai cũng tương tự như vậy. Ta lầm khi gọi kinh nghiệm của mình là chính mình. Thực ra, ta là kẻ chủ ngự các kinh nghiệm ấy, chúng là ngôi của ta, không phải là ta. Thiên Nhãn vẽ trong tam giác không phải là nhãn căn dùng để tiếp sắc trần tạo ra sắc thức. Ấy là Thiên Nhãn trong ta, là chủ thể chứng nhân sống động tỉnh thức cho tất cả các kinh nghiệm.                       

Sao là Trời lưỡi, Trời thân thể, Trời thú vật, Trời sõi đá? Vì đâu đâu có sự hiệp nhất thì đó là ngôi Thái Cực [ của Trời và Trời ắt đến ngự vào.

Sao cõi bao la là gia đình của các kẻ lãng du? Xin hãy xét các lời này:

Nhơn loại đã nghịch lẫn nhau, tàn hại lẫn nhau, giết bỏ lẫn nhau, cũng do bởi chạy theo cái sống của con đường duy vật.

Trái lại, cái sống của tinh thần là sống tự chủ, tự quyền, thì cái sống ấy không nguồn không cội, không luật, không hình, không bờ không cõi, sống theo gió theo mưa, theo Trời theo Đất, sống với càn khôn vũ trụ, sống với nhựt nguyệt tinh quang theo một khuôn luật với cái sống vô ảnh vô hình của các tư tưởng bậc Thánh hiền từ thượng cổ.

Hộ Pháp Phạm Công Tắc, 11-7-Bính Tý (27-8-1936)

Sao mỗi chữ cái của cái ngữ vựng kinh khủng ấy là một cơn lửa cháy trên đó cái miệng tối tăm của bóng đêm thổi ra? Vì cái sống Thái Cực là lửa sống của sự hiệp nhất. Cái sống ấy từ trong Vô Cực mà có cho nên nói lửa ấy từ trong miệng tối tăm của bóng đêm thổi ra.

Do không biết sự tồn sinh vô tướng vô biên của các cá thể bên ngoài cuộc tồn sinh hữu tướng hữu hạn của mình nên mới có luật loại trừ trung lập trong luận lý học. Do tập quán và giáo dục tạo ra sự thiếu tự kỉnh mới nên nỗi.

 

 

[1] To say of what is that it is not, or of what is not that it is, is false, while to say of what is that it is, and of what is not that it is not, is true Metaphysics, Book IV, part 7.

[2] Là sao Alpha Tauri, sao  sáng nhất trong chòm sao Taurus và là một trong những sao sáng nhất của bầu trời ban đêm. Sao này có đường kính 44,2 lần lớn hơn mặt trời.

Trở về đầu chương 3

 

 

4. TÂM TỰ KỈNH

 

4.1. Tâm

4.1.1. Vọng Tâm

4.1.2. Chơn Tâm

4.2. Thập Nhị Nhân Duyên

 

 

Không có chơn pháp hữu hiệu để tự trị nên không tự kỉnh.  Không tin vào cái chơn thật tự tâm mình và tâm người nên không có chơn pháp. Không có sự Hiệp Thiên nên bị mê hoặc trong các giả pháp lắm khi khoác màu cao thượng thanh bai nhưng lại dẫn lần đến chỗ mất hẳn cái sống và cái linh.

Vô Lý Pháp Vô Tín Đạo,

Vô Tâm Tự Kỉnh Thị Vô Thị Đạo.

Thầy

Không biết Lý Pháp (cho nên) không tin Đạo.

Không tâm tự kỉnh (cho nên và bởi vì) không thấy Đạo.

 

Con người có truy tầm lý pháp tiến hoá tất có tín Đạo.

Có biết giữ phẩm giá mình mà tin tưởng cẩn trọng thi hành chơn chánh Đạo tất có năng lực, tình thương và tinh thần tăng tiến, tất có trọng Đạo và thêm tâm tự kỉnh mình.

Người có tâm tự kỉnh dù không biết lý pháp vẫn có thể thấy được Đạo. Kẻ nào mất sự tự tin, tự kỉnh và nơi nào không thể phổ biến Lý Pháp của Đạo Trời cho rộng khắp để tạo sự tự kỉnh thì người đó, nơi đó không còn chánh tín.

Mượn người suy nghĩ dùm mình, không biết sự sáng của chính mình đã do đâu mà mất, không tin mình cho nên không tin người, không tin có khối thánh đức bàng bạc tự nhiên của các hiền triết, Phật, Tiên kim cổ còn lưu lại trong không gian, nên bế lối cảm thông; hoang mang, tạm chọn nơi bám tựa mà tâm vẫn bất an; nghi kỵ điều không nên nghi, tin việc chẳng nên tin; vô minh (không sáng suốt) dẫn lối vô chơn (không thực), vô chơn dẫn lối vô minh; thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình vì lòng kỉnh thành đã mất; lầm lỗi thúc giục lầm lỗi, thế giới dập dìu lao thân vào cảnh khổ.

4.1.       TÂM

Như đã nói trong đoạn 2.4.3.4. của bài Các Trường Triết Học ở trang 56, tâm hay tinh thần của con người là mối tương quan của các tam thể . Có một tên gọi cho một vật việc chi tất có cái tên gọi cho điều nghịch đối lại với nó. Có/không, dễ/khó, thiện ác cùng nhau sinh ra. Cơ Tạo Hóa khởi từ sự có tên:

Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ, tư ác dĩ. Giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố Hữu Vô tương sinh, nan dị tương thành; trường đoản tương hình; cao hạ tương khuynh; âm thanh tương hoá; tiền hậu tương tùy.

(Người ta biết đẹp là đẹp khi so sánh nó với xấu, biết thiện là thiện ấy là do nghĩ tới bất thiện. Cho nên có không cùng nhau sinh, khó dễ cùng nhau thành, dài ngắn cùng đối kháng nhau, cao thấp cùng làm nghiêng đổ nhau, âm và thanh cùng hòa nhau, trước sau cùng theo nhau)

Lão Tử, Đạo Đức Kinh, Chương 2

"Sáng Thế Ký" của Kinh Thánh:

"Thoạt tiên là ngôi lời, Ngôi Lời cùng tồn tại với Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời" (In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God)

John 1:1 New International Version (©1984)
 

Nguồn nhị nguyên thị phi xuất hiện khi có tên gọi, hiệp với trọng tài Triết Tâm mà có được tam thể tinh thần dẫn lần đến Cao Thần, Minh Khí và Cao Minh Tinh Lực. Sự hiểu rõ thế tam phân của tâm dẫn đến các kết quả cụ thể của năng lực sáng tạo.

Do tính nhị nguyên của các thể tướng, có xuất hiện cái gọi là chơn ắt có ngay cái giả. Phật Thích Ca cũng từng phân tích rõ vấn đề chơn tâm và vọng tâm để giúp chúng sanh tránh sự điên đảo nhận lầm. 

4.1.1.   VỌng Tâm

Khổ khởi từ tâm bị thất tình lục dục cuốn lôi. Thất tình là bảy thứ tình:

Mừng Thương Vui

Muốn

Giận   Ghét   Buồn

Lục dục là sáu thứ muốn do lục thức (sáu thứ biết) sinh ra từ việc tiếp xúc của lục căn với lục trần. Lục căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, não còn lục trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Vì vô minh nên hờ hững để cho những thứ thức này tích lũy lại trong tâm, tưởng chúng là thực, là sáng. Thực ra, con người còn có thể mở thêm hai khiếu khác nữa thì cái thấy biết mới rõ ràng, trung thực. Chưa mở đệ thất khiếu và đệ bát khiếu thì những điều thấy biết rất thiếu sót, cũng như kẻ mù điếc không biết rõ các việc bằng người bình thường ở thế gian vậy.

Khi lục dục tạo thành một hệ thống thước đo, màn lọc cho tâm thì tâm ấy lệch lạc không trung thực phản ảnh mọi việc, nó nên được coi là vọng tâm chớ không là chơn tâm. Vọng là ảo, giả, mọi ý nghĩ hành tàng không có tính khách quan và chơn thật, do thiếu những thông tin tiếp nhận qua hai khiếu thứ bảy và thứ tám. Vậy là vô minh dẫn lối vô chơn. Và khi tâm đã tưởng cái sai là cái đúng thì chẳng còn chi hơn là lầm lẫn mịt mờ: vô chơn dẫn lối vô minh.

Do vô minh mà vô chơn nên sai lầm thất bại, rồi lại do vô minh mà lầm lẫn nhận giặc vọng tâm làm cha, tưởng rằng bản tâm mình không tốt, không dám hiểu rằng mình vốn có cái chơn tâm rất tuyệt diệu, nên không biết tự kỉnh mình.

Có tự kỉnh (cái linh + cái trí của mình) tức có tự trọng nhưng tự trọng (cái trí hay cái tài vật mình sở hữu) chưa hẳn là tự kỉnh. Vọng tâm có thể có tự trọng nhưng vẫn không có tự kỉnh. Tự kỉnh là kỉnh phục và tín thọ phụng hành (tin tưởng cẩn trọng thi hành) theo cái chơn tâm của mình (), nhất nhất không theo vọng tâm và không để tâm phóng dật sống dậy.

Vọng tâm là cái tâm có thời gian, có ngũ hành chi phối, do cuộc tồn sinh hữu tướng mà có. Đó là cái kiến văn giác tri biến hiện tùy duyên cảnh, phần biểu lộ phản ứng của tinh thần ta trước các duyên cảnh mà thôi.

4.1.2.   Chơn Tâm

Chơn tâm là từ dùng để chỉ cái sâu kín hơn nhiều so với ý hiểu thông tục về từ này. Nó là Thiên Nhản làm chứng chớ không phải là tâm không dối láo thông thường. Cho dù mình tưởng rằng mình đang chơn thật nhưng đó cũng là vọng tâm mà thôi. Chơn rồi chơn nữa chơn thêm, đó là thiền tâm. Hiển lộ được diệu tâm thường trụ, do Tinh Khí Thần đã đầy đủ mà tự nhiên xả bỏ được mọi thứ vọng tâm, đó là tâm thiền hay tâm chơn.

Con người có ba thứ xác thân nên có thể nói có ba thứ tâm hồn. Sinh hoạt trổi mạnh trong xác thân nào làm hiển lộ tâm thuộc về xác thân ấy.

Tâm hồn gần với xác thân thì coi trọng cái sống của mình, tâm hồn ở mức trung thì coi trọng sự phải quấy cao thấp còn tâm hồn gần với cái Linh thì noi theo cái thực, chứng nhận cái thực.

Vọng tâm là tâm của Chơn Thần, gần với địa còn Chơn Tâm là tâm của Chơn Linh, gần với Thiên. Chơn tâm làm chứng nhân cho các hợp tan hóa chuyển biến dịch nhưng không mang theo dấu vết thời gian. Thời gian kỹ niệm nghĩ suy hành động dù cao xa thế nào vẫn là bóng tối trước năng lực của không gian. Không gian Ngọc Hư toàn ngự kẻ tinh anh, bản ngã có dấu ấn thời gian nhìn vào sự vĩ đại và vi diệu của không gian ắt biến thành bóng tối rơi vào vực thẳm.

Nhưng Chơn Linh của không gian vẫn luôn có sức điều hòa, nâng đỡ, thẩm thấu vào tận sâu của nghiệp báo thời gian, cho đến lúc năng lực tự phát đã hao mòn thui chột thì đó lại là vực thẳm rơi vào bóng tối.

Pháp bất vị thân, nghiêng lệch vạy tà nặng mang tình Địa thì trở về với Địa, ngay chánh chơn thành có dấu ấn của tính Thiên thì hiệp lập cung Thiên, ấy là Đại Đạo vô tình sanh dục Thiên Địa.

Đáng lẽ phải hướng tâm vào cõi không gian, ra mặt Thánh Nhơn, người nơi cõi phàm mà giữ tròn tâm Thánh, do lầm mang tâm tình Nhơn Thánh, ông Thánh có tâm phàm, tâm lụy với nhân thế nặng bóng thời gian, mà nên nỗi. Thương thay Nhân Thánh nặng tình thương!

Nhơn Thánh hay Thánh Nhơn, đó là dùng lời phàm diễn lý rằng do chưa được vô sanh phải vào chỗ hữu sanh để học bài học vô danh. Vô danh đã chắc, vô sanh  đã hiển thì cùng với Đại Đạo vô danh trưởng dưỡng vạn vật.

Hợp tan, hóa chuyển, biến dịch, thảy thảy công minh. Vì vốn có Đại Đạo vô hình vận hành Nhựt Nguyệt, . Chơn Linh mới là cái tâm chơn thật thường còn. Lần theo sự chơn thật với chính mình đang có xác thân vật chất và tâm linh siêu nhiên là lần theo sự hòa thông các thứ cảm tính Hậu Thiên lẫn rung động Tiên Thiên để âm quang hiệp được với cái sáng của dương quang đưa đến.

Đại Đạo vô hình, vô tình, vô danh như vậy là Thường Đạo, là trường diễn biến, hóa chuyển các tương quan lực lượng trong trời đất. Vậy nói rõ ra phải chăng mạnh được yếu thua là luật của vũ trụ? Theo lời dạy của Thượng Đế thì không phải vậy.

Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con hành phạt; cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình, thì gần ngôi Tiên, Phật đó.

TNHT, 23 tháng 8 năm Bính Dần (29-11-1926)

Thượng Đế vận hành trong Thường Đạo nhưng vẫn có thể tùy duyên mà lập ra Phi Thường Đạo, con đường đặc biệt dẫn về với chơn tâm vũ trụ, nữa. Vậy Lý của các Pháp để dẫn đến chơn tâm vũ trụ, hay nói cách khác, cái lý của các pháp để dẫn đến cái thật tế vũ trụ, cũng đồng thời là chúng sanh tế, là thế nào?

Nhưng trước khi đọc qua chương Lý Pháp, xin xem lại vấn đề nhân duyên. Nhân như chiếc dùi, duyên như cái chuông và quả như âm thanh vang ra. Nhân thuộc ta, như lòng mưốn biết việc chi, duyên thuộc bên ngoài như ông thầy hay quyển sách, quả như kiến thức thu đạt đươc.

Vô minh là gốc của mọi sự kết tập thành vọng tâm và ngăn cản chơn tâm. Quả trước làm duyên cho nhân vô minh để tạo ra kết quả tiếp nối theo. Có đến mười hai mắc xích như vậy, gọi là Thập Nhị Nhân Duyên.

4.2.       THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

Đức Thích Ca dạy 12 nhân duyên gây ra vòng luân hồi là

Vô minh sinh Hành (có sự cố ý – mất tự nhiên)

Vô minh + Hành sinh Thức (có phát khởi cái biết)

Vô minh + Thức sinh Danh sắc (có tên gọi là thiện, là ác lăng xăng)

Vô minh + Danh sắc sinh Lục nhập (thấy nghe nếm…nhớ)

Vô minh + Lục Nhập sinh Xúc (có cảm giác tương tác)

Vô minh + Xúc sinh Thọ (có tiếp nhận)

Vô minh + Thọ sinh Ái (có thích thú*)

Vô minh + Ái sinh Thủ (nên có đúng sai, tranh cải, ganh ghen)

Vô minh + Thủ sinh Hữu (có sự tiếp thu các tính vật chất Hậu Thiên vốn là vô thường – tức là có điều kiện mới tốt, không phải như các phẩm tính Tiên Thiên thường hằng)

Vô minh + Hữu sinh Sanh Lão (tổn tinh huyết, nên già)

Vô minh + Sanh Lão sinh Bệnh Tử. (Sanh lão nếu không vô minh cũng khỏi bị bệnh tử khổ).

Vậy ngay cả khi do vô minh mà có tình luyến ái như con người tại thế gian (Thọ,  Ái, Thủ…), vẫn có thể tránh sự vô minh mà chặt đứt vòng xích luân hồi tại đây để chẳng Sanh hoặc chẳng Lão, chẳng Bệnh, Tử.

Sống với tâm vô minh thì không tốt nhưng tìm cách tránh né sự sống lại càng là một thứ vô minh lớn lao. Động quá hóa đục, tịnh quá hóa chết,

Vào không đâu thể tìm ra có,

Ở có làm sao kiếm đặng không?

Sau Lưỡng Nghi, mọi việc đều chịu hai qui luật hòa trộn giữa có và không hay hữu hình và vô hình nhưng Thái Cực Pháp đang hé lộ. Duyên nơi Thái Cực Pháp, ta có thể té chỗ nào đứng dậy chỗ đó. Nếu không biết cách bồi cái đã mất ngừa cái mất thêm thì cam đành thua cuộc.

Con đường hoặc hữu tướng hoặc vô vi nhưng kết quả cụ thể mới là Đạo. Bây giờ là buổi của Di Lạc Vương Pháp có con đường hiểu rõ nguyên ủy của thức tâm và thực hành đúng như chơn tâm đại hòa điệu vũ trụ. Do có cả vô (trên hộ hiệp) lẫn hữu (ta cố thực hành việc biến Bát Quái thành Tứ Tượng, Tứ Tượng thành Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi thành Thái Cực) mà nên công. Nếu Thái Cực chưa hiện tướng là Đạo chưa thành, Thái Cực đã hiện tướng thì có thể theo pháp vô pháp.

 


 

[1] Xin xem Luật Tam Thể, Tài liệu dạy Đạo từ Cơ Bút năm 1950-1953.

Trở về đầu chương 4

 

 

 

5. LÝ PHÁP

 

5.1. Cao Lý của Chánh Pháp

5.2. Chánh Lý của Thiên Pháp Vô Pháp

5.2.1. Chơn Pháp

5.2.2. Pháp nào thích hợp cho đại chúng?

 

 

5.1.       Cao Lý cỦa Chánh Pháp

Từ Lưỡng Nghi trở ra là Pháp Tạo Hóa của Phật Mẫu. Chơn Pháp là Pháp Ái Tình Chơn của Chí Tôn Phật Mẫu, là pháp hiệp âm dương hữu hạp biến sanh nhưng Chánh Pháp là pháp ở trước, ở giữa, không nghiêng lệch, được đồng thuận.Âm dương” có nghĩa hữu/vô, thần/vật, nam/nữ, tịnh/động… và hữu hạp có các nghĩa tương ứng, tương điều hòa… ở nhiều mức độ khác nhau.

Những lý pháp vạy tà ngăn chận chánh pháp Tình Tạo Hóa này có nguồn gốc từ chỗ chỉ biết có nhị nguyên tương tranh mà không kể đến trọng tài Thái Cực. Cho nên ngoài sự biến sanh hai thành bốn, bốn thành tám như nói trên, ngôi chánh pháp âm tính ( lúc nào cũng hoạt động trong thế tam phân dương tính ():

Nghiệp hồng vận tử hồi môn,

Chí công định vị vĩnh tồn Thiên Cung.

Chủ âm quang thường tùng Thiên mạng,

Độ Chơn Thần nhứt vãng nhứt lai.

Phật Mẫu Chơn Kinh

Đạo hướng về nguyên thủy không gian  nên là dương, đức nhuận hạ đến các cảnh giới chúng sinh in bóng thời gian nên là âm. Âm dương tương hiệp tương tác, đạo với đức không thể rời nhau, cũng như ba với bốn lúc nào cũng có mặt trong các tầng thức giác.

Tu Đạo mà Minh Đức là để Chơn Tâm bên trong trỗi dậy mà điều ngự thái độ bên ngoài. Nhưng phải từ chỗ tận sâu của tâm hồn muốn hòa nhập không gian mới gần với Đạo. Những cảm xúc, rung động cho dù là âm quang Phật Mẫu ban cho trong đệ nhị xác thân nhưng nếu đầy dẫy các dấu ấn thời gian, cũng chưa đủ làm cớ để đòi hỏi, kêu nài cho có cái chơn tâm sáng suốt của mình trỗi dậy.

Tu Đức mà minh Đạo là biết được Trời lưỡi, Trời thân, Trời người, Trời thú, Trời cây cỏ, Trời đất đá: đâu đâu vẫn vốn là Trời. Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh, ra là Đời, về là Đạo. Nếu đệ nhị xác thân của ta chưa hiệp được với đệ nhất xác thân (giác hồn chưa chế ngự được sanh hồn), nếu ta chưa hiệp được với người khác vì vẫn đang trong tiểu ngã vọng chấp nên không đủ điều kiện để làm cho bản thân thanh khiết và đệ tam xác thân không thể xuất hiện được, ta chưa thực là TA nên chưa đến được với chơn tâm của TA và của vạn linh.

Có cái ta nhỏ bé (tiểu ngã) mình tự dính mắc vào, chấp chặc vào những giới hạn của vọng tâm nên hoặc không tự tin hoặc quá tự cường và cũng có cái TA lớn lao vô biên (ĐẠI NGÃ) mà mọi người có thể do sự tự kỉnh và kỉnh người khác mà đạt tới. Bỏ tiểu ngã để vào nhập vào đại ngã, bỏ vọng theo chơn, bỏ tối theo sáng…cũng không phải dễ. Đó cũng như bỏ cơn nghiện ngập, như thức giấc chiêm bao, như dứt thoát được tứ khổ sanh lão bệnh tử.

