CHÚ GIẢI KINH CÚNG TỨ THỜI

THIÊN VÂN - Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

 

THIÊN THỨ NHÌ

 

KHAI KINH

 

I/ NGUỒN GỐC

II/ KINH VĂN

III/ CHÚ GIẢI

 

A/.NGUỒN GỐC:

 

          Bài Khai Kinh nầy do Đức Lữ Tổ dịch ra Nôm từ bài Hán văn tựa là “Khai Kinh Kệ” trong kinh Huyền Môn Nhựt Tụng bên Trung Hoa, và giáng cơ ban cho Chi Minh Lý. Hội Thánh Cao Đài được Chí Tôn dạy thỉnh về làm kinh nhựt tụng. Sau đây xin chép lại nguyên bản, phiên âm bài “Khai Kinh Kệ” để chúng ta tiện đối chiếu.

 

                            開經偈

                                      Khai Kinh Kệ

                                   

                        Trần hải mang mang thủy nhựt đông,

                            

                   Vãn hồi toàn trượng chủ nhơn công.

                            

                        Yếu tri Tam giáo tâm nguyên hiệp,

                            

                        Trung thứ Từ bi cảm ứng đồng.

 

B/.KINH VĂN:

 

KHAI KINH

                          Biển trần khổ vơi vơi Trời nước,

                          Ánh Thái Dương giọi trước phương đông.

                                Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông

                        Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời,

                          Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy

                          Gốc bởi lòng làm phải làm lành,

                                Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành,

                        Từ bi Phật dặn: Lòng thành lòng nhơn.

                          Phép Tiên Đạo: Tu chơn dưỡng tánh,

                          Một cội sanh ba nhánh in nhau.

                                  Làm người rõ thấu lý sâu,

                        Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh.

 

B/.CHÚ GIẢI:

 

Biển trần khổ vơi vơi Trời nước

Ánh Thái Dương giọi trước phương đông.

          Biển trần khổ: Theo Đạo Phật, nơi cõi trần gian nầy, sự đau khổ của con người dẫy đầy như nước biển mênh mông, lai láng, không bờ, không bến. Bài kệ chuỗi bên Phật có câu:

                                    Ái hà thiên xích lãng,

                                         

                                    Khổ hải vạn trùng ba.

                                          苦海 萬重

                                    Dục thoát luân hồi khổ,

                                         

                                    Tảo cấp niệm Di Đà.

                                  早 急 念 彌 陀

       Dịch vần:

Sông yêu ngàn thước sóng,

                                    Biển khổ muôn lượn qua.

                                    Luân hồi mong vượt thoát,

                                    Mau sớm niệm Di Đà.

                                                            (Thiên vân dịch)

          Sự đau khổ như muôn lượn sóng dồn dập ở biển khơi đã nhận chìm biết bao nhiêu sanh linh từ muôn đời ngàn kiếp. Phật cho rằng: “Nước mắt chúng sinh trong ba ngàn thế giới đem chứa lại còn nhiều hơn nước ngoài bốn biển”.

          Vơi vơi: Mênh mông, bát ngát.

          Thái dương : Mặt trời.

          Theo sự phân tích về âm dương, mặt trời được người xưa quan niệm là dương, nên gọi là Thái dương; còn mặt trăng là âm nên gọi là Thái âm.

          Ánh Thái dương: Ánh sáng mặt trời.

          Ánh Thái dương giọi trước phương Đông: Ánh sáng mặt trời là nguồn sống của mọi sinh vật và cũng là nguồn sáng phá tan những bóng tối bao trùm trên quả địa cầu nầy. Ánh Thái dương mọc ở phương Đông còn được hiểu Đạo đến từ Đông (Đạo xuất ư Đông ), đem giáo pháp tiêu trừ, xóa tan những bóng tối khổ đau và tội lỗi của chúng sanh, và mang đến ánh sáng hạnh phúc cho nhơn loại ở cõi trần gian nầy.

          Trí huệ cũng được ví như ánh mặt trời xóa tan bóng tối của vô minh, nên gọi là huệ nhật. Thiền sư Bách Trượng nói: Tâm địa nhược không, huệ nhật tự chiếu: Khi tâm thức vắng lặng (vô niệm) thì mặt trời trí huệ tự nhiên chiếu sáng.

