TIỂU SỬ
CẢI TRẠNG NGUYỄN NGỌC
TRÂN
TỰ
MINH NHỰT
(1926-2020)
Sưu Tầm
:
Tỉnh Tâm

Lời Tựa
Tỉnh Tâm t́nh cờ có
được quyển Tịch Đạo Pháp Nhơn Luân Chi Đạo của Ngài Cải Trạng Nguyễn Ngọc Trân
tự Minh Nhựt. Xét thấy đây là một tài liệu hay, đáng để cho đoàn hậu tấn làm tài
liệu học hỏi về gương hành Đạo của những vị tiền bối.
Ng̣i bút của Ngài quá
sắc xảo, lời văn th́ bộc trực thẳng thắng, nếu đánh máy lại nguyên xi e rằng sẽ
đụng chạm, mích ḷng nhiều vị Chức Sắc đă qui Tiên hoặc c̣n đang hành Đạo. Nếu
được lược bớt những bất đồng đó th́ chắc rằng đây sẽ là một tài liệu rất quí cho
nền Đại Đạo.
Tỉnh Tâm mạng phép sử
dụng quyển Tịch Đạo Pháp Nhơn Luân Chi Đạo của Ngài làm tài liệu chính để viết
về tiểu sử Ngài, xin phép lược bớt một ít chi tiết nhưng cốt lơi câu chuyện, lời
văn, vẫn giữ nguyên không hề thay đổi. Tỉnh Tâm chia quyển hồi kư thành nhiều
chương theo từng thời kỳ và chỉnh lại cách xưng hô để người đọc dễ h́nh dung hơn.
Hy vọng rằng khi đọc xong quyển sách nầy chư Đạo Hữu sẽ có cái nh́n toàn diện
hơn về lịch sử nền Đại Đạo, về tính cách của một Chức Sắc Thiên Phong Hiệp Thiên
Đài đă hiến dâng cả cuộc đời ḿnh cho Đạo Cao Đài.
Nay kính
Tỉnh Tâm
_____________________________________________________
1.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
Ngài Cải Trạng Nguyễn
Ngọc Trân sinh ngày 20-8-1926 tại xă B́nh Ḥa, tổng Cửu Tư Thượng, quận Thủ Thừa,
T́nh Tân An (nay là Long An).
Thân Sinh Ngài là
Nguyễn Lễ Bộ, tuổi Nhâm Th́n (1892) là Hương Cả làng sở tại. Nhập môn vào Đạo
Cao Đài năm 1927, được phong Giáo Hữu phái Thái ngày 18-6-Đinh Măo, trọn kiếp
sanh lo lập công bồi đức được thăng phẩm Giáo Sư, Phối Sư, Quyền Thái Chánh Phối
Sư, Thái Chánh Phối Sư chính vị, và phẩm tột cùng là Đầu Sư (1-1-1972). Qui vị
năm 1976.
Thân Mẫu Ngài là Bà
Thái Thị Hảnh, tuổi giáp ngọ (1894), nguyên quán làng Phước Lâm, quận Cần
Giuộc-Chợ Lớn, từng góp công trong việc mở Đạo lúc ban sơ tại xă B́nh Ḥa, cho
mượn nhà làm Thánh Thất tạm lúc ban đầu để lo bành trướng cơ phổ độ. Thời gian
sau số tín hữu theo khá đông hợp cùng nhau góp công của xây thành Thánh Thất
liên xă. Bà lănh chức Chánh Trị Sự Đầu Hương Đạo nữ phái B́nh Ḥa, măn phần ngày
13-12-Ất Dậu (1945), được Đức Hộ Pháp truy phong Lễ Sanh năm 1946.
Gia đ́nh Ngài gồm có 7 anh chị em:
1. Người chị thứ hai tên Nguyễn Thị Nghiệp, sanh năm 1916, có chồng tên Phan Văn
Chi làm Đốc Học Trường Công Lập.
2. Người chị thứ ba tên Nguyễn Thị Chánh, sanh năm 1918, là nhạc mẫu của Bác Sĩ
Mạnh, hành sự tại bệnh viện Tây Ninh.
3. Anh trai thứ tư tên Nguyễn Hữu Đức, sanh năm 1920, làm Thông Sự ấp B́nh Phú,
xă B́nh Ḥa, bị Việt Minh giết năm 1948.
4. Anh trai thứ năm tên Nguyễn Hữu Ân, sinh năm 1922, giỏi Pháp văn, Anh văn, và
Nhật Ngữ, từng làm việc cho Phi trường Tân Sơn Nhất, sau làm thông dịch cho Đạo,
cũng bị Việt Minh giết năm 1947.
5. Anh trai thứ sáu là Giám Đốc Đạo Đức Học Đường Nguyễn Hữu Lương, sanh năm
1924, thọ phẩm Giáo Hữu phái Ngọc, có làm Dân Biểu Quốc Hội thời Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm và làm Nghị Sĩ Quốc Hội thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau 1975 bị
đưa đi học tập cải tạo ở Miền Bắc gần 9 năm, sau định cư sum hợp với gia đ́nh ở
Bỉ. Ông mất tại Bỉ năm 1991, được đưa linh cửu về nước an tán tại Cực Lạc Thái
B́nh.
6. Ngài, Nguyễn Ngọc Trân, sinh năm 1926, thứ bảy trong gia đ́nh.
7. Em trai thứ út tên Quang làm trưởng ty thông tin Bà Rịa, sinh năm 1932, sau
1975 sang định cư bên Bỉ, mất năm 1981.
Cả gia tộc đều có học thức và chiếm địa vị khá quan trọng trong xă hội cũng như
trong nền Đại Đạo.
___________________________________________
2. NHỮNG DIỄN BIẾN CHÍNH TRONG BƯỚC ĐƯỜNG HÀNH ĐẠO
Năm 1944 thi Thành
Chung xong, Ngài về căn cứ đóng tàu Nitinan ở Cầu Rạch Ông-Tân Thuận làm công
quả, thơ kư phụ trách với thân phụ Ngài nơi Hộ Viện.
Ngài là thơ kư đầu
tiên duy nhứt trong những tháng đầu tại văn pḥng Tổng Chỉ Huy do Ngài Giáo Sư
Thượng Tước Thanh đảm trách
Về Ṭa Thánh năm
1946, Ngài lập tờ hiến thân cho Đạo, tiếp tục làm Thơ Kư Nội Chánh.
Năm 1947, Ngài thi
đậu khoa Luật Sự thuộc Bộ Pháp Chánh.
Năm 1948, Ngài được
bổ nhiệm Pháp Chánh Sài G̣n.
Năm 1949, Ngài đắc
lịnh Pháp Chánh Rạch Giá.
Năm 1950, Ngài được
Đức Hộ Pháp cho phép đi Phnom Penh thể theo thỉnh cầu của Thân Phụ Ngài xin cho
một người biết Pháp Văn theo giúp trong việc giao tiếp với chánh quyền Cao Miên
và Pháp. Thân Phụ Ngài lúc nầy được Đức Hộ Pháp ban quyền Chủ Trưởng Hội Thánh
Ngoại Giáo. Nhưng khi ở Phnom Penh được vài tháng, do nhiều yếu tố khách quan đă
làm cho Ngài nản chí, Ngài đă xin nghỉ việc Đạo trong thời gian hơn 4 tháng.
Năm 1951, Ngài nộp
đơn xin được quay lại làm việc cho Đạo, Ngài được bổ dụng làm việc tại Bộ Pháp
Chánh.
Tháng 8 năm Tân Măo
(1951), Ngài được bổ Pháp Chánh Long Xuyên.
Tháng 8 năm Nhâm Th́n
(1952), Ngài trúng thăm một nhiệm kỳ Sóc Trăng-Bạc Liêu-Cà Mau và được thăng Sĩ
Tải cũng niên khóa nầy.
Ngày 29-08-Qúi Tỵ (dl
6-10-1953), Ngài được Hội Thánh ban khen công nghiệp do có những đóng góp tích
cực cho nền Đại Đạo.
Tháng 8 năm Qúi Tỵ và Giáp Ngọ (1953-1954), Hai lần liên tiếp Ngài trúng thăm
lănh Pháp Chánh Chợ Lớn-Tân An-Bến Tre.
Tháng 8 năm 1955 măn nhiệm về phục lịch Bộ Pháp Chánh.
Cuối năm 1955, tháng Chạp Ất Mùi, Ngài đính hôn với cô Trương Thị Trạng, tuổi
Bính Tư (1936), gia đ́nh ở căn cứ Đạo Châu Thành Tân An.
Năm 1956, Đức Hộ Pháp lưu vong sang Phnom Penh, t́nh h́nh trong Đạo lúc nầy rất
phức tạp, Ngài Tiếp Pháp, Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, giao cho Ngài lănh nhiệm vụ
Phó Ban Ḥa Giải.
Đầu năm 1957, Nhân lễ Vía Đức Chí Tôn ngày mùng 1 tháng 9, Ngài cùng với các vị
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài trong Ban Vận Động Miền Nam tổ chức một buổi lễ thật
hoành tráng để tuyên truyền Chánh Sách Ḥa B́nh Chung Sống của Đức Hộ Pháp khởi
xướng. Buổi lễ thành công tốt đẹp, nhưng sau đó bị chánh quyền Ngô Đ́nh Diệm đàn
áp, bắt bớ không thương tiếc. Một số Chức Sắc bị bắt, bị tra tấn dă mang sau đó
đă hy sinh như: Thừa Sử Phan Hữu Phước,
Giáo Hữu Thượng Liền Thanh, Sĩ Tải Phạm Duy Nhung...
Do t́nh h́nh căn thẳng, Ngài cùng với 4 vị Sĩ Tải phải lánh mặt xuống Sài G̣n
gồm:
Nguyễn Minh Ngời, Lê Quang Tấn, Bùi Văn Tiếp, Nguyễn Ngọc Tỷ và Nguyễn Ngọc Trân.
Sĩ Tải Tỷ bị kẹt chuyện gia đ́nh cuối cùng không đi chung được.
Tháng 4-1957, Ngài đă có mặt ở Phnom Penh diện kiến Đức Hộ Pháp sau nhiều tháng
ngày trốn né mật thám của Ngô Đ́nh Diệm.
Tháng 8 Đinh Mậu (1957), Ngài cùng Sĩ Tải Khỏe kiếm được việc làm ở Chup (thuộc
Campuchia).
Ngày 17 tháng 5- 1959 (mùng 10 tháng 4 Kỷ Hợi). Đức Hộ Pháp qui tiên tại Cao
Miên, Ngài cùng với các vị Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu lưu vong bên Cao Miên
chung lo đám tang cho Đức Ngài.
Năm 1960, Ngài chuyển chỗ làm từ Chup về Phnom Penh.
Ngày 15 tháng 1 năm 1960, Ngài viết một bức thơ dài để chia tay với người vợ đầu
tiên của Ngài, sau đó Ngài kết hôn lần hai cùng bà Trần Thị Huyện, tuổi Giáp Tư,
Hiền Tài Ban Thế Đạo. Cuộc chia tay với người vợ đầu cũng đă làm cho Ngài rai
rứt trong ḷng.
Tháng 4 năm 1966, lănh lịnh Ngài Bảo Đạo về Việt Nam công tác về chánh sách Ḥa
B́nh Chung Sống, Ngài xin nghỉ phép không được nên gây sự với Giám Đốc để rồi
nghỉ việc luôn.
Khoảng giữa năm 1967, Ngài Hiến Pháp vâng lịnh Đức Thượng Sanh viết thơ mời Ngài
Bảo Đạo về Ṭa Thánh làm việc. Cầu cơ thỉnh Giáo Đức Hộ Pháp chấp thuận cho cả
phái đoàn lưu vong theo Đức Hộ Pháp cùng về. Có sẵn thông hành, Ngài được phái
liên lạc với Hội Thánh để sắp xếp chuyến hồi hương. Ngài về Việt Nam trước đến
khoảng tháng 5 năm 1970, Ngài Hồ Bảo Đạo cùng cậu Cả, Sĩ Tải Cao cùng với gia
đ́nh và cậu Ḥa là cháu ngoại Đức Hộ Pháp mới về tới Việt Nam.
Năm 1967, khi về Ṭa Thánh Ngài được bổ dụng làm Trưởng Pḥng Minh Tra Bộ Pháp
Chánh. Mấy tháng sau kiêm luôn Pháp Chánh Thánh Địa, rồi kiêm buộc tội tại Pháp
Chánh Tư Quyển Cửu Trùng Đài và buộc tội tại Pháp Chánh Trị An.
Năm 1970, Lon Nol đảo chánh Sihanouk, Việt Kiều ở Cao Miên bị sát hại rất nhiều.
Số sống sót t́m đủ mọi cách hồi hương, tránh họa tiêu diệt. Công nhân đồn điền
cao su Chup thừa lúc rối loạn lấy xe camion của hăng mấy chục chiếc, chở nhau về
Việt Nam, được tập trung ở Phước Điền rất đông. Cảnh sống thật vất vả thiếu thốn,
mất vệ sinh dễ bịnh hoạn. Ngài cùng Sĩ Tải Tấn đă hết ḷng giúp đỡ những Việt
Kiều nầy.
Năm 1974, Hội Thánh mở Hội Nhơn Sanh, Ngài được đề cử làm Trưởng Hội.
Sau ngày 30-4-1975, sau khi hai ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Nguyễn Văn Hợi và Nguyễn
Văn Kiết bị bắt giam. Ngài được đề cử làm Quyền Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh.
Ngày 12-10-1976, Ngài làm đơn xin từ nhiệm chức vụ sau khoảng 6 tháng nắm Quyền
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, do có những mâu thuẫn nội bộ.
Đúng ngay ngày nộp đơn xin từ nhiệm, khoảng 12 giờ trưa Ngài bị chánh quyền Cộng
Sản bắt giam.
Ngày 15-6-1978 Ngài bị chuyển lên trại Cây Cầy ở 1 tháng 20 ngày rồi chuyển tiếp
về Bàu Cỏ ngày 5-8-1978. Thêm 40 tháng ở khám đường cộng chung trên 5 năm tù.
Ngày 25-11-1981, Ngài được trả tự do nhưng phải chịu thêm 6 tháng quản chế.
Ngày 22-1-1983, Ngài bị bắt giam lần nữa, kỳ nầy bị giam ở khám đường B4 Tỉnh
gần 10 tháng. Ngài được trả tự do ngày 12 -11-1983.
Ngày 17-12-1984, công an huyện Ḥa Thành bắt Ngài một lần nữa, bắt nguội v́ lư
do cơ bút, đến 4-12-1985 mới được thả, phải tŕnh diện mỗi tháng 2 lần tại Ban
Chấp Pháp.
Ngày 07-03-1985, Ngài bị Hội Thánh lúc nầy được đổi tên thành Hội Đồng Chưởng
Quản Hội Thánh Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh kư Huấn Lịnh trục xuất ra khỏi Đạo
cùng một số người trong nhóm Thiên Khai Huỳnh Đạo và Hội Thánh Tân Triều. Ngài
đứng đầu trong danh sách trong khi chẳng dính dấp ǵ tới tổ chức nầy.
Sau khi ông Thái Hiểu Thanh xin ra khỏi Hội Đồng Chưởng Quản do không chịu nổi
áp lực từ chánh quyền.Về Sài G̣n ông gởi “Ư niệm thơ” xin vô hiệu hóa chữ kư
trên văn bản trục xuất hay giáng cấp Chức Sắc, yêu cầu Hội Đồng Chưởng Quản
thông báo trên giảng đài Đền Thánh sau các đàn vía, sóc, vọng đại ư xin Chức Sắc
thông cảm hầu cứu văn mọi mất mát đă qua. V́ rằng Hội Đồng Chưởng Quản đă vượt
khỏi phạm vi quyền hạn được qui định trong Pháp Chánh Truyền.
Ông Thái Hiểu Thanh kư tên trục xuất chức sắc lúc c̣n đương quyền, nay nghỉ việc,
xin vô hiệu hóa chữ kư, về mặt pháp lư thật vô tác dụng, song có c̣n hơn không.
Như vậy việc trục xuất Ngài ra khỏi Đạo, xét về mặt Đạo th́ không có đúng luật.
Ngày 8-5-1986, Ngài mới mổ xong c̣n rất yếu nhưng chánh quyền vẫn bắt giam ở Bàu
Cỏ, đến ngày 11-11-1987 mới được ra tù nhưng phải chịu thêm quản chế 6 tháng,
tŕnh diện trên 10 tháng.
Năm 1997, ông Trịnh Quốc Anh, Viện Trưởng Viện Kiểm Soát Tỉnh lúc bấy giờ đă
nhiều lần binh vực cho Ngài, đối đầu với bên Công An, có kêu Ngài làm đơn gởi ra
Trung Ương tố cáo Công An Tỉnh đă bắt giam Ngài phi pháp. Ngài về có thảo một
văn bản dài 5 trang giấy, viết lên những suy nghĩ ưu tư của ḿnh, dự định sẽ gởi
đi. Nhưng bạn đời của Ngài sợ rằng “Trứng chọi với đá”, Ngài sẽ gặp nhiều phiền
phức thêm mà thôi nên đă lén dấu thư đó đi.
Người con gái của Ngài đang định cư bên Pháp có làm giấy bảo lănh cho Ngài sang
thăm con. Sau nhiều lần đi tới đi lui làm thủ tục rườm rà, bị từ chối mấy lược.
Cuối cùng Ngài cũng được chánh quyền cho phép xuất cảnh. Mặc dù thời gian xuất
cảnh ngắn ngủi chỉ có 3 tháng nhưng cũng đủ thấy đó là một niềm an ủi, động viên
lớn của cuộc đời Ngài, sau khi phải nếm trải biết bao nhiêu khổ cực trong ngục
tù cũng chỉ v́ nóng ḷng thấy nền Đạo chinh nghiên, lúc nào cũng mong muốn nền
Đạo sẽ được phục hồi mạnh mẽ.
Ngày 24-02 Canh Tư (17/03/2020) Ngài qui Tiên hưởng thọ 95 tuổi. Ngài chỉ được
hành lễ theo hàng Đạo Hữu, nhưng cũng c̣n một chút an ủi là phần mộ của Ngài vẫn
được an nghỉ tại khu dành cho Chức Sắc Hiệp Thiên Đài ở Cực Lạc Thái B́nh.
Sau đây xin mời chư Đạo Hữu vào phần chính quyển Hồi Kư của Ngài.
Xin được phép chia
quyển hồi kư của Ngài thành 5 giai đoạn:
Chương I: Thời Kỳ
Pháp Thuộc
Chương II: Thời Kỳ Đệ
Nhất Việt Nam Cộng Ḥa
Chương III: Cuộc Sống
Lưu Vong Trên Đất Miên
Chương IV: Thời Kỳ Đệ
Nhị Việt Nam Cộng Ḥa
Chương V: Thời Kỳ
XHCN
____________________________________________________
CHƯƠNG I
THỜI KỲ PHÁP THUỘC
1.THỜI NIÊN THIẾU
2.LÀM THƠ KƯ
3.THOÁT NẠN TRONG GAN TẤC
4.TRỞ VỀ QUÊ
5.QUYẾT L̉NG THEO ĐẠO
6.HỌA TAI ĐỖ XUỐNG GIA Đ̀NH NGÀI
7.VỀ T̉A THÁNH TÂY NINH
|
8.THI ĐẬU LUẬT SỰ (Thuộc Pháp
Chánh Hiệp Thiên Đài)
9.ĐẢM NHIỆM PHÁP CHÁNH SÀI G̉N
10.ĐẢM NHIỆM PHÁP CHÁNH RẠCH GIÁ
11.ĐƯỢC BỔ ĐI NAM VANG
12.NỔI NIỀM RAI RỨT
13.TẠM NGHỈ VIỆC ĐẠO |
1.
THỜI NIÊN THIẾU
Năm Ngài lên 7 tuổi,
gia đ́nh Ngài cho đi học trường Quận Đức Ḥa cách nhà 11 cây số. Thời Pháp thuộc
rất ít trường dạy chữ, học lớp Đồng Ấu tức lớp một cũng đến Quận mới có trường.
Lúc đầu ở trọ nhà ông
chủ chợ cách trường non một ngàn thước, ngày hai buổi đi học, lội bộ mấy ngày
giờ, Thân Phụ Ngài gởi nhà ông Giáo Nguyễn Văn Dữ, gần trường tiện hơn, vài ba
tuần mới được về thăm nhà. Từ đó bắt đầu nếp sống xa gia đ́nh luôn cho đến sau
nầy.
Học từ đồng ấu, dự bị,
sơ đẳng, lớp nh́ một năm rồi lớp nh́ hai năm ở tại Đức Ḥa. Khoảng thời gian nầy
dịp tết về nhà, Ngài gặp thân phụ hành Đạo ở Ṭa Thánh về chơi. Tuần Xuân nhựt,
gia đ́nh lớn nhỏ đều trai giới, qua mùng 2 tháng giêng anh chị đều dùng mặn,
riêng Ngài xin ăn chay luôn với thân phụ. Ít hôm sau thân phụ trở lại Ṭa Thánh,
ba anh em Ngài vào trường, Ngài vẫn tiếp tục dùng chay, tính được trên 3 năm.
Vấn đề nấu nướng chay mặn bất tiện cho chủ nhà trọ, thành thử việc ăn uống, bồi
dưỡng thất thường, hay đúng hơn căn duyên chỉ được chừng ấy nên Ngài đành ngă
mặn.
Độ năm 1937, do ḷng
tốt của anh rễ Ngài là Phan Văn Chi, Giáo viên lớp nhất trường Tiểu Học Hồng Ngự
(Châu Đốc) muốn dạy kèm thêm, thân mẫu Ngài cho đổi trường đến Hồng Ngự học lớp
nhất.
Năm đó gần đến ngày
thi tiểu học (CEPCI) anh chị không muốn Ngài nghỉ học trong lễ thành hôn của anh
Đức, sợ mất bài vỡ không cho về B́nh Ḥa, Ngài lén xuống cano sang Tân Châu, qua
Châu Đốc rồi mua vé đi xe đêm về Chợ Lớn, giữa khuya t́m chỗ trọ, sáng hôm sau
đáp xe về nhà, gây ngạc nhiên cho cả gia đ́nh.
Đường hiểm trở cách
sông đ̣, xa hơn 300 cây số, với tuổi ấu thơ, kể cũng là sự mạo hiểm. Ngài ngồi
trên cano mà không dám ngồi ló mặt ra, sợ anh rễ cho người theo bắt lại, v́ thời
ấy chỉ có một chuyến trong ngày mà thôi.
Xong đám cưới, ngài
không dám ở lâu, mất nhiều bài vở sợ rớt, gia đ́nh đơn chiếc không ai tiện đưa
Ngài trở lại Hồng Ngự, một ḿnh tự đi Sài G̣n, mua vé tàu Phnom Penh, đi Hồng
Ngự sang đ̣ về nhà. Hồng Ngự không có bến tàu lớn đậu, khi đến ngan Hồng Ngự tàu
túc c̣i chạy chậm chờ thuyền chèo ra, cập hông cột đỏi để chuyển hàng hóa và cho
khách xuống. Cuộc hành tŕnh trên Cửu Long tử 5 giờ chiều bữa trước đến 3,4 giờ
chiều hôm sau, tính trọn đêm và gần suốt ngày. Mùa nước đổ lắm khi tàu trễ hơn
năm ba tiếng đồng hồ.
Lúc khác, sau khi đỗ
tiểu học, muốn vào trung học hồ sơ phải có y chứng của bác sĩ. Đường giao thông
bất tiện, mỗi ngày chỉ có một chuyến cano độc nhất, sáng từ Châu Đốc xuống Hồng
Ngự lúc 9 giờ, 11 giờ trở về Châu Đốc. Đến nơi cũng 3 giờ chiều kịp vào bệnh
viện xin giấy chứng nhưng chẳng c̣n phương tiện nào trở lại Hồng Ngự, thay v́ ở
trọ khách sạn Châu Đốc, Ngài trực nhớ có bà d́ ruột thứ út quê chồng ở Núi Sam,
dù chưa thông thạo đường đi nước bước, chưa biết nhà ở đâu, trời lại sắp tối,
Ngài mạo hiểm lên xe đi núi Sam. Thế mà vẫn t́m ra nhà bà d́, ngủ một đêm tại đó.
Sáng hôm sau trở lại Châu Đốc, qua phà Châu Giang đi Tân Châu. Tới nơi cano đi
Hồng Ngự rời bến đă lâu, Ngài nghĩ ra cách t́m thuyền của người đi ra chợ để quá
giang. Không may gặp người xảo trá, thấy Ngài có nhiều tiền nên tỏ vẻ sốt sắn ân
cần, lợi dụng sự ngây thơ khờ dạy của Ngài lúc đó, mượn rồi trốn mất đoạt luôn
số tiền.
Ngày càng trưa, xuồng
ghe đi chợ đều tách bến, cảnh chợ Tân Châu càng vắng khách, Ngài thật sự lúng
túng, chợt nhớ bạn bè có nói bên kia bờ sông Cửu Long là xă Thường Thới, có con
lộ đất chạy về Thường Lạc. Thế là Ngài quyết định ngay xuống đ̣ sang sông, bách
bộ trên năm ngàn thước về Thường Lạc, xuống đ̣ qua Hồng Ngự. Dọc đường có ghé
nhà bạn học dùng cơm trưa nên 4, 5 giờ chiều mới về tới nhà.
Nghĩ lại chiều hôm
tới núi Sam, thảng không t́m được nhà bà D́, chẳng c̣n xe trở lại Châu Đốc, bơ
vơ một ḿnh không biết làm sao…Sáng hôm ở Tân Châu, tuy chất phát ngây thơ, Ngài
lấy tiền cho mượn, may mắn vẫn giữ lại chút ít đủ tiền đ̣ và uống nước theo
đường.
Chuyến đi nầy gây
nhiều lo lắng cho ông anh rễ: Cano đến lúc 9 giờ, không thấy Ngài về, chờ 3, 4
giờ cũng không thấy, bao nhiêu suy diễn âu lo chẳng biết chuyện ǵ xảy ra, muốn
t́m chẳng biết t́m nơi đâu, t́m cách nào…Lo sợ rồi giận, khi gặp lại nhau thật
là vui mừng, nhưng Ngài cũng nhận lời khiển trách.
Niên học 1940-1941,
Ngài vào trung học ở nội trú Collège de Cantho sau đổi thành Collège Phan Thanh
Giản. Năm 1942 c̣n đang học, dịp hè về nhà, thân phụ Ngài dẫn viếng văn pḥng số
4 Mac Mahon và 152 Lefèvre, Ngài có kư tên vào sổ vàng, hiệp tác trong cơ quan
chuyển thế do Ngài Giáo Sư Thượng Vinh Thanh chỉ Đạo.
2.
LÀM THƠ KƯ
Năm 1944 thi Thành
Chung xong, nối chí song thân trong sự nghiệp Đạo, Ngài về căn cứ đóng tàu
Nitinan ở Cầu Rạch Ông-Tân Thuận làm công quả, thơ kư phụ trách với thân phụ
Ngài nơi Hộ Viện.
Lúc bấy giờ Sài G̣n
c̣n bị phi cơ Đồng Minh oanh tạc, trong khi thiên hạ tản cư về quê lánh nạn,
Chức Sắc, thanh niên Đạo lại tập trung mưu đồ đại sự, bất chấp mọi nguy hiểm
chết chóc, sẵn sàng hy sinh. Mấy tháng sau thanh niên Đạo về đông, chuẩn bị lập
Nội Ứng Nghĩa Binh, ban ngày làm công thợ đóng tàu, ban đêm tập lính dượt binh,
mưu đồ lật đỗ chánh quyền Pháp thực dân xâm lược, để giải ách nô lệ cho giống
nồi, đồng thời giải tỏa sự kèm kẹp khủng bố đàn áp Đạo.
Ngài là thơ kư đầu
tiên duy nhứt trong những tháng đầu tại văn pḥng Tổng chỉ huy do Ngài Giáo Sư
Thượng Tước Thanh đảm trách. Ít người lại nhiều công việc. làm việc cả ngày đêm,
thường xuyên đến 11 hoặc 12 giờ khuya đôi khi 2, 3 giờ sáng, Ngài vui vẻ hăng
say công việc. Ngài Giáo Sư Tước có vẻ bằng ḷng, nói với Ngài lúc đêm khuya,
gọi tâm t́nh như sau: “Hồi nhỏ Qua học chữ Nho thôi, c̣n chữ Việt mới học lóm
sau nầy. Lúc mới khai Đạo, Qua c̣n trẻ, làm thơ kư cho Đức Quyền Giáo Tông. Nhờ
tánh siêng năng cần mẫn như em bây giờ, Đức Quyền Giáo Tông thương Qua lắm và
rất bằng ḷng việc làm của Qua, cần hết việc không cần hết giờ”.
Tuy chẳng phải lời
khen chính thức, song Ngài rất phấn khởi, được thượng cấp khen tánh t́nh và bằng
ḷng trong công việc làm hằng ngày.
Năm 1945, đảo chánh
Pháp xong, không c̣n phải âm thầm lén lút nữa, một phần lớn Chức Sắc dời về
Thánh Thất Minh Tân-Vĩnh Hội gần cầu Ông Lănh, thanh niên binh sĩ dời về trường
học Cầu Kho, sau dọn về Thành Quan Sáu (Colonel) góc đường Norodom và Paul
Blanchy; sau đổi tên đường Thống Nhất và Hai Bà Trưng-Sài G̣n.
Ngài vẫn là thơ kư
riêng của Ngài Tổng Chỉ Huy Giáo Sư Thượng Tước Thanh, được giao nhiệm vụ hỏi
danh tánh, địa chỉ những người Pháp và gia đ́nh bị bắt để lập thông qui chuyển
qua công an lúc bấy giờ gọi là Quốc Gia Tự Vệ Cuộc, tại bót Catinat.
Thời bấy giờ, điện
thoại rất khan hiếm, các văn pḥng của Đạo chỉ có hai điện thoại mà thôi, một
tại tư dinh của Ngài Giáo Sư Đại Biểu và một tại văn pḥng Tổng Chỉ Huy Nội Ứng
Nghĩa Binh, mà Ngài Giáo Sư Thượng Tước Thanh cho đặt tại bàn viết của Thư Kư,
cần lắm Ngài mới sử dụng.
Trước và sau ngày đảo
chánh, bom đạn Đồng Minh gây hăi hùng kinh sợ cho dân chúng ở Đô Thành và gây
thiệt hại một số sanh mạng của anh em nội ứng nghĩa binh của Đạo đóng dưới dốc
cầu chữ Y.
Khi Pháp tái chiếm
Sài G̣n, Ngài Giáo Sư Thượng Tước Thanh dời về Thánh Thất Từ Vân Tự-Phú Nhuận,
c̣n thân phụ Ngài và Ngài về Thánh Thất Chợ Lớn, trước bệnh viện Chợ Rẫy.
T́nh thế ngày càng
khẩn trương, bộ đội rút về Trảng Bàng Tây Ninh, Ḥa Khánh, Đức Ḥa, phần khác
giải tán, ai về nhà nấy chờ lịnh.
3.THOÁT NẠN TRONG GAN TẤC
Đầu năm 1946, Pháp
xét Thánh Thất Chợ Lớn, bắt ông Khâm Châu Giáo Hữu Chiếu và ông Đầu Tộc Châu
Thành Lễ Sanh Vinh, nửa đêm đem bắn bỏ giữa đường Canton-Chợ Lớn. Phái nữ được
yên.
Ngài không bị bắt
chung là nhờ thấy t́nh thế khó khăn, Ngài mướn khách sạn ở riêng trước đó không
lâu và thân phụ Ngài đau dạ dày đă về xứ.
Chuyện cũ nhắc lại
thật kinh khủng hải hùng, có thể xác định mọi việc đều được Thiêng Liêng an bài
trước. Ngài khỏi vong mạng v́ nhờ sự ngẫu nhiên may mắn, sống chết chỉ cách nhau
khoảnh khắc trong gan tắc.
C̣n một chuyện nữa
cũng ly kỳ hấp dẫn không kém. Số là Ngài mướn khách sạn Khoan Dầu gần Palikao,
xóm Tài Lục, Chợ Lớn. Ngài ở chung với anh bạn thân người Huê kiều. Sáng một bữa
nọ, đột nhiên khiến Ngài bàn với anh bạn Huê kiều nên đổi khách sạn, v́ tư cách
phục vụ của bồi pḥng kém lịch sự. Anh bạn đồng ư, cậy người vợ Xẩm (ở riêng)
thuê khách sạn khác. Độ một giờ trưa, sau khi thanh toán tiền pḥng, hai anh em
dời về khách sạn Duy Nhất, ngay lộ Đồng Khánh cách Khoan Dầu vài con lộ, khoảng
chừng một cây số. Người bạn bảo Ngài ngủ đi để anh ta lại đằng nầy một chút.
Khi anh ta đi rồi,
chẳng hiểu sao Ngài cảm thấy hốt hoảng trong ḿnh, ngồi phắt dậy, chạy theo ra
cửa, ngang quầy tài phú theo kịp và hỏi:
-Anh Hai, đi đâu?
Chừng nào về?
Anh bạn trả lời xong
rồi đi luôn, Ngài vào pḥng tiếp tục ngủ. Độ 10 phút sau, người Xẩm bồi pḥng
đến gơ cửa hỏi:
-Có phải khi sớm có
người đàn bà Xẩm đến mướn pḥng nầy hay không?
Ngài nói: Phải
Bồi pḥng tiếp:
- Vậy cảm phiền ông
ra ngoài chờ, khi nào người Xẩm đó trở lại rồi ông vô nghỉ, nếu thật sự pḥng
nầy mướn dùm cho ông.
Ngài đáp: Cũng được.
Ngài ngồi dậy toan
bước ra, bồi pḥng tiếp:
-Ông lấy đồ ra luôn,
chừng nào người đó trở lại nói đúng mướn pḥng này cho ông rồi ông sẽ vào nghỉ.
Ngài nghỉ ngay rằng,
vừa nghe nói tiếng Việt, biết Ngài là người Việt, chủ khách sạn không cho mướn
pḥng, sợ liên lụy bởi người Việt hay làm Việt Minh. Quân Đội Pháp có thông báo
cấm, làm trái rủi bị xét bắt, chủ khách sạn chịu trách nhiệm nặng. Từ trước
Ngài ở nhiều khách sạn Tàu được là nhờ ở chung với anh bạn Huê kiều.
Trả ch́a khóa pḥng,
Ngài xách cặp ra luôn, đến t́m anh bạn theo địa chỉ anh vừa cho biết. Hai anh em
thuê pḥng khác cách Duy Nhất không đầy 500 thước. Rút kinh nghiệm Ngài không
nói chuyện để không ai nhận biết là người Việt.
Hơn một tiếng đồng hồ
sau, đứng trước khách sạn thuê nh́n lại thấy binh sĩ Pháp bao vây Duy Nhứt.
Thiên hạ xem rất đông và bàn tán: “Nó xét khách sạn, không có ai bị bắt, nó lên
xe về Sài G̣n rồi”.
Thời gian đầu Pháp
chưa chiếm Chợ Lớn, chỉ ra vào hành quân rồi về. Mấy hôm sau, một trong những
bồi pḥng khách sạn Khoan Dầu, ghét chủ nhưng mến Ngài, vô t́m gặp lại ở tiệm
nước, kể cho Ngài nghe: Chủ khách sạn người Tàu có vợ Đầm, thường mua đồ tiếp tế
cho quân Pháp ở Sài G̣n, biết Ngài có súng lục, vô t́nh bồi pḥng nh́n thấy, báo
cho nhà binh vào xét bắt. May là Ngài vừa dọn đi, nữa giờ sau binh Pháp tới,
không gặp Ngài, lúc Ngài xách cặp ra đi, nó cho người theo, biết Ngài dời về Duy
Nhất.
Chú bồi pḥng dể
thương c̣n hỏi Ngài tại sao biết mà tránh. Chừng đó Ngài mới nhớ lại là khi mới
xuống pḥng rời khách sạn Khoan Dầu, c̣n bách bộ theo hè phố, thấy nhiều xe nhà
binh Pháp chạy từ hướng Sài G̣n vào, phong tỏa xung quanh khách sạn, nay mới vở
lẽ. Mừng được thoát nạn lớn, nếu bị bắt mà có súng hẳn nhiên bị giết và có thể
bị tra tấn khai thác trước khi hành huyết.
Thời gian ở khách sạn,
trước là vui thú theo tuổi trẻ và cũng công tác với anh em Việt Minh bên cầu
Palikao. Thấy t́nh đời đen bạc, xảo trá không thật tâm, tham của cải hơn là lợi
ích chung của đất nước, sau khi bắt gặp thi hài của 2 vị Chức Sắc thuộc Châu Đạo
Chợ Lớn bị bắn bỏ giữa đường, thây nằm ngửa trên ngực trải tờ Kiết Chứng của Đạo,
dằn dưới ḥm quẹt diêm, Ngài hăi hùng thêm buồn chán, vội bỏ về cùng với anh Tư
của Ngài và bạn Cơ, thư kư Đạo ở chung thành Quan Sáu lúc trước, về luôn nhà,
không một lời từ giả anh bạn Huê Kiều.
4.TRỞ VỀ QUÊ
Đường về cũng lắm
truân chuyên, định theo lộ tŕnh Phú Lâm-Bà Hom, Cầu Xáng, rủi ngày ấy Pháp hành
quân qua vùng Phú Lâm-Bà Hom, ba anh em phải lách vào sâu trong ruộng, lội bộ
băng đồng. Mặc dù có chứng thư của Chi Đội Trưởng Chi Đội 15 mà vẫn gặp nhiều
khó khăn. May mắn một cán bộ Việt Minh địa phương nh́n bạn cũ với anh Đức, trước
cùng học ở Đức Ḥa giúp đỡ mới suông sẻ về đến nhà.
Phần anh bạn Huê Kiều,
năm 1950 lúc hành Đạo ở Phnom-Phenh, Ngài t́nh cờ gặp lại ở đường Boon anh trách
và hỏi lúc đó đi đâu, anh t́m khắp nơi không gặp, không biết đi đâu mà không từ
giă, đi mất tích anh rất buồn.
Mấy tháng ở nhà, Ngài
hiệp lực cùng anh Đức quán xuyến các việc gia đ́nh, quản lư hai ḷ đường đạp mía
mà không bán cho hăng, công việc khá vất vả.
Trung tuần 1946, sau
khi cúng Chí Tôn thời Dậu xong. Thân phụ Ngài với Thiên Phục Giáo Hữu, chứng cho
Ngài lập thệ nhập môn, không người tiến cử. V́ lẽ đó không có Sớ Cầu Đạo, Ngài
không nhớ ngày tháng nào đă nhập môn.
Chiến tranh hổn loạn,
bổn Đạo Cao Đài nguy khốn nhất trong những tháng đầu năm 1946, lớp bị Pháp giết
trả thù cuộc đảo chánh 9-3-1945 mà Cao Đài đóng vai tṛ quan trọng chủ yếu khắp
các tỉnh Miền Nam Việt Nam. Lớp bị Việt Minh Cộng Sản theo Giáo điều kỳ thị tôn
Giáo tàn sát tập thề, thảm khốc nhất ở Quản Ngăi, Trung Lập, Đức Ḥa (Chợ Lớn),
B́nh Ḥa (Tân An) kéo dài hết năm 1947 qua đầu năm 1948.
Ông Lễ Sanh Thượng
Bổn Thanh, Đầu Tộc Đạo Đức Ḥa, bác ruột Ngài, được Việt Minh mời họp, sợ bị thủ
tiêu không đi. Thông thường được Việt Minh mời, có đi không bao giờ trở lại,
người Đạo sợ lắm. Báo tin cho thân phụ của Ngài hay, Ngài xin tháp tùng, có vài
ba Chức Việc Bàn Trị Sự B́nh Ḥa t́nh nguyện theo cùng.
Thân phụ Ngài cho
soạn trước một bài diễn văn để đọc trong phiên họp. Đường gian nguy nhọc nhằn,
có liên lạc Việt Minh dẫn đường. Canh khuya đêm vắng, trời tối đen như mực, lội
qua nhiều đồng ruộng gồ gồ ghề băng qua lộ dầu Ḥa Khánh, mọi người đều sợ Pháp
bắn. Đường khoảng 10.000m, xong liên lạc muốn đánh lạc hướng để bảo mật vị trí
đóng quân, dẫn đi quanh co gần 20.000m.
Sau lời diễn văn và
lời tŕnh bày của thân phụ Ngài, lập trường của Đạo được nêu rơ ràng, được hoan
nghinh, Chi Đội Trưởng Việt Minh tuyên bố sẽ cho đăng báo bài diễn văn đó. Có lẻ
nhờ vậy mà những vụ khủng bố Đạo được giảm bớt phần nào, nhưng chỉ trong một
thời gian ngắn thôi, các vụ tàn sát Đạo lại tiếp diễn và khốc liệt nhất là năm
1947.
15. QUYẾT L̉NG THEO ĐẠO
Năm 1946, khi được
tin Đức Hộ Pháp hồi loan, sau thời gian bị đồ lưu ở đảo Madagascar, thân phụ
Ngài quyết định về Ṭa Thánh tiếp tục bước hành Đạo, cho anh Lương và em Quang
của Ngài cùng theo, giao cả sản nghiệp cho Ngài ǵn giữ khai thác tạo nên của
cải để lo cho 3 anh em c̣n độc thân. Bốn anh chị lớn đă có gia đ́nh tư riêng rồi.
Ngài từ chối xin được noi gương cha “Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo” để được đi
Ṭa Thánh. Thân Phụ Ngài chấp thuận và giao tài sản cho hai anh trai là Đức và
Ân.
Ngài chấp nhận hy
sinh mối t́nh đầu, cố nén đau thương luyến ái, t́m lăng quên trong câu kinh
tiếng kệ và thời gian dài là bầu diệu dược hàn gắn mọi thương đau. Tuy vậy mỗi
lần nhớ đến, lương tâm Ngài không khỏi rai rứt v́ chính ḿnh Ngài đă gây tuyệt
vọng ưu sầu cho người thương.
Sở dĩ Ngài muốn hành
Đạo là bởi đức tin được nhen nhúm từ thuở nhỏ, xuất thân trong gia đ́nh Đạo Giáo,
thỉnh thoảng cúng nước sớm chiều trong tứ thời nhựt tụng, được nghe cha, mẹ và
anh Đức Ngài là Thông Sự kể chuyện Đạo, dẫn đi Thánh Thất, viếng Ṭa Thánh, bảo
đọc Thánh Ngôn, Thánh Giáo, giảng dạy và thật hành.
Được nghe Đạo linh
thiên, mầu nhiệm, bệnh ǵ chữa cũng hết, nhất là bịnh tà. Đặc biệt hơn có một
dịp đức tin của Ngài được cũng cố thêm mạnh là vào năm 1942, anh Ngài Nguyễn Hữu
Ân lâm bệnh trầm kha, Thầy Đông Y, Bác Sĩ Tây Y chữa trị đều không kết quả, thân
mẫu Ngài rước Bàn Trị Sự và Đồng Nhi đến tụng kinh và cầu bịnh ngày đêm nhưng
không chút thuyên giảm, bịnh càng tăng chỉ chờ chết mà thôi. Cúng lạy xin sâm
theo quẻ Quan Âm trong quyển Kinh Nhật Tụng do chùa Tam Tông Miếu phát hành. Có
lần sâm ứng: sẽ có quới nhân cứu hộ. Chờ đợi mỏi ṃn chẳng thấy quới nhân đâu cả.
Bệnh nhân thôi thóp chờ thở hơi cuối cùng. Cả gia đ́nh đều tuyệt vọng.
Một Tá Điền hay tin
đến thăm ngủ đêm tại nhà. Ông nầy là Thầy Pháp, thứ 5 tên Khá ở cùng địa phương.
Nửa đêm khi Bàn Trị
Sự và Đồng Nhi đang qú cúng tứ thời th́ bất ngờ ông chổi dậy nhan nhẹn nhắc ghế
để trước Thiên Bàn phía sau Đồng Nhi, nhảy lên đứng trên ghế, mắt nh́n Thiên
Nhăn, miệng đọc lâm râm, tay dường như bắt ấn. Thân mẫu Ngài thấy lạ xin cho
biết cao danh quí tánh, xin đừng vô lễ trước Thiên Bàn Chí Tôn. Miệng ông ta
liền thốt ra:
-Ta là Long Thần Hộ
Pháp. Thấy gia đ́nh nầy Đạo đức…ta đến cứu, để ta bắt hồn sanh nó lại …kẻo trễ…không
kịp.
Ông tiếp tục lâm râm
bắt ấn, một chút sau ông gọi “Ân” tên của bệnh nhân.
Trong t́nh trạng hôn
mê bất tỉnh thế mà Ân lại dạ thành tiếng và tuân hành y lệnh truyền như người
mạnh giỏi b́nh thường. Anh Ân của Ngài lồm cồm ngồi dậy, thân mẫu Ngài vội d́u
đỡ, bước xuống ván ngựa, qú trước Thiên Bàn, nhứt nhứt biểu đâu làm đó, bắt ấn
tư, lấy dấu, niệm danh Chí Tôn rồi lạy, cũng ba lạy bốn gật.
Những người có mặt
ngạc nhiên không ít. Thấy hiển linh như vậy, thân mẫu Ngài hỏi dùng thêm thuốc
chi điều trị. Qua xác ông Thầy Pháp, Long Thần Hộ Pháp dạy cho dùng thuốc bồi
dưỡng sức khỏe là đủ, không cần thuốc khác. Nói rồi xuất ra luôn. Anh Ân Ngài
thay v́ không hy vọng kéo dài sự sống đột nhiên b́nh phục nhờ Long Thần Hộ Pháp
cứu mạng, ứng đúng như quẻ Quang Âm. Ngài có mặt trong giờ phút đó, chứng kiến
sự việc, đức tin tăng bội phần, nhờ vậy sau nầy ước muốn đi hành Đạo.
6. HỌA TAI ĐỖ XUỐNG GIA Đ̀NH NGÀI
Sau biến cố mấy mươi
năm, giờ thấy rơ duyên phần định số, nếu ở lại ǵn giữ sản nghiệp, Ngài khó
tránh khỏi số phận như hai anh Đức và Ân của Ngài chết trong tay của Cộng Sản.
Lúc bấy giờ không ai biết trước cuộc chiến ở Việt Nam ngày càng khốc liệt dai
dẳng, tàn phá tiêu hao về tài sản và sinh mạng đến mức độ quá ư trầm trọng.
Mục đích mấy cha con
Ngài về Ṭa Thánh hành Đạo không phải là tản cư, không phải xa quê vĩnh viễn, do
đó thân phụ Ngài chỉ đem tiền chi dụng vừa đủ, ngoài quần áo chẳng mang ǵ thêm,
cho đến ṿng vàng, gia bảo, nữ trang cũng chôn dấu tại nhà, định ư hai anh Ngài
sẽ tiếp tế sau. Không ngờ khi mấy cha con rời khỏi gia đ́nh, bị phao truyền là
đă theo Tây, đồn rằng thấy thân phụ Ngài đứng trước mũi tàu hành quân của Pháp,
chỉ cho quân Pháp bắn xă vào xóm…, phản động, việt gian…có lư do tịch thu tài
sản, tất cả phân tán manh mún, hai lẫm lúa bị phân phối cho nhau, nhà cửa bị
triệt hạ, khu vườn cây trái năm sáu mẫu cũng bị đào xới t́m của quí, nữ trang
gia bảo bị tước đoạt, hai người anh bị giết cho dứt hậu hoạn, hàng xóm được dịp
hôi của rơi rớt. Thân phụ Ngài sạt nghiệp từ đó, chỉ c̣n mười mấy mẫu ruộng tốt
ở G̣ Đen-Long An nhưng không thâu lúa tô được. Thân phụ Ngài nói rằng: “Thiêng
Liêng giúp cho dứt khoát, khỏi bị chi phối ưu tư v́ của cải vật chất, dù có khổ
nhưng bước đường hành Đạo khỏi bị vướng bận, chỉ thương hai đứa con mạng bạc quá
sớm”.
7. VỀ T̉A THÁNH TÂY NINH
Về Ṭa Thánh năm
1946, Ngài lập tờ hiến thân cho Đạo, tiếp tục làm Thơ Kư Nội Chánh, thân phụ
Ngài quản lư Hộ Viện, sau đổi thành Thượng Thống Hộ Viện, Ngài ở Giáo Tông Đường
với thân phụ nhưng dùng cơm tháng ở ngoài. Lúc đầu tin tưởng vào sự sản của gia
đ́nh, bất ngờ c̣n hai bàn tay trắng, đành vào Trai Đường dùng bữa.
Thế mới biết đời là
giả tạm, cái ǵ cũng giả, cũng tạm.
Trai Đường thường
dùng cơm với nước muối, rau luộc. Muối hột nấu với nước cơm cháy đen, màu sậm
giống nước tương, danh gọi nước tương Đại Đạo, rau lan có nhiều nhưng cũng không
đủ cho công quả ăn. Bữa cháu, bữa cơm thất thường, có lúc c̣n giới hạn số lượng
mỗi khẩu phần cơm cháo trong bữa ăn, không đủ no, có khi c̣n mạo danh để ăn phần
tiêu chuẩn của anh em, khiến ông Giáo Hữu Thái Hào Thanh, Thượng Thống Lương
Viện phải nhọc nhằn xoay sở để bú đắp lại. Thơ Kư Nội Chánh nghỉ việc lúc 11 giờ,
đến Trai Đường sau các sở, một đôi lần phải cảnh ngộ nầy, chờ có phần bù lại,
chịu đói ră ruột.
Mức sống từ đỉnh cao
rơi vào vực thẩm, trước kia ăn ba bữa, tối c̣n dậm thêm, nay chịu thiếu thốn mọi
mặt, thiếu dinh dưỡng, đêm cúng thời Tư xong, đôi khi đói xót ruột không ngủ
được. Ngày làm việc chờ hết giờ, tan sở, có bữa cầm viết run tay, nhưng với dạ
nhiệt thành, quyết tâm hành Đạo, Ngài vẫn kiên tŕ chấp nhận, hàng ngày nhờ vui
vẻ với bạn bè trang lứa, thêm nhờ các Đấng hộ tŕ, muôn sự khó đều vượt qua.
Ghi lại những ḍng
chữ nầy mục đích của Ngài là muốn nhắc lại những vui buồn trong cảnh hành Đạo
gọi là kỷ niệm thăng trầm của ngày xa xưa, không có ư than phiền, trái lại Ngài
c̣n phấn khởi đă đi những bước vững vàng trên con đường thiên lư gồ ghề hiểm trở
và khó khăn.
Làm Thơ Kư Hộ Viện
được mấy tháng, Ṭa Đạo cần người, Ngài Giáo Sư Thượng Tước Thanh, Thượng Thống
Lại Viện bổ dụng ông Phạm Văn Nhiều và Ngài qua Ṭa Đạo, sau đổi danh là Pháp
Chánh Hiệp Thiên Đài, dưới quyền Chưởng Quản của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.
8. THI ĐẬU LUẬT SỰ (Thuộc Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài)
Năm 1947, Hội Thánh
mở khoa thi Luật Sự, anh em thơ kư nô nức xin thi. Riêng Ngài không dám nghĩ đến,
quan niệm thà làm một Đạo hữu thông suốt và vẹn giữ luật pháp Đạo c̣n hơn là
Chức Sắc không xứng phận, hơn nữa cũng lo ngại đậu rớt, ông Nhiều khuyến khích
và động viên Ngài, ông nói: “Dù ḿnh có rớt đi nữa, ông chef ḿnh cũng tiếc khả
năng của ḿnh”. Nghe xong Ngài nộp hồ sơ xin thi, thương cho ông Nhiều có kiến
thức về mặt Đạo, có khả năng, giàu thiện chí, dày công quả từ nhiều năm trước,
không may bị rớt. Ngài đậu hạng tư trong tổng số, vẫn làm việc tại Bộ Pháp Chánh.
Một kỷ niệm đáng ghi
nhớ nhất cuộc đời, lúc ban sơ vừa muốn đặt chân vào ngưỡng cửa khuôn viên Thánh
Thể, anh Lương của Ngài muốn cầu phong Lễ Sanh, Ngài th́ muốn vào bên Hiệp Thiên
Đài. Thân phụ Ngài gọi cả hai đến để dẫn giải lời hơn lẽ thiệt, kể các lẽ vui
buồn sướng khổ trong bước đường hành Đạo rồi kết luận rằng: “Ba đă nói rơ để các
con biết, vậy tùy các con nên suy nghĩ đắn đo cân nhắc thật kỹ rồi tự quyết
định lấy tương lai, ba không cản mà cũng không ép, cần thiết là các con phải tự
liệu sức ḿnh cho hẳn sẽ làm, liệu đi cùng bước Đạo, được th́ nên cầu phong bên
Cửu Trùng Đài hay thi qua Hiệp Thiên Đài, sau nầy chẳng nên bỏ dang dở nửa chừng
phải mang tiếng bán đồ nhi phế”.
Anh em Ngài hứa quyết
tâm hành Đạo, thân phụ Ngài kết thúc bằng lời khuyên: “Ráng nhớ và làm đúng lời
đă hứa”.
Nhớ lại khi ở Thánh
Thất Minh Tân, anh Lương Ngài ước muốn được đội măo Lễ Sanh nên cố gắn lập công,
c̣n Ngài thấy hai đàn anh Luật Sự Phan Hữu Phước và Vơ Văn Nhơn bị Pháp đày đi
Sơn La mới về, cúng Chí Tôn đội măo Hiệp Thiên Đài, Ngài ngưỡng vọng và ước mơ.
Âu cũng là tiền căn trước, anh Lương Ngài phục vụ bên Cửu Trùng Đài, Ngài th́
bên Hiệp Thiên Đài.
9. ĐẢM NHIỆM PHÁP CHÁNH SÀI G̉N
Đầu năm 1948, Ngài
được bổ nhiệm Pháp Chánh Sài G̣n, ông Thừa Sử Nguyễn Văn Hợi muốn Ngài ở chung
nhà gần chợ Thái B́nh để kim luôn Đầu Văn Pḥng cho ông trong chức vụ Pháp Chánh
Miền Đông mười một tỉnh.
Anh em Luật Sự tân
khoa đều minh thệ vô tư và được Đức Hộ Pháp hành pháp giải oan, trấn thần và ban
phép lành tại Cung Đạo trước khi lên đường hành sự.
Ở nhà ông Hợi, có khi
Ngài cùng hành Đạo chung với ông, đi nơi nầy nơi khác, thỉnh thoảng Ngài thay
mặt đi một ḿnh. Được ít tháng có sự đồng ư của ông, Ngài dọn về Thánh Thất Thái
Ḥa, lộ Monseigneur Domortier ở chung với ông Đầu Tộc Đạo Sài G̣n Lễ Sanh Ngọc
Ngạt Thanh.
Hành Đạo lúc bấy giờ
rất khó khăn, nguy hiểm, giao thông thật bất tiện, mỗi tuyến đường đều có xe
quân sự Pháp (convoi) hộ tống. Thỉnh thoảng đoàn xe bị Việt Minh phục kích bất
ngờ, gây thiệt hại vật chất lẫn sanh mạng nặng nề. Mỗi tuần vài ba lần có xe hộ
tống.
Đi viếng các căn cứ
Đạo Bàu Trai (Hậu Nghĩa), Hiệp Ḥa, Tân Mỹ, Rạch Thiên (Chợ Lớn), Mỹ Thạnh Đông
(Long An) là cả một vấn đề, những vùng nầy đồng Đạo bị giết rất nhiều. Các ông
Luật Sự Nguyễn Thành An, Pháp Chánh Chợ Lớn; Đỗ Bá Khen, Pháp Chánh Tân An và
Ngài thay mặt Pháp Chánh Miền Đông, phải chờ có con voi hoặc xe nhà binh Pháp
chở lực lượng tiếp tế mới đi được, nhưng phải xin trước.
Một hôm nhà binh Pháp
báo tin có xe đi Bàu Trai, các Ngài quá gian được chỉ chỗ ngồi trên remrque phía
sau xe. Đường Phú Lâm-Bà Hom-Cầu Xáng, mất an ninh phải đi ngă tư Hóc Môn về Mỹ
Hạnh-Đức Ḥa mới tới Bàu Trai. Đường rất xấu, bị Việt Minh phá hoại nhiều khoảng,
hơn 10 cây số lồi lơm, lỗ hang, ngồi trên remorque vừa sợ phục kích v́ vùng nầy
lực lượng khán chiến nổi tiếng lại vừa sợ rơi xuống lộ, mặc dù tay vịnh thành
rất chắc, remorque nhảy lưng tưng dằn quá có lúc ngồi không được, đứng lom khom,
vịnh cứng, lấy thế chịu cho khỏi té, khỏi bị rơi xuống đường. Các Ngài không kém
phần lo ngại , không khéo lại đạp dập bể lương thực, rau cải, cũng có thể sanh
rối.
Chuyến đi đă thế,
chuyến về có sự khổ sở hơn. Hoàn tất phận sự ở các căn cứ Đạo, các Ngài đi nhờ
xe nhà binh về Chợ Lớn, tới Đức Ḥa tưởng đi luôn, nhưng tin giờ chót, phải mấy
ngày sau xe mới đi được.
Tại chợ Đức Ḥa, vùng
bán an ninh, đă có trường hợp xảy ra, người lạ mặt đến ngủ, nửa đêm Việt Minh
kêu cửa bắt dẫn đi, có lần bắn liền tại chỗ. Các ngải thấy bất tiện, không thể
xin trọ nhà chị dâu vợ anh Đức của Ngài ở gần chợ. Vùng an ninh ở ngă tư Đức Ḥa
Ngài quen biết nhiều nhưng không thân, phần xa cách đă lâu nay đường đột xin ngủ
tạm một lần cả ba thanh niên biết có ai nhận lời không? nhất là thời chiến,
không ai dám tin ai.
Đang bối rối phân vân
tấn thối lưỡng nang, thời may có người cho biết, ông Giáo Đậu, Thầy cũ của Ngài,
trước dạy ở Hồng Ngự, nay về Đức Ḥa làm Đốc Học, các Ngài t́m đến và được nhận
lời cho tá túc, ăn ở suốt 3 ngày mới đi. Nếu không có sự may mắn các Ngài cũng
không biết xử trí cách nào nữa.
Thương hại cho căn cứ
Đạo Bàu Trai bị Việt Minh tấn công, năm 1950 phá b́nh địa, nhiều người chết, số
người sống sót một ít chạy về Thánh Địa Tây Ninh, số khác tản lạc nhiều nơi.
Thấy địa phận Sài G̣n việc Đạo không nhiều, ăn ở đạm bạc, hẩm hút. Ngài Trần
Khai Pháp rút Ngài về Bộ Pháp Chánh. Gặp lúc Luật Sự Lê Văn Thêm, nghỉ bệnh 2
tháng, Ngài được lệnh đến Cần Thơ thay vào đầu năm 1949.
10. ĐẢM NHIỆM PHÁP CHÁNH RẠCH GIÁ
Vừa măn hạn, Ngài
đắc lịnh trấn nhậm Rạch Giá thay cho vị Pháp Chánh sở tại bị triệu hồi. Đến Long
Xuyên phải chờ thêm đến một tuần mới có convoi đi Rạch Giá . Ngay bữa đầu đến
Rạch Giá, nhằm lúc Khâm Châu họp các Đầu Tộc và Bàn Trị Sự, ông Giáo Hữu Ngọc
Lành Thanh giới thiệu Ngài ra mắt luôn. Sau cùng ông Khâm Châu yêu cầu Pháp
Chánh tân nhiệm vui ḷng phụ giúp lo kiến tạo Thánh Thất Châu Thành, đă họp bàn
5, 7 lần kư vi bằng hẳn hoi mà vẫn không thực hiện được.
Sau mấy ngày đi viếng
xă giao Tỉnh Trưởng, Chỉ Huy Quân Đội Pháp và các cơ quan chính quyền, Ngài qua
thăm căn cứ Đạo thành lập bên kia bờ sông thuộc khu vực nhà máy xay lúa của nhà
Tư Bản Bùi Quang Đài, chu vi rộng lớn, tương đối an ninh. Bổn Đạo tản cư tị nạn
Cộng Sản về đông gồm các quận Châu Thành, Giồng Riềng, G̣ Quau tập trung trú ngụ
có Quân Đội bảo vệ. Cách ăn ở rất chật hẹp, bẩn thỉu, bùn lầy, nước mặn, gà heo,
súc vật lẫn lộn.
Thánh Thất lợp lá,
cột tre, lâu ngày phần lớn đứt chân gần sập. Ngài đề nghị với ông Đầu Tộc Châu
Thành nên về tạm ở nơi căn cứ cùng với bổn Đạo, mới mong thực hiện được việc
kiến tạo. Ông chẳng phản đối nhưng không đồng ư bởi chỗ đang ở là biệt thự khan
trang, gần biển gió mát, điện nước đầy đủ, có hồ chứa nước mưa để uống, tiện
nghi, cao ráo sạch sẻ. Tại biệt thự nầy có 5 pḥng: Khâm Châu, Đầu Tộc, Hành
Chánh nam nữ và Pháp Chánh.
Ngài đích thân qua
căn cứ ở chung với nhị vị Đầu Tộc Giồng Riềng, G̣ Quau, gần văn pḥng Khâm Châu
và Đầu Tộc Phước Thiện, đề nghị họp Bàn Trị Sự và Ban Cai Quản Phước Thiện, tất
cả đều yêu cầu Ngài khởi xướng, anh em sẽ phụ lực nhiệt t́nh. Ngài nói: “Họp có
biên bản nhiều lần mà không làm được, bây giờ không lập biên bản làm ǵ, ngày
kia nếu không làm được việc ḿnh đỡ hổ thẹn với anh em”.
V́ lẽ đó nên không có
bút tích văn bản ghi rơ sự yêu cầu, sau nầy mới xảy ra tố tụng lung tung.
Khởi công ngân quỹ
không có đồng nào, Ngài tạm xoay tiền mua tre đang ky gánh đất đắp nền, ngoại
giao với thân hào nhân sĩ cùng các nhà tư bản, thương gia địa phương để vận động
tiền bạc, dụng tâm lư huy động tinh thần bổn Đạo tham gia đóng góp công của. Nhờ
uy tín Đạo, Ngài làm được việc, cất được 6 căn, một chái làm Thánh Thất, lợp lá
cột tṛn, kê tán lót gạch tàu và năm căn khác làm văn pḥng cùng nơi ăn nghỉ của
Chức Sắc, cũng cột tṛn kê tán nhưng lót gạch không đầy đủ. Vừa lo kiến tạo, vừa
thành lập tập luyện các ban lễ, nhạc, Đồng Nhi, vừa lo nhạc cụ, vừa sắm áo, măo
cho Lễ Sĩ.
Việc làm được kết quả
nhanh chóng và mỹ măn nhờ các anh em lúc thái b́nh làm Lễ Sĩ ở Thánh Thất địa
phương. Ông Đầu Tộc Giồng Riềng là nhạc sĩ đời vả cũng rành các bài bản đờn cúng.
Trong ṿng 4 tháng hoàn thành các việc. Ngài tổ chức khánh thành trọng thể, có
đông quan khách, có cộ đèn, có đấu xảo bánh mứt, có hát cải lương. Nhờ vậy mà
thanh toán các món nợ mua vật liệu, c̣n dư trên 1500 đồng giá trị đồng tiền lúc
bấy giờ. Ông Khâm Châu Ngọc Lành Thanh và Đầu Tộc Châu Thành, Lễ Sanh Ngọc Tâm
Thanh, chỉ góp mặt khi được mời dự lễ thượng đ̣n dông và khánh thành mà thôi.
Ông Đầu Tộc G̣ Quau, Lễ Sanh Thượng Hàng Thanh, Ông Đầu Tộc Giồng Riềng Thái Cẩm
Thanh cùng các Bàn Trị Sự và Ban Cai Quản Phước Thiện rất tích cực và nhiệt
thành. Phần Ngài vừa lo tính toán tiền bạc, vừa sắp xếp công việc phân công cho
anh em bổn Đạo, vừa phụ lực với công thợ theo khả năng, vừa chăm sóc trà thuốc
cho từng người, nhứt là chư vị lớn tuổi. Nhờ vậy hầu hết bổn Đạo trong các cơ
quan chánh trị Đạo dành cho Ngài một khối cảm t́nh yêu ái nồng nàn mật thiết.
Xin dẫn chứng trường hợp cụ thể sau đây:
Một chiều sẩm tối,
trời đang mưa, ghe chở gạch và cây cột được binh sĩ Cao Đài hộ tống về đậu trước
sông cách Thánh Thất vài ba trăm thước. Anh em công quả theo ghe làm suốt ngày,
phần nguy hiểm dọc đường sợ bị Việt Minh phục kích, tất cả đều mệt mỏi và đói
bụng, cần về ăn cơm và nghỉ. Bổn Đạo trong căn cứ đi làm ăn vừa về thấy công
việc nặng nề lại ngại bùn lầy. Bàn Trị Sự kêu gọi chưa thấy ai đáp ứng tiếp tay
vận chuyển lên chùa. Điều đáng ngại là ghe cũ rịn nước, cần giải tỏa sớm cho ghe
nhẹ khỏi sợ ch́m. Ngài rất lo, hội ư với 2 ông Đầu Tộc, cùng khuân gạch lần lên.
Vài người biết được, loan truyền rằng ông Pháp Chánh đi vác gạch nặng nề, trời
mưa trơn trợt, rồi tự động rũ nhau, không đầy 30 phút sau, anh em tập trung rất
đông, xếp hàng từ ghe lên sân chùa, mỗi người đứng tại chỗ, chuyền tay nhau đưa
gạch lên sân, không ai phải di chuyển bước nào. Cây cột nặng th́ có các thanh
niên khỏe mạnh phụ lực khiên vác. Hai ông Đầu Tộc và Ngài bắt buộc phải nghỉ.
Hơn một tiếng đồng hồ sau, mọi việc đều hoàn tất mỹ măn, giải tỏa nổi lo. Nhờ
Đạo tâm, các anh chị em bổn Đạo cùng với chiến sĩ Cao Đài, tất cả v́ đại nghiệp,
nêu cao thiện chí phục vụ, ḥa đồng tâm lư và t́nh cảm tốt đẹp nên mọi việc đều
như ư.
Khánh thành xong, cả
mấy chục Bàn Trị Sự ở căn cứ lập tờ hoan nghênh công nghiệp và yêu cầu ban khen
cho Ngài, do 2 ông Đầu Tộc Giồng Riềng và G̣ Quau kư chuyển theo hệ thống hành
chánh. Bộ Chỉ Huy Quân Đội Tỉnh Rạch Giá, Ban Cai Quản, Đầu Tộc Khâm Châu, Phước
Thiện cũng kư tờ hoan nghênh công nghiệp và xin ban khen Ngài, gởi theo hệ thống
riêng của mỗi cơ quan. Lúc đầu các cơ quan muốn giao các văn kiện ấy để trực
tiếp đem tŕnh về Ṭa Thánh, Ngài từ chối, ngại rằng thượng cấp sẽ nghĩ là do
chính Ngài vận động cho cá nhân ḿnh.
Tiếp dược những văn
bản hoan nghinh công nghiệp, ông Khâm Châu Ngọc Lành Thanh nói rằng ông đến Rạch
Giá đă 3, 4 năm không ai hoan nghênh công nghiệp, c̣n Pháp Chánh mới tới có mấy
tháng sao lại được hoan nghênh? Ông cho rằng Ngài lập phe đảng nên giữ lại không
chuyển về Ṭa Thánh và c̣n hiệp với ông Đầu Tộc Châu Thành Lễ Sanh Ngọc Tâm
Thanh kư Tờ kiện Ngài, nêu lư do “Phạm quyền hành chánh”.
Sau cuộc điều tra của
Pháp Chánh địa phương, Luật Sự Vơ Nhàn Du chuyển nội vụ về Bộ Pháp Chánh. Ngài
Trần Khai Pháp dạy bổ túc hồ sơ đ̣i Khâm Châu giao hết những tờ hoan nghinh công
nghiệp để cứu xét và quyết định. Ngài phê đại ư như sau:
“Theo tờ của Khâm Châu Đầu Tộc Rạch Giá tố cáo Luật Sự Trân “Phạm Quyền Hành
Chánh” xét ra không phải tham quyền mà cố phạm, chỉ v́ do sự bất lực của một số
Chức Sắc hành chánh tại địa phương và cũng do yêu cầu của các cơ quan chánh trị
Đạo sở tại. Việc xây cất Thánh Thất xong, Luật Sự Trân giao lănh có toa vé sổ
sách đầy đủ, nếu đem cân công và tội th́ công trội hẳn hơn nhiều, nên Bần Tăng
miễn truy tố và phân định” (non lieu)
Thế là Ngài khỏi bị
tội và cũng không được ban khen. Ngài lấy làm mừng và cho đó là một bài học kinh
nghiệm trong bước đầu đi hành Đạo.
Sau lễ khánh thành,
ông Đầu Tộc Ngọc Tâm Thanh ngưng ngan không cấp lương thực hằng ngày. Ngài có ư
định ăn hết mấy lít gạo c̣n lại sẽ về ngay Ṭa Thánh, ở đâu cũng làm công quả
không ngại.
Sự việc đến không
giống điều đă nghĩ, đồng Đạo dành cho Ngài khối yêu ái đặc biệt, cơm gạo không
thiếu, thức ăn lại dồi giàu hơn nhiều. Tới bữa cơm người cho thứ nầy, kẻ biếu
món khác, nhiều người tiếp tế. Điều đáng ngại là đem đồ ăn bánh trái tới cho ai
cũng nói: “Đem cho ông Pháp Chánh” trong khi có 2 ông Đầu Tộc ngồi chung, khiến
Ngài ái ngại vô cùng.
Trong hoàn cảnh tản
cư nghèo khó, đạm bạc, thiếu thốn đủ điều, mọi người đều lo tảo tần, lo sự sống
hằng ngày cho gia đ́nh và bản thân mà anh chị em cư xử rất đẹp như thế, Ngài
thấy đó là niềm an ủi vô biên, được gọi nhuần trong khối t́nh cảm mà Chí Tôn đă
dành sẵn và ban cho, cũng là điều khích lệ để mạnh tiến trên con đường hành Đạo.
T́nh trạng kéo dài độ
một tháng, Ngài nhận lịnh Ngài Trần Khai Pháp triệu về Ṭa Thánh, chuẩn bị đổi
đi Nam Vang. Anh chị em đồng Đạo luyến ái thương tiếc. Các bậc lăo thành trách
rằng tại trước kia Ngài không đồng ư với Bàn Trị Sự để chọn ngày tốt dựng Thánh
Thất, dọn cây xong là dựng ngay cho nên bây giờ mới bị đổi đi. Ngài nói rằng:
“Ngày nào cũng là ngày của Chí Tôn, cất Thánh Thất thờ Chí Tôn cần ǵ phải coi
ngày”.
11. ĐƯỢC BỔ ĐI NAM VANG
Về Ṭa Thánh Ngài
nghe kể lại: Khi được bổ dụng cầm quyền Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo, thân
phụ Ngài xin Đức Hộ Pháp cho một trong hai đứa con biết Pháp văn theo giúp trong
việc ngoại giao với chánh quyền Cao Miên và Pháp. Đức Hộ Pháp chấp thuận Ngài
thay v́ anh Lương của Ngài đang làm Giám Đốc Đạo Đức Học Đường, nhiệm vụ khó
kiếm người thay thế cấp thời được.