Nguồn thánh đức Tạo Hóa bàng bạc bao la trong không gian trùng điệp khí vĩnh sanh. Theo cái thiện chưa phải là theo nguồn thánh đức ấy. Hết lòng hành theo thiện tâm mới chỉ là dấu hiệu có thể được tiếp nhận như một môn đồ để được khai mở linh tâm[1]. Chí thành sinh hoạt trong linh tâm ấy mới có thể đắc thế. Rồi lại phải theo chánh tâm hay pháp tâm mà hành cho đắc pháp, sau đó mới ôm mối đạo tâm, hay Chơn Tâm, hay Thiên tâm ngời sáng do Phật Mẫu ân ban, gọi là đắc Đạo, mà thỏng tay vào chợ được.

Có đạo tâm ấy rồi thì có thể trực cảm với mọi sinh linh vì họ cũng đồng có cái chơn tâm như vậy. Đạo tâm, chơn tâm, nhiên tâm, xích tử chi tâm, Thiên tâm ngời sáng do Phật Mẫu ân ban đều cũng là cái tâm tạo hóa thống nhất nhau trong toàn cõi trời đất.

Phải hết lòng cung kỉnh cái tâm thiện, tâm linh, tâm pháp mới có cái Đạo Tâm chơn thật. Cố tình lờ đi các rung động của đệ nhất và đệ nhị xác thân hay phó mặc không quan tâm đến đệ tam xác thân, nói khác đi là coi nhẹ thân thể hay phó mặc linh tâm đều là không tin vào cái sống linh hoạt của đạo tâm

Do không giữ giới bên ngoài cho cẩn thận, sơ sài đạo pháp hòa nhân và không có một kỹ luật bên trong nên không rõ được trị tâm hay tâm trị. Trị tâm khi Thiên Nhãn của mình rực sáng mà

Hiệp ứng với các cõi không gian,

Từ chối các dấu ấn thời gian.

Tâm trị khi để cho chuyện ngược lại xảy ra. Lúc ấy, lấy tâm mình truy tầm chính tâm của mình, thực là không dễ. Tuy nhiên, vẫn còn có cách cho người kém cõi tìm biết được chơn tâm. Đó là nhìn vào cái liên tâm của đa số mà tu đức.

Như hình 29 trong bài Các Trường Triết Học đã cho thấy, sức mạnh của lửa sống ngôi Thái Dương hiện thành lửa sống của Ngũ Hành. Do khác cõi không gian Đông Tây Nam Bắc mà Mộc Kim Hỏa Thủy tương tranh nhau mãnh liệt.

Sự tương khắc nhau giữa các lực lượng tranh giành nhau cái sống hạ đẳng trong xã hội và các lực ảnh hưởng tới hạ đơn điền cũng mãnh liệt như vậy. Cho nên phải có pháp từ bên ngoài để giúp sự tự chế[2]. Nếu hiểu Pháp ấy chỉ là luật, tâm tự chủ không phương trổi dậy, đường tiến hóa bị thui chột muôn đời. Nếu không luật, tâm tự cường lừng lẫy, đường tiến hóa bị trì trệ và bất an. Hạ tầng kiến trúc xã hội cần có liên tâm công pháp mới nên công tạo tác cơ nghiệp của bậc Thần; hạ đơn điền cần có đồng tâm hiệp pháp mới nên.

Nhơn mà không nghĩa thì vì quá thẳng thắng nên sanh tâm kỳ thị rốt lại cũng không nhơn. Trí mà không lễ thì vì quá đua tranh mà rơi vào hạ trí. Quên đi các tiểu dị để đồng tâm hiệp pháp là tạo hòa khí để xây dựng tinh thần cho trỗi hơn sức mạnh vật chất trong xã hội và trong thân thể.

Lời dạy sau đây là nói về sự đồng tâm tranh đấu chống lại những sức mạnh vật chất đó:

Thầy dạy các con một điều là biết tranh đấu cùng Thầy, hễ nó tấn thì mình chống, cân sức cho bằng hay là trổi hơn mới đắc thắng. Các con chịu nổi thì Ðạo thành, các con ngã thì Ðạo suy. Liệu lấy.

TNHT, 15 tháng 8 năm Bính Dần (22-9-1926)

Đồng tâm hiệp pháp là sao?

Đã nói hai Tứ Tượng (  ) hiệp nhau thành Bát Quái rồi sau đó mới có sự sinh hóa. Cơ năng sinh hóa là . Cơ năng này sở dĩ biến thành sự vận tử hồi môn là do có sự hiệp ứng với các cõi không gian cảnh giới cao trọng hơn.

Trong sự hình thành ngôi Tứ Tượng có Dương Quang / Âm Quang và Dương Khí / Âm Khí, sự phân biệt Dương Quang với Âm Quang xảy ra trước (hình 1 trang 41).

Hai vạch đứng của hai chữ thập là khuynh hướng nối liền Dương Quang / Âm Quang, hai vạch ngang của chúng là khuynh hướng nối liền Dương Khí / Âm Khí. Hiển lộ sự đồng tâm là hiển lộ sự tỉnh thức của hai khuynh hướng này, để sự vận chuyển mịt mù vô tận của  biến thành sự cùng nhau hiệp khí () trong tình trạng đồng hiến thân-tâm-chí hiệp Thiên (hiệp thần ). Sự hiệp thần hiệp khí như vậy gọi là sự đồng định tâm Hiệp Pháp  .

Có đồng tâm như vậy giữa hai cá thể mới có sự giáng thần giáng tinh hay giáng khí hộ hiệp của cơ chế vận tử hồi môn: . Do có hộ hiệp như vậy mà có thể đủ tinh lực (được Thượng Sanh) và thần lực (được Thượng Phẩm) mà đạt Đạo.

Có đồng thuận trong liên tâm công pháp giữa xã hội thì Chánh Nghĩa mới tỏ rạng và qui nhất chúng sanh mà định an thế giới trên đường tiến hóa.

Chánh Pháp là liên tâm công pháp để xóa lần bản ngã ích kỷ khởi có từ Thú Cầm Hồn. Liên tâm của toàn thể Vạn Linh tất cả các cõi mới đương lại được với Quyền Chí Linh, liên tâm của một tôn giáo, của toàn cả quả địa cầu số 68 này đi nữa cũng còn rất xa với Chơn Pháp Vũ Trụ. Cho nên Cao Lý của Chánh Pháp nói trên đây chưa phải là pháp giải thoát mà là sự hộ hiệp thiêng liêng để lập Pháp, Quyền, Lý, Giáo hầu có thể dẫn lần đến thế giáng thần, giáng tinh hay giáng khí cho các kẻ đã phục hồi được phần nào tâm thức thiêng liêng nhưng còn thiếu khả năng.

Việc này xảy ra trong thời kỳ mở cửa Cực Lạc Thế Giới, tức cuối mỗi chu kỳ học tập và đào luyện, lúc khai mở các chuyển mới. Như nay là buổi Hạ Ngươn của Tam Chuyển có một kỳ đại khoan hồng cho các bậc nguyên nhân vậy. Trong cơ tiến hóa này, nguyên nhân, hóa nhân, quỉ nhân đều được nhứt thăng nhưng các bậc nguyên nhân lãnh mạng giáo hóa chúng sanh đều được cơ hội trở về ngôi vị cũ[3].

5.2.       Chánh Lý cỦa Thiên Pháp Vô Pháp

Vô Pháp là pháp của bậc thượng đẳng nhơn sanh, cũng là pháp cho phần cao hơn cái trí trong bản thân. Đối với bậc trung phẩm nhơn sanh, đồng tâm có nghĩa là đồng chí, đồng ý, đồng tình trong sự tầm Đạo, Pháp, Quả. Đối với bậc thượng phẩm nhơn sanh, không có sự truy tầm đó, chỉ có do sự tự tâm chứng và bình nhiên trong tình Tạo Hóa bao la mà thôi.

Tự tâm chứng được mối tương thông với nguồn cội thiêng liêng thật nghĩa là Hòa Thần còn bình nhiên trong tình Tạo Hóa bao la là khai đường thánh đức.

Cũng có khi sự đồng tâm trong chánh pháp không thực hiện được mặc dù có sự định quyết. Lúc bấy giờ nếu là thượng đẳng nhơn sanh, ắt có sự chủ quyết để thoát khỏi cảnh đoán định tâm người hay chờ vận đón thời, được chánh định tròn đầy của tâm thức mà chứng nhập sự thành thật tròn đầy như đã trích dẫn Kinh Thủ Lăng Nghiêm ở đoạn 3.3.4. Thành thật tròn đầy là chí chơn; chí chơn là chí chánh, là Phật, là pháp vô pháp, pháp vô lượng, pháp bất khả tư nghì. Vô pháp tức vô sanh, tức vô tử.

Vô pháp ở đây có nghĩa là vô sở định pháp chớ không phải trơ trơ chẳng làm chi chẳng biết chi. Nói rõ hơn, đây là sự hòa thần trọn vẹn trên đường thánh đức, là sự hòa bình hóa hiệp.

Trong chuỗi thập nhị nhân duyên mà Phật Thích Ca đã nói, sự chủ quyết có thể cắt đứt bất cứ mắt xích nào trong mười hai mắt xích ấy. Chủ quyết là tỉnh thức, là không vô minh, là tự tâm chứng.

Tự tâm chứng không phải là tự chứng. Tự chứng là tự cường, tự thị còn tự tâm chứng là cung, khiêm, là lắng đọng, là hướng vào sự Minh Triết, là qui hiệp, do đó có Vô Cực, do đó có Thái Cực, chỗ không Pháp, không Tăng. Nếu đã thực sự không Pháp không Tăng thì đó chính là Phật. Nếu là Phật thì Phật Phật tương thông, là chơn thần thông.

Thần thông là kết quả của sự tịnh tu. Chơn tịnh (tịnh trong động, tịnh mà không có tướng tịnh, không theo pháp chi cả nhưng không loạn, không bức xúc, nói gọn là an nhiên hành hiệp) thì có thể có chơn thông. Chơn thần thông này là Phật Phật tương thông. Nếu ham ưa, chấp trứ vào tướng tịnh tướng thông thì rất dễ rơi vào bẫy rập của hệ thống pháp quyền diệt hóa (quỉ vương).

Vậy có cơ qui hiệp mới có Minh Triết. Cơ tự cường tự thị tức sự tự tu, sự biệt tu thường chỉ là khởi đầu cho muôn sự khó khăn vì nghịch hẳn với con đưởng trở về cội nguồn của pháp bổn pháp Vô Pháp. Pháp bổn là gốc của Pháp. Gốc ấy là Thái Cực. Thái Cực Pháp là Phật pháp, là pháp có tên “Vô Pháp”, vì ở chỗ của Thái Cực, chưa có Lưỡng Nghi, không có sự phân biệt nhị nguyên, huống hố là lý này pháp nọ.

Cho đến tam thể Cao Minh (Thái Cực Lưỡng Nghi Tứ Tượng), đó là tiềm lực vô biên của tâm thức và vận động tự nhiên trong thế đại hòa điệu vũ trụ.

Nhưng nếu coi pháp “Vô Pháp” là một pháp phải tạo ra thì lại rơi vào bẫy rập của trí não rồi. Pháp “Vô Pháp” ấy thật ra là pháp mà không pháp, là quyền năng biến chuyển của Phật, là sự tự phát không có dấu tích của thời gian, của trí não cân phân mặc dù vẫn còn đó khả năng nhớ lại nếu cần.

Phật quyền có thể chuyển quyền ban pháp “Vô Pháp”. Pháp hữu pháp chính là pháp tự lập trong vòng nhân quả, pháp “vô pháp” đích thực là pháp phi nhị nguyên từ Phật quyền ban ra. Cho nên hành cái “vô pháp” thì thấy được lỗi mình còn hành điều do Phật quyền tự tại, tự phát, cực kỳ cực kỳ tự nhiên của mình thì để tiến hóa.

Mỗi cá nhân tự biết mình có cái chi là sai lầm. Cùng một hành động có thể đối với bậc tiến hóa này là cần thiết nhưng ở bậc tiến hóa khác thì lại là nguồn cội của sai lầm (xem trang 4).

Do đó mà hiểu tại sao Thượng Đế lại mặc tuyên đại hóa (không nói năng chi mà cho phép mọi sự biến chuyển lớn lao): Trong cái vô phép tắc của mình, kẻ làm sai sẽ tự biết mà sửa, trong cái tự phát không vì phép tắc nào của ai cả, chúng sanh sẽ làm được cái thích hợp.

Tự hỏi mình đã tự nhiên chưa cũng khó trả lời vì cái trí đã can dự vào. Duy có sự tín thành trong cơ pháp “Trời Người hiệp một” mà được xác nhận mỗi khi sự tự nhiên đã đúng mức mà thôi. Chính vì được hồng ân hộ hiệp mà sự vô pháp, vô qui điều lại có thể dẫn đến chỗ toàn vẹn. Có trọn dụng linh tâm, tức trọn dụng Phật quyền tự giác của mình thì có thể thoát ly sự vọng chấp mà đến được chỗ hòa thần hay là Phật Phật tương thông.

Hòa thần là nhất thần phi tướng, là tín thành mà không hiện tướng tín thành.

5.2.1.     Chơn Pháp

Chơn pháp không có lý chi cả. Chơn pháp tiến hóa là do tính cách hiệp pháp đặc biệt của từng người mà có. Trong sự hiệp thông với các cõi tiến hóa, có thể có đến ba mươi sáu kiểu thông điển nhưng nói gọn lại có ba hướng là Thiên Địa Nhân. Thí dụ như sự thông trí, thông tình hay thông về vận động thân thể (như đồng tử).

Chơn Pháp tức Pháp Chơn Tình của mỗi cá thể chúng sanh mỗi khác nhau nên không khoe ra được để bắt kẻ khác ưng theo mà cũng chẳng ắp e che dấu. Vì trong ba mươi sáu lối Thiên Điển ấy có chỗ trọng khinh khác nhau, có bày lộ học hỏi với nhau thì mới khỏi cảnh ham mê một tầm mức huyền diệu nào đó mà không học được với cõi cao hơn.

Cho phép mỗi mỗi chúng sanh đều theo được pháp chơn tình của chính mình, đó là hiệp Thiên Ý. Nếu dẫn lối cho chúng sanh theo ngã khác hơn, đó là do phàm ngã thúc giục. Nếu lập khuôn độc đoán, buộc chúng sanh phải nhìn ai đó khác, tập thể nào đó khác như kẻ phát ngôn độc quyền của cái chơn, của Thượng Đế thì đã đi vào đường khác với con đường của Thượng Đế rồi. Ngay cả cái gọi là Chánh Pháp như nói ở đoạn trước cũng cần nối tiếp bằng Chơn Pháp mới có sự hiệp thông theo hướng vận tử hồi môn đã nói qua.

Đã nói Chơn Pháp không lý chi cả, tức là pháp tự phát. Tự phát thì có nhiều trình độ. Nếu bậc cao nhơn nào tự phát nhằm chỗ vô tư tầm phương cứu khổ chúng sanh như Đức Thích Ca xưa mặc dù tự mình sống rất thoải mái trong hoàng cung nhưng vì rất muốn cứu khổ sanh lão bệnh tử của chúng sanh nên xuất gia thì sẽ được hộ giúp. Sự xuất gia hay sự thiền định tự nó không dẫn đến cái sáng cực độ được. Phải có ngọn đèn trời soi rõ bước đường thì mới đến được chỗ Chánh Đẳng Chánh Giác.

Con đường vô-tư để tìm cứu-khổ cho chúng-sanh là con đường đạo-đức. Ngọn đèn thiêng-liêng sẽ chực soi tỏ bước của các con; khác với con đường ấy là đường của quỉ-vương đem lối.

Thầy, Tòa-Thánh Tây-Ninh, ngày 5-5 Mậu-Thìn (22-6--1928)

Chơn Pháp chính là pháp vô tư cứu khổ chúng sanh để có sự đồng hộ hiệp hành động giúp đỡ ngăn ngừa. Có sự hộ hiệp từ nguồn cội chính thức trong khuôn pháp tối cao của Thượng Đế mới khỏi sa vào các ngõ ngách bế tắc. Bất cứ một con đường nào khác thiếu cái bí pháp được Thiên Đình hộ thần này cũng là tà.

Chơn pháp không phải là pháp của tự mình định quyết vì chính mình cũng khó biết cái thật của chính mình huống hồ là cái thật của trời đất và chúng sanh. Chơn pháp cũng không phải do tập thể tạo ra được. Lý thuyết cho rằng cái chơn hay cả đến cái chánh đi nữa là do tập thể tạo ra là không đúng. Tập quán không phải là cái chơn hay chánh. Thậm chí đến tính chất của ngũ hành đi nữa cũng mới là cái phản ứng của phần xác thể thuộc Địa mà thôi. Kết luận từ thí nghiệm trên thân thể bị điều kiện hóa chỉ đúng cho thân thể chứ không đúng cho toàn bộ con người có cả xác, hồn, linh tánh và có sự liên kết đa phương.

Nhơn Đạo hay Thiên Đạo cũng là Chơn Đạo, tức phải theo Chơn Pháp hay Pháp Chơn Tình thì mới nên. Chánh Pháp là thể pháp cho phù hợp với hạ tầng kiến trúc xã hội, Vô Pháp là bí pháp cho phù hợp với thượng tầng kiến trúc của ngôi Thái Cực còn Chơn Pháp là thuộc về Trung Đạo kĩnh trọng mạng căn, kĩnh trọng tinh thần cá thể, tinh thần gia tộc, tinh thần quốc gia, tinh thần nhân loại và tùy mức công, đức, huệ, tình ở mức nào được hộ giúp ở mức đó. Nó không phải là con đường vẽ sẵn cái chơn buộc người khác đi theo dù kè vẽ ra đó mang áo đạo gia, triết gia, khoa học gia hay chánh trị gia đi nữa.

Sự cứu khổ chúng sanh có rất nhiều tình huống tế nhị khác nhau từ tinh thần đến vật chất, đòi hỏi sự tỉnh thức và chơn thành chứ không chỉ theo một công thức nào mà được. Có các thứ khổ tinh thần cần phương chữa trị tinh thần, khổ vật chất cần phương chữa trị vật chất nhưng nói chung là khổ vì cái sống bị bế nghẽn, cần có chơn pháp mới đem cái sống trở lại được.

Chơn pháp đó là kĩnh trọng, là chơn thành từ ý niệm tới thực hành. Sự chơn thành đó cũng phải giống như sự chơn thành của ông Trời đối với chúng sanh nhiều trình độ, cũng giống như của ông cha với các con mình dù chúng còn bé bỏng và có chỗ làm chưa giống mình hiểu không như mình. Đó là cái bản sắc của tự nhiên, không cượng cầu, không có ý đúc khuôn hay thao túng, nắn bóp, xách động.

Giữa sự chơn thành có cái run rẩy của niềm vui chiêm ngưỡng và cái nhiệt tâm của ý tình nóng cháy có một màng mỏng phân biệt nhau. Một bên là rung động tiên thiên chuyển truyền sự kính trọng cái toàn thể và tương sanh tương sanh còn một bên là cả vú lấp miệng em, là rung động hậu thiên diệt trừ đối kháng.

Cái chơn thành run rẫy đầy chiêm ngưỡng hiện tướng ra như ngẫn như ngơ, ngẫn ngơ khi cảm nhận cái phấn đấu đáng yêu tiềm tàng trong đối tác, cái diệu tiềm tàng trong thiên nhiên, cái khéo của ẩn ý tiền nhân đã để trong văn chương từ thử. Nó không  phải là sự hồi hộp nức lòng của Bật Mã Ôn muốn con ngựa của mình về nhất. Nó là cái thương run rẫy tâm hồn khán giả của Thiên pháp không có phe khi nhìn hai phe nức lòng như vậy trong Địa pháp. Nó là bàn tay lặng lẽ và run rẩy đỡ nâng, nó không màn bị khinh thị là thiếu lập trường duy lý hay duy thực.

Cái run rẫy trong chơn pháp thế gian của tình yêu xác thể hay tâm hồn cũng có khi giống như cái hồi hộp nức lòng của Bật Mã Ôn muốn con ngựa của mình về nhất như vậy. Còn cái chơn thành của chơn pháp Đại Đạo thì cũng như cái niềm vui chiêm ngưỡng trong tình Tạo Hóa bàng bạc bao la, gọi nó là Thánh Đức Tự Nhiên. Do sự thành tâm mà Thánh Đức Tự Nhiên ấy đồng thể với Thánh Đức Nguồn Cội của trời đất. Sự vụ lợi, sự hành hiệp theo kế hoạch có sẵn làm mất sự thành tâm và bặt lối Hư Vô. Ngoài ra, sự khắc kỷ quá đáng cũng làm mất nét tự nhiên nên không cảm thông được với pháp từ ái của các Đấng cao trọng.

Cái tình trong Tiên Thiên Khí ấy vẫn có nhưng không có những phản ứng hoàn toàn giống tình thế gian. Tình thế gian khởi từ cảm xúc Hậu Thiên. Tiên Thiên Khí chuyển truyền năng lực. Hậu Thiên Khí tải chở cảm xúc. Không biết nhìn cái tình bàng bạc bao la của Tiên Thiên Khí ấy thì không biết đến chơn pháp, dù có nghe nói cũng không biết và không dám hành chơn pháp nên không đạt Đạo.