Câu 1: Khổ đau của con người nơi trần gian nầy đầy như nước biển mênh mông , chỉ có trời và nước.

Câu 2: Ánh mặt trời chiếu ra từ phương Đông ( Ý chỉ Đạo xuất từ phương Đông).

 

Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông

Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời,

          Tổ sư : Người sáng lập ra một tông, một phái có đường lối tu hành rõ ràng, tức là một tôn giáo và làm Tổ của tôn giáo đó.

          Thái Thượng : Còn được gọi là Thái Thượng Lão Quân 太上老君, Thái Thượng Đạo Tổ , hay Lão Tử .

        Thái Thượng Lão Quân hay Thái Thượng Đạo Tổ là vị Tổ Sư của Tiên giáo. Theo bài kinh Tiên giáo, thì Ngài do khí Tiên Thiên hóa sinh ra (Tiên thiên khí hóa Thái Thượng Đạo Quân ).

          Thái Thượng Đạo Tổ có một kiếp giáng trần nhằm ngày rằm tháng hai vào đời nhà Thương bên Trung Hoa được gọi là Lão Tử.

          (Xem tiểu sử Lão Tử nơi bài Kinh Tiên Giáo).

          Câu Kinh “Tổ Sư Thái Thượng Đức Ôngcó người hiểu một cách khác như sau:

            Tổ sư: Vị Tổ của Phật giáo, tức Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ Phật Giáo.

            Thái Thượng: Đức Thái Thượng Lão Quân, chỉ Tiên Giáo.

            Đức Ông: Tức Đức Khổng Tử, chỉ Thánh Giáo.

            Như vậy, câu Kinh trên theo nghĩa sau được hiểu bao gồm Tam Giáo: Phật, Tiên, Thánh, tức là chỉ Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

          Dẫn độ: Dẫn dắt và cứu giúp.

          Đức Thái Thượng Đạo Tổ lưu lại cho đời nhiều bộ kinh để dẫn dắt chúng sanh tu hành, như Đạo Đức Kinh, Cảm Ứng Kinh, Huỳnh Đình Kinh...

          Ngài là vị Đại Tiên có pháp thuật thần thông, thiên biến vạn hóa, nên từ thời hỗn độn sơ khai cho đến nay, Ngài đã lâm phàm nhiều kiếp.

          Đời vua Phục Hy, Ngài là Uất Hoa Tử.

          Đời vua Thần Nông, Ngài là Đại Thành Tử.

          Đời vua Huỳnh Đế, Ngài là Quảng Thành Tử.

          Đời vua Võ Vương, Ngài là Dục Thành Tử.

          Đời vua Tây Hán, Ngài là Huỳnh Thạch Công.

          Ngài giáng trần nhiều kiếp là mong dẫn dắt chúng sanh lần lần hướng về việc lánh ác làm thiện, tu tâm luyện tánh để đạt đạo.

Câu 3: Tổ Sư Tiên giáo là Đức Thái Thượng Đạo Quân.

Câu 4: Ngài dẫn dắt và cứu giúp chúng sanh rất dày công phu.

 

Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy

Gốc bởi lòng làm phải làm lành

          Tam giáo : Ba nền Tôn Giáo lớn là: Phật giáo hay Thích giáo ở Ấn Độ, Đạo giáo hay Lão giáo ở Trung Hoa, Nho giáo hay Khổng giáo cũng ở Trung Hoa.

          Khuyến dạy: Khuyên răn dạy dỗ.

          Gốc bởi lòng: Cái gốc của việc tu hành là do lòng hay tâm . Vạn Pháp Duy tâm : Tất cả các Pháp, các sự vật, vạn vật đều do tâm tạo, ngoài tâm không có pháp.

          Tam giáo cũng lấy tâm và tánh làm gốc để tu hành: Phật thì dạy “Minh Tâm kiến Tánh”; Tiên thì dạy “Tu Tâm luyện Tánh”; Nho thì dạy “Tồn Tâm dưỡng Tánh”.