Lên tới Phnom Penh,
t́nh cảnh thấy buồn, văn pḥng Nội Chánh sáng vắn hoe, một số Chức Sắc đi làm sở
tư sinh sống, số c̣n lại làm lấy lệ bất cần giờ giấc có mặt tại văn pḥng là đủ.
Thân phụ Ngài muốn chấn chỉnh khuyến khích, nhắc nhỡ nhiều sanh ra bất b́nh, lần
hồi đưa đến kỳ thị, phân cách Chức Sắc Ngoại Giáo và Chức Sắc Nam Kỳ. Nam Kỳ gồm
có Giáo Sư Chủ Trưởng là thân phụ Ngài, Lễ Sanh Ngọc Tấn Thanh, Ngọc Huyện Thanh
và Ngài.
Phương hướng hành Đạo,
thân phụ Ngài áp dụng luật pháp chơn truyền làm căn bản. Phần tương quan với
Phước Thiện, có vài chuyện không làm vừa ḷng theo ư riêng của Bà Chí Thiện Nhâm,
bạn đời của ông Huỳnh Hữu Lợi, Thừa Sử Hiệp Thiên Đài.
Không v́ lẽ xây dựng
và cũng v́ bổn phận, trong phúc tŕnh nguyệt để, thân phụ Ngài tường tŕnh lên
Hội Thánh một cách trung thực mọi việc nơi Kim Biên Tông Đạo. Chức Sắc Ngoại
Giáo cho rằng bị tố cáo nên sự kỳ thị càng trầm trọng thêm hơn.
Ông Thừa Sử Huỳnh Hữu
Lợi được Đức Hộ Pháp tin dùng lại đứng về phe Chức Sắc Ngoại Giáo, thành thử
việc hành Đạo của thân phụ Ngài trong cương vị Chủ Trưởng càng khó khăn. Nhiều
điều tấu tŕnh lên Đức Hộ Pháp quá đáng, ngoài sự thật, thậm chí đến việc tạo
dựng Đạo Đức Học Đường dạy con em của Đạo. Lúc khởi công chẳng có ngân khoản nào,
do sáng kiến của Ngài, hiệp cùng ông Lễ Sanh Thượng Huân Thanh, Chưởng Quản Học
Viện bắt gió nắn h́nh dựng lên ba lớp, đủ bàn ghế, dụng cụ sách vở, sổ sách dạy
học. Ngài lănh làm Hiệu Trưởng, điều hành trường lớp, lo đủ Giáo viên dạy theo
chương tŕnh Đạo Đức Học Đường Ṭa Thánh cũng bị xuyên tạc, bóp méo cho rằng cha
con Ngài làm thương măi, kinh tế…chỉ trích nhiều điều vô lư.
Trường hợp khác ngày
họp khoáng Đại Hội Thánh Ngoại Giáo, giới Chức Sắc trẻ đi làm ngoài đời, một số
vắn mặt, không người lập vi bằng, cậy Ngài làm giúp, thế mà cũng cho Ngài là Bí
Thư riêng của Chủ Trưởng lại phạm quyền hành chánh, vào hội viết vi bằng.
Trước ở bổn quốc,
hành chánh Đạo thường bảo lănh xin trả tự do cho cán bộ Việt Minh kháng chiến
chống Pháp bị bắt hoặc v́ t́nh nghi. Bấy giờ ở Kim Biên Tông Đạo cũng vậy, mỗi
khi có người yêu cầu can thiệp cho thân nhân, thân phụ Ngài sốt sắn giúp đỡ,
Ngài theo thông dịch, tỉnh nào cũng có, đi khắp 18 tỉnh chỉ sót Rnakiri và Koh
Kong mới thành lập nên chưa đến.
Có lần cảnh sát ở Tân
Đáo, chi nhánh tại cảng Phnom Phenh, nói với thân phụ Ngài: “Việc nhỏ mọn cần ǵ
ông phải đi, ông lớn tuổi rồi, để ông nầy (chỉ ngay Ngài) đi cũng được, tôi cũng
tín nhiệm như có mặt ông”. Cao Uỷ Pháp tại xứ Cao Miên (danh từ cũ gọi là Bảo Hộ)
có lần mời tới để xă giao và có lần mời dự buổi lễ tiếp tân. Ông Chủ Trưởng Hội
Thánh Ngoại Giáo được tiếp đón niềm nỡ. Lúc ra về được tiễn ra tận cửa và được
bắt tay từ giă. Người Pháp lịch sự và tín nhiệm Đạo như thế so với Cộng Sản đa
nghi và kỳ thị.
Ông Huỳnh Hữu Lợi
tranh chấp với C̣ bị bắt ở bót cầu Sài G̣n, thân phụ Ngài đến lănh ra. Bà Vơ Thị
Nhâm (Chí Thiện) bị bắt v́ việc làm ăn riêng, bị giữ ở bót cảnh sát Liên Bang,
thân phụ Ngài cũng lănh về.
Trước ở Thánh Thất
Thái Ḥa, thủ đô Sài G̣n, lắm khi bữa cháo bữa cơm, nay đến thủ đô Phnom Phenh,
trong khi thiên hạ sống sa hoa, vật chất phủ phê đầy đủ, Ngài tự khép trong
khuôn khổ, cũng bữa cơm bữa cháo đạm bạc, thiếu thốn mọi bề, với tấm nhiệt thành
phục vụ, bất luận ngày đêm, có việc vẫn phải làm, thế mà công lao bị phủ nhận và
bị lên án lắm điều thị phi.
12. NỔI NIỀM RAI RỨT
Ngài rất là khổ tâm,
lại càng khổ tâm hơn trước sự khổ tâm của thân phụ Ngài. Thật là một thử thách
cao độ. Một buổi tối thân phụ Ngài cho gọi Ngài lên kiến diện. Giờ phút nầy Ngài
c̣n nhớ và có thê h́nh dung rơ, lúc ấy với sắc diện ưu sầu buồn thảm, thân phụ
Ngài nói: “Ba kêu con lên đây đê nói cho con biết, trước kia Ba muốn các con hứa,
ráng đi cùng bước Đạo, không bán đồ nhi phế…Nay sự việc thế nầy Ba không c̣n
buộc con giữ lời hứa đó nữa, nếu con tự thấy con đủ nghị lực hăy ráng tiếp tục ở
đây làm bạn với Ba, bằng không, con muốn về Ba cho con về, Ba không ép con ở lại,
phần Ba dù thế nào Ba vẫn phải ở đây làm nhiệm vụ cho trọn kiếp”. Ngài khóc mà
chẳng biết tại sao khóc, vừa khóc vừa nói trong nghẹn ngào nức nở: “Con về”. Nói
xong Ngài xuống ngay. Sáng hôm sau Ngài khăn gói trở về Thánh Địa Tây Ninh.
Ngồi trên xe, ḷng
xót xa, lương tâm ray rứt, nghĩ rằng thân phụ thương con vô bờ bến, ḷng bao la
như trời cao biển rộng, nào công sanh thành dưỡng dục, nào lo cho con ăn học
thành nhân, lo cho đủ điều…Trước muốn cho con đi tṛn bước Đạo, buộc con chẳng
bán đồ nhi phế. Nay trước cơ khảo đảo nặng nề, với nghị lực phi thường, với ḷng
hy sinh tuyệt đối, thân phụ cam gánh một ḿnh, không để cho con chung cùng kéo
dài đau khổ, muốn con xa lánh để được thanh thản yên vui, xử sự rất tâm lư, gọi
con đến giải tỏa lời kư hứa, cho phép con được tự do…Thế mà, con lại vô tâm
không hiểu thấu, vội rời cha ra đi, chẳng nghĩ khi xa cha, ngày mai cha sẽ buồn
thảm cô đơn như thế nào.
Ngài h́nh dung cảnh
Hội Thánh Ngoại Giáo, thân phụ đang làm ǵ giờ nầy theo thông lệ, đang nghĩ ǵ
và tâm trạng ra sao…
Trên mấy chục năm
thân phụ Ngài đă sống với Đạo với nhân sinh. Sau biến cố đời đă cướp đi hiền nội
trợ và hai con lớn… rồi có dịp gần con, một trong mấy đứa con trai c̣n lại, hôm
sớm có nhau, tưởng rằng luôn suốt nhiệm kỳ của Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo,
không ngờ chỉ trong thời gian ngắn ngủi, lại gặp hoàn cảnh éo le đặc biệt, cha
con phải rời nhau…Thân phụ làm sao khỏi buồn, trở lại nếp sống của thời xa xưa,
lấy nhiệm vụ Đạo làm sở thích, rồi ai sẽ làm tay chân giúp đỡ thân phụ, viết
công văn, thông dịch, ngoại giao với chánh quyền Miên Pháp? Ít nhiều công việc
cũng bị đ́nh trệ, thân phụ phải gánh thêm trách nhiệm với Hội Thánh.
Nhớ lại những đêm tối,
thân phụ xót ruột, Ngài lo thức ăn bồi dưỡng, làm hoặc mua món nầy thức nọ, cũng
an ủi tuổi già của thân phụ. Nay Ngài đi rồi, ai sẽ làm giúp? Thân phụ thường
không muốn phiền rộn người khác, chắc phải chịu xót ruột suốt canh thâu. Cảnh
nầy Ngài đă nếm qua, biết xót ruột là không ngủ được, đoán chắc thân phụ không
tránh khỏi, thật đau xót vô cùng. Nghĩ đến đó, Ngài tự trách ḿnh quá khiếp
nhược hèn yếu, ân hận tại sao ra về để thân phụ cô đơn một ḿnh giữa số người
đang đối kháng, xem nhau như thù địch, t́m phương hăm hại nhau. Càng nghĩ, càng
buồn, càng đau, lương tâm cắn rứt…ḷng như muối xát, ruột tợ kim châm.
Ngài tự lên án, hành
động quả đúng là thất hiếu, ích kỷ, chỉ biết có ḿnh, lo an vui cho bản thân mà
không nghỉ đến phụ thân. Tự hỏi tại sao trốn lánh bổn phận và trách nhiệm, đành
rằng thân phụ không buộc giữ lời hứa trước, tại sao lại bán đồ nhi phế, tại sao
không giữ chữ tín với ḷng, với lương tâm, với thân phụ, với Đạo? tại sao không
biết thương cha ép ḷng chịu khổ, gắng ở bên cạnh cha lo phần hiếu Đạo, vừa tṛn
lẻ Đạo với hai Đấng Tạo Đoan vừa là niềm an ủi cho cha lúc tuổi già?
Nhớ việc đă qua, Ngài
lấy làm hối tiếc, mấy tháng trước, một người bạn làm việc ở Pháp Hoa Ngân Hàng
mách khuyên Ngài làm đơn xin sở, Ṭa Đại Sứ Pháp đang cần một chân thơ kư…phải
chi thử xin và nếu được chấp thuận th́ ngày nay có thể sống cận thân phụ được,
tiếc là việc đă muộn.
13. TẠM NGHỈ VIỆC ĐẠO
Về nhà ít hôm, Ngài
xin việc làm tại Sở Trường Tiền tức Ty Công Chánh sau nầy. Ư định nghỉ luôn
không hành Đạo, nên sắc phục Hiệp Thiên Đài Ngài đem cho bạn đồng nghiệp, cả bộ
tiểu phục và đại phục. Anh em thương t́nh không nhận, Ngài nài ép măi anh em mới
chiều ḷng.
Ngài nghỉ ngang nhưng
kịp suy nghĩ lại, viết tờ xin phép nghỉ sáu tháng, hy vọng khi nào vơi nổi buồn
khổ c̣n có phương trở lại. Đức Hộ Pháp có thể hiểu được tâm trạng của Ngài, đặt
thành nghi vấn, cho lịnh Pháp Chánh minh tra. Ông Thừa Sử Nguyễn Hượt Hải thẩm
vấn. Đă nêu trong đơn “v́ nghèo xin nghỉ”, Ngài giữ nguyên lư do không đổi, v́
nghèo cũng có nghèo thật nhưng không phải lư do chánh yếu. Đức Hộ Pháp rộng ơn
chấp nhận.
Ra làm việc đời,
lương bổng tương đối khá, tâm hồn vẫn mang mác buồn, không lúc nào thấy vui,
thỉnh thoảng đến hầu các đàn cơ học hỏi tại nhà Luật Sự Huỳnh Văn Hưởng, Quí Bà
ở Cung Diêu Tŕ giáng dạy. Bát Nương thường hơn, nhắc nhở bổn phận trách nhiệm
đă kư hứa…Ngoài ra c̣n mách lối dẫn đường. Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn cùng nhiều Đấng khác cùng giáng dạy.
Thắm thoát 4 tháng
trôi qua, Ngài muốn tiếp tục bước đường công quả. Thảm nổi áo măo đă cho bạn rồi
không lẻ xin lại. Phải cố gắng làm măn phép để chuẩn bị. Với số lương trong thời
gian c̣n lại, Ngài sắm được một bộ Đại Phục, hai áo Tiểu Phục, 2 quần tây áo sơ
mi, 1 áo mưa và 1 xe đạp, toàn loại tốt đắt tiền.
Trước ngày nghỉ Sở
Trường Tiền, Luật Sự Nguyễn Minh Ngời và Ngài đă được Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn,
theo yêu cầu, giáng cho mỗi người một bài thi:
NGỜI
rạng non hồng ánh ngũ vân,
Say sưa chi măi luống quên phần.
Vầng hồng ló dạng c̣n lưng núi,
Bóng ác che thân vẫn để vần.
Đợi đám phong quang đưa đám tuyết,
Chờ thời long rạng độ h́nh lân.
Duyên phần lướt khỏi lùm cây cổ,
Đường thẳng thung dung cứ bước lần.
TRÂN
châu đâu để lộn cùng bùn,
Để giá đời nâng lệ phải tuôn.
Càng khổ càng đau càng quí trọng,
Lại mừng lại tủi lại thung dung.
Nét son hằng để đâu sai vị,
Đường nhạn đà vương khá nhớ tuồng.
Một bước dây dưa thêm bước tiến,
Mảnh thân vẫn ở cơi thềm hung.
Đức Ngài giải thích
thêm: Thềm hung là phận đổi đời.
Cũng trong các đàng
cơ nầy Ngài được Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ban cho Đạo hiệu Tùng Đức và liễn đối:
TÙNG lương qui chánh Giáo
ĐỨC trọng quỉ thần kinh
Đa số anh em Luật Sự
đồng khóa 1947 được Thiêng Liêng cho biết ở Cung, Động nào trước ngày xuống thế.
Ngài Trần Khai Pháp dạy nạp vào hồ sơ mỗi người để Ngài xem, đoán tính t́nh,
tiền kiếp và hậu lai.
Ngài được cho biết là
ở Động Bạch Vân.
____________________________
CHƯƠNG II
THỜI KỲ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG H̉A
1.QUAY LẠI HÀNH ĐẠO
2.ĐẢM NHIỆM PHÁP CHÁNH LONG XUYÊN
3.ĐƯỢC HỘI THÁNH BAN KHEN CÔNG NGHIỆP
4.NHỮNG CHUYỆN BUỒN VUI KHI HÀNH ĐẠO
5.CHUYỆN T̀NH DUYÊN
|
6.THAM GIA
HOẠT ĐỘNG CHÁNH SÁCH H̉A B̀NH
CHUNG
SỐNG
7.VỤ HAI ÔNG TRÁNG LIỆT VÀ TRÁNG CỬ VỀ T̉A THÁNH
LẤY TRO CỦA ĐỨC KỲ NGOẠI HẦU CƯỜNG ĐỂ
8.NGÔ Đ̀NH DIỆM ĐÀN ÁP NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CHÁNH
SÁCH H̉A B̀NH CHUNG SỐNG
|
1.
QUAY LẠI HÀNH ĐẠO
Nhập sở trở lại đầu
năm Tân Măo 1951 không trúng đợt bốc thăm đi tỉnh, Ngài được bổ dụng tại Bộ Pháp
Chánh. Chuẩn bị Hội Nhơn Sanh, ngày giờ cận kề, nhiều hồ sơ, việc làm gấp rút,
anh em làm việc cà ngày lẫn đêm, đôi khi thức đến 2, 3 giờ sáng mới nghỉ. Điều
cảm động đáng ghi nhớ, trên cương vị Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, mặc dầu tuổi cao
sức kém Ngài Trần Khai Pháp vẫn sát cánh với nhân viên gọi là chia vui sớt nhọc,
cộng yêu ḥa ái với nhau. Ngài thường cho thuốc thơm hút, đem từng điếu đến tận
bàn viết biếu từng người một, đem bánh trái riêng của Ngài mời mọc anh em rất ân
cần vui vẻ, không nệ cảnh đêm khuya khoắt, Ngài luôn tươi cười với anh em thuộc
cấp.
Giá trị vật chất
không đáng để luận, riêng về tinh thần tâm lư, t́nh cảm thật đáng quí trọng vô
cùng.
Ngài cùng các bạn
trong Bộ Pháp Chánh ghi nhận điều đó là một sự an ủi, một niềm khích lệ, nên mọi
người làm việc đều không thấy mệt. Anh em ghi nhớ măi hạnh đức ḥa đồng không
giai cấp của ngài. Mỗi khi có dịp, anh em nhắc đến Ngài luôn với sự kính mến
tràn đầy.
Trong những Thời Quân
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, chỉ có Ngài Trần Khai Pháp gần gũi, thông cảm với
đàn em hơn hết. Có lần Ngài tuyên bố trước sự hiện diện của Đức Hộ Pháp và Chư
Vị Thời Quân:
-Tụi nầy hiểu nó, cái
ǵ nó cũng làm được, c̣n không hiểu nó, cái ǵ nó cũng không làm được.
Ngài vừa chỉ anh em
Sĩ Tải vừa nói với sự cởi mở trong sự triều mến chan ḥa t́nh thương.
Đến khi Ngài Hiến
Pháp lên nắm quyền Bộ Pháp Chánh, trong lúc cuộc chiến xảy ra trong vùng Thánh
Địa. Ngài Hiến Pháp dạy Ngài viết văn thơ yêu cầu Tỉnh Trưởng không cho phép phi
cơ oanh tạc, dội bom gây thiệt hại nhiều về sanh mạng và tài sản của bổn Đạo.
Hai hôm sau Ngài Hiến Pháp liền nhắc hỏi:
-Em soạn văn thơ tới
đâu? Xong chưa?
Ngài đáp:
-Thưa Ngài, con thấy
khó, lời văn phải tế nhị, cần trao chuốc kỹ lưỡng mới có hiến hiệu. Con con
chỉnh chút ít cũng sắp xong.
-Nếu chưa viết thôi
cũng được, không cần lắm.
Chiều lại, Ngài tŕnh
bản nháp, Ngài khen hay và chấp thuận toàn diện, cho đánh máy, kư tên gởi đi.
Tuần lễ sau, Hội Thánh tổ chức tiệc tại Nữ Đầu Sư Đường tiễn Đại Tá Lê Văn Thiện
đổi đi. Khi dự tiệc về, Ngài Hiến Pháp thuật cho Ngài nghe:
-Tỉnh Trưởng mới đă
nhận thư rồi, do Đại Tá Thiện bàn giao, có hứa ra lịnh cố tránh không cho oanh
tạc vùng Thánh Địa nữa. Ông khen thư viết hay. Đại Tá Thiện cũng khen, nói đă
gởi gấm xin Tỉnh Trưởng mới lưu tâm.
Ngài Hiến Pháp bằng
ḷng ra mặt khiến Ngài cũng vui lây và phấn khởi.
Khi Ngài Hiến Pháp
được bầu cầm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài thay Đức Thượng Sanh qui vị, có
kêu Ngài đến nói riêng: “Qua muốn đem em theo làm việc với Qua nhưng Qua sợ
thằng Hiểu nó thất Đạo tâm”.
Ông Hiểu là cháu gọi
Ngài Hiến Pháp bằng chú. Lúc bấy giờ c̣n tại phẩm Truyền Trạng, Tổng Quản Văn
Pḥng Thượng Sanh, lúc Đức Thượng Sanh mất, ông sợ mất sở nên buồn xin nghỉ phép
đi Vũng Tàu đổi gió.
Trước sự yêu ái của
Ngài Hiến Pháp, Ngài thưa:
-Con rất cảm ơn Ngài,
nhưng con tự thấy có bổn phận phải ở lại Bộ Pháp Chánh để làm tay chơn giúp Ngài
Khai Đạo thuộc Chi Đạo và mới lần đầu lên cầm quyền Pháp Chánh, ít nhiều con
cũng có kinh nghiệm. Con không có ư định xin theo làm việc với Ngài.
Đối với Ngài Hiến
Pháp, Ngài xưng hô có tánh cách gia đ́nh nhiều hơn, bởi Ngài Hiến Pháp và thân
phụ của Ngài thường hay thù tạc đấu cờ với nhau.
ĐẢM NHIỆM PHÁP CHÁNH LONG XUYÊN
Tháng 8 năm Tân Măo
(1951)
Sau lễ Hội Yến Diêu
Tŕ thông lệ hằng năm, Bộ Pháp Chánh tổ chức bắt thăm định nhiệm sở, Ngài trúng
thăm Long Xuyên-Châu Đốc. Trong nhiệm kỳ một năm, Ngài lập được một công lao nhỏ
có phần bổ ích. Số là có sự tranh chấp với Quân Đội Ḥa Hảo vùng Cần Đăng, Quân
Đội Cao Đài v́ binh vực quyền lợi của bổn Đạo ở căn cứ Châu Thành-Long Xuyên,
Ngài cùng ông Lễ Sanh Phổ Tế Ngọc Bào Thanh đến viếng Thánh Thất Cần Đăng nghe
kề lại. Vấn đề nang giải, không ai dám đến tận đồn Ḥa Hảo gần Cần Đăng để
thương thuyết, ḥa giải. Ông chỉ huy tỉnh cả Khâm Châu cũng không đi.
Tự tin cũng có mà tin
quyền năng Thiêng Liêng nhiều hơn, Ngài t́nh nguyện đi thương thuyết.
Bàn Trị Sự sở tại
khuyên đừng mạo hiểm, sợ đi th́ có mà về lại không, đối với Ḥa Hảo thật nguy
hiểm, không nên khinh thường. Ngài cương quyết đi, ông Lễ Sanh Ngọc Bào Thanh
hưởng ứng cùng đi theo, kế đến một vị Chánh Trị Sự không nhớ tên t́nh nguyện dẫn
đường, lội bộ băng đồng.
Khởi hành độ 8 giờ
sáng, đến nơi lúc 9 giờ, các Ngài đều mặc tiểu phục.
Thấy sắc phục biết là
người Đạo, vị chỉ huy đồn Ḥa Hảo ban sơ tiếp một cách lơ là, lạnh nhạt, đăi trà
miễn cưỡng, trao đổi qua vài câu chuyện theo thể thức ngoại giao thường t́nh,
tinh thần có vẻ cởi mở hơn, hẳn nhờ Thiêng Liêng ám trợ, càng kéo dài câu chuyện,
từ sự cởi mở lần hồi dẫn đến t́nh cảm, càng lâu càng mật thiết. Trưởng Pḥng cho
bày tôm khô củ kiệu đăi với rượu đế, đến xế tiếp theo màn lave, nước ngọt, trà
bánh. Vùng hẻo lánh bất ngờ làm tiệc như vậy cũng khả quan.
Trời đă chích bóng,
Ngài định cáo lui, thấy đă thông cảm nhau ở mức độc khả quan, Ngài đề cập đến
vấn đề và được giải quyết thỏa đáng, hai bên đều thỏa thuận để tránh đổ máu. Vui
vẻ trước khi chia tay, Trưởng đồn Ḥa Hảo cho một tiểu đội bồng súng chào danh
dự tiễn các Ngài ra về. Đến nhà gần 4 giờ chiều.
Trên đường về, Chánh
Trị Sự nói:
-Từ sáng đến trưa
nghe nói chuyện đâu đâu, chẳng thấy đề cập vụ thương thuyết, tưởng quí Ngài
không dám bàn tới, cũng may sau rốt chỉ nói sơ qua là thỏa thuận ngay.
Ngài cười trả lời:
-Đi thương thuyết th́
phải ngoại giao, thương thuyết chờ đúng lúc mới hay, sớm có khi bất lợi, c̣n trễ
có khi không thành công. Việc ǵ cũng vậy, ở đời ḿnh nói hoặc làm phải đúng chỗ
và đúng lúc, dầu dở cũng có thề hóa hay, c̣n không đúng lúc đúng chỗ, cái hay
cũng trở thành dở.
Mọi người đều vui vẻ
cho rằng chuyến đi đă thành công mỹ măn.
Ở nhà, anh chị em họp
đông tại Thánh Thất, sốt ruột đợi chờ, đă xế chiều chẳng thấy về, không biết
chuyện ǵ đă xảy ra, suy luận bàn tán đủ điều. Lúc gặp lại nhau cười vui vẻ,
mừng rỡ khôn xiết. Cách nhau chỉ có mấy tiếng đồng hồ mà anh chị em cảm thấy
thời gian đăng đẳng, v́ tấm ḷng Đạo đức, anh chị em mới thương lo như thế. Thật
là cảm động.
ĐƯỢC HỘI THÁNH BAN KHEN CÔNG NGHIỆP
Tháng 8 năm Nhâm Th́n
(1952)
Ngài trúng thăm một
nhiệm kỳ Sóc Trăng-Bạc Liêu-Cà Mau và được thăng Sĩ Tải cũng niên khóa nầy.
Điều quan trọng nhứt
trong cuộc đời hành Đạo, tưởng ít ai được, trong dịp thăm viếng các tỉnh, phái
đoàn thanh tra hổn hợp gồm đại diện các cơ quan chánh trị Đạo: Hành Chánh, Phước
Thiện, Quân Đội, Phổ Tế và Pháp Chánh đề nghị ban khen Ngài. Hội Đồng Tối Cao
tạo Ṭa Thánh quyết định thuận. Ngài Trần Khai Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh
lập ban khen. Đức Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu H́nh Đài phê chuẩn.
Đặc biệt nhứt là ban
khen được gởi đi các cơ quan để ban hành cho toàn Đạo.
Hiệp Thiên Đài
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Bộ Pháp Chánh
(Nhị Thập Bát Niên)
Số:
1.999-PC T̉A THÁNH TÂY NINH
……………… ……………………………..
BAN KHEN CÔNG NGHIỆP
Vị Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân, đại diện Pháp Chánh địa phương Sóc Trăng và Bạc Liêu
năm Nhâm Th́n-Qúi Tỵ (1952-1953) hành sự đắc lực với trách vụ thiêng liêng của
một nhân viên Bộ Pháp Chánh.
Chiếu y đề nghị của Phái Đoàn Thanh Tra Hỗn Hợp và quyết nghị của Hội Đồng Tối
Cao nhóm tại Ṭa Thánh ngày 18-7-Quí Tị (26-08-1953) lập ban khen cho Sĩ Tải
Nguyễn Ngọc Trân.
Bộ Pháp Chánh rất vinh hạnh được mục kiến một Chức Sắc trẻ tuổi, xứng đáng về
tâm đức và chức nghiệp, nên:
“Ân Tứ Ban Khen Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân Để Nêu Gương Mai Hậu”.
Lập tại Ṭa
Thánh, ngày 29-08-Qúi Tỵ
(Dl 6-10-1953)
Chưởng Quản Bộ
Pháp Chánh
(Kư tên đóng
dấu)
TRẦN DUY NGHĨA
Phê Chuẩn
Hộ Pháp
Chưởng Quản
Nhị Hữu H́nh Đài
Hiệp Thiên và
Cửu Trùng
(Kư tên và
đóng dấu)
PHẠM CÔNG TẮC
Gởi đi:
-Ngài Q.Ngọc
Chánh Phối Sư ban hành cho toàn Đạo.
-Bà Chánh Phối
Sư Lại Viện Nữ Phái Hành Chánh ban hành cho toàn Đạo riêng về nữ phái.
-Hội Thánh
Phước Thiện Nam Nữ ban hành cho toàn Đạo.
-Hồ sơ riêng
-Hồ sơ văn
pḥng
-Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân làm kỷ niệm.
Chuyện xảy ra hơn 35 năm trong nhiệm kỳ ở Sóc Trăng-Bạc Liêu, hôm nay nhắc lại Ngài
vẫn thấy mát ḷng.
NHỮNG CHUYỆN BUỒN VUI
KHI HÀNH ĐẠO
Trong tiệc giỗ tại nhà cụ Cao Triều Chánh, anh Cụ Cao Triều Trực, Cao Triều Phát,
gia đ́nh giàu có, danh vọng ở Bạc Liêu. Ông Khâm Châu Thượng Kim Thanh được mời
ngồi bàn giữa, có mặt thân hào nhân sĩ trong tỉnh, có Ḥa Thượng Phật Giáo. Ông
Cao Triều Hưng là Hội Đồng Tỉnh Trưởng mở lời nói với Ngài:
-Hôm qua tôi đến ông Phó Tỉnh Trưởng, ông Phó có cho tôi xem bức thư Ông Pháp
Chánh gởi Ông Phó có ư phiền, lời văn Ông Pháp Chánh có vẻ nặng. Tôi nghĩ cũng
phải, bởi ông Pháp Chánh c̣n trẻ, c̣n hiếu thắng…viết phong b́ thư mời là do
Planton chớ Ông Phó nào đi làm chuyện đó mà Ông Pháp Chánh trách.
Mặc dù bất b́nh v́ bị xúc phạm trước đông quan khách, Ngài cố mỉm cười và đáp:
-Ông Hội Đồng nói đúng, tôi c̣n trẻ (lúc đó 27 tuổi), điều đó tôi không thể cải
chối, nhưng hiếu thắng th́ không có rồi. Hẳn Ông Hội Đồng c̣n nhớ trong quyển
“Le Cid” của Corneille, Don Rodrigue có nói “Je suis jeune, il est vrai, mais
aux âmes nées, la valeur n’attend point le nombre des années (Tôi c̣n trẻ, sự
thật như vậy, nhưng đối với những tâm hồn sanh đúng chỗ, tài năng, giá trị không
đợi tuổi bao giờ). C̣n việc viết phong b́ thiệp mời, tôi chẳng cần t́m hiểu coi
ai đă viết, tôi chỉ biết người kư tên chịu trách nhiệm thôi.
Liền khi đó Ông Tô Hảo, Hội Đồng Thị Xă Bạc Liêu tiếp theo:
-Đúng đó chú, Ông Pháp Chánh nói đúng đó chú. Bên Tây cũng vậy, viết thư mời mà
ghi trật chức vụ người ta phiền lắm.
Ông Tô Hảo là rễ thứ hai của cụ Cao Triều Chánh và là cháu rễ ông Cao Triều Hưng,
du học ở Pháp về, cũng là địa chủ lớn ở Bạc Liêu. Nhờ ông Tô Hảo bàn góp như vậy
nên Ông Cao Triều Hưng im luôn.
Sự việc xảy ra như thế nầy:
Ông Khâm Châu và Ngài được dự lễ gắn huy chương cho chiến sĩ có công trận trong
tiểu đoàn 19 do Đại Uư Cao Trí làm Tiểu Đoàn Trưởng (Sau Đỗ Cao Trí được thăng
Trung Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa). Gấp rút không kịp lập khán đài, quan
khách được mời đứng bên đại lộ chánh của thị xă. Ông Phó Tỉnh Trưởng có phận sự
sắp xếp chỗ cho quan khách, chẳng biết vô t́nh hay hữu ư, ông không lưu ư đến
đại diện Tôn Giáo. Chính Ngài tự chọn chỗ và mời ông Khâm Châu cùng đứng tương
xứng với cương vị ḿnh. Đă là việc bất b́nh thứ nhất. Việc thứ hai là Đại Tá Lê
Văn Tỵ, cầm đầu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa xuống xe bắt tay chào quan khách. Ông
Phó Tỉnh Trưởng hướng dẫn, giới thiệu từng người, lại không giới thiệu ông Khâm
Châu theo thứ tự. Ông nhảy khoảng để giới thiệu người kế tiếp, tỏ ư xem thường
ra mặt, tuy nhiên Đại Tá Lê Văn Tỵ lịch sự hơn, dầu không được giới thiệu, thấy
sắc phục cũng biết đại diện Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh, ông niềm nở bắt tay và
hỏi thăm sức khỏe Đức Hộ Pháp và Hội Thánh.
Măn lễ về văn pḥng, Ngài viết thư bắt lỗi, thêm khoảng gởi thiệp mời, nhiều lần
ghi chức vụ không đúng, như vậy là phỉ báng, khinh thường. Ngài viết:
-Tôi không muốn thấy trường hợp tương tự tái diễn.
Dưới góc trái Ngài ghi thêm:
-Kính tường tŕnh Đức Hộ Pháp.
Việc đă giải quyết tại chỗ, Ngài không có ư tŕnh phúc làm mất ngày giờ của Đức
Hộ Pháp, ghi như vậy có ư muốn hù ông Phó Tỉnh Trưởng, chẳng nên đụng chạm Tôn
Giáo. Ông Cao Triều Hưng muốn bênh vực nên có lời như thế đối với Ngài.
Cũng cần nói thêm cụ Cao Triều Phát cầm đầu Giáo phái Cao Đài Miền Tây Nam Việt,
từng tham gia Mặt Trận Việt Minh trong thời kháng chiến chống Pháp, với danh
nghĩa Cao Đài Cứu Quốc, có công can thiệp với Trung Ương Nam Bộ giúp bổn Đạo Cao
Đài Tây Ninh giảm phần bị tàn sát tập thể.
Thêm một việc nữa:
Trong dịp Thanh Tra Quân Đội Cao Đài ở Cà Mau lúc bấy giờ do Thiếu Tá Nguyễn Văn
Nhă (hiện là Thượng Phối Sư) làm Chỉ Huy Trưởng, Thiếu Tướng Lê Văn Tất đến
viếng Chức Sắc tại Bạc Liêu. Cùng đi chung có Đại Uư Phuông (Cựu Sĩ Quan Quân
Đội Cao Đài) đang là Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 19 do Đại Úy Đỗ Cáo Trí làm Tiểu
Đoàn Trưởng. Ông Khâm Châu, Giáo Hữu Thượng Kiên Thanh và Ngài ngồi tiếp khách.
Sau vài ba câu chuyện, Đại Uư Phuông muốn gây hấn, mở lời nói ngay với Ngài:
“Mấy ông Pháp Chánh đây hả, đi đâu cũng bắt người ta gọi bằng Ngài”.
Ngài bất b́nh nhưng gượng cười trả lời: “Chơi hoài anh, nói không sợ mất ḷng
anh em…”. Đại Uư Phuông tiếp: “Tôi hả, tôi mà sợ cái ǵ, ra chiến trường, súng
đạn tôi c̣n không sợ, c̣n nói cái ǵ tôi phải sợ mà không dám nói”.
Ngài cố gượng cười và đáp:
-Anh nói làm tôi nhớ một câu chuyện, không nhớ đọc ở sách nào? Có một Ḥa Thượng
chủ tŕ lớn một ngôi chùa lớn ở địa phương đó, Đạo đức nổi danh được nhiều người
quư trọng. Một buổi sáng nọ, Ḥa Thượng ngồi uống nước trà, chợt ngẩn mặt lên
thấy một khách thập phương vừa đứng tuổi đến viếng chùa. Ḥa Thượng mở lời nói:
Lâu rồi Thầy muốn gặp con mà chưa có dịp. May hôm nay con đến chùa, thầy nói cho
nghe. Đời mạc kiếp gần tận thế rồi, sống chết không ai tránh khỏi, sao con không
biết lo tu để nhờ kiếp sau, con c̣n đi cướp của giết người không sợ tội?
Người thanh niên phát cười lớn và trả lời:
-Thầy mà biểu tôi tu hả? tu cái ǵ? Tôi từng giết người không gớm tay mà Thầy
bảo tôi tu, làm sao tu? Tu cái ǵ? Tu để làm ǵ?
Trường hợp nầy Ḥa Thượng cũng chịu bất lực thôi.
Sau khi về, Ông Giáo Hữu Thượng Kiên Thanh nói riêng với Ngài: “Ngài nói nặng
lời không sợ nó oán, nó trả thù sao, làm Tiểu Đoàn Phó nó có lính, nó cho ĺnh
theo dơi Ngài ra đường cho lính đánh làm nhục Ngài làm sao?”
Ngài đáp: “Tôi đâu có ra đường làm chi, ở tại Thánh Thất sức mấy nó dám cho lính
vào gây rối.”
Sở dĩ Ngài bất b́nh và nặng lời với Đại Uư Phuông là v́ lần thứ nhứt lúc Phuông
làm Đại Đội Trưởng Tiểu Đoàn 15 đóng tại Thốt Nốt-Long Xuyên (Tiểu Đoàn Quốc Gia
gồm binh sĩ Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên chung hiệp do Thiếu Tá Cảnh làm Tiểu
Đoàn Trưởng). Đă một lần nói với Ngài lời lẽ đó. Trong khi Ngài và Ngài và Lễ
Sanh Thái Hằng Thanh- Phổ Tế đang viết diễn văn đọc vào sáng hôm sau nhân ngày
lễ thượng phướn tại Đền Thờ Phật Mẫu Thốt Nốt. Ngài không trả lời nay lại tiếp
tục gây hấn.
Ngài giải thích danh từ “Ngài” lúc bấy giờ được thông dụng trong bổn Đạo các nơi.
Đầu Tộc Hành Chánh, Phước Thiện, Phổ Tế, Khâm Châu, Khâm Trấn, Bổn Đạo, Chức
Việt, Chức Sắc đều dùng đễ xưng hô, tự động không ai bắt buộc cà chỉ là phong
trào thôi.
Tháng 8 năm Qúi Tỵ và Giáp Ngọ (1953-1954)
Hai lần liên tiếp Ngài trúng thăm lănh Pháp Chánh Chợ Lớn-Tân An-Bến Tre, đến
tháng 8 năm 1955 măn nhiệm về phục lịch Bộ Pháp Chánh .
Trước đó nhân Trung Nguơn, rằm tháng 7 xá tội vong nhân, bệnh viện Quảng Đông tổ
chức làm chay một tháng, cầu siêu các vong linh, cô hồn, các đảng. Thánh Thất
Chợ Lớn được mời, tham dự có các ban: Nhạc, Lễ, Đồng Nhi và Ban Chèo, Sở Nhà
Thuyền rước ở Ṭa Thánh. Dịp nầy Ngài lên diễn đàn thuyết minh ư nghĩa việc chèo
thuyền, dựa trên diễn văn của Ngài Trần Khai Pháp đọc tại Khách Đ́nh ngày
13-10-Ất Hợi (1935) nhằm ngày khai thuyền Bát Nhă.
Năm khánh thành Ṭa Thánh, Ngài chiếm giải Á Quân cờ tướng sau những ngày tranh
hùng tại Rừng Thiên Nhiên, nội ô Ṭa Thánh, giữa đông đảo kỳ thủ Việt Nam, Huê
Kiều ở Thủ Đô, Chợ Lớn cùng các tỉnh vùng Long Hoa. Ngài được thưởng một đồng hồ
đeo tay hiệu Telda và 500 đồng, khá lớn so với thời giá bấy giờ. Thật là vinh
điệu cho Ngài trong lúc thiếu thời nổi danh ở cửa Đạo.
Sau lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung, ngày 20-8-Đinh Mùi (1955), Trung Tướng Nguyễn
Thành Phương, Tổng Tư Lịnh Quân Đội Cao Đài và Thiếu Tướng Lê Văn Tất, Tư Lịnh
Phó bị mua chuộc kéo quân bao vây Hộ Pháp Đường, định đặt ḿn bốn góc cho nổ
Tướng Tất nói: “Nếu ḿn nổ mà Ông Phạm Công Tắc không chết mới tin là Phật sống”.
Lại cho Đại Uư Vui ngồi xe jeep chạy quanh khắp nẻo đường ngoại ô Thánh Địa, kêu
loa dựng đứng mọi điều, bôi lem danh thể và hạ uy tín Đức Hộ Pháp. Ngoài ra c̣n
lập Ban Thanh Trừng cho lịnh bắt giam một số Chức Sắc, bổn Đạo cùng Sĩ Quan mà
Phương cho rằng thân tín, trung thành với Đức Hộ Pháp.
CHUYỆN T̀NH DUYÊN
Cuối năm 1955, tháng Chạp Ất Mùi, Ngài đính hôn với cô Trương Thị Trạng, tuổi
Bính Tư (1936), gia đ́nh ở căn cứ Đạo Châu Thành Tân An.
Ngài không có ư lập gia đ́nh bởi miệt mài hành Đạo, chẳng có cơ sở vật chất,
không điều kiện tạo ra của cải, sợ không đủ sức nuôi vợ con, nguồn thảm lụy chực
chờ đưa đẩy đến nơi vô tận. Đă một lần gạt bỏ mối t́nh đầu với nữ sinh Phùng Thị
Ba quê ở Chợ Đệm-Chợ Lớn. Không làm sao quên được cuộc gặp gỡ giữa đường trên
sông Vàm Cỏ Đông, từ B́nh Ḥa đến Cầu Ông Lănh, chuyến đi Ṭa Thánh với thân phụ
Ngài, hai thuyền chạy ngược chiều, ngừng chèo dừng lại, bốn mắt nh́n nhau, cả
hai không nói nên lời, tâm tư hàm chứa bao triều mến luyến thương rồi chia tay
giả biệt, vĩnh viễn xa nhau, Ngài âm thầm chịu đau khổ, tưởng rằng nàng cũng
không kém đau khổ.
Thường xuyên sau giờ cúng mỗi đêm, Ngài hằng cầu nguyện để quên, song nào có dễ
quên nhanh chóng được. Thật là:
Xé nát ḷng người như
hoa rụng sương sa,
Như trăm mảnh tim ḥa
cùng giọt lệ.
Đời vật chất than ôi
là thế,
Biết bao giờ tác cạn giếng sầu thương?
Xét ḿnh để hiểu người, dụng đoàn tâm lư. Ngài t́m cách làm cho người yêu phiền
giận mới có thể chóng quên, đặng tạo lập gia đ́nh với người khác. Một đôi lần
gặp lại, khi Ngài c̣n độc thân và người thương đă có chồng con, tiếc v́ Ngài
thiếu sáng suốt, không đủ can đảm tŕnh bày lư do v́ đâu ra cớ sự, để người
thương thấu rơ nổi niềm cho đỡ phần trách hận. Do đó, mỗi lần nhắc lại, mỗi lần
thấy ray rứt cơi ḷng, hẳn không làm sao khỏi chịu tiếng bạc t́nh.
Nay nàng đă khuất bóng v́ tai nạn giao thông trên đường Sài G̣n- Ban Mê Thuộc,
thăm em đi quân dịch, chắc nàng đă hiểu và rộng ḷng tha thứ.
Ngài hằng cầu nguyện vong linh nàng được siêu thăng tịnh độ, hạnh hưởng tiêu
diêu nơi miền Cực Lạc.
Nhắc lại chuyện xưa tức là quay lại cuộn tơ ḷng đă cuốn sâu vào dĩ văng gần nữa
thế kỷ qua, Ngài c̣n thấy man mác buồn.
Không muốn lập gia đ́nh, Ngài để trôi nhiều cơ hội tốt lúc 23 tuổi, khi Ngài đảm
nhiệm Pháp Chánh Cần Thơ nhiều bà mẹ có con gái vừa tuổi thanh niên, tỏ lời mến
khen Ngài từ Đạo mạo, tặng nhiều từ ngữ rất tốt về mặt Đạo rồi nói: “Con nhỏ nhà
tôi khờ quá, lớn rồi mà chưa biết ham Đạo đức ǵ hết, phải có người Đạo đức như
ông Pháp Chánh dắt d́u dạy dỗ cho nó biết Đạo, tôi mừng lắm”…Có mấy gia đ́nh
cũng người Đạo, mời dùng những bữa cơm thịnh soạn, nói gần nói xa ư muốn tác hợp
cho con gái.
Khi đáo nhậm Rạch Giá, tuy thời gian ngắn ngủi, trên dưới 6 tháng, nhiều thiếu
nữ tỏ t́nh cảm ngay với Ngài. Ở căn cứ Đạo môi trường rất thuận lợi cho mọi sự
vấp ngă. Ngài e dè nhặt nhiệm, dầu rằng cũng xương cũng thịt, cũng óc cũng tim,
con tim nhiều lúc cũng chuyển động rung cảm, xao xuyến trước mỹ sắc với t́nh cảm
của người hành Đạo. Ngài kềm ḷng thiết thạch, nghĩa rằng các cơ quan Đạo đă
thấy ở ḿnh một cái nét đẹp, làm sao cố giữ h́nh ảnh đó tồn tại lâu dài. Bao
nhiêu cập mắt nh́n về phía ḿnh, nếu thật sự biết thương Thầy mến Đạo gắn đừng
để nhơn sanh thất vọng. T́nh thương yêu muốn được cao cả mỹ miều, bềnh bỉ th́
chẳng nên đóng khung vào một phạm vi nhỏ hẹp. Phải vượt mức ở tầm vóc bao la
rộng răi, mọi mờ ám va vấp nhỏ cũng làm giảm giá trọng, tổn thương đến danh thể
Pháp Chánh, danh thể Đạo. Ư thức bổn phận và trách nhiệm, dẫu rằng chỉ là một
Chức Việc Hiệp Thiên Đài nhưng trên tinh thần thượng tôn pháp luật Đạo, Ngài nhớ
lời khuyên dạy của Đức Hộ Pháp, của Ngài Khai Pháp, Ngài Bảo Thế, sau bữa tiệc
tiễn hành nhơn viên Pháp Chánh đi hành Đạo địa phương, nên chỉ những cạm bẫy:
“Tiền, quyền, duyên lúc nào cũng cố sẵn sàng đưa người tu vào vực thẳm, nhất là
thanh niên đầy nhựa sống”. Ngài cố vượt qua và may mắn bảo trọng danh thể chung
của Đạo, của Pháp Chánh vả giữ được uy tín của riêng ḿnh.
Trong nhiệm kỳ ở Long Xuyên-Châu Đốc, có một Chức Việc Bàn Trị Sự, đặt thẳng vấn
đề với Ngài, đại khái rằng:
-Tôi được sở cậy đến nói với ông Pháp Chánh một việc, có liên quan đến đời tư
của ông Pháp Chánh. Bà….để ư thấy ông Pháp Chánh có Đạo đức, thương nên muốn gả
con gái cho ông Pháp Chánh. Chồng bà trước kia cũng là Chức Sắc Hiệp Thiên Đài,
qua đời để lại cho Bà mấy người con. Mấy người con trai đă có vợ, hai người con
gái th́ chưa chồng. Đứa lớn tính t́nh thùy mị đảm đương, đứa nhỏ đẹp hơn nhưng
đức hạnh kém hơn chị nhiều. Bà muốn tác thành con gái lớn cho ông Pháp Chánh,
cũng người Hiệp Thiên Đài như chồng bà. Bà biết ông Pháp Chánh là Chức Sắc, hành
Đạo khôn giàu, bà hứa sẽ chu tất hết, từ việc cưới hỏi. Gia đ́nh Bà hiện có máy
xay lúa lớn ở Chắc Cà Đao. Bữa nào ông Pháp Chánh rănh mời lên chơi cho biết nhà.
Ngài lấy làm phấn khởi là cuộc hành Đạo tuy tuổi c̣n nhỏ vẫn được nhiều người
mến thương ở nết na và tư cách, song vẫn sợ cảnh “thực lộc chi thê” lệ thuộc vật
chất sanh điều nhẹ thể sau nầy, Ngài khước từ đề yên tâm hành Đạo.
Một lần khác vào trung tuần tháng tám, vài ba anh em Sĩ Tải tập trung ở văn
pḥng Pháp Chánh Vĩnh Long trước khi về dự Hội Yến Diêu Tŕ và để bắt thăm nhận
nhiệm sở mới. Anh em đến thăm gia đ́nh của nhạc phụ bạn Ngài Đinh Công Ảnh, Pháp
Chánh sở tại. Ông nầy là Giáo viên tỉnh lỵ. Đă nhiều lần quen biết trước, gia
đ́nh ông cũng dành cho Ngài nhiều t́nh cảm tốt. Sau hồi thăm xă giao và hàn
huyên trao đổi, trước khi kiếu từ, Ngài được nghe ông nói:
-Nghe cháu ở đây mấy hôm nay Dượng muốn gặp cháu. Dượng có người bạn rất thân,
Thông Phán lâu năm tại Ṭa Hành Chánh Vĩnh Long. Ông có người con gái dễ thương
cũng đẹp đứa, Dượng muốn làm môi giới tác hợp con cháu, Dượng hẹn chiều mai dẫn
cháu đến xem mắt. Chiều mai mấy cháu đến đây, độ 5 giờ rời đi với Dượng qua nhà
ông Phán chơi.
Ngài để lời tri ân và xin phép được từ chối, song Ông Giáo khẳng định rằng ông
là người lớn, đă hẹn rồi không thể thất hứa, định quyết phải y hẹn: “Chẳng lẻ
cháu để Dượng mất uy tín với bạn Dượng hay sao?”.
Nghĩ rằng chuyện bất khả kháng trước t́nh thâm nghĩa trọng của gia đ́nh ông Giáo
dành để, với mỹ ư Ngài không thể từ nan. Hôm sau anh em Ngài ăn mặc đàng hoàng,
quần dài sơ mi như thường lệ, nếp ủi chỉnh tề, cùng ôn Giáo đến tư thất của ông
Phán.
Được tiếp đón một cách ân cần niềm nở, Ông Bà Giáo đi cửa giữa vào salon ngồi,
sau một giây lựng khựng, do dự, để tỏ ḿnh biết lễ Giáo Nho phong, Ngài rẻ vào
cánh cửa trái, anh em theo ngồi quanh bàn vuông, ngôi nhà khang trang lịch sự
đầy đủ tiện nghi, trên 5 năm hành Đạo đi đây đi đó, lần đầu tiên đến nhà người,
không vào chánh cửa giữa, Ngài xác định vị trí cần thủ lễ.
Chủ nhà đăi trà bánh, trà Tàu hảo hạng, bánh Biscui nhập cảnh do Pháp sản xuất,
Phương pháp tiếp đăi cho thấy gia đ́nh thuộc hàng trưởng giả, văn minh. Dầu
rằng được xếp vào ngồi bàn trên, các Ngài cũng được Ông Bà Phán, ngồi ở salon
thăm hỏi đàm thoại, trao đổi đối đáp với nhau. Một độ, mươi mười lăm phút sau,
có người cho bức ảnh của ái nữ Ông Phán. Ngài xem thoáng qua rồi chuyển cho anh
em chơn dung người đẹp. Một phút sau, đèn điện bổng phụp tắc, anh em có phần
ngạc nhiên. Liền khi đó ánh đèn màu xanh diệu bừng sáng, cảnh trí dường như thay
đổi, mờ ảo nên thơ hơn.
Một cô gái từ trong buồng khoác màn bước ra, đến salon chào ông bà Giáo, xoay
qua chào Ngài và anh em. Chào xong cô trở về pḥng khuất dạng. Ánh điện lúc ban
đầu được thay vào ánh sáng mờ xanh thơ mộng khi thiếu nữ bước ra chào khách.
Việc xem mắt người đẹp diễn ra như thế, chập sau ông Giáo bảo mời anh em nhắm
tuần trà chung rồi kiếu từ ra về.
Hôm sau dùng cơm tại nhà ông Giáo, bà Giáo cho biết rằng gia đ́nh ông Phán chấm
Ngài ở tư cách, ngôn ngữ và đặc biệt khuyên điểm son ở cách ngắm h́nh, xem chơn
dung không ngắm lâu, không chăm chú thái hóa. Bà Giáo khuyên Ngài nên bước tới,
muôn sự dễ dăi được hứa hẹn dành để. Ông Giáo hỏi ư kiến, Ngài xin chờ thỉnh ư
của thân phụ trước.
Thật ra Ngài rất sợ v́ so hai hoàn cảnh khác biệt rất xa, Ngài th́ đeo đuổi về
mặt tinh thần Đạo đức, không phù phiếm xa hoa, nếp sống thanh đạm giản dị lại
nghèo, c̣n gia đ́nh ông Phán ngoại Giáo khá giả nếu không muốn nói là giàu. Thời
năm 1953, cô nàng đánh phấn thoa son hằng bữa, sơn móng tay theo đà văn minh cực
độ, sáng đi chợ mua thức ăn có người theo xách giỏ. Phối hợp cùng nhau chung
sống Ngài làm sao đáp ứng kịp nhu cầu của nàng? Nhờ vả và chấp nhận lệ thuộc gia
đ́nh bên vợ, thể thống c̣n ǵ giá trọng và bước đường công quả v́ đó có được
suông sẻ bền lâu chăng? Ngài nghĩ thoái bộ tự nhiên khoan, rút lui trước là
thượng sách. Những lần gặp lại nhau, ông Giáo tỏ lời tiếc uổng thay cho Ngài.
Cưới vợ lần nầy thật ngoài ư định của ngải. Nhiều lần được khuyên nên chọn ư
trung nhân để thân phụ Ngài tách thành cho, Ngài vẫn buôn trôi, thân phụ Ngài
trách: “Không khéo thiên hạ ta không có khả năng lo cho con lập gia đ́nh”.
Thân phụ Ngài sở cậy nhiều Chức Sắc đồng nghiệp chỉ giúp. Ông Giáo Hữu Thái Vàng
Thanh, Khâm Châu Đạo Tân An giới thiệu cô Giáo Trạng, con của Cựu Hương Cả làng
Tân Trụ, nhà ở căn cứ Đạo Châu Thành, Tân An. Từ đó kết thành cuộc hôn nhân, lúc
nầy Ngài tṛn 30 tuổi, c̣n cô Trạng vừa tṛn 20 cái xuân xanh.
THAM GIA HOẠT ĐỘNG
CHÁNH SÁCH H̉A B̀NH CHUNG SỐNG
Đêm mùng 4 rạng mùng 5 Bính Thân, tháng giêng 1956, Đức Hộ Pháp rời Ṭa Thánh tự
lưu đày ở Phnom Penh.
Hội Thánh thỏa thuận với Quân Đội lập Ban Ḥa Giải Hỗn Hợp, không gọi Ban Thanh
Trừng nữa, gồm đại diện các cơ quan: Quân Đội, Hành Chánh, Pháp Chánh mục đích
giải quyết tranh chấp giữa bổn Đạo với nhau, vấn đề hụi là chánh yếu. Lư do rối
rắm là năm 1955, một Công Tằng Tôn Nữ thuộc Hoàng Tộc, vợ Thiếu Tá Anh, cựu tài
xế Đức Hộ Pháp, quỵt hụi rất nhiều, vừa làm chủ, vừa chơi tay em nghe đâu trên
500 phần hụi lớn nhỏ, lợi dụng sự tin cậy của đồng Đạo dùng thủ đoạn gom hết
tiền rồi bỏ Thánh Địa đi nơi khác để anh em ở lại bị liên hệ dây chuyền thưa
kiện lẫn nhau.
Do sự sự phân công của Ngài Tiếp Pháp, Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Ngài lănh
nhiệm vụ Phó Ban Ḥa Giải. Đại diện Phước Thiện và Quân Đội cũng Phó, c̣n ông
Phối Sư Thượng Tuấn Thanh làm Trưởng Ban. Việc phân đoán tạm qua ngày tháng, lần
hồi thời gian lắng dịu, thật sự không làm thế nào giải quyết nổi. T́nh h́nh kinh
tế tại Thánh Địa rất khó khăn phức tạp đúng là khủng hoảng, t́nh h́nh chính trị
càng hổn độn hơn, do chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ra mặt đối lập với Đức Hộ Pháp và
cũng ra mặt kỳ thị tôn Giáo, gây nhiều tay biến ách nạn cho nhơn sanh.
Từ Phnom Penh Đức Hộ Pháp gởi Cương Lĩnh Chính Sách Ḥa B́nh Chung Sống và dạy
phổ biến. Đầu tiên Sĩ Tải Khỏe giao cho số Sĩ Quan Quân Đội Cao Đài, công việc
không phát triển, dường như âm thầm buông trôi, anh em Sĩ Tải thấy vậy mới họp
nhau lại tại nhà Ngài ở cửa số 4 Nội Ô Ṭa Thánh xung phong đảm trách, hội ư
phúc tŕnh lên Đức Hộ Pháp, đại ư không v́ tham quyền cũng chẳng phải háo danh,
chỉ t́nh nguyện chia cắt phận sự, lập thành Ban Vận Động Miền Nam, mục đích làm
cho được việc theo lịnh dạy. Nếu Đức Hộ Pháp chấp thuận thiện chí phục vụ th́
anh em tiến hành, bằng trái lại xin Đức Hộ Pháp giữ t́nh trạng cũ và kể như
không có việc ǵ xảy ra.
Mặt khác anh em cho liên lạc báo tin cho ông Sĩ Tải Khỏe, trên đường đi Phnom
Penh c̣n kẹt ở Tân Châu, biết rằng nếu đi luôn th́ tốt, bằng không nên sớm trở
về Ṭa Thánh theo lịnh mời của Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Vàng. Tỉnh Trưởng hăm bắt.
Đức Hộ Pháp chấp thuận, cấp chứng chỉ giao liên lạc mang về cho 7 anh em Sĩ Tải:
1.-Nguyễn Minh Ngời Trưởng Ban Vận Động Miền Nam
2.-Lê Quang Tấn Tổng Thư Kư
3.-Phạm Duy Nhung Ủy Ban Tuyên Huấn
4.-Nguyễn Ngọc Trân Ủy Viên Tổ Chức
5.-Huỳnh Văn Hưởng
6.-Nguyễn Văn Tú Ủy Viên Tài Chánh
7.-Nguyễn Thành Nguyên Thanh Tra Kiểm Soát
Trần Tấn Hợi Liên Lạc
Ông Hợi liên lạc được một chuyến đem phúc tŕnh lên Đức Hộ Pháp và thay mặt anh
em trong Ban Vận Động chúc xuân Đức Hộ Pháp công tác hoàn thành, lúc trở về bị
bắt tại biên giới G̣ Dầu, đưa về Tây Ninh, chuyển đi Biên Ḥa và chết trong ngục.
Chứng thư cũng là hiệu triệu, Đức Hộ Pháp kêu gọi những người ái quốc ưu thương
nên hợp tác với đồng chí mang chứng thư của Đức Ngài để cứu văn t́nh thế nguy
ngập của nước nhà hầu V́ Dân, Phục Vụ Dân và Lập Quyền Dân. Xin trích nguyên văn
như sau:
“Bần Đạo đă quyết
định tranh đấu giải phóng quốc dân khỏi lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp giữa
hai khối Thực Dân và Cộng Sản. Vĩ tuyến 17 do quyền hành của ngoại bang lập
thành, chia hao lănh thổ, Nam Bắc phân tranh, gây nên nội chiến không c̣n lư do
tồn tại. Những ai đă nhiệt thành ái quốc ưu thương để cứu văn t́nh thế nguy ngập
của nước nhà, xin đem cả năng lực hiệp tác cùng các đồng chí của Bần Đạo thọ
lănh ủy nhiệm thư nầy, hầu v́ dân, phục vụ dân và lập quyền dân đặng cho toàn
dân đủ thẩm quyền cứu quốc”.
Phnom Penh 15-6-Bính Thân (22-7-1956)
Anh em phấn khởi trước nhiệm vụ mới do tự nguyện. Khi bắt tay vào việc nghĩ ngay
đến con dấu Ban Vận Động Miền Nam đang ở trong tay Thiếu Tá Truyện, chiến sĩ
Pháp Hồi và cũng là Lễ Sanh do quyền Chí Tôn ân phong. Không trọn tin Thiếu Tá
Truyện mà cũng chẳng nghĩ ra cách nào để đ̣i lại con dấu cho được an toàn. Ngài
t́nh nguyện và may mắn nhận lại con dấu một cách vô sự.
Trong thời gian nầy ông Lê Quang Tấn và Ngài bị Tỉnh Trưởng mời đôi ba lượt, Mỗi
lần đi đều có Ngài Tiếp Pháp, Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh dẫn đầu. Tỉnh Trưởng để
lời khuyên dụ nên thuận tùng chính phủ do Chí Sĩ anh minh Ngô Đ́nh Diệm lănh Đạo…hăm
he bảo coi chừng. Hôm nay được mời đến c̣n mời ngồi trên ghế đàng hoàng, ngày
nào đó phải ngồi dưới đất trả lời…
Ngài đáp: “Là công dân sống dưới chế độ nào, chỉ biết chấp nhận mà thôi. Nếu
chánh quyền sáng suốt, tử tế, công dân được nhờ, bằng ngược lại, phải sao cũng
đành chịu vậy”.
Sau nầy ông Tấn và Ngài tự nhận khuyết điểm với Ngài Tiếp Pháp là trong những
lần đối thoại với Tỉnh Trưởng, Ngài Tiếp Pháp quá khiêm tốn, vừa ra dấu vừa
khoát tay bảo các Ngài thủ lễ:
-Nên đứng dậy trả lời mỗi khi quan lớn hỏi.
Các Ngài cứ phớt lờ, dường như không nghe thấy và vẫn điềm nhiên ngồi nói chuyện.
Chánh Sách Ḥa B́nh Chung Sống của Đức Hộ Pháp nhằm thống nhất đất nước bằng
phương pháp ḥa b́nh, tránh đỗ máu trong cảnh tương tàn cốt nhục. Chính phủ Ngô
Đ́nh Diệm do Mỹ lèo lái, cho rằng chính sách thân Cộng Sản nên thẳng tay đàn áp.
Ư thức trách nhiệm của một tín đồ và bổ phận của công dân đất nước, phận sự vẫn
cứ thi hành nhưng rất sợ ở tù và nhất là Ngài mới lập gia đ́nh vừa cưới vợ mấy
tháng trước.
Chuyến đi tổ chức Ban Vận Động Tỉnh Rạch Giá, Hà Tiên Ngài thoát hiểm trong
đường tơ kẽ tóc, nhờ đó có thêm ấn chứng để khẳng định mọi việc trên đời nầy dầu
nhỏ dầu lớn đều được an bày trước.
Ông Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Tỷ và Ngài vừa bước chân ra khỏi văn pḥng Châu Đạo Long
Xuyên th́ một viên công an đă ŕnh sẵn tại tiệm giặt ủi cách khoảng năm chục
thước dẫn xe đạp chạy theo. Ngài phải mang một xấp tài liệu Ḥa B́nh Chung Sống,
đă thận trọng hờ người mua vé trước, canh giờ c̣n 5 phút xe chạy, các Ngài mới
kêu xe lôi ra bến cách văn pḥng khoảng 300 thước, thế mà cũng không khỏi bị
theo dơi, đinh ninh thế nào cũng bị bắt vào tù. Trước đó một tuần lễ, ông Lễ
Sanh Thái Hằng Thanh đă bị bắt giam v́ vụ Ḥa B́nh Chung Sống.
Tới bến, Ngài đem hành lư để trên băng xe và muốn thử xem điều nhận xét có đúng
không, Ngài sang tả mua thuốc thơm hút rồi bước sang hữu mua chai dầu Nhị Thiên
Đường xức, vừa đi vừa nguyện thầm và liếc nh́n thấy người đó vẫn bám sát gót.
Biết là đă đoán đúng bị công an theo. Thấy nguy cơ đă đến, Ngài bàn với ông Tỷ
để Ngài lên xe trước, ném vội xấp tài liệu xuống sàn xe, thử xem có thoát nạn
không. Hy vọng mỏng manh rằng công an bám ông Tỷ, Ngài có thời giờ tẩu tán. Vội
vàng bước nhanh lên xe từ cửa sau đi tới, Ngài vừa cầm xấp tài liệu gói kỹ trong
giấy báo để trên băng ngồi, công an tới ngay bên cạnh, đứng dưới đất ngoài thành
xe hỏi:
-Đồ ông bấy nhiêu hay c̣n đâu nữa?
Thật lúng túng và lo ngại, tuy nhiên Ngài cố giữ b́nh tỉnh và trả lời:
- Chỉ có bấy nhiêu như ông thấy nảy giờ.
Ư Ngài muốn nói rằng: “Tôi đă biết ông theo tôi”. Ngài vội tṛng thêm cái áo
blouson cầm sẵn trên tay để pḥng lạnh mùa đông. Mặc xong nh́n lại thấy áo phía
trong loại 3 túi ló dài hơn blouson cả tấc, coi không được. Ngài liền cởi ra, để
nằm trên xấp tài liệu sát vách xe, đứng ngoài công an có thể lấy tới.
Nói hoặc viết có vẻ hơi dài ḍng c̣n hành động chỉ chớp nhoáng thôi.
Viên công an ra lịnh không cho xe chạy và bảo Ngài cho coi giấy. Công an xét rất
kỹ lưỡng, mở bóp xem tỉ mĩ từng ngăn, từng tấm giấy nhỏ, lục soát cặp, quần áo,
mở xem cả hộp savon tắm, savon đánh răng, tóm lại không bỏ sót món ǵ, thậm chí
cả túi áo túi quần trong cặp cũng soát luôn. Xoay qua Sĩ Tải Tỷ, công an đọc cả
hồ sơ Đạo, thơ tín riêng cũng đọc, lục xoát kỹ từng ly từng tí. Thấy chẳng có ǵ
khả dĩ bắt được, công an quay lại hỏi Ngài:
-C̣n ǵ nữa không?
Ngài cười, móc mouchoir trong túi vừa giũ vừa nói:
-Chỉ c̣n cái khăn nầy thôi.
Công an ra lịnh cho xe chạy. Hành khách chờ lâu sốt ruột, bất b́nh nhưng không
hiểu nổi chuyện ǵ, chẳng biết các Ngài là ai, tại sao lại bị xét quá kỹ mà chỉ
xét có hai Ngài mà thôi. Họ nh́n với đôi mắt tọc mạch và lo ngại dùm. Các Ngài
thở phào nhẹ nhơm, mừng v́ công an không phát hiện tài liệu. Một xấp giấy cao cả
tất tây, loại giấy duplicateur dùng quay ronéo.
Một hành động đột ngột đầy vẻ mất b́nh tỉnh: Mặc thêm áo vào lại cỡi áo ra, thế
mà giúp các Ngài thoát khỏi nạn tù.
Đêm đầu tiên ở Rạch Giá, Sĩ Tải Tỷ và Ngài ngủ đậu ở hậu điện Thánh Thất. Nữa
đêm có toán công an tuần tra xin vào tá túc để khỏi tiếp tục tuần tra nhọc nhằn.
Cùng ngủ chung nhau một nhà nhưng chẳng có ǵ để chúng khả nghi.
Sáng lại, nhân danh Đức Hộ Pháp, Ngài chuyển lời ủy lạo an ủi khích lệ một số
anh em trong Ban Vận Động Chính Sách Ḥa B́nh Chung Sống Tỉnh mắc ṿng lao lư,
bị giam ở khu vực Lâm Quang Pḥng-Rạch Giá. Anh em rất xúc động và tri ân Đức Hộ
Pháp.
Vài hôm sau, công việc được sắp xếp đâu vào đó, các Ngài đáp xe đi Hà Tiên. Đến
bến Tiểu Tô Châu lúc 11 giờ trưa, chờ măi đến 2, 3 giờ chiều phà vẫn chưa hoạt
động. Sốt ruột Ngài xuống xe t́m hiểu, được biết bến phà ngay cửa biển, sợ cập
bến Đại Tô Châu, không đủ sức kềm vững lái trước những cơn gió lớn thổi mạnh, e
không tránh khỏi tai nạn, chờ gió yên sóng lặng mới cho xe xuống phà tách bến
sang sông.
Ngày càng xế bóng, chẳng biết phải chờ đến bao giờ, ḿnh lại mang theo tài liệu,
sợ chẳng biết chuyện ǵ xảy ra hậu quả khó lường trước được, Ngài mạo hiểm xuống
đ̣ chèo sang sông một cách yên lành.
Bến đ̣ ngay trước chợ cạnh nhà hàng thủy tạ, ông Tỷ và Ngài bước lên bờ. Lần đầu
tiên đến Hà Tiên chẳng biết Thánh Thất cùng văn pḥng Đạo tọa lạc nơi đâu, lúc ở
Rạch Giá hỏi không ai biết. Đến Hà Tiên làm sao dám hỏi thăm, rất e ngại, chẳng
biết ai là lương dân, ai là công an cùng mật báo, lôi thôi có thể vào tù ngay.
T́nh thế khó khăng, các Ngài đang suy nghĩ bèn quyết định đi thẳng theo con lộ
ngan hông chợ, vào khoảng vắn, t́m nhà có vẻ làm ăn lương thiện nhờ chỉ giúp có
thể an toàn hơn.
Thật vậy, các Ngài được hướng dẫn đi quanh co, quẹo trái, sang phải thật là bất
tiện. Chủ nhà nói: “Sợ hai cậu đi như vậy mất công và khó t́m, tốt hơn là trở
lại chợ, theo lộ sát mé sông, đi măi vừa khỏi bót c̣, qua ngă tư là tới chùa Cao
Đài”.
Đă không muốn quai lại chợ sợ tai mắt ḍm ngó, nhứt là ḿnh lạ, tay xách cặp và
đồ cồng kềnh lỉnh kỉnh, nh́n là biết ở xa mới tới. Đắng đo một phút, đành chấp
nhận lối đi theo chỉ dẫn, dễ t́m Thánh Thất hơn. Các Ngài thư thả bước lại chỗ
cũ, qua khỏi chợ quẹo phải, lần theo lộ sát bờ sông đi, đi măi bỗng nhiên nghe
phía sau có tiếng xe đạp cận kề vẫn thản nhiên đi, láy mắt nh́n, nhận ra viên
cảnh sát mặc sắc phục vừa đến ngan rồi qua mặt, tắp vào lề cúp sát. Các Ngài
b́nh tỉnh chẳng chút e ngại, nghiêng ḿnh tránh cho khỏi đụng nhầm viên cảnh sát
và thản nhiên bước. Cách chạy xe áp sát như vậy nghĩa là đă nghi hoặc, cần xét
hỏi mà cảnh sát đă xuống xe, đứng tại lề, nh́n các Ngài lướt qua. Nghĩ rằng một
phần do thái độ và dáng đi b́nh tỉnh, nói cười tự nhiên, không chút e dè sợ sệt,
phần khác nhờ Thiêng Liêng ám hộ.
Các Ngài đến Thánh Thất b́nh yên vô sự.
Ông Khâm Châu vắn mặt, đă về Ṭa Thánh. Ông Đầu Tộc và vài ba Chức Việc Bàn Trị
Sự niềm nở ân cần tiếp các Ngài, một vị Chức Việc hỏi:
-Quí Ngài có bị xét hỏi ǵ không?
Ngài đáp:
-Không
Và tường thuật tự sự lúc mới đến. Vị Chức Việc nói tiếp :
- Rất may, nếu phải chờ theo xe qua bắc, quí Ngài sẽ bị xét hỏi lằn nhằn lúc lên
bờ, không hành khách nào tránh khỏi, nhiều tháng qua như vậy. Thỉnh thoảng biển
động, lâu lâu cũng có trường hợp như hôm nay. Phải nói là quí Ngài rất may.
Ở Ṭa Thánh tuy hoạt động Chánh Sách Ḥa B́nh Chung Sống, Ngài vẫn tới lui làm
việc tại Bộ Pháp Chánh.