Chơn pháp ấy nằm ngoài sự đúng sai và cần nhiều thực hành trắc nghiệm không ngừng nghỉ. Có ngừng nghỉ lơ là thì có khó khăn về mặt thể chất ngũ hành nhưng không hẳn là mất luôn năng lực tinh thần. Bộ nhớ của trời đất vốn vô tư, không hạch lỗi xưa, như câu chuyện thần Zeus mừng rơn khi Hercules thành công trong việc đưa lại mặt trời lên đỉnh Olympia. Mặt trời tạo lửa sống Ngũ Hành cho âm quang. Tiên Thiên Khí biến nó thành lửa nguội nên có thể an nhiên đưa đến chỗ hòa hợp cao vời mà gặp dương quang vậy.

Vì ngoài sự đúng sai nên không dùng chuẩn mực nào của trí não, chỉ dùng sự từ bi làm đuốc huệ mà thôi. Vẫn có sự thẩm định để chọn phương hộ hiệp ứng hành chớ không phải là thụ động. Huệ thông đạo pháp độ quần sanh của bậc Đại Bồ Tát giống như các pháp phương tiện chuyển truyền tiên thiên khí (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa) hay pháp rốt ráo mở cửa Cực Lạc Thế Giới.

Đạo pháp độ quần sanh là Đạo pháp hiệp nhơn qui chánh hành chơn pháp. Dù chánh pháp là thể pháp và chơn pháp là bí pháp hai đàng khác nhau, có chánh thể mới có hiệp nhơn, có hiệp nhơn mới có chơn mật. Mật dĩ nhiên là sự bí mật còn chơn mật là sự rung động thật sự sâu xa từ bên trong không phải như một thứ thuốc trấn an tâm lý hay giải tỏa sức căng.

Trước đã nói Đạo “Qui Phục” Đức “Minh Thương” hay tu Đức để minh Đạo và minh Đạo để hiển Đức. Đạo Qui Phục hay Đạo Nhiên hay Chơn Đạo để Trời Người hiệp một, Đức để người người hiệp một. Đạo là Bác Ái, Đức là Công Bình hay Công Chánh. Đức mà phàm nhân hiểu ứng với phép công bình phàm tục của Hội Nhơn Sanh, huyền đức thiêng liêng ứng với phép công bình thiêng mà tự tâm của cá nhân theo Thái Cực Pháp cảm nhận được. Chơn pháp thế gian là công bình thế gian, chơn pháp tận sâu bên trong là nhiên pháp và huyền đức hay thánh đức bàng bạc làm nền cho thế gian tiến hóa.

Tóm lại, chơn pháp là pháp ái tình chơn ứng được đến đâu thì hành đến đó nhưng sự biết, sự hành, sự tỉnh giác phải ngày càng đến gần với nguồn Thái Cực hơn thì mới ngày càng chơn hơn nữa. Nói khác đi, trong cái hiển chơn ngày càng thêm của mình, có rất nhiều ơn cứu độ và hộ hiệp, nếu tự mình vẽ lối cho mình thì rất khó về đến Vô Cực và Thái Cực, chẳng giải thoát được. Con đường từ sự lập Đức trong công bình thế gian cho đến Thánh Đức hay Huyền đức thiêng liêng là:

Trên đường Thánh Đức lần dò,

Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hóa Công.

Kinh Tụng Thân Bằng Quyến Thuộc Đã Qui Liễu

Dò sao cho đến tâm đơn, tức tâm thành thật và đơn giản trong khi thực hành chơn pháp. Đó không phải là dò tìm một công thức tối hậu cho mọi công thức, một lý thuyết tối hậu cho mọi lý thuyết. Trong đơn tâm hay thiền tâm, chơn tâm…không có lý chi cả, chỉ có Tinh Thần và Thánh Đức mà thôi. Tinh bao nhiêu Thần bấy nhiêu còn Thánh Đức thì là Vô Cực chi pháp.

5.2.2.     Pháp nào thích hỢp cho đẠi chúng?

Bậc phẩm nhơn sanh có khả năng Phật Phật tương thông, hiểu hành được pháp của Thượng Đạo vô pháp trong cảnh giới tinh thần - vì tình thương mà hành, không tầm Đạo Pháp Quả chi cả -  thì rất hiếm.

Pháp của bậc hạ (Hạ Đạo liên tâm công pháp) trong cảnh giới vật chất chỉ thích hợp cho xã hội sơ khai. Trong tình trạng hiện nay của nhơn loại sắp sửa bước vào ngươn tứ chuyển, nếu buộc theo pháp này, khó tránh  được sự kuynh  đảo của độc tài làm mất hẳn sự tự chủ.

Cho nên đối với đại chúng thì

 


 

[1] Trong hệ cấp chức phẩm của Đạo Cao Đài, phẩm Chí Thiện chỉ mới tương đương với bậc thiên phong thấp nhất là Giáo Hữu.

[2] Phải tôn pháp mới độ được phần dưới thấp. Pháp Phật Tăng là tiến trình tận độ vậy.

[3] Hóa nhân nếu chịu tu cũng được phép đi thẳng một mạch đến tình trạng hiệp Âm Quang để được Đức Chí Tôn ban cho Dương Quang mà có được Chơn Linh.

Trở về đầu chương 5

 

6. QUYỀN PHÁP

  

 

6.1. ChánhQuyền & ChơnPháp – ChánhPháp & ChơnQuyền

6.1.1. Cơ chế tạo hòa điệu cho Quyền và Pháp

6.1.2. Luật Tương Đối – Pháp Tương Đối

6.1.3. Quyền Tuyệt Đối – Pháp Tuyệt Đối

6.1.4. Sự Thành Lập Chánh Pháp

6.1.5. Tân Luật và Thánh Luật

6.1.6. Chánh Pháp có ràng buộc được Chơn Quyền không?

6.2. Chánh Pháp Nhãn và Chơn Pháp

6.3. Thiện Lai Tì Kheo gặp được Không Môn

6.4. Pháp Vô Pháp và Quyền Biến Tạm Quyền

6.5. Sự Nghi Ngờ Thử Thách của Lực Lượng Phủ Định

 

 

 

 

Quyền là do sự ứng hiệp tinh thần

 

Pháp là phương cách hóa hiệp hình chất.

 

Quyền và pháp vốn liên quan mật nhiệm như vô vi với hữu hình. Quyền với pháp có khi tương hiệp lại cũng có khi tương khắc. Khi tương hiệp thì quyền ấy định pháp. Khi tương khắc thì  pháp ấy định quyền…

Lý Đại Tiên Thái Bạch

Tinh thần tự phát theo nguồn Thái Cực làm chuyển hóa hình thể (các số sinh 1 và 3 của Hà Đồ Lạc Thư) thì đương nhiên tương hiệp nhau nhưng khi tinh thần nặng mang tính chất của Lưỡng Nghi, tức là các tinh thần do vật thể ứng chuyển với trung cung mà thành (các số thành 7 và 9 của Hà Đồ Lạc Thư) thì phải do nơi pháp định.

Chơn quyền là từ tinh thần tự phát theo nguồn Thái Cực (có sự xác tín tự hữu hằng hữu) nên Quyền ấy là Pháp, Quyền định Pháp. Nói cách khác, Thái Cực Pháp là vô pháp chi pháp (pháp không pháp, pháp tự phát, pháp ưng vô sở trụ và với quan điểm trần thế có thể đó là pháp phi pháp – cho nên quần chúng mới kết án Đấng Cứu Thế).

Chánh Quyền là do pháp ứng chuyển với trung cung Thái Cực mà các tinh thần sau Lưỡng Nghi hiệp định. Đây là các tinh thần chấp trứ  hình thể nhưng nay ứng theo tiếng gọi thống nhất của nguồn cội tinh thần thuần túy (số 5 trung cung) mà giác ngộ. Các tinh thần Pháp định này (còn dấu ấn của sự nghi hoặc nhị nguyên) hòa hội nhau, lập pháp để nhìn nhau. Gọi đó là Pháp định Quyền.

Lại do sự sáng có khai mở tới mức nào mà mình ý thức được Đạo Quyền ở mức độ nào của mình. Tùy theo khả năng, chí hướng và sự sáng (tâm đức) của mình mà mình chú trọng vào Pháp gì Quyền gì.

Như người chỉ mới biết Đạo qua DANH NGHĨA và LUẬT PHÁP thì ưa Pháp đồng tâm tức là muốn thiên hạ công cử mình vào những chức quyền hiến định (bản thân chỉ là nhân viên hành chánh thôi, đạo quyền tự tâm chưa trỗi phát để tự mình hiển pháp, mình vẫn còn bị chi phối bởi pháp nhơn sanh công cử)[1].

Người biết Đạo qua CÔNG NĂNG HIỆP HOÀ, theo Trung Pháp hiệp hoà Thiên Địa Nhơn mong mỏi  được chấm phong vào những chức quyền Thiên định[2] (cũng vậy vì đạo quyền tự tâm vẫn chưa trỗi phát, mình vẫn còn bị chi phối bởi pháp cầu cơ ban quyền cho mình).

Còn người ý thức được Quyền tuyệt đối tự nhiên sẵn có của mình thì lại dùng Pháp Vô Pháp[3], chỉ DO THƯƠNG YÊU vô tận mà an nhiên tiến bước. Đây là con đường thứ ba Đại Đạo (con đường tu chơn), muốn vào phải giải trừ  mọi chức vụ.

Pháp công cử để lập quyền hiến định tại thế cho phàm nhân trong cửa Đạo. Pháp chấm phong lập quyền Thiên Phong để thưởng khen tâm đức mà vui lần theo Thiên Luật. Công cử và được công cử, chấm phong và được chấm phong thuộc hai lực lượng khác nhau. Pháp Quyền ở đây vốn dĩ tương khắc nhau nên Pháp định Quyền. Do vậy, bế pháp công cử và pháp cầu cơ thì Quyền mất căn bản, Đạo của quần sanh bị lủng đoạn.

Trong khi đó, Đạo của lương sanh vẫn như nhiên vì Quyền tuyệt đối thương yêu vốn có thể lập Pháp thương yêu theo đúng Luật thương yêu của vạn linh: Quyền định Pháp. Pháp thương yêu vốn là Pháp vô pháp nên không hề lấy chi mà thẩm lượng và cản ngăn. Pháp ái Tạo Hoá bàng bạc giữa đám lương sanh của Thầy là cơ bất diệt của Đại Đạo vô hình, vô tình, vô danh vậy.

6.1.       Chánh QuyỀn và Chơn Pháp - Chánh Pháp và Chơn QuyỀn

6.1.1.     Cơ chẾ tẠo hòa điỆu cho QuyỀn và Pháp

Lý là Pháp, Tâm là Pháp, chỉ cái sáng thị chứng cho Tâm, cho Lý, cho Pháp ấy mới là Phật. Mà Phật Phật thì tương thông. Lý khác nhau, tâm cũng khác nhau nhưng cái sáng làm thị chứng cho các Pháp, các tâm ấy là cái sáng chung.

Đạo là con đường Quyền Pháp để đến được cái sáng mà vận dụng, điều hòa tăng chúng. Tăng chúng là phần hình thể, chỗ để Phật Pháp Phật Quyền hiển lộ cái tuyệt diệu của mình, giống như giấy viết là vật để nhờ đó mà cảm được tứ thơ lai láng của nhà thơ. Phật là nguồn tâm linh còn Pháp là tất cả các thứ mà Phật cho thị hiện ra, kể cả Lý, Giáo, Tình, Cơ Chế…

Do tập quán nhiều kiếp,  nhơn loại có các tưởng nghĩ điên đảo tưởng giả là chơn, coi chơn như giả nên vẫn cứ trập trùng tạo khổ cho nhau. Các sinh hoạt, lý giáo họ lập ra là nghịch lại Thánh Điều[4] nên không thể theo hướng Phật Pháp Tăng mà phải dụng Pháp định Quyền, theo đường Pháp Phật Tăng mới tận độ được.

 Pháp mà một cá nhân tự thấy thỏa đáng cho mình gọi là Chơn Pháp. Pháp khách quan và đúng cho mọi người là Chánh Pháp. Chánh là thẳng, giữa, trước, không nghiêng lệch. Vì cá nhân không hòa với tập thể, tập thể không thuần chất như cá nhân nên chánh pháp và chơn pháp khác nhau. Đã nói cao thấp thường đánh đổ nhau (thượng hạ tương khuynh) nên lúc nào thế gian này vẫn có bất đồng. Nhưng cũng có việc thực là trước sau cùng theo nhau (tiền hậu tương tùy) nên vẫn có thể hình thành được cơ chế anh trước em sau dẫn nhau vào nơi Bồng Đảo.

Anh trước em sau dẫn nhau nghĩa là người đến được khả năng của Cao Đài thì dẫn kẻ sơ cơ, người đến được khả năng Tiên Ông thì dẫn khách Cao Đài, người đến được khả năng Đại Bồ Tát thì dẫn bậc Tiên Ông, người đến bậc Ma Ha Tát thì dẫn bậc Đại Bồ Tát.

Ba hội lập quyền chánh cho Chơn Pháp độ rỗi của Cữu Trùng Đài. Tân Luật Pháp Chánh Truyền và các pháp hoặc hiễn hoặc bí khác là lập pháp chánh cho Chơn Quyền cầu rỗi của Hiệp Thiên Đài.

Quyền cầu rỗi nếu không buộc tùng theo chánh pháp thì sẽ có thiên vị bất công. Quyền độ rỗi nếu không tôn trọng chơn pháp thì trở thành độc tài và đẩy người vào đường mê tín.

Chơn Pháp Chơn Quyền là việc hiển nhiên nơi cõi Cao Minh. Đem Quyền Pháp ấy trọn giao cho người còn xác phàm thì có thể đưa đến sự ràng buộc chúng sanh trong cơ chế độc tài. Cho nên Thầy phân đôi thành hai cơ chế Quyền Pháp chỉ khi hai người cầm đầu của hai quyền hiệp nhau lại thì mới hội thành quyền cầu rỗi để Bát Quái Đài siêu rỗi.

Phẩm Đầu Sư ở Cửu Trùng Đài nắm quyền chánh trị, các Thời Quân ở Hiệp Thiên Đài thi thố luật bạch văn và pháp minh thị. Giáo Tông thay mặt Thầy dìu dẫn nguyên lý cho nhơn sanh trong đường Đạo đường đời nhưng lo về phần xác:

Giáo hóa nhơn sanh nhựt nhựt trung tâm qui thiện quả,

Tông khai tăng chúng thì thì trọng Đạo hiệp chơn truyền.

Hộ Pháp thay mặt Mẹ dùng Khí lực dìu dẫn phương pháp, đào độn kiểm tra để chuẩn thăng Thiên phẩm, lo về phần hồn:

Phạm giáo tùng ngươn cứu thế độ nhơn hành chánh pháp,

Môn quyền định hội trừ tà diệt mị hộ chơn truyền.

Hộ Pháp theo công luật diệt tà mà phổ đức đào độn Khí lực định vị, Giáo Tông giữ chánh thể công truyền và với bậc chơn tu, tùy duyên dạy nỗ lực tầm nguyên lập vị. Nhựt nhựt trung tâm là ngày ngày tầm về cho đến chỗ giữa của tâm, nếu hiểu là ngày ngày tầm về cho đến cái tâm trung tín hòa hiệp của mình thì cũng được, lời nói pháp nghe có vẻ khác nhau nhưng sự chí thành sẽ dẫn đến cùng một chỗ, đó là làm cho Thần đủ khả năng quân hòa với Khí.

Cả hai Giáo Tông và Hộ Pháp đều cùng trong Thượng Hội lo việc độ rỗi và dẫn đến siêu rỗi, phận sự của cả hai đều liên quan đến chơn truyền nhưng một đàng thì hiệp còn một đàng thì hộ.

Chơn truyền siêu rỗi là từ Bát Quái Đài. Giáo Tông dạy chơn pháp để chuyển tâm hiệp Thần mà có Đạo Quả, Hộ Pháp theo chánh pháp đào độn Ngươn Khí hộ trừ tà mị để vào được cửa Bát Quái Đài đắc được chơn truyền.

6.1.2.     LuẬt Tương ĐỐi - Pháp Tương ĐỐi

Luật do chính chúng sanh lập nên để công nhận nhau là một phần của chánh pháp ổn định tiến hóa. Phần còn lại của chánh pháp ngoài các điều luật thành văn là Thiên Điều và bí pháp. Thiên Điều là hiến pháp vũ trụ ai cũng phải tuân theo và bí pháp là những điều yếu trọng để đạt Đạo mà nhơn sanh chưa biết đến. Thiếu phần yếu trọng này, pháp gì cũng không dẫn đến kết quả và trở thành tà pháp mà thôi. 

Nếu hiểu chánh pháp là luật mà thôi thì đó là pháp tương đối và do đó sự chấp hành hay sự kết quả cũng không thể tuyệt đối được. Luật của vũ trụ rất đơn giản, đó là luật yêu thương: yêu thương đến đâu khả năng và bậc phẩm tăng tiến đến đó. Nếu xem luật thế gian là luật tuyệt đối hóa ra luật ấy lấn át cả luật tuyệt đối của trời đất rồi[5]. Các sự hình khổ nhân danh tôn giáo và đức tin dù có vẻ cao trọng chi chi nếu đi nghịch lại khuôn luật yêu ái của sự sống tức là đã theo đường lối của chúa quỷ, kẻ nghịch lại Thượng Đế.

…có Pháp Chánh và Tân Luật, cốt để bình tâm thiên hạ đặng để gỡ tội cho kẻ có tội lỗi, phàm mà không có biết thú tội trước mặt người và trước phép Thiêng Liêng. Ðịnh luật pháp ấy cũng tỷ như sợi dây thiết tỏa liệng xuống âm quang cho kẻ tội nhơn nắm nó mà phăng về Thiêng Liêng cựu cảnh; chớ chưa phải là chơn luật và chơn pháp.

…Ấy vậy, nếu chúng ta nói Tân Luật là phàm, thì quả thật nó là phàm, còn Thiên Luật của Chí Tôn là thương yêu mới là Thánh mà thôi.

…Toàn Thánh Thể Ðức Chí Tôn nếu biết, thì nên nắm quyền luật thiên nhiên ấy, ngày giờ nào thiên hạ được yêu thương nhau nồng nàn, thì giờ ấy quyền Ðạo sẽ là quyền tối thượng nơi mặt thế đó.

Đức Hộ Pháp, đêm 23-6-Mậu Tý (29-7-1948)

6.1.3.     QuyỀn TuyỆt ĐỐi – Pháp TuyỆt ĐỐi

Quyền tuyệt đối là Phật Quyền mà Thầy sẵn ban cho mỗi chúng sanh nhưng chúng sanh hoặc không đủ ý thức hoặc không đủ khả năng thực hành quyền ấy. Đó là quyền tự chủ tiến hóa, quyền Tự tâm vô lượng  nó hằng thúc giục người ta tìm cách tiến lên.

Dù có sự quá đà hay e dè trong nổ lực, đó cũng là tâm cầu tiến thể hiện qua trạng thái Tinh Khí Thần mỗi người hiện có. Nay do may duyên được Thầy đến vẹt lối gay chông mà mọi người có thể đạt ý mà thực thi được Quyền Pháp ấy để đào luyện Tinh Khí Thần cho chính mình.

Pháp Tuyệt Đối là Nhất Nguyên Phật Tánh hay Thái Cực Pháp mà mỗi người cũng đều được cho sẵn.

Trong câu nói Đức Hộ Pháp đã thuyết đạo (12-7-1948) rằng : " Mỗi vị tín đồ đều có cái mão Giáo Tông và Hộ Pháp, không lấy được là lỗi ở mấy em, chẳng lẽ đạo chỉ có một người cầm đầu mà người đó chết thì diệt tiêu nền đạo", mão Giáo Tông ý nói quyền tuyệt đối còn mão Hộ Pháp ý nói pháp tuyệt đối ấy. Tuyệt đối nghĩa là không cần chứng minh hay so đo. Tuy nhiên, để thực thi quyền tuyệt đối của mình, cũng cần phải có sự hộ hiệp, cũng như để may được cái mão Giáo Tông, phải có thợ may và có Thầy chỉ vẽ vậy:

Hiếu, lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu mão cho con coi.

Bà Hiếu bạch Thầy :  Mytre.

Mão nầy là mão Giáo Tông. Trước ngực ngay trán phải để chữ cung Càn, chữ vàng, chữ Bát Quái, còn cái áo, con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo.

Nghe và tuân theo nghe con.

Trung, đêm nay đừng cầu Thầy nghe con.

Dùng nước lạnh mà vẽ: ý nói dùng lực Tiên Thiên (Ngươn Tinh, Ngươn Khí, Ngươn Thần). Phải tái cầu trong lúc may: ý nói phải cầu nguyện để có thể dụng Thần điều Khí tạo Tinh, hộ hiệp thực hành chứ không phải cố vấn lý thuyết là đủ. Đêm nay đừng cầu Thầy: chưa phải lúc thì không được.

Chánh Pháp và Chơn Pháp là ngoại nghi, là thể pháp, Chơn Truyền là nội nghi, là bí pháp để được vận tử hồi môn. Bí pháp này trước nhất là Thần, điều mà phàm nhân không có được nên không thể tự chủ, tự điều hòa và phải chịu cảnh thái quá hay bất cập.

Hiệp Thiên Đài đem lửa nhang từ Bát Quái Đài đến Cửu Trùng Đài, vận động viên Olympic đem lửa từ đỉnh Olympia đến cho cuộc tranh tài Thế Vận Hội, Hercules đem lửa trên cao đến cõi trần gian cho các hành giã chơn tu, đó là ngụ ý về sự hộ hiệp từ cõi trên vậy.

6.1.4.     SỰ thành lẬp Chánh Pháp

Xem lại Đạo Sử, ta thấy việc lập luật (Chánh Pháp) Tam Kỳ Phổ Độ xảy ra theo tiến trình như sau:

1.      Đại diện chúng sanh trong Tam Giáo (ba Chánh Phối Sư) trình luật của giáo mình,

2.      Hội nghị cải luật, để chư Thánh phát biểu ý mình,

3.      Ba Chánh Phối Sư có ba tuần lễ để tuần tự đúc kết ba bộ luật của Tam Giáo ấy thành một bộ Tân Luật,

4.      Trình lên Đức Lý Giáo Tông hai ngày. Ngài nói: “Thầy dặn Lão chỉ sửa cơ mật nhiệm của Luật lệ, phải tùy nguyên văn của Hội Thánh”. Ngài giao cho các Chưởng Pháp  xem xét lại trong một tháng,

5.      Dâng qua cho Hiệp Thiên Đài, Hộ Pháp đưa luật lại, kỳ hạn 1 tháng,

6.      31-1-1927 Phật Quan Âm cho biết Đức Lý Giáo Tông đang bận vấn đáp chơn lý tận độ chúng sanh,

7.     9-2-1927:

Thái Bạch,

Đại hỷ !  Đại hỷ !

Lão đã nói, Đạo đã lập thành. Vậy cây cờ chơn chánh đã vững gốc đặng làm biểu hiệu cho cả chúng sanh dòm lấy đó mà đến Bạch Ngọc Kinh.

Thượng Trung Nhựt !  Lão đã nói, mà Thầy cũng đã nói trước rằng : Khi thành đạo, nghĩa là khi TÂN LUẬT phát hành thì trong hàng môn đệ, may lắm còn lại nửa phần trong đám Thiên phong, nhiều kẻ  e  còn bị  trục xuất thay ! …Chư Đạo muội khá hội đủ mặt ngày nạp Luật, đặng Lão ban Thiên phục.

Đường thị[6]  bị trục xuất.

8.      19-2-1927 Tìm mua đất cất Tòa Thánh.

Theo đó, ta thấy những nghi tiết long trọng và lời dặn của Đức Chí Tôn (đoạn 4) chứng tỏ quyền thiêng liêng rất tôn pháp do chúng sanh đòi hỏi, chỉ hỗ trợ các điều bí nhiệm yếu trọng để đạt Đạo. Đoạn 5 chứng tỏ Hiệp Thiên Đài (Pháp) và Cửu Trùng Đài (Quyền) không đồng ý nhau. Đoạn 7 và 8 chứng tỏ Pháp đã được định và Đạo đã được hình thành. Đức Lý nói “Cây cờ chơn chánh đã vững gốc…”, vậy thế nào là chơn, là chánh, tất có thể dò theo các ý tứ trong cách lập pháp mà lãnh hội các ý nghĩa sâu kín được. Thí dụ, ta có thể hiểu ra rằng cây cờ chơn pháp là của Cữu Trùng Đài, cây cờ chánh nghĩa cắm tại Hiệp Thiên Đài, còn ngọn phướn cao minh là ở Bát Quái Đài vậy.

Ngay khi cây cờ chơn pháp của Cửu Trùng Đài được vững vàng, hiền nội của bậc anh cả bị trục xuất, phải chăng đây là điều đáng học về Thiên pháp bất vị danh nghĩa nhơn tâm?

6.1.5.     Tân LuẬt và Thánh LuẬt

Sự hình thành cơ Đạo nơi Thiên Đình là từ lúc Đức Lý Giáo Tông nói như trên nhưng mãi đến khi có Tân Kinh (năm 1936) pháp của Tam Kỳ Phổ Độ mới cụ thể ban bố ra cho thế gian. Tân pháp là Tân Luật + Pháp Chánh Truyền. Thể pháp của Pháp Chánh Truyền là sự hình thành các chức phẩm trong đàn cơ ngày 16-10-Bính Dần (20-11-1926), còn bí pháp chánh truyền là những điều hàm ẩn trongTân Kinh, các lễ nghi, các hình tướng tại Tòa Thánh Cao Đài và các pháp riêng dạy cho Đức Hộ Pháp[7].

Xin nhìn rõ chút nữa về giai đoạn 4 và 5 trong tiến trình hình thành Tân Luật Pháp Chánh Truyền:

Sau khi ba vị Phối Sư đã soạn thảo và đệ trình dự luật:

Tây Ninh, 13 tháng 12 năm Bính Dần (16-1-27)

Thái-Bạch

… Chưởng-Pháp, Ðầu-Sư tọa vị. Phối-Sư tam Phái tới trước. Thái-Thơ-Thanh phải ôm bộ chú giải các luật, Tân-Luật của các Hiền-Hữu đến dâng cho ba vị Ðầu-Sư, ba vị Ðầu-Sư đồng đứng dậy bái và tiếp luật một lượt, thế nào sáu bàn tay đều có trong sáu bộ luật, ngay giữa, dạy cả ba tiếp dưng lên; Chưởng-Pháp cũng phải bái mà tiếp một lượt, đội dưng lên đại-điện, day vô đưa lên chí trán. Nghe dạy: Lão giao luật nầy cho nhị vị Chưởng-Pháp xem xét lại nữa, trong một tháng phải rồi mà giao lại cho Hộ-Pháp cầu Lão sửa Luật…

Nhị vị Chưởng-Pháp đem Luật dể ngay tượng Lão một đêm nay…

 

TÁI CẦU

Thái-Bạch

Thiên-Ðiều mầu-nhiệm của Ðạo còn thiếu sót lắm.

Cười...

Những điều ấy chư Hiền-Hữu biết đâu mà lập cho đặng.

Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu-nhiệm bí mật ấy thì chẳng thành Luật, nếu chẳng thành Luật, thế nào thành Ðạo?

Cười...

Lão tâu cùng Ðại-Từ, Ðại-Bi, xin thêm vào luật những điều bí mật yếu trọng ấy; vậy chư Hiền-Hữu cũng phải cầu khẩn với Lão, nội hạ tuần tháng nầy thì khởi nguyện; dặn các Thánh-Thất, các Ðạo-Hữu phải để lòng thành khẩn: hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh Luật; nghe à...

Vậy,

Thánh Luật      = Tân Luật + Thiên Điều mầu nhiệm bí mật.

                        = Pháp Chánh Truyền.

Lòng Đại từ Đại bi của Thầy cho quyền chúng sanh lập Luật mà tu đặng lần lần khép mình vào Thiên Luật, vì ở nơi phàm luật của mình nó có khuôn viên Thiên Luật.

Ấy vậy, Luật Hội Thánh là phàm luật. Còn Thánh Luật duy có Pháp Chánh Truyền mà thôi.

ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT MINH  ngày 12-10-Đinh Sửu. (Đại Hội Nhơn Sanh)

Các cách hành pháp trên cho thấy rõ khi Quyền Pháp tương khắc thì Pháp lập Quyền. Do dùng pháp lập quyền cho nhơn sanh như vậy mà bậc nhơn sanh nào có thể học biết và thể hiện được Phật quyền lập vị của mình đối với Càn Khôn Vũ Trụ (bí pháp) thì có thể cầm chơn pháp dẫn dắt tăng chúng trên đường đời (thể pháp) đường Đạo (bí pháp). Đó là hành công theo đường Pháp Phật Tăng.

Ở Tam Kỳ Phổ Độ, ba tháng sau khi công khai hóa nền Đạo (lễ khai Đạo) là có Tân Luật làm nền tảng rồi. Khác với khi Đức Phật Thích Ca lập giáo. Xưa Ngài không lập luật chi cả, chỉ vì chúng sanh nài cầu từng trường hợp, Ngài mới cho thêm vào từng điều khoản.  Cơ sáng thế là Phật Pháp Tăng, cơ qui nguyên là Pháp Phật Tăng.

6.1.6.     Chánh Pháp có ràng buỘc đưỢc Chơn QuyỀn không?

Nhơn sanh hiệp luật để cùng chấp nhận nhau. Chơn Quyền là Chơn Phật thì đâu có bị buộc ràng chi, nếu có khả năng hiệp Thiên thiệt từ bản thân mình, không bị vận dụng hay chịu áp lực từ bên ngoài thì quyền tự chủ ấy không ai cấm cản được. Nhưng Chơn Quyền ấy dụng Chánh Pháp để nhơn sanh, nhất là lớp nhơn sanh kém cõi, có chỗ dựa nương.

Do quyền tự chủ ấy mình có thể

Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền thiêng liêng mối Đạo. Chơn Quyền của Hiệp Thiên Đài nếu dùng Thượng Đạo thì nhơn sanh không theo kịp, nếu dùng Trung Đạo hòa hiệp Thiên Địa Nhơn hay Hạ Đạo Pháp Trị thì bị ràng buộc bởi Pháp Chánh Truyền (các Chánh Phối Sư lập Luật là đại diện cho các phẩm phàm), nếu chẳng phải đại hồng ân Chí Tôn, chưa ắt có cơ hội nhơn sanh được bồng ẩm nâng đỡ như vậy.

Đức Chí Tôn lại còn thương yêu cho phép nhơn sanh, cho phép Giáo Sư kêu nài và xin chế giảm luật lệ. Để chi? Để tránh sự quá sức mà mất đi chơn thật. Nhưng như vậy liệu có là phàm trị hay không? Dĩ nhiên ấy là lấy phàm trị phàm nhưng Đạo Hư Vô theo đó vẫn còn, duy kẻ lầm tưởng Thiên ban là phúc lạc hay danh quyền tại thế mới không gặp đặng Sư Hư Vô đang đón đợi mà thôi.

 Lượng theo trình độ hiệp Thiên của nhơn sanh mà Thiên Đình ban pháp mật nhiệm bổ túc mà thôi. Pháp Chánh Truyền, Tân Kinh, các hình tượng, lễ nghi nơi Tòa Thánh và những bí pháp là Chơn Pháp Chánh Truyền.

Theo thể pháp để lập vị trước mặt chúng sanh là hai đường tu của Hành Chánh và Phước Thiện. Thể pháp này lập khuê bài thiêng liêng vị cho các kẻ hữu công, đức, ngôn. Nếu không có công tu chơn, những người theo hai đường này sau khi chết còn phải tái kiếp tu nữa. Công quả ngoại để lập duyên, chỉ công quả vô vi mới theo được Sư Hư Vô.

Có khuê bài thiêng liêng vị trong cơ Đạo tại thế và khuê bài thiêng liêng vị nơi cõi vô hình nữa: linh hồn người chết vẫn có tổ chức và môi trường hoạt động trong cơ độ tử của Tam Kỳ Phổ Độ.

Theo bí pháp để lập vị với Càn Khôn Vũ Trụ là con đường tu chơn. Tu chơn không hẳn là phải trực thuộc Trí Giác Cung, Trí Huệ Cung và Vạn Pháp Cung. Tu chơn là tu tâm đức thật; ngôi vị thật và khả năng thật trong Càn Khôn Vũ Trụ. Các cơ quan hữu tướng (kể cả ba cung ấy) đôi lúc có thực quyền hay hư quyền, nhưng đạo hư vô lúc nào cũng có thực với người trong cuộc mặc dù hư đối với người khác. Cơ vô vi loài người có thể thấy đặng như sự cơ bút nhưng cũng có thể bí nhiệm không thấy đặng.

 Ngọc Hoàng Thượng Đế đã nói từ đầu khi lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ là:

Thầy đến chuyển Ðạo, lập lại vô-vi, các con coi thử bên nào chánh-lý: hữu-hình thì bị diệt đặng, chớ vô-vi, chẳng thế nào diệt đặng.

Ngày 27 tháng 6 năm Bính-Dần (04-8-1926)

6.2.       CHÁNH PHÁP NHÃN VÀ CHƠN PHÁP

Tạo hòa khí để xây dựng tinh thần là theo chánh pháp chơn truyền. Pháp đây gần với nghĩa pháp luật hay qui điều.  Trường sanh mầu nhiệm nơi lò hóa công do đồ y chơn pháp chánh truyền. Pháp đây gần với nghĩa phương pháp. Chánh pháp là ngoại nghi, chơn pháp là nội nghi. Chánh pháp được chơn truyền như từ xưa Đức Thích Ca nói khi truyền cho Ca Diếp:

Ta có chánh pháp Nhãn Tàng, ngươi hãy gìn giữ đừng cho dứt diệt.

Chánh pháp ấy nay cũng vậy, chánh pháp chơn truyền là trong sự lập Đạo thể, còn chơn pháp chánh truyền (tức chơn pháp Hiệp Thiên Địa Nhân) là từ Thiên Nhãn tại Thiên bàn, để học Đạo Hư Vô với Sư Hư Vô. Từ nơi nhãn tàng này, Sư Hư Vô sẽ có cách truyền trao chơn pháp. Hành giã phải được mở chánh pháp nhãn để có sự hiểu biết rằng chánh pháp do nhơn duyên, chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải chúng sanh mà bỏ ngã mạn:

Nầy Thiện Nam Tử ! Từ trước  đến nay tất cả thế gian có đủ sự ngã mạn lớn, lại tăng trưởng ngã mạn, cũng lại làm ra mạn nhơn, mạn nghiệp, nên nay thọ lấy quả báo của mạn, không thể xa lìa tất cả phiền não … Nếu người có thể chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải chúng sanh, xa lìa pháp nầy…

Bạch Thế Tôn ! Sắc ấm chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải chúng sanh, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Tôi quán sát như vậy mà được chánh pháp nhãn. Bạch Thế Tôn ! Nay tôi rất muốn xuất gia tu học, xin đức Như Lai nhận cho.

Đức Phật gọi : “ Thiện Lai Tỳ Kheo !”

Liền đó Tiên Ni được đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh chứng quả A La Hán.

Kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Ca Diếp Bồ Tát, thứ 24.

Tại sao khi Phật gọi “Thiện Lai tỳ kheo!” thì liền đó Tiên Ni được đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh? Vì đó là mật pháp điểm Đạo, cố định hóa mức tiến bộ tâm thức do Tinh Khí của Tiên Ni giúp vươn tới. Tinh Khí quyết định trí thần hay tâm thức. Có Tinh Khí mà không Thần thì chẳng thể hằng sống, có Thần mà không Tinh Khí thì khó hườn đặng đệ nhị xác thân.

Tự, tha hay chúng sanh là ba đỉnh của tam giác tâm thức phàm phu. Phải có nhân duyên tiếp nhận tam giác tâm thức thiêng liêng thì mới tạo đủ Âm Quang và Dương Quang cần thiết.

6.3.       THIỆN LAI TÌ KHEO GẶP ĐƯỢC KHÔNG MÔN

Chánh pháp ấy cũng chẳng phải hai bên và chặn giữa:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì tôi giải nói, cho tôi được nghe liền đây đều dứt được phiền não và nghiệp (vốn là nhân duyên của thân này)

Nầy Thiện nam Tử ! Nếu rõ biết hai bên và chặn giữa không chướng ngại, thời người nầy có thể dứt phiền não và nghiệp.

…Bạch Thế Tôn !  Hai bên là sắc và sắc giải thoát,  trung gian chính là bát chánh đạo. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện Nam Tử ! Ông biết rõ hai bên phiền não và nghiệp.

Bạch Thế Tôn !  Xin cho tôi xuất gia.

Thiện Lai Tỳ Kheo !

Kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Kiều trần Như, thứ 25

Trích dẫn này cho thấy rằng chánh pháp nhãn không bị vướng vào ý nhị nguyên vì đã đến Vô Cực. Từ nơi Vô Cực, nhất điểm Khí xuất hiện mà thành sanh khí vô cực của Vô Cực Đại Thiên Tôn, không thấy sự tự mình, không thấy sự do người khác, không thấy do chúng sanh, chẳng bên này, chẳng bên kia chẳng chính giữa tức là không có cực nào cả cho nên là pháp trong sạch tức là không tự thị, không chờ ai, không trách ai.

Đó là gì? Tinh thần không tự thị do không quyết chí kiếm tìm mà bỗng nhiên lại ngộ duyên. Tinh thần không chờ đợi là tự tâm bình nhiên trong pháp Nhất Nguyên. Tinh thần không trách là tinh thần vô lượng. Quyết chí hay đợi chờ là hai đối cực thường có trong tâm thức phàm phu. Khi luận giải về phương tu, chúng sanh thường hay mắc mứu vào hai thái độ này.

Trách móc của phàm phu thì thường vốn do thiện chí muốn người được tốt nhưng không biết phải dùng phương hộ hiệp nào khác. Trách quở của Phật thì lại khác. Kinh Thủ Lăng Nghiêm có đoạn:

A Na Luật Đà liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:

- Lúc con mới xuất gia, thường ham nằm ngủ. Như Lai quở con là loài súc sinh, nghe lời Phật quở, con khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Thế Tôn dạy con tu pháp "Lạc Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam Muội" chẳng nhờ con mắt, xem thấy mười phương rỗng suốt như trái cây trong bàn tay; Như Lai ấn chứng cho con đắc quả A La Hán. Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con, thì Xoay Cái Thấy Trở Về Bản Tánh là hơn cả.

Có nhân tự trách và cố gắng thêm duyên giáo hóa của Phật mới có việc tiến bộ này.

Bên này bên kia hay chính giữa đều không chướng ngại vì sao? Có sắc, tránh sắc, theo đạo chánh hay không… đều có thể do nhơn duyên được trong buổi Trời người hiệp một mà giúp nên cuộc chuyển tâm, lập năng lực. Kẻ không biết Đạo pháp hay đạo lý là gì vẫn có thể do nhơn duyện kề cận một cao nhơn mà có các khả năng hơn hẳn thế gian song họ vẫn cứ không có cớ gì để tự thị, cứ tưởng mình là bình thường vậy thôi.

Đoạn trước có lời kết rằng Chánh Pháp là sự đồng tâm Hiệp Pháp để được cơ vận tử hồi môn. Cơ vận tử hồi môn này là nhân duyên hộ thần để có thể có Thái Cực vậy. Cũng cùng một ý với lời dạy ngày xưa: chánh pháp là do nhân duyên. Có nhân duyên được chánh pháp khi

Nói khác, pháp vốn vô sở định. Nếu hiệp Thiên Điều, hiệp bí pháp, thuận nhân duyên (đủ Phật Pháp Tăng) thì được.

Lại nữa, có được cách nhìn đúng (chánh pháp nhãn) cũng chỉ mới được gọi là Thiện Lai tỳ kheo, chưa được là Như Lai. Còn phải do theo chơn pháp và được chơn truyền nữa mới đủ Tinh Khí Thần mà diệu biến được với thiên nhiên mà đến được với tình trạng Như Lai. Cả ba thứ Tinh Khí Thần là cái mà nhơn loại đang cần để có khả năng đó. Trong cơ pháp đại khoan hồng vận tử hồi môn này, hành giã có thể được hộ hiệp để có đủ chẳng những Thần mà còn Tinh và Khí nữa.

6.4.       Pháp Vô Pháp và quyỀn biẾn TẠm QuyỀN

Chơn Pháp của quyền chánh trị Cữu Trùng Đài là thuận ý từng nhơn sanh ba cấp ở Đông Tây Nam Bắc và hiệp thông giáo lý cổ kim. Chánh Pháp của quyền luật pháp Hiệp Thiên Đài là để giữ nét vô tư cho khỏi loạn hàng thất thứ. Pháp Vô Pháp của quyền siêu rỗi Bát Quái Đài để xóa hết mọi dấu vết của tam giới thời gian quá khứ hiện tại vị lai.

Chánh Quyền thuộc về quyền chánh trị dùng Chơn Pháp trị thế của Ngọc Hư Cung còn Chơn Quyền thuộc về Chánh Pháp hóa độ của Cực Lạc thế Giới. Phật Quyền ban Pháp Vô Pháp thì pháp ấy chính là Phật.

Chơn Pháp trị thế của Ngọc Hư Cung là sao? Đó không phải là do ai hành luật khép khuôn mình mà là quyền tự trị của Càn Khôn Vũ Trụ đã sẵn có, chơn tới đâu đắc tới đó còn giả thì loanh quanh lẩn quẩn mãi trong sanh lão bệnh tử cho tới lúc ngộ duyên, trọng duyên, không tự thị, không chờ ai, không trách ai.

Phật Quyền lại có thể quyền biến ngó lơ cho lập Tạm Quyền tại thế gian để kẻ Vô Pháp (không theo đúng pháp chi cả, tức không chơn cũng không chánh) trong thời kỳ đào luyện, thử thách hay thanh lọc. Biết thế nào mà Vô Pháp chính là Phật Pháp và thế nào mà vô pháp lại là sự vô phép tắc của kẻ tạm quyền, đó là do cái linh, cái khéo riêng của mỗi cá nhân để có điểm trong bài thi khảo nghiệm.