VỤ HAI ÔNG TRÁNG LIỆT VÀ TRÁNG CỬ VỀ T̉A THÁNH LẤY TRO CỦA ĐỨC KỲ NGOẠI HẦU
CƯỜNG ĐỂ
Năm 1956, Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Vàng, nhờ có công với chánh phủ trong việc khắc
khe đàn áp Đạo trong tỉnh Tây Ninh, thêm sự nâng đỡ của Phó Tổng Thống Nguyễn
Ngọc Thơ, được thăng cấp đại biểu Chánh Phủ Miền Tây đặc trách Hoa Kiều Sự Vụ,
dẫn hai ông Tráng Liệt và Tráng Cử lên Ṭa Thánh đ̣i nhận lại xác tro của Đức Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để.
Lúc bấy giờ Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức cầm giềng mối Đạo do ủy nhiệm thư của
Đức Hộ Pháp. Cả Hội Thánh Lưỡng Đài chẳng biết tính lẽ nào, yêu cầu hoăn lại để
thỉnh Giáo Đức Hộ Pháp. Trước kia do di chúc, di ngôn của Đức Cường Để, Đức Hộ
Pháp dẫn phái đoàn Đạo sang Nhật thỉnh xác tro của người về thờ tại Ṭa Thánh.
Hội Thánh không dám tự chuyên quyết giao. Ông Vàng hỏi Hội Thánh th́nh Giáo cách
nào và chờ bao lâu. Hội Thánh trả lời: “Bằng điện tín và chờ một tuần”.
Ông Vàng cười và đồng ư. Sau này rơ lại là ty bưu điện nhận tiền và nội dung bức
điện tín nhưng không chuyển đi. Có vẻ ông Vàng đắc ư v́ sách lược dự tính sẽ
được áp dụng mà Hội Thánh không biết. Ông nghĩ trước sau ǵ th́ Hội Thánh cũng
giao xác tro mà không làm sao có lịnh của Đức Hộ Pháp. Thâm ư của chánh quyền
muốn cách ly Hội Thánh với Đức Hộ Pháp.
Đúng kỳ hẹn, ông Vàng và hai ông Tráng Liệt, Tráng Cử đến tại Giáo Tông Đường,
ông Vàng với vẻ đắc ư hỏi Hội Thánh:
-Thế nào? Đức Hộ Pháp trả lời thế nào?
Hội Thánh cho đọc bản văn do bút tự của Đức Hộ Pháp dạy giao xác tro và buộc kư
biên nhận. Ông Vàng ngạc nhiên hỏi:
-Hội Thánh liên lạc bằng cách nào?
Hội Thánh trả lời:
-Liên lạc bằng điện tín, Đức Hộ Pháp sai người mang giấy về cho kịp ngày giờ.
Ông Vàng hỏi:
-Đi đường nào?
Hội Thánh:
-Không biết.
Ông Vàng nghi nghi ngờ ngờ không đoán ra, kỳ thật Hội Thánh đă tiên đoán trước,
cho liên lạc đi để hồi âm về liền, việc gấp rút sợ trễ sẽ gây bối rối.
Ngài được lịnh thảo biên nhận tŕnh nháp lên Hội Thánh, chuyển qua tay ông Vàng.
Ông kêu Ngài chỉnh lại, đại ư đă đi với đại biểu chánh phủ mà ghi số căn cước
địa chỉ làm ǵ? Ngài nhỏ nhẹ đáp:
-Xin ông nói với Hội Thánh, tôi viết xong là hết phận sự.
Hội Thánh cho đánh máy biên nhận chỉnh theo yêu cầu của ông đại biểu. Trong lúc
chờ đợi Ngài hỏi hai con cụ Cường Để:
-Hai ông nghĩ thế nào mà đến đây xin đ̣i lại xác tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu?
Một trong hai người đáp:
-V́ hiếu Đạo rước về thờ.
Ngài hỏi tiếp:
-Hai ông quan niệm thế nào về chữ hiếu?
-Lúc c̣n sống phải vân lời, phụng dưỡng, chết phải thờ cúng.
Ngài nói lên ư kiến của ḿnh:
-Ông nói về hiếu Đạo, lúc cha mẹ c̣n sống phải vân lời. Tôi nghĩ lời trối trăng
của người chết đáng lẻ phải được tôn trọng hơn mới phải. Trước giờ nhắm mắt, Đức
Ngoại Hầu đă để lại di chúc và di ngôn, có ghi âm, xin gởi xác tro cho Đạo Cao
Đài Ṭa Thánh Tây Ninh. Đức Hộ Pháp là người dưng tôn trọng di chúc của bậc chí
sĩ anh hùng vị quốc vong thân ở nước ngoài, không nệ mệt nhọc tốn kém, dẫn phái
đoàn đến Nhật rước về thờ tại Ṭa Thánh theo ư đă để. Hai ông là con đáng lẽ
phải có bổn phận bảo trọng di chúc, di ngôn làm đúng như ư mới phải. Nay hai ông
đ̣i xác tro lại, đem đi nơi khác, làm trái di chúc tức là thất hiếu sao gọi là
hiếu.
Ngài dùng từ thất hiếu thay v́ bất hiếu.
Biên nhận được đánh máy sạch, kư tên xong. Hội Thánh mời qua Báo Ân Từ để giao
tại hậu điện. Hai ông Tráng Liệt và Tráng Cử trịnh trọng đưa ra 10.000 đồng nói
là đền ơn Hội Thánh và Đức Hộ Pháp. Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ Thanh khuyên
hai ông nên giữ lại để xài. Đức Hộ Pháp hành động mục đích không phải để hai ông
cảm ơn, và nếu nói đến đền ơn Đức Hộ Pháp th́ 10.000 đồng không thấm vào đâu so
với tổn phí cho cả một phái đoàn Đạo cùng đi với Đức Hộ Pháp, phí tổn phải trội
hơn nhiều. Vả lại trước kia mỗi lần hai ông đến viếng Ṭa Thánh, Đức Hộ Pháp
thường cho, ông nào cũng vậy khi 5.000 khi 10.000 đồng, Đức Hộ Pháp có tính toán
ǵ đâu. Nay có đáng ǵ để luận với số 10.000 đồng mà gọi là đền ơn Đức Hộ Pháp.
Ông đại biểu Vàng xen vào:
-Trước khác nay khác.
Hai ông Tráng Liệt và Tráng Cử xin để cúng chùa. Ngài Thái Chánh Phối Sư chỉ tủ
hành hương và nói:
-Việc cúng chùa là tùy hỉ, Hội Thánh không trực tiếp nhận tiền cúng chùa. Nếu
muốn xin để vào tủ hành hương.
Điều đáng ghi nhận là mấy hôm trước biết có vụ đ̣i xác tro, ông Sĩ Tải Lê Quang
Tấn và Ngài đă hội ư ông Đạo Nhơn Phạm Văn Út, Trưởng Tộc Phạm Môn, đă chia xác
tro của Đức Cường Để, phần lớn cất riêng dành cho Hội Thánh, gọi là kính trọng
di chúc người anh hùng chí sĩ, phần ít c̣n lại giao cho đại biểu chánh phủ và
hai người con của Đức Cường Để. Ông Út sau được thăng Chơn Nhơn đă qui vị, không
hiểu phần xác tro c̣n lại bây giờ ai giữ.
Ngày giao xác tro cũng có điều rắc rối nhỏ, Ngài Hiến Pháp lánh mặt, biên nhận
thiếu chữ kư của Ngài. Ông đại biểu giành giữ biên nhận nói sẽ đem cho Ngài Hiến
Pháp kư. Hội Thánh im lặng, mặc nhiên bằng ḷng. Các Ngài không đồng ư, đề nghị
Ngài Thượng Chánh Phối Sư Thượng Sáng Thanh đ̣i lại. Ông Vàng không giao.
Khi mấy ông lên xe sắp rời Ṭa Thánh, Ngài buộc ḷng nói lớn:
-Ông đại biểu chưa đưa biên nhận lại cho Hội Thánh.
Ông Vàng ngồi ở băng sau, bất b́nh vừa ch́a biên bản vừa nói to:
-Đây nè.
Ngài Thái Chánh Phối Sư vội cầm lấy và xe chạy, tạm kết thúc màng đ̣i xác tro
của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để do chánh quyền làm Đạo diễn.
Được nghe kể lại, xác tro được đưa về Huế, tổ chức lễ trọng thượng, nói là chánh
quyền rước từ Nhựt Bổn. Phải chăng chánh quyền Ngô Đ́nh Diệm lo ngại tinh thần
ái quốc của đồng bào trong nước sẽ tập trung hướng về Thánh Địa Tây Ninh, có
Báo Quốc Từ thờ các anh hùng chí sĩ vị quốc vong thân, gây ảnh hưởng không hay
cho chánh quyền hiện hữu.
NGÔ Đ̀NH DIỆM ĐÀN ÁP
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CHÁNH SÁCH H̉A B̀NH CHUNG SỐNG
Đầu năm Đinh Dậu (1957)
Hội Thánh chuẩn bị lễ Vía Đức Chí Tôn ngày mùng 9 tháng 01. Các ông trong Ban
Vận Động Miền Nam nương tùng theo, phái người đi khắp địa phương cổ động mời
tham dự đông đảo, làm nhiều Cộ Bông, vẽ thật nhiều biểu ngữ nói lên tôn chỉ của
Đạo, của Chánh Sách Ḥa B́nh Chung Sống và đề nghị rước Đức Hộ Pháp hồi loan cầm
giềng mối Đạo. Ngài Thái và Ngọc Chánh Phối Sư tích cực giúp đỡ, cho mượn căn
pḥng trống thường dùng để họp trên lầu Nội Chánh, ít người tới lui, yên tịnh,
anh em viết biểu ngữ có thể giữ kín nhẹm được.
Mọi người đều hăng say tích cực, làm suốt mấy ngày đêm, các ông quanh quẩn bên
cạnh, sẵn sàng mau lẹ cung cấp vật liệu theo nhu cầu. Châu Thành Thánh Địa các
Phận Đạo chưng nhiều cộ bông, chẳng hạn cộ “Hàng Hớn Bất Hàng Tào”- Gà Nhà Bôi
Mặt Đá Nhau - Vua Pḥ Dư ở ác bị thiên tai hạn hán … Năm nay cuộc lễ có trên 30
cộ, nhiều cộ hơn hết so với những năm trước. Nhơn sanh về dự lễ cũng đông hơn,
hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Vận Động Ḥa B́nh Chung Sống.
Đại diện chánh phủ trung ương, Chánh Quyền Tỉnh, ngoại giao đoàn, báo chí, thân
hào nhân sĩ các địa phương, phái đoàn quay phim của Mỹ, ngoại quốc và trong nước,
các tôn giáo bạn, những người được mời, đại đa số đều có mặt để dự lễ.
Thường niên, Ty Thông Tin cho Đạo mượn xe, có máy và loa truyền tin trong giờ
hành lễ. Năm đó t́nh h́nh có vẻ thay đổi. Các ông trong ban tổ chức hoài nghi,
sợ chánh quyền nêu lư do nầy khác để giờ chót từ chối, khiến cuộc lễ giảm phần
long trọng, mất hào hứng. Ngài đi sài g̣n mướn máy. Ngài Thái Chánh Phối Sư cho
mượn xe SIMCA và cho tài xế Vệ lái đưa.
Ngài có hẹn với Ông Phổ bạn của Ngài, người đă thi rớt Luật Sự năm 1947, nay
đang làm việc ở Bộ Thông Tin Sài G̣n. Ông hứa giúp đỡ giới thiệu dùm, nhưng
chẳng nơi nào dám cho mướn các loại máy thông tin, truyền tin, sợ xảy ra việc
mất trật tự an ninh, bị chịu trách nhiệm với chánh phủ.
Ông Phổ mạo hiểm lấy máy của Bộ cho mượn.
Đem về các ông bên ban tổ chức gắn loa hai bên khán đài từ Đền Thánh đến Báo Ân
Từ thật đầy đủ, hơn của Ty cho mượn thường lệ trong các cuộc lễ những năm trước.
Quả đúng như điều tiên kiến, giờ chót Ty Thông Tin nêu lư do máy hư không cho
mượn. Nhờ tiên liệu nên kết quả được như ư.
Sau đàn cúng Vía Đức Chí Tôn ở Đền Thánh bước ra, tất cả đều ngạc nhiên thấy rất
nhiều biểu ngữ xuất hiện, treo dầy đặc trước Đền Thánh, hai bên khán đài. Chung
quanh Đại Đồng Xă, dài theo Đại Lộ Phạm Hộ Pháp tới Báo Ân Từ.
Biểu ngữ viết trên popeline, vải trắng thật tốt, chữ Việt có, chữ Pháp có, chữ
Anh cũng có, khác hẳn quang cảnh trước giờ cúng Đàn, lưa thưa trên dưới 10 biểu
ngữ viết trên vải tấm và trần buồm.
Sáng mùng 9 hành lễ tại Đại Đồng Xă, bổn Đạo được xếp theo thứ tự, tỉnh nào theo
tỉnh nấy, nhờ sanh hoạt trước có bản ghi rành rẽ chỗ đứng. Cộ diễn hành qua khán
đài quan khách, ông Lễ Sanh Ngọc Lương Thanh được cử làm xướng ngôn viên, nhắc
sự tích cùng dẫn giải từng cộ một, tiếp sau các cộ bổn Đạo tuần hành kéo đi
trong trật tự, hô lên nhiều khẩu hiệu theo các biểu ngữ. Lộ tŕnh đi từ Đông
Khán Đài đến Chánh Môn, lộ Cao Thượng Phẩm, qua Tây Khán Đài đến trước Ṭa Thánh
thẳng tới Nữ Đầu Sư Đường, Giáo Tông Đường, Hiệp Thiên Đài, Hộ Pháp Đường và
giải tán trước Báo Ân Từ.
Micro đặt một cái tại Đại Đồng Xă, gần Đông Khán Đài cho Xướng Ngôn Viên lúc
hành lễ và một cái trên bao lơn Đền Thánh, để Ngài dùng để điều hành bổn Đạo.
Ai cũng thấy rằng cuộc lễ tự nhiên biến thành cuộc biểu t́nh không lồ, trên 3
vạn người. Các phái đoàn phim, chụp ảnh, báo chí giúp gây được tiếng vang khả
quan với quốc tế.
Nghe kể lại khi cộ gà diễu hành qua khán đài, ông Trần Chánh Thành Tổng Giám Đốc
và Công An hỏi:
-Gà nào là gà Miền Nam, gà nào là gà Miền Bắc?
Đại Uư Được nhờ có sáng kiến công cộ gà trong dịp nầy mà nổi danh, bị bắt đi tù
cũng tại cộ gà nầy.
Có điều đáng tức cười là phái đoàn quay phim Mỹ tới Ṭa Thánh mùng 8, dụng cụ,
máy móc, y phục đều gởi tại nhà khách Giáo Tông Đường. Có cả sắc phục Hộ Pháp,
Giáo Tông. Ban tổ chức chẳng rơ họ có ư đồ ǵ, đinh ninh rằng chánh quyền Công
Giáo muốn dựng người lên làm Hộ Pháp và Giáo Tông gây rối cho Đạo nên hội ư cùng
Trung Tá Đỗ Công Khanh, Chỉ Huy Cơ Thánh Vệ, khóa luôn cửa pḥng không cho sử
dụng sắc phục ấy.
Sau nầy được biết họ thực hiện cuốn phim “Un Ame1rican Tranquille” (Một Người Mỹ
Trầm Lặng). Cuộc lễ bế mạc, anh chị em biểu t́nh vừa giải tán. Ban vận động ai
lo việc nấy. Phần ông Trân mượn máy và loa tức cấp thu máy gọn gàng để lên xe
SIMCA chở về Sài G̣n trả lại cho ông Phổ.
Thức mấy ngày đêm liên tiếp, lên xe là ngủ ngay, ngủ say sưa không c̣n biết ǵ
nữa. Ngài đinh ninh rằng tài xế Vệ không bắt buộc phải thức nhiều mấy bửa trước,
hẳn c̣n tỉnh táo để lái xe, không ngủ. Xe chạy gần đến đường Suối Sâu ông Vệ ngủ
gật để xe leo lề vượt các mương, xe nhảy lưng tưng tưởng lật, ông Vệ cùng Ngài
đều hoảng hốt, cơn buồn ngủ biến mất ngay. Rất may ông Vệ kịp thời lái xe trở
lại đường thẳng không gây tai nạn. Mọi việc được giải quyết một cách hoàn tất,
đâu đó vẹn toàn. Rủi có bề ǵ ông Phố cũng liên đới gánh hậu quả.
Sau cuộc lễ “Hào B́nh” (1957) Công An Ngô Đ́nh Diệm thẳng tay đàn áp, khủng bố
Đạo. Ngay chiều mùng 9 tháng giêng, em Song học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia
Định có công viết biểu ngữ suốt mấy ngày đêm, bị bắt ở ngoại ô gần cửa số 2 Ṭa
Thánh.
Nhàn Du khách sạn gần cửa số 3 nội ô bị chiếm làm văn pḥng Ty Công An Tỉnh. Đầu
tiên một số người thuộc cơ quan hành chánh bị bắt khai thác. Tiếp theo người của
Phước Thiện lần lượt vào tù. Chính ông Trịnh Phong Cương, Đạo Nhơn Chưởng Quản
Phước Thiện bị bắt trong đợt nầy, bị giam và chết trong ngục.
Không t́m ra chủ chốt sách động cuộc lễ, chánh quyền tỉnh bắt buộc Hội Thánh gia
nộp thủ phạm, bằng không Hội Thánh phải chịu trách nhiệm.
Một phiên họp được triệu tập bất thường vào một buổi chiều tại Giáo Tông Đường
với quyền chủ tọa của Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước. Nêu đề tài trên. Ngài Bảo Thế
tuyên bố:
-Anh em ai ra tổ chức cuộc lễ, có gan làm có gan chịu mới anh hùng đừng để Hội
Thánh gánh lấy trách nhiệm.
Ông Lê Quang Tấn nhận và xin để anh em chịu trách nhiệm. Ngài tiếp:
-Chúng tôi xin xung phong chịu v́ không muốn Hội Thánh gánh lấy trách nhiệm,
không phải ham tiếng anh hùng như Ngài Bảo Thế đă tặng. Xin hẹn sáng mai chúng
tôi sẽ đưa người để cho Hội Thánh nạp cho chánh quyền.
Tối hôm đó anh em Sĩ Tải trong Ban Vận Động Miền Nam họp nhau tại Hiệp Thiên Đài
bàn thảo. Ai nấy đều dành nhau đi tù, không ai muốn tự do nh́n anh em trong ṿng
lao lư. Ngài góp ư:
-Việc đi tù dể rồi, chỉ chịu đựng mấy ngày đầu bị điều tra khai thác. Khó là ở
ngoài, tuy nói là tự do nhưng phải trốn lánh, tiếp tục làm nhiệm vụ chẳng lẻ vào
tù hết, bỏ dang dở công việc hay sao?
Ông Sĩ Tải Tiếp nói:
-Nói để ở ngoài tự do mà công an có chịu cho ḿnh tự do hay không? Thà đi tù hết.
Ngài nói:
-Cái khó và cũng là cái khéo ở chỗ đó. Làm thế nào cho được an toàn bản thân mà
công chuyện không bị ngưng trệ phải tiến hành trôi chảy.
Nhiều bất đồng chung quanh ư kiến đi và ở, sau cùng anh em biểu quyết bốc thăm.
Làm một số thăm ghi tên người có mặt, vo tṛn đựng riêng một nón. Một số thăm
trắng lẩn lộn thăm ghi chữ tù đựng riêng một nón khác. Số lương thăm đôi bên
bằng nhau. Hai người được chọn bốc thăm.
Kết quả đặc biệt là anh em mang tên chữ T đứng đầu đều trúng thăm tù. Ngộ nghĩnh
một điều là người bốc thăm trắng lại bị bắt trước, c̣n người bốc thăm tù th́ vẫn
được tự do trong giai đoạn đó. Khi cộng sản nắm chánh quyền, giáo đầu vào tù là
những người có mang tên chữ T đứng trước.
Một tiệc trà bánh đơn sơ đạm bạc bày ra, anh em trao đổi tâm t́nh, kư thác, an
ủi, khích lệ lẫn nhau và sau rốt giă biệt nhau trong t́nh cảm đậm đà thắm thiết,
bùi ngùi luyến ái, để sáng hôm sau kẻ đi tù, người ở lại làm nhiệm vụ.
Trước khi chia tay Ngài có ư kiến: Trước t́nh h́nh nghiêm trọng đề nghị anh em
vào nghỉ đêm ở nội ô cho an toàn. Đa số không tán thành cho rằng: chưa đến lúc
phải lo ngại. Riêng ông Lê Quang Tấn đêm đó nghỉ tại Nội Chánh, pḥng Ngài Phối
Sư Ngọc Non Thanh, Ngài ngủ chung pḥng với Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ
Thanh.
Việc xảy đến đúng như tiên đoán, mới 9 giờ, tin báo Phạm Duy Nhung bị bắt, công
an t́m bắt Ngài, ở chung vách với Nhung mà không gặp. Công an t́m đến ông Hưởng
nhưng ông Hưởng vắng nhà. Đến 11 giờ lại có tin báo tiếp là ông Hưởng đi chơi cờ
tướng về bị bắt ngay tại cửa. Công an núp chờ sẵn tại bụi Thiên Tuế trước nhà.
Đêm đó Chức Sắc Cửu Trùng Đài lớn nhỏ, ở Nội Chánh đều xót xa với tinh thần
thương mến hai ông Nhung, Hưởng và lo ngại cho những người c̣n lại đang ở ngoài.
Dầu rằng trong tư thế sẵn sàng chấp nhận nhưng trước cuộc diện như thế làm sao
không lo được? Chương tŕnh nạp ḿnh để Hội Thánh giao cho chánh quyền bị găy đổ,
bổn phận chưa xong, hành tŕnh sẽ tính sao trong những ngày tới? chẳng thể bỏ dở
dang nữa chừng. Làm thế nào để khỏi hoài công Đức Hộ Pháp đă tin tưởng giao
nhiệm vụ -cấp thiết hơn khi trời chưa sáng, giải quyết ngay nơi ăn chốn ở thê
nào cho ổn, khả dỉ gọi là an toàn…suốt đêm hai ông không ngủ được, ngổn ngan
trăm mối tơ ṿ.
Đồng hồ điểm 4 giờ mà vẫn chưa t́m lối thoát. Ông Tấn định xin tạm trú ở Nữ Đầu
Sư Đường, Ngài thấy bất tiện v́ chỗ ở toàn nữ phái ở. Sau cùng quyết định vào Hộ
Pháp Đường. Anh em yên lặng cử động nhẹ nhàng để khỏi bị phát hiện, ngặt nổi mấy
con chó ở Hộ Pháp Đường sủa vang nên các ông càng thêm lo ngại. Ông Quản Gia (không
nhớ tên) chạy vội ra lên tiếng hỏi:
-Ai? Ai?
Ngài xưng danh xong, ông Quản Gia nói:
-Tưởng ai chớ có Sĩ Tải Ngời mới vô đây.
Các ông mừng thấy an tâm phần nào, hài hước thốt lên:
-Những tư tưởng lớn lại gặp nhau.
Anh em lặng lẻ theo gót ông Quản Gia, mở cửa hậu vào, bước ngay vô pḥng ngủ
tầng dưới Hộ Pháp Đường, thấy có mặt anh Ngời và nhạc sĩ Đảnh. Một chút sau nhạc
sĩ Đảnh rời khỏi nơi đó. Do ư kiến của ông Trân v́ Đảnh không đủ tin cậy, Sĩ Tải
Tiếp và Sĩ Tải Tỷ đến. Các ông lúc nầy gồm 5 người: Nguyễn Minh Ngời, Lê Quang
Tấn, Bùi Văn Tiếp, Nguyễn Ngọc Tỷ và Nguyễn Ngọc Trân thay đổi hẳn nếp sống từ
đó. Hằng ngày cơm ăn hai bữa, ông Quản Gia giúp đỡ mang đến tại chỗ, có tủ lạnh
tấm douche, vệ sinh cầu máy, có báo cũ Paris-Math để xem, điều đáng buồn cười là
nhà luôn luôn đóng kín cửa không người nào dám chường mặt ra. Cùng nhau lẫn trốn
mà dám nói là “Tư tưởng lớn gặp nhau”.
Nhớ thương ông Tả Phan Quân Trang Văn Giáo, lúc c̣n làm việc chung tại Bộ Pháp
Chánh, ông đoán ṃ rằng anh em Sĩ Tải có hoạt động bí mật mà không nói ra, v́
thương nên sợ anh em bị nạn, thường khuyên dứt gần xa. Quá hăng say trong đường
lối, anh em chấp nhận mọi nguy hiểm khó khăn, đôi khi nông nổi thốt nhiều lời
mích ḷng, nhưng ông không giận. Lúc vào nằm ở Hộ Pháp Đường, ông biết được nên
lén lút đến thăm, mang theo nảy chuối già, cây nhà lá vườn, biểu anh em dùng lấy
thảo. Các ông Sĩ Tải rất cảm động và ghi nhớ măi tấm chân t́nh của ông, của ít
ḷng nhiều là thế.
Ông Giám Đạo Nguyễn Văn Hợi và ông Lễ Sanh Ngọc Lương Thanh cũng vào thăm, tṛ
chuyện khá lâu mới chia tay.
Trong dịp nầy ông Lương cho Ngài biết là bản thân ông cũng bị bắt ở Nhàn Du
Khách Sạn vừa được thả về. Công An hâm bắt Ngài dữ lắm. Họ nói:
-Nếu bắt được thằng Trân sẽ đánh dần cho nó mềm xương cho nó giỏi đi thưa.
Ông Lương quá lo sợ, xuất tiền nhờ Lê Văn Xă (sau nầy là Hiền Tài Ban Thế Đạo,
đắc phong Giáo Hữu luôn) lo lót, khi nào bắt được ông Trân đừng tra khảo, chờ
giải quyết sau.
Số là trước đó mấy tháng ông Ngời bị bắt giam ở Nhàn Du Khách Sạn cả tuần lễ.
Ông Trân đề nghị với Ngài Hiến Pháp kiện ra Ṭa, chiếu Hiến Pháp yêu cầu can
thiệp. Ngài Hiến Pháp chấp thuận, ông Giám Đạo Nguyễn Văn Hợi được giao nhiệm vụ
cầm thơ đưa ngay ṭa án. Mấy hôm sau ông Ngời được trả tự do, công an biết
nguyên do cố oán là v́ vậy.
Tuy lánh nạn ở Hộ Pháp Đường, các ông Sĩ Tải vẫn tổ chức kín đáo, liên lạc ra
vào, công việc vẫn tiến hành trôi chảy, có phúc tŕnh lên Đức Hộ Pháp, phát hành
bản Thông Tin Ḥa B́nh Chung Sống, tóm lại không gián đoạn phận sự.
Các ông Sĩ Tải luôn nắm vững t́nh h́nh. Không nhớ rơ ở Hộ Pháp Đường được bao
lâu. Bên ngoài ngày càng khó khăn nghiêm trọng, e ở lâu không tiện, phải rời Ṭa
Thánh càng sớm càng tốt. Ngại nổi có nhiều điểm chỉ viên, mật báo, công an, từ
cửa số 2, số 3, số 4 nội ô đến cửa số 7 ngoại ô, phần lớn là con Chức Sắc con em
của Đạo muốn cầu thân cầu thế thường đêm tập hợp đờn ca, xướng hát, ăn nhậu với
công an. Họ biết mặt anh em Sĩ Tải hầu hết, ló ra có thể bị bắt ngay. Anh em lấy
làm khó nghĩ, sau cùng nhớ đến ông Lễ Sanh Ngọc Hạnh Thanh thuộc Ban Vận Động
tỉnh Tây Ninh có xe hàng thường lên xuống Sài G̣n, các ông Sĩ Tải cho liên lạc
và được thỏa thuận ngày giờ, địa điểm xe đến rước. Hẹn 8 giờ tối rước tại cửa
nhà ông Giáo Hữu Ngọc Thiệp Thanh, chợ Từ Bi (nhà ông Phối Sư Nhă ở hiện giờ).
Các ông Sĩ Tải mỗi người cậy liên lạc về gia đ́nh xin tiền bỏ túi, lấy quần áo
thêm, chuẩn bị một chuyến đi dài hạn. Lo v́ bổn phận đương nhiên phải lo: không
biết ông Lễ Sanh Hạnh có giữ đúng hẹn hay không, đi đường có được suông sẻ an
toàn hay không?
Anh em cả năm người đến Sài G̣n sẽ ngụ nơi nào? Đủ chuyện lo nghỉ, phập pḥng
chờ giờ định mệnh điểm.
Nhớ lại mấy hôm trước, tính đúng đến ngày đày tháng của con gái Ngài tên là
Nguyễn Thị Tuyết Mai, sanh ngày 18 tháng chạp năm Bính Thân, Ngài lẻn về thăm
nhà khoảng 8 giờ tối, nhờ Bà Ngoại Tuyết Mai canh cổng rào. Vào pḥng thăm vợ
con chưa đầy 5 phút, Nhạc Mẫu ngày hốt hoảng chạy vào cho biết có 2 người đạp xe
trước đường, rọi đèn pin vào sân nhà, mới vừa đi qua, thế nào một chút cũng
quanh lại, chẳng biết có vào nhà hay không? Nhạc Mẫu Ngài run sợ lo cho Ngài.
Trước nhà lúc đó là con lộ cùng, không lối đi thẳng, nghe vậy Ngài quyết định là
công an tuần, chắc chắn sẽ quai lại, cần lo trước mới ổn.
Ngài vội vàng ra khỏi nhà, lách ḿnh vào bụi chuối phía sau, nghĩ rằng nếu hai
người ấy vào nhà, Ngài có đủ thời giờ vọt chuồn phía hậu, c̣n không sẽ theo
đường cũ về Hộ Pháp Đường. Một phút sau, quả thật cũng hai người đạp xe đạp trở
lại, cũng rọi đèn pin vào sân. Ngài chờ thật êm hối hả ra đi, không từ giả vợ
con, phi thân lên rào, lẫn vào bóng tối đi luôn.
Ngài định về xin tiền đặng đi, không biết bao giờ mới gặp lại, đoán nổi suy tư
của vợ đang lo cho số phận của chồng, rồi nghĩ lại phận vợ Ngài, tuổi vừa quá
đôi mươi, quá trẻ, mới về nhà chồng hơn một năm rồi phải xa chồng, c̣n có ngày
gặp lại nhau chăng? Con mới sanh, tương lai của nó ra thế nào? Ngài h́nh dung
cảnh vợ đang bi lụy buồn khổ, sầu lo, thấy tội nghiệp cho vợ vô cùng và cũng tự
thấy nao nao dạ, xót xa ḷng.
Cảnh nhà thật đơn chiếc, hai vợ chồng trẻ với đứa con thơ, thêm cậu học tṛ tên
Đạt do gia đ́nh nuôi nấng giúp đỡ từ nhiều năm qua, cho học văn hóa rồi anh
Lương c̣n vận động cho học thể dục thể thao, đang ở Sóc Trăng chưa măng khóa.
Ngài có đến tại chỗ thăm Đạt một lần, cũng sắp ra trường về phục vụ tại tỉnh nhà.
Nhạc Mẫu Ngài có mặt giúp đỡ một thời gian nào trong lúc sanh nở, bước đầu vợ
chưa kinh nghiệm và c̣n sanh yếu rồi cũng phải vể Tân An lo cho Nhạc Phụ già yếu,
ai cũng có gia đ́nh buộc ràng v́ bổn phận, làm sao giúp đỡ trường kỳ cho được?
Chừng hết hạng nghỉ sanh phải trở lại nhiệm sở, đi dạy học như trước, lại bận
bịu con nhỏ, làm sao giải quyết việc nhà cho ổn được? Thật là tội nghiệp, vừa
bước chân vào cuộc đời mới lại gặp ngay nghịch cảnh, tuổi quá trẻ mà thương đau
dồn dập, không ai an ủi đỡ đần…Càng nghĩ, tâm hồn Ngài càng tê tái, tim gan mềm
nhũng gần như ră rời tan nát, nhưng c̣n cách nào hơn?!
Ngài buồn thương vô tận, nhưng cũng không tài nào đoán trước được là chuyến ra
đi ấy là vĩnh viễn xa nhau !!!
Trời sẩm tối, Sĩ Tải Tỷ về nhà để từ giả cha và chị, chờ măi đến giờ khởi hành,
Sĩ Tải Tỷ không trở lại, anh em c̣n 4 người vẫn phải ra đi.
Thương ông Quản Gia rất tận t́nh, chu đáo lo cho anh em. Ông t́nh nguyện một
ḿnh đi trước, dọ đường trong đêm tối thấy ổn, trở lại hướng dẩn anh em ra khỏi
Hộ Pháp Đường, nhảy rào băng qua vườn cao su, nay là Bá Huê Viên đến đường hàng
trúc, lần ra đầu lộ dầu tới Từ Bi lối 8:05.
Thấy chưa có xe các ông Sĩ Tải càng lo thêm, không biết ông Lễ Sanh có y hẹn
chăng? Tập trung 5 người ngoài lộ trong đêm tối lúc t́nh h́nh đang căng thẳng e
bị t́nh nghi và sợ bị lộ, các ông thẳng đến nhà ông Giáo Hữu Thiệp, đi luôn ra
phía cửa hậu kêu cửa. Ông Thiệp chưa ngủ vội mở cửa mời vào, tắt đèn nói chuyện
trong bóng tối. Chừng đó ông Quản Gia mới từ giả anh em với những lời chúc lành
trước khi trở lại Hộ Pháp Đường.
Không nhớ rơ ông Quản Gia là ai, tên ǵ, măi đến bây giờ hỏi măi cũng không ra,
thật là một khuyết điểm to lớn không nói được nên lời, cũng không thể hiện được
tấc ḷng tri ân, thật là điều đáng tiếc và cũng thật là đáng trách!
Chờ khoảng ½ giờ, xe tới anh em chia tay vội vàng từ giă ông Giáo Hữu Thiệp rồi
nôn nă lên xe.
Anh Hạnh sắp xếp cũng khá chu đáo, xe chở bột ḿ và vơ chai lave, nước ngọt,
đựng toàn bao bố, bao chất xung quanh thùng xe, ở giữa chừa chỗ 4 ông ngồi, rồi
chồng các bao khác phủ lên, bít lại, thoáng nh́n vào không thể biết được. Xe bắt
đầu lăng bánh, chạy theo lộ tŕnh Truông Mít, Bàu Đồn, Trảng Bàng, đến ngă ba
Bàu Năng, xe dừng lại trạm kiểm soát. Vẫn biết thông thường muốn được dễ dải
nhanh nhẹn đỡ mất ngày giờ nghề làm xe khéo ngoại giao và biết điều với các trạm
kiểm soát, lo lót hối lộ là xong, tuy vậy các ông bên trong có tịch, dấu ḿnh
giữa hàng hóa vẫn phập phồng lo sợ, luôn luôn âm thầm cầu nguyện.
Qua trạm suông sẽ, chạy một quảng xa, xe dừng lại để anh em bước ra đặng xếp bao
thứ tự lại. Bột dính cùng mặt mũi, áo quần, nơi nào cũng dính ít nhiều, anh em
dùng mouchoir phủi, không làm sao hết sạch, khi xuống Sài G̣n xuống xe cũng c̣n
phủi tiếp.
Lúc đó một giờ khuya xe đậu gần ngả bảy Chợ Lớn. Các ông Sĩ Tải ngồi quán cóc
bên đường giải lao, mừng được thoát hiểm thật sự, lại thêm chuyện cạnh bên có
một thanh niên ngồi cũng uống trà tự xưng là công an được lệnh đổi đi Tây Ninh,
chờ sáng đáp xe đi nhận nhiệm sở mới. Các ông Sĩ Tải chấm dứt câu chuyện sớm rồi
đến ngụ nhà Sĩ Tải Lê Văn Đôi.
Việc kiếm mướn nhà, ông Ngời không tán thành ở chung đông, rủi có ǵ là bị bắt
chung hết một lượt. Anh chọn nhà một Chức Việc Bàn Trị Sự ở B́nh Thới Chợ Lớn.
Sĩ Tải Tiếp ở trọ nhà Bác ở đường Gia Long Sài G̣n, c̣n Ngài mướn nhà ở xóm lao
động chợ Ḥa Hưng, đường vào khám Chí Ḥa ở chung với ông Sĩ Tải Tấn, tự lo việc
nấu nướng, ăn uống tự sắm sửa nồi niêu chén bát.
Việc ăn ở tạm ổn định, không biết làm sao sinh sống, lúc nhỏ đi học vừa ra
trường bắt tay làm việc Đạo, chẳng có nghề ǵ trong tay, ở không ăn xài măi của
kho xài cũng không xuể. Gia đ́nh nghèo có phương nào cung cấp lâu dài được? ông
Tấn đồng ư nhờ trường dạy láy xe lo cho bằng lái rồi mướn taxi chạy, có đồng ra
đồng vào mới mong lo việc chung lâu dài được. Thay v́ đóng tiền cọc có bằng lái
rồi mới trả tất, hai anh em đưa đủ số một lần một, sợ để sẵn tiền trong túi xài
hết, lúc cần không có để trả gây phiền phức.
Mặt khác anh em cậy người đem phúc tŕnh lên Đức Hộ Pháp. Liên lạc mang về ngoài
các chỉ thị có một bức thư Đức Hộ Pháp gởi ho cháu ruột tên Phạm Trung Hiếu,
trước kia là Thanh Tra Chánh Trị Đạo ở Thánh Thất Đô Thành Sài G̣n, gởi gấm nhờ
giúp đỡ các ông Sĩ Tải.
Ông Tấn sợ bị sa lưới công an, sợ bị thủ tiêu v́ trong bức thư Đức Hộ Pháp gởi
Liên Hiệp Quốc, yêu cầu can thiệp vụ chánh quyền Ngô Đ́nh Diệm khủng bố đàn áp
Đạo, ông Tấn được nêu tên làm nhân chứng. Ông Giáo Hữu Thái Tây Thanh được lệnh
về rước ông Tấn đi Phnom Penh. C̣n lại ba anh em, Ngài ở riêng một ḿnh.
Hai ông Ngời và Tiếp chưa biết ông Phạm Trung Hiếu, Ngài đă tiếp xúc nhiều lần
nhưng khi ông Hiếu dời nhà về B́nh Tiên, Ngài không rơ địa chỉ. Định nhờ ông
Giáo Hữu Thượng Liền Thanh, Khâm Châu Đạo Đường Nhơn, Chợ Lớn hướng dẫn, Ngài
cậy người nhờ ông đến nhà Bà Lường Muối, Chánh Trị Sự Đường Nhơn ở đường Vĩnh
Viễn để bàn tính. V́ chuyện chung ông Liền rất vui vẻ nhận lời. Lúc đầu Ngài
định đi với ông Liền, bàn qua tính lại một hồi, ông Ngời là Trưởng Ban thay mặt
hợp lư hơn. Bà Chánh Trị Sự Lường Muối đăi bánh ḿ, ca cao sữa.
Điểm tâm xong, ông Giáo Hữu Thượng Liền Thanh và Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời từ giă
mang thơ đi. Ông Tiếp và Ngài chúc lành hai ông rồi nằm nhà chờ. Chờ đến chiều
không thấy hai ông trở lại, phần chủ quan không nghĩ xa, ông Tiếp về nhà Bác ông,
Ngài đi dọ tin tức. Không biết phải nhờ ai dọ giùm, vợ ông Liền cũng đang trông
mà không biết nhà ông Hiếu. Ngài không dám vào văn pḥng Thánh Thất, chạy t́m
nhà quen, chỗ nầy, chỗ nọ, không ai biết nhà ông Hiếu ở đâu cả, rất lo âu, 7-8
giờ tối mới về đến nhà. Đêm đó ngủ không yên mà dại dột không chịu dời chỗ ở để
đảm bảo an toàn, 4:30 sáng, ông Ngài đạp xe vào Chợ Lớn, lẩn quẩn mấy chỗ t́m
hỏi hôm trước, coi có tin mới không. Đi mua báo xem có bị tai nạn giao thông
không? Bụng lại mong hai ông bị tai nạn giao thông đă đưa vào bệnh viện, anh em
gặp lại nhau mừng rỡ, hàn huyên vui vẻ phỉ t́nh. Nhưng cũng nghĩ nếu hai ông đă
bị bắt, khổ cho hai ông biết chừng nào.
Chẳng có tin ǵ hơn, Ngài nghi quyết hai ông đă bị bắt, chạy vội về nhà toan dọn
đồ tẩu thoát. Lúc đó mới ân hận, trách ḿnh quá nông cạn, dại dột chủ quan,
không nghĩ xa, hành động quá muộn màng!!!
Đường vào nhà là con hẻm độc Đạo, lúc mới dọn đến, Ngài dọ biết hết các ngách
nhỏ có lối đi trong xóm từ các phía vào, từ sau chợ Ḥa Hưng dẫn tới nhà. Ngài
không đi đường chánh mà ṿng lên phía chợ Ḥa Hưng trở lùi lại, không vội vào
nhà, đứng xa khoảng năm bảy chục mét nép nh́n sang thấy cửa nhà c̣n đóng, ống
khóa lũng lẳng trước cửa, Ngài có phần an tâm dẫn xe vào đinh ninh là chưa muộn.
Vừa đến cổng rào, cháu Nguyệt cựu Giáo Nhi ở Ṭa Thánh, có chồng về ở khích vách
nhà Ngài mướn, nh́n thấy Ngài vội kêu lên:
-Cậu Bảy đi đâu mới về? - Cậu Năm Ngời bị bắt dẫn về xét nhà cậu vừa mới ra.
Ngài chẳng c̣n nghe ǵ nữa và cũng chẳng muốn nghe thêm, đă đoán biết tất cả rồi!!
tính toán quá muộn!! trễ mất rồi!!!
Ḷng năo nuột vô cùng, nhanh nhẹn hấp tấp trở xe đạp về phía chợ Ḥa Hưng, chạy
thật nhanh đúng là để tẩu thoát, chậm chạp có thể sa cơ. Đạp xe tới Ngả Tư Bảy
Hiền, theo đường Nguyễn Văn Thoại, tới trường đua Phú Thọ, trở ra Ngả Bảy, đến
nhà người anh cô cậu, nói mấy câu bất tường rồi quầy quả đi tiếp.
Ngài đáp xe về Rạch Kiến, xin ở tạm nhà người cậu ruột thứ 5 ở xă Long Ḥa. Buồn
cười là trên đường đi cả lúc ngồi trên xe Rạch Kiến, Ngài thấy người nào cũng có
vẽ là công an, nghĩ người nào cũng theo dơi ḿnh, hành khách sao lại có cái nh́n
h́nh như ṭ ṃ, tọc mạch, tưởng chừng như ai cũng biết ḿnh là kẻ đang chạy trốn.
Cố trấn tỉnh, giữ vẻ tự nhiên nhưng ḷng vẫn lo sợ, sanh lắm hoài nghi. Cũng
đáng thương hại!!
Ngài ở nhà ông Cậu, không việc làm, tuổi tác lại cách biệt quá xa. Cậu cháu
không trao đổi tâm t́nh nhiều, ḷng lại thắt thẻo lo âu, nghĩ rằng ai cũng biết
việc của ḿnh nên Ngài thường lánh mặt, nằm vơng trong buồng, vớ vẫn nghĩ suy và
ưu tư phiền muộn. Ngài thầm nghĩ, kể cũng định số, lẽ ra phận hẩm hiu phải là
của ḿnh, giờ chót xoay qua anh Ngời gánh chịu. Anh Liền vô can tự nhiên bị vạ
lây…Nếu ḿnh về sớm một chút độ nữa giờ thôi, hay là nếu đi hẻm chánh như thường
lệ về nhà, biết đâu giờ nầy đă nằm khám rồi và thân thể sẽ bị tra tấn ra sao,
làm sao biết được?
Ông Ngời và ông Liền ra sao? Càng nghĩ càng thương ông Ngời nhiều. Ngài không
phiền trách tí nào mà rất cảm ơn ông. Nếu ông có ư không tốt hoặc tinh thần yếu
đuối, vừa bị tra tấn hỏi cung, ông dẫn công an về nhà, Ngài làm sao thoát khỏi?
ông ráng chịu đựng suốt ngày, thêm một đêm, đến khi sức cùng lực tận, không chịu
nổi mới dẫn lính xét nhà. Ông Ngời hy sinh quá nhiều. Tội nghiệp!!!. Hai anh ra
sao? Ông Trân nghĩ lại lánh mặt về đồng có phần hợp lư.
Tránh đi là hiệu sách nhất thời nhưng ở lâu nhà ông cậu sao được? ông coi cũng
có vẽ lo sợ nhưng v́ thương, ép ḷng cho ông Trân ở. Ông Trân nghĩ bằng mọi giá
phải đi Phnom Penh. Vượt biên một ḿnh mặc dầu cũng biết hướng, nhưng chưa đi
lần nào ông Trân cũng thấy khó. Muôn bề thắc mắc, trăm mối tơ ṿ! Ông Trân quyết
định chờ ít hôm tinh thần ổn định về Sài G̣n sẽ tính sau.
Tuần lễ sắp trôi qua, Ngài đạp xe đi Long Khê, quận G̣ Đen Chợ Lớn thăm người
chị ruột, mục đích mượn vài ngàn đồng, chuẩn bị đi Phnom Penth, bằng mọi cách
phải đi. Ngày hôm sau về tới Sài G̣n, Ngài lo mấy việc: thứ nhất t́m hỏi t́nh
trạng của hai ông Liền và Ngời. Được nghe kể lại từ lúc rời khỏi Đền Thánh ông
Ngời chưa có tin về gia đ́nh, vợ ông ở nhà lo lắng t́m thăm để biết sức khỏe và
sự ăn ở ra sao? Vừa đến Thánh Thất Máy Đá Chợ Lớn. đúng lúc xe công an chở ông
Ngời Tới. Sau những ngày bị tra tấn, tướng diện thay đổi, vợ ông không nh́n ra
chồng. Ông Ngời kêu vợ bị công an nạt rầy. Bà nh́n lại nhận diện ra chồng. Bà
khóc quá. Phần ông Liền không có tin mới. Trường hợp bị bắt xảy ra như sau: Khi
đem thơ đến nhà ông Phạm Trung Hiếu, hai ông được mời vào pḥng khách như b́nh
thường. Lúc vào đề và trao thơ, ông Hiếu hỏi:
-Có ai cùng đi với hai anh em không? Nếu có nên mời hết vô. Đừng ngại.
Thấy ông Hiếu có vẻ niềm nở, hai anh em cám ơn, thật t́nh đáp chỉ có hai người
thôi, không c̣n ai khác nữa.
Ông Hiếu hỏi gặng lại:
-Thật không?
Được xác nhận là thật, ông hiếu bèn gọi con đóng cửa rào và bảo kêu lính bắt.
Ông Liền thấy cơ nguy lo cho việc chung bị đổ vỡ liền nói:
-Đây là bức thư của Đức Hộ Pháp, chú ruột của Ngài, chính Đức Hộ Pháp tự tay
viết, nếu Ngài tin th́ tin, c̣n không tin xin xé hủy, cho anh em chúng tôi về.
Ông Hiếu cương quyết:
-Đâu được, đă đến đây rồi, muốn ra phải có công an hay cảnh sát dẫn ra mới được
chớ.
Hai ông Liền và Ngời bị bắt trong trường hợp như vậy.
Lúc lưu vong ở Nam Vang, Ngài được biết thêm là ông Giáo Hữu Thượng Liền Thanh
bị giam và bị chết trong tù. Đức Thượng Sanh cầm quyền Đạo tại Ṭa Thánh gián
cấp xuống Lễ Sanh. Đức Hộ Pháp dùng quyền Chí Tôn tại thế, thủ tiêu Thánh Lệnh
của Đức Thượng Sanh để giữ nguyên phẩm Giáo Hữu của ông Liền.
Việc thứ hai là báo tin cho Đức Hộ Pháp rơ, thơ không gởi ngay chùa, sợ bị kiểm
duyệt, gởi theo địa chỉ Etablissemeut Frey, hăng buôn chỗ anh Lê Sơn Trân làm,
nhờ ông Khỏe chuyển lên Đức Hộ Pháp. Lời văn viết khéo, khách bàng quan xem qua
không thể đoán được. Chỉ người trong cuộc mới hiểu thôi.
Việc thứ ba là tin về nhà xin gởi bộ quần áo cũ, c̣n bỏ lại lúc ra đi, để có
thay đổi.
Việc thứ tư là đến trường dạy láy xe, cầu may xin rút tiền lại chút ít, nếu được
đỡ khổ hơn. Kế hoạch hành nghề lái taxi không thể thự hiện, bởi c̣n ở Sài G̣n
lâu không có đủ thời gian thi lấy bằng lái. Mon men tới trường, từ phía trong
Ngài chủ trường nh́n thấy, bước ra tận cửa hỏi:
-Mấy hôm nay ông đi đâu? Không thấy đến. Ông có làm ǵ không mà cảnh sát tới đây
t́m ông.
Ngài quay xe rút lui nhanh, không nghĩ đến việc trả lời. Ngài hiểu rằng lúc xét
nhà, công an lấy được biên nhận của trường ghi tên lúc đóng tiền nên t́m bắt.
Thế là hai anh em chịu mất chung 5.000 đồng, số bạc cũng khá to theo thời giá.
Riêng Ngài bị mất tất cả mền mùng, giầy dép, nồi nêu chén bát, vật dụng trong
nhà v́ không dám trở lại lấy, sợ có người thấy mặt tri hô kêu lính bắt.
Thời gian chờ tin Nam Vang trả lời, buồn bực lo âu…Ngài đi coi cốt Trạng ở đường
Dương Tấn Bửu, gần chợ Trương Minh Giảng. Nghe đồn cốt Trạng nói đúng lắm. Ngài
t́m đến đă thấy có đông người chờ đợi, tiền tổ đặt trên bàn. Một người độ 50
tuổi ngồi trên ghế phía sau bàn. Khi Trạng nhập cốt, bóc tiền quẻ của ai nấy
nhận, cốt Trạng sẽ nói, giải đáp những điều muốn hỏi. Nếu thấy chưa đủ cần hỏi
thêm, cốt Trạng sẽ trả lời tiếp. Ngài cũng đặt tiền như mọi người. Trong lúc chờ
tới phiên, Ngài nghe thiên hạ khen nức nở Trạng nói đúng những điều bí mật muốn
dấu, như chuyện buôn lậu, lấy trộm của công, làm công an mà không được cấp súng,
quẻ ở tù …khiến đương sự yêu cầu đừng tiết lộ, sợ bị hại, có mặt đông người đủ
mọi thành phần, không tin ai được. Ngài hy vọng được trả lời chính xác việc cần
hỏi. Ráng tin để chờ.
Khi cầm tới tiền của Ngài cốt Trạng hỏi và nói luôn:
-Tiền nầy của ai? Quẻ nầy ứng điềm đi xa. Tại sao tính đi xa vậy? sao không ở
đây mà xin đi làm chi? Đi được chớ có sao đâu.
Ngài nói:
-Cậu Trạng là người khuất mặt, hẳn đủ sáng suốt, đă biết rồi c̣n hỏi làm chi.
Tôi muốn biết dự tính của tôi có thành hay không? Và sớm muộn thế nào? Xin cho
biết bấy nhiêu thôi.
Cốt Trạng trả lời:
-Thành chớ sao không thành. Thơ của cậu Nam đă tới nơi rồi, đă tính cho người đi
rước cậu Nam. Về lo chuẩn bị đặng đi. Không đầy một tuần lễ nữa sẽ có tin.
Ngài hỏi:
-Người đi t́m rước làm sao có thể gặp được? nhà ở trước đă dời đi rồi, làm sao
biết chỗ ở mới mà t́m?
Cốt Trạng quả quyết:
-Trạng nói vậy cứ yên chí chờ. Nếu đúng tuần lễ không có tin th́ đến đây đạp bỏ
bàn thờ Trạng.
Nghi nghi hoặc hoặc, làm sao trọn tin được? Biết rằng nếu cho người đến đón, ông
Giáo Hữu Thái Tây Thanh sẽ được chọn, bởi ông có đi nhiều lần, rành đường đi
nước bước. Mà đă đổi địa chỉ làm sao biết? ông Trân rầu lo vô cùng.
Mấy hôm sau Bà xă của Ngài đến thăm mang theo quần áo cũ như Ngài đă dặn, có
bồng Tuyết Mai, đứa con gái duy nhất, tuổi sắp được 3 tháng.
Tính lại lúc Tuyết Mai vừa mở mắt chào đời, Ngài có mặt ra vào bệnh viện, khi
rước vợ con về nhà, Ngài bận công tác việc Đạo, con đầy tháng mới gặp lại, chỉ 5
phút thôi rồi tức tưởi ra đi với sự vội vàng lo sợ. C̣n vài ba hôm nữa là con
được 3 tháng tuổi đời, cha con gặp nhau lần nữa để rồi phải xa nhau dài hạng.
Con c̣n bé bỏng nào có biết ǵ, vợ chồng hàng huyên chưa thỏa tâm t́nh, kể cho
nhau nghe chưa đủ t́nh tiết của chuỗi ngày bất hạnh vừa qua, tuy nhiên cũng bàn
sơ với nhau các hoạch định tương lai cuộc đời của hai đứa khi được trùng phùng
tái ngộ, vợ chồng an ủi lẫn nhau rồi dẫn nhau đến cao lâu dùng bữa trước khi
chia tay su ngày sum hợp.
Nói rằng tạm biệt, thật ra bữa cơm hôm ấy ai ngờ là để đánh dấu cuộc gặp gỡ sau
cùng rồi đức đoạn duyên t́nh của nhau, thay v́ trăm năm tơ tóc mà thu ngắN vỏn
vẹn 20 tháng không đầy.
Nói rằng tạm biệt nhau khi con 3 tháng tuổi mà thật sự là vĩnh biệt xa nhau luôn
suốt cả cuộc đời.
Sau 4, 5 ngày chờ đợi, hy vọng lời cốt Trạng ứng hiện. Độ 2 giờ trưa, Ngài đang
nằm trên gác nhà ông Sĩ Tải Đôi, mái lợp tole, oi ả nóng bức, không ngủ được,
th́nh ĺnh ông Sĩ Tải Tiếp đến kêu:
-Trân, toa chuẩn bị đồ đi Nam Vang.
Ngài cười trả lời:
-Chơi hoài bạn. Giờ nầy đi đâu đó?
Ông Sĩ Tải Tiếp nói:
-Hôm nay tự nhiên không ngủ được, Mỏa mặc đồ ra khỏi nhà gần 1 giờ trưa. Thấy
nắng quá không biết phải đi đâu mà cũng không muốn trở vào nhà, lẩn thẩn đi
không định hướng. Mỏa vụt có ư nghĩ vô bến xe Pétrus Kư chơi. Vừa đến bến thấy
xe Châu Đốc xuống, Mỏa chạy ra coi có ai quen ở xứ đến không, bất ngờ thấy ông
Ba Tây. Ông kêu hỏi Toa hiện giờ ở đâu, nhắn dùm bảo Toa ngày mốt đi Nam Vang,
Đức Hộ Pháp sai về rước, ông Tây đi luôn về Ṭa Thánh có việc, mốt trở lại hẹn
gặp nhau tại bến xe lúc 7 giờ tối.
Chừng đó Ngài mới tin lời ông Tiếp là sự thật, mới thấy lời Trạng là nói đúng.
Ông Trân c̣n tin mảnh liệt hơn là “Nhứt ẩm, nhứt trát gia do tiền định”. Tất cả,
tất cả đều định trước không sai.
______________________________________________
CHƯƠNG III
CUỘC SỐNG LƯU VONG TRÊN ĐẤT CAO MIÊN
1.NHỮNG NGÀY ĐẦU LƯU VONG
2.LÀM VIỆC Ở CHUP
3.ÔNG MAI MÁT TAY
4.HOÀI NIỆM ĐỨC HỘ PHÁP
5.LỜI DẠY CỦA ĐỨC HỘ PHÁP VÀ BÁT NƯƠNG
6.NỔI L̉NG RAI RỨT KHI CUỘC HÔN NHÂN TAN VỠ
7.CHUYỂN CHỖ LÀM TỪ CHUP VỀ PHNOM PENH
8.NGHỈ HẲN VIỆC ĐỜI QUAY SANG LÀM VIỆC CHO ĐẠO
1. NHỮNG NGÀY
ĐẦU LƯU VONG
Ngày đi, ông Ba Tây lên xe ngồi trước, phút chót xe sắp chạy, ngày mới bước lên.
Xe nổ máy, một người đàn ông mặc thường phục rảo nh́n mặt khách, nh́n từng băng
một. Ngài làm như vô t́nh không hay biết, vai qua nói chuyện với ông Ba Tây, ra
vẻ tự nhiên, cốt ư không để cho nh́n rơ mặt, pḥng rủi ro bất lợi. Dưới ánh sáng
mờ mờ từ mui xe, người đàn ông ấy xem lướt qua dường như làm cho có lệ rồi ra
lịnh cho xe chạy.
Xe đến Châu Đốc lúc 1 giờ khuya, hai Ngài mướn ghế bố ngủ ngoài trời tại bến phà
chờ sáng. 5 giờ phà bắt đầu sang sông. Hai Ngài thức sớm qua phà, đi vài km
hướng Tân Châu, lại phải qua đ̣ chèo đi Cồn Tiên, thuê xe lôi đi tiếp, qua trạm
kiểm soát Ḥa Hảo mới tới biên giới Miên, ghé nhà vị Chánh Trị Sự sở tại.
Lúc đó mới 9 giờ, chờ trưa lính Miên gác thường không để ư, sẽ đưa thuyền qua
B́nh Duy (Prey-Chrey) đất Miên. Ông Chánh Sự quá dè dặt, mời Ngài thẳng vào
buồng, sợ người ngoài trông thấy, đăi bữa cơm trưa rồi lấy thuyền chèo đưa qua
sông lúc 12 giờ 30. Mọi việc đều an toàn.
Ngài nghỉ tại Thánh Thất Prey-Chrey c̣n ông Ba Tây ở nhà quen trong xóm Đạo. Mấy
ngày tết Miên nhằm ngày 13, 14 và 15 tháng 4 dương lịch, ông Ba Tây sợ đi đường
gặp trở ngại nên chờ qua lễ.
Ông mượn giấy lăn tay tức căn cước cho Việt Kiều, loại không dán h́nh cho Ngài
hộ thân lên xe đi Koh-Thom, ông ngồi cạnh Ngài c̣n một người Đạo ngồi ở băng
trước, đem theo một số tiền không rơ là bao nhiêu nhưng nghe nói cũng khá lớn,
pḥng khi bắt trắc sẵn tiền lo lót cho qua.
Ở xứ Miên được điều đó, có tiền muốn ǵ cũng được, vạn sự khó có thể thành dễ.
Qua đó mới tới thị trấn Koh-Thom. Trạm kiểm soát tại quận nầy nổi tiếng khó. Ông
Đạo đi theo Ngài chờ qua khỏi trạm suông sẽ rồi mới về Prey-Chrey.
Thật là may cho Ngài, tới đâu cũng được cô bác, anh chị em đồng Đạo giúp đỡ tận
t́nh chu đáo.
Khoảng 12 giờ trưa mới tới Báo Ân Đường, gần Chamcarmân của vợ chồng ông Huỳnh
Hữu Lợi, chỗ Đức Hộ Pháp ngự lúc đến Nam Vang. Từ ngày khởi công cất chợ Cây G̣n,
Đức Ngài sáng đi chỉ cho công thợ làm, trưa ở lại chiều về.
Ông Ba Tây không muốn Ngài vào chùa lúc ban ngày, v́ sợ hằng ngày có công an
được phái đến, ghi tên những người lạ mặt ra vào chỗ Đức Hộ Pháp. Ông đi một
ḿnh để báo cáo công tác hoàn thành, c̣n Ngài ở lại Báo Ân Đường, chiều mới gặp
đủ mặt.
Tối đến, Ngài tŕnh diện Đức Hộ Pháp, tường tŕnh các sự diễn biến của Chánh
Sách Ḥa B́nh Chung Sống ở Ṭa Thánh cùng t́nh h́nh của Đạo và của đất nước
trong thời gian qua. Đức Hộ Pháp an ủi, và dạy xuống nhà nghỉ.
Hôm sau Đức Ngài dạy mua vải may đồ cho Ngài có thay đổi và mặc đi cúng. Bà Giáo
Hữu Hương Nhàn lănh hai trăm đồng may hai bộ bà ba với một áo dài trắng toàn văi
Popeline tốt mà chưa hết tiền.
Ngài Hồ Bảo Đạo định lo thủ tục xin cho Ngài tị nạn chánh trị như trường hợp của
ông Tấn, Ngài có ư kiến để chờ dọ hỏi xem có thể lục lại cùi giấy lăn tay 1949,
khi Ngài đắc lịnh đi hành Đạo lần đầu ở Phnom-Penh. Trong khi chờ đợi, Ngài làm
cớ mất giấy, c̣ cảnh sát chứng để tạm dùng.
Khi được người quen đến hỏi giúp, ông c̣ ra giá 6 ngàn đồng Riel để lục cùi cũ
cấp giấy mới hợp pháp. Thật là nang giải. Chị ruột Ngài cho 2 ngàn đồng đi tới
Phnom-Penh, trừ các chi phí đổi tiền c̣n lại 1600 Riel. Xin thêm cho đủ rất có
thể Đức Hộ Pháp sẽ cho nhưng biết Đức Ngài không nhiều tiền lại có lắm chuyện
phải lo. Ngài thấy không nở làm khổ thêm Đức Ngài, định buông trôi, tới đâu giải
quyết tới đó, an chí là có sự an bài trước, như Nguyễn Du đă viết trong truyện
kiều:
“Đánh liều nhắm mắt đưa chơn
“Thử xem con tạo xoay
vần đến đâu.
Ngài mời anh em đi ăn uống vui với nhau sau thời gian xa cách cho phỉ t́nh, mua
sắm thêm khăn, bàn chảy, xà bông tắm giặt, vài ngày tiêu hết số tiền c̣n lại.
Ngài nghĩ rằng, mang giấy tị nạng có lợi mà cũng có hại. Cái lợi trước nhất là
đỡ tốn tiền, hại là không được ra khỏi thủ đô quá mười cây số, không xin sở làm
được. Thấy giấy tị nạn chánh trị ai cũng ngán làm sao dám nhận cho vào làm việc?
Thời gian lưu vong chắc chắn không mau v́ vậy Ngài chưa tính tới.
Thấm thoát đă 2 tháng trôi qua, được tin công an sẽ xét chùa v́ nghi Đức Hộ Pháp
làm chánh trị, trước đây đă xét một lần rồi khi Ngài chưa tới, đă tịch thu một
số tài liệu Ḥa B́nh Chung Sống. Nếu xét mà gặp Ngài không có giấy tờ hợp pháp
cư trú sẽ liên lụy đến Đức Ngài. Ngài rời Báo Ân Đường xin tá túc tại nhà Bà
Chánh Trị Sự Đường Nhơn ở Phsar-Sylap, tuổi độ 60, nhà rộng, cách thờ phượng như
một chùa riêng. Bà ở một ḿnh, người Hoa Kiều thường tới lui hành hương tiếp tế.
Ngài đến trước, ít hôm sau ông Khỏe cũng đến ở chung.
Nghĩ đến chuyện lâu dài ở xứ người, cần biết tiếng của người sự sinh hoạt mới dễ
dàng. Ngài đến chùa Sùng Phước xin học chữ Miên. Mấy ông tu toàn người Việt tu
theo Tiểu Thừa Phật Giáo, mặc áo vàng tŕ b́nh khất thực, quốc Đạo của Miên rất
thịnh hành. Vui vẻ tiếp và thông cảm hoàn cảnh lưu vong của Ngài, ông sư hỏi có
bao nhiêu người học và hứa sẽ cho mở lớp dạy riêng. Chùa khai giảng lớp mới,
những học sinh toàn con nít, khác tŕnh độ không thể học chung được và cũng khó
coi.
Mấy ngày sau y hẹn, các Ngài bắt đầu học. Ông Tám Ngọc, tài xế của Đức Hộ Pháp
lái xe đưa cô Tư Tranh đến lớp sẵn và ngồi học luôn cùng với các ông Khỏe, Tấn,
Cao, Bạch và Ngài, mọi người đều phấn khởi.
Nghe nói Ṭa Đại Sứ Mỹ thường mở lớp dạy tiếng Mỹ, Ngài đến ghi tên học và ghi
luôn cho mấy anh em. Người đầm Mỹ chịu trách nhiệm phần hành, nói tiếng Pháp,
cho biết v́ học viên ghi tên c̣n ít chờ đủ số qui định mới mở lớp được. Khi nào
đủ số văn pḥng sẽ thông báo từng địa chỉ một. Các Ngài yên chí chờ (Cả Bạch nhờ
học ở đây mà khá giỏi chữ Anh).
Tháng 8 Đinh Mậu (1957)
Đă hơn 4 tháng trôi qua, Ngài sống không giấy tờ, việc đi lại tuy giới hạn cũng
phải đi, vô chùa mới, ra chùa ngoài, Đàn vía cũng đi cúng đều, thường đi đường
đất, theo các con lột đất, ít lo bị hỏi giấy. Có lần băng qua lộ dầu, trong
đường đất vừa lú ra, cảnh sát đứng ngă tư tút c̣i kêu lại. Nhờ biết tiếng Pháp
lại có 20 đồng ch́a ra, cảnh sát cho đi b́nh yên.
Thấy việc lo giấy tùy thân thật nang giải, chưa biết phải tính như thế nào? T́nh
cờ ông Chính Lành lúc hùng làm cây ở Ṭa Thánh c̣n thiếu tiền chưa thanh toán
đầy đủ cho anh em, trong hoàn cảnh đó nghĩ rằng nếu nhắc đ̣i chắc anh không trả
hoặc không sẵn tiền để trả. Ngài đề nghị lo cho anh em giấy lăn tay để tiện bề
lên xuống Phnom-Penh, với điều kiện ông chi tiền cho các Ngài mỗi người 3.000
đồng, Trong khi đó anh em B́nh Xuyên, Ḥa Hảo phải tốn đôi ba trăm ngàn đồng mới
được 1 giấy, vẫn không yên thân. Công an biết họ có tiền và đang dùng giấy giả,
thường theo tống tiền quấy rầy măi. Giấy Ngài yêu cầu làm tuy giả mà thiệt, thấy
thiệt mà giả, loại giấy nầy cấp cho người Việt sanh trưởng ở Miên, v́ lư do quê
mùa xa tỉnh lị thôn quê, không bắt buộc xin gấp nhưng phải có khai sinh, ông
Chính Lành đồng ư và không đầy một tháng sau cả hai cùng có giấy tờ hợp pháp.
Anh em rất vui dạ, đi đứng dễ dàng không lo trở ngại.
T́nh trạng đă hợp pháp, Ngài nghĩ ngay đến việc xin sở làm. Trước là để có tiền
độ nhựt, sau đỡ phiền chịu cảnh ngồi không ăn của nhân sanh. Xin khắp Thủ Đô
không được sở v́ thiếu thân thế, được giới thiệu tới công trường Lovet đang xây
cất nhà kho cho Mỹ, cách Phnom-Penh hơn 50 cây số.
Sĩ Tải Khỏe cùng Ngài đến gặp ông đốc công tại công trường, ông khuyên trở về
Phnom-Penh gặp ông giám đốc chủ hảng thầu. Ở chơi với ông đốc công vài ba hôm
rồi về Phnom-Penh cũng chẳng kết quả ǵ.
Đă buồn lại gặp buồn. Ban đại diện Chánh Sách Ḥa B́nh Chung Sống mới tái lập để
tiếp tục công việc dang dở (Sau khi anh em Sĩ Tải Ban Vận Động Miền Nam lớp bị
bắt vào tù, lớp lưu vong phân tán) phúc tŕnh lên Đức Hộ Pháp, nói rằng chánh
quyền tỉnh cho biết mọi việc bí mật của anh em, Tỉnh đều nắm tất cả, tài liệu
của Đức Hộ Pháp từ Nam Vang gởi về trước khi tới tay anh em th́ Tỉnh đă có đầy
đủ, cũng như tài liệu anh em gởi Đức Hộ Pháp, tỉnh không thiếu cái ǵ v.v…Đức Hộ
Pháp cho gọi đến và đặt nghi vấn vào ḷng trung thành của các Ngài. Ngài tŕnh
bày: Mấy lần được mời, anh Tấn và Ngài được nghe chính Tỉnh Trưởng Vàng nói điều
đó, ư muốn chận đầu, bắt nạt để anh em lo sợ không hoạt động và cũng là kế ly
giáng để phân hóa nội bộ. Thương ông Cao, người duy nhất cất giữ hồ sơ, thường
ngày làm việc bên cạnh Đức Hộ Pháp rất lo sợ thề thốt lung tung. Các Ngài rất
b́nh thản với sự ngay thẳng của ḷng và trọn tin rằng Đức Hộ Pháp thừa sáng suốt
hiểu thấu nhận xét mọi việc.
Một hôm đi thăm người bạn từ Sài G̣n lên cây số 4 Russey Keo, cùng đi có ông
Khỏe và ông Tấn. Anh em gặp nhau sau nhiều ngày xa cách, vui vẻ tâm t́nh hết
chuyện nầy đến chuyện khác, bất ngờ nghe ông chủ nhà nói đồn điền cao su Chup
đang cần người. Phần lớn người Việt có khả năng bỏ về Việt Nam thành thử đang
thiếu người. Ngài liền nghĩ ngay đến anh Quốc, nghe nói trước làm ở Chup, hai vợ
chồng đều là Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, định ư sẽ viết thơ cho anh có thể giúp ǵ
được không.
Về nhà Ngài nghĩ lại, không nhớ anh họ ǵ, địa chỉ không nhớ rơ ràng, phân vân
lưỡng lự, không lẻ buông trôi, thôi đành cầu may vậy. Dầu không hy vọng nhiều,
Ngài vẫn viết thư gởi đi, đề địa chỉ ngay Chup.
Hằng ngày cùng nhau đi học chữ Miên, không đầy một tuần lễ, bất ngờ nhận được
thơ hồi âm, bóc ra xem thấy có 2 lá thơ: Anh Quốc viết mời anh em lên, nếu may
mắn xin được việc làm, anh em sống chung cho vui. Anh chỉ đường đường đi nước
bước rành rẽ. Chị Quốc viết một lá thư riêng để chứng tỏ cả hai vợ chồng đều
đồng ư để anh em khỏi ngại.
Anh Quốc không c̣n ở Chup nữa, đă đổi về PéamChéang lâu rồi, cách Chup 15 cây số
và là sở ngành của Chup. Địa chỉ viết không đúng và họ cũng sai luôn, thế mà thơ
vẫn tới.
Được thơ hồi âm, mừng cũng có mà rầu lo lại nhiều hơn: Đào đâu ra tiền để đi
đường? Suy nghĩ nát nước, sau cùng Ngài bàn với ông Khỏe, nhờ cô Bảy Cúc (Giáo
Sư Hương Cúc) vay dùm 1000 đồng, nếu được sở làm lănh lương trả nợ, bằng không
sẽ bán xe đạp để thanh toán. Chiếc xe nầy ông Ba Tây không tán thành đem theo
lúc đầu, sau nhờ người bạn thường lên xuống Sài G̣n đem lên dùm, xe thuộc loại
tốt bán có giá. Cô Bảy Cúc sẵn sàn hỏi giúp.