Không làm tựa hồ như chia phe phân phái mà làm cho hiện rõ chánh chơn hay tà mị, đó là hòa mà không đồng, bình mà không trệ ngưng, hóa mà không chối, hiệp mà không cùng phe.

Hòa bình hóa hiệp Đạo chơn minh. Cái chơn minh ấy ắt chói rạng cho muôn đời sau noi dấu.

6.5.       SỰ NGHI NGỜ THỬ THÁNH CỦA LỰC LƯỢNG PHỦ ĐỊNH

Khảo nghiệm để định vị cho chí chơn, đó là Chánh Pháp. Còn bên ngược lại là mãi mãi nghi ngờ thử thách mỗi mỗi hành tàng, đó là bóng dáng của lực lượng phủ định.

Lực lượng khẳng định dùng quyền tự quyết, tự kỉnh và kỉnh cái chơn thật của nhau, đại hòa mà đại hóa, vô điều kiện, vô nhân quả. Lực lượng phủ định nghi ngờ chính mình, nghi ngờ mọi người, khinh người nên dối người, nghi ngờ các pháp tuyệt đối, nói rằng không có sự tuyệt đối, nói rằng tất cả đều là tương đối, tất cả đều là nhân quả. Con đường trí thức đòi có dò xét chứng minh tại thế gian  đều như vậy:

…Vẻ tươi bợn thế nét dò đon.

Lục Nương, Tòa-Thánh (Phạm-Môn) 12 Février 1933 (29-12 Quí-Dậu)

Kẻ nghi ngờ đòi thử thách tự biết mình đang nghi ngờ mọi thứ, kể cả chính mình, nên đã đánh mất giá trị của con đường tự phát của mình tự thuở nào.

 Đó là cái Vô Minh trong thập nhị nhân duyên nó làm cho Hành sinh ra Thức,… Ái sinh ra Thủ, Thủ sinh ra Hữu, Hữu sinh ra Sanh Lão. Ngay cả chỗ Sanh Lão này, nếu không Vô Minh, tức là theo Thái Cực Pháp không chút nghi ngờ, cũng thoát được Bệnh Tử.  Cái nghi ngờ chỉ là bóng mờ của ảo giác nhưng lại tạo ra được Bệnh Tử vì chính nó làm băng hoại sanh khí, cản trở sự Phục Sinh mà do đại hồng ân Tạo Hóa đã sẵn sàng cho phép.

Sự loay hoay trong tinh thần bất nhất ấy là một thủ đoạn diệt hóa. Tuy nó không thể làm cho bậc nguyên nhơn khuất phục nhưng cũng làm trì trệ sự tiến hóa của hóa nhơn chưa có cái linh mà chỉ có cái trí tự nghi ngờ mình vì nó đòi hỏi phải có thông tin mới quyết đinh được. Lực lượng ảo giác không chỗ đến ấy giục họ đi loanh quanh theo sự kích thích của các trò sợ hãi bất nhất có nghiến răng, có khóc lóc, có xách động tâm lý, tinh thần để đến nỗi không còn biết cái thật của mình đang ở đâu.

Người nặng mang tâm tức đối tính nhị nguyên chỉ khuất phục cái phi đối tính chứ không hề khuất phục cái ngược lại chính mình. Điều lầm lẫn xảy ra khi coi kẻ phi đối tính là kẻ ở bên kia chiến tuyến với chính mình, tức là lòng vô tư đã mất. Họ thử thách, thử thách, dồn người hiền không phe vào thế kẹt buộc nói lên là hoặc phe ta hoặc theo phe nghịch ta. Những người ấy  nói “Tôi không tin như vậy!” Họ không đủ khiêm nhường và vô tư để nói “Tôi chưa tin như vậy!”

Đức tin đúng đắn vào các nguyên lý tinh thần hay hình thể cõi cao (các hình tư tưởng vẫn là hình thể thuộc cõi số 4) giúp tạo nên các kết quả đúng đắn tại các cõi dưới thấp. Đức tin vào tiểu ngã vọng chấp chỉ là mê tín, đức tin vào phù phép hay vào thần thông chỉ là sự đánh mất cái sáng tự tâm.

Kẻ nói “Tôi không tin như vậy!” tưởng đức tin là sự võ đoán không bằng chứng cụ thể sau khi tin. Họ đòi hỏi bằng chứng trước khi tin, họ là quần chúng hưởng dụng công trình của nhà phát minh thành công chứ không phải là nhà phát minh.

Kẻ nói “Tôi chưa tin như vậy!” còn có cơ học hiểu để tin vào lẽ công nhiên trong vũ trụ mà thành công trong phát minh. Kẻ nói “Tôi không tin như vậy!” tự chọn phương đối nghịch, nếu lỡ ra mình đang đối nghịch cái chơn thật của Thái Cực pháp thì hóa ra mình sẽ mãi mãi loay hoay trong các lực lượng phủ định.

Khi mình đang bị các vết thương vô minh, nếu mãi tìm kiếm các thí nghiệm xác minh lý thuyết giúp tạo nên chất thuốc rịt tạm cho hết chảy máu thì e khi không kịp nữa rồi. Chất thuốc đưa đến ấy là tình thương yêu còn mình thì mãi tìm cách chứng minh sự cao trọng, sự trong sạch, sự trung thành cho nên thất tình lục dục cuốn phăng đi sinh lực của mình. Chỉ do “Nhất thần phi tương” (một cái thần chuyên nhất không đối đãi đúng sai thiện ác) mới có thể “trị kỳ tâm” (làm cái tâm dục, tâm cảm, tâm hiểu…) của mình yên lặng và sinh khí của mình có cơ hồi phục mà thôi.

Tâm không là tâm không chấp trứ, là tâm rộng mở, sẵn sàng học thêm nữa. Tâm trụ vào cái không là miếng mồi cho đủ thứ hiểm nguy vô minh, kể cả các lực lượng của chúa quỷ đầy sự nghi kỵ và so đo, vốn phản nghịch lại sự thương yêu và sự sống. Tâm không tất nhiên trụ vào cái chơn, vào ái yêu. Tâm trụ vào bất cứ cái chi kể cả cái yêu cũng là tâm bị buộc trói.

Có trình độ phải buộc tâm nhưng có trình độ phải mở tâm. Kẻ tự thấy mình thiếu tình thương tất nhiên thấy mình thiếu sự chơn, sự sáng, phải buộc tâm mình tránh cái ác để lần về cái chơn cực thánh thiện của mình. Chỉ cần tự hỏi mình có thực sự vì thương hay không trước khi hỏi mình có thực sự sáng suốt hay không.

Từ tình trạng bệnh hoạn tinh thần nghi kỵ bất hòa thử thách nhau như nơi thế gian mà dẫn liền về pháp tuyệt đối của Thiên Đình thì hầu như không thể được nên Đạo của Thầy có dự trù các pháp tương đối với các quyền tương đối: Chơn Pháp (tuyệt đối) với Chánh Quyền (tương đối) hay Chánh Pháp (tương đối) với Chơn Quyền (tuyệt đối).

Chỉ khi đến được cảnh Chơn Pháp Chơn Quyền của các bạn đồng tâm cùng có mở được Thiên Nhản thì mới dễ thoát khỏi sự nhập nhằng của các lực lượng nghi ngờ phủ định nhưng ít ra sự thành tâm tin tưởng vào nguồn Nhất Nguyên Tạo Hóa cũng là một liều thuốc hữu hiệu để cứu khổ chúng sanh.


 

[1] Ưa danh thì không bao giờ được biết bí pháp. Có biết đi nữa cũng không dám thực hành.

[2] Ưa lập công để được phong thưởng thiêng liêng thì có khá hơn tính ưa danh đó nhưng tâm đức chưa đủ, còn trông chờ thời cơ, trông chờ sự ra lệnh… nên vẫn chưa có tâm tự chủ, cũng chưa thể hành bí pháp. Theo hai chí hướng này thì phải chịu cảnh Pháp định Quyền: Nếu Pháp bị ngăn chận (sự bầu cử bị cấm thì quyền hiến định cho người ưa danh không có, sự cầu cơ bị cấm thì quyền Thiên phong cho người ưa công không có) thì Quyền mất căn bản, bị quần chúng nghi ngờ không được tuân phục, không có uy tín, cơ cứu khỗ bị đình trệ.

[3] Pháp không pháp chi cả là cái Pháp tự do tự chủ chớ không có nghĩa là không có pháp chi, trôi nỗi nềnh bồng vô định.  Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hoá (không nói lời nào có mà lặng lẽ cho phép tự do tuyệt đối) cũng y hệt ý nghĩa như lời dạy trong Phật Pháp: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm (để tâm mình linh hoạt tự do phát sinh, không gò bó nó vào bất cứ khuôn pháp nào có sẵn).

[4] Vong xu trọn cả một Càn-Khôn ,
Hết kiếp thịt xương, tới kiếp hồn
Ngảnh lại hỏi người là chắc đó ,
Trăm năm là tuổi chết rồi chôn .

TNHT 1, Thi Văn Dy Đo

[5] Cho nên Thầy mới lập Đạo Hư Vô ban Chơn Quyền cho Chơn Pháp.

[6] Là hiền nội của Thượng Trung Nhựt, đã được phong phẩm Giáo Sư nhưng không hành Đạo nên bị trục xuất.

[7] Từ đây ta thấy rõ: tất cả các chi phái mang danh Cao Đài được thành lập trước năm 1936, năm ban Tân Kinh, là không có Tân Pháp.

 

Trở về đầu chương 6

 

7. CÁC GIAI ĐOẠN LÝ PHÁP

 

7.1. Lý Pháp Tín Tu

7.1.1. Lý Pháp của Tam Giáo

7.1.2. Sự Cầu Học Lý Pháp

7.1.3. Sự Tín Tu Vô Cầu

7.1.4. Các Bài Kệ Phó Pháp

7.1.4.1. Bồ Đề Đạt Ma

7.1.4.2. Huệ Khả

7.1.4.3. Tăng Xán

7.1.4.4. Đạo Tín

7.1.4.5. Hoàng Nhẫn

7.1.4.6. Huệ Năng

7.1.5.Tinh Lực và Thần Lực

7.1.6. Trong Phàm được Thánh, trong Tịnh có Động

7.1.7. Tỉnh Mộng Thế

7.2. Lý Pháp Hành Tu

 

Có hai giai đoạn tu hành Lý Pháp và Tâm Pháp:

Còn trong vòng Lý Pháp là còn dụng trí, đến Tâm Pháp là dụng linh. Linh hay huệ là không do trí mà biết nhưng có thể dùng thực tế kiểm chứng được. Lý Pháp thì hữu ngôn, tâm pháp thì vô ngôn nhưng có khi thấy được có khi chẳng thấy được tướng trạng của sự truyền. Đọc hiểu nghĩa kín của các ngụ từ hay xem hiểu ẩn nghĩa của các hình tượng, cử chỉ, là tâm pháp.

Lý Pháp có nhiều mức cao thấp khác nhau, tùy nơi trí thức và kinh nghiệm mà có thể lãnh hội. Để tâm pháp được khai, có khi cũng cần phải biết lý pháp trước. Nếu Ca Diếp không biết nghĩa lý của hoa sen ắt không mĩm cười khi thấy Thích Ca trước đạo tràng đưa cao cành sen trắng.

Nhiều kẻ không rõ lý pháp bí truyền này đã cố cượng chủ quan giải nghĩa sự tích niêm hoa vi tiếu này một cách lệch lạc hẳn, nên tự mình tu sai và dẫn kẻ khác lạc đường, khi kiểm chứng lại đời tu thấy chẳng có kết quả cụ thể gia tăng công đức huệ tình và các khả năng.

7.1.       LÝ PHÁP TÍN TU

Có thể tóm tắt các điều trình bày ở hai bài 5. Lý Pháp6.Quyền Pháp như sau:

 

Pháp

Quyền

Năng

Cữu Trùng Đài

Chơn Tình

Hiệp tâm hòa nhiên

Thông Lý

Vô tư cứu khổ chúng sanh

Chánh Thể

Ba Hội Lập Quyền

Độ rỗi

Hiệp Thiên Đài

Chánh Nghĩa

Liên tâm công pháp

Cao Lý

Tình Tạo Hóa liên không gian

Chơn Vị

Minh Luật

Phổ Đức

Thông Đài

Cầu rỗi

Bát Quái Đài

Cao Minh

Đại Hòa Điệu Vũ Trụ

Thông Tâm

Hòa Thần

Khai Thánh Đức

Đài Quyền

Hộ

Hiệp

Siêu rỗi

Lý Pháp như trên đây là Lý Pháp được ban ra trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ của Tam Chuyển để bước qua thời kỳ Thượng Ngươn của đệ tứ chuyển. Mỗi trường Đạo đều có Lý Pháp công truyền riêng nhưng rốt rồi cũng dẫn đến tâm pháp bí truyền của cùng một kiểu Chơn Quyền Chơn Pháp Chơn Truyền.

Dù là pháp công truyền hay bí truyền, nếu không tin mình, không tin người, không tin có một mối Đạo bàng bạc trong chơn tâm Tạo Hóa thì không hành tu được.

Nếu bế lối cảm thông, mong chờ, theo đuổi, tìm kiếm những thứ thế pháp phàm phu (như tiền tài, thế lực, vũ khí, danh vọng, quay lưng trước đồng loại…) mà không bỏ công khơi dậy cái tâm Tạo Hóa có thể dẫn mình tới sự trong sáng tột cùng, không biết ngọn đèn Trời (Thần, ánh dương quang của Đức Chí Tôn) chỉ chực soi rọi cho Khí lực hay tâm thức duy chơn ấy, không tâm tự kỉnh, không kính trọng người, chia phe phân phái để giành phần hơn, coi mạng sống như trò ngẫu nhiên chợt có, đó là trường đời sát phạt.

 Chỉ tin nơi cái Pháp Lý ai đó dạy ra với danh xưng là Đạo này Đạo nọ, không tin tự tâm mình, nhắm mắt sống theo những tín niệm hay phong tục vốn dĩ gây ra vô vàn tiếng rên siết khổ đau, hướng vào chút ít huyền diệu thần thông[1] nào đó, không tin kẻ khác với mình cũng có cái Lý Pháp tự tâm, đó là trường tín ngưỡng cũng dẫn đến sát phạt.

Chẳng bao giờ có thể ép ai tin được điều gì phi lý cả. Nhưng gần Thiên thì Lý trước Pháp sau, gần Địa thì Pháp trước Lý sau. Lý trước là Lý Thiên Cung còn Lý sau là Lý đi lần từ Phàm đến Thánh, đi tới đâu đạt lý tới đó.

Lý phàm do kinh nghiệm từ những đều đã biết qua thời gian, nên chơn lý của chỗ này lúc này có thể là phi lý đối với chỗ khác lúc khác. Lý Thiên Cung là do trực cảm liên không gian với các nguồn tâm thức trong vũ trụ mà có.

Các chơn chánh kinh ẩn Lý Thiên Cung vẫn còn đó để làm tiêu mốc hướng dẫn cho nhơn sanh khắp nơi và mọi thời đại. Các lý ấy vẫn là pháp tùy duyên dẫn đến lý vô ngôn là SỰ SÁNG CỦA THIÊN TÂM, nếu chấp chặt vào văn tự hữu ngôn tức là biến chúng thành các giả chánh kinh. Do vậy mà có sự phân biệt ra nhiều hệ phái tư tưởng.

Người liễu ngộ các chơn chánh kinh của Đạo này ắt cũng rõ nghĩa các chơn chánh kinh của Đạo khác cho dù mới được nghe biết lần đầu. Kẻ còn trong vọng chấp mê lầm không thể thông cảm được lẽ thực ấy nên chủ trương gối ai nấy ôm, hồn ai nấy giữ hay còn tệ hơn nữa, coi kẻ khác tín ngưỡng với mình đều là ngoại đạo, tà giáo.

Không chứng được cái thực từ Đạo mình thì cũng không thể biết được cái thực mà các Đạo khác dẫn đến. Cái thực chỉ có một, và là cái linh tâm VÔ NGÔN TƯỚNG trong chính mỗi người còn cái giả trong ý tình HỮU NGÔN HỮU TƯỚNG do người khác lưu dấu thì nhiều vô lượng.

Sự trọn vẹn hướng chơn không chấp vào riêng một pháp nào cả (hoặc từ tinh thần, từ tâm, hay từ chơn pháp ái). Trong sự hướng chơn đó, các đấng thiêng liêng cũng đồng đi đồng hộ. Nơi bản thân mỗi người thì là linh tánh câu thông với tông đường thiêng liêng của mình còn nơi toàn thể xã hội thì là quốc hồn quốc túy của dân tộc đều tự nhiên hộ chơn.

Đã đành cái thực của mỗi người không phải là cái mà người đó khoe ra hay tưởng tượng về mình nhưng xét dĩ vảng hay hành vi của một người không hề giúp biết chắc về người đó. Xét hoàn cảnh sinh hoạt, liên hệ huyết thống, nền tảng giáo dục… không đủ để thực biết một chúng sanh. Còn phải xét tới nguyên căn xuất hiện linh hồn của mỗi trường hợp mới rõ thấu từng tâm trạng và hành vi. Thế mà bí mật này loài người không được biết đến.

Cái chơn tận trong sâu có thể dẫn đến khả năng cao siêu thực sự tạn mặt với các bí mật ấy. Nhưng con đường tỉnh giác chơn thật với nguyên bổn tự chủ của mình vẫn có chút khác biệt với con đường tự mình bị dính chặt vào tín niệm nào đó.

Mỗi dân tộc cũng có một kiểu tín niệm quen thuộc. Không thể chối bỏ cái thuần chơn trong tinh thần của mỗi dân tộc ấy vì đó là căn bản để từ đó dân tộc ấy tiến hóa. Tinh thần mỗi mỗi sắc dân đều có cái trọng chơn mà biết Trời kia vốn một, Đạo nọ không hai, chơn pháp vốn như nhiên tuy thể pháp thì mỗi nơi quen một cách.

Còn về bí pháp, dù lời truyền đạt có tính ngụ từ đầy những ẩn nghĩa sâu xa, cũng không ngoài sự thật. Phải hiểu cho ra các nghĩa chơn thật thực hành của các giáo lý mới tránh được điều mê tín. Sự thật đã từng biết vẫn là hạn hẹp so với sự thật cảm được trong tâm mà chưa dám hành theo nên nhiều người phải lầm lũi đi theo số đông mà thôi. Nay đã rất dễ hơn xưa vì đã đến lúc ngọn đèn trời chỉ chực soi bước cho LỜI CẦU NGUYỆN CHÂN THÀNH. Không có lời cầu nguyện thì quyền thiêng liêng cũng khó mà can thiệp vì đã có qui luật Thiên Đình cho quyền mỗi người được tự do tiến hóa.

Gần đây đã từng có nhiều công trình đóng góp vào việc vén màn sự thực, mở tâm nhân loại như của Victor Hugo và các công trình vừa có tính khoa học vừa mở đường cụ thể vào thế giới tâm linh vừa hé mở cánh cửa Tam Kỳ Phổ Độ như của Allan Kardec, Flammarion[2]

7.1.1.     Lý Pháp cỦa Tam Giáo

Trước đã nói Tiên Thiên Ngũ Hành lập cảnh giới không gian cho tiểu ngã / đại ngã còn Hậu Thiên Ngũ Hành lập thế giới vật chất hữu hình (có trước/sau, nhân/quả).

Tiên Thiên Ngũ Hành và Hậu Thiên Ngũ Hành đồng chi phối mọi diễn biến dù con người có nhận biết hay không. Trong Nhơn Đạo, tức Đạo nhơn luân chồng vợ, phép âm dương Tiên Thiên Hậu Thiên liên diễn đấp đổi cho nhau nên cuộc sanh hóa có thuận có nghịch, có vui có buồn, có thích thú có đắng cay, như  miếng trầu cau trong hôn lễ vậy.

Để diễn lý thuận nghịch của lẽ âm dương sinh hóa trong Nhơn Đạo, Thánh Đạo biểu tượng bí pháp Thế Đạo bằng hai chữ vạn theo hai chiều thuận nghịch chồng lên nhau. Đây là hiện trạng tự nhiên của dòng biến dịch Thiên Địa Nam Nữ mà Kinh Dịch phơi bày.

 Tiên Đạo dùng chữ vạn nghịch để chỉ rõ thế tương khắc trong Âm Ngũ Hành khiến cho lực vật chất đã tác hại cho lực tinh thần thế nào hầu biết cách chuyển hóa sinh khí từ vật chất ra tinh thần, qui phục vạn thù về nhất bổn và có thể được đầy đủ phạm hạnh trở thành Thiện Lai Tì Kheo như nói ở trang 145.

(Có huyền bí nào khó hiểu khi Thiện Lai Tỳ Kheo bỗng nhiên đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh chăng? Không. Chỉ vì do giác ngộ rõ tính qui luật tương khắc của lực lượng phủ định mà không phóng dật, chẳng quá đà nên được điểm Đạo tại trình độ đó.)