Đường đi PéamChéang phải qua 2 phà: Prek-Kdam và Kompong Cham, cách Thủ Đô 150
cây số. Đến nơi, vợ chồng anh Quốc tỏ ra niềm nỡ, lịch thiệp và mừng rỡ. Đúng là
thiên lư tha hương ngộ cố tri.
Anh Quốc khuyên Ngài nộp đơn tại sỡ kỷ thuật (Service Technique) vừa thành lập.
Sở mới nhận 2 người thơ kư, lương khá, bốn mươi lăm đồng 1 ngày. Các Ngài nộp
đơn xin việc, đợi cả tuần không thấy trả lời. Ông Khỏe phải về Nam Vang gia hạn
giấy lăn tay. Giấy nầy được cấp năm 1950 lúc được bổ nhậm thay Ngài hành sự ở
Hội Thánh Ngoại Giáo, ông mượn gia hạn đều hằng ngày nên giấy vẫn c̣n hiệu lực.
Ông Khỏe đi bữa trước, hôm sau Ngài được mới tới. Ông Giám Đốc cho hai bài toán
chia với nhiều số lẻ, cho làm rồi lại bảo thơ kư lấy máy tính thử, thấy đúng ông
nói với Ngài:
-Tốt ngày mai đến đây đúng 7h sáng, tôi chỉ công việc cho anh làm.
Sở cách nhà anh Quốc không đầy 100 mét, sáng hôm sau Ngài trở lại ông Giám Đốc
nói khác:
-Sở tôi mới thành lập, công việc chưa có nhiều. Anh về nhà chờ, khi nào cần tôi
sẽ báo tin. Dường như anh có người bạn đang làm tại văn pḥng giám đốc đồn điền
PéamChéang phải không?
Biết bị từ chối khéo, nhưng chẳng hiểu lư do, sau nầy rơ lại là Hoàng Gia Cao
Miên vừa ra sắc lịnh cấm các công tư sở thâu nhân viên ngoại kiều, qui định tỉ
lệ nhân số phải 70% người bổn xứ và 30% ngoại kiều. V́ lẻ đó ông Tổng Giám Đốc ở
Chup không chấp nhận.
Ngài thất vọng lui gót trở về, thầm nghĩ rằng chiếc xe đạp sẽ đi đời và mỗi ngày
phải lội bộ đi học chữ Miên. Âu cũng là định mệnh.
Cả tuần lễ ở nhà anh Quốc được giới thiệu với mấy Thầy, nhà của hăng cấp ở quanh
quẩn cùng nhau, thường đến câu lạc bộ chơi ping-pong, tennis và uống rượu tây,
nghe radio, rất ḥa đồng vui vẻ, quên bớt điều phiền muộn lo âu.
2.LÀM VIỆC Ở CHUP
Một hôm anh Quốc hỏi Ngài có muốn xin việc làm ở Chup anh sẽ giới thiệu với ông
Kế Toán Trưởng coi có giúp ǵ được không? Ngài đáp rằng nơi nào chịu mướn ḿnh
chịu làm.
Ngay hôm sau, ông Khỏe và Ngài đến văn pḥng Chup, gặp ông Kế Toán Trưởng tên
Phạm Đang Hạt, đưa thơ giới thiệu, ông Hạt xem xong cho biết là ông Tổng Giám
Đốc đi Phnom Penh, không có mặt ở Chup. Ông mời các Ngài về nhà nghỉ, nhà thuộc
tiêu chuẩn cao, rộng răi đầy đủ tiện nghi. Chờ ba bốn hôm mà ông Tổng Giám Đốc
vẫn chưa về, vừa sốt ruột, vừa ái ngại trước sự ân cần chu đáo của gia đ́nh ông
Kế Toán Trưởng.
Ngày xin gặp ông Giám Đốc Sở Chup thay v́ chờ ông Tổng Giám Đốc lâu, Ông Hạt
đồng ư giới thiệu với ông Nguyễn Văn Bội, Chánh Văn Pḥng, để nạp đơn ngay ông
Tổng Giám Đốc. Hôm ấy, các Ngài phải chờ đến hơn 7 giờ tối, ông Giám Đốc ở nông
trường về mới gặp, ông hỏi:
-V́ sao phải xin làm?
Ngài trả lời:
-Làm ăn thất bại, tài sản tiêu tan, buộc ḷng phải t́m việc làm.
Ông hỏi tiếp:
-Từ trước đă làm việc nơi nào chưa?
Ngài nói:
-Chưa làm công cho ai hết mà từng làm chủ ḷ gạch gói và xưởng cưa máy. Đây là
lần đầu tiên đi xin việc.
Ông chất vấn thêm:
-Anh có biết chánh phủ Hoàng Gia Miên đă ra sắc luật cấm các sở thâu ngoại kiều,
sao không xin nhập quốc tịch Miên cho dễ?
Ngài đáp:
-Phải tốn nhiều tiền,
Ông hỏi bao nhiêu? Ngài cho biết phải tốn ít nhất 10 ngàn đồng riels mà phải
biết cách hối lộ, bằng không sẽ mất tiền mà không được việc.
Ông nói:
-Mười ngàn đồng có đáng là bao?
Ngài cười nói tiếp:
-Đối với quí hăng 10 ngàn riels chẳng là bao thật, nhưng đối với tôi trong hoàn
cảnh hiện tại mười ngàn riels kể là một sản nghiệp.
Ông Giám Đốc cười bảo:
-Ngày mai hai anh đến gặp Ngài Tổng Thư Kư.
Sáng lại ông Tổng Thư Kư đưa bộ luật lao động dày và một bài toán đố, đại ư một
công nhân với số lương tiền và gạo bị tai nạn lao động, có thương tích, phải
nhập bệnh viện, bảo tra bộ luật, chiếu điều khoản nào, hăng phải trả công dân đó
bao nhiêu tiền. Ông nói:
-Thử xem coi các anh có tháo vác hay không?
Các Ngài giải đáp đúng, được thu nhận làm nhân viên với số lương 80 riels/ ngày,
thủ tục phải khám sức khỏe, y chứng bác sĩ của hăng cấp.
Xét lại thấy rủi trước mà may sau, nếu được sở làm ở Péamchéang, cao nhứt chỉ 45
ngàn đồng một ngày.
Ngài không quên một việc năo nề, các Ngài may mắn vượt qua khỏi sự sượng sùng hổ
mặt. Số là bệnh viện cách xa văn pḥng trên 5 ngàn thước. Ông Kế Toán Trưởng với
mỹ ư cho mượn xe mobylette để làm chơn đi khám sức khỏe. Các Ngài chở nhau đi,
thấy xe gần hết xăng lên chợ Chup đỗ thêm. Yên trí c̣n 10 riels dư trả nhưng lúc
đỗ xăng vào xe xong, mở bóp ra giấy bạc không cánh mà bay mất đi đâu rồi. Bay
hồi nào cũng không biết. Suy nghĩ măi mới đoán ra, đêm hôm lúc tắm vào pḥng tắm,
đồ để ngoài, bé nhỏ con của ông Hạt lục lấy. Thật bối rối nhớ lại khi ở Nam Vang
đưa đám xác một người Tàu quen, mỗi người được biếu một cây quạt giấy và 2 đồng
riels bỏ trong phong b́ nhỏ, giấy hồng đơn. Ngài bảo ông Khỏe soát lại rồi hai
anh em hiệp chung vừa đủ trả tiền một lít xăng.
Rất mừng kể như một tai nạn vừa thoát khỏi, hai anh em chẳng c̣n một ten dính
túi.
Hăng đang cần bổ khuyết hai chức vụ c̣n trống, Ngài nhường cho ông Khỏe lựa
trước, ông Khỏe chọn làm Kế Toán dưới quyền trực tiếp của ông Phạm Đăng Hạt.
Chức vụ c̣n lại nặng hơn, làm Chánh Văn Pḥng Sở Xă Hội Lao Động, Ngài đảm trách
kiêm quản lư thư viện mới lập, trực thuộc quyền Tổng Thư Kư người Pháp.
Được sở là yên tâm nhưng việc bỏ học sinh ngữ cũng là điều đáng tiếc, tuy nhiên
tâm hồn thanh thản hơn, mừng khỏi cảnh ngồi không ăn bám của nhơn sanh và cũng
tránh điều tủi nhục lúc suy thời như thông thường đă xảy ra.
Một thiếu xót lớn là nghĩ học chữ Miên, thôi ngan không thông báo cùng tỏ lời
biết ơn ông Sư trưởng chùa Sùng Phước, Ngài thắc thẻo măi và tự trách ḿnh quá
vô t́nh đối với người hảo tâm, giàu thiện chí giúp đỡ.
Ngài không quên ân t́nh của Đức Hộ Pháp dành cho các Ngài trong cảnh lưu vong
nghèo khó, nhắc lại lúc xin phép ra đời t́m việc làm trong tin thần tự lập và tự
lực cánh sinh, để giải quyết vấn để may mặc lúc cần hoặc thuốc men khi bệnh hoạn,
Đức Ngài dạy:
-Thầy tṛ ḿnh cũng không đến nổi nào, nếu các con thấy được, Thấy cũng bằng
ḷng để cho các con đi làm, nhưng Thầy dặn các con một điều là đừng bao giờ để
cảnh “chịu đấm ăn xôi”, thầy tṛ ḿnh sống hẩm hút với nhau.
Ghi nhớ điều đó nên Ngài mới có thái độ cứng rắn đối với ông Giám Đốc Sở Ngành
tại Phnom Penh, lúc xin nghỉ phép năm 1966 không được chấp thuận.
Vừa được chỗ làm với đồng lương tương đối khá, vài tháng sau Ngài bị chứng đau
dạ dày, ra huyết đường đại tiện, phải vào bệnh viện của hăng 10 ngày và nhận
thuốc điều trị thêm.
Rất may là hăng chịu tất cả, nếu chưa có việc làm rất khó khăn trong cảnh nầy.
Hăng Chup có 4 đồn điền ở Cao Miên, gọi là đồn điền đất đỏ, tính chung gần
20.000 ha bao gồm: Chup, Peamcheang, Krek, Thmar-Pitt và Tà Pao (nhỏ), hơn 10
ngàn công nhân. Mỗi sở đều có giám đốc riêng, thêm văn pḥng liên lạc tại thủ đô.
Ngài có nhiệm vụ giữ hồ sơ của tư chức và công nhân, lo việc lương hướng nhập
ngạch, thăng thưởng hằng niên, thâu nhận nhân viên chức, chuyển ngạch và liên hệ
với công nhân về mặt lao động theo thủ tục với Nha Tổng Thanh Tra Lao Động của
chánh phủ.
Trước kia công nhân đến với chức vụ nầy phải có điều kiện khó khăn, trái lại
Ngài rất vui vẻ niềm nở và nhanh nhẹn giúp đỡ anh em vô điều kiện, nhờ vậy tạo
được nhiều t́nh cảm tốt.
Ngài từ chối mọi quà biếu, lễ lộc. Có lần muốn tỏ ḷng biết ơn, một công nhân
thừa lúc Ngài rời khỏi bàn viết vội để vào học tủ một cây thuốc lá Pall Mall rồi
bỏ đi không nói tiếng nào. Khi nh́n thấy là biết ngay người nào đă biếu, Ngài
cho mời đến và nói:
-Tôi làm việc Hăng trả lương, bổn phận tôi là giúp đỡ anh em, sao lại quà biếu?
mỗi ngày lương của tôi mua gần đủ một cây thuốc, c̣n anh em luôn cà vợ con phải
nhịn ăn suốt mười ngày mới mua được. Làm chi cho khổ vợ con? Thôi đem cây thuốc
về.
Thấy Ngài ân cần giúp đỡ anh em, vài người thư kư trẻ có chiều khuynh tả, tưởng
Ngài cùng chung chí hướng (mị dân) nên giới thiệu một cán bộ Việt Cộng nằm vùng
tới nhà tiếp xúc. Sĩ Tải Khỏe có mặt trong cuộc đàm thoại. Cán bộ công tác tuyên
truyền lôi cuốn theo khuynh hướng mà lại lên án Cao Đài. Ông Khỏe và Ngài nêu
lên nhiều dữ kiện lịch sử Cao Đài rất có công trong cuộc đảo chánh Pháp ngày
9-3-1945, trái lại Việt Minh độc tài, tàn ác, kỳ thị tôn Giáo, tàn sát tập thể
các tín hữu tôn Giáo lại hay chụp mũ v.v…khiến cho cuộc gặp gỡ bất thành, sanh
bất b́nh. Đáng khen là người cán bộ Cộng Sản, trước lúc giả từ tỏ ra vui vẻ, đề
nghị xem việc xảy ra như không có.
Một lần khác, công nhân nhà máy mũ bị chuyển đổi công tác để thích nghi hoàn
cảnh, chiếu Sắc Luật của chánh phủ qui định tỉ lệ người bản xứ và ngoại kiều làm
trong tư sở. Công nhân nhà máy phản đối, đấu tranh, đ́nh công, yêu sách, hăng
thương thuyết nhân nhượng, giữ một số quyền lợi như cũ cho công nhân. Chẳng hạn
trong 3 tháng đầu công nhân khỏi phải dời chỗ ở, sáng chiều Hăng sẽ cho xe rước
đi làm, lương vẫn giữ 35 đồng một ngày thay v́ 25 đồng tương xứng với công việc
cạo mũ mới giao. Sau đó có tiền thưởng 3,5 đồng một ngày cho phu cạo mũ. Anh em
cử đại diện đến tham khảo ư kiến. Ngài giả thích những điều lợi và hại và khuyên
anh em nên bằng ḷng hăng hứa tất nhiên sẽ thi hành. Hăng đă có ưu thế là luật
lao động cấm đ́nh công, lại qui định biện pháp xử lư…Hơn nữa hăng có thừa khả
năng mua chuộc các giới chánh quyền, anh em đă thắng lợi nhiều nên dừng chân là
đúng.
Anh em không thỏa măng vẫn tiếp tục đ́nh công, bởi có động cơ thúc đẩy của cán
bộ Cộng Sản nằm vùng.
Trước sự việc nầy, hăng đổi ngay thái độ cứng rắn, gọi Ngài làm thông dịch nói
lại cho công nhân nghe, yêu cầu công nhân tiếp tục làm việc, nhận nhiệm sở mới,
việc mới với số lương mới, không được quyền lợi ǵ của hăng dành cho. Cương mạnh
sẽ đưa ra chánh quyền, chiếu luật lao động thi hành…
Anh em hốt hoảng, đêm tối cử đại diện một lần nữa, Ngài chỉ biết than:
-Quá muộn, trước kia lời khuyên chân thành của tôi, anh em cho rằng nghiên ngă
phía chủ thực dân, không nghĩ tới anh em, bây giờ ngoài khả năng giúp đỡ của tôi
rồi.
Sau nầy, Ngài nghe lóm là cán bộ nằm vùng ở Chup bị trung ương Phnom Penh khiển
trách nặng.
Trong lúc làm việc ở Chúp Ngài được làm việc chung việc với Hoàng Thân Sosowath
Entaravonf, cậu ruột của Thái Tử Sihanouk, trước là Tổng Trưởng Bộ Tài Chánh của
chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên, v́ lư do chánh trị, Sihanouk giết người em du học
ở Pháp về và loại ông anh trai ra khỏi nội các, đến xin việc hăng Chup và tập sự
tại Sở Xă Hội Lao Động. Ông có rất nhiều cảm t́nh với Ngài qua công việc trực
tiếp hằng ngày. Một hôm ông cho Ngài xem bản thảo phúc tŕnh với điều nhận xét
của ông qua tổ chức của hăng, ông nhờ Ngài cho ư kiến. Ngài góp ư vào làm cho
bản phúc tŕnh của ông được Tổng Giám Đốc rất bằng ḷng. Ông đến vui vẻ bắt tay
Ngài và nói:
-Ư kiến của anh rất hay, ông Tổng Giám Đốc rất bằng ḷng và khen ngợi đáo để.
Tôi nói thật: Người Việt rất xứng đáng là cố vấn tốt của người Miên.
Nhiều phen nhờ ông giúp Ngài khỏi tai nạn. Có lần ông c̣ cảnh sát đ̣i Ngài đến
KompongCham, định ư bắt dẫn giải về Việt Nam. Ngài lo trước, nhờ Hoàng Thân viết
danh thiếp nhờ can thiệp. Ông C̣ xem xong nói với Ngài rằng:
-Nếu không có sự can thiệp của Hoàng Thân Entaravong, tôi đă bắt anh rồi.
Trước kia, ông C̣ là thuộc cấp của Hoàng Thân, nhờ vậy mà Ngài được yên.
Muôn sự khó lại dồn dập. Một lần khác, dự thẩm KompongCham đ̣i Ngài và một số
anh em Việt Kiều trong sở. Mục đích xét giấy làm khó. Đứng đầu danh sách được
gọi vào trước, Ngài tŕnh giấy lăn tay và trả lời những câu hỏi của dự thẩm liên
quan đến t́nh trạng cư trú của Ngài cùng Việt Kiều công nhân viên chức của hăng,
đa số không căn cước. Ngài nêu rơ nhiều chi tiết, từng khoảng một, đặc biệt là
số anh em được mời hôn đó, tuy chưa đủ giấy tờ nhưng kể như hợp pháp.
Sau năm 1954, do nhu cầu hăng dùng phi cơ riêng chở một số nhân viên có khả năng
chuyên môn từ Quản Lợi Việt Nam lên Chup để bộ máy hành chánh nội bộ được trôi
chảy. Ông Tổng Giám Đốc có gởi lời xin căn cước cho những người đó, được Tổng
Trưởng Bộ An Ninh chấp thuận. Hăng đang tiến hành thủ tục th́ nội các chánh phủ
thay đổi. Ông Tổng Trưởng An Ninh lănh nhiệm vụ khác, do đó sự việc chịu dang dở,
chưa hoàn tất, hồ sơ Ngài giữ, nếu ông dự thẩm muốn rơ, cần xem, có sự đồng ư
của ông Tổng Giám Đốc Chúp Ngài sẽ tŕnh đầy đủ.
Ông Dự Thẩm co về an toàn. Các anh em khỏi vào chịu hạch vấn thêm. Được nghe
thuật lại vấn đề các anh em vô cùng phấn khởi nức nở tỏ lời cảm ơn khen ngợi:
-Hôm nay nhờ đi với Thầy Bảy người lanh lợi hiểu biết, nói năng rành rẻ, anh em
tôi được nhờ biết bao nhiêu. Từ khi được trát Ṭa đ̣i, vợ chồng chúng tôi rầu
quá, định là phải ở tù, bị trục xuất về Việt Nam, bỏ vợ con lại bơ vơ. Sáng hôm
nay trước khi đi, chúng tôi từ giả vợ con rồi, đồng hồ, viết máy để lại nhà,
chúng tôi thay quần cụt đen chuẩn bị đi tù. Vợ con khóc lóc bịn rịn v.v…
Sĩ Tải Khỏe cũng có mặt trong chuyến đi nầy. Ông Giám Đốc hành chánh nghe kể lại
sự việc cũng rất hài ḷng và Ngài cũng lấy làm vui đă nói được lời giúp ích
nhiều anh em.
Thời bấy giờ do sắc luật cấm thâu ngoại kiều, người Việt sống trên đất Miên gặp
rất nhiều khó khăn. Người bản xứ ganh tị muốn dành chỗ với người Việt trong
những chức vụ quan trọng, nên tố cáo với Tổng Thanh Tra Lao Động tại Phnom Penh
về trường hợp của Ngài được thâu vào làm việc cho hăng. Nhờ ông Tổng Giám Đốc
cương quyết bảo vệ, nói rằng hăng cần người có khả năng đó trong chức vụ đă lâu
c̣n khuyết vị, không người làm. Thay v́ cũng chính ông không chi thâu nhận Ngài
vào Service Technique, hôm nay may mắn được ông thương nên tận t́nh bênh vực.
Ngày nhập sở ngày 02-10-1957 đến 31-12-1957, nhân dịp Tết Tây chúc xuân ông Tổng
Giám Đốc, trong tiệc champagne vui vẻ, Ngài xin ông Tổng Giám Đốc lưu ư đến t́nh
trạng của một số công nhân Việt Kiều chưa có giấy hợp lệ lưu trú, yêu cầu lo
giúp để anh em yên tâm, trong phần hành chuyên môn phục vụ cho hăng lâu dài. Ông
Tổng Giám Đốc cười và hứa lại c̣n khuyên Ngài lo đủ hồ sơ, hăng sẽ giúp đỡ xin
cho nhập quốc tịch Miên đặng làm việc khỏi gặp khó khăn, mọi phí tổn hăng sẽ đài
thọ.
Chứng kiến và nghe câu chuyện, anh em dành cho Ngài cảm t́nh hết sức tốt. Sau
cuộc tiệc anh em nói riêng với Ngài:
-Thầy Bảy mới vào làm việc sao dám nói như vậy? không sợ chủ đuổi sao? Chúng tôi
làm việc đă lâu cũng muốn điều đó lắm nhưng không dám nhắc xin. Nghe Thầy nói
chúng tôi mừng lại cảm ơn Thầy nữa, song chúng tôi sợ ông Tổng Giám Đốc giận
rồi cho Thầy nghỉ việc, tội nghiệp Thầy.
Ngài đáp:
-Phận sự ở Sở Xă Hội Lao Động tôi phải làm xứng phận. Đó không phải là giúp
riêng cho Thầy mà lo cho hăng đó. Mấy Thầy có thấy không, chẳng những không giận
ông Tổng Giám Đốc c̣n dành cho tôi cảm t́nh tốt, hứa cho tôi quốc tịch Miên.
Sau nầy ông Tổng Giám Đốc nhắc Ngài sớm lo hồ sơ để hăng giúp đỡ như ông Tổng
Giám Đốc đă hứa. Ngài cảm ơn và không có ư chuyển đổi quốc tịch. Ông Tổng Thư Kư
giải thích có nhiều quyền lợi và hỏi lư do tại sao không lo hồ sơ. Ngài xả giao
nói:
-Phải xin quốc tịch Pháp, tôi vui vẻ và sốt sắng, c̣n quốc tịch Miên th́ v́ quốc
thể Việt Nam, tôi chưa có ư định.
Ông Tổng Thư Kư cười và nói sang chuyện khác.
Những ngày đầu ở đồn điền, công chưa thành, chí chưa toại, người ly hương tha
ban cầu thực mang một tâm trạng rất bi đát. Đă xa gia đ́nh, xa cội Đạo, xa chùa,
xa Đức Hộ Pháp, một ḿnh bơ vơ lạc lỏng giữa chợ đời ô trọc, đầy cạm bẫy, buồn
vui không hợp ư để hàng uyên tâm sự, nổi u hoài lúc nào cũng canh cánh bên ḷng.
Trước mắt toàn rừng thẩm cao su tịch mịch, càng nh́n, càng nghĩ mong lung, càng
buồn thê thảm. Khi màng đêm rơi xuống, càng thấm thía năo nề trong kiếp trầm
luân nơi khổ hải. Ḷng thấy rời ră, tan nát, chán nản nhứt là rạng đông mờ sáng,
c̣i hụ 5 giờ đánh thức công nhân để chuẩn bị đi làm. Ngài đang độ thanh xuân,
nồng say giấc điệp, giật ḿnh có cảm tưởng như kẻ tội được báo hiệu sắp lên đoạn
đầu đài để trả rồi nợ thế !!!
Hăng cấp nhà có đủ tiện nghi, lương khá cao, có tiền phụ cấp mướn bồi theo ngạch
hạng nhứt. Ngài nghĩ đến vợ con đang cô quạnh, lẻ loi không người đỡ đầu lo lắng,
bèn cậy người năm xưa ở xứ, vượt biên đi rước. Trước đó Ngài vận động ông C̣ sở
lăn tay (lục h́nh lập căn cước) kư giấy đ̣i để tên vợ đặng cầm tay đi trên đất
Miên khỏi điều trở ngại.
Hy vọng mọi việc được như ư, không ngờ tuần lễ sau, người bạn báo tin không đi
được v́ con đau. Thế là tuyệt vọng! lo được giấy đi đường là việc khó, cậy người
vượt biên muôn ngàn sự khó hơn.
Đành với số kiếp để rồi đón nhận cảnh gương vỡ, b́nh tan, tơ đàn đứt đoạn!!!
Cuộc sống tại đồn điền dai dẳng kéo dài những 3 năm. Ngài tạo cho ḿnh tiếng tốt
và nhiều cảm t́nh trong giới công nhân viên chức. Có lần ông Khỏe tâm t́nh với
sự hănh diện:
-Anh em ḿnh lên Chup được dư luận chú ư đặc biệt, có thể nói là hoán cải phần
nào nếp sống ở đồn điền. Nói như thế không phải là quá đáng, họ nh́n ḿnh ở tư
cách, tác phong, tự nhiên họ sửa đổi thấy rơ. Hễ nghe nói Thầy Ba, Thầy Bảy,
Thầy trắng, Thầy đen, đương nhiên biết là thiên hạ nói ḿnh.
3.ÔNG MAI MÁT TAY
Thời gian ở Chup Ngài tác thành hai cuộc hôn nhân. Lúc đầu tưởng bế tắc không
lối thoát, sau đem lại niềm vui hạnh phúc cho đôi nam nữ trong cuộc.
Khó khăn nhứt là trường hợp của Dũng và Lan, thư kư sổ lương, chung sở cùng nhau.
Lan là con của Giám Thị Tư Khương, làng 18 sở Chup. Dũng là con trai của ông Đội
cạo mũ, trước là phụ cạo dưới quyền của Giám Thị Tư Khương (Surveillant) v́ lẽ
đó mà gia đ́nh Dũng không dám ngơ lời mặc dầu Lan và Dũng yêu nhau tha thiết.
Lan yêu cầu cha mẹ cho tiến tới việc cưới xin . Thầy Tư Khương trả lời với con:
-Một thằng đă từng sống dưới làng roi vọt của tao mà mầy bảo tao ngồi sui với nó
làm sao được.
Lan và Dũng gần như tuyệt vọng. Nghe vậy tội nghiệp cho hai trẻ, dù không có sự
nhờ vả yêu cầu, Ngài muốn can thiệp giúp đỡ nhưng ngại không đủ uy tín bèn mời
Thầy Mười Xiển, kiểm tra ngành cạo, có 30 chục năm thăm niên ở sở Chup, mời hợp
tác làm việc nghĩa. Thầy Xiển tứ chối nghĩ rằng không đủ lời lẻ thuyết phục, sợ
thất bại trước sự bảo thủ, khó khăn phong kiến của Thầy Tư Khương. Ngài hứa bao
thầu việc đó, chỉ cần sự có mặt của Thầy Mười Xiển đủ đảm bảo thêm về uy tín.
Chở nhau trên chiếc Juwa, hai anh em đến làng 18 thăm gia đ́nh Thầy Tư Khương
vào một buổi sáng chúa nhật. Rao nam ba điều bốn chuyện, Ngài vào đề trước sự
chứng kiến của Thầy Mười Xiển. Suy cổ luận kim, nói điều hơn, lẻ thiệt hơn hai
tiếng đồng hồ, vợ chồng Thầy Tư Khương xiêu ḷng thuận ư. Ngài và Thầy Mười Xiển
được mời dùng cơm trưa trước khi ra về. Trên đường về Thầy Mười Xiển nói:
-Tôi thấy rất khó, sợ không có kết quả nên lúc đầu do dự chẳng muốn đi, không
ngờ mọi việc được tốt đẹp, đó là công lao của Thầy Bảy đó.
Ngày hôn lễ, vợ Thầy Tư Khương rất vui vẻ nói với Ngài trước hai họ:
-Có Thầy Bảy mới có hôn lễ ngày hôm nay…Thức ăn chính tay tôi đi Sài G̣n mua về
đăi Thầy Bảy v.v…
Khiến Ngài hănh diện trước đông người.
Cuộc hôn nhân thứ hai của con gái ông Đội làng 15, người giúp việc nhà ông Ba
Hạt, Kế Toán Trưởng đồn điền Chup. Chú rễ là thư kư đánh máy quốc tịch Miên gốc
Việt. Chính Ngài làm Chủ Hôn kiêm Trưởng Tộc, vừa nói lễ vừa tặng nữ trang thay
mặt đàn trai.
Việc qua rồi thấy thông thường, song trong cuộc mới thấy rơ điều khó khăn là
giải tỏa sự phân cách về giai cấp trong tư tưởng môn đăng hộ đối của thế t́nh.
Ngài lấy làm bằng ḷng đă làm được việc hữu ích, đem lại sự vui vẻ, hạnh phúc
cho bao cập uyên ương sống êm ấm cho đến ngày Ngài về Việt Nam không c̣n biết
tin thêm.
Trường hợp của Hồ Thái Bạch và cô Năm Huệ cũng vấp vào vấn đề giai cấp v́ môn
không đăng, hộ không đối. Nếu không có sự nhún tay của Ngài vào th́ cuộc hôn
nhân cũng bất thành. Sự cố gắn buổi ban đầu của Ngài không đem lại kết quả. Ngài
đề nghị chị Kim Quan, vợ anh Lương, họp anh chị em trong gia đ́nh thuyết phục
cầu xin, nài nỉ suốt đêm, bạn hôn phối của Ngài Hồ Bảo Đạo, sau rốt lúc b́nh
minh ló dạng, mới chấp thuận trong sự miễn cưỡng. Thế là Hồ Thái Bạch và cô Huệ
sống hạnh phúc với nhau, sanh sáu gái đều nên người. Liên tiếp 2, 3 năm liền, vợ
chồng ông Bạch đều tặng quà và chúc xuân cho ông mai bất đắc dĩ.
Ngài c̣n giúp đỡ những người bạn lưu vong giống như Ngài, Ngài giới thiệu cho
ông Lê Quang Tấn lănh thầu xây dựng, sửa chữa nhà cửa cho hăng Chup. Ông Tổng
Giám Khuê có thời gian được ông Tấn chở lên Chup với anh em trong Đạo, công tác
vào các công tŕnh thầu được, cùng chia nhau sự sống trong thời gian lưu von ở
xứ người.
Ông Tổng Giám Khuê có lần nói với ông Khỏe và Ngài:
-Lên đây được nghe dư luận khen hai em, Qua lấy làm hănh diện. Qua cũng mừng cho
hai em vừa có đồng lương để sống, vừa được bà con lớn nhỏ thương…
Ngài c̣n dùng uy tín riêng để giới thiệu vay tiền nhẹ lời phụ giúp ông Tấn mua
phụ tùng xe hơi và các loại cung cấp cho hăng. Sẵn tài tháo vát lại khôn khéo,
ông Tấn tạo cho ḿnh nếp sống đầy đủ về vật chất, mua xe du lịch, có nhà mướn
riêng, có gắn điện thoại v.v…Những lần ông Tấn bị tù ở Phnom Penh Ngài cũng vào
khám thăm, lo chạy cho ông, mướn Luật Sư, lo Dự Thẩm, vận động tại Ṭa cho ông
khỏi tội. Lần đầu ông được trắng án, lần thứ hai ông bị đưa về Việt Nam.
Ông Lê Quan Tấn đi rồi, Ngài gánh chịu hậu quả. Do biết các Ngài thân nhau, công
an t́m đến sở làm hoạnh hẹ, hạch sách đủ điều, lại c̣n chờ hết giờ theo Ngài đến
nhà riêng tống tiền. Ngài nói không sẵn tiền, nhưng rồi hẹn ngày đến nhà hàng
Sukklay, đại lộ Monivong giao nạp. Muốn được yên thân đành phải chịu tốn kém.
Thật là năo nề, chẳng lúc nào yên thân trong cảnh ăn đậu ở xứ người!!!
Đến trường hợp của ông Cao (Bùi Quang Cao), Ngài thấy ông Cao chồng Nam vợ Bắc,
khó vẹn phần làm chồng làm cha, bèn bàn với ông Tấn lo việc rước vợ con của ông
Cao để đoàn tụ gia đ́nh.
Tùng dịp chính quyền Miên ra lịnh kiểm tra Việt Kiều, Ngài nương thế lực của
hăng, tạo sổ kiểm tra giả và lăn tay thế cho vợ ông Cao, ông Tấn đem đi thị thực
tại Chauvay Srok Suong. Ngài cậy người vượt biên rước vợ và hai đứa con trai của
ông Cao. Đến khi làm giấy căn cước, bạn đời của Ngài bây giờ và cũng là người đi
rước vợ con ông Cao, đến sở Tân đáo nộp sổ thiệt tráo thay rút sổ giả ra, giúp
vợ con ông Cao được giấy cư trú hợp pháp khỏi tốn kém. Việc làm đầy nguy hiểm,
được trót lọt b́nh thường, nếu sơ xót sẽ bị ở tù, nhưng với nhiệt t́nh giúp đỡ
anh em Ngài vẫn không nệ.
Kết quả được như ư là đem niềm vui sum hợp cho gia đ́nh ông Cao.
4.HOÀI NIỆM ĐỨC HỘ
PHÁP
Sau một năm làm việc ở Chup, Ngài mua được chiếc mô tô Jawa 250 phân khối. Hàng
tuần chiều thứ bảy nếu không về Phnom Penh thăm Đức Hộ Pháp th́ cũng chạy qua
Peamcheang thăm anh chị Quốc.
Thường khi về Nam Vang tối ngủ chung với ông Cao trên lầu cùng với chú Hiệu.
Đức Hộ Pháp thường hỏi Hiệu:
-Trân có về ngủ không? Có lấy gối cho thằng Trân ngủ không?
Nhắc tới Ngài cảm động và thương Đức Hộ Pháp vô cùng.
Một hôm để tỏ ḷng tri ân trước sự yêu ái của Đức Hộ Pháp dành cho, Ngài tŕnh
thuật với Đức Ngài những lời sau:
-Hôm tết, con có nhận mười mấy đ̣n bánh tét của Giáo Sư Hương Cúc, nói vâng lịnh
Thầy dạy gói cho con để dành ăn trong mấy ngày xuân. Về tới Komphongcham con
thấy Bàn Trị Sự đang họp văn pḥng Châu Đạo, con mượn lịnh Thầy khích lệ chung.
Con nói: “Đức Hộ Pháp cảm kích tinh thần Đạo đức của Bàn Trị Sự và bổn Đạo
Kompongcham, nhân dịp tết Đức Ngài dạy tôi đem biếu quí vị ít đ̣n bánh tét gọi
món quà đầu xuân của Đức Ngài”. Bàn Trị Sự rất mừng và cảm động quá.
Đức Hộ Pháp cười:
-Con cũng khéo biết lập công quả.
Nhớ lại Ngài vẫn c̣n thấy vui.
Nhắc đến Đức Hộ Pháp trong chuỗi ngày sau cùng của Đức Ngài ở Fodation Calmette,
có ba việc in sâu vào tâm khảm, thời gian không làm sao xóa mờ trong trí nhớ của
Ngài được.
1.Việc thứ nhứt: Đức Ngài cho gọi Chức Sắc đến dạy việc. Hôm sau tất cả
đều có mặt. Đức Ngài nằm trên giường bệnh nh́n từng người một. Nh́n một hồi khá
lâu Ngài xoay vào trong tường. Chính lúc đó Đức Ngài mũi ḷng không nói nên lời
và cũng không muốn để lộ sự xúc cảm mạnh cho Chức Sắc nh́n thấy, sợ Chức Sắc
nh́n thấy Đức Ngài rơi lệ sẽ buồn ḷng rủn chí !!!
2.Việc thứ hai: Ngài Bảo Đạo cùng anh em vào thăm, đồng thời mang văn thơ
đánh máy sẵn tŕnh Đức Ngài kư đặng gởi Thái Tử Quốc Trưởng Sihanouk. Nội dung
bức thư xin gởi Thánh hài tại Vương Quốc sau khi Đức Ngài lâm chung.
Chính Ngài đỡ Đức Ngài ngồi dậy và dựa lưng vào người để kư tên. Có người tŕnh
thơ văn và dâng bút máy.
Văn thơ đó sau nầy được gọi là di chúc.
3.Việc thứ ba: Giờ phút chót được ở bên cạnh Đức Ngài lúc kiếu từ ra về,
Ngài thưa:
-Bạch Thầy! đă hết giờ thăm, Y Tá báo cần để bệnh nhân an nghỉ. Chúng con xin
phép về và kính chúc Thầy mau b́nh phục.
Đức Ngài dạy:
-Thôi con về đi con, con về đường xa, ngày mai c̣n đi làm việc.
Đức Ngài vẫn tỉnh táo sáng suốt. Những lần đến thăm, thấy Đức Ngài khỏe, Ngài
không nghĩ Đức Ngài về Tiên mau chóng và bất ngờ như vậy.
Ông Tấn đi riêng, ông Khỏe và Ngài tới bến xe Kompongcham ngồi giải khát chờ giờ
xe chạy. Th́nh ĺnh ông Tấn xuất hiện, tự nhiên Ngài hồi hộp và gần như hốt
hoảng hỏi:
-Có ǵ không? Bộ có tin không lành về Đức Hộ Pháp phải không?
Ông Tấn trả lời:
-Biết hai anh chờ xe, đến chơi một chút cho vui chớ có ǵ đâu.
Ngài nói tiếp:
-Thấy anh bất ngờ đến tự nhiên phát lo, tưởng có tin bất thường về Đức Hộ Pháp
mà quên nghỉ rằng chúng ḿnh vừa mới từ giả ra về một lược với nhau, mới khi nảy
đây mà.
Về tới Chup, chiều lại nhân viên gác máy truyền tin cho hăng cho biết rằng ông
Tấn báo tin Đức Giáo Chủ đă qui Tiên. Tối đến, tùy phái đi thơ Kompongcham,
chuyển thêm bức điện tín của ông Tấn cùng nội dung như trên.
Vỡ lẻ ra linh tính lúc gặp ông Tấn tại nhà hàng, chính là giờ Đức Hộ Pháp qui
thiên mà bị mang thân phàm xác tục, trọng trượt u mê nên Ngài Ngài không đoán
biết được.
Một phần ba thế kỷ trôi qua, chuyện cũ nhắc lại hôm nay, Ngài c̣n thấy chuyển
động rung cảm, vẫn c̣n có thể h́nh dung từng nét tại căn pḥng bệnh viện, vị trí
giường bệnh chỗ Đức Hộ Pháp điều trị. Thấy rơ ḷng từ ái bao la của Đức Ngài đối
với các Ngài thể hiện qua những ngôn từ, động tác với ánh mắt nh́n hàm chứa bao
triều mến, nhứt là trong giờ phút sau cùng Đức Ngài càng rơ rệt hơn.
5.LỜI DẠY CỦA ĐỨC HỘ
PHÁP VÀ BÁT NƯƠNG
Để an ủi về mặt tinh thần, Ngài tạo cần cơ, chở ông Khỏe qua nhà anh Quốc, tổ
chức lập đàn cầu học hỏi. Ông Khỏe tiếp điển rất tốt. Hôm ấy có mặt anh Quốc (nguyên
Truyền Trạng), chị Quốc nhũ danh Nguyễn Thị Thành (nguyên Luật Sự), cô Lễ Sanh
Hương Dĩ, ông Giáo Sư Ngọc Trôi Thanh, ông Khỏe và Ngài pḥ loan.
Đức Hộ Pháp dạy:
Peamcheang, đêm 8 tháng 8 Kỹ Hợi (10-9-1959)
……………….
Hai con Trân, Khỏe.
Hai con ráng lập chí
để ngày sau trở về hành đạo tại Tổ Đ́nh đa nghe.
Thầy đă làm xong bổn
phận Thiêng Liêng, các con c̣n bổn phận bảo thủ chơn truyền th́ phải ráng, ráng
thấy, ráng hiểu để qui tụ nhơn sanh vào khuôn bác ái và công bằng của Chí Tôn đa
nghe.
Thầy dặn điều nầy
nghe: Các con có hai phận sự:
-Về Đạo th́ lấy Tổ
Đ́nh làm gốc và là nơi ngự của Hội Thánh Cửu Trùng và Hiệp Thiên.
-Về mặt đời th́ tùy
các con tự liệu lấy phương hướng mà lập thân danh và định phương giúp nước, giúp
dân cho đáng.
……………..
Bát Nương dạy:
Peamcheang, đêm mồng 1 tháng 12 Kỹ Hợi (30-12-1959)
Bát Nương Diêu Tŕ
Cung
Chị chào các em.
Chuyện thiên hạ biết
lo sao cho hết. Nay chị nói chuyện với các em về phần đời của con người.
Đă sanh ra kiếp làm
người th́ phải làm xong tam tùng tứ đức và tam cang ngũ thường,…Kiếp sanh không
mấy lát, cuộc đời ít gặp dịp may, đấng trượng phu phải lướt qua mọi trở ngại
trên đường đời đầy chông gai hiểm trở, và cũng phải đi trên mọi phê phán thường
t́nh để làm tṛn bổn phận con người: ích nước, lợi nhà. Mọi t́nh cảm của thế
nhân, luôn cả người thân thích vẫn thường thay đổi theo trạng thái và hoàng cảnh
v́ mọi sự đều giả, nhưng những bậc đại nhân quân tử thường coi việc của thế nhân
là tầm thường không đáng luận, chỉ cần nghĩa cả của con người là lẽ phải. Nhân
nghĩa Đạo trọng của con người, nếu không tṛn Đạo nghĩa th́ kể như không việc ǵ
đáng nghĩ nữa.
Thường thời thế hay
tạo nên anh hùng, cũng có khi anh hùng tạo nên thời thế. Mọi sự xảy ra thường
t́nh đối với con người mặt thế nầy không có ǵ là nhất định hay vĩnh viễn cả. Từ
xưa, các bậc ưu thời mẫn thế cũng phải chịu điêu đứng cả xác thịt và tâm hồn,
sống riêng nơi đất khách, không c̣n sự quyền luyến của thân tộc, nhưng cũng v́
chí cả của con người và Đạo nghĩa mà trở nên bậc vĩ nhân của nhân loại. Chẳng cứ
phải ra quân lược trận hay nắm quyền chánh quốc mới trở nên bậc vĩ nhân mà con
người đă làm tṛn nhơn nghĩa giữa chợ đời cũng có thể thành bậc vĩ nhân được.
Mọi việc thường t́nh
ở thế gian đều tạm, khó định nghĩa cho minh bạch để làm khuôn vàng thước ngọc
cho mọi người noi theo, mà chỉ nên lấy nhân nghĩa làm giềng mối để phăng đi lần
đến bực chánh giác, tức là thành con người vậy.
Các em mỗi người một
cảnh, chí cả cũng không được giống nhau, nhưng v́ Đạo nghĩa ở đời, giúp nên cho
mọi người th́ đồng chí. Các em cũng gặp nhiều ngang trái trên đường đời và cũng
đă từng lướt qua như đi trên bàn thạch, th́ mọi việc ǵ có thể xảy đến trong đời
các em cũng kể như không có. Điều đó các em đă làm th́ từ nay trở đi cũng phải
cố gắn lập chí, b́nh tâm để lo kế sinh nhai tạm nơi đất khách rồi chờ ngày đoàn
tụ gia đ́nh.
Các em cũng nhận thấy
mọi việc khó khăn cũng sẽ đến với khách tha hương là dường nào th́ các em cũng
nên cần kiệm, lập tâm nuôi chí để ngày về quê khỏi thẹn với gia đ́nh là không
tṛn bổn phận.
Sự nghiệp thế gian
vẫn tạm th́ mọi công danh cũng tạm. Mọi việc ǵ xảy ra ở thế đều do tiền định cả.
Chị khuyên các em nên
b́nh tâm để phán xét việc đời và việc ḿnh cho đúng lư, đúng t́nh thế để khỏi
thắc mắc khi gặp một tai biến xảy ra.
Chị nói ít các em suy
nghiệm rồi định tâm lo lấy ḿnh.
Chị xin nhắc lại là
mọi chuyện làm ăn sanh cơ lập nghiệp ǵ cũng đều do tiền định cả. Các em nên giữ
tṛn nhơn nghĩa là đủ.
Nhận thấy Bát Nương dạy riêng Ngài, trong khi tất cả đều nghĩ rằng lời dạy chung
thông thường. Bát Nương rất khéo léo, tế nhị, dùng lối văn dịu dàng thâm thúy.
Càng nghĩ càng cảm trọng Thánh ân d́u đỡ.
Lần khác Bát Nương dạy:
………………
“Việc đi ra làm công
t́m đồng lương độ nhựt là cũng phải, xong đừng ỷ lại vào đó mà làm cho thiên hạ
đang để ư xua đuổi các em rồi các em phải chinh chông không nơi cập bến mà khổ
lây cho chị v́ chị không nở ngồi nh́n các em lạc lơng”.
……………….
6.NỔI L̉NG RAI RỨT
KHI CUỘC HÔN NHÂN TAN VỠ
Ngài buồn cho số phận hẩm hiu nên tùy phương giải quyết vấn đề, cậy bạn vượt
biên một lần nữa, đem con gái vừa lên 4 tuổi để thuận bề dưỡng nuôi dạy dỗ.
Con c̣n quá nhỏ, Ngài làm việc nuôi sống qua ngày, gởi trường không nhận, cảnh
gà trống nuôi con thật muôn điều khó liệu, đắn đo cân nhắc, cần giải quyết cho
ổn vấn đề, vừa thể hiện vuông tṛn ơn nghĩa, vừa được danh chánh ngôn thuận,
Ngài thỏa hiệp với bạn, người đă nhiều lần giúp đỡ trong chuyến vượt biên kể
trên, tiếp tay Ngài chăm sóc cho con.
Người góa chồng một lần thêm một lần dang dở, kẻ ở cảnh trái ngang, người đang
điều ngang trái, đồng ư phối hợp sống chung, tức là bạn đời chấp nối của Ngài
tên Trần Thị Huyện, tuổi Giáp Tư, Hiền Tài Ban Thế Đạo.
Trước khi rước con về, Ngài viết một lần sau cùng gởi bạn t́nh chung, xin ghi
lại nguyên văn, dầu rằng mộc mạc chất phác, nhưng phơi trần tâm trạng với bao
đường gân chỉ máu của con tim và nói lên cốt cách trong tinh thần quyết đoán của
Ngài ở tuổi 35 lúc bấy giờ.
Chup, ngày 15 tháng 1
năm 1960
Em,
Anh nhớ độ nầy năm
ngoái, anh có viết cho em một bức thư dài, năm nay cũng thế, khi tiết đông đă
đến, mắt anh nh́n hoa cỏ úa xào, cao su xơ xác phơi cành rụng lá, thể hiện một
cảnh đau thương tan tác. Trí anh tưởng trước cảnh ảm đạm như thế mọi người đều
thấm thía nổi tê tái năo nề trong kiếp trầm luân nơi khổ hải.
Chính anh hôm nay
ḷng cũng ră rời giá buốt, anh lại cầm bút viết cho em một lần nữa để mong vơi
một phần nào khối thảm sầu của người lữ thứ khi ôn lại kư ức chuỗi ngày qua…
Em, thắm thoát đă ba
năm, v́ cảnh đời éo le, anh xa tổ ấm, ĺa con thơ c̣n đỏ và cách biệt em yêu của
anh khi t́nh đang nồng, nghĩa đang đượm, người anh cứ mỗi một ngày qua là càng
chất chứa thêm gánh nặng “sầu, thương, đau, nhớ”. Mỗi lần nghĩ đến những người
thân yêu nhất đời anh, anh cảm thấy ruột quặng thắt trăm chiều. Anh tiếc anh
đứng làm trai chẳng vẹn Đạo tam cang đối với em, em đă đóng vi tuồng quan trọng
trong tâm cang trí năo anh: Em đă trao thân gởi phận cho anh, gọi nương bóng
tùng quân, đáng lư ra anh cần châm lo d́u đỡ em, trái lại anh phải xa em v́…v́
sinh kế, anh đành tách dậm băng ngàn, tha bang cầu thực…!!! Hẳn em hiểu đó thật
ngoài ư muốn riêng của anh vậy.
Em,
Anh cảm thông lẽ năo
ḷng lúc xa anh, bởi vừa để chân vào cuộc đời mới, em gặp ngay nghịch cảnh rồi
làm sao cho khỏi khổ được phải không em? Do đó anh lấy làm lo ngại vô ngần, dầu
sao anh cũng có ít nhiều kinh nghiệm thâu thập trên đường đời, anh thường khuyên
em, anh giải thích em nghe, đến đổi sắp chia tay hẳn tại Sài G̣n, anh cũng c̣n
nhắc nhở em. Tuy nhiên anh vẫn không yên ḷng, măi đến khi nhận được thơ em với
lời văn thống thiết ai bi, nào: “Mỏi ṃn trông đợi…”, nào “nỗi ḷng em đối vớ
anh mỗi lúc nghe lời bập bẹ của con thơ nhắc nhỡ anh hoặc xem h́nh ảnh của anh”.
Nào em khuyên anh ráng bảo trọng sức khỏe chờ ngày tương phùng hội ngộ, vợ chồng
sẽ tràng ngập nổi niềm vui sướng. Nào “em ước mơ sự tin cậy” giữa anh và em vẫn
c̣n ghi măi tận đáy ḷng đến khi đầu bạc răng long, đừng bao giờ lỗi hẹn. Thời
gian đầu thay đổi, cảnh vật hoàng cảnh tuy biến đổi kiếp sống con người, nhưng
không bao giờ thay đổi ḷng chung thủy của em” (nguyên văn). Nào “Plus la
douleur est grande plus il est grand de vivre” (nguyên văn).
Em lại c̣n làm thơ gởi anh với những câu:
Dầu phải xa anh vạn
dậm lần,
Làm sao dứt được
nghĩa trăm năm?
Làm sao quên được
người yêu dấu?
Hoa ḷng chỉ nở một
lần thôi.
(nguyên văn)
Lại với:
Đêm khuya để khóc
canh trường,
Buồn thương phận
thiếp thêm thương nỗi chàng.
Thương anh giọt lệ
hai hàng,
Từ khi cách biệt muôn
ngàn yêu thương.
………………
Mịt mù nắng hạ mưa
rào,
Con thơ nằm đó ḷng đau tơi bời.
Với những lời lẽ ấy,
bây giờ anh mới trọn tin tưởng nơi ḷng sắt son của em. Chính hôm nay, anh soạn
lại những bảy bức thư của em gởi cho anh để đọc nốt một lần nữa và để nói cho em
nghe: Lời thơ, lời văn ấy, ngày giờ nầy vẫn c̣n có thể rung động tâm can anh.
Anh tưởng nổi đau đă
tạo thành một thi sĩ với tâm hồn cao quí vô biên và thời gian xa vắn anh, chẳng
đủ năng lực mờ xóa trong trí nhớ của em, những điều anh đă ân cần khuyên nhũ
trong chuỗi ngày sống bên anh với mối t́nh thiết tha đầm ấm. Anh măi đinh ninh
sự đau khổ và thời gian ấy rèn cho em một ư chí cương quyết, với ḷng cứng rắn,
minh chánh, để đối phó với đời, để chóng chỏi với mọi cám dỗ lúc nào cũng chực
đưa em vào cạm bẫy của thế t́nh.
Anh rất mừng mỗi khi
được thơ em, dầu những bức thơ sau nầy cũng vậy, bởi anh chẳng mảy may ngờ rằng
em lại có thể bước sang ngang và anh cũng không tin em nỡ đành ôm cần sang
thuyền khác!!!
Thế mà những điều lo
sợ, tiên đoán của anh trước kia, hôm nay đến với anh và kéo anh về một thực tế
hết sức thê lương bi đát: Bởi anh quá tin nên lầm !!!
Tuy vẫn thương em,
anh chẳng giận em. Anh nghĩ chẳng phải em muốn điều tệ bạc với anh v́ em rất mực
yêu anh, nếu không sao em lại có những lời âu yếm thiết tha với anh? Nếu không
sao em lại lo cho anh, sầu v́ anh, gởi tặng h́nh cho anh? Anh tưởng chẳng qua em
c̣n trẻ người non dạ (em chớ phiền nhé), em chẳng làm sao nén được dục t́nh bộc
phát trong cấp thời…rồi càng ngày càng đi sâu vào đường tội lỗi !!!
Âu cũng là hoàn cảnh
tạo nên hay đúng hơn là định số do thiên cả…dầu anh có ở bên cạnh em măi măi,
chưa hẳn anh cải được mệnh số…Phải không em?
Thương em anh chẳng
nở trách em cũng như em không thể trách ai khác hơn v́ chính em đă đưa đến tận
ngă ba đường để đặng ngâm câu:
“Ngă ba đây nẻo chia đường,
“Đau thương mở lối
đoạn trường cũng đây !!!
Thế là cả hai chúng
ta đều vui nhận số kiếp của ḿnh, em nhĩ !!!
Hôm nay trước sự việc
như vầy, nếu nói v́ em quá yêu anh, chẳng nỡ để anh đau khổ lâu dài v́ thương
nhớ em, em muốn tự tay cởi mở cho anh gánh nặng phiền toái…anh xin thật t́nh cảm
ơn em. Bằng nói em lỡ lầm, lỗi Đạo làm vợ với anh, anh rất sẵn sàng tha thứ, tất
nhiên anh không c̣n bận tâm ǵ nữa.
Em,
Anh đă viết lâu lắm
rồi song anh chờ măi đến hôm nay mới viết sạch lại gởi cho em khi mà anh tự xét
chẳng c̣n ai hoặc giả chính bản tâm anh nghi kỵ mất b́nh tỉnh, kém sáng suốt
trong khi giải quyết một việc ḷng và định đoạt cả cuộc đời anh.
Anh rất b́nh thản nói
với em câu nầy, không phải một quyết định mới riêng của anh mà là một thỏa ước
giữa anh và em khi hai ta vừa phối hợp tâm hồn để cho đôi con tim cùng ḥa chung
một nhịp điệu:
“Một bát nước đầy đem
vất đi làm sao lấy lại nguyên vẹn được?”
Em ơi! Thế là hết!
gương đă vỡ! b́nh lại tan! T́nh ta cũng chấm dứt từ đây!!!
T́nh ta chấm dứt từ
đây trong một trường hợp quá bất thường khe khắc !!! những tưởng lần gặp gỡ với
những lời tâm sự tại Sài G̣n (nhà anh Sáu Nở) là để hẹn ngày tái hiệp, bữa cơm
tại Cao Lâu Chợ Lớn chỉ đánh dấu một đoạn đời tai ách vừa qua, những giọt nước
mắt của em khi bồng con bước lên taxi về nhà (Tây Ninh) là để tạm biệt nhau thôi,
nào ngờ cuộc gặp gỡ với lời tâm sự kia là lần cuối cùng của hai ta, những giọt
lệ của em là để vĩnh biệt anh, bữa cơm hôm ấy là để dứt đoạn ân t́nh của vợ
chồng ta !!!
Khi cưới nhau do một
tiệc linh đ́nh giữa hai họ, lúc biệt nhau một buổi cơm xoàng tại Cao Lâu, thế
cũng gọi quá đủ rồi em nhĩ? Cười…!!!
Hồi tưởng lại, nợ
duyên chúng ta trước kia định vào mùa đông, hôm nay dứt đoạn cũng mùa đông. Ôi !
ngắn ngủi làm sao?!! Chỉ có bấy nhiêu là hết ! có thể thôi đành ! ta biết phải
liệu làm sao hơn một khi lời ta đă thốt theo lư trí và lẻ phải ?!!!
Em ghi nhận thêm điều
nầy: từ đây anh hăy c̣n nghĩ đến hạnh phúc tương lai của em. Anh không khỏi ân
hận v́ hoàn cảnh hiện tại không cho phép có mặt để tác thành cho em và Đạt…kể ra
Đạt cũng tốt đấy em ạ, biết thay anh để âu yếm, vỗ về, an ủi em để cho em đỡ tủi
ḷng trong cảnh cô pḥng chích bóng. Đạt lại hiền hậu dễ mến, chính gia đ́nh bên
anh, từ Ba, anh Sáu, chị Sáu, anh cùng các cháu Khá, Kỉnh, Hai v.v…đă dành riêng
cho Đạt nhiều ḷng trắc ẩn từ thuở ấu thơ, anh biết rơ Đạt nên anh có thể tin
rằng rồi đây Đạt sẽ đem đến cho em nguồn hạnh phúc hoàn toàn, êm thấm đúng như ư
mong muốn của em. Cuộc đời của em sau nầy có thể tươi như hoa, đẹp như gấm. Anh
mong thế. Nếu phải người nào xa lạ anh chưa từng quen biết, anh năo ḷng lo cho
em sẽ khổ, nhưng với Đạt, anh có thể tin và lúc nào anh cũng cầu cho em được như
ư.
Ngày giờ nào biết tin
em hạnh phúc, vui vẻ, ngày ấy anh măn nguyện rồi, chẳng c̣n mong ǵ hơn nữa.
Anh lại khuyên em một
điều nữa là nên quên hẳn đoạn đời bốn năm qua để cho ḷng em được thư thái,
lương tâm em được nhẹ nhàn vui sống trong tổ uyên ương mới. Chớ để h́nh bóng
ngày xưa ám ảnh làm giảm hạnh phúc em nhé.
Em nên biết tập ngâm
lên những bài thơ, chẳng hạn như của Xuân Diệu, nếu anh không lầm:
“Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi,
“T́nh nghĩa đôi ta có
thế thôi.
…………………
Và ǵ ǵ nữa đó em?
Em,
Măi vài ḍng, anh
chưa nói với em vài điều không kém quan trọng nữa. Em, như anh đă viết đoạn trên,
anh rất tiếc không thể về tác hợp cho em với Đạt, anh cũng không thể tiện gởi
quà về tặng em. Vậy em giữ luôn những kỷ niệm ngày hôn lễ của chúng ta, hoặc để
làm tư trang hoặc bán đi cũng được, tuy không đáng là bao nhưng cũng chi dụng
tạm trong nhựt thời, lại nữa, lúc anh c̣n phiêu bạt nơi xứ người, nếu em muốn
dọn nhà mới, những ǵ ở nhà anh (phố) bất luận món nào em thích, em cần, em có
thể lấy về dùng, chỉ thưa cho ba rơ mà thôi.
C̣n một điều nữa, em
có thể tin lời hứa của anh, từ đây tuy chúng ta mỗi người một con đường, song
nếu khi hữu sự em cần đến anh, em cho anh hay, dầu phương diện nào, anh sẽ tùy
tiện lo giúp em, chẳng khi nào để em hoài công, thất vọng.
Em,
C̣n một điều chót nữa,
anh không nén được ngọn trào ḷng để bàn với em về Tuyết Mai, con chung của
chúng ta.
Anh biết em thương
con lắm v́ em khổ nhiều với con, nào thập ngoạn hoài thai, nào tam niên nhũ bộ.
Anh chẳng có ư ǵ muốn dứt t́nh mẫu tử của em, bởi những đau thương lấn áp cơi
ḷng anh rồi. Anh chỉ muốn cho thế nhân vui sướng, bao giờ anh đành ḷng tạo khổ
cho người, nhưng em cũng nghĩ t́nh anh, nên nhường Tuyết Mai lại cho anh nuôi,
để cho anh được dịp tṛn bổn phận làm cha mà anh đă thiếu sót từ lâu. Anh sẽ đem
lại cho con khối t́nh phụ tử nồng nàn tha thiết để sưởi ấm ḷng con. Anh thay em
với khối t́nh mẫu tử đồng thấm, với sự châm lo chu đáo ngỏ hầu an ủi một tâm hồn
bạc phước, một đứa con bất hạnh từ khi mới mở mắt chào đời.
Em Mười,
Em nghe rơ lời anh
chưa?
Em c̣n nghe lời anh
chăng?
Chỉ một lần nầy là
hết. Em biết cho đây là lời vĩnh quyết của anh từ phương xa gởi về, hiểu anh, em
chớ để anh phiền và bận tâm thêm nữa.
Vĩnh biệt em và gửi
hôn Tuyết Mai.
Anh
Nàng tỏ điều ân hận, đề nghị nối lại tơ đàn do chính tay nàng đứt đoạn, thiết
tha trông chờ sự rộng lượng thứ tha và xin bằng ḷng chịu cảnh xẻ đôi khối t́nh
của người thương cho đệ tam nhân cùng nàng dự phần chia sớt.
Thân phụ và anh Ngài đều mềm ḷng xúc cảm. Cớ sự đă như thế, c̣n đâu danh giá
gia đ́nh? Tương lai hạnh phúc của con là bức màn sẩm có thể vén lên nh́n được
ánh dương quan chăng? Tương lai nghiệp Đạo của riêng ḿnh sẽ ra sao?
Một lỗi lầm quái ác làm tan vỡ tất cả !!!
Bao nhiêu câu hỏi lẩn quẩn trong đầu không t́m được giải đáp !!!
Ngài rất khổ tâm với vết thương ḷng trầm trọng, đắng đo, cân nhắc đủ điều. Thà
chấp nhận thương đau, dứt khoát một lần cho xong vấn đề, vá víu thêm phần vướng
bận có thể tiếp diễn trên đường dài vạng nẻo chông gai của cuộc đời c̣n lại.
Ngài nhứt quyết “Xuất ngôn phá thạch” không hồi đáp trực tiếp chỉ tŕnh bày với
thân phụ Ngài rằng “Non có thể ṃn, bể có thể cạn, vật có thể đổi, sao có thể
dời, song ḷng đă quyết nhất định không thay đổi lay chuyển”.
Hôm nay ôn lại quá khứ tức là khơi dậy đống tro tàn mà nhiệt độ vẫn c̣n dai dẳng
trên phần ba thế kỷ.
7.CHUYỂN CHỖ LÀM TỪ
CHUP VỀ PHNOM PENH
Cuộc sống tại đồn điền đầy đủ, thoải mái về mặt vật chất, nếu công an Miên không
gây khó khăn, phiền toái chắc Ngài ở lâu hơn, không lư do chánh đáng xin đổi về
Phnom Penh. Đồng lương có cao hơn, dầu được gần chùa nhưng mức sống có phần
xuống thấp.
Việc xin đổi gặp nhiều khó khăn, ông Giám Đốc hành chánh quyết giữ không cho đi.
Ngài tŕnh bày rằng: “V́ an ninh bản thân, nếu v́ thương mà giữ tôi lại sẽ có
ngày công an bắt, biết rằng hăng sẽ can thiệp để trả tự do nhưng danh dự tôi
không c̣n can đảm tiếp tục làm việc cho hăng nữa. Trước sự việc đă rồi, tôi sẽ
mất sở làm và hăng cũng mất một nhân viên tận tụy, nếu thương yêu hăy chấp thuận
cho tôi đổi chỗ có thể làm việc lâu dài với hăng”.
Dằn co khá lâu với hăng mà chưa ngă ngũ, một lần Đức Hộ Pháp về cơ khuyên Ngài
đừng treo giá đắc, thái quá có thể bị bỏ rơi. Biết rằng hăng đang cần Ngài mà
Ngài cũng cần có đồng lương để sống trong cảnh ăn nhờ ở tạm xứ người. Phải biết
thực dân là vậy mà độc hại hơn hết là thực dân cao su. Thong thả chờ Đức Hộ Pháp
giúp cho như ư, Đức Hộ Pháp tiên tri là về Phnom Penh, cuộc sống không bằng ở
Chup (Ngài Bảo Đạo và Sĩ Tải Cao pḥ loan).
Mỏi ṃn và sốt ruột, sau rốt ông Giám Đốc hành chánh bằng ḷng và hứa khi nào có
người thay sẽ cho Ngài đi. Kéo dài đến năm, sáu tháng hăng tuyển được người thay
thế, cho Ngài đổi về thủ đô năm 1960.
Điều lo ngại của Ngài quả nhiên thành sự thật, một năm sau các viên chức người
Việt có chức vụ quang trọng có mức lương tương đối cao đang làm việc trong hăng
bị nhà nước bắt giải về Phnom Penh và phóng trục luôn về Việt Nam. Ông Khỏe là
một trong số nạn nhân nầy.
Ngài thoát được là nhờ thấy trước lo xa, sắp xếp mọi việc đâu vào đó nên c̣n kéo
dài chuỗi ngày lưu vong đến tháng 4 năm 1967.
Về Phnom Penh, Ngài bán môtô mua lại Vespa cho tiện dụng hơn ở đô thành.
Ách lớn đă qua, nạn nhỏ không tránh khỏi. Thông thường người tôn Giáo rất dễ là
nạng nhân của chế độ. Điển h́nh như trường hợp của Ngài, lúc ở Việt Nam bị gán
là thân Việt Cộng, bị truy nă. Khi lưu vong lên Cao Miên bị nghi ngược lại là
chống Cộng. Mỗi lần có chánh khác XHCN viếng Phnom Penh, chính quyền bắt buộc đi
du lịch, chỉ định địa điểm cùng khách sạn, nhà hàng, nơi ăn, chốn ở và phải tự
túc về mọi chi phí. Mỗi ngày tŕnh diện công an sở tại một lần. Ngài Soekamo
Tổng Thống Nam Dương đến Phnom Penh, chánh quyền chỉ định Ngài đi Battambang một
tuần lễ.
Chuyến đi dài ngày, ngồi trên chiếc du lịch ID chạy cách thủ đô 120km, đang dông
rủi tốc độ 110km/giờ th́nh ĺnh con ḅ băng qua đường, khoảng cách quá cận, tài
xế thắng gấp không kịp mà tránh cũng chẳng được, va mạnh vào con ḅ, xe lật
xuống ruộng đưa bốn bánh lên không, nằm cách lộ năm bảy thước tây.
Một bạn đồng hành được chở đi cấp cứu vào bệnh viện Kompongchang, cách chỗ xảy
ra tay nạng độ khoảng 20km, ba người khác tuy không nặng nhưng cũng bị ít nhiều
thương tích, duy có Ngài hoàn toàn vô sự. Thật nhờ ơn trên độ tŕ và cớ mầu
nhiệm Thiêng Liêng không tả nổi.
Lần khác, Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đến viếng Cao Miên, Ngài bị bắt
đi đổi gió ở băi biển Kep một tuần.
Tưởng như vậy là yên, ba tháng sau Ngài nhận được trác ṭa Kompongchang đ̣i.
Không rơ chuyện ǵ, chẳng biết có ai thưa kiện chi, thắc mắc, lo nghĩ măi đoán
không ra, đến nơi mới biết.
Ông Dự Thẩm nhắc lại tai nạn và hỏi Ngài có muốn đ̣i bồi thường thiệt hại ǵ
không? Ṭa sẽ giúp đỡ buộc chủ xe giải quyết. Đoán hiểu là Dự Thẩm muốn mượn tay
Ngài đặng làm tiền chủ xe, Ngài cám ơn ông Dự Thẩm và nói:
-Ông chủ xe là bạn cùng hoàn cảnh khó với nhau, với mỹ ư cho quá giang, bất ngờ
xảy ra tai nạn ngoài ư muốn. Tôi không có ư đ̣i bồi thường thiệt hại chi cả,
bởi lương tâm không cho phép. Vả lại tôi hoàn toàn vô sự. Thương hại ông chủ xe
c̣n phải tốn hao nhiều để mướn kéo xe về garage và tốn tiền sửa chữa. Đáng lẻ
tôi phụ sửa chữa với ổng mới phải.
Ông Dự Thẩm không hỏi tiếp và cho Ngài về.
Tại Phnom Penh Ngài cũng làm Chánh Văn Pḥng, có máy điều ḥa không khí, điện
thoại riêng, nhiệm vụ công văn thư tín, lo thủ tục giấy tờ (Passerport) cho nhân
viên người Pháp đến và đi, ngoài ra c̣n quản lư cao ốc trụ sở, xe cộ cùng công
nhân trong sở.
Hàng tuần Ngài đến Tân Báo Ân Đường thăm Ngài Bảo Đạo và anh em. Một hôm được
nghe tin Tuyết Mai con gái anh Ngọc tài xế Đức Hộ Pháp bệnh nặng đă thay đổi mấy
thầy thuốc Bắc mà không thuyên giảm. Hỏi thăm bệnh trạng, Ngài đoán là triệu
chứng ban cua, sợ kéo dài nguy hiểm đến tính mạng nên đề nghị đưa ngay vào bệnh
viện Pháp điều trị. Ngài nói:
-Bệnh ban cua trước kia Tây Y chịu bó tay nhưng nay thừa khả năng trị lành. Anh
yên chí, mọi tổn phí anh Tấn và tôi đài thọ.
Anh Tám Ngọc không tán thành, lư do mới rước Thầy khác, chưa kê toa hết thuốc mà
hồi ngang, sợ mất ḷng ông Thầy. Ngài đặt thẳng vấn đề, khuyên anh Ngọc quyết
định trong hai lẻ nên chọn một: Hoặc đề mất ḷng ông Thầy thuốc hoặc để con chết.
Chưa biết khả năng của ông Thầy làm sao dám trọn tin? Trường hợp nầy đâu có mất
ḷng, sau có thể thông cảm lại được, hơn là ngồi nh́n con chết làm sao cứu văng
kịp? phải xem sanh mạng là quang trọng.
Ngài Bảo Đạo cũng khuyên, giờ chót anh Ngọc mới đổi ư.
Ngài lo thủ tục nhận Tuyết Mai làm con (người nầy trùng tên Tuyết Mai với con
ruột của Ngài) cho nhập viện bệnh viện Pháp Aurore, bác sĩ Pháp cho biết kết quả
là ban cua, nằm điều trị gần hai tuần lễ, chi phí trên mười ngàn đồng, tương
đương hai lạng rưỡi vàng theo thời đó, tất cả hăng đều đài thọ.
Ngài nghĩ rằng, mượn tiền của tư bản, dầu không được quang minh chánh đại, song
dùng vào việc từ thiện, cứu giúp người nghèo khổ, tưởng cũng nhẹ tội.
Hai trường hợp đă diễn ra như thế, Ngài chấp nhận làm theo lương tri, thể hiện
t́nh ưu ái tương trợ lẫn nhau trong thời gian làm việc cho đời tại thủ đô Phnom
Penh.
Ngoài vấn đề nêu trên, Ngài c̣n giúp nuôi một người tên Tư, không giấy tờ hợp
pháp, đang t́m cách sang Pháp, lên ở chung với Ngài. Khi về Phnom Penh vận động
xin thông hành (Papsserpor). Công an phát giác Tư mang giấy tờ giả, Ngài không
biết Tư đă bị lột một lần rồi, Tư làm giấy tờ khác xém bị bắt. Tư ngụ nhà Ngài 4
năm liên tục.
Trường hợp khác, một hôm tùy phái của sở vào báo cáo có người muốn gặp. Ngài ra
tiếp, người lạ mặt trao cho Ngài bức thư tay nói rằng: Tài và Thủy, bạn của em
vợ về Việt Nam, mới tới Cao Miên, đang ở Takhmau (cách Phnom Penh 15km) trong
một thuyền con đậu tại bến sông, chưa dám lên bờ, vượt biên không giấy tờ sợ
công an bắt, nhờ Ngài giúp.
Thấy rằng bất khả kháng, dầu muốn dầu không cũng phải giúp kẻo người lâm nạn.