Chữ vạn có hướng quay theo chiều kim đồng hồ diễn tả tiến trình thuận sinh năng lực tiên thiên nhất bổn tán vạn thù. Nếu theo Tiên Đạo mà tránh được tính tương khắc của Hậu Thiên Ngũ Hành, thì khi bước qua Phật Đạo, Ngũ Hành tiên thiên tương sinh (Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc) sẽ làm cho hồn xác mỗi lúc thêm tươi nhuận và đầy ắp sinh khí mà đến được bậc phẩm Như Lai.

Lý Pháp Tam Giáo chú trọng vào ba trình độ khác nhau như nói trên nhưng những môn đồ sáng suốt của Thánh Đạo và Tiên Đạo vẫn có thể thấy được hướng tiến hóa cao viễn trong giáo lý của Thầy mình để đến được chỗ toàn giác của Phật vị. Trong Phật Đạo, vẫn có sự dẫn dắt các tín hữu sơ cơ xuyên qua các quả vị Thánh Tiên. Danh xưng của các phẩm vị tuy có khác, giáo lý trong mỗi Đạo dùng lời lẽ khác nhau nhưng nội dung xây dựng năng lực thì tương tự nhau.

7.1.2.     SỰ cẦu hỌc Lý Pháp

Công pháp của Đấng Tối Cao là mỗi người đều được ban quyền tự do tuyệt đối. Nếu không khéo dùng quyền ấy thì có thể phải cam tâm chịu thua muôn thứ khó khăn từ quyền tự do của kẻ khác. Nếu an nhiên dùng quyền ấy trong sự cầu học lý pháp thì sẽ thấy rõ:

Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở,

Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.

Lại nữa, trong trời đất này có Thầy là Chúa của sự thương và Cha của sự sống, lại cũng có Sa Tăng, chúa của sự ghét và dẫn đến sự chết. Cho nên, nếu dùng quyền tự do tuyệt đối của mình mà không có ánh sáng soi đường, khó mà qua khỏi những bẫy rập tài, quyền, sắc, pháp của quỉ vương.

…Các con coi đó thì đủ hiểu các phẩm trật các con nó nhiều là dường nào; song ấy là phẩm trật Thiên-Vị.

Còn phẩm trật Quỉ-vị cũng như thế ấy; nó cũng noi chước Thiên- Cung mà lập thành Quỉ-vị, cũng đủ các ngôi, các phẩm đặng đầy đọa các con, hành hài các con, xử trị các con. Cái quyền hành lớn lao ấy, do Thầy ban cho nó nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con, mà làm tay chân bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.

Thầy đã thường nói: hai đầu cân không song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Luật công bình Thiêng-Liêng buộc phải vậy. Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.

Ngọc Hoàng Thượng Đế vCĐGĐNP (15-11-Bính Dần),

Thầy đến thế gian thu các Đạo hữu hình làm một và lập lại quyền hướng đạo vô vi. Thầy sắp bày quyền pháp như nói ở phần trước để thống nhất sinh hoạt và đức tin nhưng đường tiến hóa cá nhân thì thinh thinh rộng mở vì có Đạo Hư Vô Sư Hư Vô.

Chính đức tin tự phát của mỗi người khiến mình đến được với Lý Pháp cần thiết. Nếu pháp tu được bày ra thành hữu tướng thì chưa hẳn có thể dẫn đến sự sáng. Sự sáng ấy do tự mình khai tâm hướng vào sự Minh Triết. Nếu mình trông đợi một lý pháp hữu ngôn thì nó lại là xiềng xích để cái vô minh của mỗi người trành tròn phê phán ràng buộc nhau và ràng buộc chính mình nữa.

…Ai sớm may gặp hội,

Cũng trong một lúc nầy,

Kẻ vô phước chẳng may,

Rồi  đây toan bỏ việc.

Muốn tu phải giả câm giả điếc,

Dầu thiệt hư mình biết lấy mình.

Hành đạo thì tâm tánh cho thanh,

Dầu trong đục tự mình lóng trước.

Đông Phương Sóc, 3-6-Mậu Dần (dl 30-6-1938).

 Không thấy có lý pháp hữu tướng nên bỏ việc hành tu, bỏ Đạo, bỏ Thầy, nghe ngóng đây kia, luận bàn hư thiệt, chẳng ngó tâm mình để biết Phật Phật tương thông là thế nào, đó là do tưởng lầm rằng chánh pháp phải là điều sở định từ bên ngoài.

Có người bôn ba thế giới mong tầm cho được Đạo Sư hiện tiền có thể khai ngộ cho mình, được chỉ vào Thiên Nhãn cao minh, nơi có thể là Thầy mình mọi nơi mọi lúc, lại vẫn cứ lẩm bẩm “Tôi muốn tìm một Đạo sư. Tôi muốn tìm một Đạo sư. Tôi muốn tìm một Đạo sư. …

Có thể có đốn ngộ hay tiệm tu tùy mình có học kỹ nhìn kỹ  những điều bày rõ ra hay không:

Đưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó,

Mau chân giỏi bước níu sau Thầy.

Thi Văn dạy Đạo, TNHT 1

 

Ngó là nhìn mà hiểu cái giáo ngoại biệt truyền, không phải bảo nghe lời dạy hữu ngôn hữu tự. Thật sự tín tu thì có thật sự độ dẫn. Thầy đã hứa không bao giờ không cảm ứngvới những lời cầu nguyện chân thành[3]. Thật ra nếu không có hộ hiệp thì cho dù là đại linh căn đến thế đi nữa cũng không thể trở về.

Để việc đốn tu đốn ngộ có hộ hiệp mãnh liệt thường phải tin vào cái Linh của chính mình hơn là cái Trí. Cái trí ít nhất cũng cần có lý thông và hợp với sự thật. Cái linh có thể được sớm kiểm chứng hay muộn nhưng cũng phải thông thì mới chắc. Đức Mạnh Tử từng bảo

Việc mình thấy nên làm mà không làm thì hại cho cái trí, việc mình thấy nên bỏ mà không bỏ ngay thì hại cho cái linh.

Do đây mà thấy rằng sự nhắc chừng thiêng liêng chỉ ngăn sự làm sai chứ không cản sự tiến thủ. Nhưng dù gọi là hộ hiệp mãnh liệt đi nữa thì cũng là tạo môi trường cho sự tự phát của hành giã mà thôi. Cho nên chẳng nên luống công đợi chờ sự hiển linh cho phép hay ra lệnh mới cất bước lên đường.

Khi Thầy lập Đạo, những Lý Pháp cơ bản đã được minh thị nói rõ trong các lời Thánh Ngôn:

Mục tiêu là Lập Quyền cho chúng sanh, rước bậc hữu duyên qui hồi cựu vị (mở cửa Cực Lạc Thế Giới) và tạo đời nâng đỡ kẻ hữu hạnh tại thế gian.

Lý là thống nhất đức tin vào chỗ nguyên ủy của đức tin (Chí Tôn và Phật Mẫu) và đem Thần đến cho người tu hiệp đủ Tam Bửu mà đắc Đạo.

Pháp là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Ý nghĩa của danh xưng này sẽ được nói đến về sau.

Những ý tứ vi tế về chánh chơn và quyền pháp đã được bộc lộ ở các phần trước, duy có cố công tìm về với sự tự tâm chứng được Sư Hư Vô để được dẫn dắt thêm.

Điều đáng lưu tâm là các đạo pháp tuy có vẻ huyền bí siêu hình nhưng vốn dạy những điều rất cụ thể. Một tôn giáo chính đáng:

Thầy đã khai Đạo khắp nơi và các Đạo tràng hay các môn Thông Linh Hoc[4] (Spiritism) đều góp phần vào sự xây dựng đức tin trong giai đoạn Lý Pháp Tín Tu này. Nếu may duyên gặp nguồn Lý Pháp Thiên Khải thì con đường tín tu sẽ chắc bước hơn nhiều. Ngưỡng Thiên Mạo của phẩm Giáo Hữu tượng cho sự tầm học và hành hiệp theo Lý Pháp Thiên Khải đó.

7.1.3.     SỰ Tín Tu Vô CẦu

Lý Pháp Thiên Khải là gì? Là các lý pháp do những phương câu thông với cõi cao để được khải ngộ một cách kín đáo.

Không ai dạy mà mỗi con vật đều biết tự vệ, biết truyền sanh và bảo dưỡng giống nòi. Tin vào cái năng lực tiến hóa tiềm tàng trong sự sanh hóa là bước đầu của sự cách vật. Nhìn nhận những biến hóa góp phần cho tiến hóa lại là một bước tiến mới trên đường khám phá mối tương quan giữa tinh chất, thần lực và khí lực.

Phải khéo hiểu khéo hành trong sự tĩnh mật của tâm tình các Lý Pháp bảo sanh tự nhiên đã có mà không một Chơn Sư nào từ chối cả thì mới nhập vào với cuộc đại trang nghiêm của dòng vận động  hóa sanh trong trời đất. Mọi chuyện huyền vi đều có vẻ nửa thật nửa ảo (nhược thiệt nhược hư), không động tâm gò ép mình mới đến chỗ như, an định, chuyên hướng vào Hư Vô mới tĩnh, không bộc lộ thành tướng trạng, lời nói chi mới là mật.

Một trong những sai lầm làm con đường tâm linh bị chậm lại rất lâu là ý tưởng rằng sự thật phải được phổ truyền.

… LÝ PHÁP TÍN TU là phương để nhân loại học Đạo để hiệp Đạo mà hàmh Đạo. Như hiện bây giờ nhị vị hiền hữu đang tương ứng cùng Trời Đất vạn linh để đưa cho nhơn sanh một phương pháp thực kỳ truyền. Nếu không dùng lối nầy thì không thể nào đạt đặng một kiếp sanh để về cùng Thầy. Bởi rất dễ hiểu, muốn rời khỏi thế giới nầy thì những gì thuộc tính chất của thế giới nầy đều phải dứt, tức thanh toán xong (triệt tiêu).  Nhưng đệ nhứt xác thân nó vẫn còn đủ tinh chất để hiệp với đệ nhị và tam thì phải tín dụng phương tu Nhơn Luân Đạo cũng là Thiên Đạo, là con đường duy nhứt. Bởi nó hiệp Thế hiệp Pháp hiệp Đạo thì mới đủ điều kiện hội nguyên.

Tu đệ nhứt xác thân không có nghĩa là giữ gìn cho xác thân trong sạch nhưng còn có nghĩa là phải đưa cho nó hiệp thế để đạt dục tấn đến hàng Thượng Sanh. Thượng Sanh không có nghĩa là cuộc sống trên trưóc cao sang mà có nghiã là nó dục tấn hiệp thế hết mức của nó thì nó đủ tinh chất hiệp với Nhị và Tam... Cũng như nhị xác thân phải nương theo nhứt xác thân mà đào luyện tình cảm trở nên cao thượng rồi sự cao thượng của tình cảm lại độ an cho đệ nhứt xác thân trở nên Thượng Sanh. Nếu hai đàng tương hiệp thị tất đệ tam xác thân không mời cũng hoà hiệp đặng. Khi cả ba hoà hiệp ta tạm gọi là Hiệp Pháp, Hiệp Đạo, Hiệp cùng Trời hoặc cũng là hoà hiệp Thiên Địa Nhơn.

Không phân tách ra từng phần cái Lý-Pháp-Tín-Tu. Bốn chữ ấy khi nào nó là một sự tĩnh mật trong tâm tình, tinh thần thì tự nhiên nó thể hiện chớ không như giai đoạn dục tu kỳ cầu. Đây tín tu vô cầu nhưng hiệp.

 

                Hộ Pháp Phạm Công Tắc

Tình có thâm thì cảm có sâu và có sự tự nhiên san sẻ ý tưởng, khả năng. Thâm tình với nguồn cội xa xưa của mình nơi nào thì bời bời qui về cội gốc đó. Đó là ý rằng pháp mà không pháp, là cực kỳ chơn thật với nguồn cội xa xưa, là kết quả của sự tự chơn, tự tách ly khỏi những gì không là cái ta thường hằng.

Những bài kệ phó pháp của sáu vị tổ Thiền Tông Trung Quốc cho thấy rõ thêm về việc này:

7.1.4.     Các bài kỆ phó pháp

7.1.4.1.            Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharna, tổ thứ 29, 470 -543)

Ngô bổn lai tự độ,

Truyền pháp cứu mê tình.

Nhất hoa khai ngũ diệp,

Kết quả tự nhiên thành,

 

(Ta vốn tự cứu mình,

Truyền pháp cứu mê tình.

Một hoa khai năm lá,

Kết quả tự nhiên thành.)

7.1.4.2.            Huệ Khả (Eka, tổ thứ 30, 487-593)

Bổn lai duyên hữu địa,

Nhơn địa chúng hoa sanh.

Bổn lai vô hữu chủng,

Hoa diệt bất tằng sanh.

 

(Vốn do duyên đất có,

Nhơn đất các hoa sanh.

Vốn do không giống có,

Hoa diệt đâu từng sanh.)

7.1.4.3.            Tăng Xán (Sôsan, tổ thứ 31, ?- 606?)

Hoa chủng tuy nhơn địa,

Tùng địa chủng hoa sanh.

Nhược vô nhơn hạ chủng,

Hoa địa tận vô sanh.

 

(Giống hoa tuy nhơn đất,

Tùng đất giống hoa sanh.

Nếu không người gieo giống,

Hoa đất hẳn không sanh.)

7.1.4.4.            Đạo Tín (Dôshim, tổ thứ 32, 560-651)

Hoa chủng hữu sanh tánh,

Nhơn địa hoa sanh sanh.

Đại duyên dữ tín hiệp,

Đương sanh sanh bất sanh.

 

(Giống hoa có tánh sanh,

Nhơn đất hoa sanh sanh.

Duyên lớn lại thêm tin,

Đương sanh sanh hết sanh.)

7.1.4.5.            Hoàng Nhẫn (Gunin, tổ thứ 33, 601 - 674)

Hữu tình lai hạ chủng,

Nhơn địa quả hoàn sanh.

Vô tình ký vô chủng,

Vô tánh diệc vô sanh.

 

(Có tình đến gieo giống,

Nhơn đất trái huờn sanh.

Không tình lại không giống,

Không tánh cũng không sanh.)

7.1.4.6.            Huệ Năng (Enô, tổ thứ 34, 638 – 713)

Tâm địa hàm như chủng,

Phổ vũ tất giai manh.

Đốn ngộ hoa tình dĩ,

Bồ Đề quả tự thành

 

              (Đất tâm sẵn giống Như Lai,

      Mưa tuôn rộng khắp giống kia nẩy mầm.

            Như nhiên gặp đoá hoa tình,

      Trái Bồ Đề bỗng tự thành thiên thu.)

      Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng vậy. Đạo kia thanh tịnh cũng không có các tướng. Các ngươi dè dặt chớ quán tịnh và tâm kia không. Tâm nầy sẵn tịnh, không lấy không bỏ, mỗi người nổ lực, tùy duyên an lành.

Đất, giống, người gieo, đức tin, tình, mưa tuôn rộng khắp, đó là những yếu tố cực quan trọng đến nỗi các vị tổ ấy phải dành cho một chỗ riêng trong lời ân cần ký thác lại cho đời sau.

Đã đành Thần là điều mà nay Thầy đem đến để có thể đủ tam bửu mà đắc Đạo nhưng thiếu Tinh lực thì không được. Đất mà Huệ Khả nói tượng trưng cho tinh lực trong thân thể.

7.1.5.     Tinh lỰc và ThẦn lỰc

Tôi hỏi: Chuột lớn sợ mèo con. Có phải do thần lực vô hình trong con mèo mà chuột kia phải sợ?

Thầy dạy: Vô hình. Đồng ý. Nhưng phải có cái tinh chất tột cùng của nó mới diệu biến với thiên nhiên[5]. Nó phải có tình có dục mới đến đặng tối linh. Dục đây là trưởng dưỡng chớ không phải ham muốn. Vậy đó là tịnh dục.

Tịnh dục không phải là làm ngưng đọng, chết cứng cái dục mà là trong sự có tình, có dục (ham muốn), vẫn cứ lặng lẽ nuôi dưỡng cái tinh lực của mình.

Tinh lực trong trời đất chứa trong các hạt sinh khí chói sáng lấp lánh bay lơ lửng trong không khí. Trong ánh sáng của mặt trời mới mọc, các hạt này có rất nhiều và có thể thấy được bằng mắt thường. Đó là năng lượng có gốc từ  Prâna. Từ ngôi Thái Dương, cùng với lửa sống Prâna, còn có lửa sống Kundalini và lửa điển Fohat.

Từ lá lách những dòng sinh lực sẽ đưa Tiên Thiên Khí Prâna đến cho cơ quan nào cần. Sinh khí được chuyển hóa từ luân xa gốc tại đế của cột sống là luồng Kundalini sẽ biến thành ba màu vàng, xanh và đỏ và đi lên não theo cột sống. Màu vàng là màu của sinh hoạt tinh thần, màu xanh là màu của tâm linh còn màu đỏ là màu của tình dục. Khi chuyển thành tình thương thì màu đỏ đổi sang hồng. Màu vàng của tinh thần () phát sinh từ nổ lực cân bằng với màu đỏ sẩm () mà ra. Chữ Khí phía sau ngai Hộ Pháp trong Đền Thánh Cao Đài  chỉ rõ việc này.

Ngũ tạng lục phủ đều được tiếp tế dòng sinh lực từ lá lách[6] để có thể hoạt động được. Sau khi các hạt ấy tuông hết năng lực ra để cung ứng năng lượng cho mỗi cơ quan đang hoạt động, chúng được bài tiết ra ngoài từ các luân xa sử dụng chúng. Do sự tác động với ánh sáng, các hạt sinh khí đã được sử dụng ấy sẽ được thấy với các màu sắc khác nhau. Những hạt ấy lại sẽ được dòng sinh lực vũ trụ làm cho tràn đầy sinh lực để tiến vào một chu trình phục vụ mới.

Ta ăn là cốt để nhận sức sống gián tiếp mà các hạt ấy từng mang đến cho vật sống nay có tên là thực phẩm. Ấy là vật sống, ta không bao giờ ăn cái chi chết. Sự sống không phải chỉ do các chất hóa học mà thôi. Chất hóa học là phần thô nặng có tính ngũ hành còn hạt sinh khí này là sức sống chủ đạo có tính tam phân Fohat, Prâna và Kundalini.

Tinh thuộc Địa, Sanh quang tức âm quang, do Tinh- Khí-Thần (tức tam phân Kundalini, Prâna, Fohat) hiệp thành là thuộc quyền Tạo Hóa của Phật Mẫu. Khi Chơn Thần trọn điều ngự được đệ nhất xác thân thì Dương quang của Đức Chí Tôn sẽ đến. Nhơn sanh do tín tu vào Lý Pháp này mà lần hồi  tự mình tìm cho mình phương tu thích hợp.

7.1.6.      Trong phàm đưỢc thánh, trOng tịnh có đỘng

Sao gọi tịnh, dục?

Cái nầy tịnh thì dục là biến động. Ngược lại nguồn biến động sanh hoá cũng lại do nguồn tình điều hoà. Tuy vân nói là vô hình bởi nó nằm trongThái Cực qua Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi diệu hoá thì không lấy gì bàn nhưng lý pháp vẫn thấy biết chớ đâu phải tịnh nhiên vô dấu. Cái mà con nói là vô hình ấy là Thầy đó. (Không phải chỉ là chỗ ngự của Thầy).

Như vậy tuy vân vô hình vô ảnh vô tướng vô pháp mà vẫn biết chắc có Thầy. Ấy là con được tu mà tạm gọi là Lý Pháp Tín Tu. Bởi Lý Pháp có quyền đại biểu cho tinh thần. Do lý pháp mà tinh thần trở nên cao trọng hoặc thấp hèn. Cũng chính lý pháp nhận ra đặc tính của sự cao thấp ấy mà làm chuẩn thằng trong cơ tấn hoá. Nếu trong lý pháp không mặc nhiên thấu suốt thì lấy chi phân định cho cơ tấn hoá. Vậy hoà nhịp cùng Thầy là phương tu đưa các con đến xử sự toàn chu cùng với vạn vật đồng sanh.

. . .Ay là tự giác giác tha, hành cái Đạo nhơn luân mà khiến cho mình và bạn đồng sanh trở nên thiện mỹ. Vậy các con sẽ hỏi rồi Thiên Đạo ở đâu? Ở chính tâm các con ấy. Vượt qua sự so sánh, đố kỵ, phân biệt v. v. của phàm tánh thì tất nhiên lố dạng của chân trời thiên lương. Rồi một khi thiên lương khởi phát thì vạn sự tự nhiên sẽ được dung hợp thuận tùng Thiên lý để điều độ các con giải thoát mê tâm phục hồi ý chí và đi cho đến tận cùng nẻo Đạo.

Huyền vi. Huyền vi. Sự mầu nhiệm ấy là gì? Đó là sự trong sáng của tinh thần, sự cao thương của tình thương, sẽ dẫn lối cho các con đem được những ân điển của nguồn sáng tạo và yêu thương làm sinh lực cho chính mình và phải còn trang trải cho đồng sinh cùng vạn vật.

Thầy

Sinh lực thể hiện từ ba phần thân thể (đỏ ở cơ quan sinh hóa, xanh ở lá lách vàng ở tim) có thể được chuyển hóa đến ba phần tinh thần, tình thương và tâm linh. Cái mầu nhiệm, huyền bí tối linh của Lý Pháp Tín Tu vào Tạo Hóa Công Pháp nói như trên có thể chuyển ngoài, chuyển trong, chuyển tất cả và dẫn tới tinh thần, tình thương và sự sống thực sự cao hơn cho muôn loài.