Ngài mượn xe hơi lái đi Takhmau rước hai em về Russeykeo, Tài là Giáo Sư dạy học
ở Sài G̣n, Thủy là Kỹ Sư nấy đường học ở Đài Loan mới về, không chịu chế độ Ngô
Đ́nh Diệm, trốn lên Miên t́m cách đi Pháp.
Tài ở được ít tháng, thấy t́nh h́nh khó khăn, không đủ kiên nhẫn chờ đợi nên trở
về Việt Nam. Thủy được thông hành sang Pháp gần hai năm sau.
Thêm ba anh em: Sáu Hiếu, Bày Cẩn, Tám Minh, gia đ́nh nhà sách và Cliché Trung ở
số 30 Lê Lợi-Sài G̣n, cũng lên Phnom Penh đi Pháp. Nguyễn Trung Hiếu đi Pháp về
Việt Nam thăm gia đ́nh, c̣n trong tuổi quân dịch, thời Ngô Đ́nh Diệm không cho
đi xuất ngoại, lên ở nhà Ngài, Nguyễn Duy Cần và Nguyễn Thị Minh lúc mới lên ngụ
tại biệt thự của một nhà tư bản, gặp khó khăn nên di chuyển sang nhà Ngài. Cả ba
đều đi Pháp được hết.
Điều khó quên, có một lần công an bố ráp, truy quét Việt Kiều cư ngụ bất hợp
pháp. Ngài ở nhà bè xóm Việt Kiều trên sông Tonlésap, cập quốc lộ, trên bờ th́
công an tuần tiểu từng đoàn, dưới sông cano vượt qua lại liên tục, toán khác vào
từng nhà xét giấy. Lo ngại vô cùng, t́nh thế bắt buộc, Ngài bảo anh em nhảy
xuống sông, lặn núp vào rảnh nước giữa các bè tre kê đội nhà bè, chờ công an xét
qua rồi sẽ trồi lên. Nhờ vậy mà thoát nạn, nếu không, người cư trú bất hợp pháp
bị bắt, riêng chủ nhà cũng bị liên lụy trước pháp luật của nhà nước.
Việc thứ hai là ngày Cần và Minh lên phi cơ, c̣ Hồ người Miên gốc Việt rất có
thế lực ở thủ đô, v́ mất quyền lợi trong việc lănh lo giấy tờ xuất ngoại, chạy
vội lo t́m Ngài tại nhà, biết Ngài đi làm việc, liền đến sở t́m không gặp, đoán
là Ngài đi tiễn hai em ở phi trường. C̣ Hồ thẳng lên Pochentong toan bắt Cần và
Minh lại. Rủi cho c̣ Hồ là gặp đối tượng mạnh hơn đủ mọi mặt. Đó là nhà tư bản
lớn, có nhiều quyền thế trong chánh phủ lại là người Miên chánh gốc nên c̣ hồ
chẳng làm ǵ được, đành để cho Cần và Minh lên phi cơ.
Thêm việc làm cũng khá mạo hiểm là Ngài cho bạn đời vượt biên về Sài G̣n, liên
lạc với gia đ́nh và các Linh Mục Công Giáo để báo tin nhận tiền, quần áo và vật
dụng giúp cho số Sĩ Quan đảo chánh Ngô Đ́nh Diệm năm 1961, việc thất bại chạy
sang Phnom Penh lánh nạn. Số Sĩ Quan này là Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Trung Tá
Vương Văn Đông, Thiếu Tá Lộc, Đại Uư Vị, Đại Uư Tuấn, Trung Uư Vượng v.v…bị quản
thúc thời gian đầu, sau được thả tự do.
Đại tá Nguyễn Chánh Thi không có tư cách, lưu vong mà vẫn c̣n tư tưởng như lúc
đương thời trong quân đội ở Việt Nam. Đối với nội bộ trong nhóm đảo chánh hụt,
không xứng Đạo làm anh và tỏ ra mất lịch sự, gây gỗ tại bàn tiệc nhà Đại Tá Long
(Ḥa Hảo). Sau lại có ngôn từ nói lén “mấy thằng Cao Đài” nên Ngài không liên hệ
tiếp cận nữa. Đại Tá Thi chóng quên công ơn được Ngài giúp liên lạc với gia đ́nh
lúc y mới ra tù.
Sau ngày đảo chánh 1963, về Việt Nam, lên Chuẩn Tướng, cho lịnh bắt Thiếu Tá
Trần Đ́nh Quyến (Cựu Tổng Cảnh Sát và Công An Việt Nam), giam tại Tổng Nha cảnh
sát hơn hai năm, v́ nghĩ Thiếu Tá Quyến hiệp tác với Trung Tá Vương Văn Đông lúc
ở Phnom Penh viết báo La Dépêche chửi, không nhớ lúc kẹt trong tù ở Phnom Penh,
Thiếu Tá Quyến liên hệ với Lonnol, Tổng Tư Lịnh quân đội Cao Miên, xin cho được
dể dăi và nhiều đặc ân khác như vận động tiền bạc trong giới lưu vong để cho v.v…chính
Ngài cũng có góp phần.
Bạn đời Ngài c̣n nhận thư của một số người tập kết ở Miền Bắc đưa về gia đ́nh ở
Việt Nam xin nhận tiền, viết máy, vơ ruột xa đẹp v.v…gửi ra Bắc. Có lần suưt bị
phát hiện lúc mang thư về, bị lục soát tại Takeo biên giới, may mắn chuyển kịp
thời cho xe lôi giữ dùm khi qua trạm.
Sau ngày đảo chánh Ngô Đ́nh Diệm tháng 11 năm 1963, nội bộ của Đạo ở Phnom Penh
xảy ra một việc gây liên lụy đến Ngài Hồ Bảo Đạo.
Tướng Lê Văn Tất kêu gọi chiến hữu lưu vong phân tán ở các tỉnh qui hồi cố quốc.
Dự định tập trung về Tân Báo Ân Đường đăi tiệc liên hoan, chụp ảnh làm kỷ niệm
trước khi lên đường về nước.
Ngài Bảo Đạo xem đó là việc thông thường, nhưng Đức Hộ Pháp giáng cơ về dạy:
“Đừng để cho nó bán Đạo một lần nữa”. Hiểu ra là nếu để anh em cựu chiến binh
Cao Đài về nước, gia nhập quân đội quốc gia tức là chịu khép ḿnh “thân hữu”.
Với t́nh cảnh đó rơ ràng giáng tiếp muốn chứng tỏ rằng Ngài Hồ Bảo Đạo cùng phe
với họ, làm mất đi ư nghĩa chánh đáng của đường lối Ḥa B́nh Chung Sống, đường
lối trung lập của Đức Hộ Pháp tức là của Đạo.
Do đó Ngài Bảo Đạo ra lịnh đóng cổng ra vào không cho vào châu vi Tân Báo Ân
Đường, nhưng rồi anh em vẫn vào được, nhờ có thân nhơn bên trong lén mở.
Sự tính toán của tướng Tất kể ra cũng khá chu đáo, muốn đặt trước sự việc đă rồi,
dầu muốn dầu không, Ngài Bảo Đạo chỉ phải chấp nhận, không làm cách nào khác
được. Tướng Tất dựa vào Thac Phoun, nhơn viên Bộ An Ninh đặc trách về số tị nạn
chánh trị, đưa anh em vào chùa. Trưa thứ bảy gần hết giờ làm việc, buổi chiều
luôn ngày chủ nhật, các cơ quan đều nghỉ, tức nhiên Ngài Bảo Đạo phải bó tay để
anh em ở đến sáng sớm thứ hai mới lên đường.
Ông Tấn đến sở làm của Ngài thông báo lúc 11h30, Ngài rời sở ngay trước giờ và
tức tốc lái chiếc Wolswagen của ông Tấn đến chùa gặp Ngài Bảo Đạo.
Ba người cùng ưu tư với nhau một lúc. Ngài Bảo Đạo viết thơ, Ngài lănh cùng đi
với ông Tấn đến tư thất của ông Tổng Trưởng An Ninh, tŕnh bày sự việc rồi trao
tận tay Tổng Trưởng bức thư của Ngài Bảo Đạo. Xem xong, ông Tổng Trưởng tỏ vẻ
ngạc nhiên và nói:
-Sự việc như vầy mà nhân viên tôi không báo cho tôi biết, thôi hai ông về, nữa
giờ sau tôi sẽ cho xe chở mấy người đó đi nơi khác.
Quả thật không đầy một tiếng đồng hồ, có xe đến chở anh em và gia đ́nh qua chùa
Sùng Phước. Các sư sải của chùa toàn là người Việt tu theo Tiểu Thừa Phật Giáo.
Sự không may là đêm thứ bảy có một em bé con cựu chiến sĩ cảm bệnh chết. Thêm
một lư do để anh em nguyền rủa Ngài Bảo Đạo. Cũng đêm hôm đó, tướng Trương Lương
Thiện và tướng Mạnh của Liên Minh đến văn pḥng Trấn Đạo đàm Đạo với Ngài và ông
Tấn rất lâu.
Các Ngài giữ kín chuyện, không tiết lộ cho hai vị tướng lănh biết.
Chương tŕnh bị găy đổ, tướng Tất hận nhiều và cố oán. Măi đến khi được làm Tỉnh
Trưởng Tây Ninh c̣n hăm nhổ râu ông Bảo Đạo. Năm 1970, Ngài Bảo Đạo về nước,
Tướng Tất liên kết với tướng Văn Thành Cao và tướng Nguyễn Văn Thành, đăng báo
bôi lem Ngài Bảo Đạo thêm một lần nữa.
Ông Lê Quang Tấn cũng bị Tướng Tất gây rắc rối tại tỉnh đường Tây Ninh trước sự
hiện diện của ông Nguyễn Văn Hợi (Giám Đạo) và Nguyễn Đức Ḥa (Chí Thiện).
8.NGHỈ HẲN VIỆC ĐỜI
QUAY SANG LÀM VIỆC CHO ĐẠO
Tháng 4 năm 1966, lănh lịnh Ngài Bảo Đạo về Việt Nam công tác về chánh sách Ḥa
B́nh Chung Sống, Ngài xin nghỉ phép không được nên gây sự với Giám Đốc để rồi
nghỉ việc luôn.
Ngài Bảo Đạo cấp ủy nhiệm thư cho Ngài thay mặt để gặp Nguyễn Văn Thiệu và
Nguyễn Cao Kỳ trong Hội Đồng Quân Nhân Lănh Đạo Quốc Gia.
T́nh h́nh Việt Nam lúc đó không giống như Ngài Bảo Đạo ở Cao Miên nh́n thấy,
Ngài lấy làm khó nghĩ, bèn bàn riêng với ông Tấn và ông Giám Đạo Nguyễn Văn Hợi,
lúc bấy giờ có chân trong Hội Đồng Dân Quân. Hai ông khuyên Ngài: “Sẽ không có
lợi, trái lại c̣n hại nhiều mặt.”
Vấn đề được thông qua.
Đúng ngày hẹn, Ngài đi Sài G̣n đón vợ Lê Quốc Túy, người đầm Pháp và đưa đến chỗ
ngụ ở Phú Nhuận như định trước. Ngài lưu tại Việt Nam đúng một tháng theo chiếu
khán.
Khi về Phnom Penh không trở lại sở làm và bỏ luôn tiền lương nửa tháng theo luật
lao động, vào ở luôn trong chùa mới Tân Báo Ân Đường.
Trong các anh em c̣n lại ở Phnom Penh, Ngài không mang giấy tị nạng chánh trị
nên xin thông hành được dể dàng, trái lại gặp khó khăn trong việc nghỉ phép ở sở
làm. Giữ lời hứa với Đức Hộ Pháp lúc c̣n sanh tiền, khi Đạo cần Ngài có mặt đáp
ứng ngay, nên Ngài có thái độ cương quyết trả lời với Giám Đốc Sở là không cho
nghỉ phép th́ Ngài nghỉ luôn. Ông Giám Đốc nêu luật lao động buộc Ngài làm đủ
hai tháng mới nghỉ.
Ngài bất b́nh ra mặt:
-Ông nói luật lao động không đúng, ông quên rằng tôi từng làm Chánh Văn Pḥng Sở
Lao Động suốt ba năm. Muốn biết luật lao động nên hỏi tôi. Tốt hơn nên chỉ định
người thay để tôi giao số tiền quỹ, nếu không tiền quỹ chẳng giao lại cho hăng
được là do lỗi ở ông, không phải tôi có ư biểu thủ…
Lúc cải vả qua lại, Ngài nóng giận, sẵn có bất b́nh trước, phát biểu hơi nặng
lời:
-Không nên làm theo thói thực dân…bóc lột v.v…
Đối với Pháp mà gán cho hai từ “Thực Dân” là điều sĩ nhục nặng nề. Thấy Ngài nói
mạnh, ông Giám Đốc dịu giọng, yêu cầu Ngài ở lại làm và hỏi ngày mai có đến làm
việc không? Ngài đáp gọn:
-Nếu thấy có mặt là tôi c̣n đi làm.
Ngài tự động giao ngân quỹ cho người phụ tá, lấy biên nhận hẳn ḥi rồi bỏ vể.
Sáng hôm sau đáp xe đi Sài G̣n, lo việc Đạo, nghỉ việc đời luôn từ đó, từ bỏ
chức vụ, địa vị xă hội mà nhiều người đang mong muốn.
Tóm lược câu chuyện một cách thu gọn, sự thật lắm lời dài ḍng gay cấn, có thể
nói là khiêu khích, chọc giận. Hoàng Thân Entaravong nghe kể lại lấy làm ái náy
lo cho Ngài. Ông nói:
-Anh nói nặng không sợ ông Giám Đốc cho công an bắt sao? Nó có khả năng làm đủ
mọi việc, có khả năng mua chuộc các giới chánh quyền…
Việc nói chuyện với Giám Đốc kéo dài được suông sẽ đến lúc chung cuộc không bị
gián đoạn nhờ Ngài tiên liệu trước, bảo với cô giữ tổng đài điện thoại:
-Trong lúc nói chuyện với Mr. Durand, thản có ai gọi điện thoại, cô trả lời là
ông chủ vừa mới đi ra, một chút xin gọi lại. Nhớ đừng để cúp ngan câu chuyện.
Chờ tôi ra khỏi pḥng Mr Durand rồi cô sẽ chuyển điện thoại cho. Là nhơn viên
thuộc cấp, cô giữa điện thoại làm đúng như đă dặn.
Một tháng sau trở lại Phnom Penh, biết rằng nghỉ việc ngang như vậy là trái luật
lao động, phải trả cho hăng nữa tháng lương. Ngài chịu bỏ luôn nữa tháng tiền
lương chưa lănh và không tới sở nữa, quyết thi hành theo lời dạy của Đức Hộ Pháp
giáng cơ đêm mùng 3 tháng giêng Bính Ngọ (20-1-1966):
“Trân con!...Thầy dặn
con từ đây về sau, nếu chẳng làm đầy tớ cho ông chủ Trời th́ chẳng làm đầy tớ
cho một ai nữa cả…Sau nầy nếu là đầy tớ ở có công với ông Thầy Trời th́ con sẽ
thấy rằng ông Thầy Trời không bỏ qua gia đ́nh tư của người tớ trung kiên ấy nữa
đâu”.
“Con cũng đă thấy nô
bọc của một chủ nhơn, ông c̣n có chỗ ăn chốn ở và thuốc men khi đau yếu th́ ông
Thầy Trời cũng vậy, nhưng c̣n có phần chu đáo hơn, nếu con đủ đức tin”.
(Bài Thánh Giáo trên do Ngài Bảo Đạo và Sĩ Tải Cao pḥ loan)
Trở lại nếp sống ở chùa như xưa, gần Ngài Bảo Đạo và anh em Đạo kể từ tháng 5
dương lịch năm 1966.
Mấy tháng sau t́nh cờ gặp nhau tại nhà bưu điện, ông Tổng Giám Đốc Monsieur
Dessertenne hỏi v́ sao Ngài bỏ sở. Ngài trả lời: “V́ không chịu nổi Mr. Durand,
bất măn nghỉ việc”. Ông Tổng Giám Đốc nói tiếp:
-Có như vậy, sao không cho tôi biết, tôi sẽ cho anh việc làm khác tại đồn điền.
Ngài xin cảm ơn v́ không không muốn làm rộn. Ông Tổng Giám Đốc cười và xin bắt
tay từ giă.
Kiểm điểm lại gần 10 năm làm việc cho Pháp, Ngài vẫn giữ tác phong của người Đạo,
bổn phận của một tín hữu như mọi người: Thỉnh thoảng về thủ đô cúng chùa, dự
đàng vía ở Kompongcham hầu những đàn cơ học hỏi và đóng công quả về lương thực,
tạo tác, hành hương, ngoài ra c̣n giúp văn pḥng phẩm cho Trấn Đạo. Từ ngày đổi
về Phnom Penh, sóc vọng đàn vía thường xuyên có mặt. Tiền công quả thuộc âm chất,
Ngài đề nghị không cần lập biên nhận, ban khen theo thông thường, nhưng kể từ
thời ông Giáo Hữu Thái Của Thanh lên nắm quyền Khâm Trấn, ông nhất định thi hành
đúng nguyên tắc. Ngài bắt đầu nhận từ đó và c̣n giữa khá nhiều bằng khen, công
quả cho đến giờ.
Năm 1966, t́nh h́nh chính trị Việt Nam bớt căn thẳng, Chức Sắc ngoại Giáo th́nh
thoảng về Tổ Đ́nh Tây Ninh liên lạc, nối lại hệ thống hành chánh Đạo.
Một hôm bà Giáo Sư Hương Cúc đi Ṭa Thánh về, nói với các Ngài rằng bà có xin
Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, bổ dụng Sĩ Tải Bùi Quang Cao và Ngài ,
hai Chức Sắc Hiệp Thiên Đài lưu vong ở Phnom Penh, giao nhiệm vụ Pháp Chánh, để
tiện thi hành những hồ sơ minh tra công nghiệp của Chức Sắc và Chức Việc. Ngài
Hiến Pháp đă thuận ư và bảo Ngài gởi văn kiện yêu cầu để Ngài có lư do lập Thánh
Lịnh, đúng theo nguyên tắc hành chánh.
Sĩ Tải Cao và Ngài đồng ư kư tên chung một văn kiện đại ư rằng:
“Thể theo lời dạy của
Ngài Hiến Pháp, qua sự truyền đạt của Bà Giáo Sư Hương Cúc, với thiện chí và
nhiệt t́nh phục vụ, đề nghị xin Ngài Hiến Pháp lập Thánh Lịnh bổ dụng để đủ pháp
lư hành sự, đặc biệt là việc minh tra những hồ sơ cầu thăng, cầu phong của Chức
Sắc và Chức Việc thuộc Hội Thánh Ngoại Giáo đă bị gián đoạn nhiều năm qua. Nếu
Ngài Hiến Pháp chấp thuận, chúng đệ tử t́nh nguyện lănh nhiệm vụ trong thời gian
lưu vong c̣n ở tại Kim Biên Tông Đạo”.
Thời gian sau, các Ngài tiếp được một phong b́ do Bộ Pháp Chánh gởi tới. Mở ra
được thấy, thay v́ lịnh thuyên bổ mà là công văn triệu các Ngài về Bộ Pháp Chánh.
Trong một đàn cơ sau đó, sự việc được tŕnh dâng Đức Hộ Pháp, Đức Ngài hỏi:
“Các con nghĩ sao?
Nếu muốn theo lịnh triệu, Thầy sẵn sàn chấp thuận”.
Nguyên văn Thánh Giáo như sau:
Đêm 18 tháng 12 Bính Ngọ (28-01-1967)
Pḥ loan:
Bảo Đạo, Sĩ Tải Cao
PHẠM HỘ PHÁP
Chào Chú Đốc và hai
con,
……
Hai con Sĩ Tải ! Anh
Hiến Pháp muốn lôi hai con về làm thuộc hạ, nhưng quên rằng hai con vẫn là người
ngoại cuộc trong vấn đề Pháp Chánh.
Vậy hai con tự liệu,
nếu muốn tái thủ phận sự th́ Thầy cũng đồng ư, c̣n ở lại với chú Đốc th́ cũng
tốt.
Cao khoan về, chờ chú
Đốc. Trân th́ tùy ḷng con.
Trân bạch:-Đă cùng
với anh Cao quyết định ở lại đến ngày sau cùng.
-Cũng tốt, nhưng con
đừng lo ra và buồn t́nh nữa, v́ nó không giúp con giải quyết vấn đề lại thêm hao
tổn tinh thần…
Thăng (20 giờ 50)
Ngày về Ṭa Thánh được nghe kể lại là một Chức Sắc đàn anh (ông Hợi) làm việc
trong Bộ Pháp Chánh thấy đề nghị của các Ngài mới tŕnh với Ngài Hiến Pháp:
-Hai anh em đó c̣n làm mướn cho đời mà muốn lănh nhiệm vụ Đạo sao được. Hoặc làm
Đạo hoặc làm đời một bên thôi.
Do đó mới có lịnh triệu!...(Lúc đó Ngài đă nghỉ việc đời rồi mà ông Hợi chưa
biết).
_____________________________________________
CHƯƠNG IV
THỜI
KỲ ĐỆ NHỊ VIỆT NAM CỘNG H̉A
1.VỀ T̉A THÁNH
TÂY NINH SAU NHIỀU NĂM LƯU VONG XỨ NGƯỜI
2.NGUYÊN DO LẤY TÊN NGUYỄN MINH NHỰT
3.TÁI THỦ PHẬN SỰ TẠI BỘ PHÁP CHÁNH
4.GIÚP ĐỠ NHỮNG NGƯỜI HỒI HƯƠNG TỪ CAO MIÊN VỀ VIỆT NAM
5.NGÀI BẢO ĐẠO TỪ CAO MIÊN VỀ T̉A THÁNH
1.VỀ T̉A THÁNH TÂY
NINH SAU NHIỀU NĂM LƯU VONG XỨ NGƯỜI
Khoảng giữa năm 1967, Ngài Hiến Pháp vâng lịnh Đức Thượng Sanh viết thơ mời Ngài
Bảo Đạo về Ṭa Thánh làm việc. Cầu cơ thỉnh Giáo Đức Hộ Pháp chấp thuận cho cả
phái đoàn lưu vong theo Đức Hộ Pháp cùng về. Có sẵn thông hành, Ngài được phái
liên lạc với Hội Thánh để sắp xếp chuyến hồi hương.
Ngài xin chiếu kháng, công an chấp thuận một chuyến đi suôn, không trở ngại.
Ngài muốn lo hối lộ nhưng được khuyên nói không cần thiết. Năm mười ngày sau,
Ngài cùng các anh em đều về hết. Đức Hộ Pháp đă dạy rành rẽ rồi. Số tiền định
hối lộ nên dành khi về Ṭa Thánh hành Đạo, có để mà xài tốt hơn. Chi phí đi
đường về Việt Nam hai lần, Ngài tự liệu không xin xuất tiền của Đạo.
Ngài Bảo Đạo và Sĩ Tải Bùi Quang Cao pḥ loan, Đức Ngài giáng dạy nguyên văn sau
đây:
Thánh Thất Kim
Biên Tân Báo Ân Đường
Đêm 12 tháng 2
Đinh Mùi (22-03-1967)
Đại tịnh.
Hộ Pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
Đêm nay Bần Đạo dạy
riêng cho Sĩ Tải Trân trước khi qui về Tổ Đ́nh. Sĩ Tải nghe dạy:
Bần Đạo cảm kích tấm
ḷng trung thực của Sĩ Tải từng xă thân cho Đạo từ buổi thanh xuân đầy nhiệt
huyết cho đến hôm nay tóc muốn ngă mầu. Bần Đạo trông lại trong hàng Chức Sắc
tiểu cấp th́ hôm nay c̣n giúp Đạo chẳng có bao nhiêu đứa. Tội nghiệp! v́ cảnh
ngộ cũng có, v́ gia thê đái tử cũng có và v́ đời sống cũng có. Rốt cuộc hôm nay
chỉ c̣n lơ thơ mấy đứa mà Sĩ Tải lại được trong số đó.
Bần Đạo để lời khen
đó chút.
Ngày giờ nầy, nhiệm
vụ nơi đây đă chấm dứt, trở lại Tổ Đ́nh, Bần Đạo đọc rơ tư tưởng của Sĩ Tải, Bần
Đạo cảm động lắm.
Vậy hôm nay là ngày
chót của Sĩ Tải trên bước tự lưu đài, Bần Đạo có vài lời nhắn nhũ:
Đă sanh ra ở cơi trần
hoàn nầy, biết bao nhiêu mối nợ phải trả: nợ gia đ́nh thê tử, nợ áo cơm, nợ ngọn
rau tất đất, trả ba món nợ đó, Sĩ Tải đă biết trả một cách không e ngại đến thân
ḿnh.
C̣n nợ Đạo th́ Bần
Đạo lập lại câu: “Con tầm đến thác vẫn c̣n vương tơ” th́ nghiệp ấy tất nhiên
phải trả cho đến ngày giờ nào ḿnh không c̣n ở trên mặt đất nữa. Nói như thế,
tất nhiên là nợ ấy phải trả, dầu sớm dầu muộn cũng phải trả, nhưng tùy theo sự
trả nhiều hay ít để lấy ngôi vị Thiêng Liêng mà sau khi phủi xác thân, khó mà
t́m lại được một dịp duy nhất nầy.
Bây giờ đến thực
trạng ngày mai, Bần Đạo đă nói rằng đă hiểu tâm trạng của Sĩ Tải th́ Bần Đạo chỉ
khuyên một điều là phàm tánh bao giờ cũng có khắp mọi cơ cấu của thánh thể Đức
Chí Tôn, bởi lẻ ấy cho nên một ai đă thắng được phàm tánh để vượt lên điều mà
người thường nói “việc thường t́nh” th́ đă khởi đặt vào con đường thánh đức rồi
đó.
Hành Đạo là cốt ư mưu
cầu việc tồn tại vĩnh viễn ở ngày mai nơi cơi vô h́nh với h́nh thức phụng sự cho
nhân loại. Đức Chí Tôn đă trả lại bằng địa vị Thiêng Liêng trường tồn vĩnh cửu
kia, ngoài ra những vật thể hữu h́nh với bánh vẽ sang trọng đều là ảo ảnh có đó
rồi mất đó.
Bần Đạo đă dặn Sĩ Tải
rất nhiều nên t́m hiểu chơn lư để đặt ḿnh vào lẽ Đạo.
Thôi Bần Đạo ban ơn
Sĩ Tải.
Thăng (20 giờ 15 phút)
Tiếp được Thánh Giáo, Ngài bồi hồi cảm động nhớ lại đầu năm 1959, thay mặt anh
em để chúc xuân Đức Hộ Pháp, Ngài nói lên tâm tư ḿnh có câu: “Đối với nghiệp
Đạo, chúng con tự ví ḿnh như kiếp con tầm đến thác vẫn c̣n vương tơ”. Đức Hộ
Pháp đă qui thiên, nhắc lập lại nguyên văn, không sai một chữ khuyên nhũ, dạy dỗ,
d́u dắt, Ngài không ngăn được ngọn trào ḷng và nguyện khắc cốt ghi tâm.
Về Ṭa Thánh gặp Ngài Hiến Pháp. Ngài tỏ bày mục đích là đáp ứng theo văn thư
của Ngài Hiến Pháp, Ngài được chỉ định liên lạc trước. Ngài Hiến Pháp dạy đến
gặp Đức Thượng Sanh. Đến nơi, Đức Thượng Sanh cho biết Đức Ngài đă đổi ư v́ có
người báo là ông Hồ Tấn Khoa theo Cộng Sản. Con là Hồ Thái Bạch đi Mạc Tư Khoa (Liên
Xô) và có đi họp ở Hà Nội. Ngài đính chánh với tư cách một trong những người ở
bên cạnh Ngài Bảo Đạo, xác nhận sự thật nhưng Đức Thượng Sanh cương quyết lập
lại rằng Đức Ngài đă đổi ư. Ngài đành cáo lui.
Rơ ra Thiếu Tướng Văn Thành Cao và Lê Văn Tất tố cáo như vậy thêm sự liên kết
với Trung Tướng Nguyễn Văn Thành sau nầy.
Ngài thắc mắc trước thái độ của Đức Thượng Sanh, quá dễ tin vào một sự vu khống
vô căn cứ, không xét nét thiệt hơn, đột ngột đổi ư kiến vừa quyết định c̣n nóng
bỏng !!!
Trong đàn cơ học hỏi tại nhà anh Hạ Chí Khiêm, Ngài đă mật niệm tŕnh bày tự sự,
Đức Hộ Pháp giải đáp rằng quyết định của Đức Hộ Pháp là một lẻ c̣n quyết định
của Đức Chí Tôn quan trọng hơn.
Đồng Tử là hai anh Hạ Chí Khiêm và Nguyện Văn Tào.
Đức Hộ Pháp cho thi:
Đợi quyền Giáo pháp
buổi gần đây,
Mới hợp thiên cơ của
Đạo Thầy.
Sự cảnh tuy chưa hồi
thể hiện,
Quyền năng đă hiệp lư
công khai.
Phải đường nên biết
đường gay cấn,
Được dạ đừng ra vẻ
sắc tài.
Ǵn đức chớ lo hoa
trổ muộn,
Bảo nhân gẫm lại cũng điều hay.
2.NGUYÊN DO LẤY TÊN
NGUYỄN MINH NHỰT
Chương tŕnh găy đổ, bắc đắc dĩ Ngài ở luôn tại Việt Nam làm việc tại Bộ Pháp
Chánh. Từ đó đổi tên là Nguyễn Minh Nhựt căn cước đời và giấy tờ Đạo đều mang
tên mới. Lúc thôi dạy học ở Phnom Penh về, Quang em của Ngài dùng cấp bằng của
Ngài xin dạy học, nhập ngạch và cưới vợ lập hôn thú lấy tên Nguyễn Ngọc Trân
theo cấp bằng.
Khi trở về Việt Nam năm 1967, không thể dùng tên Trân được nữa đành lấy tên mới
theo khai sanh của Quang, sụt mất nhiều tuổi.
Vụ lo giấy mới rất khó khăn. Thông hành mang tên Nguyễn Ngọc Tần, về gặp Tỉnh
Trưởng Hồ Đức Trung, nhờ giúp đỡ lo giấy, đổi tên là Nguyễn Minh Nhựt. Tỉnh
Trưởng điện thoại cho Trung Tá Ái, Trưởng Ty Cảnh Sát. Đến nơi Trung Tá Ái bảo
đến Tổng Nha Sài G̣n cũng không giải quyết được. Trở về Tây Ninh Tỉnh Trưởng
điện kêu Trung Tá Ái cứ làm giúp.
Sự việc được giải quyết ổn thỏa và Ngài mang tên Nguyễn Minh Nhựt từ đó.
Trước khi tái thủ phận sự, Ngài xin nghỉ phép một tháng để nuôi phụ thân đang
nằm điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Một hôm lúc chạn vạn tối, từ dưới bước lên thang lầu, Ngài gặp Phối Sư Thượng
Vinh Thanh vừa thăm thân phụ Ngài ra về, xuống thang gặp nhau, Ngài Phối Sư nói:
-Em Trân đây hả?-Lúc em c̣n ở Nam Vang, có lần Qua cầu cơ, Đức Hộ Pháp giáng dạy
Qua t́m cách an ủi em đang khổ v́ gia cảnh…
Ngài cảm động, nghĩ rằng lúc nào Thiêng Liêng cũng ở bên cạnh, hằng an ủi, nâng
đỡ d́u dắt. Tại Nam Vang Đức Hộ Pháp thường giáng dạy trực tiếp lại c̣n giáng ở
Việt Nam, bảo Ngài Phối Sư Thượng Vinh Thanh t́m cách an ủi nữa. Ân đức ấy làm
sao đáp đền được?-Chỉ gắn lập công với Đạo, trao dồi hạnh chí họa chăng đáp đền
phần nào trong muôn một.
Lúc về Ṭa Thánh Ngài Phối Sư gởi cho Ngài bản sao Thánh Giáo nói trên. Rơ ra
chính Ngài Trần Khai Pháp, không phải Đức Hộ Pháp.
Ngài lại càng nhớ thương Ngài Trần Khai Pháp nhiều hơn. Lúc sanh tiền cầm quyền
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Ngài rất b́nh dân, thương nhân viên thuộc cấp, rất
vui vẻ ḥa đồng, bao dung tha thứ, nêu gương sáng cho Chức Sắc soi chung về
phương diện về lập công cũng như về hạnh đức. Nay về Thiêng Liêng vị Ngài vẫn lo
nghĩ đến đàng em hậu tấn.
Thật cảm động và an ủi vô cùng.
3.TÁI THỦ PHẬN SỰ TẠI
BỘ PHÁP CHÁNH
Ngài được bồ dụng làm Trưởng Pḥng Minh Tra Bộ Pháp Chánh. Mấy tháng sau kiêm
luôn Pháp Chánh Thánh Địa, rồi kiêm buộc tội tại Pháp Chánh Tư Quyển Cửu Trùng
Đài và buộc tội tại Pháp Chánh Trị An.
Tủ hồ sơ của Pháp Chánh chính Sĩ Tải Tấn và Ngài lo sắm sắp xếp trang hoàng, thứ
tự và lịch sự, có thể nói hơn hết các tủ hồ sơ Đạo thời bấy giờ, nhờ tạo những
classeurs, b́a carton cứng, có kẹp để giữ giấy loại nhập.
Cuối năm 1967, Hội Nhân Sanh sắp khai mở. Hồ sơ cầu thăng, cầu phong của Chức
Sắc, Chức Việc thuộc Kim Biên Tông Đạo gặp trở ngại v́ không có Pháp Chánh minh
tra, buộc ḷng phải quyền biến. Ngài Hiến Pháp dạy: Đương sự vắn mặt, Pháp Chánh
ghi theo các lời khai trong hồ sơ lai lịch công nghiệp phần nhận xét.
Ngài th́ căn cứ ghi theo sự hiểu biết lúc c̣n gần gũi nơi Kim Biên Tông Đạo.
Nhân kỷ niệm ngày Khai Đạo rằm tháng 10 Hạ Nguơn năm 1967 được Hội Thánh ủy
nhiệm, Ngài tồ chức giải vô địch cờ tướng. Lần khánh thành Ṭa Thánh, ông Giáo
Hội Danh Kỳ Việt Nam tức Lễ Sanh Ngọc Hội Thanh, chọn vị trí bên hông khán đài,
kỳ nầy cũng tại rừng Thiên Nhiên nhưng sau Tây khán đài, có sẵn bồn kèn thuận
lợi, đỡ phí công của để tạo lập chỗ ngồi tranh giải.
Ngài tự xoay tiền mua sắm các giải thưởng:
Quán quân vô địch : một cúp bạc
Á quân : một đồng hồ đeo tay
Giải ba : một đồng hồ treo
Giải an ủi : một cây thuốc thơm
Buổi bế mạc cũng khá long trọng, trao tặng giải thưởng có Ngài Khai Đạo và Bà
Hương Hiếu lúc c̣n tại chức Nữ Chánh Phối Sư cùng Chức Sắc cao cấp khác. Khán
giả rất đông, cách trang trí cũng thông thường nhưng nhờ có máy phóng thanh vá
ống loa, Ngài tổ chức cuộc tranh giải cờ tướng lần nầy có phần sôi động, hào
hứng và hấp dẫn lôi cuốn rất nhiều khách mộ điệu và khách hiếu kỳ.
Năm 1970, nhân giỗ Tổ Hùng Vương ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch, Trưởng Ban Tổ
Chức Bác Sĩ Hỷ, mời Ngài tham dự và góp công tổ chức cuộc tranh giải cờ người (cờ
tướng) tại sân vận động Hoa Lư Sài G̣n, dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu và phu nhân.
Cũng nhân dịp nầy, Ngài lên đài truyền h́nh Sài G̣n nói lên ư nghĩa ngày giỗ Tổ
Hùng Vương, đồng thời thông báo cho nhân dân trong nước được biết là Hội Thánh
Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh đă tạo ngôi Báo Quốc Từ để thờ các Đấng Tiên Đế dày
công lập quốc, thờ các bậc chiến sĩ anh hùng vị quốc vong thân v.v…
Ngài không hám vọng cũng không cầu danh, chỉ do sự sắp xếp trước của Sĩ Tải Lê
Quang Tấn từ chối không được buộc ḷng phải nhận lên đài gọi làm phận sự thôi.
Tại Pháp Chánh Tư Quyền Cửu Trùng Đài, có lần giữa phiên ṭa, Ngài bị trách là
buộc tội quá gắt gao, không nghĩ t́nh xưa nghĩa cũ, anh em từng ăn chung một mâm,
nằm chung một chiếu, hành Đạo từng đi chung với nhau…
Ngài xác nhận sự thật t́nh nghĩa đậm đà như thế, song đó là phần tư riêng của
hai cá nhân buổi trước, c̣n tại Pháp Đ́nh, Ngài làm nhiệm vụ và phận sự lúc nào
cũng đặt trên t́nh cảm cá nhân.
Tại Pháp Chánh Trị An, vạch trần khuất lấp trong hồ sơ vụ án, cựu Giáo Nhi Rong
đă bị phận Đạo Đệ Ngũ ỷ quyền, hai lần xâm phạm gia cư bất hợp pháp, phá hoại
hoa màu, huê lợi cây trái, lấn chiếm đất ở. Khởi đầu cô Rong là tiên cáo, sau
biến thành bị cáo, hồ sơ tráo đổi biến phải thành trái. Ngài giải tỏa những oan
khúc khiến cho bị can cảm động, khóc sướt mướt nói rằng:
-Từ trước đi đâu cũng bị thất kiện, từ Phận Đạo, Khâm Thành đến Ḥa Viện, chỗ
nào cũng bị xử thất. Hôm nay được nghe tiếng nói của Luật Pháp của công lư…
Nhờ vậy mà cô Rong được trắng án.
Lần khác sự vụ có khác hơn, Ngài phân tích và phơi bày sự thật giúp cho bị can
nhiều lần thất kiện, chịu hàm oan ở cấp dưới, lên Pháp Chánh Trị An được cởi mở,
đón nhận một phán quyết tương đối công bằng.
Gia đ́nh của đương sự trước đó buồn phiền bất măn, sau phiên ṭa tỏ ra rất nhiệt
t́nh, tích cực đóng góp vào việc chung ở địa phận Đệ Nhị.
Trường hợp của chị Châu Thị Kim Anh, Bàn Trị Sự Phận Đạo Đệ Nhị lănh làm thay
cho chánh quyền địa phương, dùng áp lực cưỡng bức, phóng đường sửa ngay làm cho
kẻ mất đất thiệt hại huê lợi, người được rộng phần thổ cư, chị Châu Thị Kim Anh
phản ứng bị xử phạt và tới đâu cũng bị xử hiếp.
Một bữa nọ, chị Kim Anh đến viếng Ngài tại nhà lúc 8 giờ tối để hỏi thăm vụ án.
Mặc dù sáng hôm sau Ṭa xét xử. Ngài trả lời rằng chưa xem xét hết hồ sơ và hỏi
làm thế nào mà biết chỗ Ngài ở. Chị cho biết là vừa tŕnh bày nổi niềm ức oan,
yêu cầu Ngài Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn Thanh giúp đỡ làm sáng tỏ vấn đề.
Ngài Ngọc trả lời rằng hồ sơ đă chuyển qua Pháp Chánh Trị An, khuyên chị đến t́m
Ngài. Ngài nói:
-Ông Trân có tánh công b́nh ngay thẳng, có thể giúp cho cô được trong trường hợp
nầy mà thôi.
Nhờ Ngài chỉ cho nên mới t́m được đúng nhà.
Ngài nói:
-Quen biết lâu ngày chưa có dịp tiếp xúc nhau, chị đến thăm chơi là rất vinh
hạnh, xin cảm ơn. Nhưng ngại rằng hồ sơ sẽ được giải quyết sáng ngày mai, tôi
lại có phận sự trong đó. Nếu may mắn chị được kiện, người ta có thể dị nghị rằng
nhờ sự viếng thăm của chị hôm nay. Như vậy mất hay cho chị và tôi cũng bị mang
tiếng; phần cá nhân tôi không đáng luận nhưng ảnh hưởng đến danh thể Pháp Chánh.
Xin thừa nhận rằng, dầu chị đến hay không đến thăm tôi, kết quả cũng chẳng thay
đổi ǵ. Tôi có thề hứa với chị, tôi tận dụng khả năng và sự sáng suốt của riêng
tôi, trong lúc làm phận sự, giữ đúng lời minh thệ vô tư của Hiệp Thiên Đài, xin
chị yên tâm.
Việc khác thường là sau khi chủ tọa Pháp Chánh Trị An tuyên án, chị quá sung
sướng, cảm động, đến bắt tay với người buộc tội, ngay trong phiên ṭa.
Thời gian sau Ngài được bổ nhiệm làm Quản Văn Pḥng Bộ Pháp Chánh kim Chủ Tọa
Pháp Chánh Trị An, nghị án tại Pháp Chánh Sơ Thẩm Hiệp Thiên Đài, buộc tội tại
Pháp Chánh Thượng Phẩm Hiệp Thiên Đài. Phận sự buộc tội tại Pháp Chánh Tư Quyền
Cửu Trùng Đài vẫn c̣n. Lănh thêm nhiệm vụ kiểm soát tài chính của Đạo đồng thời
là thành viên của Ban Chỉnh Trang Đường Phố chợ Trường Lưu.
Ngài cũng phải đón nhận trách móc thiếu t́nh thương, không giúp đỡ đồng nghiệp
trong chức vụ buộc tội tại Pháp Chánh Thượng Phẩm Hiệp Thiên Đài, cho rằng buộc
tội quá gắt.
Trường hợp của bị cáo Luật Sự Lê Hoàn Hồng tự Hảo Hớn ngoại t́nh với vợ Giáp Văn
Có. Thấy vợ ngoại t́nh với Hớn một cách trắng trợn, lộ liễu. Hớn thường đến nhà
Có ngủ đêm, hằng sử dụng xe Jeep có súng lục của Trung Tá Cảnh, nguyên Tỉnh
Trưởng Bến Tre cho mượn. Có rất buồn khổ không dám thưa kiện v́ lẽ đó. Hơn nữa
Có biết Hớn là nhơn viên Pháp Chánh, dầu có thưa chắc cũng “Phủ binh phủ, huyện
binh huyện mà thôi”. Có nghĩ như thế nên đành nuốt khổ chịu đau. Nhờ Đầu Hương
Đạo Long Trí, Chánh Trị Sự Trần Trọng Yêm chung hương đốc thúc, viết đơn dùm và
hướng dẫn đường đi nước bước. Có chỉ biết làm theo chẳng chút tin tưởng. Mỗi lần
được mời đến Pháp Chánh lấy cung, ngay cả bữa ra Ṭa xét xử, Có nh́n Chức Sắc
Hiệp Thiên Đài với cặp mắt căm hờn, bất măn, chẳng chút cảm t́nh. Thế mà sau
phiên Ṭa do Ngài Bảo Đạo Chủ Tọa, Ngài Cải Trạng buộc án. Giáp Văn Có thấy phấn
khởi, thỏa măn, tỏ ra kính trọng Chức Sắc ngay khi đó và gặp Ngài chào hỏi rất
đàng hoàng.
Điều đáng nhớ là khi chủ tọa Pháp Chánh Thượng Phẩm trao lời cho buộc tội, Ngài
đề quyết rằng lời khai của bị cáo hoàn toàn sai sự thật, thay v́ cách lư hai
người để hỏi cung, e mất ngày giờ, Ngài đề nghị viết hỏi vài câu và buộc bị cáo
viết trả lời. Khi đọc lên sẽ lấy lời khai không khớp nhau tất nhiên đủ chứng tỏ
điều mâu thuẫn với sự dối dang của bị cáo. Chủ Tọa chấp thuận và sự thật như
Công Tố Viên tuyên đoán.
Kết quả Ṭa chiếu thập h́nh của Đức Lư Giáo Tông, giáng bị cáo Lê Hoàn Hồng tự
Hảo Hớn xuống hai cấp.
Việc làm vô tư của Hiệp Thiên Đài và Pháp Chánh tạo niềm tin đối với bổn Đạo,
mặc dù cá nhân của Ngài bị mất t́nh cảm v́ không vừa ḷng thủ phạm. Ngài vui vẻ
chấp thuận để vẹn toàn phận sự.
Trong lúc thừa hành phận sự, muốn giữ đúng lời minh thệ vô tư, Ngài chấp nhận
mọi phê phán, phiền hận ảnh hưởng bời sự thương ghét của thế t́nh, lư do không
thỏa măn ḷng vị kỷ cá nhân của người khác. Cụ thể trường hợp hợp cựu Trung
Tướng Nguyễn Văn Thành, lúc đắc phong Tổng Thanh Tra Đặc Nhiệm Chánh Trị Đạo
kiêm Thống Quản Cơ Quan Thánh Vệ và Bảo Thể, lẻ ra phải giác ngộ, cải hối đề cứu
văn những ǵ đă qua, ảnh hưởng nhiều đến ḷng trung thành chung thủy của ông
trong lúc tại ngũ quân đội Cao Đài, trái lại c̣n lộng hành, tác oai tác quái,
gây bất b́nh trong Đạo chúng. Đa số đều nể sợ, từ Đạo hữu đến Chức Sắc có trách
nhiệm, chẳng ai dám nói lên, sợ thù oán. Ông Thành ra đường cỡi Vespa mini có
hai người dọn đường và hai người hộ tống bằng Honda 67, trông oai vệ. Bộ hành
hay Chức Sắc đi xe đạp đều phải nép vào lề, xuống xe chờ ông Thành qua khỏi mới
tiếp tục đi.
Trong tinh thần xây dựng và làm đúng với cương vị, dầu chỉ là Chức Sắc tiều cấp
Hiệp Thiên Đài, Ngài tŕnh lên Đức Thượng Sanh, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, qua
hệ thống của Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, cả hai chục sự vụ với đầy
đủ chi tiết h́nh ảnh, đề nghị đem việc tín nhiệm đặt trước Hội Thánh Lưỡng Đài,
xong rồi sẽ tŕnh lên Thiêng Liêng định đoạt.
Hành tàn của ông Thành đại khái như sau:
-Bất chấp tôn ti thượng hạ, trật tự đẳng cấp, ra lịnh lục soát Giáo Tông Đường (Văn
pḥng Đức Thượng Sanh) và đ̣i bắt nhơn viên phản đối, xét Bộ Pháp Chánh (văn
pḥng Ngài Hiến Pháp).
-Mạo danh Hội Thánh, chủ tọa Ban Huấn Từ tại phiên họp Đảng chánh trị Cộng Ḥa
Xă Hội-Sài G̣n (nhóm Văn Thành Cao).
-Phạm thượng, xúc phạm Chức Sắc Đại Thiên Phong có trách nhiệm cầm quyền Đạo.
-Hành hung nhơn viên công quả nội ô Ṭa Thánh.
-Thâu nạp nhơn viên an ninh tỉnh làm thuộc cấp, đem vơ khí vào nội ô Ṭa Thánh
ḷe để uy hiếp bổn Đạo.
Việc nữa đêm bắt công quả lương viên hơn chục người thanh niên Đạo không giấy
hoăn dịch, giữ một đêm, một ngày, giả vờ trả tự do chỉ cho ra cửa hậu, có xe
chánh quyền chờ sẵn, bắt đi quân dịch, có thể bất lợi cho Đạo.
Đức Thượng Sanh giữ im lặng. Nhơn viên của ông Thành muốn cầu thân cầu thế, tiết
lộ cho ông Thành biết. Chính Truyền Trạng Nguyễn Ngọc Hiểu, Tổng Quản Văn Pḥng
Đức Thượng Sanh có hành động nầy. Ngài viết thơ đính kèm thơ ông Hiểu gởi ông
Thành, hỏi Đức Thượng Sanh tại sao có việc tiết lộ cơ mật sanh chuyện oán thù,
có thể đưa đến giết nhau trong cửa Đạo và yêu cầu Đức Thượng Sanh làm ra lẽ.
Đức Thượng Sanh quở, Ông Hiểu bố lại nhơn viên văn pḥng. Sau cùng Sĩ Tải Hùng
và Sĩ Tải Thịnh là nạn nhân. Rốt cục chẳng ai biết tại sao Ngài có được bản văn
của ông Hiểu gởi ông Thành.
Ông Thành không ngại ǵ, đă nói ngay với Ngài Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Nhượn
Thanh rằng: “Tôi muốn tu mà thằng Trân nó muốn phá, coi chừng tôi giết nó”.
Ông Ngọc Nhượn Thanh cho Bảo Thể đến nhà báo tin nầy. Biết ông Thành có khả năng
làm chuyện đó, có sự móc nối liên hệ mật thiết với chánh quyền tỉnh. Ngài chẳng
sợ ǵ, đêm vẫn mở cửa sổ nhà, thay v́ vận sorong ngủ, Ngài mặc bà ba trắng từ đó,
pḥng khi có việc quăn lựu đạn ám sát, khỏi lơa lồ thân thể.
Ngày tan lễ Bà Phối Sư Hương nhiều, bạn đời của Đức Hộ Pháp, buổi sáng sắp đến
giờ phát hành di quan, nh́n thấy ông Phạm Trung Hiếu đứng gần cổng Hộ Pháp Đường,
Ngài đến gần hỏi:
-Xin lỗi có phải ông là Phạm Trung Hiếu không?
Tưởng Ngài làm quen ông ân cần lịch sự đáp.
-Phải, Qua đây, em có việc ǵ cần hỏi.
-Tôi hỏi để biết đúng ông là Phạm Trung Hiếu đặng tôi báo cho ông hay là vong
hồn của ông Giáo Hữu Thượng Liền Thanh đang chờ ông ở dưới tuyền đài. Tại sao
ông tàn nhẫn, vô nhân Đạo như vậy? ông tàn ác quá vậy? ông nỡ hại người cho đến
chết trong tù?
-Em không biết mà, tại nó muốn làm tiền Qua.
-Đến giờ phút nầy mà c̣n giở giọng đó nữa sao? Ông tưởng không ai biết việc ông
làm hay sao? Chính tôi cũng là nạn nhân của ông trong vụ đó. Ông Sĩ Tải Ngời c̣n
kia, tưởng ông cũng chết chung với ông Liền rồi, cũng do ông. Ông nhớ không, lúc
ông Liền và ông Ngời mang thơ của Đức Hộ Pháp đến trao cho ông tại nhà. Ông giả
bộ niềm nở hỏi, c̣n ai đi chung nữa không? Ông bảo mời vô hết, xin đừng ngại.
Khi chỉ biết có hai người, không c̣n ai nữa, ông bảo con ra đóng cửa rào và kêu
lính bắt.
Thấy vẻ cương quyết của ông, ông Liền sụp lạy và nói:
-Đây là bức thư của Đức Hộ Pháp, chú ruột của ông, tự tay Đức Ngài viết cho ông,
nếu tin th́ tin c̣n không tin xin xé hủy, cho hai anh em chúng tôi ra về.
Ông nhẫn tâm nói:
-Đâu được, đă vào đây rồi, muốn ra phải có công an hay cảnh sát dẫn ra mới được
chớ.
Ông đừng tưởng không ai biết, ngay từ hôm qua, anh em nghe ông có mặt ở Hộ Pháp
Đường, tính đến hỏi thăm sức khỏe của ông rồi, nhưng tôi cản khuyên anh em đă v́
Thầy v́ Đạo, không nên gây rắc rối, lộn xộn trong đám tang của Bà Tám, nhờ vậy
nên anh em mới để ông yên tới ngày giờ nầy. Bây giờ ông c̣n giữ giọng vu khống,
bôi lọ anh em, nhứt là ông Liền đă chết v́ tay ông, ông c̣n bôi lọ. Ông có can
đảm thử lập lại câu nói vừa rồi ông sẽ thấy việc ǵ xảy ra. Ông xem ḱa, anh em
c̣n đang đứng bên Báo Ân Từ, chờ tôi nói chuyện với ông đây, ông ngon lập lại đi.
Thuyền Bát Nhă chở linh cửu bà Phối Sư Hương Nhiều di chuyển, câu chuyện chấm
dứt tại đó.
Ông Chơn Nhơn Phạm Văn Út, ông Phối Sư Thái Hào Thanh, ông Anh tài xế cũ của Đức
Hộ Pháp cùng năm ba Chức Sắc và Đạo hữu có mặt nghe thấy. Ngài nói một thôi, một
hồi, ông Hiếu im lặng nghe, trong khi bổn Đạo rất đông đứng bên hông Báo Ân Từ
chờ đưa đám, Ngài mượn cớ hăm hù cho ông Hiếu sợ, cho lương tâm ông cắn rứt,
giúp ông giác ngộ, thức tỉnh chừa tội ác. Thật ra chẳng có ai muốn gây sự với
ông. Vả lại đă hơn 10 năm qua, có lẻ không bao nhiêu người biết sự việc đă xảy
ra như thế.
Đưa linh cửu đến Phạm Nghiệp, lúc sắp sửa hạ nguyệt, ông Chơn Nhơn Út nói với
Ngài:
-Ông Hiếu định đưa bà đến phần mộ, nghe ông nói, ông Hiếu lên xe vọt mất về Sài
G̣n rồi.
4.GIÚP ĐỠ NHỮNG NGƯỜI
HỒI HƯƠNG TỪ CAO MIÊN VỀ VIỆT NAM
Năm 1970, Lon Nol đảo chánh Sihanouk, Việt Kiều ở Cao Miên bị sát hại rất nhiều.
Số sống sót t́m đủ mọi cách hồi hương, tránh họa tiêu diệt. Công nhân đồn điền
cao su Chup thừa lúc rối loạn lấy xe camion của hăng mấy chục chiếc, chở nhau về
Việt Nam theo lộ tŕnh Mitmot-Tây Ninh, được tập trung ở Phước Điền rất đông.
Cảnh sống thật vất vả thiếu thốn, mất vệ sinh dễ bịnh hoạn. Chính quyền tôn Giáo,
các hội từ thiện tận tâm cứu trợ. Một ít người quen biết, lúc làm chung sở với
Ngài t́m nhà thăm và yêu cầu giúp đỡ, lănh ra khỏi trại để được thoải mái hơn.
Ngài đến Tỉnh đường xin lănh. Tỉnh Trưởng Lê Văn Thiện cho biết:
-Chánh phủ trung ương ra lịnh giữ một thời gian để thanh lọc v́ đại đa số Việt
Kiều ở Cao Miên đều thân Cộng Sản, muốn bảo lănh phải có lịnh Trung Ương mới
được.
Ngài đến Sài G̣n cùng ông Lê Quang Tấn, đến gặp ông Quang Đáng, Quốc Vụ Khanh
phụ trách khẩn hoang lập ấp. Ông vui vẻ chấp thuận hứa đánh điện ngay cho Tỉnh
Trưởng, bảo về gặp Tỉnh Trưởng giải quyết bao nhiêu cũng được.
Ông biết và tin các Ngài là Chức Sắc Đạo, do tài ngoại giao của ông Tấn nên dành
cho mọi dễ dàng.
Ngài đến trại Phước Điền, ư định xin cho những người quen, Việt Kiều tạm trú
chung thấy vậy cũng muốn xuất trại sớm, dầu không quen cũng yêu cầu giúp đỡ.
Ngài măi miết ghi tên cả trăm người rồi mà anh chị em vẫn c̣n xin thêm. Anh Tấn
giải thích:
-Mới xin lần đầu không rơ được hay không, lập danh sách đông quá e trở ngại. Thử
xem nếu được suôn lần sau sẽ xin tiếp. Nghe vậy anh em không nài nỉ nữa.
Tỉnh Trưởng thuận phê, Ngài mượn xe lái chở những người có tên trong danh sách
đưa hết về nhà. Đêm đó tổ chức liên hoan mừng anh chị em thoát nạn và được tái
ngộ cùng nhau. Xong rồi Ngài giới thiệu chủ xe Camion đến nhà, đôi bên gặp nhau
thỏa thuận giá cả, giúp chở gia đ́nh anh chị em hồi hương, kẻ về Long Xuyên (trường
hợp của ông Đàng, con Thầy Ba Các, nghiệp chủ ở Chup, gia đ́nh Thầy Giong ở Chup),
người đi Sài G̣n.
Có một gia đ́nh 12 nhân khẩu không thân nhân xin tá túc tại nhà Ngài trên 6
tháng và một gia đ́nh khác cũng trên 10 người ngụ trên 18 tháng, chờ kiếm được
sở ở Sài G̣n chắc chắn mới dời đi. C̣n một người khác gốc Miền Bắc, lớn tuổi nhờ
sự bảo trợ của Ngài, lo giúp giấy tờ theo thủ tục hiện hành xin hưởng tiêu chuẩn
cứu trợ của Ty Xă Hội, lo công ăn việc làm tính trên 5 năm.
Có một Việt Kiều tên Trạng, bị tố cáo lấy máy đánh chữ của hăng Chup đem cho
Việt Cộng, cảnh sát đặc biệt điều tra khiến anh rất lo sợ, chạy nhờ Ngài, rốt
cục cũng được yên xuôi.
Anh em được bảo lănh xuất trại, khai thông vấn đề, thời gian ngắn, số người c̣n
lại lần lượt cũng được trả tự do, định cư đâu tùy ư, muốn nhờ sự giúp đỡ của
chánh quyền cũng được Ty Xă Hội bảo trợ.
Trường hợp gia đ́nh chị Ba Đạt (cùng gánh gia đ́nh với anh Năm Viễn, Trưởng
Pḥng xổ số kiến thiết tại kho bạc nhà nước Phnom Penh) bị đưa định cư ơ B́nh
Tuy. Bạn đời của Ngài đến xin bảo lănh về Tây Ninh, chánh quyền B́nh Tuy buộc
phải có sự chấp thuận của chánh quyền Tây Ninh mới được.
Bạn đời của Ngài về Tây Ninh làm đúng các điều đă nêu, trở lại B́nh Tuy xin rước
gia đ́nh chị Ba Đạt 7 người về Tây Ninh. Ngài lo cất nhà ở tại ngôi đất nhà của
Ngài, lại c̣n tác thành hôn lễ cho con gái chị tên Bê. Ngài đứng làm Trưởng Tộc
kim luôn chủ hôn.
Khi Hội Thánh cấp đất ở vùng Long Hải cho Việt Kiều Campuchia, Ngài lập thủ tục
xin cho mỗi gia đ́nh một phần thổ cư theo qui định. Nhờ uy tín Đạo, Ngài lănh
cho hai vị Sĩ Tải khỏi bị bắt đi quân dịch.
1.-Sĩ Tải Lê Bá Khanh tại cảnh sát cuộc Phú Khương.
2.-Sĩ Tải Lê Văn Lá tại văn pḥng chiến dịch Phụng Hoàng-Tây Ninh do Trung Tá
Nghiệp làm Trưởng.
Ngoài ra c̣n lănh mấy đứa cháu ở Kim Biên về, bị bắt quân dịch, do Trung Tá Mách
giúp, can thiệp được thả ra.
5.NGÀI BẢO ĐẠO TỪ CAO
MIÊN VỀ T̉A THÁNH
Cũng năm 1970, Ngài Bảo Đạo hồi hương, Lễ Sanh Ngọc Hạnh Thanh, Sĩ Tải Lê Quang
Tấn và Ngài đem xe nhỏ đón tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Những ngày đầu ở Sài G̣n, ông Tấn lo mọi việc cho ngải Bảo Đạo hội kiến chánh
phủ, đại để Tổng Trưởng Bộ Xă Hội, Chủ Tịch Thượng Viện, Phó Tổng Thống v.v…để
góp ư lo chuyển vận Việt Kiều hồi hương.
Mấy ngày sau Ngài lấy xe đưa Ngài Bảo Đạo về Ṭa Thánh đănh lễ Đức Chí Tôn, Đức
Phật Mẫu và thăm viếng Chức Sắc nam nữ trong Hội Thánh.
Trung Tướng Thành biết Đức Thượng Sanh không ưa Ngài Bảo Đạo, lập báo cáo lên
Ngài Hiến Pháp, theo hệ thống, việc Ngài tiếp và đưa Ngài Bảo Đạo đi đây đi đó.
Chuyến về của Ngài Bảo Đạo thật gay go: Đức Thượng Sanh đă có định kiến là Ngài
Bảo Đạo theo Cộng Sản cùng với Sĩ Tải Cao, sợ chết tạo cớ giả để có lư do về
Việt Nam cho yên thân. Sự việc như sau:
Ngài Bảo Đạo phúc tŕnh về Hội Thánh, qua đường dây Ḥa B́nh Chung Sống . Ông Lễ
Sanh Ngọc Trọng Thanh, Trưởng Ban Vận Động Duy Nhứt, trước đă có lần gửi thơ
chánh thức, theo hệ thống bưu điện. Hội Thánh không dám nhận. Thơ bảo đảm giao
hoàn. Việc khẩn cấp sợ như lần trước, thơ bị giao hồi gây trễ nải. Ngài Bảo Đạo
nhờ ông Lễ Sanh Ngọc Hạnh Thanh chuyển tŕnh lên Ngài Hiến Pháp, cho biết Việt
Kiều bị sát hại rất nhiều. Hiện tập trung bắt buộc vào các Chùa, Nhà Thờ, Thánh
Thất, Trường Học v.v…Hằng ngày lai rai bị kiêu tên dẫn đi thủ tiêu mất tích. Bổn
Đạo chung chịu số phận rất hải hùng âu lo. Sinh mạng như chỉ mành treo chuông.
Xin Hội Thánh quyết định cho hồi hương, bổn Đạo chờ lịnh Hội Thánh, từng giờ,
từng phút trông đợi. Ngài Hiến Pháp thấy lời văn tha thiết, t́nh trạng khẩn cấp
nên cho tài xế Hiển lái xe đem dâng Đức Thượng Sanh tại tư gia ở Sài G̣n.
Thay v́ quyết định việc cầu cứu của bổn Đạo ở Cao Miên, Đức Thượng Sanh quở, nói
việc nhỏ mọn mà sai tài xế cho tốn xăng của Đạo. Bắt lỗi Ngài Bảo Đạo, tại sao
không phúc tŕnh chánh thức, gởi ngay Hội Thánh, lại gởi qua Ban Chánh Sách Ḥa
B́nh Chung Sống. Tài xế Hiển được cho về, mang theo bức thư của Đức Thượng Sanh,
mời Ngài Hiến Pháp đi Long Hải đổi gió, cả tuần lễ mới về Sài G̣n. Mỗi Chức Sắc
đến thăm, Đức Thượng Sanh đều nói lên ư nghĩ là Ông Bảo Đạo và Sĩ Tải Cao sợ
chết, vẻ cơ giả v.v…tất cả đều nghe và tin in trí như vậy.
Thời gian sau Đức Thượng Sanh trở lại Ṭa Thánh, lập đàn cơ tại Cung Đạo đề cầu
hỏi việc di Liên Đài Đức Hộ Pháp về Ṭa Thánh, theo Thánh Giáo Nam Vang không
phù hợp với di chúc.
Thông thường theo niêm luật của cơ bút, ít nhiều đàn cơ cũng bị ảnh hưởng theo
định kiến của Đồng Tử và Chức Sắc Đại Thiên Phong có mặt hầu đàn.
Ngài Bảo Đạo gặp khó khăn từ việc muốn tiếp tục hành Đạo đến việc ăn uống, lúc ở
nội ô phải đóng tiền riêng nhờ Trù Pḥng Báo Ân Từ lo thức ăn. Lúc đầu ở nhà tư,
chiều giăng vơng nằm tại vườn cây phía hậu. Ngài thấy Ngài Bảo Đạo buồn đến ngồi
cạnh để tâm t́nh an ủi Ngài luôn suốt ba bốn buổi chiều.
Khi Đức Thượng Sanh và Ngài Bảo Thế măn phần, Ngài Hiến Pháp lên cầm quyền Hiệp
Thiên Đài, thời cơ có vẻ thuận lợi. Ngài để tờ xin pháp lư hóa vụ án trục xuất 6
vị Sĩ Tải trong Ban Thống Nhứt Ḥa B́nh Chung Sống ra khỏi Đạo, v́ bản Thiên
Lịnh năm 1964, lư do nêu lên: Thay v́ giao Pháp Chánh điều tra rồi đưa ra Ṭa
xét xử, chiếu y Thánh Lịnh của Đức Hộ Pháp, Hội Thánh hợp đưa ra biện pháp hành
chánh quyết định thi hành. Lịnh trục xuất của Đạo tương đương với bản án tử h́nh
của bên đời, mà đời c̣n có Trạng Sư biện hộ cho bị cáo. Bị can có quyền tự biện
hộ, được có tiếng nói sau cùng, được có thời gian xin ân xá. Chẳng lẻ Đạo khắc
khe hơn đời, thi hành không đúng luật, tạo tiền lệ bất hợp lư nơi cửa Tư Pháp
Hiệp Thiên Đài.
Ngài Hiến Pháp ra lịnh thủ tiêu lịnh trục xuất nêu trên. Ngài thấy chưa đủ, tiếp
theo Ngài cùng với các vị Sĩ Tải khác cùng làm tờ đơn xin phục chức cho các ông.
Ngài Hiến Pháp lại kư thêm sắc lịnh phục chức Sĩ Tải cho cá ông Nguyễn Minh Ngời,
Nguyễn Thành Nguyên, Nguyễn Văn Tú, Huỳnh Văn Hưởng, Đỗ Hoàng Giảm. Phạm Duy
Nhung đă chết.
Thế là vụ án về cơ bút liên quan Chánh Sách Ḥa B́nh Chung Sống được kết thúc mỹ
măn.
Năm 1974, Hội Thánh mở Hội Nhơn Sanh, phái đoàn chứng sự luật pháp gồm các ông
Sĩ Tải Lê Quang Tấn, Thừa Sử Trần Văn Ngôn làm phó, có mấy Sĩ Tải phụ trách,
Ngài làm Trưởng. Hội khai mạc được ít hôm, ông Tấn đi Tân Đề Ly-Ấn Độ dự Hội
Nghị Tôn Giáo Quốc Tế, với tư cách là thành Viên của Hội Đồng Tôn Giáo Việt Nam.
__________________________________________________
CHƯƠNG V
THỜI KỲ XĂ HỘI CHỦ NGHĨA
1.ĐẢM NHIỆM QUYỀN CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
2.BỊ CHÁNH QUYỀN BẮT GIAM
3.NGỒI TRONG TÙ HỒI TƯỞNG NHỮNG VIỆC XƯA
4.ĐẤU TRANH V̀ CHÍNH NGHĨA KHÔNG SỢ CƯỜNG QUYỀN
5.NHỮNG THÁNG NGÀY Ở TRONG KHÁM ĐƯỜNG
6.NHỮNG MẪU CHUYỆN TẠI TRẠI GIAM BÀU CỎ
7.NHỮNG ĐÀN CƠ HỌC ĐẠO
|
8.BỊ TÙ LẦN THỨ 3 KHOẢNG 10 THÁNG
9.BỊ TRỤC XUẤT RA KHỎI ĐẠO MỘT CÁCH VÔ LƯ
10.BỊ BẮT V̀ LIÊN QUAN ĐẾN CƠ BÚT
11.MỚI MỔ VẪN BỊ BẮT GIAM
12.TỔNG KẾT NHỮNG THÁNG NGÀY BỊ BẮT SAU NĂM 1975
13.VIỆC XUẤT CẢNH THĂM CON |
1.ĐẢM NHIỆM QUYỀN CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Sau ngày 30-4-1975, thuyền Đạo bắt đầu đi vào khúc quanh của lịch sử. Các vị
Thời Quân lần lượt về chầu Đại Từ Phụ, chỉ c̣n Ngài Hiến Đạo ẩn dật tại tư gia,
Ngài Bảo Đạo được bầu Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài. Hai ông Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn Nguyễn Văn Hợi và Nguyễn Văn Kiết cầm quyền Bộ Pháp Chánh và cũng là cặp cơ
phong Thánh được Thiêng Liêng chuẩn nhận.
Chỉ một thời gian ngắn hai ông bị chánh quyền Cộng Sản mời đi học tập cải tạo,
nói là 3 tháng. Trước khi hai ông lên đường mất tự do, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài
bầu người tạm thay thế.
Đầu tiên được tiến cử nhưng Ngài từ chối. Lần thứ hai Ngài cũng không nhận, giới
thiệu 3 Chức Sắc đồng phẩm Cải Trạng như các Ngài Vơ Thành Quốc, Lê Minh Khuyên
và Nguyễn Thành Tất, đề nghị trong 3 người đó có khả năng hơn. Toàn hội cũng
không tán thành. Lần thứ 3 Ngài có xin ư kiến tiếp là đă trọn tin ở quyền
Thiêng Liêng, xin để Thiêng Liêng định đoạt bằng cách cầu nguyện bắt thăm, trong
4 vị Cải Trạng, ai trúng thăm nầy sẽ cầm quyền Pháp Chánh. Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
Nguyễn Văn Hợi bác ư kiến của Ngài, ông nói:
-Đây là chọn người có khả năng, tư cách để lănh nhiệm vụ Đạo, không phải việc
cầu may rủi mà định bốc thăm.
Ông quyết đề cử Ngài, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Nguyễn Văn Kiết và toàn hội tán
thành bầu Ngài.
Xúc động trước sự tín nhiệm cao độ mà Hội Thánh Hiệp Thiên Đài ba lần dành cho,
Ngài để lời cảm ơn Hội Thánh, đại ư:
-Kính trọng không bằng nghe lời…thiểu số phải tùng đa số…Hội Thánh Hiệp Thiên
Đài ba lần bầu tôi cầm quyền Bộ Pháp Chánh, tạm thay hai anh lớn bị mời đi cải
tạo. Chẳng hám vọng cũng chẳng hám danh hay tham quyền, nhưng đă ư thức được bổn
phận và trách nhiệm, buộc ḷng tôi phải nhận. Tôi dư biết lănh nhiệm vụ nầy,
chắn chắn một ngày nào đó cũng chịu số phận y như hai anh lớn, nghĩa là sẽ bị
bắt đi cải tạo. Tuy nhiên tôi vui vẻ chấp nhận để làm phận sự…
Ông Cải Trạng Nguyễn Thành Tất tỏ ư trách Ngài sao không nhận ngay từ lúc đầu,
từ chối làm chi hai ba lượt, để mất ngày giờ. Ngài đáp:
-Làm sao dám vỗ ngực tự hào ḿnh đủ tài đức. Quyết từ chối không được, buộc ḷng
phải nhận thôi. Vả lại, ít ra ḿnh cũng phải có sự khiêm tốn tối thiểu…
Sáng hôm sau hai anh lớn cùng một số Chức Sắc trên ba chục người khăn gói lên
đường học tập cải tạo. Ngài Bảo Đạo kư lệnh cho Ngài nhiệm vụ Xử Lư Thường Vụ Bộ
Pháp Chánh, chiếu quyết nghị của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
Ban đầu ông Hợi c̣n bị giữ ở Huyện, nghe bị chất vấn khai thác khắc khe, bà Hợi
cho mời Ngài đến nhà để phân bua. Bà sợ Ngài tùng dịp tố cáo thêm về việc hùng
ḷ gạch trước kia, ông Hợi tự ư thanh toán bất phân minh trong lúc Ngài lưu vong
vắn mặt. Bà nói:
-Hôm nay chị bịnh, không đến Chú được nên mời Chú ra đây để nói chuyện cho Chú
nghe. Phần hùng ḷ gạch của Chú với anh Bảy Chú, Mười Nhột ăn chớ anh Bảy Chú
không có ăn…
Ngài trả lời:
-Chị yên chí, Em phân biệt việc chung và việc riêng rất rơ ràng, không lẫn lộn.
Anh Bảy và anh Tư Kiết bị bắt v́ Đạo, đó là việc chung. C̣n việc hùng ḷ gạch là
việc tư riêng, khác nhau. Đến đổi Trương Ngọc Anh tưởng giữa anh Bảy và em có
mâu thuẫn nhau, muốn khai thác vụ mấy căn nhà Hội Quán Pháp Chánh, tính làm hại
anh Bảy, em trả lời trớt he, không ăn thua ǵ hết, nó muốn lợi dụng ḿnh, sao
được? dể ǵ? Chị yên tâm.
Ba tháng trôi qua, hai anh lớn vẫn c̣n bị giữ, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài muốn
nhắc Ngài lên Quyền Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Ngài đề nghị chờ thêm một thời
gian nữa, tính vội có thể dư luận cho rằng Ngài hám vọng, tham quyền.
Ngài Bảo Đạo đồng ư giữ danh từ Xử Lư nhưng ban rộng quyền đầy đủ như Chưởng
Quản chánh thức để công việc được trôi chảy.
Thừa Sử Lê Quang Tấn bị bắt ở Sài G̣n, Thừa Sử Trần Văn Ngôn bị bắt tại nhà ở
Long Hoa, bịnh bán thân, chánh quyền tạm tha về nhà trị bệnh.
Ngài tŕnh Ngài Bảo Đạo xin được kiện toàn nội bộ Pháp Chánh trước khi Ngài bị
bắt. Theo tin thần lời dạy của Đức Hộ Pháp, hễ Chức Sắc lớn bị bắt, Chức Sắc nhỏ
lên thay. Hết Chức Sắc, cho Chức Việc hoặc Đạo Hữu lên cầm quyền cũng được. Điều
thứ nhứt bổ nhiệm ông Cải Trạng Nguyễn Thành Tất phụ trách Xử Lư Thường Vụ như
Phó Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, cử một vị Truyền Trạng thay chức Trưởng Phóng
Thẩm Vấn để trọn vô tư trong việc điều tra hồ sơ Giáo Sư Chánh (Huỳnh Công Chánh),
xài phạm trên 5 triệu đồng của Nông Viện. Điều thứ nh́ bổ nhiệm mấy vị Truyền
Trạng tân thân có mặt tại Ṭa Thánh vào chức Trưởng Pḥng c̣n khuyết vị. Gần 10
năm làm Quản Văn Pḥng Bộ Pháp Chánh hiểu khá nhiều về tâm đức khả năng, tinh
thần, ư chí của hầu hết anh em nhơn viên Pháp Chánh, Ngài hứa lấy công tâm làm
nhiệm vụ.
Ông Giám Đạo Bùi Quang Cao, Quản Văn Pḥng Ngài Bảo Đạo, tán thành ư kiến của
Ngài và Ngài Bảo Đạo cũng thuận bằng lời, Ngài đến thương lượng với vị Giám Đạo
Trần Thanh Danh. Nhờ giữ chức Trưởng Pḥng Biện Hộ. Ngài không nói rơ là cử cán
bộ Lê Thị Liêm làm Trưởng Pḥng Án Tiết mà Ngài Danh đang đương nhiệm. Thế là đă
có sự xích mích mâu thuẫn xảy ra giữa hai Ngài. Ngài Bảo Đạo thấy không yên nên
bổ Ngài Danh qua Hiệp Thiên Đài.
Ngài lại không bằng ḷng nên xin từ nhiệm. Đơn nạp lúc 10h30 ngày 19 tháng 8
Nhuần Bính Th́nh (12-10-1976), đến 12 giờ về tới nhà. Công an đọc lịnh xét nhà
và bắt luôn.
2.BỊ CHÁNH QUYỀN BẮT
GIAM
Tiên đoán trước thế nào cũng có ngày nầy, Ngài đă chuẩn bị một lít muối ớt, một
lít muối sả, định đi cải tạo trường kỳ nhưng lúc bị bắt bất cập nên quên đem
theo. Ngài tưởng ḿnh sẽ bị bắt giống như ông Hợi và ông Kiết, sự thật không
phải vậy. Công an tống giam vào khám đường B4 Tỉnh.
Tính ra c̣n thiếu một tuần tṛn 6 tháng Ngài cầm quyền Bộ Pháp Chánh.
Việc bắt Ngài công an sắp xếp cũng hay, có vẻ trịnh trọng. Buổi sáng một thanh
niên vào nhà hỏi Ngài bao giờ mở khóa thi Luật Sự, đặng chuẩn bị, ư dọ hỏi Ngài
có đi đâu vắng
không? Lúc trưa Ngài bị bắt mới đoán biết, thật ra lúc đầu không nghĩ tới.
Ngài vào nhà lúc 12 giờ trưa, 5 phút sau Trung Úy Lập công an theo gót tới. Ngài
mở cửa trước mời vào nhà. Lập hỏi vài câu bâng
quơ, nh́n ra cổng hỏi sao xe lâu tới quá, bộ đi lạc sao? Lập ra cổng, Ngài thản
nhiên bước theo, xe jeep tới, vài viên công an tới, bảo mời vài người láng giềng,
đọc lịnh bắt và xét nhà, buộc cỡi áo dài ra, Ngài không cỡi. Công an bảo đă mất
quyền tự do… dằng co một hồi thấy cương quyết bảo thủ trong trường hợp nầy bất
lợi hơn. Công an móc c̣ng số 8 khóa Ngài buộc ngồi yên trên salon. Chúng vào lục
soát đồ, một người ở lại chụp h́nh nhiều kiểu, chụp thẳng trực diện, chụp
nghiêng, đứng trên ghế chụp xuống, lấy dây sắc lịnh Đạo ra chụp luôn. Đặc biệt
lệnh bắt tên không phải tên Nhựt. Nghĩ rằng Ngài có ư qua mặt Cộng Sản nhưng
không qua mặt được.
Lúc ngồi salon tay mang c̣ng tự động, biết rằng nhúc nhít siết chặt đau tay
nhưng giữ cách nào cũng không khỏi. Hai cườm tay ngấn khuyết cảm thấy đau nhói
nhưng Ngài nào có nghĩ tới phần đau xác thịt, tâm trí bận hướng về thân phụ già
nua, c̣n mấy tháng nữa là đến 87 tuổi, đang nằm trên giường bệnh, hằng đêm Ngài
đến ngủ bên cạnh…nay đột nhiên vắng bóng…thân phụ Ngài sẽ nghĩ sao? Chắc là buồn
lắm…Ngài thấy thương thân phụ rất nhiều, ḷng rạc rào đau xót như đứt từng đoạn
ruột.
Đắn đo suy nghĩ, có nên đề nghị Trung Tá Lập cho ghé nhà để từ giă thân phụ một
lần chót hay không? Ngài tự nhũ: E lập cho ḿnh tính yếu hèn, xem thường ḿnh…nếu
Lập thuận cho rất tốt, ngược lại bị từ chối ngỡ ngàng thêm. Hai luồng
tư tưởng phản khắc nhau, một lẽ thương cha muốn gặp để giă từ, biết đâu là lần
cuối gặp nhau để vĩnh viễn ĺa nhau không bao giờ c̣n thấy mặt nhau nữa. Gặp để
ôm chân cha cầu xin tha thứ tội thất hiếu không thể hầu hạ, chăm sóc lúc cha già
yếu bịnh hoạn. Không gặp cha rủi cha chết phải ân hận suốt đời. Lẽ khác sợ công
an xem thường, bị từ chối c̣n mất thể diện, nhẹ giá Chức Sắc…Ư nghĩ sâu xa có
năng lực hơn, liên quan đến danh thể chung. Ngài đành buôn trôi không nghĩ tới
nhưng củng thấy tái tê ḷng.
Ngài trấn an, nhũ thầm: “Hăy nén ḷng, ráng chịu đựng”. Ngài nhớ lại bài thơ của
Đức Hộ Pháp có dạy rằng:
Vàng thau lẫn lộn
không người thổi,
Ngọc thạch bất phân
thiếu kẻ trau.
Nhớ thuở năm xưa Thầy
có dạy,
Hai trăm Bồ Tát tại
thiên lao.
Thầy c̣n cam chịu
thân lao lư,
Tớ lại màn chi phận
thảm sầu.
Chẳng bước đến trường
thi khổ hạnh,
Làm sao rơ đặng máy
cao sâu?
Trường Tiên mở lớp
giồi thiên vị,
Khóa Phật khai kỳ
dượt săi tu.
Chọn lọc chiên lành
cho đáng giá,
Pḥng sau nối nghiệp
Đạo ngh́n thu.
Tâm hồn trở lại khoản khoái.
Công an xét nhà xong, dắt ra xe, lấy theo dàn máy đánh chữ và ít giấy tờ, Ngài
mang theo giỏ đựng quần áo để xài trong tù mà quên 2 chai muối.
Cũng trong dịp nầy, Ngài mất một khoen vàng 24 một lượng của con gái
Ngài Tuyết Mai gửi giữ dùm. Để trong học tủ bàn viết mà không biết lư do. Vàng
đó của mẹ Tuyết Mai cho Tuyết Mai.
Những điều Ngài lo nghĩ về cha già sau quả nhiên đúng sự thật. Cuối năm 1981,
lúc Ngài ở tù ra nghe kể lại, gia đ́nh không cho thân phụ Ngài biết tin Ngài bị
bắt, sợ v́ quá xúc động, bịnh trầm trọng thêm. Nhà nói dối là Ngài đi học.
Cà tháng qua mặc dầu trong ngóng hằng ngày nhưng vẫn tin như lời. Một hôm Giáo
Sư Tài, nhơn viên văn pḥng Thái Đầu Sư đến thăm, thân phụ Ngài hỏi:
-Chẳng biết thằng Bảy tôi đi học đâu lâu quá không về?
-Ông Cải Trạng bị bắt rồi, Ngài không hay sao?
Thân phụ Ngài sa sầm nét mặt không nói nữa. Có lẻ quá cảm xúc cố nén thương đau…vài
ngày sau ngă bịnh nặng, thân phụ Ngài thường kêu nhắc tên Ngài.
Ngài bồi hồi nhớ lại, có lần ngồi chung điểm tâm sáng, thân phụ nói với Ngài:
-Ba nhớ anh Sáu con quá, nó bị đưa đi cải tạo không biết đến bao giờ mới về.
Chính thân phụ Ngài đă khóc, vừa nói vừa khóc trước mặt Ngài. Ngài nén ḷng an
ủi thân phụ cho qua cơn bi lụy!!!
Trước trường hợp của Ngài chắc cũng thế thôi, xúc động mạnh, bệnh ngày càng tăng,
càng trầm trọng. Tính ra chỉ 2 tuần sau ngày Giáo Sư Tài thăm th́ thân phụ Ngài
mất.
Tang lễ được cử hành theo đúng phép Đạo, chưa bị hạn chế, chỉ có điều là chẳng
có cậu con trai nào cư tang đái hiếu. Hai con trai lớn c̣n lại đă đi tù, con
trai út không tŕnh diện cải tạo, lén lút về trong đám tang mà không dám chường
mặt ra sợ bị bắt. Con gái, dâu, rễ, cùng cháu nội, ngoại đều có mặt.
Tuyết Mai, con gái của Ngài thay mặt cha mang giây rơm mũ bạc, khiến cho Chức
Sắc và bổn Đạo mũi ḷng thương tâm, lắm người đỗ lụy rơi châu, thương cho ông
Đầu Sư bạc phước.
Hội Thánh xin cho Ngài về thọ tang,
bạn đời Ngài mang thơ ra tỉnh hi vọng ông Sáu Thượng Chủ Tịch Tỉnh sẵn ḷng giúp
đỡ. Thế mà sáng cũng như chiều, bạn đời Ngài được mời chờ. Chờ suốt 3 ngày liền,
mỗi ngày 2 buổi không trả lời dứt khoát cứ khuyên chờ. Cuối ngày thứ 3 thấy
không c̣n đủ can đảm ngồi chờ nữa v́ mất quá nhiều ngày giờ chẳng lo ǵ được
trong đám tang.
Đủ thấy cách làm việc đúng hơn là tư tưởng tâm lư của cán bộ là như vậy. Không
cho cứ thẳng thắng trả lời, gạt làm chi cho thiên hạ mất công mà ḿnh cũng bị
mất uy tín.
Phải chăng đó là chánh sách?
Vào khám lúc 1 giờ rưởi trưa, tới giờ phát cơm chiều, khẩu phần hơn hai chén,
phần ăn sáng chỉ một ổ bánh ḿ nhỏ đủ tiêu chuẩn trong ngày. Thức ăn độ một chén
rau muốn luộc, nước lỉnh loảng. Cứ ăn xong rồi ngồi nghỉ, thật là rảnh rỗi.
3.NGỒI TRONG TÙ HỒI
TƯỞNG NHỮNG VIỆC XƯA
Ngài ngồi hồi tưởng những việc đă xảy ra trong quá khứ, cũng có nhiều điều nên
thơ thích thú, vừa an ủi, vừa khích lệ, những việc xảy ra như sau:
-Năm 1967, trong một đàn cơ học hỏi riêng tại nhà anh Hạ Chí Khiêm, anh Khiêm và
anh Tào pḥ loan, Đức Huệ Mạng Kim Tiên cho Ngài một bài thi tiết lộ tiền kiếp
và có ư khuyên dạy:
Bước hạnh đường qua
cũng khá dài,
Gan trung c̣n đủ hiển
đường may.
Ân xưa bến Phạm ḿnh
năng thưởng,
Quyền cũ ai toan để
mặc ai.
Giáo phép Thiêng
Liêng cho rơ lư,
Đưa đường hiệp chủng
chọn anh tài.
Cơ mầu há để phàm tâm
nắm,
Bút diệu nào cho lộ
đó đây.
Minh chí khá tua bền
thử chí,
Đài vân rạng vẻ ngọc siêng mài.
-Năm 1968 cũng tại nhà anh Khiêm cũng cập đồng tử nầy, Ngài nguyện thầm đại ư
nói lên tin thần ư chí có thừa, chỉ ngại c̣n mang thân phàm xác tục, trọng trượt
u mê, e không vượt khỏi điều thử thách, không trọn Đạo trước giờ nhắm mắt lâm
chung, đức Huệ Mang Kim Tiên đáp bằng một bài thi khoán thủ tứ tuyệt:
Huệ
phúc đường danh
nghiệp vẫn tṛn,
Mạng
tùng chơn pháp một
ḷng son.
Kim triêu Đạo sự huyền
linh chuyển,
Tiên
tục chờ cơn hiệp nước con.
Một lần khác, nghe một vài anh lớn đặt nghi vấn vào đàn cơ giáng cấp Ngài Phối
Sư Thượng Vinh Thanh và phong Ngài Thượng Sáng Thanh lên Đầu Sư, Ngài thầm bạch
hỏi, Bát nương quở:
Hỡi khách d́u thân có
biết chăng?
Đường qua mấy dặm
bước thăng bằng.
Cớ nào huệ chí chưa
yên tĩnh,
Mà lại c̣n đem dạ
nghĩ xằng?
Đời đă không tường cơ
nhiệm lư,
Đạo sao chẳng rỏ bước
sao giăng?
Con cờ ngỏ tắc đường
nghi vấn,
Pháp bửu khá tua định chuẩn thằng.
Cửu Nương tiên tri cuộc phong ba sắp tới trong cửa Đạo và khuyên:
Huyền diệu nan tri lư
diệu huyền,
Phong ba chưa dễ lắng
đường duyên.
Đănh tần c̣n vướng
lằn mây bạc,
Biển Bắc đang cơn thọ
năo phiền.
Bởi chẳng hoàn lương
đời mới diệt,
V́ chưa tỉnh giấc Đạo
qui nguyên.
Chớ đem chí cả mà phô
diễn,
Đợi buổi quyền giao định sửa giềng.
Năm 1971, Ngài Bảo Đạo và Sĩ Tải Bùi Quang Cao pḥ loan tại tư gia, ngoài các
điều dạy khác trong dịp lễ giáng sinh ngày mùng 5 tháng 5 Tân Hợi, Đức Hộ Pháp
dạy riêng Ngài, nguyên văn như sau:
“Trân con! Thầy rất
hài ḷng v́ sự biết lập công quả đối với đại nghiệp của Đức Chí Tôn, con sẽ được
ban thưởng và an ủi nhiều ở mai hậu”.
Năm 1976, tại Hiệp Thiên Đài, Ngài được phép hướng dẫn anh em Luật Sự, Sĩ Tải
pḥ loan. Một bữa nọ, ông Thánh Hiển giáng cơ với sự vui vẻ khác thường. Ngài
rót rượu mời và bạch hỏi có điều chi vui, xin cho đàn em chung cùng chia sớt.
Ông Thánh Hiển cười, viết tiếp:
“Rất vui vẻ thấy
Monsicur Trân làm xứng phận”.
Ngài xúc động và phấn khởi vô cùng.
-Cũng năm 1976, Đức Hộ Pháp dạy gọi những anh em đă chịu khổ hạnh v́ Chánh Sách
Ḥa B́nh Chung Sống Để Đức Ngài dạy việc. Ngài lănh việc mời. Mấy ông Ngời,
Nguyên, Tú, Giảm không ai đến, chỉ có ông Tiếp có mặt. Tại nhà khách Giáo Tông
Đường, Ngài Bảo Đạo và ông Cao pḥ loan đêm 12-4 Bính Th́nh. Đức Hộ Pháp dạy
Ngài:
“Trân con! Thầy biết
ư con. Thầy khen con đó, song con nên nhớ rằng Đạo chẳng phải một ngày một buổi
ǵ cho rồi việc mà con nôn nóng. Cứ từ từ mà đi và bước cho thật vững chắc.
“Con đă giác ngộ, con
nên cần cảnh giác và đề pḥng hơn nữa về lời nói lẫn việc làm. Con cứ tin
rằng Hiệp Thiên Đài bất diệt”.
Trên đường tu học mà được Đấng Thiêng Tôn Hộ Pháp giáng cơ xác nhận “giác ngộ”
thật chẳng có ǵ vui mừng bằng.
Ngài nghĩ thêm, Đức Hộ Pháp mách nước nạn tù sắp đến, khuyên cảnh giác, đề pḥng
mà Ngài hiểu không tới, Đức Ngài mách khéo không tận lộ, riêng Ngài Trần Khai
Pháp nói rơ ràng hơn mà Ngài hiểu cũng không ra. Ngài Khai Pháp dạy:
“Em Trân, Hiền Hữu
sắp vào Tịnh Thất, khá cẩn thận”.
Ngài tŕnh bạch:
-Cầm quyền Pháp Chánh đệ tử hết sức cẩn thận từ lời nói đến việc làm, đến đổi ăn
không ngon, ngủ không yên giấc v́ lo rầu cho nghiệp chung. Ngài dạy cẩn thận, đệ
tử phải làm thế nào cho hợp Thiên ư?
Ngài Khai Pháp Viết:
“Cười…Nhẫn…Nhẫn…Nhẫn…Cười…”
Lúc ấy quá lạc quan ngày thành Đạo đă cận kề, sẽ lập Tịnh Thất như Tân Luật đă
dạy Ngài sẽ được nhập tịnh theo sở nguyện từ xưa, không ngờ vài tuần sau bị bắt
mới hay rằng Tịnh Thất của Ngài chính là khám đường B4 Tỉnh, nơi Ngài cần rèn
luyện cho được tánh “nhẫn” như Ngài Khai Pháp truyền dạy.
Ḷng dặn ḷng, Ngài lấy đó làm cây gậy đi đường trong thời gian nhập tịnh.
Đêm tháng tám, ông Quốc và Ngài hội ư nhau mở cửa Hộ Pháp Đường, nhắc lại cũng
lư thú:
Được anh em cho hay đông đảo bổn Đạo về dự lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung, phải qú
ngoài lộ lạy vào Hộ Pháp Đường. Cửa rào đóng chặt không vào được, Ngài thương
tâm, nghỉ rằng bổn Đạo không ngại tốn kém nhọc nhằn, bỏ nhà rời gia đ́nh đường
xa về Ṭa Thánh mà không được vào trong chiêm bái, tinh thần tính ngưỡng cao độ
mà phải qú lạy ngoài lộ, ít nhiều cũng tủi thân và phiền trách.
Ngài cùng Cải Trạng Vơ Thành Quốc đến nhà khách Giáo Tông Đường, định xin Ngài
Bảo Đạo cho mở cổng Hộ Pháp Đường cho nhơn sanh vào. Ngài Bảo Đạo vắn nhà, cùng
với Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh đi dự tiệc tại tư gia ông Khâm Châu Sài G̣n,
Giáo Hữu Thượng Đấu Thanh. Ngài mượn Honda của mấy em Luật Sự chở ông Cải Trạng
Quốc đến gặp Ngài Bảo Đạo. Cũng may quan khách khá đông mà chưa nhập tiệc, Ngài
tŕnh bày được Ngài Bảo Đạo chấp thuận nhưng Ngài Đầu Sư th́ không đồng ư, nói
rằng sợ có kẻ gian có giả tâm đem vơ khí chôn dấu gieo họa cho Hội Thánh. Ngài
xin lănh phần trách nhiệm canh giữ. Ngài Đầu Sư nói:
-Nắm người có tóc, không ai nắm kẻ trọc đầu…
Ngài lập lại là cả nhơn viên Pháp Chánh đồng t́nh gác cổng, canh giữ phụ lực với
nhơn viên Thánh Vệ và Bảo Thể, bảo đảm không việc ǵ xảy ra về trật tự và an
ninh trong rào Hộ Pháp Đường.
Ngài nói thêm:
-Nếu đă chủ trương chôn giấu vũ khí và gieo họa cho Đạo th́ không cần chôn trong
ṿng rào Hộ Pháp Đường, mà khắp nội ô Ṭa Thánh, chôn chỗ nào Hội Thánh cũng
chịu trách nhiệm cả, bởi chánh quyền chưa quản lư nội ô…
Ngài Đầu Sư khuyên chờ sáng sẽ mở, ông Cải Trạng Quốc kêu về. Ngài cố nán thuyết
phục và nói thêm:
-Sợ quá cũng vậy thôi. Chủ thuyết của Cộng Sản: Có Cộng Sản th́ không có tôn
Giáo, có tôn Giáo th́ không có Cộng Sản. Ḿnh sợ quá dầu có lạy lụt, tới việc
giết họ vẫn cứ giết, không tha. Họ bảo chưa hết câu ḿnh vân dạ, họ đi tới đích
mau, trái lại họ nói ḿnh dằn co, hỏi tới hỏi lui, khựng lại, cũng có thể họ tới
đích nhưng thế nào cũng chậm hơn…
Ông Quốc giục thúc kiếu từ, ra đường Ngài trách:
-Mục đích xin mở cửa Hộ Pháp Đường, Ngài Đầu Sư chưa chịu tôi muốn thuyết phục,
sao anh giục về măi, trong khi vấn đề chưa giải quyết?
Ông Quốc trả lời:
-Hộ Pháp Đường thuộc Hiệp Thiên Đài mà ông sếp Hiệp Thiên Đài đă thuận rồi, ḿnh
cứ mở, cần ǵ phải mất thờ giờ thêm?
Ngài đồng ư và cho đó là ư kiến hay.
Về đến Hiệp Thiên Đài, Ngài mời Ḥa Viện Hành Chánh, Ḥa Viện Phước Thiện, Thánh
Vệ và Bảo Thể, họp bàn thi hành ngay ư định.
Bổn Đạo lấy làm phấn khởi, tràn vào Hộ Pháp Đường lễ bái rất đông. Ngài cùng anh
em Pháp Chánh chia nhau canh gác, chỉ trong khoảnh khắc, nhơn viên Thánh Vệ và
Bảo Thể cam kết thay lănh trách nhiệm, khuyên anh em Pháp Chánh về nghỉ, lúc đó
trên dưới 11 giờ.
Đêm đó Ngài ngủ ngon giấc v́ đă làm một việc đẹp dạ vừa ḷng nhơn sanh.
4.ĐẤU TRANH V̀ CHÍNH
NGHĨA KHÔNG SỢ CƯỜNG QUYỀN
Kiểm điểm lại, Ngài thấy ḿnh vô tội, không vi phạm luật nhà nước, không xúc
phạm chánh quyền, tại sao bị bắt? Ngài nghĩ rằng Ngài làm nhiệm vụ của Ngài,
công an làm phận sự của công an. Ư kiến bổn phận đôi bên không giống nhau, chánh
quyền gán là chống đối, cho là chướng ngại cần phải dẹp, dùng cường quyền bắt
giam để cách ly xă hội. Tóm lại vài chuyện xảy ra như sau:
Cuộc họp tại nhà Hiền Tài Dương Minh Nghĩa ở Tây Ninh, góp ư theo lời kêu gọi
“tăng gia sản xuất” của cán bộ, Ngài đề cao chánh sách khoan hồng của nhà nước,
đại khái rằng:
Trước kia, trong thời gian kháng chiến, Cách Mạng liệt những người thuộc chế độ
trước là phản quốc. Kẻ thù bất cộng đái thiên. Sau ngày 30-4-1975, đất nước đă
thống nhất, Cách Mạng không cho họ là kẻ thù nữa mà chỉ xem những người bạn lầm
đường lạc lối, thay v́ dùng biện pháp mạnh lại lập các trường để cải tạo họ trở
thành công dân tốt hữu ích cho đất nước. Đó là sự khoan hồng đại lượng của cách
mạng. Hơn một năm qua một số người cải tạo được tha về lại là một sự khoan hồng
đại lượng mới đáng ghi nhận.
Hôm nay chánh quyền kêu gọi tăng gia sản xuất, tôi xin đề nghị xin nghĩ đến một
triệu người đang có mặt ở các trường cải tạo trong nước, chánh quyền nên nâng sự
khoan hồng đại lượng lên mức độ cao hơn chút nữa, nghĩa là t́m biện pháp thu
ngắn thời gian cải tạo của trên 1 triệu người đó. Chính là một lực lượng rất lớn,
rất khả quan, có nhiều khả năng, sức lực sản xuất, có thể làm cho nước mau giàu,
dân mau mạnh, sớm đưa đất nước đến chỗ cường thịnh. Hơn một triệu người cho về
sum họp với gia đ́nh, chính quyền được hơn một triệu gia đ́nh mang ơn. Mỗi gia
đ́nh nhân số trên dưới 10 người, tức nhiên chánh quyền thu phục nhân tâm trên 10
triệu người, kết hợp với lực lượng tôn Giáo trong nước, thấy rơ là chánh quyền
nắm được ḷng dân, tức là đắc nhơn tâm, mà thuận nhơn tâm ắt thuận Trời và thuận
Thiên th́ giả tồn.
Ngài không nói hết câu để mỗi người hiểu sao tùy ư.
Ngài dứt lời, cán bộ Tỉnh tỏ thái độ rất bất b́nh, lên diễn đàn hét to, nói rằng
việc cải tạo về sớm hay muộn là do đương sự không phải do chánh quyền…
Lần khác tại giảng đường trước Giáo Tông Đường, cán bộ Tỉnh Bảy Phú ngồi làm chủ
tọa, đưa nhiều đề tài, có vụ qui trách nhiệm cho Hội Thánh, gọi chánh quyền cách
mạng là Quỷ Vương. Ngài có ư kiến:
-Danh từ Quỷ Vương chẳng phải mới có. Từ hơn 2500 năm xưa, khi Đức Thích Ca vừa
đắc Đạo, chịu lắm thử thách…Một số nữ sắc toan quyến rũ mê hoặc cho Ngài bỏ Đạo
nên gọi là Quỷ Vương. Gần 2000 năm trước, khi Chúa Jesus Christ lập Giáo cũng có
Quỷ Vương quậy phá nên gọi là Lucifer hay Quỷ Satan. Lúc Đạo Cao Đài khai sáng
trên 50 năm trước, năm 1925 Việt Nam chưa có Cộng Sản cũng có Quỷ Vương xuất
hiện bằng chứng là Quỷ Vương đề bài thi thất ngôn bát cú, người Đạo lâu năm ai
cũng biết. Ngài đọc:
Cửu phẩm Thần Tiên nể
mặt ta,
Thích Ca dầu trọng
khó giao ḥa.
Cửa Kinh Bạch Ngọc
năng lui tới,
Đường Đạo Tây Phương
khử chánh tà.
Chỉ đá hóa vàng đon
miệng thế,
Treo gươm sông vị
chận phồn hoa.
Đổi chơn hay giả tô
thiên vị,
Những kẻ phàm tâm liệu thế à!
Ngài nói tiếp:
-Tóm lại, người tôn Giáo, dầu tôn Giáo nào cũng vậy gọi Quỷ Vương là những kẻ
phá Đạo, cám dỗ, mê hoặc hại người tu. Thế thôi.
Người nào nói chánh quyền là Quỷ Vương th́ người đó chịu trách nhiệm với chánh
quyền, Hội Thánh không can dự.
Chiều lại, cô Lễ Sanh Hương Lúa đến gặp Ngài, nói thấy cầm giấy đọc buổi sáng,
cô mượn chép, lời lẽ rất thích hợp, vừa ư cô. Chị em phái nữ cũng muốn chép.
Ngài đáp rằng: “Tấm giấy nhỏ ghi để nhớ các đề mục của cán bộ nêu ra, trả lời
cho đầy đủ và theo thứ lớp chớ có biết đâu mà soạn trước, chỉ ứng khẩu thôi”.
Lần ở Giáo Tông Đường, Bảy Phú cán bộ nhà nước, họp Chức Sắc lớn, buộc tất cả
làm sơ yếu lư lịch, Ngài có ư kiến:
-Xin làm việc nhà nước buộc làm lư lịch là hữu lư, đây chỉ là tu hành ở chùa,
sao phải làm lư lịch? Nếu thấy cần xin để Chức Sắc trẻ tuổi làm, c̣n Chức Sắc
trên dưới 80 tuổi gần xuống lỗ xin được miễn…
Bảy Phú bất b́nh nói to:
-Anh Nhựt không muốn làm, gạt anh qua một bên, đây là lệnh của nhà nước.
Ngài trả lời:
-Nếu là lịnh của nhà nước th́ phải tuân hành. Tại không nói rơ, tôn trọng đại
diện của nhà nước, dầu cán bộ có nặng lời, người dân phải chấp nhận thôi.
Lúc mới Ngài quá dè dặt trong việc phát ngôn, tan hợp, ông Lê Văn Xă, ra Giáo
Tông Đường khều nói nhỏ với Ngài:
- Anh nói vậy không sợ bị bắt sao?
Ngài đáp:
-Có ǵ phải xin lỗi. Thế thường đă nói th́ không sợ, c̣n sợ th́ không nói. Tôi
không quen xin lỗi.
Thực ra v́ biết quá nhiều nên lúc mới nghe danh Cộng Sản, nói đến chánh quyền,
cán bộ ai cũng nể sợ. V́ vậy có lắm người lên mặt hách dịch, hạ mục vô nhơn, ăn
nói càng bướng vô lễ.
Ngài đem việc nầy nói với Trương Ngọc Anh, cho rằng Bảy Phú cán bộ nhà nước nói
chuyện thiếu khiêm tốn, nhứt là với người lớn tuổi hơn nhiều. Trương Ngọc Anh
hứa sẽ mời hai bên thông cảm nhau.
Mấy hôm sau có giấy của cán bộ Tỉnh, ngài không nhớ thuộc cơ quan nào, có lẻ là
Mặt Trận, mời Ngài đến nhà Trương Ngọc Anh. Lúc đầu có vẻ căn thẳng, sau ḥa
huởn. Bảy Phú tiết lộ rằng, sau phiên họp ở Giáo Tông Đường, trong hàng Chức Sắc
có người yêu cầu bắt Ngài. Có người nói tội nghiệp Ngài nhiệt t́nh v́ Đạo xin
tha đừng bắt.
Xin lưu ư là cuộc họp đó từ Giáo Hữu trở lên.
Ngài có thuật chuyện hồi tố cáo Trung Tướng Thành, bị Thành hăm giết, nhưng làm
nhiệm vụ Ngài không nao, không sợ chết.
Cũng tại giảng đường, một lần khác có trên một ngàn người tham dự, Trương Ngọc
Anh đồng chủ tọa, sắp xếp cán bộ công an rải rác ngồi chung lộn với Chức Sắc và
bổn Đạo. Anh chỉ Trung Úy Lập ngồi cạnh Ngài, hỏi địa chỉ nhà và chính Lập đến
bắt Ngài lần đầu tiên tại nhà. Anh nêu các đề tài:
1.Vật tùy thân, vật bất ly thân, súng của cán bộ có công với đất nước, tại sao
buộc phải gởi ngoài cổng, không cho mang theo ḿnh vào nội ô? Tại sao buộc phải
cởi giày khi vào Đền Thánh.
2. Chức Sắc phải tham gia chánh quyền để tiến nhan lên xă hội chủ nghĩa.
3.Tăng gia sản xuất…
Nhơn danh người có trách nhiệm cầm đầu Bộ Pháp Chánh, Ngài bát hẳn ư kiến của
hai Chức Sắc sau đây:
1.-Giáo Sư Thái Phát Thanh cho rằng luật pháp Đạo buộc Chức Sắc phải phế đời
hành Đạo, muốn tham gia chánh quyền phải gởi áo măo lại cho Hội Thánh. Chánh
quyển kiêu gọi Chức Sắc tham gia chánh quyền, Chức Sắc đứng giữa phải làm sao?
Thi hành cách nào? Nghe ai, bỏ ai? Yêu cầu Hội Thánh ngồi lại với chánh quyền,
bàn thảo dứt khoát vấn đề, ra lịnh thống nhứt để Chức Sắc tuân hành.
Ngài nói:
-Luật pháp của Đạo đă ban hành từ mấy chục năm, Chức Sắc đồng nhứt thể tuân hành.
Hôm nay nhà nước kêu gọi tham gia chánh quyền, Chức Sắc trong hàng Thánh Thể Đức
Chí Tôn, muốn đáp ứng theo lời kêu gọi của nhà nước trước phải tùng luật Đạo,
như vậy mới vẹn phận. Đạo không cấm, nhà nước không buộc, ư thức bổn phận ta
không vi phạm bên nào là đủ. Ngoài ra không có lư do buộc Hội Thánh ngồi với
chánh quyền để sửa luật Đạo.
Thử hỏi tại sao phải gởi áo măo trước khi tham gia chánh quyền? ai cũng thấy,
nếu chẳng qui định rơ ràng, Chức Sắc tham chánh c̣n mặc áo măo, bắt cá hai tay,
đến cửa Đạo vỗ ngực xưng ḿnh là đại diện chánh quyền, đến chính quyền xưng ḿnh
là đại diện tôn Giáo, những kẻ háo danh, tham quyền trục lợi, nhiều tham vọng
không thiếu ǵ, thành thử Đạo bị lợi dụng, chánh quyền cũng bị lợi dụng. Đặt
nặng quyền lợi, danh vọng cá nhân manh tâm lợi dụng, những kẻ đó có thể gây điều
ngộ nhận, lầm hiểu nhau có thể đưa đến sự mất đoàn kết giữa chánh quyền và tôn
Giáo. Hội Thánh tiên kiến và tiên liệu dứt khoát không để lợi dụng.
2.-Giám Đạo Trần Thanh Danh không tán thành việc sản xuất, nêu lư do là Chức Sắc
phế đời hành Đạo nay đây mai đó chịu sự thuyên bổ của Hội Thánh, lo sản xuất nữa
chừng, không ai chăm sóc bỏ hư hoại mất vốn.
Ngài nói:
-Nhà nước trước không buộc sản xuất, Chức Sắc cũng nhơn th́ giờ rỗi rănh lo canh
tác sản xuất, tạo ra của cải tiền bạc phụ giúp gia đ́nh hay ít nhất cũng có tiêu
xài trong hành Đạo. Nhà nước bây giờ kêu gọi, khuyến khích, đáng lư ra phải coi
đó là thời cơ thuận tiện, sao lại nói đổi đi bất ngờ không ai chăm sóc phải mất
vốn? Lư do nêu lên không vững, có thể tạo sự hiểu lầm đối với chủ trương của nhà
nước.
3.-Điều thứ ba trả lời Trương Ngọc Anh, Ngài nói:
a.-Vẫn biết vật bất ly thân nhưng đáo xứ tùy nhơ, nhập gia tùy tục. Cửa chùa là
nơi thờ phượng tôn nghiêm tín ngưỡng, tôn chỉ của Đạo là bác ái từ bi. Vào đền
thờ mang theo vơ khí giết người ít nhiều cũng vi phạm đức háo sanh của Thượng Đế,
không thích hợp tập quán tôn Giáo. Nói rằng vật bất ly thân, gửi sợ mất, trước
khi vào chùa sao không tính cách nào cho ổn, khỏi đụng chạm ḷng tín ngưỡng của
kẻ khác.
b.-Giày đi đường mang vào đền thờ đương nhiên mang ô uế vào chỗ tôn nghiêm, mất
vệ sinh làm bẩn thỉu, gây phiền toái cho khách hành hương, phiền toái cho thiện
nam tín nữ, cho khách thập phương bá tánh đến sau nhứt là gây nhọc nhằn cho
những người có trách nhiệm bảo tŕ quét dọn.
Vấn đề vơ khí đem vào Thánh Địa th́ khi c̣n tại tiền, Đức Hộ Pháp cấm hẳn. Cấm
đem vào Thánh Địa chớ không phải cấm đem vào Đền Thờ mà thôi. Nhắc lại khi Đức
Hộ Pháp gởi kiến nghị tiếp theo là tối hậu thư, yêu cầu Ngô Đ́nh Diệm cải tổ nội
các với chánh sách độc tài gia đ́nh trị, thêm chủ trương ḱ thị tôn Giáo, thấy
không kết quả, Đức Ngài tuyên đoán thế nào Ngô Đ́nh Diệm cũng dùng quyền lực áp
đảo Đạo. Đức Ngài cho lịnh Công Viện đúc nhiều bảng ciment ghi chữ: “Thánh thị
vô pḥng thủ” cho cắm nhiều nơi quanh vùng Thánh Địa. Đức Ngài cho công bố rộng
răi: Binh lực nào mang vơ khí qua ranh mức cấm bảng tức là vi phạm chỗ tôn
nghiêm, vi phạm tự do tín ngưỡng, là áp đảo tôn Giáo, là khủng bố Đạo. Hội Thánh
có lư do chánh đáng đấu tranh.
Điều tiên kiến của Đức Hộ Pháp quả nhiên thành sự thật. Mấy tháng sau Ngô Đ́nh
Diệm dùng củi đậu nấu đậu, mua chuộc Nguyễn Thành Phương và Lê Văn Tất, ngày 20
tháng 8 năm Ất Mùi 1955 kéo binh bao vây Ṭa Thánh và bao vây Hộ Pháp Đường.
Xét thấy ở vùng mất tự do không làm ǵ được, rạng mùng 5 tháng giêng Bính Thân
1956, Đức Ngài rời Ṭa Thánh tự lưu đài lên xứ Miên nước trung lập để có thể nói
lên tiếng nói tự do dân chủ, đấu tranh quyền lợi cho Đạo. Nhờ vậy mà Ṭa Thánh
Cao Đài Tây Ninh được tôn trọng nhiều năm qua, hưởng quyền lợi bất khả xâm phạm,
giống như Ṭa Thánh Vatican, dầu kẻ sát nhơn chạy vào nội ô, chánh quyền muốn
bắt cũng phải chịu sự đồng ư của Hội Thánh v.v…
Vẫn biết có phần không chính xác lắm nhưng dụng ư của Ngài là suy cổ luận kim.
Có lẻ đoán biết nên vừa dứt lời, cán bộ ngồi phía trên có thể là công an đứng
lên thét to:
-Ṭa Thánh Vatican, người ta đấu tranh là v́ người ta bị mất tự do, c̣n nước ta
đă độc lập, đă thống nhất tự do rồi c̣n đấu tranh ǵ nữa?- Ư kiến đó là ư kiến
của cá nhân không phải là ư kiến của tập thể, không phải là ư kiến của tất cả mà
là ư kiến của một người, ư kiến đó cần được cải tạo.
Hai tiếng “cải tạo” được kéo dài và thét to hơn. Biết là không đúng song tiếc v́
không đủ thông minh, thiếu nhạy bén, Ngài không kịp nói lên phản ứng đến bế mạc
cuộc họp. Tuy vậy Ngài rất bằng ḷng, mỗi khi nhắc lại c̣n thấy hănh diện là đă
làm hài ḷng hầu hết thính giả, bằng chứng là suốt 45 phút thuyết tŕnh, cả hội
trường im phăng phắc không một tiếng động, cũng chẳng một tiếng ho, trái hẳn với
trường hợp trước, luôn luôn có tiếng ŕ rào, nhỏ to bàn tán trong khi những
người khác phát biểu.
Đáng lưu ư, Ngài h́nh dung rơ ràng gương mặt của Trương Ngọc Anh lúc ấy lộ vẻ
bất như ư khác thường, phải chăng bị vạch trần tâm lư nên sượng sùng trước đồng
Đạo. Vợ Trương Ngọc Anh ngồi bên phái nữ phía trên cũng ngóng nh́n Ngài lom lom.
Điều mà Trương Ngọc Anh cay cú hơn hết là trong phiên họp Hội Thánh Lưỡng Đài
nhóm tại giảng đường, Anh cho nhơn viên mang máy ghi âm thâu những lời bàn thảo
của Hội Thánh, Ngài đặt vấn đề với Thánh Vệ và Bảo Thể:
-Tôi thấy từ lúc khai mạc cuộc họp, có người đem máy ghi âm, nh́n qua sắc phục
không phải người Đạo có trách nhiệm không rơ người đó là ai?-Nếu là tư nhơn làm
với mục đích ǵ? Không lẽ chánh quyền đi làm chuyện đó. Việc làm có tính cách
hâm dọa Chức Sắc không cho nói lên tiếng nói trung thực của ḷng. Chánh quyền
của chế độ trước, chắc chắn có đưa công an, mật vụ vào nội ô theo dơi Đạo, người
ta ngụy trang mặc áo dài trắng giống như người Đạo, thiệt đâu đến đổi lộ liễu
trắng trợn như vậy.
Tôi xin đặt vấn đề đối với cơ quan trách nhiệm về trật tự an ninh trong nội ô.
Ai cho người đến ghi âm tại đây? Người đó có tŕnh báo xin phép hay không?
Ngài Bảo Đạo nói:
-Lúc đến có để ghi âm rồi tự nhiên làm không ai cho phép.
Huyện tổ chức lễ trả tự do cho một số Chức Sắc bị tập trung cải tạo hai anh lớn
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn. Hội Thánh được mời: Cửu Trùng Đài, Phước Thiện, Hiệp Thiên
Đài cử đại diện tham dự.
Sau diễn văn của chánh quyền, tới phần phát biểu của Chức Sắc nạn nhân trong
việc cải tạo (diễn văn được soạn trước). Đến cảm tưởng của đại diện Hội Thánh,
Ngài được cử thay mặt. Trong số được thả về thấy thiếu hai anh lớn Nguyễn Văn
Kiết và Nguyễn Văn Hợi, Giáo Sư Thái Long Thanh và Giáo Hữu Anh (Phan Tử Anh)
cùng vài ba người nữa. Ngài nói:
-Hân hạnh có mặt dự lễ, chia sẽ niềm vui với một số Chức Sắc được thả về và để
chứng kiến sự khoan hổng của nhà nước rất phấn khởi đón nhận các bạn Đạo sau
thời gian học tập cải tạo được trở về sum họp với gia đ́nh, về với Đạo, song sự
vui buồn lẫn lộn, bởi số được thả c̣n thiếu mấy người không đầy đủ so với số tập
trung ngày đầu, nhất là thiếu hai anh lớn Nguyễn Văn Hợi và Nguyễn Văn Kiết. Đề
nghị chánh quyền đă khoan hồng th́ cũng nâng mức độ khoan hồng thêm cao hơn tí
nữa, xét cho những vị nầy suốt đời chỉ biết xả thân cho Đạo, ly gia cắt ái phục
vụ nhơn sanh, mọi việc làm đều tùng lịnh Hội Thánh, bênh vực quyền lợi cho Đạo
bên cạnh chánh quyền trước (ư Ngài đề cập đến vụ hai anh lớn được Hội Thánh chỉ
định tham gia Hội Đồng Dân Quân của chế độ Thiệu-Kỳ như chánh quyền Cộng Sản nêu
lư do buộc đi cải tạo). Yêu cầu chánh quyền cứu xét sáng suốt và sớm trả tự do
cho những người c̣n lại để cho niềm vui được trọn vẹn. Những vị ấy hành động
chẳng v́ lợi ích tư riêng cho cá nhân hoặc gia đ́nh…Được vậy, chẳng những các vị
ấy mà cả gia đ́nh họ đều biết ơn chánh quyền, luôn Hội Thánh cũng tri ân nhà
nước. Việc làm nhơn Đạo đó có năng lực kết chặt thâm t́nh cùng sự đoàn kết Đạo
đời giữa chánh quyền và Hội Thánh.
Những lời phát biểu đều được ghi âm. Sau nầy có lần trong phiên họp với Hội
Thánh, Bảy Phú để lời trích điểm Ngài về ư kiến nầy.
Cũng nên ghi lại, lúc đầu, có lẽ chánh quyền nghĩ rằng Ngài cầm đầu Bộ Pháp
Chánh, một cơ quan lớn của Đạo nên mời họp chung với Chức Sắc lớn. Sau phiên họp
tại nhà Hiền Tài Dương Minh Nghĩa, chánh quyền hạ cấp Ngài cho họp chung với
hàng Giáo Sư trở xuống thôi, bởi ư kiến của Ngài không phù hợp với chủ trương
của nhà nước, nhứt là nhiều lần Ngài phản đối:
-Chánh quyền muốn ǵ xin ra lịnh…đừng xúc phạm đến những bậc mà chúng tôi tôn
kính.
Chưa ghi hết những ư kiến của Ngài qua nhiều phiên họp nội bộ của Đạo, giữa Hội
Thánh Lưỡng Đài, Ngài xin tóm lược câu chuyện như sau:
Sau 3 ngày đêm lục soát Hộ Pháp Đường, chánh quyền thấy tin thần bổn Đạo giao
động, bị thất chánh trị, buộc Hội Thánh ra thông tri trấn an. Bản thảo do Hội
Thánh Cửu Trùng Đài Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Triệu Thanh soạn thảo, đem đọc
giữa phiên họp Hội Thánh Lưỡng Đài tại Giáo Tông Đường. Không ai có ư kiến ǵ kể
như mặc nhiên tán đồng. Ngài phát biểu:
-Có hai điểm đáng nói là thể văn và ư văn.
Mỗi người có lối hành văn khác nhau tôi thấy không có ư kiến ǵ về thể văn của
bản thông tri do Hiền Huynh Ngọc Chánh Phối Sư soạn đọc. Riêng về ư văn, tôi đề
nghị bỏ mấy chữ: “Chánh quyền rất tôn trọng chỗ tôn nghiêm và tôn trọng tự do
tín ngưỡng” để tránh sự phê pháng của nhơn sanh.
Hiền Huynh Ngọc Triệu Thanh mạnh dạng bảo thủ, phần đông không có ư kiến. Ngài
Bảo Đạo và Ngài Ngọc Đầu Sư trên bàn đồng chủ tọa cũng giữ im lặng. Hiền Huynh
Ngọc Triệu Thanh nói:
-Tôi nói người ta tôn trọng chỗ tôn nghiêm, bằng cớ người ta xét bàn thờ, muốn
dở chơn đèn lên, người ta không dám dở, bảo ḿnh dở cho người ta xem. Như vậy
không phải tôn trọng chỗ tôn nghiêm sao?
Ngài phản đối:
- Nếu biết tôn trọng chỗ tôn nghiêm, tôn trọng tự do tín ngưỡng th́ không có vụ
lục soát Hộ Pháp Đường suốt ba ngày ba đêm. Sao không thấy rằng, muốn lục soát
người ta không cần mất công, bảo ḿnh dở chơn đèn cho người ta xét. Sai ḿnh
chơi coi có được không? Sao không thấy điều đó lại nói là tôn trọng?
Chỉ xin xóa mấy chữ mà không được. Hiền Huynh Ngọc Triệu Thanh cố bảo thủ, tranh
luận hơn nữa tiếng đồng hồ trong khi toàn hội Ngài Bảo Đạo và Ngài Ngọc Đầu Sư
im lặn ngồi nghe.
Ngài bất b́nh nhận thấy Ngọc Triệu Thanh cương quyết tự biến ḿnh làm công cụ
cho thiên hạ buộc ḷng Ngài kết luận:
-Nảy giờ chỉ có vấn đề nhỏ mọn làm mất ngày giờ của Hội Thánh, tôi không nói rơ
hết ư của tôi có thể sanh nhiều bất lợi cho bản thân. Trường hợp kéo dài, tôi
vui vẻ chấp nhận mọi hậu quả để làm phận sự Hiệp Thiên Đài của tôi. Sở dĩ tôi
xin bỏ mấy chữ đó là v́ tôi muốn trong thế hệ tương lai và hiện tại, nhơn sanh
sẽ khôn lên án những người có trách nhiệm cầm giềng mối Đạo trong giai đoạn nầy,
không đủ can đảm làm phận sự, không nói lên sự thật c̣n chạy theo đuôi của thiên
hạ…
Chỉ có tiếng nói của Ngài duy nhứt bất đồng thành thử đa số giành phần thắng lợi
theo Ngọc Triệu Thanh.
Lần khác, Hội Thánh Lưỡng Đài họp tại Giáo Tông Đường, Ngài Khai Đạo nêu lên lư
do bàn thảo: Nên giao Viện Đại Học Cao Đài cho chánh quyền hay không? Ngài xin
có ư kiến:
-Được nghe trong phiên họp vừa qua tại Sài G̣n, các Viện Trưởng Viện Đại Học
trong nước đều bằng ḷng giao Viện Đại Học của ḿnh cho nhà nước. Ngài Khai Đạo
cũng đă kư tên thuận giao Đại Học Cao Đài cho chánh quyền rồi, nay họp để bàn
thảo tức là đặt Hội Thánh trước việc đă rồi và hợp thức hóa quyết định của Ngài
Khai Đạo mà thôi.
Ngài xin không có ư kiến trong vụ nầy.
Tuy nói vậy song qua sự thảo luận của Chức Sắc Lưỡng Đài, tin thần cầu an chủ
bại đều có trong mỗi đơn vị Thánh thể, riêng Ngài cương quyết đề nghị:
-Nhà nước có quyền cứ lấy, Hội Thánh không giao…
Ư kiến của Ngài cô độc, duy nhứt, lẻ loi, tuy nhiên việc chưa ngả ngũ kế đến giờ
xă hơi, Ngài Bảo Đạo kêu nói nhỏ với Ngài:
-Qua khuyên em thôi đừng cải nữa, để giao yên cho rồi. Nếu không, chánh quyền
c̣n bươi bươi móc, sanh rối nhiều hơn…
Ngài đáp:
-Ngài dạy tôi xin tuân, nhưng việc làm không đúng với tin thần lời dạy của Đức
Hộ Pháp lúc sanh tiền…
Trong phiên họp nầy có hai điều đáng lưu ư:
1.-Cuộc họp đang diễn biến sôi nổi, Ngài Khai Đạo than nhức đầu, cáo thối về
nghỉ và chiều lại qui vị luôn.
2.-Đang phiên họp, Trương Ngọc Anh xâm xâm từ ngoài bước vào. Ngài Khai Đạo,
Ngài Bảo Đạo và Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh trên bàn đồng chủ tọa lo tiếp
Trương Ngọc Anh. Cuộc họp mặc nhiên ngưng bàn thảo. Ngài nh́n thấy Ngài Đầu Sư
ngoắc Bảo Thể và rỉ tai nói nhỏ. Ngài đoán hiểu vội rời ghế ngồi để vào pḥng
trong, vừa gặp viên Bảo Thể từ ngoài bước vào. Ngài hỏi:
-Ngài Đầu Sư nói ǵ với chú? Có phải Ngài bảo chú nhắc ghế cho Trương Ngọc Anh
ngồi phải không?
-Dạ phải.
-Chú khỏi nhắc, việc ǵ phải nhắc?-Đang phiên họp của Hội Thánh mà Trương Ngọc
Anh đi vào như chỗ không người, không chút lịch sự tối thiểu! Trương Ngọc Anh là
cái ǵ mà phải nhắc ghế mời ngồi?
-Ngài Đầu Sư bảo.
-Tôi chịu trách nhiệm, chú khỏi mắc công, Ngài Đầu Sư có quở tôi sẽ lănh chịu
thay chú.
Ngài trở lại chỗ ngồi c̣n viên Bảo Thể lánh mặt luôn trong pḥng, không dám bước
ra sợ bị quở.
Trương Ngọc Anh nói chuyện một hồi rồi ra về. Cuộc họp lại tiếp tục. Ngài có ư
kiến:
-Thông thường mỗi cuộc họp của Hội Thánh đều có Bảo Thể giữ trật tự, hôm nay có
người vào sao Bảo Thể không thông báo, để người ta ngan nhiên vào như chỗ không
người. Ai chịu trách nhiệm về trật tự trong phiên họp nầy, yêu cầu giải đáp để
toàn hội được hiểu.
Ông Giáo Sư Thượng Lũy Thanh thủ lănh Bảo Thể lên tiếng:
-Ông Trương Ngọc Anh là Thừa Sử Hiệp Thiên Đài mà cũng là cán bộ nhà nước, mấy
em Bảo Thể đâu dám cản.
Ngài tiếp:
-Nếu nói là Thừa Sử th́ cũng nên nói rơ là Thừa Sử mất chức mới đủ nghĩa. C̣n
nói là cán bộ nhà nước, muốn vào cũng phải thông báo, coi chủ tọa có thể ngưng
phiên họp đặng tiếp khách hay không đó là phép lịch sự tối thiểu cần phải có.
Nếu là cán bộ th́ phải biết nhiều hơn người thường, biết giữ lễ độ lịch sự, chớ
là cán bộ muốn làm ǵ làm sao?-Ngang nhiên như vào chỗ không người! yêu cầu chủ
tọa đoàn có biện pháp với những người vô trách nhiệm trong phận sự.
Ông Giáo Sư Lũy có ư trách Ngài khó khăn với đàn em, riêng Ngài Bảo Đạo hiểu ư
Ngài muốn trách Trương Ngọc Anh không biết phép lịch sự, Ngài chỉ cảnh cáo anh
em Bảo Thể sơ xài mà thôi.
Ngài biết rằng Chức Sắc có mặt dự hội, một số muốn cầu an nghiên ngă theo Trương
Ngọc Anh sẽ tường thuật việc nầy cho Anh nghe để cầu thân cầu thế. Mục đích của
Ngài muốn cho Trương Ngọc Anh nghe biết đặng sửa ḿnh bớt hách dịch làm thất
nhơn tâm.
Lúc bấy giờ nói đến cán bộ, ai cũng ngán sợ, Trương Ngọc Anh là dân biểu Quốc
Hội nhà nước, Chức Sắc nể sợ cũng hữu lư !!!
Nhắc tới Trương Ngọc Anh Ngài nhớ một việc sau ngày 30-4-1975, Anh ỷ ḿnh là cán
bộ nhà nước, tự do mặc sắc phục Hiệp Thiên Đài và mang sắc lịnh đến Đền Thánh,
trong khi chờ đợi giờ nhập đàn. Ngài thấy trái vội báo cho hai ông Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn Nguyễn Văn Hợi và Nguyện Văn Kiết để có thái độ. Hai ông tự thấy khó nói
bởi không có phận sự chánh thức, Ngài đến bàn với ông Hộ Đàn Pháp Quân Đỗ Công
Khanh:
-Anh Tư, Trương Ngọc Anh là Thừa Sử mất quyền chức, tại sao lại ngan nhiên mặc
sắc phục Hiệp Thiên Đài vào cúng mà c̣n mang sắc lịnh nữa? Hộ Đàn Pháp Quân có
nhiệm vụ phải ǵn giữ trật tự theo nghi thức cúng kiến trong Đền Thánh . Anh nên
lưu ư y ta làm đúng luật pháp Đạo.
-Tôi làm ǵ được, chú? Trương Ngọc Anh có xin phép Ngài Hiến Pháp rồi, tôi nói
ǵ bây giờ? Ngài Hiến Pháp c̣n cho nó lên giảng đài nói Đạo nữa:
Ngài bất b́nh vội đến tŕnh với Ngài Khai Đạo:
-Thưa Ngài, Trương Ngọc Anh là Thừa Sử mất quyền chức, tại sao lại ngan nhiên
mặc sắc phục Hiệp Thiên Đài và mang sắc lịnh vào Đền Thánh ?-Xin Ngài có biện
pháp ngăn chặn để tránh điều dư luận trong Đạo.
-Em thử nghĩ ḿnh làm sao bây giờ? Người ta đă làm cán bộ nhà nước muốn làm ǵ
tự do làm, ai ngăn cản được? Em thấy không? Ngay trong nội ô Ṭa Thánh, xe cộ có
cả xe nhà binh chạy lung tung. Đạo đâu c̣n quyền nữa.
-Thưa Ngài, xe cộ chạy trong nội ô, Đạo không can thiệp được bởi họ cho là lộ
công cộng đă đành, c̣n ngay trong Đền Thánh, Đạo chưa mất quyền, vẫn phải giữ
quyền của Đạo theo nguyên tắc và luật pháp. Nhà nước không có quyền xâm phạm,
cán bộ cần phải ǵn giữ bổn phận tư cách hơn nữa mới phải…Nói ai cũng có thể vào
Đền Thánh làm ǵ th́ làm th́ rơ ra là rối loạn, c̣n ǵ tôn nghiêm?-C̣n ǵ là Đạo
nữa-Ngài là Chưởng Quản Pháp Chánh, xin Ngài có thái độ.
Thấy Ngài Khai Pháp im lặn, Ngài tưởng tự sự như vậy là được buông trôi. Ngài
rất buồn nản và tự an ủi rằng dù sao Ngài cũng làm hết bổn phận của một Chức
Sắc tiều cấp Hiệp Thiên Đài. Không c̣n cách nào hơn đối với phận nhỏ nhoi thấp
hèn của ḿnh!!!
Một chúc sau chẳng biết nghĩ thế nào, bất ngờ Ngài Khai Đạo kêu hỏi Trương Ngọc
Anh, Ngài đứng gần được nghe:
-Em vào cúng mặc sắc phục Đạo sao c̣n mang sắc lịnh Đạo nữa?
Trương Ngọc Anh bất măn trả lời:
-Sắc Lịnh nầy của Đức Thượng Sanh ban cho tôi, tôi mang đi cúng chớ sao.
-Ai ban cho cũng vậy, em nh́n coi đàn anh của em như ông Hợi, ông Kiết, Tiếp Dẫn
Đạo Nhơn vào cúng có ai mang sắc lịnh đâu?
Trương Ngọc Anh sừng sộ nói:
-Ngài nói vậy tô trả sắc lịnh cho Ngài đó.
Vừa nói vừa lột sắc lịnh quăng xuống gạch, cạnh chơn nơi ngôi Thượng Phẩm đúng
lúc trống đánh bắt đầu giờ cúng. Sau khi Chức Sắc Hiệp Thiên Đài nhập nội đănh
lễ xong bước trở về vị trí cũ, Trương Ngọc Anh bước lên giảng đài huênh hoang
nói Đạo. Hănh diện đề cao cá nhân, nêu lên thành tích tham gia đánh đuổi thực
dân v.v…và không quên phô trương công lao với Đạo.
Buồn cười cho cách làm việc của chánh quyền mới. Một hôm du kích xách súng đến
nhà nói mời xuống xă có việc. Ngài đến nơi thấy có Hiền Huynh Thái Hiểu Thanh,
Quyền Thái Chánh Phối Sư, Hiền Huynh Cải Trạng Lê Minh Khuyên vả Nguyễn Thành
Tất cùng vài người Đạo. Một chập sau cán bộ xă đến, bắt đầu làm việc.
Ngài hỏi xă mời có chuyện chi? Cán bộ trả lời cho biết mời để làm chứng cho vụ
tranh chấp đất phố ở Long Hoa mà Ngài là chủ ṭa xử án, có đơn khiếu nại. Ngài
bất b́nh:
-Tại sao lại có chuyện đó? Mời đến để làm chứng? tôi biết cái ǵ để làm chứng.
Trong Đạo bao nhiêu công việc, c̣n Pháp Chánh Trị An không phải tôi xử có một vụ
mà tôi phải nhớ. Xă muốn biết viết thơ hỏi, tôi cho soạn hồ sơ, đọc xong mới
biết trả lời. Mời bất ngờ tôi biết cái ǵ để nói? Tôi thấy sự có mặt của tôi hôm
nay vô tác dụng. Nếu xă muốn biết, viết thơ hỏi, tôi trả lời sau. Thôi tôi xin
kiếu.
Cán bộ yêu cầu nán lại một chút, lấy bản án của Pháp Chánh Trị An ra đọc rồi xin
Ngài có ư kiến. Ngài nói:
-C̣n ư kiến ǵ nữa, ư kiến của tôi đă ghi rơ trong bản án rồi. Có kư tên đóng
dấu hẳn hoi. Mấy ông biết về mặt tư pháp, đời cũng vậy, Đạo cũng vậy, một khi
ṭa tuyên án rồi th́ không c̣n sửa đổi, không có ư kiến thêm bớt ǵ nữa. Bị can
không thỏa măn được quyền khiếu nại lên ṭa trên, thế thôi. Bây giờ chánh quyền
muốn xử lại, xử sao tùy ư, muốn biết ư kiến của tôi, xin xem bản án là đủ. Như
vậy sự có mặt của tôi thấy vô ích, không cần thiết.
Tôi tưởng việc ǵ quan trọng, ai tố cáo tôi cái ǵ nên du kích xách súng tới nhà
mời xuống xă liền. Thấy du kích mang súng tới, anh em láng giềng tưởng tôi bị
bắt, đến thăm. Mấy ông làm vậy coi được không?
Cán bộ xă xin thông cảm v́ du kích không biết. Ông Khuyên an ủi:
-Anh về không làm ǵ, thây kệ ở nán một chút nữa…
Ngài trả lời:
-Không làm ǵ cũng về, nó làm mất mặt Hội Thánh, chuyện ǵ mà mời Hội Thánh
xuống xă? Thái Chánh Phối Sư, Cải Trạng cũng bị mời để làm chứng cho xă sửa lại
vụ án mà Pháp Chánh Trị An đă phán quyết.
Trong vụ nầy có điều mờ ám trong văn pḥng phái Thái, ông Thái Hiểu Thanh không
thi hành sang bộ đất theo bản án của Pháp Chánh Đạo Hữu Nói thất kiện, chạy chọt,
vận động lo lót, Cẩm Vân (không nhớ rơ tên ông Lễ Sanh có sạp bán vải Cẩm Vân)
người thua kiện, ức ḷng thưa nhờ quyền đời giải quyết.
Nhắc đến văn pḥng phái Thái, Ngài nhớ lại vụ bất đồng ư kiến giữa Ngài Bảo Đạo
Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài với Ngài trên cương vị cầm quyền Bộ Pháp Chánh, cũng
v́ ông Thái Hiểu Thanh.
Ngài phát giác vụ Thái Hiểu Thanh giả tạo hai toa vé sửa xe Hội Thánh, rút tiền
Đạo bỏ túi riêng, trên một trăm ngàn đồng (giá trị đồng tiền lúc bấy giờ rất cao).
Ngài ghi rơ số phiếu xuất, ngày, tháng, năm cả số tiền xuất tŕnh lên Ngài Bảo
Đạo. Ngài chuyển qua Cửu Trùng Đài, Cửu Trùng Đài nhóm Hội Thánh thâu hẹp. ông
Thái Hiểu không chối được, buộc ḷng phải nh́n nhận sự thật, được Hội Thánh Cửu
Trùng Đài giải quyết thông qua, c̣n ban rộng thêm quyền, thay v́ trước kia Quyền
Thái Chánh Phối Sư chỉ được kư phiếu tối đa là năm chục ngàn đồng (50.000$) nay
tăng lên năm trăm ngàn (500.000$) gấp 10 lần hơn. Vi bằng giải quyết gởi tường
Hiệp Thiên Đài, Ngài Bảo Đạo sao rồi gởi cho Pháp Chánh, mặc nhiên bằng ḷng,
lại c̣n định giao Hiệp Thiên Đài cho ba Đầu Sư cầm quyền thống nhứt luôn. Ngài
không tán thành:
1.-Vụ ông Thái Hiểu Thanh:
a.Yêu cầu Ngài Bảo Đạo căn thẳng luật pháp, đ̣i trả hồ sơ nội vụ lại Hiệp Thiên
Đài. Hiệp Thiên Đài phát giác sự việc Cửu Trùng Đài không được quyền phủ quyết.
Người có trách nhiệm ǵn giữ tài sản của Đạo mà rút rỉa chiếm đoạt tài sản của
công, làm sao giữ được?
b.Dầu rằng sự vô t́nh nhưng khách bàn quan có thể hiểu là một sự thách thức của
Cửu Trùng Đài đối với Hiệp Thiên Đài bởi v́ việc lem nhem bị phát giác, đă không
có biện pháp trái lại c̣n tăng quyền cho thủ phạm gấp 10 lần hơn. Việc vô t́nh
không thể chấp nhận được.
2.-Vụ quyền thống nhứt cho ba Đầu Sư.
Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài do Đức Hộ Pháp ban cho không được tự do lấy cho
người khác. Ba Đầu Sư cầm quyền thống nhứt khi nào có sự phản trắc quyền hành,
bất đồng giữa Giáo Tông và Hộ Pháp, không giải quyết được. Cả hai đồng ư giao
cho Đầu Sư, chừng đó Đầu Sư mới được quyền.
Ngài Bảo Đạo nhận thấy tự ái, bị xúc phạm, viết thơ trách Ngài: “Dạy khôn Ngài
quá lớn hơn cả các anh lớn dạy…!!!”
Ngài thấy tương lai của Đạo quá mờ tối, lấy làm ưu sầu phiền muộn vô cùng, chẳng
biết làm sao t́m lối thoát. Tiếp theo được tin có cuộc hội thảo Lưỡng Đài. Ngài
viết thơ xin ghi vào chương tŕnh nghị sự vụ ông Thái Hiểu Thanh. Ngài Bảo Đạo
giữ im lặn, ngày họp đă cận kề. Ngài bàn với anh em:
-Vấn đề của ông Hiểu là quan trọng mà không ghi vào mục chánh của chương tŕnh,
không lẻ ḿnh yêu cầu giải quyết theo mục linh tinh làm giảm giá trọng của Pháp
Chánh . chờ qua phiên họp, Pháp Chánh sẽ yêu cầu triệu tập Hội Thánh Hiệp Thiên
Đài, tŕnh bày vấn đề coi Ngài Bảo Đạo giải quyết ra sao rồi sẽ có cách khác,
hoặc đưa ra Hội Thánh Lưỡng Đài hoặc đề nghị đưa ra Pháp Chánh Thượng Phẩm Hiệp
Thiên Đài xét xử.
Nhơn viên Pháp Chánh tán thành ư kiến của Ngài.
Trong phiên họp Hội Thánh Lưỡng Đài, có lẽ do sự yêu cầu nhắc nhở của Ngài Đầu
Sư Ngọc Nhượn Thanh, Ngài Bảo Đạo cho Bảo Thể mời Ngài đến nói riêng:
-Qua khuyên em không nên nêu vụ ông Thái Hiểu Thanh trong cuộc họp nầy…
Đă dự tín trước, Ngài đáp:
-Xin vâng.
Việc chưa ngă ngủ, bất ngờ Ngài bị bắt đi tù trên 5 năm. Ngài nghĩ rằng việc ông
Thái Hiểu Thanh được giải quyết sớm, vấn đề cải tạo tôn Giáo của chánh quyền
Cộng Sản có thể diễn biến khác hơn nghĩa là không có sự hổ trợ, cộng tác đắc lực
của ông Thái Hiểu Thanh tiếp tay cho chánh quyền.
5.NHỮNG THÁNG NGÀY Ở
TRONG KHÁM ĐƯỜNG
Trở lại việc ở trong tù.
Ngài bị đưa vào buồng 2 khám đường suốt 2 tuần lễ, công an không điều tra xét
hỏi. Ngày nào cũng lai rai hai người công an ưu ái đưa tới, số tù nhân ngày càng
thêm đông, các buồng thêm chật. Bữa mới vào buồng 2 có 14 người, hai tuần sau
tăng lên 20, chưa tính các buồng khác, tổng cộng 20 chục buồng lớn nhỏ. Đa số là
người Đạo ở vùng Long Hoa.
Mấy người bị bắt sau vô chung buồng 2 cho biết có xe ống loa truyền tin chạy
trên các lộ vùng Long Hoa, liên tiếp hai, ba bữa, thông báo đă bắt được mấy tên
trùm C.I.A, nghe có tên Nguyễn Ngọc Trân, mấy tên khác không nhớ. Ngài có phần
nghi ngờ, nhưng sau nầy được trả tự do, Ngài nghe bạn hôn phối Ngài Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn Nguyễn Văn Hợi xác nhận, kể rằng:
-Sự thật xe đậu trước nhà chị trước ngày em bị bắt, loa hướng vào sân nói to:
“Hai tên Nguyễn Văn Hợi và Nguyễn Ngọc Trân, trùm C.I.A (Gián điệp Mỹ) bị bắt”.
Ngộ nghĩnh là không đá động anh Tư Kiết. Nói đi lập lại một hồi khá lâu, xe mới
chạy đi.
Một hôm, cán bộ kêu làm việc, bảo làm sơ yếu lư lịch và bản tự khai, nêu lư do
tại sao bị bắt. Ngài nói:
-Tôi không có tội ǵ hết, biết ǵ để khai, cán bộ thấy tôi có tội cứ hài ra.
Cán bộ Út Ga nói:
-Để anh tự khai coi anh có tự giác hay không, anh cứ viết, có ǵ nói hết.
Ngài viết:
-Tôi không làm sai trái với chánh quyền, không vi phạm luật pháp nhà nước. Về
mặt Đạo tôi rất ngay thẳng, không lấy phải làm trái, không sửa trái ra phải, lắm
khi không thỏa măn bản tính cá nhân của anh em trong Đạo, thành thử cũng có kẻ
thương người ghét, thương th́ thương chí t́nh, ghét th́ cũng ghét sâu đậm. Nếu
có ai tố cáo th́ chẳng qua dựng đứng câu chuyện.
Ngài đoán là do đơn tố cáo của Giáo Sư Ngọc Tuất Khanh. Mà thật đúng vậy, trước
ông Tuất đă đặt điều bôi lem nay c̣n tố cáo ra chánh quyền. Làm việc lần sau,
cán bộ có hỏi sơ qua theo điều Tuất đă tố. Việc đó không quan trọng, Ngài nghĩ
công an căn cứ vào mấy câu sau đây để kết tội cám dỗ, khuyên dụ cán bộ. Ngài
chấp nhận, vui vẻ viết lên bởi đặt sát chân tường c̣n sợ ǵ nữa? Ngài viết:
-Ngoài ra tôi cố t́nh xây dựng Trương Ngọc Anh và Bảy Phú, giúp họ vẫn c̣n là
bạn tốt của tôi, không để họ mang tiếng “Bội sư phản Đạo”. Một kẻ đă từng ăn hột
cơm của Đạo mà lớn, học trường Đạo mà khôn, c̣n một kẻ cũng đă từng ăn hột cơm
của nhơn sanh, nhận tiền Hội Thánh đi hành Đạo mà lại phản…Tôi cũng xin lưu ư
chánh quyền rằng những kẻ đă phản người nầy được th́ sẽ phản người khác được…
Ư Ngài nói Trương Ngọc Anh và Bảy Phú phản Đạo theo chánh quyền. Ngày nào có
người cho danh vọng quyền lợi khá hơn, họ sẽ phản chánh quyền để theo chủ mới.