Dù sao đi nữa, tại trình độ lý pháp tín tu của một bậc Giáo Hữu, chưa có được ban quyền Giáo Đạo. Giáo Thiện dĩ nhiên là được nhưng e khi bậc đã đến mức Giáo Hữu hay Chí Thiện rồi thì không còn ưa bàn luận về thiện ác nữa.

7.1.7.     TỈnh MỘng ThẾ

Xin chiêm nghiệm về các diễn biến sau đây mà thấu hiểu những ý tứ thể hiện trên đường cầu Đạo và dạy Đạo:

Ngày 15-12-1925 (âl. 30-10-Ất Sửu), hồn linh Quí Cao họa vận bài thi mà ông Thuần Đức xướng như sau đây:

THUẦN ĐỨC (xướng)

 

Mấy năm rồi cũng phủi tay không,

Ðường thế chiêm bao một giấc nồng.

Nặng nghiệp phong trần buồn với phận,

Lo bề trung hiếu thẹn cho lòng.

Trời cao chưa phỉ tình mây bạc,

Ðất túng càng khinh chốn chậu lồng.

Chờ gặp cố nhân lời dám hỏi,

Hỏi ra cho biết vận cùng thông?

Cùng ngày này, thi sĩ Bồng Dinh xướng và được Lục Nương họa thi:

BỒNG DINH (xướng)[7]

 

Dã Tràng ai dễ xét công đâu?

Bãi biển thường xe cát lấp đầu.

Xúc cát trải bao cơn sóng lượn,

Nhăn mày cười bởn khúc sông sâu.

Biết không nên việc nơi Trời nước,

Nào có nao lòng cuộc bể dâu?

Nhiều ít có danh trên võ trụ,

Kẻo mà thẹn với mấy bầy trâu.

Qua hai bài thi này, khách trần tỏ lời rằng chính mình đã từng cố gắng và thấy kẻ khác mãi miết thực hành Nhơn Đạo nhưng vẫn vô ích nên khinh chán cuộc thế.

Ngay trong ngày này, ông A.Ă. giáng dạy rằng:

Ngày mùng 1 tháng 11 nầy (16-12-1925), tam vị phải Vọng Thiên Cầu Ðạo. Tắm gội cho tinh khiết ra quỳ giữa Trời cầm chín cây nhang mà vái rằng: Ba tôi là:

Cao Quỳnh Cư,

Phạm Công Tắc,

Cao Hoài Sang.

Vọng bái Cao Ðài Thượng Ðế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.

Chúng ta thấy rõ ý tứ rằng Thượng Đế không chậm mở đường cho kẻ đã thức tỉnh giấc mơ trần thế và những danh nghĩa của nó. Nói khác đi, con đường Thiên Đạo Thầy mở ra đây không dành cho kẻ ham luyến cuộc trần. Nếu ham luyến trần thế thì cứ sống nhưng phải từ từ qua các đại chuyển thứ tư, thứ năm, thứ sáu và thứ bảy, lần lươt qua được lục thập thất Địa Cầu, Tứ Đại Bộ Châu, Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giới rồi cũng tới lúc giác ngộ.

7.2.       LÝ PHÁP HÀNH TU

Để thực sự tiến xa, không phải chỉ cần có đức tin hay có thể diễn giải các Lý Pháp là đủ. Dù trí huệ là quí, Đạo không phải chỉ là con đường mở trí huệ. Trước nó còn có con đường khai Địa Linh và sau nó là con đường lập giá trị cho loài người.

Con đường khai Địa Linh vốn dĩ sẵn có trong Tạo Hóa công pháp. Chơn pháp ấy hồn nhiên đến mức vô pháp. Chính cái hữu pháp của những giả chánh kinh làm nó mất cái hồn nhiên ấy. Sau khi Địa Linh (Kundalini) được khai để nâng cái sống đến tột mạnh, phải có tương thông với nguồn Trí Huệ (điển lực Fohat) và thiên lương mà phát triển lửa sống Prâna tạo tinh thần (gồm trí não và tâm linh) và thánh đức (tình Tạo Hóa bao la) đến mức tột phẩm[8].

Trí định thiên lương qui nhứt bổn,

Huệ thông đạo pháp độ quần sanh.

Đôi liễng ở Trí Huệ Cung

Câu đầu tiên là phận của mình đối với chính mình. Câu sau là trách nhiệm của mình trước tập thể, là thánh đức của mình sau khi đã thành công với chính mình. Đó là sự đem ra ứng dụng thiên lương của mình vào sự thực hành để tăng thêm tự tin tự kỉnh cho mọi người  mà lập nên Nhơn Hoàng, những ông trời tại thế đáng gọi là Thiên Hạ.

Nói tóm lại, con đường hành tu là sự lập quyền cho nhơn sanh để họ có thể khởi từ quyền hiệp tâm tập thể mà tạo tâm tư tín và Thiên tín, làm nền cho việc hiệp nhất Thiên Địa Nhơn trong bản thân và với khắp cả trời đất, cho chí tới chỗ cái thương yêu tự tâm của mình hỗn hòa vào vô cực.

Cho tới lúc LÝ PHÁP ĐẠT ĐƯỢC SỰ THUẦN CHƠN, linh tâm xuất hiện (do tuân thủ đúng luật thương yêu nhơn sanh trong sự chơn thật) tức là khiếu linh được mở thì mới tránh khỏi những sai lầm và bẫy rập nên có thể HÀNH TU độ nhân để đắc thế.

Tuy nhiên, đây mới là sự khai linh giác, chưa phải là sự câu thông trực tiếp, cho nên sự vận chuyển của qui luật âm dương Bát Quái của phẩm Giáo Sư còn trong giới hạn của bí pháp Thế Đạo mà thôi.

Thiên Ngươn Bát Quái Mạo (của Giáo Sư phái Thượng và  phái Ngọc) còn đóng kín, Hiệp Chưởng Bát Quái Mạo (của Giáo Sư phái Thái) chỉ mới cho thấy sự hiệp nam nữ âm dương chớ chưa là Thiên Địa âm dương.

Đã đủ khả năng hiệp nam nữ âm dương, Giáo Sư mới là người dạy Đạo cho chúng sanh, lo cho chúng sanh như anh lo cho em, cầm sổ bộ của cả tín đồ, lo việc tang hôn cho mỗi người.

Đối phẩm của Giáo Sư là Nhơn Thánh (ông Thánh có tâm người), khác với Thánh Nhơn ở mức cao hơn là người có tâm Thánh. Giáo Sư tiếp cận với nhơn sanh, lòng lẫn truất thương yêu hẳn là vô hạn cho tới khi tâm Thánh trỗi dậy tất thấy rõ còn phải đi xa hơn để đạt cho được Thể Pháp Thiên Đạo và bí pháp Thiên Đạo nữa. Cho tới lúc linh giác của mình thực sự được củng cố, hành giã tự thấy rằng các Lý Pháp Thế Đạo là không đủ nên bước qua mặt Thể Pháp Thiên Đạo, theo tâm pháp mà tầm không môn đặng đợi Như Lai.

Sự điều thân cho đúng pháp để có cảm ứng tinh vi và sự tham gia vào việc Phổ Độ là Lý Pháp Hành Tu. Trong Đạo Cao Đài, đó là việc của chức phẩm Giáo Sư[9].  Trên phẩm này là Phối Sư, phải về Tòa Thánh bảo thủ bí pháp[10], không còn trách nhiệm trực tiếp với nhơn sanh nữa.

 


 

[1] Lục căn lục thức nếu không bị ràng buộc trong lục trần thì có thể thành đạt sáu thứ thần thông, gọi chung là lục thông: Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhỉ Thông, Thần Túc Thông là mắt thấy, tai nghe, chân đi, không bị ngăn ngại bởi tường vách, khoảng xa, Tha Tâm Thông là biết tâm người khác, Túc Mạng Thông là biết mệnh số trước sau và Lậu Tận Thông là không còn lỗi tẩu lậu.

Năm thứ thần thông trước là do khéo tu hành thanh tịnh mà được, nếu gặp cảnh xao động thì không còn nữa nên dù có đủ năm thứ ấy cũng chỉ là bậc Quỷ Tiên, không nên tự  thị là đắc Đạo. Nếu không sẽ bị sa vào đường tà, dù được người ta trọng vọng vẫn có thể bị lầm lẫn và rồi cũng phải chuyển kiếp tu hành lại mà thôi.

[2] Xin xem các tiểu sử của Victor Hugo, Allan Kardec, Flammarion ở phần Phụ Lục.

[3] Je ne néglige pas à me manifester quand ces prières sont sincères. 17-12-1926 TNHT1.

[4] Các sách của Alan Kardec như The Spirits’ Book, The mediums’ Book, The Gospel According to Spiritistism, Heaven and Hell, Genesis có thể tìm thấy tại http://www.Sgny.org/  vàTạp Chí  Revue Spirite Journal d’Etudes Psychologiques mà ông chủ biên có thể tìm thấy tại http://Spirite.free.fr/.  

[5] Tinh bao nhiêu Thần bấy nhiêu, do nguồn Tinh lực trong bản thân loài mèo vốn mạnh hơn loài chuột nên ứng được với cái Thần mạnh hơn. Thiên nhiên trùng điệp những tinh  lực với kích cỡ  tinh tú, ngân hà. Cái tinh chất tột cùng nói trên là cái phải kiếm tìm.

[6] http://www.anandgholap.net/Slides_Chakras_AG.pdf

[7] Xin xem hai bài thi họa vận trong sách Đạo Sử của Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.

[8] Ngộ Phật miên bình như đã dẫn bên trên.

[9] Đây nói về phẩm cấp trong Đạo như những tiêu mốc đánh dấu từng giai đoạn tu hành mà thôi. Không buộc phải có áo mão phẩm cấp đó mới có thể tu đến mức nào đó. Lại nữa, từ một khởi điểm có vẻ như thấp thỏi, con cái của Thượng Đế đều có thể trực ngộ đạo pháp liên không gian mà vượt đi rất xa hơn những người còn phăng dấu thiệt hơn phải quấy trong vòng thời gian nhân quả.

[10] Có bí pháp khẩu truyền và bí pháp tâm truyền. Bí pháp tâm truyền mới là tâm pháp.

 

Trở về đầu chương 7

 

8. TÂM PHÁP

 

8.1. Tâm Pháp Lý Tu

8.2. Tâm Pháp Hành Tu

 

8.1.       TÂM PHÁP LÝ TU

Vật Pháp Lý thực nghiệm chỉ để ta tạm vận dụng được thế giới của tâm thức phàm phu này. Tâm Pháp Lý mới giúp trực ngộ những điều cố chấp hay tập quán làm mình đánh mất sự sáng của tâm và sự sống của vật tự bao giờ.

Xưa, Phật Thích Ca đã dùng tâm pháp lý dẫn giải cho tôn giả A Nan bỏ đi tâm vọng chấp phàm phu mà trở về với chơn tâm thường trụ và thể tánh trong sạch của mình. Ngài đã diễn giảng để chuyển tâm pháp theo lối này rất nhiều nhưng rồi kinh Phật cũng có ghi lại mẫu chuyện sau đây:

“Thế Tôn sắp nhập Niết bàn, Văn Thù thỉnh Phật tái Chuyển pháp luân.

Thế Tôn quở rằng: Văn Thù! Ta bốn mươi chín năm trụ thế” chưa từng thuyết một chữ. Nay ngươi thỉnh ta tái Chuyển pháp luân, vậy cho ta đã từng Chuyển pháp luân sao?

http://thuvienhoasen.org/duyluc/congancuaphatthichca.htm 

Hóa ra Ngài không muốn các đệ tử chấp vào những văn tự tùy duyên hóa độ ấy mà nên trở về với sự tự chủ tuyệt đối của mình để dùng tâm pháp mà hiểu điều ẩn dụ từ các lời đó. Các lời nói “cùng cực tự nhiên”, “tâm vô sở trụ”, “mình có quyền tự chủ tự định phận cho mình”, “Thầy là các con, các con là Thầy”, đều chỉ việc trở về với nguồn chơn tâm thường trụ vô ngôn tướng.

Trong Tân Pháp Trời Người hiệp một của Tam Kỳ Phổ Độ này, Tâm Pháp Lý Tu lại có thêm một nghĩa nữa. Đó là TÂM PHÁP TRỌNG CUNG TRONG HÀNH TÀNG NHIÊN CHƠN.

Tâm pháp lý này nhằm:

Đã đành Lý có nhất quán tâm mới có kiên định nhưng có kiên định Tâm Khí vào chỗ trung hòa thuần tính thì Vô Cực và sau đó Thái Cực mới xuất hiện. Quá sức tầm tu có thể lại thành ra tù tâm, tuy có tâm kiên định nhưng thiếu tâm đại hùng, không buông bỏ được Lý để câu thông với Linh thì không đủ an định mà có Thần.

Việc chuyển trí thành linh và biến tâm thương yêu thành tâm trực giác thực là những bước đột phá mà cũng hàm ngụ lớp lớp công phu tự tỉnh để theo LÝ THIÊN CUNG mà

-        GIỮ VỮNG TINH THẦN QUI NHỨT,

-        CHƠN THÀNH LINH ỨNG để sự HÀNH HIỆP thuận với CAO MINH.

Qui nhứt không chỉ có nghĩa là qui nhứt tôn giáo mà là qui nhứt đức tin vào nguyên ủy của sự sống và sự linh nữa.

Thi thố các công trình văn hóa để giáo dưỡng quần chúng tất phải bày lẽ trọng khinh đúng sai làm chuẩn thằng cho sanh chúng là việc của phẩm Giáo Sư. Đã thông suốt phần bí pháp Thế Đạo, bậc Phối Sư nay bước qua đường tu Tâm Pháp Lý để học Lý Thiên Cung chứ không phải Lý Thế Gian nữa. Lý Thiên Cung từ Thiên Cung mà có, qua sự tâm truyền tuy không dấu tích cho người ngoài nhận biết nhưng kẻ trong cuộc biết chắc là có.

Trước (ở phẩm Giáo Sư) thì hướng vào mục tiêu chia sống và ổn định quần chúng nhưng bây giờ lại hướng vào bí mật của cái sống để tiến lần đến mục tiêu Thượng Sanh.

Câu kinh sau khi được Cửu Chuyển

Nơi Kim Bàn vàn vàn ngươn chất,

Tạo hình hài các bậc nguyên nhân

là để nói về năng lực Thượng Sanh đó vậy.

Hướng vào sự minh triết về cái sống và cái linh, chủ của cái sống ấy, là cầu Đạo vô thượng. Sự minh triết càng rõ rệt soi thấu nhiều cảnh giới bao nhiêu, Đạo càng gần với nguồn cội bấy nhiêu. Đạo ấy ở trong tâm (trái tim) của mình. Không phải là tự tâm mà là tự tâm chứng, con tim của mình có thể nói cho mình biết mình đúng sai lệch lạc nhiều ít ra sao.

Sư Hư Vô, ông Trời, ngự tại con tim chơn thật của mình. Mình có thể được điểm Đạo tại não, tại tim hay tại bộ sinh dục nhưng Sư Hư Vô vẫn ngự tại tim để giữ thế quân hòa. Nếu vọng cầu nơi một pháp tu nào đó mình tin nhưng không giúp mình giải quyết thông suốt được các hoàn cảnh thì không đến được Vô Cực, không có được Thái Cực, không mở được cái sáng của mình để soi đường mình đang đi. Thiên Nhãn là Khí Thái Cực, là sự làm chứng. Thiên Nhãn không tầm lý pháp để tự minh chứng cho Thiên Nhãn.

Bát Quái Mạo của phẩm Phối Sư và Đầu Sư đã bung nở ra, ý nói đã có sự khai mở các khả năng của Thể Pháp Thiên Đạo, vận dụng được Hà Đồ Lạc Thơ để đào tạo được Âm Quang và mở được con đường để có thể tiếp nhận Dương Quang cho mình.

Đầu Sư ứng phẩm Địa Tiên tức là đã nắm được bí mật của sự sống vật thể nhưng phải đến phẩm Chưởng Pháp ứng phẩm Nhơn Tiên mới nắm được sự bí mật của sự sống con người.

Các bước đi ấy không khó cho người có tâm thoát tục nhưng với kẻ còn nhiều bợn trần, có lúc phải vày sành đạp sỏi, kiên trì qua nhiều gai chông khổ hạnh để vượt thoát các vọng chấp của thế gian và của chính mình.

Tuy nhiên, như đã nói ở trang 153 và 154, Chánh Pháp Nhãn không do ta, không do kẻ khác, không do chúng sanh, không bên này bên kia hay ở chặn giữa mà là do nhân duyên thôi. Nhân nơi tâm Qui Phục ngôi Thái Cực và Minh Thương, được ngộ duyên Đấng ngự ngôi Thái Cực chủ trì cơ tận độ thì có thể có kết quả. Tạm dụng ngôn Qui Phục ngôi Thái Cực nhưng ấy không phải là một Pháp. Nó là việc tự đến nếu có Minh Triết, từ đó có Vô Cực. Nếu hiểu rằng đó là nhất nhất do lệnh Thầy truyền dạy chẳng dám sai lời thì cũng đúng nhưng sẽ có lúc có câu hỏi Thầy truyền dạy cách nào, làm sao để biết chắc đó là Thầy?

Cho nên Minh Triết ® Vô Cực ® Thái Cực, đó là một đường đi giúp mình chắc bước. Minh Triết đây là nói gồm cả Cao Minh và Triết Tâm như đã trình bày ở hình 8 trang 55.

Ngôi Thái Cực của Thầy là chi? Một lần nữa, xin hãy xét kỹ các lời sau đây để hiểu cho tận lẽ:

Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn-Khôn Thế-Giái nầy; mà nếu không có Hư Vô chi khí thì không có Thầy.

TNHT 1, 13 Tháng Sáu Bính Dần (Jeudi 22 Juillet 1929)

Chi-chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hể có sống, ắt có Thầy. Thầy là cha của sự-sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.

TNHT 2, Năm Mậu-Thìn (1928)

Thầy là Cha của sự sống. Nói rõ hơn, sự sống vật hình thuộc Hậu Thiên thể hiện trong Âm Quang do phép Tạo Hóa của Phật Mẫu còn sự sống tinh thần bất tử thuộc Dương Quang của Đức Chí Tôn. Quỉ Vương thường nhân danh sự thuần khiết để ngăn cản phép Tạo Hóa độ Chơn Thần nhất vảng nhất lai này, người tu nếu lầm nghe theo đó sẽ cạn tâm yêu thương và mất hẳn linh tâm.

Buổi Bạch-Ngọc-Kinh và Lôi-Âm-Tự lập pháp " Tam-Kỳ-Phổ-Ðộ ", Quỉ vương đã khởi phá quấy chơn Ðạo. Ðến danh ta nó còn mượn, duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.

TNHT 1, Dimanche, 22 Aout 1926 (15 tháng 7 năm Bính Dần)

Tại Đền Thánh, Thiên Nhãn (Khí Thái Cực) được vẽ trên sao Bắc Đẩu của Quả Càn Khôn. Cây đèn bên trong Quả Càn Khôn ấy là đèn Thái Cực. Vậy ta có thể nói điểm Nhất Nguyên của Càn Khôn là ánh Thái Cực còn Khí Thái Cực thì hiện ra ngự ngôi Bắc Đẩu. Có Khí Thái Cực là có Thầy, không phải chỉ là ngôi của Thầy.

Quỉ Vương không dám ngự vào ngôi ấy vì đó là cửa tử của kẻ có tâm ác. Hình ảnh trước cửa Đền Thánh cho thấy rõ: Thiện thì đứng được trên tòa sen còn Ác thì thấy đó là lửa đỏ.

8.2.       TÂM PHÁP HÀNH TU

Trước có phổ nên mới có thông - càng phổ thông Chánh Pháp Chơn Truyền[1] càng hiểu biết tinh vi Chánh Pháp ấy.

Nay có truyền nên mới có đạt.  Càng hộ hiệp truyền trao Chơn Pháp Chánh Truyền[2], càng đến gần với cảnh giới vô ngôn mà tinh vi hòa nhập thêm vào tâm pháp. Hiệp Chưởng Mạo của  tiểu phục Giáo Tông thể cho sự hiệp nhất thiêng liêng hữu hình.

Hiệp Thiên để hộ thế, hiệp thế để hiển chơn tiến hoá. Hiệp chơn truyền là việc của Giáo Tông nơi Cửu Trùng Đài còn hộ chơn truyền là việc của Hộ Pháp nơi Hiệp Thiên Đài. Tuy nói là hộ hiệp nhưng không có sự tị hiềm việc lớn việc nhỏ thuộc Cửu Trùng Đài hay của Hiệp Thiên Đài mà thành ra hai phe đứng ngoại cuộc chờ nhau.

Cả hai đều cộng tác để độ nhơn cũng giống như quyền Chí Tôn Phật Mẫu hiệp nhất vậy. Cùng nhau hộ hiệp nhưng mỗi hành tàng hộ, hiệp đều có các mặt lý truyền, tâm truyền và phương hành độc đáo riêng. Cũng giống như có việc thì nhờ Cha nhưng cũng có việc phải nhờ Mẹ vậy.