Chưa thỏa măn, lần sau Út Ga kêu làm bản tự khai tiếp, vẫn giữ lập trường, Ngài
c̣n thêm câu kết luận như sau:
-Tôi đang cầm đầu Bộ Pháp Chánh, một cơ quan lớn của Đạo, vô cớ chánh quyền bắt
tôi. Chánh quyền nên cứu xét sớm trả tự do lại cho tôi, càng sớm càng tốt, để
cứu văn phần nào sự đoàn kết giữa chánh quyền và tôn Giáo.
Về buồng giam, Ngài thuật lại cho Đại Úy Nghĩa và Trung Tá Kỳ nghe cười chơi:
-Cán Bộ kêu tôi làm việc, tôi ra lệnh cho chánh quyền sớm trả tự do cho tôi,
càng sớm càng tốt, mà Út Ga xem xong xếp làm tư rồi xé, nhưng tờ giấy xé chưa
đứt ĺa quăn xuống đất và đuổi tôi về. Tôi biết, họ làm bộ xé nhưng có ư tŕnh
cho cấp trên xem, không xé ĺa là vậy.
Hồ sơ ngâm tôm không nói tới, Ngài được yên ở trong buồng cả tháng sau mới kêu
làm việc tiếp. Lần nầy thay cán bộ, không phải Út Ga nữa, hỏi theo cáo trạng của
Giáo Sư Tuất.
Chẳng biết nghe ai nói hay Giáo Sư Tuất toàn đặt ra những điều vu khống vô căn
cứ, chẳng hạn nói: Ngài làm việc cho Tây, bợ chủ ăn hiếp công nhân…Ngài nói với
cán bộ:
-Suốt cuộc đời hành Đạo của tôi, nếu cho rằng khuyết điểm th́ tôi chỉ có một
khuyết điểm duy nhứt là không đem t́nh cảm xen lẫn vào nhiệm vụ, không thể lấy
trái làm phải hay đổi phải ra trái, thành thử không vừa ư hết mọi người, do đó
có kẻ thương người ghét. Thương th́ thương cũng nhiều mà ghét th́ ghét cũng dữ.
Những điều tố cáo đó chẳng qua là bị ảnh hưởng của sự thương ghét cá nhân thường
t́nh mà thôi, rồi đặt điều dựng đứng…không phải tự hào, thật ra công nhân đồn
điền Chup coi tôi như thần tượng. Nói như vậy không phải quá đáng, ngày tôi đổi
đi có người khóc và tỏ lời luyến tiếc.
Cán bộ hỏi thêm có biết cô Thanh làm chung sở không? Ngài suy nghĩ măi nhớ chẳng
có cô nào tên Thanh cả. Cán bộ nói Thanh hay Thành dạy học. Ngài trả lời:
-Đúng là chị Thành, làm cô Giáo dạy ở Péemchéang, cách Chup 15 cây số.
Cán bộ cười rồi xếp tờ tố cáo của Giáo Sư Tuất qua một bên.
Sau ngày được trả tự do năm 1982, khi dự đám giỗ của Giáo Hữu Thượng Liền Thanh,
ngồi chung bàn ăn 10 người, có mặt Giáo Sư Ngọc Tuất Thanh và Sĩ Tải Nguyễn Minh
Ngời, Ngài vui vẻ thản nhiên thuật câu chuyện làm việc với cán bộ cho Giáo Sư
Tuất nghe. Trước đông người trong bàn tiệc, Giáo Sư Tuất ngỡ ngàn chữa thẹn bằng
câu:
-Nếu tôi không nói, sau người ta cũng biết.
Lúc về buồn giam, Ngài nhớ lời Đức Đại Từ Phụ dạy: “Thầy làm ra mặt các con coi”.
Chưa đầy 2 năm từ ngày Cộng Sản nắm chánh quyền, đa số đều bị lộ nguyên h́nh,
trong cửa Đạo cũng vậy, ngoài đời cũng vậy, trong khám đường lại c̣n rơ rệt hơn.
Người có tác phong hay ti tiện thấp hèn, chơn tướng được phơi bày, mọi người đều
thấy rơ.
Qua tết 1977, cán bộ Quản Giáo Mười Chẹn vào buồng sinh hoạt v́ Lạc là cháu rễ
kêu Ngài Thái Hào Thanh bằng ông Ngoại, trước là Thơ Kư Viện Đại Học Cao Đài, tố
cáo Ngài với Trung Tá Kỳ, Trưởng Ty An Ninh Quân Đội của chế độ trước, nói rằng
tôn Giáo cấu kết với ngụy quân…
Thật là cơ hội tốt có lư do chánh đáng để cán bộ thực thi chánh sách, không cần
đúng hay sai, có người tố là đủ. Ngài bị nhốt cho nằm ở góc buồng ít thoáng khí
hơn. Mấy tuần sau bị đưa luôn vào cachet 2mx2,5m buồng tối số 14, lại được ngủ
giường sắt, ở đơn độc một ḿnh.
Ngài xin gặp giám thị trại giam, cán bộ Tư Chưởng, Ngài nói:
-Cán bộ vui ḷng cho biết lư do v́ sao tôi bị đưa vào cachot.
Tư Chưởng nói:
-Có người bảo anh lập Đảng…
Ngài cười khểnh:
-Ngoài đời tôi đủ điều kiện mà chẳng nghĩ danh lợi, suốt đời chỉ biết tu hành,
vào đây khép kín trong 4 bức tường chật hẹp mà đi lập Đảng, cũng hay, thôi được
cán bộ cho tôi ở luôn trong cachot, một ḿnh thôi đừng cho ai vào nữa hết, một
ḿnh tôi thôi tôi thấy thích hợp với tôi. Tuổi già cần được yên tỉnh, khỏi bị
quấy rầy, hơn nữa gần gũi chung lộn với nhiều thành phần như vậy, sẽ c̣n nhiều
chuyện xảy ra nữa.
Ngài đoán hiểu ra là do tên Bảy báo cáo dối. Bảy làm mật báo cho cán bộ, đă lâu
ở buồng 2 ai cũng biết, thường ngày học tiếng Miên (học lén) mà học nói những
câu: “Người giàu khinh rẻ người nghèo”. Tội nghiệp cho những người nghèo buồn
tủi, không được gia đ́nh thăm nuôi mặc cảm sợ người có thăm nuôi khinh rẻ. Ngài
khuyên Bảy nên học nói những câu khác. Vài ba lần nhắc nhở, Bảy không chừa bỏ,
vẫn tiếp tục nói, Ngài nhắc thêm:
-Chú cứ nói câu đó, anh em nghèo sẽ có ấn tượng không hay đối với người có thăm
nuôi, mất t́nh cảm, bất lợi v.v…
Chỉ có thế mà Bảy tự ái, cố oán trả thù, đúng như Thánh Nhơn có dạy: “Hạ phẩm
chi nhơn Giáo diệt bất thiện” là vậy;
Cán bộ Cộng Sản thường đa nghi và dễ tin.
Ngài nói với Tư Chưởng:
-Tôi có điều tŕnh với cán bộ, với quyền hạn và trách nhiệm sẵn có. Xin vui ḷng
nghĩ đến một số anh em tù đang thiếu dĩa lănh cơm, thiếu muỗng ăn cơm. Mỗi bữa
trải bao nylon để lănh cơm và ăn bóc, bằng không chờ anh em khác ăn xong mới
mượn muỗng được. Có người cho, có người không cho.
Tư Chưởng hứa và giữ đúng lời, ba bốn hôm sau có đĩa nhôm, muỗng nhôm phát bổ
túc cho tù.
Điều thứ 3, Ngài xin gặp cán bộ chấp pháp. Tư Chưởng hứa. Chiều lại, cán bộ chấp
pháp kêu ra làm việc, hỏi Ngài xin gặp với mục đích ǵ? Ngài hỏi:
-Cán bộ cho biết quí danh.
-Không cần thiết lắm, anh muốn ǵ cứ nói.
-Tôi đang tu hành, cầm đầu Bộ Tư Pháp Đạo, bị bắt mấy tháng nay, làm việc không
rơ ràng ǵ hết. Tôi xin gặp Trưởng Ty Công An để hỏi lư do nào bắt tôi. Tội ǵ
mà bắt?
-Chưa được.
-Nếu không cho tôi gặp, xin cho tôi giấy viết hỏi.
-Anh có ư kiến bấy nhiêu thôi phải không?-Thôi anh về nghỉ, tôi sẽ tŕnh ư kiến
của anh lên cấp trên.
Thế là Ngài trở lại cachot, thừa biết cán bộ hứa suông cho qua vậy thôi, chắc
không báo tŕnh ǵ cả. Ngài nghĩ rằng: Đúng chỗ nói phải nói, với Cộng Sản không
kết quả ǵ.
Khoảng năm bảy hôm sau, không biết Tư Chưởng nghĩ thế nào, sắp xếp đưa Ngài qua
buồng mới, buồng 12 cũng pḥng hẹp 7m x 3m, kê hai giường cây, một cho Ngài và
một cho Bác Sĩ Na (Giám Đốc bệnh viện Tây Ninh bị bắt về tội tham nhũng), thêm
4, 5 anh em khác nằm dưới nền xi măng.
Nếp sống có đỡ hơn, có ánh sáng hơn, song chung lộn với nhiều thành phần không
tránh khỏi điều ô hợp, gây sóng gió triền miên.
Một bữa nọ nghe buồng 13 có tiếng than:
-May nầy tới ngày chay, không có ǵ để ăn chay hết, phải ăn muối rồi.
Đó là 2 nữ tù nhân con nhà Đạo ở vùng Long Hoa (vụ án chánh trị). Thương cảm
người chung cảnh tủ đày c̣n giữ đức tin với Đạo, Ngài nhờ một em nhỏ ở tù chung
buồng, thảy tàu hủ và cải bắp qua cho. Hai buồng chung vách, tường xây cao
khoảng 3m, trên đang kẽm gai pḥng việc trốn trại, nhờ vậy có thể chuyển đồ qua
lại được, có người báo cáo, cán bộ chuyển Ngài qua buồng 11 đặt giữa buồng 8 và
buồng 9, không được nằm giường mà phải hạ thổ nền xi măng, cũng diện tích 3m x
7m, buồng chứa những 7 người, vừa đủ chật chưa phải nằm nghiêng, cũng phải chịu
thôi.
Cũng v́ lư do nầy, cán bộ sinh hoạt đối đáp qua lại, rồi khép Ngài vào tội chống
đối nội qui, vi phạm nội qui, cấm thăm nuôi 4 tháng. Thân nhân ở nhà không biết,
mang thức ăn tới trong ngày thăm nuôi bị đuổi về c̣n nói:
-Cho ông già đó ăn làm chi cho uổng, cho ăn đặng chống đối nhiều.
Thông thường mỗi tháng thân nhân gởi thức ăn vào, không gặp mặt, thế mà trong 4
tháng cấm, Ngài gặp mặt 2 lần, trong 2 lần gặp mặt nhận đồ thăm nuôi đầy đủ.
Nhắc lại phiên họp tại nhà Hiền Tài Dương Minh Nghĩa. Lúc xă hơi, Đặng Văn
Thượng làm thân hỏi Ngài có phải tên Trân không? Rồi nh́n nhau là bạn học cũ học
trường tiểu học Đức Ḥa, vấn an sức khỏe và thăm hỏi gia đ́nh.
Thuở ấu thơ ba anh em Ngài: Ân, Lương, Trân ở trọ ăn cơm tháng ớ nhà ông Tư Muốn,
thân phụ của Khương, chủ thầu Hoa Chi chợ Đức Ḥa. Lớn lên mỗi người một hướng
đi, nhiều năm không gặp lại, Khương theo kháng chiến vào Đảng đổi tên là Đặng
Văn Thượng và làm Tỉnh Trưởng Tây Ninh tức là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh.
Lần đầu Thượng đến chơi nhà, nhơn danh bạn cũ lấy t́nh khuyên khéo Ngài đừng
chống đối cách mạng v.v…Ngài đáp lời một cách ḥa nhă rằng không chống…song
Thượng cũng thấy tinh thần Đạo đức của Ngài khó lay chuyển nên cũng đến thăm 2
lần nữa rồi vắng luôn. Có hôm tới nhà lúc 5 giờ chiều, Thượng chờ Ngài đi rẫy về
tới 7 giờ tối mới gặp mặt.
Ngài ghi nhận rơ ràng ư tốt của người bạn cũ năm xưa, ba lần cho gặp mặt gia
đ́nh lúc thăm nuôi ở khám đường:
-Lần đầu hai người chị ruột ở Sài G̣n lên;
-Lần thứ nh́, bạn đời Ngài được gặp khi hay tin Ngài bệnh nặng;
-Lần thứ ba là con gái Ngài học ở Sài G̣n về thăm và thỉnh ư Ngài trước khi vượt
biên sang Pháp.
Thời gian bị cấm thăm nuôi 4 tháng mà hai lần Ngài được gặp mặt gia đ́nh và nhận
đồ thăm nuôi ngoài luật lệ, khiến cho các bạn đồng khổ cảnh ngạc nhiên không ít.
Nếu chịu bắt phe cánh với người bạn cũ rất thân năm xưa nay đang giữ chức quan
trọng trong Tỉnh, rất có thể khá được hay ít nhất cũng yên thân. Nhiều bạn làm
giàu nhanh sau ngày 30-4-1975 nhờ chạy chọt lănh thầu có tay trong giúp đỡ. Ngài
không nghĩ tới điều đó.
Cũng chưa hết, một bữa sáng, tù nhân lao động ngoài buồng, mang c̣ng rổn rẻn đem
phân phối để trước cửa, buồng nào cũng có, không nhiều cũng ít. Anh em bàn tán:
Lại có màng c̣ng nữa rồi, trước đă có lịnh xă c̣ng, bổng nhiên c̣ng lại, chắc
bên ngoài t́nh h́nh không yên. Thật vậy, Miên xâm phạm biên giới và pháo kích
trùng với chủ trương và sách lược của nhà nước di dân đi kinh tế mới…
Mỗi khi có pháo kích, công an chạy vội vàng khắp các buồng giam bảo kiểm tra tù…khóa
c̣ng kỹ lưỡng, ở tại chỗ, giữ trật tự…Trong lúc bên ngoài nhân dân t́m chỗ ẩn
tránh bom đạn.
Bắt đầu từ đó, Ngài lănh 2 c̣ng chơn 24/24 đến 15-6-1978 chuyển lên trại Cây Cầy
ở 1 tháng 20 ngày rồi chuyển tiếp về Bàu Cỏ ngày 5-8-1978. Thêm 40 tháng ở khám
đường cộng chung trên 5 năm tù. Được trả tự do ngày 25-11-1981 thêm 6 tháng quản
chế.
Ở khám đường cán bộ có phần tin tưởng tù h́nh sự không sợ trốn, bắt ra lao động
nấu cơm, bữa cũi làm việc linh tinh khác. Một số nhờ thân thế phe cánh, ra khỏi
buồng có thoáng khí khá hơn, có ánh sáng, vận động giăn gân cốt, đỡ mét, đỡ xanh,
ở măi trong buồng thiếu ánh sáng dễ bịnh hoạn, móng tay móng chơn non ra. Ngài
sợ nhứt là móng tay ra dài, không vật bén nhọn để cắt, phải chà trên cimen hoặc
cắn cho ngắn bớt đóng dơ, móng tay non mềm thường bị xước lậm chảy máu rất đau.
Ở chung lộn có cái hại nữa là đồ thăm nuôi không biếu cho những người có bổn
phận như trật tự buồng, tức là tù trưởng, trực sinh lo vụ hứng nước ṿi, thường
có chuyện rắc rối, lúc đói hay ḍm ngó, soi bói kiếm chuyện bươi ra để sinh hoạt
đóng góp gọi là giúp đỡ mà thực ra là để xài xễ nhau, tỏ ra ḿnh thấy xa hiểu
rộng hoạt bát hơn người, nhơn tính gần như mất hết.
Riêng Ngài th́ chấp nhận, chỉ giúp đỡ những người nghèo khổ không thăm nuôi gọi
tương trợ tương ái với nhau nên thỉnh thoảng cũng bị nêu lên v́ chuyện nầy
chuyện nọ.
Chẳng hạn một hôm cán bộ Tư Chẹn sinh hoạt buồng, Ngài bị tố cáo 3 khoảng:
1.-Đă bị cấm quan hệ mà Ngài c̣n nói chuyện với anh em tù (đầu năm 1983) ở buồn
9 Ngài bị cô lập, cấm quan hệ nói chuyện, cấm từ ngày đầu mới vào.
2.-Đă phát ngôn: Ba năm tù như giấc ngủ trưa.
Cán bộ hỏi, có đúng như vậy không? Ngài nh́n nhận và giải thích, cán bộ không lư
do buộc tội lại xài xễ:
-Anh lẽo mép, ngụy biện, già mồm…
Bị xài xễ nặng, Ngài không buồn bởi đă có dụng ư cho biết tin thần của Chức Sắc
Cao Đài : Ở tù v́ Đạo không ngán ngại. Lúc nói chỉ vài ba anh em nghe, nay công
khai hóa cả buồng, gần 70 người đều biết. Thế là đắc sách, dầu cá nhân chịu
thiệt tḥi chút ít cũng vui vẻ, không sao cả.
Ngài cười thầm trong bụng và không hiểu tại sao ông bạn tù tố lập lại lời phát
ngôn của Ngài mà chỉ nói có 3 năm, kỳ thật Ngài vừa cười vừa nói, nhiều anh em
cũng nghe thấy:
-Mười lăm năm tù như giấc ngủ trưa.
Ngài nói mười lăm năm không phải là ba năm.
Sau nầy anh em nhắc lại là chưa từng thấy ai như Ngài, buổi đầu tiên khi cán bộ
mở cửa cho vào buồng 9, Ngài đưa tay mặt lên khỏi đầu ra dấu chào vừa cười vừa
nói:
-Xin chào hết các bạn, mừng duyên hạnh ngộ.
Chuyến lên Cây Cầy 1 tháng 20 ngày, Ngài quyết chịu c̣ng 24/24 hơn là lao động.
6.NHỮNG MẪU CHUYỆN
TẠI TRẠI GIAM BÀU CỎ
Lúc vừa về Bàu Cỏ, mọi người đều bị bắt buộc đi làm, lập ra nhiều đội ngũ, có
đội trưởng dẫn đi làm.
Sơ khởi Ngài thuộc đội III, chánh qui lao động nặng: đảo pḥng tuyến, đắp bờ
thành, cắm trụ sắc, rào kẽm gai gây trở ngại đặng ǵn giữ tù không cho trốn. Có
lần đi vác cũi về chụm ḷ, cũi đốn trong rừng, gởi xe ḅ kéo về nhà dân, tù ra
vác vào trại, Ngài bị kêu vác cũi một lần rồi thôi v́ nặng vác không nổi. Thỉnh
thoảng phải đi cắt tranh đem về lợp trại nhốt tù. Trại Bàu Cỏ là đồn cũ của Mỹ
trước kia, chung quanh c̣n nhiều trụ sắt, kẽm gai được thu gom đem về làm rào.
Việc lấy kẽm gai, cắt tranh là cả vấn đề nguy hiểm, thấy tánh mạng chỉ mành
treo chuông, bởi ḿn, lựu đạn gài c̣n xót, thỉnh thoảng bị nổ, may mắn tù nhơn
chỉ bị thương ít nhiều mà không gây chết chóc.
Ngài rất dè dặt, đi sau ḍ theo đúng gót chân người trước, chẳng dám bước sai
cho an toàn tánh mạng.
Cắt tranh xong bó lại và đội đem về trại. Lắm lần đội tranh đi trên bờ thành cao,
gió thổi mạnh yếu sức đi xiêu qua vẹo lại, cố giữ thăng bằng mà gió cứ thổi,
Ngài suưt ngă mấy lượt, thật năo nề chán nản trong cảnh tù đày khốn khổ.
Khẩu phần không đủ no, thăm nuôi không cho gởi gạo. Thời gian nhiều tháng, trại
phát khoai ḿ, bo bo gọi cao lương thay cơm trong ngày. Ngài bị đau dạ dày ăn
không được, phần tuổi lớn chưa quen lao động nặng, vất vă vô cùng!!! Đội Trưởng
cũng là tù nhân lúc nào cũng muốn lập công bắt trại viên làm nhiều để lấy điểm
với cán bộ.
Trong lúc quá bi
oan, Ngài t́m cách tự an ủi, may duyên nhớ lại thời gian lưu
vong ở Miên, Ngài có xem phim chiếu lúc Chúa Jesus vác Thánh Giá lên núi chịu
đóng đinh đỗ máu để cứu chuộc tội lỗi của loài người. Thánh Giá nặng, phần lên
dốc núi, Chúa nhuễ nhại mồ hôi mà Chúa vẫn tiến bước. Ngài so lại cái khổ của
ḿnh hiện tại chưa gánh đầy muôn một, sá chi phải buồn?
Thế là Ngài gượng vui, sự buồn chán lần hồi tan biến tự nhiên.
Thấy việc quá nặng nhọc làm không nổi, Ngài xin chuyển qua đội vệ sinh, làm công
việc nhẹ hơn, công việc của những ông già yếu, bịnh hoạn là làm cỏ ḿ, vun giồng
lan, lột ngọn mía, chặt hom ḿ, trồng mía, trồng ḿ, lặt đậu phọng, sắp lá ủ
thuốc, dậm và phơi thuốc v.v…Có lần bắt cào phẩn khô làm phân bón, Ngài tránh né
được việc nầy nhưng phải gánh nước tiểu cho đội cải thiện tưới rau.
Làm cỏ ḿ là công việc nhẹ theo lập luận của cán bộ trại giam, song với Ngài
thật là quá sức già. Có lần cán bộ Lành, công an trẻ tuổi thấy Ngài làm cỏ chậm
không theo kịp anh em khác, hăm he muốn đánh, nói rằng: “Thấy già không lẻ đánh”.
Trước sự tủi nhục ê chề, Thiếu Tá Chánh cựu sĩ quan Quân Đội Cao Đài vừa phân
bua vừa gián tiếp an ủi:
-Tôi bận phần của tôi, không giúp anh được…
Ngài đáp:
-Cám ơn anh, làm sao bao gồm hết được? Tù mà! Phải chấp nhận!
Nhờ mái tóc hoa râm với cḥm râu bạc nên khỏi bị đ̣n v́ lao động yếu, đỡ khổ.
Biết thế nên từ trước, anh em hỏi tuổi thường Ngài nói cao hơn 6 tuổi, nghe cho
già thêm một chút, không hại người mà đỡ khổ có lợi cho ḿnh. Chỗ thân t́nh Ngài
mới nói tuổi thiệt. Qua h́nh dáng và sắc diện bên ngoài, Ngài có vẻ già trước
tuổi, dầu nói cao niên thiên hạ cũng tin.
Trước cảnh đọa đày như thế, nói không buồn th́ không đúng hẳn, nhưng biết Đạo ít
nhiều, Ngài xét ḿnh chẳng làm ǵ nên tội, bị tù chẳng qua v́ phận sự Đạo, mà
Đạo Luật năm Mậu Dần ghi rơ rằng: “Một ngày khổ hạnh v́ Đạo kể là một ngày công
quả phi thường”. Hơn nữa Chí Tôn có dạy:
“Đài vân
Quan
Vơ để
phong thần,
“C̣n của Thầy đây để
nhắc cân.
“Muôn đức ngàn lành
không sót một,
“Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.”
Ngài yên chí và cũng vững tâm trước hiện cảnh. Nhớ lời dạy khuyên của Ngài Trần
Khai Pháp, Ngài cố rèn chữ “Nhẫn” t́m cách hóa giải mà không trả đủa trước những
cảnh chướng tai gay mắt.
Ngoài ra Ngài c̣n thực thi nhơn nghĩa trong t́nh tương trợ lẫn nhau, chánh yếu
là chia sớt trong việc ăn uống, giúp đỡ không phân biệt thành phần giai cấp,
cũng không phân biệt nam nữ. Hơn nữa thức ăn thăm nuôi, có quả phẩm cúng Hội Yến
Diêu Tŕ hay cúng vía Đức Hộ Pháp, Ngài chia cho anh em đồng tín ngưỡng cùng
hưởng lộc Thánh, ân huệ Thiêng Liêng.
Nhằm ngày lễ lớn của Đạo, ở trong trại, Ngài chuẩn bị một vài món ăn tương đối
ngon trong cảnh tù, phần tiêu chuẩn cơm trại phát của ai nấy dùng, tạo cơ hội
nói chuyện Đạo, phần đông trong giới sĩ quan có tŕnh độ. Do vậy anh chị em tù
nhân có cảm t́nh với Ngài, tuy vậy Ngài tự kiểm điểm thấy chưa được tiến bộ so
với những lần tù đợt sau và cũng bị xuyên tạc mang tiếng bất phải về sự quan hệ
giúp đỡ tù nhân nữ giới.
Ngài cũng lập được một chút công quả nhỏ ở trong tù. Lúc ở Bàu Cỏ, Ngài độ được
một người trí thức nhập môn. Ngày mùng 9 tháng 2 Tân Dậu (14-3-1981), Ngài đứng
giữa sân trại chứng và hướng dẫn lập thệ. Nhờ sự thân cận nhau sau được biết là
nguyên Tổng Trưởng Bộ Tư Pháp Cao Miên trào Lon Nol tên Na-Bun-Hieng chạy nạn
diệt chủng của Pôn Pốt, vượt biên sang Việt Nam xin tị nạn bị cầm tù. Người mai
danh ẩn tích lấy tên Văn Hương, có tư cách, có tŕnh độ, được đào tạo ở Pháp về.
Ngài có hứa khi chủ quyền Đạo được phục hồi gặp lại nhau, Ngài sẽ hướng dẫn lập
hồ sơ xin vào Hiền Tài Ban Thế Đạo.
Văn Hương thuộc nhóm chánh trị trí thức do Son Sann cầm đầu. Son Sann là cựu
Thống Đốc Ngân Hàng Cao Miên. Hi vọng ngày qui hồi cố quốc Son Sann nắm quyền,
công thành danh toại Văn Hương sẽ có nhiều dịp lập công giúp Đạo. Thoảng gặp khó
khăn không giúp trực tiếp được, Văn Hương cũng báo tin cho Ngài biết pḥng lo
cứu gỡ…Văn Hương nhỏ hơn Ngài trên 10 tuổi, hằng ngày nói chuyện với nhau bằng
tiếng Pháp, lén lút sợ cán bộ nghe, khép kỹ luật cho vô c̣ng và cho ăn cháo
loăng.
Qua sự giúp đỡ Văn Hưởng giải quyết vấn đề ăn uống, t́nh cảm gia đ́nh cũng như
việc xảy ra hằng ngày cho hợp với tâm lư trong trại. Văn Hương quí mến Ngài, có
lần nói:
-Xin lỗi anh, tôi nói điều nầy anh đừng buồn, anh rất xứng đáng là cố vấn tốt
của tôi.
Ngài cười:
-Chẳng những tôi không buồn, trái lại c̣n hănh diện nữa là khác. Không phải lần
thứ nhứt tôi được nghe câu nói đó, phát xuất từ một nhơn vật quan trọng của
chánh phủ. Trước anh Hoàng Thân nguyên Tổng Trưởng Bộ Tài Chánh của chánh phủ
Hoàng Gia Cao Miên cũng đă nói với tôi tương tự như anh vậy.
Ngài lập lại câu chuyện của Hoàng Thân Sisovatt Entaravong cho Văn Hương nghe.
C̣n một việc nữa cũng lư thú ở trại Bàu Cỏ đầu năm 1981.
Một hôm sau bữa cơm chiều, anh em từng nhóm nhỏ quây quần ngoài sân chờ giờ vô
trại vào c̣ng đêm. Một cán bộ có lẻ từ xa về phép vào sân trại chơi, đến làm
thân gợi chuyện với anh em đang đứng bên cạnh Ngài. Qua câu chuyện tóm lược,
Ngài nhận thấy người nầy phô trương, muốn tỏ ḿnh có công với đất nước, khoe
ḿnh lịch lăm tuồng đời…ông ta nh́n qua phái Ngài rồi hỏi:
-Mấy ông già nầy làm ǵ mà bị bắt?
Anh em đáp:
-Bị án chánh trị.
Ông khách nói:
-Già mà ngu, từng tuổi nầy mà không biết thủ phận để hưởng lạc thú gia đ́nh,
hoạt động chánh trị làm chi cho bị tù, đă khổ thân c̣n tạo khổ lây cho vợ con.
Ngài vừa nói vừa khều nhẹ ông bạn đang đối thoại, cả Văn Hương cũng có mặt, tay
chỉ ông khách lạ và nói:
-Thời gian qua rất nhanh, thắm thoát ḿnh gần 60 tuổi rồi, nhớ hồi nào c̣n cấp
sách đến trường mà giờ nầy già nua, sắp chết đến nơi rồi. Nhớ lúc học lớp sơ
đẳng, thầy Giáo có dạy, cón nhớ bài thơ ngộ nghĩnh gần 50 chục năm qua vẫn chưa
quên, chỉ có hai tiếng “dạy-khôn” lộn đi lộn lại thành bài thơ.
Ông bạn hỏi:
-Bài thơ thế nào? Nhớ đọc nghe chơi.
Một phút giả vờ ôn lại trí nhớ, Ngài đọc:
Thế sự đua nhau nói
dại khôn,
Biết ai là dại, biết
ai khôn.
Khôn nghề cờ bạc là
khôn dại,
Dại chốn văn chương
ấy dại khôn.
Mấy kẻ nên khôn đều
có dại,
Làm người có dại mới
nên khôn.
Cái khôn ai cũng khôn
là thế,
Thế biết làm người kẻ dại khôn.
Ngài đọc với giọng trầm bổng dẫn giải cố ư cho người khách lạ đủ nghe, hi vọng
có giác ngộ phần nào.
Những ngày đầu vào khám, Ngài cầu nguyện xin hai điều: Một là không bị nhức răng,
hai là không bị ghẻ. Nếu căn nghiệp cần phải trả, Ngài xin chờ ngày được thả về
sẽ trả sau, c̣n bao nhiêu việc khác Ngài xin vui vẻ chấp nhận để trả cho rồi quả
kiếp.
Khám đường chật hẹp, mỗi ngày thêm đông, chung lộn chen chút nhau thiếu vệ sinh,
ăn không đủ no, Ngài nằm sát cạnh người bị ghẻ ngứa, ghẻ phỏng, máu mủ bẩn thỉu
tanh hôi, môi trường rất dễ bịnh hoạn truyền nhiễm, thế mà Ngài không bịnh,
không lây ghẻ. Răng hư lần lượt bể từng mănh vụn mà vẫn không đau nhứt. Năm 1978
thiếu gạo ăn bo bo, ăn củ ḿ, ăn cháu bo bo trường kỳ cả chục tháng với chứng
bao tử có từ bên ngoài mà vẫn không hề hấn ǵ. Ngài thấy lời cầu nguyện được
Thiêng Liêng chi ứng nghiệm.
ĐƯỢC TRẢ TỰ DO
Sau ngày về, nhà cửa vẫn c̣n, nhưng các tiện nghi có giá trị như máy điều ḥa
không khí, truyền h́nh, quạt máy, máy bơm điện, cả 3 chiếc Honda Dame…giả từ ra
đi lúc nào đă mất dạng để đổi sự sống cho gia đ́nh. Mấy mẫu mía ờ ngă ba Vịnh (Tua
Hai), vài mẫu ruộng tại Cầu Nổi Tây Ninh, mấy mẫu mía trồng chung với Ba Xă ở
Phước Điền, 5 phần đất lập vườn ở Long Hải cũng chẳng c̣n. Nghe thuật lại một
phần bán được ṣng phẳng, phần khác bị sang đoạt.
Bạn đời của Ngài phải chấp nhận trước sự việc đă rồi. Sau nầy trong khi chờ đến
giờ cúng Phật Mẫu, Ba Xă có nói lời thông cảm xin Ngài thông qua những việc đă
qua.
Năm 1976, gia đ́nh ăn độn khoai ḿ, lây lất sống qua ngày, không tản cư t́m sự
sống nơi khác, vẫn c̣n ở tại chỗ cũng là điều may. Nhờ vậy Ngài được thăm nuôi
đầy đủ và đều đều, nếu không đă đói khát lại bịnh hoạn ắt khó sống.
Thường được tin công an sắp tịch thu nhà cửa. Công an khu vực Vẹt hay tới lui gạ
hỏi mua nhà, bạn đời Ngài rất lo sợ, chuyển bớt tủ, bàn, ghế, chén bát gởi nhiều
nơi, măi tới giờ nầy chưa thu đủ lại bởi căn nhà ở Phú Nhuận-Sài G̣n đă sang cho
người khác, vật dụng 2 nhà dồn lại thiếu chỗ để, hơn nữa vợ con đứa con trai, sĩ
quan của chế độ trước (Hiếu) bị đi cải tạo ở Miền Bắc cũng về ở chung, thành thử
nhà tạo lập dự định hai vợ chồng ở rộng răi nay trở thành chật hẹp.
Cảnh nhà túng quẩn nghèo khổ, Ngài mới được thả về ghẻ nhọt nổi lên không tiền
mua trụ sinh chữa trị. Xoay sở được hơn 50 đồng, nghe một người đàn bà dự định
đi thăm chồng bị bắt về tội chánh trị đang cải tạo ở Phú Khánh (Nha Trang) thiếu
tiền hành lư, Ngài giữ lại số lẻ, xuất giúp 50 đồng theo thời giá có thể đủ một
chuyến đi khứ hồi. Chồng bà bị án 17 năm tù, trước bị giam ở Bàu Cỏ chung với
Ngài từ năm 1978-1979.
Nhà đă thiếu thốn, vợ con đă khổ càng thấy khổ thêm.
Ngày 25-11-1981 được tha, về tới nhà, u nhọt bổng nổi lên đau đớn gần 2 tuần lễ,
lại nhổ hết răng hàm, làm răng giả. Như vậy đức tin ở quyền năng Thiêng Liêng
Ngài thấy tăng lên rơ rệt.
Giấy ra trại ghi tội danh “Trong tổ chức phản động”.
Về đến nhà, nghe Hội Thánh đă bị giải thề, tài sản và các cơ sở vật chất của Đạo
bị chánh quyền tịch thu và quản lư gần hết.
Lịnh tịch thâu go Đặng Văn Thượng kư với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân
Tỉnh.
Nghi tiết cúng lễ bị giảm bớt và canh cải rất nhiều. Thông tri và Đạo Lịnh số 1
được ra đời, ban hành năm 1979.
Đạo Lịnh giải thể Hội Thánh cho ra đời Hội Đồng Chưởng Quản Hội Thánh Cao Đài
bao gồm 12 Chức Sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện nam nữ, phân công Chức
Sắc do Ngài Bảo Đạo và Ngài Đầu Sư cầm đầu.
Ông Thái Hiểu Thanh và ông Ngọc Nhượn Thanh, đóng vai tṛ quan trọng trong việc
kư Thông Tri và Đạo Lịnh, sau lưng có Trương Ngọc Anh, cháu rễ ông Nhượn làm áp
lực thúc đẩy, hăm dọa được chánh quyền hổ trợ mạnh.
Do nóng ḷng thấy thuyền Đạo bị nghiên ngửa mà những vị Chức Sắc đứng đầu của
Đạo lại buôn xuôi, không đấu tranh quyết liệt, nên Ngài đă viết một bức thư với
lời lẻ rất nặng, gởi cho Ngài Bảo Đạo vào ngày mùng 1 tháng 2 năm Nhâm Tuất
(24-2-1982). Nhưng bạn đời ngải sợ mích ḷng nên đă dấu bức thư đó đi.
Không gởi thơ được Ngài mới cùng Truyền Trạng Dũng đến pḥng Ngài Bảo Đạo tại
nhà khách Giáo Tông Đường. Ngài dùng cách xưng hô của tiểu cấp đối vớ đàn anh,
không xưng hô Bác, Chú như thường lệ có tánh cách gia đ́nh. Sau vài câu vấn an
sức khỏe theo lối xă giao thông thường, Ngài vào đề:
-Thưa Ngài Bảo Đạo. Liên tiếp ba kỳ đàn, Ngài lên giảng đài kêu gọi mỗi người v́
mọi người, mọi người v́ mỗi người. Kêu gọi tham gia chánh quyền để tiến lên XHCN
theo Cộng Sản, làm dư luận xôn xao bàn tán, mất hay cho Ngài.
-Bài đó Qua viết rồi chỉnh đi chỉnh lại, trực tiếp do Trương Ngọc Anh kêu đọc.
-Sao Ngài không từ chối?
-Từ chối không được, nó dựa thế của chánh quyền.
-Nếu sợ khó khăn không từ chối trực tiếp được, có thể Ngài hứa đến giờ chót cáo
bịnh thà không đi cúng c̣n hơn là đọc tại giảng đài để chịu cho nhơn sanh phê
pháng. Ngài làm cách đó có ai nói được ǵ mà cũng không lư do buộc tội hay bắt
lỗi.
Ngài bàn đến Thông Tri Đạo Lịnh số 1 năm 1979 là tai hại trầm trọng lưu truyền
đến thất ức niên.
Ngài Bảo Đạo giải thích:
-Qua không dám phản đối mạnh v́ sợ bổn Đạo ủng hộ lập trường của Qua sanh đỗ máu
trong cửa Đạo bất lợi hơn.
Ngài không tán thành lập luận đó:
-Uy tín của Ngài đâu so b́ với Đức Hộ Pháp được. Lúc tai biến có ai dám chết v́
Đức Hộ Pháp đâu? Tôi e rằng Ngài nghĩ như vậy có phần quá đáng chăng?
Nhiều anh em khuyên Ngài không nên phản đối Ngài Bảo Đạo, sợ Ngài Ngài đi tù khổ
thân thêm. Luật Sự Trần Văn Sía khuyên nhiều hơn hết, nói rằng Ngài đă khổ sở
hơn 5 năm rồi, sợ bị tù nữa, sợ không sống sót được…
Ngài cương quyết làm phận sự, noi gương các quan gián nghị trong truyện Tàu thuở
xưa: Làm nhiệm vụ chấp nhận mọi hậu quả.
Ngày 15-8-1982, theo lịnh quản chế hằng tháng tŕnh diện 2 lần tại đồn công an
thị trấn, Trưởng Đồn khuyên v́ quyền lợi cá nhân nên làm đơn xin phục quyền công
dân; lịnh quản chế 6 tháng, tŕnh diện hơn 10 tháng. Ngài đáp:
-Trước kia tôi đâu có yêu cầu chánh quyền bắt tôi. Tôi đang tu hành không tội
t́nh ǵ, tự nhiên chánh quyền nói tôi mất quyền tự do bắt giam tôi, giam đă rồi
nói tôi có quyền tự do, thả tôi ra. Nay nói tôi mất quyền công dân quản chế bắt
tôi tŕnh diện chừng nào thấy tôi có quyền công dân trả lại tôi, sao lại phải
buộc tôi phải làm đơn xin? Tôi chưa từng biết xin xỏ ǵ của ai. Biết xin không
được mà vẫn cứ xin, làm nhẹ thể. Cá nhân tôi không đáng kể mà nhẹ thể Hội Thánh.
Lúc thiếu thời, tôi c̣n không nghĩ tới danh lợi, chỉ lo tu hành thôi, nay gần
xuống lỗ rồi tôi đang chuẩn bị cho cái chết sắp tới c̣n ǵ nữa mà nghĩ đến cá
nhân.
Lời qua tiếng lại cả giờ đồng hồ, phó đồn tên Dùm lập biên bản bắt giải ra Huyện.
Trưởng Đồn công an Huyện làm việc, Ngài tường thuật và nói thêm:
-Trước kia chánh quyền nói tôi không quyền tự do, bắt giam tôi, tôi làm đơn xin
trả tự do, chánh quyền có trả tự do cho tôi không?
Công an giải thích:
-Đây là thủ tục, là luật buộc.
-Phải nói là thủ tục, là luật th́ tôi tùng rồi. Mọi công dân sống dưới chế độ
nào cũng vậy, đều phải tùng theo luật pháp của nhà nước. Luật nầy quá mới mẻ đối
với tôi, tôi không hiểu được.
Công an bắt làm tờ tự kiểm rồi ra về, cũng hết một ngày ở Huyện.
Cũng chưa yên, đêm 27-8-1982 lúc 10 giờ khuya, công an du kích kêu cửa xét hộ
khẩu, đánh thức Ngài để hỏi chuyện rồi ch́a súng dẫn xuống xă, cho ngủ đất một
đêm làm mồi cho muỗi. Sáng ra côn an khu vực nói là Ngài cư ngụ bất hợp pháp.
Buồn cười cho cách làm việc của Cộng Sản: Hộ khẩu thường trú tại nhà, giấy trả
tự do, công an cũng ghi về địa chỉ đó, mỗi tháng tŕnh diện 2 lần, thế mà vẫn
nói là cư ngụ bất hợp pháp. Bạn đời Ngài chạy theo cho khăn đội và dầu gió nghĩ
rằng bị bắt cóc. Ngài nghĩ rằng đây chỉ là vấn đề trả đũa, làm cho đỡ tức qua vụ
việc tại đồn công an Thị Trấn mà thôi.
Chỉ có cường quyền và bạo lực, không có luật pháp, lẻ phải ǵ tất cả, bắt để dằn
mặt thôi.
Theo lệnh truyển của Đức Cao Thượng Phẩm, Ngài thường đi cúng chùa mỗi ngày để
làm gương cũng cố đức tin chung của bổn Đạo.
7.NHỮNG ĐÀN CƠ HỌC
ĐẠO
Khi được trả tự do, v́ quá nôn nóng về tương lai nghiệp Đạo, không thể khoanh
tay ngồi chịu trận để đón chờ bế tắc, Ngài cùng một số người bạn hiệp nhau lập
đàn cầu cơ học Đạo.
Đức Hộ Pháp dạy: (Đêm 04-11-1981)
………
Các con đă khổ nhiều
về Đạo, đó là khảo thí để trạch Thánh chọn Hiền lập lại Hội Thánh gương mẫu để
thực thi chơn truyền Đại Đạo cho kịp kỳ Nho Tông Chuyển Thế. Cuộc khảo thí nầy
ngoài sức phàm tiên liệu nên có người v́ thiếu đức tin nên phải lỗi thệ cùng
Thầy. Thầy rất buồn khi thấy Thiên điều trưng công xét tội nhưng cũng đành thúc
thủ làm sao Thầy cải sửa để cứu chữa cho kẻ lỡ bước đặng?
Riêng các con yêu ái
của Thầy, hăy b́nh tâm vững tinh thần để làm cây đuốc dẫn lối nhơn sanh lúc nầy
là đủ. C̣n mọi việc khác các con hăy để thiên điều định liệu chớ sức phàm các
con không thề đảm trách nổi.
Các con chờ Thầy
chuyển xây cơ Đạo được vẹn toàn, Thầy sẽ giao trách vụ cho các con.
Thầy rất mừng khi
thấy các con luôn luôn đem hết tâm trí lo cho nghiệp Đạo. Đó là điểm son của các
con nơi trang Đạo sử nầy vậy.
………
Đức Thượng Phẩm dạy: (Đêm 4-11-1981)
………
Trách vụ của chư Hiền
Hữu lúc nầy là cố gắn trụ vững đức tin cho nhơn sanh soi bước. Hiện giờ nhơn
sanh đang đứng trước ngă ba đường, nếu không có người dẫn lối th́ e chúng sẽ lạc
bước. Đối với cơ đời lúc nầy họ t́m đủ mọi cách để tiêu diệt đức tin của con cái
Đức Chí Tôn. Chư Hiền Đệ hiểu như thế để cố lo liệu mà trụ vững tinh thần để cho
nhơn sanh lấy đó làm kim chỉ nam mà tiến bước.
……..
Đức Thượng Phẩm dạy: (Đêm 9-12-1981)
…….
Đến ngày nào cơ Đạo
ra mặt thiệt tướng th́ ngày đó chư Hiền Đệ sẽ thấy Thần quyền trị thế.
…..
Cái khó khăn của
người phàm phu tục tử là không dám hy sinh v́ Đạo, v́ Thầy. Các vị Thánh trước
hiền xưa khi ngộ Đạo th́ người dám hiến ḿnh cho Chí Tôn để lập công tạo vị nơi
cơi Thiêng Liêng Hằng Sống, nhờ thế mà danh vị các Đấng ấy mới tỏ rạng cho hậu
thế đồ gương nối bước. Chư Hiển Đệ nên nhớ rằng, đường tu có khó khăn th́ Đạo
nghiệp mới vẽ vang, sứ mạng có nặng nề th́ ngôi vị mới cao trọng.
Đă là người thức
thông thời vụ, chư Hiền Đệ phải cố gắn cho lắm để khỏi uổng kiếp sanh may duyên
ngộ Đạo mà không lập được chút công nào để ghi vào thanh sử.
……
Đức Lư Đại Tiên
Trưởng dạy: (Đêm 25-11-1981)
…..
Cơ chuyển Đạo nhiệm
mầu vô giá, phải có đủ đức tin mới thấu rơ được Thiên Điều hành pháp đâu dể ǵ
tư vị.
Lăo thấy nhiều Thánh
Thể phải chịu nhiều đảo điên mà vẫn giữ được tâm thành, Lăo cũng đáng mừng cho
đó.
Nghiệp Đạo đang chờ
bàn tay thiện chí để điểm tô, chư Hiền Hữu cố gắn lo cho mối Đạo mà cho tṛn sứ
mạng là chư Hiền Hữu đền đáp công ơn Giáo hóa d́u dắt của Đức Chí Tôn hầu làm
rạng rỡ Đạo Trời, tức là làm sáng danh Thượng Đế vậy.
Công việc của chư
Hiền Hữu c̣n lắm nhọc nhằn bởi lũ tà quyền chưa măn vai tṛ khảo thí.
Cơ Đạo c̣n cần phải
nhiều thay đổi cho phù hợp với việc tận độ chúng sanh.
……….
Đức Quyền Giáo Tông
dạy : (Đêm 25-11-1981)
…..
Mấy em đă trải qua
nhiều thử thách mà c̣n giữ dạ trung thành đối với Đạo là một điểm son nơi trang
Đạo sử. Càng đau khổ hiểm nguy mà mấy em vẫn tiến bước, đó là điều đáng mừng cho
cơ Đạo ngày tới không phải ít.
…..
Phải là người có
Thiên mạng và đại căn mới được sắp vào hàng Thánh Thể. Qua kỳ thi nầy, các em sẽ
thấy rơ cơ đời c̣n phải thanh lọc thay huống hồ ǵ cơ Đạo mà tránh khỏi được sao?
Cuộc đảo loạn trong
những ngày sắp tới đâu phải tầm thường. Cuộc trả vay để rửa sạch vết oan khiên
của thời kỳ Nho Tông chuyển thế đâu phải ít ỏi ǵ? Nói như vậy các em đừng sợ:
Đă có tất dạ chí thành, một đức tin vững chắc là các em có được bộ thiết giáp
Đạo đức vững ḷng tin mà tiến bước. Chi chi cũng tại nơi tâm đức của con cái Đức
Chí Tôn mà ra cả v́ nhơn tâm là Thiên ư vậy.
….
Thôi để Qua kiếu, ở
lâu mấy em hỏi hoài sẽ lậu Thiên cơ Qua bị phạt đó.
Thăng
Cả ba người lén cầu, người nào cũng đă bị đi tù Cộng Sản: ông Hạ Chí Khiêm, Phạm
Hoàng Châu (con ông Phạm Văn Ngọ, Truyển Trạng) và Ngài, đột nhiên Châu mất liên
lạc không một lời từ giă từ. Ngài đắn đo chưa biết t́m ai đáng tin cậy để hợp
tác lập đàn. Điểm trong hàng Chức Sắc tiểu cấp Hiệp Thiên Đài, những người tiếp
điển tốt, kẻ vượt biên ra ngoại quốc, người về xứ, c̣n lại vùng Thánh địa chẳng
mấy người nhưng tiếp điển không được tốt. Giám Đạo Bùi Quang Cao th́ bị Đức Hộ
Pháp nhiều lần cấm pḥ loan nên Ngài không mời.
Ngài tập ngồi thử với ông Truyền Trạng Phạm Văn Về, ông Hạ Chí Khiêm và Ngài
không hạp điển, cơ viết không được.
Ngải đạp xe xuống nhà ông Sĩ Tải Lê Văn Khoăn ở xă Trường Ḥa gần Trí Huệ Cung.
Ông Khoăn sốt sắn và hưởng ứng ngay. Địa điểm mượn nhà ông Giáo Hữu Ngọc Tống
Thanh lần đầu, sau đó cũng có cầu tại nhà Ngài. Buổi đầu chưa có thuần điển,
viết có phần khó đọc.
Ngài Ca Bảo Đạo giáng với lời lẽ thiết tha, đại ư muốn nói với Ngài Bảo Đạo Hồ
Tấn Khoa đôi điều cần yếu mà không có dịp, chẳng biết làm sao.
Ngài không có ư định gặp Ngài Hồ Bảo Đạo nhưng v́ tương lai nghiệp Đạo và kính
thương Ngài Ca Bảo Đạo, Ngài dẹp bỏ ư nghĩ riêng tư nhỏ hẹp của cá nhân ḿnh đến
Sài G̣n gặp Ngài Hồ Bảo Đạo (Ngài Hồ Bảo Đạo lúc nầy đang dưỡng bịnh ở Sài G̣n)
tường thuật sự việc và đề nghị tổ chức lập đàn để cầu xem Ngài Ca Bảo Đạo muốn
dạy điều chi.
Ngài Bảo Đạo bằng ḷng, Ngài quai về Tây Ninh mời ông Bùi Quang Cao. Lúc đó
chánh quyền c̣n căn thẳng mạnh với Đạo, t́nh h́nh vẫn khó khăn, Ngài tưởng ông
Cao không dám nhận lời, may mà nghe nói Ngài Hồ Bảo Đạo triệu, ông Cao bằng ḷng,
định ngày giờ gặp nhau nơi Ngài Hồ Bảo Đạo đang an dưỡng. Cần cơ, dụng cụ, Ngài
lănh phần lo và mang theo. Tin vẫn tin nhưng pḥng phải pḥng, Ngài cũng hẹn Sĩ
Tải Khoăn pḥng khi ông Cao vắn mặt việc lập đàn vẫn có thể tiến hành.
Ông Cao y hẹn, đàn cơ lập tại Salon, không bàn thờ. Cảm trọng ân nghĩa Thiêng
Liêng dành để, các Đấng giáng.
Nguyên văn bài Thánh Giáo như sau:
Sài G̣n, đêm mùng 2 tháng 6 Nhâm Tuất (22-7-1982) (19giờ 40)
Pḥ loan:
C.T. Trân
G.Đ. Cao
BÁT NƯƠNG DIÊU TR̀ CUNG
Chào em Bảo Đạo và
hai em.
Đêm nay qua sự cậy
nhờ của Hộ Pháp, đến trước mừng em Hồ Bảo Đạo đă được thuyên giảm căn bịnh, sau
báo cho hai em nhỏ biết trước là sẽ có Hộ Pháp giáng đàn.
Như vậy em Hồ Bảo Đạo
tiếp cơ rồi chị sẽ tái giáng.
Thăng (19giờ 50)
Pḥ loan:
Hồ Bảo Đạo
G.Đ. Cao
Tái cầu (19
giờ 50)
HỘ PHÁP
Chào chú Đốc và hai
con.
Trân con: Thầy đă sở
cậy con nên mớ có ngày hội ngộ hôm nay.
Tôi mừng chú Đốc và
hai con đầy đủ nghị lực.
Chú Đốc, đă lâu lắm
rồi không có dịp để chúng ta gặp nhau, nay sự việc bắc đắc dĩ tôi phải đến với
trường hợp nầy là v́ thương chú và cảm động trước nhiệt t́nh của em Trân và Cao.
Vậy nhơn cơ hội duy
nhứt nầy, tôi cần thố lộ với chú vài điều. Chú Đốc, chú đă nhân tôi mà hành Pháp
th́ chú nên nhớ là trọng trách ấy tôi giao trọn cho chú nắm cả Hiệp Thiên Đài
vào tay mà hành sự. Từ thử tôi chưa hề nói ra là “chưa giờ phút nào Ngọc Hư Cung
lại phải lo lắng v́ tương lai của Hiệp Thiên Đài bằng lúc nầy”.
“Mỗi diễn biến tôi đă
thông cảm nhưng ngặt nỗi Ngọc Hư Cung vẫn chiếu luật để thi hành”.
Nh́n lại chặn đường
đă qua, Hiệp Thiên Đài đă bỏ lỡ một cơ hội tốt để biểu dương sức mạnh của ḿnh.
Sức mạnh ấy là tinh thần bảo thủ chơn truyền. Bảo thủ đây không phải như tư
tưởng của chú đang bảo thủ, nghĩa là phải tùy mọi trường hợp biểu dương năng lực
và sứ mạnh của tinh thần. Năng lực ấy không phải là sự chống đối mà là sự khôn
khéo của ḿnh chọn đúng để bỉnh cán cơ Đạo. Sức lực ấy không phải là sức lực của
toàn thể chơn tướng của Đạo mà là sức mạnh biết tiến thoái kịp thời, tùy lúc bảo
trọng danh dự của Đạo.
Chú Đốc: Tôi không
trách chú về mọi sự việc song tôi khuyên chú nên cứng rắn hơn, dẻo dai hơn. Ḿnh
là tinh thần, ḿnh phải tỏ ra nhạy cảm, tỏ ra quyết liệt để cả thảy Thánh thể
Đức Chí Tôn nh́n vào đặt đức tin nơi đó.
Giờ đây đoạn đường
gay go đă tạm qua, giờ chỉ c̣n đấu trí với chúng là đủ.
Nhớ là em út chú bất
phục chú trong những ngày qua và những ngày sắp đến sẽ c̣n nh́n theo bước đi của
chú mà định lại phương châm để hành Đạo.
Một ḿnh chú không đủ
làm trọn Hiệp Thiên Đài mà phải tập thể từ lớn đến nhỏ nghe chú !
Tôi biết chú mệt mỏi
có lúc, song có như vậy th́ Hiệp Thiên Đài mới có giá.
V́ t́nh bạn tôi đến
với chú trong giây lát và thể theo lời thỉnh cầu của các em nhỏ.
Bảo Đạo bạch: -Gặp
việc khó giải quyết liền không thể đ́nh lại chờ họp đặng…
-Không phải là việc
giải quyết những việc lặt vặt của cơ thề hữu vi của Đạo mà là nh́n đám em với
một tin thần cởi mở và đoàn kết hầu nâng đỡ chúng nó lên đường lập vị và lập
công kẻo chúng oán trách chú là độc tài và độc đoán tội nghiệp.
Chú có ǵ thắc mắc
nêu lên, tôi sẽ bàn góp.
Bảo Đạo bạch……
-Được chú đặt trọn
đức tin nơi tôi về mặt vô h́nh, tôi cũng sẵn sàng yểm trợ chú v́ t́nh và nghĩa
lẫn nhau lúc đồng sanh đồng khổ. Duy có một điều là chú phàm thể, tôi không lời
không sức nhưng nếu chúng ta dựa vào nhau trong tư tưởng th́ có thể giải quyết
mọi việc.
Đêm nay tôi sở dĩ
phải đến v́ thấy cơ đồ sắp lâm vào nẻo bí cho cửa Hội Thánh nên tôi mới đến và
cũng là lần chót.
Em Trân ! đừng làm
phiền chú Đốc nữa.
Cao! Tao vẫn lịnh cấm
đó với mầy về cơ bút. Mầy giữ lời dặn nghe và đây cũng là lần cuối tao tha cho
đó v́ nể t́nh chú Đốc và em Trân.
Trân con! Đừng nôn
nóng vô ích. Con nóng ḷng v́ Đạo nghiệp nhưng con có biết hậu quả sẽ không hay
đến với con. Vậy con nên liệu xếp gọn lại và đừng bung thùa túy quảng nữa, nghe
con!
Con hiểu ư Thầy chớ?
Đó cũng là Thiên Cơ
chớ tôi đâu có khắc khe với chú Đốc và hai con.
Thôi Bát Nương đợi.
Tôi để lời cảm ơn chú Đốc và ban ơn lành cho hai con.
Thăng (20 giờ15)
Pḥ loan:
C.T.Trân
G.Đ. Cao
Tái cầu
(20giơ25)
BÁT NƯƠNG DIÊU TR̀ CUNG
Hộ Pháp đă dặn ḍ mọi
việc với em Hồ Bảo Đạo rồi, giờ đây chị cũng nhơn cơ hội nầy nhắc nhở với em Hồ
Bảo Đạo ít điều kẻo v́ t́nh Hiệp Thiên mà bỏ lơ xem ra vô t́nh quá.
Em Hồ Bảo Đạo! Hộ
Pháp muốn em cương quyết hơn trong việc bỉnh cán cơ đồ của Đạo ngày nay. Sự
cương quyết của em không phải là cứng rắn trong mọi việc mà là phải nh́n ở tương
lai của Đạo nhứt là tương lai của Hiệp Thiên Đài mà thi thố.
Hiệp Thiên Đài là
tinh thần mà tinh thần lúc nào cũng phải phấn chấn, mạnh mẻ để hữu tướng nương
theo, nếu không tinh thần có ích ǵ?
Tinh thần vi chủ, đó
là Sắc Lịnh của Đạo Cao Đài. Tuy vô h́nh vô ảnh nhưng nó vẫn phải có sức mạnh
bằng không hữu tướng sẽ lấn áp mà dẫn dắt tinh thần đến chỗ tối tâm. Em phải dẻo
dai để xác thân của Đạo cậy nhờ. Xác thể tuy có phần to tướng xong nếu tinh thần
bạc nhược th́ sự to tướng ấy cũng vô dụng.
Hộ Pháp c̣n nói thêm
là Hiệp Thiên Đài rất trọng hệ v́ thế mà Ngọc Hư Cung vẫn theo dơi luôn để định
phận cho cơ Đạo. Nên cùng chăng cũng do ở cửa Hiệp Thiên Đài.
Em Hồ Bảo Đạo nhớ
điều ấy. Đừng lấy cho ai cũng đừng ỷ nơi sức mạnh của đa số hàng Thánh thể hiện
giờ.
Hồ Bảo Đạo! Chị mong
rằng em hiểu ư Hộ Pháp và bắt đầu bỉnh cán lại cơ nghiệp Hiệp Thiên. Đó là điều
Hộ Pháp mong hơn hết.
Thôi em hiểu ư chị
rồi.
Riêng em Trân! Khuyên
đừng nôn nóng vô ích. Thiên cơ đă chuyển, không có ǵ qua sự định sẵn của thiên
thơ. Thôi Hộ Pháp đă cằn nhằn rồi, Chị có lời mừng em Bảo Đạo vả hai em.
Chị xin kiếu.
Thăng (20 giờ 40)
Tái cầu:
CA BẢO ĐẠO
Bần Tăng chào mừng
Hiền Đệ Hồ Bảo Đạo cùng hai em Chức Sắc Hiệp Thiên.
Đáng lẽ Bần Tăng
không được đến v́ có lịnh Hộ Pháp nhưng thể theo sở vọng của em, Bần Tăng rất
hân hạnh được người cho phép đến đôi lát với em Hồ Bảo Đạo và hai em. Bần Tăng
rất muốn đến để tâm t́nh ngặt nổi Hộ Pháp rất nghiêm lịnh.
Người đă dạy rơ ràng
từng nét, vậy Hiền Đệ cứ theo đó mà thi hành. Bần Tăng lúc nào cũng ở bên cạnh
Hiền Đệ để vừa tṛn trách vụ đối với Ngọc Hư Cung. Hiền Đệ nên nhớ rằng dù ở Chi
Đạo, nhưng hiện giờ Hiền Đệ nắm luôn quyền hành của Chi Pháp lẫn Chi Thế, là
thay quyền Hộ Pháp th́ Hiền Đệ nên tự hiểu nhiệm vụ đặc biệt nầy mà hành thiên
mạng.
Vốn là Chi Đạo th́
phải binh vực chở che nhưng đă nắm Pháp th́ phải tỏ ra cương quyết, vô tư, bằng
chẳng th́ chưa phải vai tuồng Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài. Nhiệm vụ đó tuy
có phần nặng nhọc đối với Hiền Đệ nếu hoàn thành trọn vẹn th́ công lao không nhỏ.
Hăy quên bản tánh từ
ḥa và nhún nhường mà phải cương quyết cứng rắn cho ra vẻ Chi Pháp mới được.
Hiển Đệ tập lần đi rồi ngày kia sẽ quen dần.
Hộ Pháp trách Hiền Đệ
đă đúng đó, Bần Tăng không có lời nào chống chế.
Thôi vài điều gọi là
tri âm cùng nhau, sẽ có ngày tái ngộ vui vẻ hơn. Bằng Tăng xin kiếu.
Thăng (20 giờ 52)
Từ đó các Ngài lập đàn học hỏi, gồm 4 người:
-Giáo Hữu Thượng Tống Thanh
-Truyền Trạng Phan Văn Về
-Sĩ Tải Lê Văn Khoăn
-Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt.
Chung tâm hiệp chí nhau cầu cơ học Đạo.
Đức Đại Từ Phụ dạy lập thệ bảo mật và cho phép cầu cơ. Đức Cao Thượng Phẩm hướng
dẫn cách thức lập thệ. Lúc đầu không hiểu, sau rơ là thể thức lập Ban Đồng Tử
Thiên Thượng, Thiên Hạ, Bác Ái, Công Bằng để các Đấng dạy những việc cần thi
hành.
Ban Đồng Tử được sự bảo đảm và chung chịu trách nhiệm của Đức Hộ Pháp, Đức Cao
Thượng Phẩm, Ngài Ca Bảo Đạo và được sự pḥ trợ của các Đấng Thiêng Liêng.
Việc trước tiên là lập ḷng sớ cho Ngài Hồ Bảo Đạo thượng dâng mỗi kỳ đàn sóc
vía, Sóc, Vọng. Viết xong chỉnh lại nhiều lần. Ngài Ca Bảo Đạo thảo đại ư cầu
xin điều đại xá tội cho nhơn loại…mở cơ xuất Thánh…trổ lập Giáo Tông chánh vị
tại hữu h́nh…phục hưng Hội Thánh Ngoại Giáo v.v…
8.BỊ TÙ LẦN THỨ 3
KHOẢNG 10 THÁNG
Lúc đó Ngài phải chịu giải phẫu lần thứ nh́ v́ bịnh sa ruột, vừa xuất viện ba
hôm, rất yếu, hằng đêm thức cầu cơ, sáng chống gậy lần đi từng bước chậm, đem
đến đọc cho Ngài Bảo Đạo tại nhà khách Giáo Tông Đường. Bữa đúc kết sớ văn, Ngài
vào tŕnh Ngài Bảo Đạo xong về tới nhà th́ công an khu vực chực sẵn mời đi luôn
vào trưa ngày 22-1-1983.
Ngài định không đi, lư do mới xuất viện quá yếu, c̣n phải đi bằng gậy nhưng
cưỡng không được. Biết rằng công an mời là bắt, Ngài chuẩn bị giỏ đồ và thuốc
uống, công an không cho mang theo, nói rằng chỉ hỏi chút chuyện rồi về.
Ra khỏi cổng nhà có Honda chờ sẵn, chở xuống đồn Thị Trấn, ghé báo cáo vài phút
rồi chở luôn ra Ty, cho nằm tới chiều, tối đưa qua khám đường vào buồng 9. Thủ
tục khá rườm rà và phiền phức nhưng đă là tù th́ chấp nhận mọi nhục nhă trước
hành động hách dịch cùng ngôn ngữ bất lịch sự của công an.
Buồng đă 51 người, sau lên 69 người, nằm trở đầu trái trả và phải nằm nghiêng.
Tiêu chuẩn nước mỗi ngày 5 lon gô, vừa tắm vừa giặt quần cụt. Mấy hôm cúp nước,
tiêu chuẩn c̣n lại một lon, bẩn thỉu, ô trược, chật hẹp, nóng bức, luôn luôn mặc
quần cụt, ở trần, sải ngứa vô cùng, vật ǵ rờ tới cũng nhớt. Tay chẳng rời quạt
bao giờ. Tiêu chuẩn cơm vẫn như xưa, bữa ăn 2 chén.
Suốt 10 tháng giam giữ, công an không điều tra xét hỏi chi cả, cách ly cầm chơn
nhốt Ngài ở trong tù. Công an bắt Ngài thứ bảy 22-1-1983 đến ngày thứ hai ngày
24-1-1983 mới kư lịnh bắt.
Thân nhơn t́m hỏi, công an chỉ ra Ty, Ty chỉ ra khám đường, khám đường chỉ trở
lại Ty, chỉ qua chỉ lại suốt hai tuần lễ, gia đ́nh không biết đâu, chẳng gởi
quần áo, thuốc men cho Ngài được.
Ngài được trả tự do ngày 12 -11-1983
10 tháng ở trong tù buồng 9 B4 Tỉnh, chật hẹp, thiếu nước trầm trọng như thế lại
c̣n thêm nhiều nỗi đoạn trường sau đây:
-Kiến làm ổ trong tường, dưới nền xi măng, thỉnh thoảng ḅ ra cắn, kiến lửa nhứt
là loại kiến kim, nhỏ con mà cắn nhứt vô cùng khó chịu.
-Rệp ở trong tường, chờ sau tiếng kẻng 9 giờ đêm, mọi người ngủ ngon, chúng ḅ
ra hành quân trên cơ thể tù nhân, đội ngũ khá hùng hậu. Hằng đêm Ngài thấy ngứa,
tay găi bắt nhầm được 1, 2 con. Rệp rất khôn, chờ tiếng kẻng thức 5 giờ sáng tự
nhiên chúng biến mất, sáng ngày khó t́m thấy được.
-Thỉnh thoảng nước ṿi cho vào buồng lúc 12 giờ hoặc 1, 2 giờ khuya, anh em rất
mừng chổi dậy hứng chứa vào hồ nước uống, vào hồ nước vệ sinh, xong rồi mới được
tắm giặt, được sạch sẽ lấy làm phấn khởi. Chỉ những dịp như vậy mới có nước đủ
xài.
-Đôi khi cúp điện, mắc tiểu cứng bọng đáy, chẳng biết phải làm sao? Tối đen
không thấy đường, lối đi chật hẹp vừa đủ bàn chân bước, ṃ mẫm sợ dẫm lên người
khác sanh rắc rối. Ngủ không được nằm chờ đến khi nào có người quẹt lửa hút
thuốc hoặc quẹt lửa đi tiểu mới xin tháp tùng. Việc nhờ cậy cũng khó ḷng, không
phải dễ dàng như ḿnh tưởng.
-Vấn đề thăm nuôi có lắm điều đáng buồn, việc nầy xảy ra mấy tháng sau đó do bị
phản đối quá nên được hủy bỏ luôn. Đó là cán bộ buộc: Giỏ thăm nuôi phải có đồ
mặn, hoặc cá, thịt, hoặc mắm khô…mới được nhận chuyển cho thân nhân.
Việc cấm đột ngột chẳng thông báo trước, gia đ́nh Ngài không hay biết, con dâu
Ngài đem đồ chay thăm Ngài không được đành thất vọng đem về.
Những lần thăm nuôi sau rút kinh nghiệm, trong giỏ thăm nuôi phải có gói cá khô,
Ngài nhận và biếu cho anh em nghèo thiếu thốn ở trong buồng.
-Cái khổ của người tù trường chay là giỏ thăm nuôi được nhận rồi, tập trung tại
một căn nhà giao cho tù lao động lục soát, kiểm tra, pḥng việc dấu gởi đồ cấm
và thư từ liên hệ từ bên ngoài. Bánh bị xé làm đôi, những gói thức ăn đều mở ra
lục soát. Đồ kho: cá, thịt, tàu hủ, canh v.v…đựng trong b́nh mũ, được trút ra
thao để kiểm tra cho được chu đáo. Chỉ một thau và một đôi đũa duy nhứt, đồ chay
đồ mặn lần lượt được trút ra thau, dùng đũa quậy xét, tuần tự giỏ nầy tới giỏ
khác. Chẳng may đồ chay đổ vào thau vừa mới đựng mấm hay cá thịt, thực tế ra sao,
tù nhân cũng phải chịu vậy. Có người không biết mà nếu có biết cũng đành phải
chấp nhận trước trường hợp bất khả kháng.
-Đồ thăm nuôi bị mất, thuốc uống, thuốc chích cũng bị mất. T́nh trạng chung của
những người tù có đồ thăm tương đối khá. Cán bộ không có khả năng truy tầm hay
là có ư dung dưỡng, chẳng biết được.
-Ngài mắc bệnh dạ dày, có lần cơn đau hoành hành làm tê cả tay chơn, thân h́nh
bủn rủn, thuốc gia đ́nh gởi vào không được giữ tại buồng, ngừa sợ tù dùng thuốc
để quyên sinh, buộc gởi trạm y tế của khám đường. Qui định mỗi tuần một lần phát
thuốc, thực tế có khi 2 tuần mới cho lănh thuốc 1 lần. Ngài nhờ y tá (cũng là tù
nhơn được chọn làm phận sự) cho lănh thuốc. Y tá không dám tự chuyên, báo cho
cán bộ. Tư Ngân đến cười và nói: “Chưa chết mà”.
Tưởng là lời nói chơi, Ngài hy vọng một chập sau sẽ có thuốc uống, song chờ đợi
mỏi ṃn để rồi chẳng có ǵ hết. (Chuyện xảy ra ở buồng 8 đầu năm 1985).
-Phần Ngài cũng được ưu ái cho một bạn tù nằm gần, gợi chuyện nói xấu chế độ, để
xem coi phản ứng của Ngài như thế nào, sau đó sẽ báo cáo lại cho cán bộ.
Có điều lạ là người nằm gần cũng là Đạo hữu, rất mến Ngài, không có ác ư làm hại,
đem việc tỏ bày rồi hỏi ư kiến của Ngài để báo cáo cho khỏi mất ḷng cán bộ.
-Ở buồng chật hẹp đông người, ngày đêm nóng bức, mọi người đều ở trần, vận một
quần đùi, mồ hôi rít rấm nhớt lầy, người sanh ghẻ nếu không cũng sảy ngứa, quạt
liên hồi, quạt quên thôi, nóng vẫn nóng bức. Tay cầm quạt đưa lên cao để khỏi
đụng nhầm người bên cạnh, nóng ngủ không được. Quạt măi đến khi quên ngủ thiếp
đi, tay vẫn lắc lư quạt, đôi khi cây quạt rời khỏi tay lúc nào không biết mà tay
vẫn c̣n phe phẩy.