Phải tinh vi tìm biết và cảm  nhận những gì Cha làm và những gì Mẹ làm thì mới có thể thực hiểu và hành cái đạo vừa Hư Vô vừa hữu hình của Thầy được.

Hư Vô để hóa,

Hữu tướng để sanh.

Hóa là do Ngươn Thần,

Sanh là do Ngươn Khí.

Chất nào ứng với thần ấy, cũng giống như có chất thì dẫn điện hay phóng xạ nhiều, chất thì kém vậy. Phải nhờ Giáo Tông và Hộ Pháp để cải thiện và tiếp nhận cả hai thứ Thần Chất Phật hòa này mà chuyển tánh chuyển chất từ Hậu Thiên ra Tiên Thiên.

Tiên Thiên thuộc về những gì diễn ra trước lúc xuất hiện ngôi Thái Cực còn Hậu Thiên thì sau khi có ngôi Thái Cực xuất hiện.

Giáo Tông               Trước Thái Cực

Hộ Pháp                 Sau Thái Cực

                                          Lý Thái Bạch

…Bây giờ Bần-Đạo giảng về Tam-Bửu, 3 cơ-quan tạo nên hình thể con người; Chơn-linh ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên-thiên-khí; Chơn-thần do Hậu-thiên-khí kết-thành; còn xác thịt thì do vật-chất mà nên. ..

Vật-chất thì mắt ta thấy,

Mùi vị là Hậu-thiên-khí.

Năng lực là Tiên-thiên-khí.

Đức Hộ Pháp, 15 tháng Hai nhuần năm Đinh-Hợi (1947)

Hộ Pháp ngự trên Thất Đầu Xà tượng hình điều ngự Thất Tình Lục Dục thuộc Hậu Thiên Bát Quái Đồ, dạy sự điều ngự các phẩm tính Hậu Thiên để Tiên Thiên Khí được trọn phát huy, đó là đào tạo cho nhơn được tận thiện, vật được tận mỹ () và mở ngỏ câu thông với các nguyên tính chơn thật hơn nữa của các khối đại tinh thần ().

Bốn đầu rắn Giận Ghét Buồn Muốn bày lộ ra phía trước tượng cho phần hình thể còn ba đầu rắn ngóc lên phía sau lưng tượng cho phần tâm linh. Bốn điểm tượng hình các góc của hình vuông cũng tượng cho các địa số 2,4,6,8 trong đố hình Lạc Thơ (hình 23 và 24 trang 80 và 81). Phải chế ngự các địa số này để các Thiên số 1,3,5,7,9 trọn phát huy.

Ngai Giáo Tông tượng hình điều ngự Long Lân Qui Phụng thuộc Tiên Thiên Bát Quái Đồ thuận chuyển Tiên Thiên Khí cho chúng sanh. Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước và Huyền Võ là tên của bốn tú ở bốn phương trời đất.  Trong Hà Đồ, đó là phương Đông Tây (3,4) và Nam Bắc (2,1).

Muốn vào Đền Thánh phải đi qua Hiệp Thiên Đài, tức là trước phải biết biết nghịch chuyển Hậu Thiên Khí để đào tạo Âm Quang, chứng bực Tiên Ông rồi sau mới học pháp thuận chuyển Tiên Thiên Khí mà thành công trong các bước Đại Bồ Tát và Ma Ha Tát.

 

Giáo Tông là tinh thần của Đạo mà Hộ Pháp là nguồn cội. Tinh thần sản xuất bởi lý chơn. Nguồn cội đào luyện theo tính chất của lý chơn. Ngược lại thì sự đào luyện theo tính chất của lý chơn ấy là Thầy. ..[3]

Nghĩa là :

Giáo Tông  dạy,

Hộ Pháp chuyển,

Nhơn sanh thực hành.

Cái quyền pháp để nhơn sanh nương theo mà tu thì gặp đặng ThẦy mà Thầy không phải là cái quyền pháp đó. Tỉ như ông thầy giáo dạy làm cái cưa. Ổng diển tả ra và chỉ dẫn làm thế nào để đặng cái cưa như thế. Rồi về anh  học trò mới tìm ông thợ mộc hỏi qua. Bởi thuở giờ chưa thấy.

Ong thợ mộc ổng mới dẫn giải thêm kích thước, dụng cụ, phương tiện cần có để làm nên cái cưa. Anh học trò kết hợp cái khuôn mẫu, phương thế lắp ráp thì thành cái cưa thì biết rằng:

Thầy ở trong cái sự vận dụng ấy[4] mới hình thành đặng (thực hành).. .

Hộ Pháp là ông thợ mộc,

Giáo Tông là ông thầy giáo.

                                          (Quyền Chí Tôn)

Quyền Hộ Pháp gồm cả quyền quản pháp và quyền hành pháp nữa.

                                          Đức Chí Tôn

Quản là điều hoà, tạm gọi là trật tự chớ không phải cai trị.

Chí Tôn định quyết Thái Bạch chủ về phần đào luyện các lương sanh. Đó là Thiên Định.

Kim Tinh Thái Bạch xuất LINH HUỜN. Huờn?

Không có hình lý như các con tưởng vậy. Huờn = hoàn mà cũng là hoà cộng hiệp.

Khí là điển lực, Thần cũng là điển lực.

                                          Hộ Pháp

Tinh là do Chơn với chúng sanh mà có, Thần do Chơn với các Đấng cao trọng mà có, tinh thần của mình do Lý của mình chơn với tâm của mình mà có. Trí và tâm (gồm cả cảm xúc của tình cảm và cảm giác của thân thể) có thuận nhau thì tinh thần được thể hiện và tùy mức tinh thần ấy mà Thầy cho đào luyện tiếp.

Hộ Pháp chủ về Khí và quản pháp định an sanh chúng để đào độn nguyên khí mà định vị. Giáo Tông chủ về Thần, do cộng hiệp mà  hộ Thần để an nhiên hay tri lý.

Lửa sống trong vật chất là địa nhiệt năng như các phún thạch hỏa diệm sơn hay luồng hỏa xà Kundalini. Lửa sống ấy trong cõi bán hữu hình là điển lực. Có đến ba mươi sáu đường điển lực, mỗi đường còn các nhiều lối phụ nữa. Các đường điển lực cõi cao có tính cách hộ trì, biểu lộ sự đồng cảm và thanh lọc một cách vô vi, bí nhiệm.

Ngoài Thiên điển còn có Thiên thủy nữa. Cả hai lửa nước ấy mới tạo ánh Thiên quang (Dương Quang và Âm Quang) ngời sáng.

Trong giai đoạn đầu Thầy đã cho thị hiện Giáo Tông vô vi Hộ Pháp hữu hình. Sự hiệp nhất được thiêng liêng hữu hình làm cho Đạo Tâm trong giai đoạn Tâm Pháp Hành Tu này là Thiên Tâm ngời sáng của bậc đã thoát khỏi buôc ràng chớ không phải như trường hợp của một đồng tử không tự chủ.

Xưa nay từng có các khả năng hoặc như đồng tử để có giáng linh, giáng thần, giáng tinh hay giáng bút, hay như sự thông công theo các ngã thông thần, hội tâm, hiệp tâm, thông cảm.

Trong sự hứng khởi phát minh của các khoa học gia, các nhà phát minh muốn vươn tâm thức mình tới các cõi tiến hoá cao hơn để tìm phương cải thiện, canh tân cũng có các sự mặc nhiên truyền đạt và hộ hiệp này. Các hoạt động của các Hàn Lâm Viện về y khoa, văn học, huyền linh, thiên văn, địa lý… cũng vậy.

Sự Hiệp Thiên có động lực là hiệp thông chơn chất tạo lập Thiên Năng hay truyền đạt Thiên Pháp. Nhưng nếu những đồng tử có khả năng hiệp Thiên, theo một hay nhiều lối trong ba mươi sáu lối Thiên điển, tự cho như vậy là huyền diệu phi thường mà không cụ thể đào luyện tánh đức và bản thân trong hành tàng Tạo Hóa thì Cực Lạc Thế Giới không vào được, cửa Bạch Ngọc Kinh vẫn cứ đóng mà không biết do đâu, dù có lúc đã được sử dụng một cách đắc lực, vẫn không chắc là mình đã có Thiên Tâm ngời sáng của bậc đã đạt Đạo.

Câu chuyện các chị em đồng tử  Kate Fox (18371892), Leah Fox (18141890) và Margaret Fox, còn được gọi là Maggie) (18331893) , ở Hydesville, New York cho thấy rõ điều này. Sau khi nổi tiếng về các khả năng câu thông với hồn linh, về cuối đời, Kate trở nên nghiện rượu, Margaret công bố là mình đã lừa bịp công chúng và họ đã chết trong cảnh túng quẫn.

Ngay cả việc có thần thông cũng chưa hẳn là chánh pháp. Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nhắc nhở điều này rât rõ ràng. Con đường chơn chánh pháp nương theo sự tương hoà với chơn tâm từng cá thể, địa phương mà càng dìu sanh chúng càng bước bước càng cao. Có thể hữu ngôn truyền đạt khi còn trong giai đoạn Lý Pháp, cũng có thể vô ngôn truyền đạt, dìu dẫn nữa. Càng dụng Linh, Linh càng phát triển.

 Điều phổ truyền trước nhất là đào tạo tâm tự kỉnh để việc hành sự của mỗi người được như nhiên nhất quán mà không cần có sự kiểm soát nào từ bên ngoài. Có tự kỉnh mới dám tin rằng vũ trụ bao la tới đâu tâm ta cũng có thể bao la tới đó và tin được như vậy là đã bắt đầu đề chân vào con đường Tâm Pháp Hành Tu không chấp vào lý nữa.

Theo Lý Thiên Cung, không cố chấp vào Lý pháp hữu tướng của thế gian thì hành sự mới nghiêm trang, cảm ứng mới tinh vi và không đi ngược lại tinh thần của Lý Pháp vốn là Phật đại hùng đại lực đại từ bi[5].


 

[1] Chánh pháp chơn truyền là thể pháp lập quyền thực sự do Thiên ý hướng dẫn. 

[2] Chơn pháp chánh truyền là bí pháp lập tông đường thiêng liêng.

[3] Lý chơn làm sản sinh tinh thần: Lý vói tới đâu, tinh thần được đào tạo tới đó. Hộ Pháp là nguồn cội sanh khí (Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ). Sanh Khí do tinh thần mà hiển lộ. Thầy tùy từng mức chơn lý của chúng sanh mà đào tạo tinh thần bằng nguồn cội Khí Lực. Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một cùng nhau trong tính chất của lý chơn, tất nhiên xuất hiện năng lực của Thầy. Thầy dạy ngày 23-12-1931 (TNHT2): Thầy đã ban quyền-hành Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một.

Hiệp một trong sự nhịp nhàng của công trình đào tạo vạn linh.

Tinh thần không giới hạn. Nguồn sanh khí vốn là vô cực. Dù là Ngươn Tinh hay trược tinh cũng do âm dương mà có. Tinh thuộc thể, thần thuộc linh. Do hợp nhất với nguồn Nhất Nguyên được tới đâu mà có tinh tới đó. Vậy có thể nói do hòa mà được san sẻ cái Ngươn Thần. Trược Tinh và Thức Thần (số 6 và số 2 trong đồ hình Lạc Thơ) là thuộc thế giới vật chất cõi thấp.

[4] Khí Thái Cực hiển lộ.

[5] Đại hùng, đại lực, đại bi là hiệp tạo Phật lực oai. Đại từ là Phật lực hộ.

Đại hùng là không để cho trí của bực trên chói lấp trí của mình. Trí huệ của bậc Thanh Văn bị trí huệ của bậc Độc Giác chói lấp, trí huệ của bậc Độc Giác bị trí huệ bậc Bồ Tát chói lấp, trí huệ của bậc Bồ Tát bị trí huệ của Phật chói lấp. Trí huệ Phật không để bị ai chói lấp nên là đại hùng.

Đại lực hay Thượng Sanh lực là do dũng kiện bất thối và tinh tấn mà có.

Đại Bi là do mục tiêu độ chúng mà kiến lập Pháp Giới để chúng sanh lần hồi trụ trong nhất tướng cho chí đến vô tướng.

 

Trở về đầu chương 8

 

TỔNG LƯỢC

Lý Pháp xiển dương cái sống vật chất và tâm linh trong tinh thần trong sáng vô biên  của ông Cha chung và thánh đức Tạo Đoan vô tận của bà Mẹ chung của muôn loài. Tâm Pháp cũng nhằm về với cái sáng Chí Tôn và cái Thánh Đức Phật Mẫu ấy chứ không phải khác. Chỉ có điều ở mức Tâm Pháp thì sự cảm ứng với nguồn sáng và nguồn thương ấy được tinh vi và quân hoà hơn, vì chủ nơi phần tâm quân hoà giữa tinh  thần và thể chất. Lại nữa, Lý chỉ là Pháp (từ Lưỡng Nghi trở ra), không phải là Phật.

Chỉ do lấy tâm linh vi chủ mới giải được chỗ mâu thuẫn giữa các điều cố chấp vào lý pháp của tứ tướng:

Nếu Lý Pháp và Tâm Pháp thiếu cái cực kỳ tự nhiên thừa thụ từ Hai Đấng Phụ Mẫu Vạn Linh - tức là Thần tự chủ và Khí yêu thương - thì cho dù hành tàng hay lý thuyết có vẻ cao thượng thanh bai thế nào đi nữa, đó chỉ là Pháp tạo ra những nô lệ cho tín niệm dị đoan mà thôi.

Phát tâm đại thừa và tối thượng thừa là phát tâm học theo cái linh minh Thái Cực của Đức Chí Tôn. Ưa pháp tiểu thừa là ưa trình cái mình tưởng là công quả nhưng thực ra là thiếu sự sáng sà sự thương.

Lý thế nào Pháp thế ấy. Hành pháp thế nào, sự đạt sẽ thế ấy. Nghiên cứu kinh văn theo phương pháp của người nghiên cứu văn học sử rất khác với sự nghiên cứu Phật tri kiến. Nghiên cứu Phật tri kiến khác với sự nghiên cứu pháp khai minh đăng để gặp Phật.

Càng đạt Thiên Lý (Chơn Lý Tiến Hoá trong trời đất) càng hiển Chơn Chánh Pháp cho vạn vật tiến hoá. Không đạt Thiên Lý thì là Giả Chánh Pháp (như Đạo Thể Pháp mà không có Đạo Bí Pháp) hay thậm chí là tà pháp (không có Đạo lý chi cả, chỉ là vọng tưởng hay kết luận từ những quan sát phiến diện).

Thiên Lý, Chơn Lý hay Đạo Lý vẫn là một. Tầm Đạo là tầm chơn, tầm lẽ sống vĩnh viễn Trời ban, cũng là sự tầm về nguồn cội của Vạn Linh.

Các trường phái tư tưởng, khoa học hay tôn giáo, thảy đều là những nổ lực tầm chơn, mỗi mỗi nhận thức hay phát biểu tuy có phần hơi khác nhau (thậm chí có vẻ nghịch hẳn nhau như duy vật và duy tâm) nhưng cùng có mục tiêu đóng góp vào sự cứu khổ chúng sanh, khai mở tâm trí và khả năng của mọi cá thể, tức là cùng nhằm vào sự tiến hoá của Vạn Linh. Tuỳ chọn góc độ quan sát có khác nhau nên có nhận xét, kết luận khác nhau. Tuy mỗi nhận định đều có thể là thực nhưng riêng mỗi kết luận không đủ mô tả được toàn thể, như người mù sờ tai voi nói con voi giống như cái quạt là không đúng.

Cho nên người có sự sáng ý thức được vị trí gần xa nguồn cội của từng lý pháp trên bậc thang tiến đến Thiên Lý hay Lý Thiên Cung. Lý Nhân Gian tuy có gần gủi với tâm tình nhân loại của từng địa phương từng thời kỳ nhưng không thể giải thích được mọi hiện tượng trong trời đất. Con người tuy được cho làm Chúa của cõi hữu hình nhưng tâm linh con người phải hòa thông với tâm linh Thượng Đế mới trọn phận đứng giữa của Tam Tài Thiên Nhân Địa. Chơn Tâm bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm mới là cái sáng thiệt của mình và Thường Thân Như Lai mới là cái sống thiệt của mình.

Như Đức Hộ Pháp từng nói:

…Cái sống của tinh thần là sống tự chủ, tự quyền, thì cái sống ấy không nguồn không cội, không luật, không hình, không bờ không cõi, sống theo gió theo mưa, theo Trời theo Đất, sống với càn khôn vũ trụ, sống với nhựt nguyệt tinh quang theo một khuôn luật với cái sống vô ảnh vô hình của các tư tưởng bậc Thánh hiền từ thượng cổ.

Kim Biên, 27-8-1936

Các bạn cả thảy đều biết sự Tu tâm nó chẳng phải để một cái tình cảm đối với vạn vật hay nhơn loại nơi mặt Địa Cầu, mà nó còn dắt ta đi, đi mãi con đường đi của nó vô biên vô tận, bởi nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ làm phương Tu của nó. Nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ làm nhà, làm căn bản của nó,…

Đền Thánh, 14-5-Nhâm Thìn / 6-6-1952

Hiệp thông với Lý Nhân Gian để hiểu cái khó của chúng sanh, nhưng hiệp thông được với Lý Thiên Cung mới để bước lên đường chơn tiến hóa. Tam Kỳ Phổ Độ là vận hội có sự Thiên Nhân tương hiệp ấy.

Mỗi sắc dân mỗi trình độ đều có tín ngưỡng và hầu như mọi tín ngưỡng đều nhằm vào Đức Thượng Đế Tối Cao chủ tể của muôn loài. Dù còn xa hay đến được gần hơn với Ngài, mỗi kinh nghiệm tâm linh đều là một nguồn hứng cảm bất tận và chỉ cần có hai người cùng tin vào một việc gì, đức tin ấy sẽ truyền sang kẻ khác. Khi cao trào đức tin của một tôn giáo đang mạnh, mọi sắc thái sinh hoạt xã hội đều mang dấu ấn của đức tin ấy.

Các trường Chơn Lý từ thử đều cùng dạy về sự sống và tiến hoá của vật hình và tâm linh nhân loại. Tùy từng ngươn từng chuyển mà các trọng điểm giáo huấn của những Thiên Sứ lập Đạo có khác nhau nhưng chúng có thể nối tiếp hay bổ sung cho nhau. Cho tới cuối hạ nguơn của mỗi chuyển thì chính Thầy lại đến để thống nhất các mối Đạo ấy, mở kỳ thi chung tuyển rước các bậc từng được gởi đến thế gian này trở về ngôi vị cũ và lập lại cơ đời cho cuộc tiến hoá của chuyển mới.

Về ngôi vị cũ là về với tông đường mà Đức Chí Tôn đã sắp định sẵn do Đạo pháp như nhiên (lá rụng về cội), còn lập cơ hiệp Thiên độ thế là lập Đạo quyền hiến định thuận nhơn tâm hiệp Thiên ý.

Nay là lúc các tông đường như của Phật Thích Ca, Phật Quan Âm, Đức Chúa Jésus,… đồng  nổ lực lập Đạo (Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh) tạo Đời ( Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên) để cứu độ sanh chúng khỏi những khổ nguy trong vòng thúc phược của cái ghét và cái chết (Trụ căn quỉ khí cửu tuyền) mà mở rộng cõi Trời (Quảng khai Thiên Thượng tạo quyền chí công). Cõi trời là các cõi tinh thần và hình thể tinh vi hơn tầm thấy biết của giác quan thế gian này nhưng rất cụ thể có thật so với các sự thấy biết trên cao hơn.

Mỗi trường Đạo (hay trường chơn lý) lập ra đã triển khai rất nhiều điều đáng học hỏi. Ở mỗi trình độ tâm linh đều có các giáo pháp triễn khai chi tiết nhưng duy từ nơi Đạo trường của Đức Chí Tôn lần này mới xuất hiện sự phân định Pháp Quyền rõ nét để cơ Đạo được ổn định tiến hóa nhiều đời sau.

Nay Thầy đến lập lại chơn chánh pháp độ chúng: Chánh Truyền Chơn Pháp là thuộc về bí pháp lập tông đường thiêng liêng như nhiên được dạy sau giai đoạn Chơn Truyền Chánh Pháp vốn là thể pháp lập quyền hiến định, cho có thống nhất tư tưởng và hiệp đồng sinh hoạt.

Phần Phụ Lục sau đây là những trích lục các công trình nghiên cứu được phổ biến trên mạng internet vể một số các phong trào tín ngưỡng hay các nhân vật đặc biệt (mà nổ lực tầm chơn của họ từng xuất hiện như một gạch nối đến sự thống nhất tư tưởng và đức tin nhân loại) để độc giả tiện theo dõi. Vẫn còn một số các công trình đóng góp quan trọng khác không được trình bày nơi đây, như các thông tin về trường Arcane, về Osho, Sai Baba và các đạo sư hiện nay, xin quí độc giả tự tìm xem thêm. Người viết xin cáo lỗi về các thiếu sót ấy.

Trở về đầu chương Tổng Lược

Tiếp theo >

 

      HOME