Đến khi được trả tự do, mấy tuần đầu về nhà, thói quen cũ trong khám đường vẫn
c̣n, tay lắc lư phe phẩy c̣n quạt đă rơi lúc nào không hay. Thế cũng làm tṛ
cười cho thân nhơn trong gia đ́nh.
Sức nóng ở trong buồng đến độ không chịu nổi và không tưởng tượng được. Một nải
chuối c̣n xanh, thật xanh, gia đ́nh gởi cho chiều trước, sáng hôm sau vàng hực,
c̣n hơn ở gia đ́nh vú hầm kín với rượu và khói nhang.
Nóng đến độ cán bộ không dám đứng ngay mỗi khi mở cửa buồng gọi tù ra làm việc
hoặc mở cửa phát thuốc cho tù nhân.
Cán bộ trại có người lấy tay, bịt mũi làm ra vẻ, cán bộ y sĩ phát thuốc mang
khẩu trang.
Chẳng biết dùng lời lẻ nào kể xiết sức nóng ở trong buồng chật hẹp nhốt gần bảy
chục tù nhân, nằm nghiên, trở đầu trái trả và thiếu nước trầm trọng.
-Tiêu chuẩn cơm mỗi phần non hai chén nhỏ, trong vào thấy màu vàng pha lẫn, tuy
mắt làn mà một lúc lượm thử hơn tám chục hạt. Năm khi mười họa mới có trường hợp
nầy.
-Điều đau khổ nhất là bị bắt buộc cạo râu. Năm 1976 lúc ở buồng 2, cán bộ Tư
Chưởng nói sơ cho Ngài nghe. Thế rồi lúc hớt tóc, tới cạo râu, Ngài không bằng
ḷng cho cạo. Người thợ hớt tóc, cũng là tù biết nghề nói rằng nội qui trong tù
buộc như vậy, cán bộ đă ra lịnh, nếu không cạo râu, cả hai đều bị trách nhiệm.
Đắng đo suy nghĩ một hồi, Ngài nghĩ tội nghiệp cho ông bạn tù vô cớ bị vạ lây,
nên Ngài chấp nhận.
Hớt tóc xong trở vào buồng, ḷng Ngài xót xa vô hạn, buồn tủi vô cùng. Râu để
hơn 10 năm rồi, quyết chí lo Đạo, đột nhiên bị bắt cạo râu buồn nhiều hơn là bị
bắt vào tù. Ngài ân hận tự trách sao bạc nhược yếu hèn: chịu cho cạo râu tức
chịu khuất phục, làm nhẹ thể Chức Sắc, ảnh hưởng tới danh Đạo…liên tiếp mấy ngày,
mỗi lần nghĩ tới Ngài thấy ray rứt cơi ḷng. Lắm khi đêm khuya canh vắng, thức
giấc nhớ tới là ngủ không được, trằn trọc, trăng trở, âm thầm than vắng thở dài…
Ngài đấu tranh tư tưởng và quyết chí để râu lại như trước, cũng may mọi chuyện
đều xuôi chèo mát mái, ư định được thi hành một cách an toàn vô sự.
Sau đó Ngài được chuyển lên trại cải tạo, việc vệ sinh có phần đỡ hơn, đi lao
động được hít thở không khí trong sạch hơn, dang nắng da thịt đỡ bủn, dỡ xanh
mét, móng tay không c̣n mềm dể xước như lúc ở trong rập thiếu ánh sáng tuy
nhiên lại có sự khổ khác và tủi nhục hơn. Xin đơn cử vài việc:
Ngày đầu đến trại, một phần lớn tù nhân nằm sạp lót bằng cây tṛn không bằng
phẳng, cấn lưng đau vô cùng tận, người được may mắn nằm sạp tre tuy đỡ hơn nhưng
cũng chẳng êm lưng chút nào thật là:
“Có khổ đau mới biết tuồng đời bất hạnh,
“Không trần ai sao rơ
mặt công hầu?
-Thời gian sau được cải thiện đỡ hơn nhiều, không đến đổi vất vả như buổi ban
đầu.
-Đội ngũ rệp ở trong sạp tre rất cường thịnh, đông đảo gấp trăm ngh́n lần hơn ở
khám đường tường cách xi măng. Mọi bữa 6 giờ chiều sắp vào trại vô c̣ng, Ngài
lấy làm hải hùng lo sợ. Các đoàn rệp kỵ binh dạ hành thám hiểm cùng khắp cơ thể,
ḅ nhột người cắn ngứa khó chịu.
-Đôi khi ngoại giao xin được ít thuốc rầy của đội cải thiện, lén pha nước răi
trên sạp tre trừ bớt rệp, rũi kỹ thuật Ba Hoài ngửi thấy mùi truy ra đem giải
phẫu và cảnh cáo ngay giữa cuộc sanh hoạt của tù, người xài lẫn người cho đều
chịu chung trách nhiệm. Lư do nêu lên là thuốc rầy dùng để trừ sâu bọ phá hoại
hàng bông, anh em đánh cấp gây thiệt hại cho trại, ảnh hưởng đến sự sống của tù
nhân. Thực tế th́ Ba Hoài sợ rệp chết rơi xuống đất, gà con của Hoài nuôi, ăn
nhằm phải chết lây. Ba Hoài nuôi gà, thỏ trong trại, dư ăn thường gởi về cho vợ
con. Gà nuôi đă không mất công cũng khỏi tốn. Dùng thế lực của kỹ thuật buộc nhà
bếp phải cung cấp gạo cho gà trong khi tù đói không đủ no. Lại bắt người chăm
sóc bắt ṿi cho gà ăn. Ṿi lấy trong các thùng phân mỗi bữa đem ra bón rau.
Như vụ Phạm Hoàng Châu Giáo Sư Anh Văn, con trai ông Ngọ, Truyền Trạng Hiệp
Thiên Đài, từ chối không nhận bắt ṿi nuôi gà cho Ba Hoài, Hoài không cho Châu
tiếp tục việc phơi phân, chuyển công tác khác nặng hơn.
-Những lúc ăn bo bo, khoai ḿ, tất cả đều đói. Khoai ḿ chở về trại một lần cả
xe reo. Ngày đầu khẩu phần được 3, 4 củ nhỏ có, lớn có, dài 2, 3 tất, ngày thứ
nh́ giảm bớt, ngày thứ ba chỉ c̣n vài củ thôi bởi v́ ḿ chạy chỉ và thối. Sau
cán bộ mua ḿ rẫy cho tù đi nhổ, mỗi ngày vát về đủ ăn.
Anh em không được thăm nuôi tiếp tế, đói đi mót rau muống già (gốc rau cắt bỏ)
mót ăn cho đỡ đói, bị trật tự, kỹ thuật rầy quở nặng lời: “Rau không đủ heo ăn
mà mót cái ǵ? Muốn vô c̣ng không?”.
Nói rằng rau muống già, sự thật già cũng có, non cũng có, bởi v́ rau cấp cho tù
theo tiêu chuẩn, quản lư nhà bếp được lịnh cắt bỏ gốc già thật nhiều dành cho
heo ăn, cũng như nhà bếp nấu cơm cho tù phải nấu có nhiều cơm cháy đặng nuôi heo.
Heo của trại nuôi, tiền mua truất trong tiêu chuẩn phần ăn của tù, mua heo con
giao cho tù, mót gốc rau và cơm cháy cho heo ăn. Nuôi heo không tốn tiền, heo
lớn lên cân bán lại cho trại theo giá thị trường. Chẳng biết dùng tiền đó vào
việc ǵ?
-Đội cải thiện sản xuất rau cải vừa bán cho trại, vừa bán cho bạn hàng đến cân
mua. Rau bán cho bạn hàng cắt lúc 1, 2 giờ chiều, nhẹ cân bạn hàng mới bằng ḷng,
c̣n rau bán cho trại cân buổi sáng sớm lúc mới tưới xong nặng cân tính nhiều kư,
kể công với cán bộ để được khen thưởng.
Nghe anh em nói tiền bán rau cải chia ra nhiều chương mục của Đội, của trại, của
Ty, của đội bóng đá mà Ba Hoài vẫn có phần chia xén.
Cần nói rơ: Ba Hoài là tù chánh trị lănh án 20 năm, án nặng đáng lẻ phải chuyển
đi Phú Khánh, nhờ khéo chạy chọt lập công lấy ḷng cán bộ được cắc nhắc lên làm
kỹ thuật, tức là đại diện cho tù bên cạnh cán bộ, Hoài được giữ lại tỉnh, rất
được tín nhiệm, tù nhơn sợ Hoài c̣n hơn sợ cán bộ. Ba Hoài theo sát anh em, nhặt
nhiệm khó khăn hơn cán bộ, nhờ vậy mỗi năm được giảm án nhiều. Hoài trả nợ tù
khoảng 11, 12 năm th́ được thả về.
Có lần gần tết, anh em lén tổ chức tiệc rượu nho nhỏ vài ba người vui chơi giải
trí, Ba Hoài có mặt liên hoan. Ngài lợi dụng lúc có hơi men nhỏ to với Hoài:
-Chú Ba! Cái án 20 năm của chú, anh em nghe ai cũng quư chú. Chú nhớ án chú là
án chánh trị. Chú được cán bộ tin cậy, cương vị của chú rất thuận tiện giúp đỡ
anh em. Chú ráng làm sao cho xứng đáng sự tin cậy của anh em. T́nh cảm tạo nên
trong cảnh tù mới đáng quí và nó tồn tại lâu dài. Ḿnh ở tù nhất định một thời
gian nào đó thôi, trước sau ǵ cũng có ngày về. Ai cũng vậy, làm thế nào khi về
đời gặp lại nhau, anh em vui vẻ với nhau là điều quí. Ráng nghe chú Ba. (Ba Hoài
nhỏ hơn Ngài dưới 10 tuổi).
Nhắc lại chuyện trong tù ở Bàu Cỏ, có lúc Ngài được giao việc nấu thuốc Nam phát
cho tù, thường tiếp xúc với anh tá (Cựu Thiếu Tá Quân Đội Cao Đài) sau anh Tá
được xả c̣ng và giao phần hành trạm y tế trong trại. Anh Tá buồn v́ nhà nghèo,
ít thăm nuôi, phần anh lại có sức, tiêu chuẩn trại phát ăn không đủ no anh buồn.
Ngài an ủi và có phần hài hước như sau:
-Anh buồn cái ǵ?-Có ǵ mà buồn.
Trước đây sau cuộc đảo chánh Pháp (ngày 9-3-1945) anh vâng lịnh Hội Thánh đi
rước những người tù đày ở Côn Đảo, tôi nhớ có Ngài Giáo Sư Thượng Sáng Thanh (sau
thăng Đầu Sư), ông Nguyễn Bửu Tài (Đầu Sư phái Tiên Thiên) về Quốc Sự Vụ với ông
Lê Minh Ṭng (họa sĩ vẽ h́nh Tam Thánh ở Ṭa Thánh), ông Tôn Đức Thắng và mấy
ông Cộng Sản bị đày chung. Về tới cột cờ Thủ Ngữ, bến tàu Sài G̣n, ông Tôn Đức
Thắng vừa ôm anh vừa khóc, vừa nói lời cảm ơn: “Tôi tưởng gởi xác ngoài Côn Đảo,
không có ngày về đất liền, hôm nay được đặt chơn về tới đây, công ơn anh không
biết ngày giờ nào tôi đền đáp được”. Vừa nói ông vừa khóc.
Bây giờ cụ Tôn Đức Thắng làm lớn trong chánh phủ, bận việc quốc gia đại sự,
không đền ơn anh được, th́ con cháu cụ thay cho cụ, mời anh tới đây, cất nhà cho
anh ở, nấu cơm cho anh ăn, tối anh ngủ c̣n có lính gác, như vậy là đủ quá rồi
c̣n ǵ nữa mà buồn.
Hai anh em cười…
Thật ra anh Tá cũng làm được vài việc đáng nhớ. Như lúc hiệp lực với quốc gia
hành quân ở vùng Bến Tre (vùng nầy kháng chiến quân rất nổi tiếng). Sau cả ngày
giao tranh ác liệt, nữa đêm cuộc chiến có phần lắng dịu, hai bên tự rút binh về
cứ địa. Về tới khu vực ḿnh kiểm binh lại, không có Thiếu Tá Nguyễn Văn Thiệu,
anh Tá vội kéo binh trở lại chiến trường t́m rất nhọc nhằn và khó khăn, rốt cuộc
cũng t́m gặp và cùng về an toàn đến nơi đến chốn. Nghĩ rằng nếu c̣n lẫn quẩn
chiến trường suốt đêm không ra khỏi chẳng biết có được an toàn tánh mạng hay
không. Do đó Thiếu Tá Thiệu rất trọng ơn và nặng mang t́nh cảm đó. Khi làm Tổng
Thống, ông Nguyễn Văn Thiệu cho anh Tá làm Trưởng Ty Chiêu Hồi Hậu Nghĩa.
Được ban cho danh vọng nhưng lại ngoài khả năng, việc làm không trôi chảy. Ông
Thiệu buộc ḷng cho nghỉ việc và đặc biệt cho anh Tá một tập ngân phiếu, muốn đi
du lịch đâu tùy ư, thiếu tiền cứ kư phiếu vào ngân hàng lănh. Kể ra ông Thiệu
cũng là người có t́nh có nghĩa lắm vậy.
Năm 1984, khám đường Tỉnh chia làm 2 dăy, một bên nhốt tù chánh trị, tôn Giáo
được đồng hóa liệt chung với chánh trị. Dăy bên kia giam tội phạm h́nh sự và tệ
đoan xă hội.
Bị giam ở huyện Ḥa Thành 7 ngày, ngày 25-12-1984 được giải ra tỉnh. Giáo Hữu Tống
và Sĩ Tải Khoăn được xếp vào buồng 2 và 5 thuộc dăy chính trị. Riêng Ngài vào
buồng 8 h́nh sự khiến cho nhiều người lưu ư. Nhiều nghi vấn được đặt thành vấn
đề nhưng không giải đáp được liền khi đó.
Những lần họp dân ở ấp để phục quyền công dân cho Ngài sau thời gian bị quản chế,
chánh quyền địa phương chờ dịp giải quyết chung với tội phạm h́nh sự, trộm cấp…làm
cho nhân dân không khỏi ngạc nhiên, đánh dấu hỏi.
9.BỊ TRỤC XUẤT RA
KHỎI ĐẠO MỘT CÁCH VÔ LƯ
Hội Đồng Chưởng Quản Hội Thánh Cao Đài kư Huấn Lịnh ngày 7-3-1985, trục xuất
Ngài ra khỏi Đạo cùng một số người trong nhóm Thiên Khai Huỳnh Đạo và Hội Thánh
Tân Triều. Ngài đứng đầu trong danh sách trong khi chẳng dính dấp ǵ tới tổ chức
nầy.
Nguyên văn Huấn Lịnh như sau:
Hội Đồng
Chưởng Quản Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Văn Pḥng
(Ngũ Thập Bát Niên)
Số 025/58/HĐCQ-HL Ṭa Thánh Tây Ninh
Hội Đồng Chưởng Quản Ṭa Thánh Tây Ninh
Chiếu Đạo Lịnh số 1/DL ngày 01/03/1979 tổ chức Hội Đồng Chưởng Quản với chức
năng thay mặt toàn Đạo quản lư nền Đạo đi theo con đường
Tôn Giáo thuần túy.
Chiếu Thông Tri số 02/50 ngày 05/05/1963 trục xuất ra khỏi cửa Đạo đối với người
Đạo có liên quan vụ án “Thiên Khai Huỳnh Đạo”, “Hội Thánh Tân Triều” tại Ṭa
Thánh và Thánh Thất Cao Lănh, Đồng Tháp.
Theo biên bản phiên họp tại Giáo Tông Đường ngày 05/05/1985, Hội Đồng Chưởng
Quản đă nhận định, xem xét mức độ sai phạm của các đương sự đối với nhà nước,
với Đạo rất nghiêm trọng:
HUẤN LỊNH
Điều thứ nhứt:-Hội
Đồng Chưởng Quản quyết định thu hồi phẩm tước và đưa ra khỏi Đạo đối với những
vị Chức Sắc, chức Việc, tín đồ liên quan vụ án phản cách mạng như trên, danh
sách kèm theo Huấn Lịnh nầy.
Điều thứ nh́:
A.-Toàn Đạo không ai được phép nh́n nhận những kẻ có danh sách đưa ra khỏi cửa
Đạo là môn đệ của Đức Chí Tôn cho đến khi họ biết ăn năn cải hối tốt.
B.-Toàn Đạo không ai được phép chứa chấp, nuôi dấu những kẻ phạm các vụ án phản
cách mạng c̣n đang lẫn tránh pháp luật nhà nước kể cả những kẻ khác c̣n đang
ngấm ngầm nhen nhóm tổ chức phản động đội lốt tôn Giáo.
C.- Hội Đồng Chưởng Quản khoan hồng cho những người phạm sai lầm biết tự giác
hối cải, ra tŕnh diện nhận tội với chánh quyền cách mạng.
Điều thứ ba:
Vị Từ Hàn Hội Đồng Chưởng Quản, chư vị Cai Quản Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu
lănh ban hành Huấn Lịnh nầy cho Chức Sắc, Chức Việc và tín đồ nam nữ nghiêm
chỉnh thi hành.
Lập tại Ṭa
Thánh ngày 23 tháng giêng Quí Hợi
(Dl.
07/03/1985)
T.M Hội Đồng
Chưởng Quản
Qu. Thái Chánh
Phối Sư
(ấn kư)
Thái Hiểu
Thanh
Vâng lịnh thi hành:
Từ Hàn HĐCQ
(Đă kư)
G.S. Thái Phát
Thanh
Danh sách Chức Sắc, Chức Việc và tín đồ liên quan các vụ án phản cách mạng (Đính
kèm theo Huấn Lịnh số 025/58)
1.-Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt (tự Trân)
2.-Cựu Truyền Trạng Vơ Văn Nhơn
3.-Hiền Tài Trịnh Quốc Thế
4.-Hiền Tài Lê Kim Tấn
5.-Giáo Hữu Thượng Sanh Thanh (Nguyễn Quang Sanh)
6.-Lễ Sanh Thượng Ḥa Thanh (Nguyễn Ngọc Ḥa)
7.-Đạo Hữu Lê Hồng Ân
8.- Đạo Hữu Nguyễn Văn Chánh
9.-Hiền Tài Nguyễn Ngọc Nương
10.-Đạo Hữu Nguyễn Văn Bửu (tự Chí Mỹ)
11.-Đạo Hữu Hồ Vũ Khanh
12.-Đạo Hữu Nguyễn Thanh B́nh
Ngài được ra tù ngày 18-01-1984, Ngài liền gởi cho Hội Đồng Chưởng Quản văn thư:
-Chỉ chỗ sơ sót của Hội Đồng Chưởng Quản là ban hành Huấn Lịnh trục xuất mà
không gởi cho đương sự tường hành, nhờ gia đ́nh giữ hộ trường hợp đương sự vắng
mặt.
-Hỏi Hội Đồng Chưởng Quản căn cứ vào sự kiện nào mà khép Ngài vào nhóm Thiên
Khai Huỳnh Đạo và Hội Thánh Tân Triều để trục xuất.
-Cho rằng Hội Đồng Chưởng Quản quá nông nổi vội vàng trong khi công an có quyền
ra lịnh bắt, có quyền ra lịnh giam, suốt thời gian giam giữ không hề hỏi cung,
không điều tra xét hỏi ǵ hết, như vậy chứng tỏ Ngài chỉ bị t́nh nghi vô căn cứ.
-Yêu cầu điều chỉnh Huấn Lịnh để nói lên sự hợp lư trong việc làm của Hội Đồng
Chưởng Quản.
Nguyên văn bức thư gởi Hội Đồng Chưởng Quản như sau:
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Ngũ Thập Bát Niên)
Ṭa Thánh Tây Ninh
Kính gởi Hội Đồng Chưởng Quản Ṭa Thánh Tây Ninh
Kính Hội Đồng
Khi tôi ở tù, tôi được nghe nói Hội Đồng Chưởng Quản có kư Huấn Lịnh lên án tôi
cùng với 11 người khác vào tổ chức “Hội Thánh Tân Triều” và “Thiên Khai Huỳnh
Đạo” để trục xuất ra khỏi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Huấn Lịnh mang số 025/58-HĐCQ-HL đề ngày 23 tháng Giêng Quí Hợi (Dl 7-3-1983) do
Quyền Thái Chánh Phối Sư Hiền Hữu Thái Hiểu Thanh thay mặt kư tên, không được
gởi cho gia đ́nh của đương sự, dành để cho đương sự tường hành mà chỉ phổ biến
bằng cách đọc tại giảng đài Đền Thánh.
Tôi lấy làm ngạc nhiên vô cùng, không rơ Hội Đồng Chưởng Quản căn cứ vào yếu tố
nào để lên án tôi một cách vội vàng như thế trong khi cơ quan có thẩm quyền kư
lịnh giam giữ tôi vẫn để tôi yên suốt thời gian giam giữ, không hề hỏi tôi một
lời. Như thế có nghĩa là tôi bị đặt vào t́nh trạng nghi vấn mà thôi.
Tôi được trả tự do vào ngày 12-11-1983 do sự cứu xét sáng suốt của Ty Công An và
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tây Ninh, chiếu Hiến Pháp của nhà nước Cộng Ḥa Xă Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam.
Yêu cầu Hội Đồng Chưởng Quản điều chỉnh lại Huấn Lịnh để nói lên sự hợp lư trong
việc làm của Hội Đồng Chưởng Quản đồng thời để thích hợp với hiện trạng của tôi.
Ṭa Thánh ngày
16 tháng Chạp Quí Hợi
(Dl 18-1-1984)
Nguyễn Minh
Nhựt
Cải Trạng Hiệp
Thiên Đài
Cần nói rơ, lúc bấy giờ Ngài Bảo Đạo bị áp lực đời cho nghỉ và Ngài Đầu Sư Ngọc
Nhượn Thanh cũng bị cho về nhà dưỡng lăo, chỉ c̣n ông Thái Hiểu Thanh cầm đầu
Hội Đồng Chưởng Quản.
Một hôm nhầm lúc chuẩn bị cầu siêu tại Đền Thánh, trước khi đưa linh cửu Bà Phối
Sư Hương Nương đi mai táng, tự nhiên ông Thái Hiểu Thanh khều Ngài ra cửa Nghinh
Phong Đài nói riêng:
-Hiền Huynh yên tâm đừng ngại, người ta biểu sao ḿnh làm vậy cho yên chớ Hiền
Huynh ở Hiệp Thiên Đài biết rơ Phối Sư quyền hạn ǵ mà trục xuất Cải Trạng.
Ngài nói:
-Tôi biết, tôi vẫn thản nhiên không ngại ǵ hết, mà văn thơ của tôi gởi Hội Đồng
Chưởng Quản tới đâu rồi?
-Tôi gởi qua Mặt Trận Tổ Quốc Huyện, nó làm thinh không trả lời.
Ngài cười:
-Trước khi làm tôi đă đo lường kết quả và hậu quả, tôi biết trước văn thơ gởi
chẳng kết quả ǵ, không đi tới đâu hết, nhưng cương vị tôi đúng chỗ nói phải nói,
đúng chỗ làm phải làm. Tôi làm đúng chỗ và đúng lúc, dầu biết không kết quả,
đúng chỗ vẫn phải nói, vẫn phải làm, thế thôi.
Thương hại cho ông Thái Hiểu Thanh, đặt nặng vấn đề danh lợi cho bản thân,
nghiên ngă phía chánh quyền, lúc đầu thường chê ông Bảo Đạo kém sáng suốt, ông
nói với ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Nguyễn Văn Hợi:
-Phải ông Bảo Đạo biết nghe lời người ta (ư nói chánh quyền) bảo sao ḿnh làm
vậy th́ yên chớ ǵ.
Sau khi Ngài Bảo Đạo, Ngài Đầu Sư bị loại ra khỏi Hội Đồng Chưởng Quản, ông Thái
Hiểu Thanh trọn quyền thay mặt, chịu không nổi áp lực của chánh quyền, xin từ
nhiệm. Ông nói với Thừa Sử Lê Quang Tấn và Ngài rằng:
-Tôi đâu có dại để thằng Trương Ngọc Anh trèo lên đầu lên cổ tôi hoài.
Về Sài G̣n ông gởi “Ư niệm thơ” xin vô hiệu hóa chữ kư trên văn bản trục xuất
hay giáng cấp Chức Sắc, yêu cầu Hội Đồng Chưởng Quản thông báo trên giảng đài
Đền Thánh sau khi đàn vía, sóc, vọng đại ư xin Chức Sắc thông cảm hầu cứu văn
mọi mất mát đă qua, mong mỏi lúc về Ṭa Thánh chầu lễ, anh em gặp lại tay bắt
mặt mừng với nhau vui vẻ.
Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Nguyễn Văn Hợi, ông Giáo Hữu Thượng Đâu Thanh (Nguyên Khâm
Châu Sài G̣n), ông Thừa Sử Lê Quang Tấn là những động cơ giúp ông Thái Hiểu
Thanh nói lên điều hối hận và Ngài soạn thảo văn thơ, dầu rằng đă được chỉnh bớt
đi nhưng ông vẫn nh́n nhận việc làm của ông ở Hội Đồng Chưởng Quản đă vượt khỏi
phạm vi quyền hạn được qui định trong Pháp Chánh Truyền.
Ư niệm thơ không được đọc ban hành trên giảng đài v́ hai ông Phối Sư Thượng Phép
Thanh và Cải Trạng Lê Minh Khuyên, thay quyển Hội Đồng Chưởng Quản vừa kư lịnh
ngưng chức ông Giáo Sư Ngọc Tuất Thanh.
Ông Thái Hiểu Thanh kư tên trục xuất chức sắc lúc c̣n đương quyền, nay nghỉ việc,
xin vô hiệu hóa chữ kư, về mặt pháp lư thật vô tác dụng, song có c̣n hơn không.
Chức Sắc và anh em bổn Đạo được rỉ tai thông báo rộng rải, đa số đều biết và
mừng cho một chơn linh sớm giác ngộ.
Nghỉ việc đời, ông Hiểu định ẩn dật, mai danh ẩn tích, chẳng muốn tiếp khách,
thời gian đầu ông ở nhà con gái (Cliché Dầu) ở Sài G̣n. Chức Sắc đến thăm, thân
nhơn cho biết ông Hiểu đi đổi gió ở Đà Lạt, kỳ thật lên ở nhà con gái ông ở G̣
Dầu.
Ông Thừa Sử Lê Quang Tấn trao Ư Niệm Thơ cho ông Hiểu cũng tại G̣ Dầu Tây Ninh.
Thôi việc Đạo trở về gia đ́nh, ông Thái Hiểu Thanh có nhiều thời giờ rỗi rănh,
ôn lại hành tàn đă qua, hẳn nhiên ông nhớ nhiều việc, lương tâm không khỏi ray
rứt, định rằng: chết cho hỏa tán, thiêu hài cốt, không làm theo phép Đạo.
Nghe vậy, ông Lê Quang Tấn và Ngài đến nhà thuyết phục, trên lầu, ông niềm nở
đón tiếp vừa chỉ Ngài Cải Trạng vừa giới thiệu với con gái thứ hai của ông:
-Ông nầy hồi trước chống tôi hơn hết.
Không nhận thấy ở ông một sự câm hờn, Ngài nghĩ rằng ông Hiểu nói như thế để
khỏi ngỡ ngàng khi gặp đối diện với Ngài.
Ngài đáp lại một cách vui vẻ:
-Không phải chống, nhưng cương vị của tôi đúng chỗ nói phải nói, đúng chỗ làm
phải làm. Thế thôi.
Cả thảy đều cười x̣a rồi nói sang chuyện khác.
10.BỊ BẮT V̀ LIÊN
QUAN ĐẾN CƠ BÚT
Mười tháng vắn mặt Ngài, anh em trong Ban Đồng Tử không gián đoạn phận sự. Khi
được thả về Ngài cùng các anh em tiếp tục lại.
Ngày 17-12-1984, công an huyện Ḥa Thành bắt Ngài một lần nữa, bắt nguội v́ lư
do cơ bút, diễn biến vụ việc có vẻ hơi bất thường:
Công an xă Trường Ḥa xét vùng Trí Huệ Cung t́m máy bơm của Đền Thờ Phật Mẫu mất,
nghi Út Hạnh là thủ phạm ră máy bơm từng bộ phận nhỏ, gởi cho thân nhơn là ông
Giáo Thiện Lê Văn Lan hoặc gởi cho Sĩ Tải Lê Văn Khoăn. Lúc xét nhà ông Khoăn
không có mặt, t́m không thấy mà thấy nhiều Thánh Giáo, tịch thu đem về xă, thấy
có liên quan Ngài Bảo Đạo về Hồng Đào Bửu Thệ, Ngài cùng Ban Đồng Tử kư tên
chung.
Cả bốn người đều đều bị bắt, ngày 24-12-1984 đem công hóa vấn đề, mời Chức Sắc
đến hội trường trước Giáo Tông Đường, công an không nói rơ ràng chỉ đưa bản Hồng
Đào Bửu Thệ ra, che khuất đoạn văn trên không cho xem, đưa chữ kư hỏi phải của
Ngài Bảo Đạo không, ư buộc tội Ngài Bảo Đạo bị quản chế 3 năm c̣n liên hệ bên
ngoài.
Ngày công khai hóa, họ bắt Ngài Bảo Đạo và các Ngài ra mặt.
Ngày 25-12-1984 giải các Ngài ra khám đường Tây Ninh. Một năm sau, cán bộ Viện
Kiểm Soát vào từng buồng, hỏi thăm tù nhơn ai có điều oan khúc cần khiếu nại.
Ngài tŕnh bày ư kiến như sau:
-Nghị quyết 297 của Hội Đồng Chính Phủ cho tự do tín ngưỡng và tự do không tín
ngưỡng. Cơ bút lập Giáo của Đạo Cao Đài, tôi cầu cơ tại nhà tư để học Đạo, không
truyền bá, không rủ ren, không xúc phạm chánh quyền, thế mà bắt tôi cả năm không
xét xử. Như vậy “Luật vua thua lệ làng” chánh quyền Tây Ninh quá quyền, vi phạm
nghị quyết 297 của chánh phủ…
Khiếu nại ngày thứ sáu 29-11-1985 đến thứ hai ngày 2-12-1985, cán bộ Chấp Pháp
gọi Ngài làm việc có sự chứng kiến của cán bộ Tư Phương, Trưởng Pḥng xét hỏi và
giam giữ, đại diện Viện Kiểm Soát Tỉnh.
Ngày 4-12-1984 Ngài được trả tự do tạm, tội danh ghi trong lịnh tạm tha: “Có
hành vi chống phá chính sách, tuyên truyền phản cách mạng-nay không cần thiết
giam giữ”.
Hằng tháng tŕnh diện hai lần tại Chấp Pháp.
Được nghe cán bộ Viện Kiểm Soát rất nể lời nói thẳng nầy.
Ngày được thêm thành tích 12 tháng tù và đây là lần thứ 5 bị bắt.
Đoán hiểu là thủ đoạn chụp mũ của Cộng Sản để tiếp tục bắt lại, ngày 17-2-1986,
Ngài làm tờ đơn xin cứu xét gởi đến các cơ quan có trách nhiệm nhà nước, nói
rằng xin cứu xét, sự thật gián tiếp tố cáo các vụ bắt người phi pháp của công an
và Ngài là nạn nhân. Biết không kết quả song bổn phận phải lên tiếng để lưu bút
tích.
Có lần tŕnh diện Tuấn, Trưởng Pḥng Chấp Pháp (nghe đâu xuất thân đại học công
an Hà Nội) buộc Ngài góp ư chấn chỉnh nền Đạo cho thuần túy tôn Giáo và phù hợp
với chủ trương của nhà nước. Bảo rằng Ngài là Chức Sắc, Đạo Hữu hay công dân
thường, cương vị nào cũng có bổn phận và trách nhiệm.
Ngài trả lời bằng văn bản và nêu ra một số ư kiến như sau:
“Trước kia chánh quyền nói tự do dân chủ, tôi tin thiệt. Trong các phiên họp
giữa Đạo và chánh quyền, tôi công khai nói thật ư nghĩa của tôi trong bổn phận
bảo thủ luật pháp chơn truyền của Đạo. Ư của tôi không giống ư của cán bộ, không
giống ư của chánh quyền, tôi bị khép vào tội chống đối, bắt giam tôi. Nay kêu
tôi góp ư, nếu không làm theo, chánh quyền sẽ ghép tội chống đặng bắt giam nữa…Tôi
đă bị Hội Đồng Chưởng Quản trục xuất ra khỏi Đạo rồi, không c̣n là Chức Sắc hay
Đạo Hữu nữa…Theo ba hội lập quyền Vạn Linh, nhơn sanh chỉ có thể đưa nguyện vọng
mà thôi…Giai đoạn nầy đưa nguyện vọng là lỗi thời bởi Hội Thánh đă bị giải thể,
các cơ sở của Đạo bị nhà nước quản lư c̣n ǵ nữa mà chấn chỉnh? Vả lại Hội Đồng
Chưởng Quản gồm đông Chức Sắc đương nhiên có nhiều sáng kiến hơn cá nhân tôi,
mọi sự canh cải sửa đổi, Hội Đồng chịu trách nhiệm với nhơn sanh, với nhà nước
và với lịch sử…Nếu nói dầu là công dân cũng phải có trách nhiệm, tôi đă có đại
diện chánh thức rồi, đó là Hội Đồng Nhân Dân Xă, Huyện, Tỉnh và Quốc Hội…
“Tôi chỉ xin chữ “B́nh yên” để tu tại gia.”
Một cán bộ của Ty Công An đến làm việc. Ngài hỏi tên, không cho biết chỉ trả lời
rằng: “Nên biết tôi thuộc cấp lănh Đạo”, người có ư khuyến dụ, nói năng trôi
chảy, khéo léo, kín đáo, tỏ ra như có t́nh cảm…định mua chuộc, Ngài phớt lờ, giả
vờ không biết.
Cứ vào ngày 15 và 30 phải tŕnh diện. Được mấy tháng, có lần muốn hành Ngài chơi,
thay v́ đến kư tên sổ hoặc làm việc xong cho về. Tuấn bắt ngồi từ sáng đến 11
giờ 30 không cho về. Ngồi không chờ.
Ngày 25-4-1986, công an Tỉnh định bắt lại bằng cách trá h́nh cho Ủy Ban Nhân Dân
Xă Long Thành viết thư mời xuống đồn Công An Thị Trấn, Ngài không đi nổi v́ mới
giải phẫu lần thứ 3 do chứng ruột sa tái phát, tŕnh giấy xuất viện nên tạm được
yên.
11.MỚI MỔ VẪN BỊ BẮT
GIAM
Ngày 6-5-1986, công an Tỉnh đem xe Jeep đến tận nhà định bắt chở đi. Hiếu, con
trong nhà thấy Ngài quá yếu xin đi thay. B́nh, Trưởng toán công an thịnh nộ đ̣i
bắt Hiếu ra cải tạo luôn. Ngài bất b́nh nói:
-Mấy anh làm sai chánh sách, không nhơn Đạo, sai chủ trương của nhà nước. Trước
khi đi mổ, tôi có tŕnh Ban Chấp Pháp xin một tháng đi bệnh viện giải phẫu. Ban
Chấp Pháp trả lời: “Anh làm ǵ chúng tôi đều biết hết”. Tôi cũng tŕnh Viện Kiểm
Soát, Viện Kiểm Soát bảo: “Không ai bắt đâu mà sợ, cứ đi trị bịnh đi…”. Tôi yên
trí đi mổ, mới ra khỏi bệnh viện, mấy anh bắt nữa, không phải tôi sợ ở tù đâu, ở
tù nhiều lần mà là ở tù v́ Đạo, v́ nhơn sanh, có ǵ mà sợ? Mấy anh không nhơn
Đạo, nói vậy mà không phải vậy. Tôi biết trước, tôi chuẩn bị giỏ đồ đặng đi tù
rồi. Tại tôi c̣n yếu quá thôi, không phải sợ ở tù đâu…
Ngài bảo con Ngài:
-Hiếu, con vào pḥng xách đồ ra.
Hiếu tay mang giỏ quần áo, tay d́u Ngài với cây gậy chống đi. Hiếu đỡ Ngài lên
xe.
Chở tới khám đường, đi ngang pḥng Chấp Pháp, B́nh báo cáo…Tuấn ra lịnh nhốt
Ngài vào cachot. Lúc lập biên bản, Ngài nhận thấy B́nh có dụng ư bất chánh, ghi:
“Đương sự chấp hành” chừa khoảng trống phía dưới, Ngài thêm chữ “tốt” liền sau
chữ “chấp hành” và gạch bỏ khoàng trống dưới. B́nh bảo thôi, để B́nh thêm sau,
rơ là mang tâm gian dối, biết vậy nhưng Ngài chẳng sợ ǵ. Bản nh́ để nguyên cho
B́nh muốn ghi thêm ǵ tùy ư, một bản nhứt đủ lưu ư B́nh đừng nghĩ rằng Ngài
không biết…
Hai hôm sau đưa Ngài lên Cây Cầy.
Nguồn tin thu nhận được là Tuấn cho rằng Ngài luận biện thăm thù cố oán tôn Giáo
theo Giáo điều Cộng Sản, muốn hại Ngài. Ba lần đề nghị bị Viện Kiểm Soát bát
không kư tên, với những lư do sau:
1.-Truy tố ra Ṭa: Bát v́ lư do không đủ yếu tố;
2.-Cưỡng bức lao động: Bát v́ lư do quá tuổi lao động;
3.-Tập trung cải tạo: Bát v́ không đủ điều kiện buộc tội.
Viện Kiểm Soát cũng không ngờ công an ḷn qua cho Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh
kư đưa Ngài đi cải tạo. Viện Kiểm Soát bị qua mặt cũng không làm ǵ được công
an.
Lần nầy bị thêm 18 tháng nữa. Tháng đầu ở Cây Cầy, sáng đi lao động phải mặc áo
ấm, đội mũ len, hằng ngày chống gậy, lao động mà phải chống gậy đi, bắt buộc
phải lao động.
Mấy lược công an hành cho chết mà mạng căn chưa tới vẫn c̣n sống trở về với gia
đ́nh với Đạo để trả nợ thế gian.
Nếu số phải chết th́ đă chết nhiều lần và đă chết lâu rồi. Ở trong tù như lúc tự
do, bao nhiêu lần tử thần ve văn bên cạnh, chỉ cho thoáng thấy rồi đi luôn để
cho Ngài sống…
Năm 1982 khi đi thăm gia đ́nh bên vợ, một đêm nọ giữa khuya, tự nhiên chột bụng,
Ngài tiêu ra một bô máu đen, mất nhiều sức, bịnh bất ngờ, không triệu chứng,
sáng ra đến trạm y tế B́nh Thủy nhờ điều trị. Người có trách nhiệm ở trạm cho
toa mua thuốc: trị gan có, tim dạ dày có, thuốc bổ loại nhập đắc tiền, đủ loại…
Thấy không có khả năng tài chánh, không xin và cũng không mượn của ai. Ngài cười
rồi bỏ qua. Cũng không đến nổi nguy hại.
Năm 1984, Ngài đi Sài G̣n thăm người chị, cũng nửa đêm bụng phát đau, vội bước
vào nhà vệ sinh, vừa kịp lúc, ói ra huyết bầm đen lai láng, đồng thời đi cầu
cũng ra huyết bầm đen rất nhiều, sanh mệt. Đầu hôm chỉ thấy khát nước, uống hơn
một lít nước tủ lạnh vẫn không đủ, ngoài ra chẳng có triệu chứng ǵ khác.
Ông Lương anh Ngài và mấy người cháu con của chị Ngài đưa Ngài vào bệnh viện
Quận 6 Chợ Lớn, huyết áp c̣n 7, 8 bác sĩ không dám cấp cứu tại chỗ, ngại nếu c̣n
xuất huyết tiếp, bịnh viện thiếu phương tiện có thể nguy đến tánh mạng, lập thủ
tục cho chuyển đến ngay bệnh viện Triều Châu-An B́nh.
Bác sĩ và y tá trực bệnh viện thiếu y đức, đang ngủ bị đánh thức, miễn cưỡng
tiếp và chỉ Ngài từ chỗ nầy sang chỗ nọ, chỗ nào cũng phải chờ, phải đợi…đánh
thức nhơn viên…đợi cái nầy, cái khác, rốt cục chỉ lại chỗ trực gần cổng, rồi
Ngài được khuyên chờ sáng, chỉ ngồi đỡ trên ghế pḥng trực chờ…lúc đó 1 giờ
khuya. Trường hợp cấp cứu mà bác sĩ giải quyết vấn đề như thế thật là vô trách
nhiệm.
Ngài và ông Lương bỏ ra cổng kêu cyclo về nhà.
Sáng lại tới bệnh viện quận 6 một lần nữa, sức quá yếu, lên lầu thấy mệt, được
chăm sóc kỹ lưỡng nhờ bác sĩ cùng cải tạo với ông Lương ở Miền Bắc hiện làm
Trưởng Khoa giúp đỡ. Hơn một tuần lễ sau xuất viện, mua thuốc điều trị tại nhà.
Trường hợp nầy thông thường phải chết.
Những lần sau ra tù, bác sĩ Lê Công Mạnh, cháu rễ Ngài, rất lo ngại, thường ân
cần nhắc nhỡ, khuyên gia đ́nh ráng lo gởi thuốc đầy đủ, đừng để xuất huyết dạ
dày lần nữa khó cứu nhứt là đang cảnh tù.
Nhờ ở tù nhiều lần, danh nhơn nghĩa càng cao, cảm t́nh càng lan truyền rộng răi,
anh em trẻ tuổi rất thương. Lúc đầu thường giúp đỡ xách nước hộ nên việc tắm
giặt không vất vả lắm. Vườn cải thiện diện tích rộng lớn, lúc thiếu người bắt
Ngài xách nước giếng tưới rau cải, Ngài già yếu bịnh hoạn tưới không nổi, cũng
ráng làm, bắt buộc phải làm, anh em gác cḥi thấy vậy đến tưới thay.
Nếu không mắc bịnh, Ngài c̣n phải kéo dài cảnh tù đày lâu hơn. Bịnh án ghi nhiều
chứng:
-Xuất huyết dạ dày 3 lần;
-Giải phẫu ruột sa 3 lần;
-Thấp khớp măn tính;
-Huyết áp cao.
Phái đoàn y tế tỉnh lên khám tại trại rồi chở về tỉnh tái khám, và đưa ra hội
đồng giám định y khoa gồm đại diện: Ṭa Án, Viện Kiểm Soát, Sở Y Tế và Công An,
ngộ nghĩnh là tuy bịnh mà sắc diện Ngài lúc nào cũng hồng hào trông bề ngoài
không thấy vẻ ốm đau, đúng là:
“Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh”
Công an thành viên của Hội Đồng Giám Định bảo:
-Sức khỏe c̣n tốt quá chớ.
Một bác sĩ ngồi cạnh nói:
-Theo khoa học Âu Châu, sức khỏe tốt là khi nào tinh thần được thoải mái, c̣n ở
đây tinh thần co thoải mái không?
Bác sĩ khám vết mổ, Bà Bác Sĩ Huệ, Phó Giám Đốc bệnh viện Tây Ninh, có lẻ Trưởng
đại diện Sở Y Tế, cầm hồ sơ, hai lần nêu lên bịnh trạng: Huyết áp cao, huyết áp
cao, rồi cho Ngài ra khỏi pḥng.
Được nghe thân nhơn kể lại là: Huyện Ḥa Thành phát thanh đọc tên những người
bịnh được tha về có tên Ngài mà công an quyết định giữ thêm 3 tháng. Đi lao động
hai tháng, bất ngờ được kêu tên thả về ngày 11-11-1987, ghi trong giấy ra trại
“Tha trước 1 tháng”. Tội danh đề “Phản động-Lợi dụng tôn Giáo”.
12.TỔNG KẾT NHỮNG
THÁNG NGÀY BỊ BẮT SAU NĂM 1975
Tổng kết 12 năm ḥa b́nh được văn hồi, Cộng Sản lên nắm chánh quyền, Ngài bị bắt
6 lần gần 9 năm lao lư và mấy chục tháng quản chế tức là bị giam lỏng.
1.-Từ 12-10-1976 đến 25-11-1981, bị giam ở Cây Cầy.
Thêm quản chế 6 tháng, tŕnh diện trên 10 tháng.
2.-Ngày 15-6-1982, Công An Thị Trấn bắt giải ra Huyện 1 ngày.
3.-Ngày 27-6-1982, Công An Thị Trấn bắt cho ngủ một đêm tại xă.
4.-Ngày 22-1-1983 đến 12-10-1983, giam tại khám đường Tỉnh.
5.-Ngày 17-12-1984 đến 4-12-1985, Tŕnh diện mỗi tháng 2 lần tại Ban Chấp Pháp.
6.-Ngày 8-5-1986 đến 11-11-1987, bị giam ở Bàu Cỏ. Thêm quản chế 6 tháng, tŕnh
diện trên 10 tháng.
Thêm vụ c̣ng:
-Hai chơn: 24/24 gần 1 năm
-Một chơn: 24/24 trên 2 tháng
-Một chơn: 12/24 gần 3 năm
Không có một phiên Ṭa nào xét xử Ngài kể từ khi bị bắt, họ thích bắt là bắt,
quả là luật rừng không ai nói ǵ được.
Cũng ghi nhận một điều là ông Trịnh Quốc Anh, Viện Kiểm Soát Tỉnh có tánh công
b́nh vô tư, cương trực, v́ lương tâm chức nghiệp đối nghịch mạnh với Công An. Do
sự đấu tranh về pháp lư của hiền nội Ngài, mấy lần ông Anh làm nhiệm vụ, can
thiệp và trả tự do cho Ngài, xứng đáng với chức năng. Có một lần ông nói với
Ngài:
-Công An nói tôi ăn của lót của anh, anh biết tôi có nhận của anh đồng bạc nào
đâu. Dầu tôi có nhận của anh bao nhiêu đi nữa, tôi cũng không trả đủ hết món nợ
nhà nước vay của anh…Anh có uy tín, tiếng nói của anh có thể được nhiều người
nghe, Công An phải bắt giữ anh là vậy.
Một lời nói trung thành hết sức chân thật của một cán bộ liêm chính của Cộng Sản
đáng ghi nhớ lâu dài. Ngài tạc dạ ghi tâm với tấm ḷng biết ơn ông Trịnh Quốc
Anh.
Năm 1997, một hôm hai người đang đối ẩm với nhau, ông Trịnh Quốc Anh nói với
Ngài:
-Tôi có ư kiến, muốn anh làm tờ gởi đến Trung Ương, gởi các cơ quan nhà nước,
nói lên điều anh bị bắt phi pháp và cũng nói rơ coi tôi có nhận của lót của anh
hay không mà Công An tố ẩu. Trong chánh sách tư duy đổi mới của nhà nước, tôi
tưởng anh cũng chẳng hại ǵ. Đây là ư kiến của tôi thôi, không phải tôi ép, tự ư
anh định.
Ngài im lặng không tỏ bày ư kiến khi đó, về thuật lại cho gia đ́nh nghe.
Anh Lương của Ngài thấy không có lợi mà bàn khuyên chớ nên để người khác lợi
dụng. Bạn đời Ngài ngại rằng, Công An nếu thua việc nầy sẽ kiếm việc khác gây
thù oán thêm không nên…
Ngài nói lên ư nghĩ của ḿnh là dại ǵ để kẻ khác lợi dụng…Họ tính lợi dụng,
ḿnh cũng khéo tùy nương theo đó làm cho được việc của ḿnh là hơn…Ḿnh dựa thế
của ông Trịnh Quốc Anh Viện Kiểm Soát Tỉnh, nhân chánh sách Tư Duy đổi mới của
nhà nước lại có bộ luật h́nh sự chánh phủ vừa ban hành, ḿnh nói lên trường hợp
của ḿnh hy vọng ngăn chặn những ngày sắp tới, công an không c̣n tiếp diễn lộng
hành, dầu ḿnh có thiệt tḥi chút ít mà giúp được nhân dân đỡ phần nào cũng là
điều có lợi nên làm.
Ngài thảo bản văn dài 5 trang giấy đại ư như sau:
“Tôi không có ư tố tụng hay khiếu nại bởi là công dân luôn phải chấp nhận, là
người tu phải chịu khổ thế thôi. Tôi cũng không buồn trách mà chỉ thương thôi.
Một tôn Giáo cứu thế Kỳ Ba do Thượng Đế đem lại cho nhơn loại đương nhiên phải
thọ lănh khổ năo của thế t́nh. Các bậc Thiên Phong thể thiên hành hóa phải ra
gánh nợ của nhơn sanh. Thế sự phơi bày qua các cuộc bắt bớ giam cầm, các vị thể
Thiên cứu thế chẳng phải là tấn tuồng mới lạ của thời đại mà là lư tưởng đương
nhiên của chơn pháp bí truyền trong sự rửa tội cho vạn linh.
Ngài trích lời văn trong bản tuyên ngôn của Đức Hộ Pháp giáng cơ về cho năm 1964
dạy Ngài Phối Sư Thượng Vinh Thanh đọc. Ngài viết tiếp:
“Tôi không v́ buồn mà nêu lên, trái lại rất phấn khởi với nhiệm vụ Đạo, trong
tin thần đóng góp xây dựng, chuẩn bị cho bước đi lên của guồng máy chánh quyền
hầu giúp ích phần nào cho nhân dân trong Tỉnh nói riêng, cho toàn dân cả nước
nói chung. Nếu được kết quả trong chánh sách tư duy đổi mới của nhà nước, mọi
người sẽ được vui vẻ, an tâm sống trong đất nước có hiến pháp, có luật pháp bảo
vệ.”
Soạn xong văn bản định viết sạch gởi đi, khi xem lại hồ sơ, Ngài thấy mất văn
bản cần yếu là đơn xin cứu xét ngày 17-2-1986. Nghĩ rằng tuổi già lẩm cẩm, đánh
lạc không t́m ra, Ngài đành buông
xuôi ư định.
Nhiều tháng sau soạn đồ trong tủ t́nh cờ gặp lại văn bản nói trên, hỏi ra mới
biết là bạn đời Ngài khuyên không được, rất sợ công an thù oán, lo cho Ngài bị
tù đày thêm khổ, lén dấu không cho Ngài thực hành ư định. Ngài đành lưu hồ sơ
không gởi đi.
Thời gian được trả tự do, lúc đầu Ngài nhập bệnh viện Y Học Dân Tộc ở Sài G̣n,
điều trị 1 tháng. Kế đó về nhà gần như trọn đủ tứ thời nhật tụng, mỗi thời thêm
3 biến cứu khổ, thỉnh thoảng được thêm một thời Di Lạc giờ Tư hoặc giờ Dậu. Cứ 5
giờ và 11 giờ khởi cúng tại nhà, 5 giờ 30 và 11 giờ 30 vào chùa, sáng cúng Phật
Mẫu, tụng Di Lạc, cứu khổ buổi tối, trưa cúng Chí Tôn, dẫn cửu và tụng Di Lạc
tại Đền Thánh, cộng chung 7 thời cúng mỗi ngày từ năm 1982 kéo dài mấy năm liên
tiếp. Trường hợp vắn nhà hoặc bắc đắc dĩ mới để mất thời cúng.
Trước đó để phản đối Hội Đồng Chưởng Quản làm công cụ cho thiên hạ, canh cải
nghi tiết của Đạo, không cho Hiệp Thiên Đài nhập nội nghi sau mỗi thời cúng
hằng ngày và các đàn vía, Ngài mặc áo dài trắng đi cúng, đến khi cho Hiệp Thiên
Đài nhập nội nghi, Ngài mới mặc sắc phục Hiệp Thiên Đài trở lại.
Những năm sau v́ nhiều lư do khác nhau Ngài thường cúng tại nhà hơn, việc dự
tang lễ hương ấp có phần thưa thớt hơn.
Ngài nghĩ việc công quả bị gián đoạn khó khăn bởi chánh quyền, thôi đành công
phu sớm khuya và chỉ xin hai chữ “B́nh yên” để tu tại gia.
13.VIỆC XUẤT CẢNH
THĂM CON
Người con gái duy nhất của Ngài tên là Tuyết Mai, trước khi vượt biên sang định
cư bên Pháp lúc Ngài c̣n bị bắt, đă đến thăm Ngài ở khám đường có cán bộ giám
thị chứng kiến, Tuyết Mai hỏi Ngài:
-Con đến trước thăm Ba, hỏi thăm về việc Ba muốn lo cho con độ trước, bây giờ có
ǵ thay đổi, hay Ba vẫn giữ nguyên ư cũ?
Hiểu con muốn nói ǵ và nén ḷng xúc cảm, không để cho cán bộ trại giam thấy sự
yếu mềm của ḷng, Ngài gượng cười đáp:
Trong hoàn cảnh hiện tại Ba đành bất lực, không thể làm ǵ được cho con. Nếu con
có khả năng lo liệu Ba mừng lắm. Ba giữ nguyên ư định trước, chẳng thay đổi…
Thế là Tuyết Mai trở lại Sài G̣n lo sắp xếp công việc. Cũng đáng khen Tuyết Mai
biết tự lực một ḿnh liệu toan, không có gia đ́nh giúp sức, Tuyết Mai khổ sở gặp
nhiều khó khăn về tài chính, nếu khoen vàng không mất cũng đỡ được phần nào.
Cũng may kết quả được như ư.
Trước ngày lên đường, Tuyết Mai trở về nhà của Ngài một lần sau cuối, cùng vài
bạn gái hái dừa uống nước. Hôm ấy bạn đời Ngài vắn nhà, Tuyết Mai chẳng thố lộ
cùng ai được, âm thầm ra đi, vượt biên cả nhà không ai hay biết, đến khi được
tin Tuyết Mai từ Mă Lai gởi thư về mới hay.
Tuyết Mai bỏ xứ ở quê hương tại v́ chánh quyền tỉnh khắc nghiệt, đă tốt nghiệp
Đại Học Sinh Ngữ Anh-Pháp mà không được việc làm v́ lư lịch của Ngài, Tuyết Mai
sợ khó sống nên t́m phương tị nạn.
Ngài nhớ rơ lúc ở khám đường, lần đầu được gọi làm việc, lập lư lịch, thấy ghi
con gái Tuyết Mai học Đại Học Sư Phạm, cán bộ chấp pháp mừng như được vàng. Ngài
không đoán hiểu ư ǵ, thấy nét vui mừng lộ hẳn lên gương mặt, sau nầy mới nghĩ
ra.
Trước chẳng có việc làm, năm sau v́ nhu cầu, Sở Giáo Dục mời bổ sung, Tuyết Mai
lúc nầy đang ở xứ người. Việc đă muộn phải chi được việc làm sớm, Tuyết Mai
không nghĩ đến vượt biên. Âu cũng là định số an bày.
Sau khi Tuyết Mai đă định cư ở Pháp một thời gian có làm giấy bảo lănh Ngài sang
Pháp thăm con. Cán bộ pḥng xuất nhập cảnh Tây Ninh hứa không trở ngại. Khi hồ
sơ nộp vào, cán bộ nói tới nói lui, chẳng biết hiểu như thế nào mới gọi là đúng.
Nói đẩy đưa không giải quyết. Nhiều lần đến cục Quản Lư Xuất Nhập Cảnh Sài G̣n,
gởi cho Bộ Nội Vụ Hà Nội cũng chẳng kết quả. Dịch vụ Sài G̣n và dịch vụ trung
ương Hà Nội cũng không dám nhận lo giúp. Sau cùng tin hành lang cho biết, v́ lẽ
Ngài là Chức Sắc, công an sợ cho xuất ngoại sẽ hoạt động tôn Giáo như trường hợp
ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Nguyễn Văn Hợi đi Canada, sang Mỹ dự lễ và cắt băng khánh
thành Thánh Thất và nói Đạo…
Cán bộ Lê Thanh Văn nhơn viên pḥng xuất nhập cảnh Tây Ninh nói với Ngài:
-Ô, Ô, Quân và Công chịu trách nhiệm hồ sơ của chú đă đi học c̣n lâu mới về, tôi
không nắm vững, nhưng theo tôi biết nếu chú xin đi luôn th́ dễ hơn.
Ngài đáp:
-Nếu chánh quyền cho tôi đi c̣n trở lại đương nhiên tôi phải ǵn giữ v́ sự an
nguy cho bản thân, tôi phải dè dặt trong sự phát ngôn trong thời gian ở nước
ngoài. Nếu cho đi luôn không trở ngại, tôi khỏi lo nghĩ ǵ cả và tôi đủ điều
kiện dễ ăn nói bởi tôi đă bị bắt đi tù 6 lần rồi. Vả lại tuổi tác và cương vị
của tôi không cho phép tôi phát ngôn bừa băi đâu.
Lời nói của Ngài tưởng rằng chẳng đi tới đâu, không kết quả ǵ, cán bộ nhỏ làm
sao dám tŕnh lên cấp trên, nhưng tánh Ngài là vậy đó, cứ thấy đúng chỗ là phải
nói.
Việc xinh xuất cảnh thật là lắm gian nan:
Lần đầu hứa hẹn sau nhiều thủ tục rườm rà, rốt cuộc công an từ chối. Hơn 5 năm
sau, Ngài giao cho dịch vụ Thanh Niên Xung Phong ở Sài G̣n. Nghĩ rằng chánh sách
có phần đổi mới, không khó khăn như trước. Dịch vụ không đặt thành vấn đề. Chỉ
tính lệ phí 300 Đô mà thôi. Giờ chót gặp trở ngại, dịch vụ yêu cầu Ngài về Tây
Ninh liên lạc với pḥng xuất nhập cảnh. Tại đây nhơn viên trả lời với Ngài :
“Rồi, hồ sơ của chú đă được chấp thuận rồi, tôi gởi trả dịch vụ hôm thứ bảy, chú
đến đó nhận hồ sơ”. Hôm ấy là ngày thứ ba, hồ sơ được chấp thuận tính ra giao
hoàn đă bốn hôm rồi. Không ngờ đến Sài G̣n dịch vụ trả hồ sơ, lư do Pḥng Xuất
Nhập Cảnh Tây Ninh bác.
Dịch vụ đ̣i lệ phí 30% tức 90 Đô, thối lại cho Ngài 210 Đô. Ngài nói:
-Đối với dịch vụ 90 Đô không phải nhiều, với tôi cũng không quan trọng lắm. Tại
sao khi tôi đến nhờ giúp, tôi nêu rơ nhiều khó khăn, dịch vụ nói dễ, không đặt
vấn đề trước. Hôm nay tính lệ phí 90 Đô. Đ̣i th́ tôi trả nhưng tôi sẽ đăng báo
vụ nầy.
Ông Phó nghe nói vậy yêu cầu Ngài chờ một chút, ông vào báo cáo ông Giám Đốc,
một chút sau trả cho Ngài đủ 300 Đô.
Trước đó Ngài có ư định cho nhơn viên 100.000 đồng nhưng sự việc như thế Ngài
không cho ǵ hết.
Trong lúc ông Phó vào báo cáo ông Giám Đốc, bạn đời Ngài phàn nàn, ái ngại trước
lời nói thẳng của Ngài. Sau lại vui vẻ bằng ḷng trước kết quả tốt của sự thẳng
thắn trong vấn đề.
Cùng liên hệ trong vụ nầy, mấy tháng sau, được mời ra Ty có việc Đạo, Ngài đề
cập vấn đề với Đại Tá Vinh, đặc trách vấn đề Tôn Giáo. Ngài nói:
-Mọi công dân sống trên đất nước phải tùng luật lệ nhà nước, Công An có quyền
cho th́ nói cho, không chi th́ nói không cho, công dân phải chấp nhận thôi, việc
ǵ phải nói gạt làm chi. Tội nghiệp tôi già rồi, phải lái xe từ đây đến Sài G̣n,
tốn tiền chi phí theo đường, lại tốn tiền xăng nhớt, thêm hao ṃn vỏ ruột. Nói
gạt đă không có lợi ǵ cho công an , trái lại công an bị mất uy tính với nhân
viên v́ thiếu thành thật.
Đại Tá Vinh nói:
-Bây giờ anh đi, tôi cho anh đi.
Ngài trả lời:
-Bây giờ cho đi cũng không đi, đang mùa đông bên Tây lạnh lắm, tôi già đâu có
sức chịu lạnh nổi.
Đại Tá Vinh nói:
-Chừng nào anh đi nói tôi biết, tôi cho anh đi.
Bạn đời của Ngài nghe thuật lại, nghĩ rằng công an không bao giờ cho xuất ngoại,
bởi lời lẻ của Ngài thiếu mềm mỏng không co giản theo trường hợp. Không ngờ ba
tháng sau, mùa xuân đến, Ngài ra công an, xin gặp Đại Tá Vinh về vấn đề xin xuất
cảnh sang Pháp thăm con. Tính thử thôi không hy vọng chút bào. Không ngờ đặc
biệt một Thiếu Tá Công An được chỉ thị thảo văn bản cho Ngài chép gởi pḥng Xuất
Nhập Cảnh. Đặc biệt hơn nữa là khi cấp hộ chiếu, nhơn viên pḥng Xuất Nhập Cảnh
được mời ra ngoài, nhường cho một Thiếu Tá và một Đại Úy công an tiếp vợ chồng
Ngài tại salon. Vợ chồng Ngài nhận hộ chiếu khỏi đóng tiền như thông lệ hiện
hành, tuy chẳng đáng là bao song vẫn là điều đặc biệt hiếm xảy ra.
Suốt thời gian ở Pháp, vợ chồng Ngài được viếng nhiều nơi: Tour Eiffel, Nhà Thờ
Đức Bà Notre Dame De Paris, Nhà Thờ Trái Tim Sacré Coeur, Kim Tự Tháp Panthéon,
Thành Lourdes, nơi Đức Mẹ hiện h́nh ban phép lành (c̣ ban nước Thánh)-Châuteau
de Versailles, Mont Saint Michel, viếng chỗ 7 vị Giáo Hoàng đầu tiên của Thiên
Chúa Giáo, đi Bâteu mouche ṿng quanh Paris, viếng mộ Napoléon, đi tàu câu cá ra
biển, coi đua ngựa, viếng sở nuôi ḅ lấy sửa làm fromge, xem lễ hội nhiều địa
phương, nhứt là Quốc Khánh của Pháp ngày 14 Juillet đốt pháo bông rất đẹp và rất
nhiều. Đi Bỉ và Hà Lan v.v…
Hộ chiếu Việt Nam cấp cho 3 tháng, Ṭa Lănh Sự Pháp buộc làm tờ cam kết có công
chứng không quá 3 tháng, con của Ngài vận động xin gia hạng thêm 3 tháng song
Ṭa Đại Sứ Việt Nam ở Paris không kư, cho biết muốn ở cứ ở…
Ngài ngại khó khăn lúc trở về Việt Nam nên vội về nhưng cũng trễ mất 15 ngày,
may mắn mọi việc đều tốt.
Như vậy là sau bao nhiêu tháng ngày bị vào tù ra khám v́ đấu tranh binh vực cho
Đạo. Cuối cùng Ngài cũng được đoàn tụ cùng con gái bên Pháp, mặc dầu thời gian
ngắn ngủi chỉ có 3 tháng nhưng đó cũng là một đoạn kết đẹp sau những ǵ đă trải
qua trong cuộc đời Ngài.
Ngài rất vững đức tin, với chuỗi ngày c̣n lại trong tuổi hoàng hôn, Ngài chỉ sợ
một điều là c̣n mang thân xác phàm tục trọng trượt u mê, ngại sức phàm khó vượt
khỏi nhiều thử thách, cầu xin thêm sức chịu đựng, đủ kiên nhẫn và nghị lực để
chịu đựng. Nguyện cầu ơn trên từ bi pḥ trợ, giúp Ngài trọn hiếu cùng Thầy Mẹ
tạo đoan và trọn trung cùng Đạo, được vẹn toàn phận sự Thiêng Liêng đến hơi thở
cuối cùng, khỏi uổng kiếp sanh mai duyên ngộ Đạo.
KẾT LUẬN:
Khi đọc qua hồi kư của một người nào đó, tức là ta đă đồng hành cùng người đó đi
ngược ḍng thời gian trở về quá khứ. Trong chuyến hành tŕnh nầy ta đă trải qua
những cung bậc
thăng trầm của nền đại Đạo. Ta thấy rằng, dù ở thời kỳ nào, Đạo
lúc nào cũng phải đứng trước những thử thách chông gai, bị quyền đời khảo đảo.
Có người đă vượt qua những cuộc khảo đảo đó một cách nhẹ nhàng, cũng có người vấp
ngă một cách đáng tiếc.
Sau khi vượt qua cuộc hành tŕnh, ngoái đầu nh́n lại, ta thấy hănh diện làm sao
khi đă đồng hành cùng Ngài Cải Trạng vượt qua biết bao thử thách mà tấm ḷng
trung kiên đối với Đạo, đối với Đức Hộ Pháp của Ngài vẫn măi mai không hề thay
đổi. Thật là cái tên Trân đáng quí, đúng như Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đă cho
Ngài bài thi:
“TRÂN
châu đâu để lộn cùng
bùn,
Để giá đời nâng lệ phải tuôn.
Càng khổ càng đau càng quí trọng,
Lại mừng lại tủi lại thung dung.”
……..
Mặc dầu biết rằng sống ở đời không ai là hoàn hảo cả, được ḷng người nầy sẽ mất
ḷng kẻ khác. Cuộc đời Ngài cũng vậy, trong lúc hành Đạo hay làm việc ngoài đời,
có rất nhiều người kính trọng và quí mến Ngài nhưng số người ghét Ngài cũng
không ít v́ cái tánh thẳng thắng bộc trực của ngài. Thôi th́ người ta nghĩ Ngài
như thế nào tùy người ta, chúng tôi chỉ muốn chư Đạo Hữu khi đọc qua quyển hồi
kư nầy sẽ có cái nh́n tích cực hơn về tính cách của một Chức Sắc trung kiên đă
cống hiến hết ḿnh cho nền Đại Đạo.
Nay Kính
Ngày 21-03-2020
Tỉnh Tâm
*********
Một số h́nh ảnh liên quang đến Ngài Cải Trạng Nguyễn Ngọc Trân
1. Nhân viên Bộ Pháp Chánh 1948


2.Lánh nạn ở
campuchia

3.H́nh
chụp tại tư gia của Ngài

4.Đám tang của Ngài
Cải Trạng Nguyễn Ngọc Trân
Phần mộ Ngài được an tán khu Chức Sắc Hiệp Thiên Đài tại Cực Lạc Thái B́nh.
__________________________________
Mục Lục:
LỜI TỰA
1.SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
2.NHỮNG DIỄN BIẾN CHÍNH TRONG BƯỚC ĐƯỜNG HÀNH ĐẠO
CHƯƠNG I: THỜI KỲ PHÁP THUỘC
1.THỜI NIÊN THIẾU
2.LÀM THƠ KƯ
3.THOÁT NẠN TRONG GAN TẤC
4.TRỞ VỀ QUÊ
5.QUYẾT L̉NG THEO ĐẠO
6.HỌA TAI ĐỖ XUỐNG GIA Đ̀NH NGÀI
7.VỀ T̉A THÁNH TÂY NINH
8.THI ĐẬU LUẬT SỰ (Thuộc Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài)
9.ĐẢM NHIỆM PHÁP CHÁNH SÀI G̉N
10.ĐẢM NHIỆM PHÁP CHÁNH RẠCH GIÁ
11.ĐƯỢC BỔ ĐI NAM VANG
12.NỔI NIỀM RAI RỨT
13.TẠM NGHỈ VIỆC ĐẠO
CHƯƠNG II: THỜI KỲ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG H̉A
1.QUAI LẠI HÀNH ĐẠO
2.ĐẢM NHIỆM PHÁP CHÁNH LONG XUYÊN
3.ĐƯỢC HỘI THÁNH BAN KHEN CÔNG NGHIỆP
4.NHỮNG CHUYỆN BUỒN VUI KHI HÀNH ĐẠO
5.CHUYỆN T̀NH DUYÊN
6.THAM GIA HOẠT ĐỘNG
CHÁNH SÁCH H̉A B̀NH
CHUNG SỐNG
7. VỤ HAI ÔNG TRÁNG LIỆT VÀ TRÁNG CỬ VỀ T̉A THÁNH
LẤY TRO CỦA ĐỨC KỲ NGOẠI HẦU CƯỜNG ĐỂ
8.NGÔ Đ̀NH DIỆM ĐÀN ÁP NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CHÁNH
SÁCH H̉A B̀NH CHUNG SỐNG
CHƯƠNG III: CUỘC SỐNG LƯU VONG TRÊN ĐẤT CAO MIÊN
1.NHỮNG
NGÀY ĐẦU LƯU VONG
2.LÀM VIỆC Ở CHUP
3.ÔNG MAI MÁT TAY
4.HOÀI NIỆM ĐỨC HỘ PHÁP
5.LỜI DẠY CỦA ĐỨC HỘ PHÁP VÀ BÁT NƯƠNG
6.NỔI L̉NG RAI RỨT
KHI CUỘC HÔN NHÂN TAN VỠ
7.CHUYỂN CHỖ LÀM TỪ CHUP VỀ PHNOM PENH
8.NGHỈ HẲN VIỆC ĐỜI
QUAY SANG LÀM VIỆC CHO ĐẠO
CHƯƠNG IV: THỜI KỲ ĐỆ NHỊ VIỆT NAM CỘNG H̉A
1.VỀ T̉A THÁNH TÂY
NINH SAU NHIỀU NĂM LƯU VONG
XỨ NGƯỜI
2.NGUYÊN DO LẤY TÊN NGUYỄN MINH NHỰT
3.TÁI THỦ PHẬN SỰ TẠI BỘ PHÁP CHÁNH
4.GIÚP ĐỠ NHỮNG NGƯỜI HỒI HƯƠNG TỪ
CAO MIÊN VỀ VIỆT NAM
5.NGÀI BẢO ĐẠO TỪ CAO MIÊN VỀ T̉A THÁNH
CHƯƠNG V: THỜI KỲ XĂ HỘI CHỦ NGHĨA
1.ĐẢM NHIỆM QUYỀN CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
2.BỊ CHÁNH QUYỀN BẮT GIAM
3.NGỒI TRONG
TÙ HỒI TƯỞNG NHỮNG VIỆC XƯA
4.ĐẤU TRANH V̀
CHÍNH NGHĨA KHÔNG SỢ CƯỜNG QUYỀN
5.NHỮNG THÁNG
NGÀY Ở TRONG KHÁM ĐƯỜNG
6.NHỮNG MẪU CHUYỆN TẠI TRẠI GIAM
BÀU CỎ
7.NHỮNG ĐÀN CƠ HỌC ĐẠO
8.BỊ TÙ LẦN THỨ 3 KHOẢNG 10 THÁNG
9.BỊ TRỤC XUẤT
RA KHỎI ĐẠO MỘT CÁCH VÔ LƯ
10.BỊ BẮT V̀ LIÊN QUAN ĐẾN CƠ BÚT
11.MỚI MỔ VẪN BỊ BẮT GIAM
12.TỔNG KẾT
NHỮNG THÁNG NGÀY BỊ BẮT SAU NĂM 1975
13.VIỆC XUẤT CẢNH THĂM CON
KẾT LUẬN