          Giải thích về Tồn Tâm dưỡng Tánh, Mạnh Tử nói: “Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tánh, sở dĩ sự Thiên dã , , ”: Giữ gìn cái tâm, bồi dưỡng cái tính, tức là thuận theo lẽ thiên nhiên vậy.

          Làm phải: Làm việc phải, lấy luân thường đạo đức làm căn bản để ứng xử với đời.

          Hằng ngày, chúng ta làm việc phải thì sẽ nhận được những điều phải đáp lại. Việc phải dù chưa nhận được, nhưng trước nhứt chúng ta cũng cảm thấy thơ thới trong lòng. Lúc rảnh rang xét việc làm của mình lúc bình sinh, lúc yên vắng nghĩ những việc làm phải trong ngày, lúc nào cũng giữ một lòng chánh đạo, thì tự nhiên Trời đất không có sai chạy bao giờ ( Nhàn trung kiểm điểm bình sanh sự, tĩnh lý tư lương nhựt sở vi; thường bả nhứt tâm hành chánh đạo, tự nhiên thiên địa bất tương khuy , ; , ).

          Làm lành: Làm những việc thiện.

          Làm lành, ngoài việc không tạo nhân ác, không thọ nghiệp dữ, chúng ta còn làm một điều phù hợp với đức hiếu sinh của Thượng Đế và nhất là tạo cho Chơn linh được nhẹ nhàng để tiến hóa. Mã Phục Ba Tiên Sinh dạy cho chúng ta một điều mà ta phải cần lưu tâm đến: Làm lành cả đời mà việc lành cũng còn chưa đủ; làm dữ một ngày thì việc dữ đã quá dư rồi (Chung thân hành thiện, thiện do bất túc; nhất nhật hành ác, ác tự khởi dư—Mã Phục Ba , , , ).

Câu 5: Giáo lý của ba nền Tôn giáo ( Phật, Tiên, Nho) có nhiều điều khuyên răn dạy dỗ.

Câu 6: Phật, Tiên, Thánh đều lấy tâm làm gốc, dạy làm điều phải điều lành.

 

Trung Dung Khổng thánh chỉ rành,

Từ bi Phật dặn: Lòng thành lòng nhơn.

          Trung Dung : Trung Dung là một quyển sách của Thầy Tử Tư (Khổng Cấp), cháu nội của Đức Khổng Tử, học trò của Tăng Tử gom góp những phần uyên áo của Khổng Giáo viết thành một học thuyết. Theo sách Hán Thư, thiên Trung Dung trước chép ở trong sách Lễ Ký, mãi đến đời Tống mới in riêng ra thành sách.

          Tử Tư dẫn lời Đức Khổng Tử giảng về Đạo Trung Dung như sau: Trung Hòa là cái tính tình tự nhiên của trời đất, Trung Dung là cái đức hạnh của con người. Trung là giữa, không lệch bên nào, Dung là thường, nghĩa là dùng đạo trung làm đạo thường. Vậy Trung Dung là phải có một thái độ ngay chính, lúc nào cũng không nghiêng không lệch, mà lại có cái sáng suốt biết rõ sự thật và thi hành ra thì làm không thái quá không bất cập.

          Đạo Trung dung theo Khổng Mạnh là một qui tắc hành động của bậc hiền minh, hợp với lẽ đương nhiên, không thái quá, không bất cập, song phải biết quyền biến, biết tùy thời, tùy cảnh ngộ, tùy địa vị mà xử sự, lúc nên làm thì làm, lúc không nên làm thì không làm. Nghĩa là phải cho hợp tình hợp lý chứ không chấp nhứt.

          Đây là thái độ của người Quân tử theo đạo Trung dung: Người quân tử cứ theo địa vị mình mà ăn ở, không cần ở ngoài; địa vị giàu sang thì ăn ở theo cách giàu sang; địa vị nghèo hèn thì ăn ở cách nghèo hèn; ở nơi mọi rợ thì ăn ở theo cách mọi rợ; ở vào lúc hoạn nạn thì ăn ở theo cảnh hoạn nạn. Người quân tử ở vào cảnh nào cũng tự đắc (tức là vui vẻ, thản nhiên) (Quân tử tố kỳ vị nhi hành, bất nguyện hồ kỳ ngoại; tố phú quý hành hồ phú quý; tố bần tiện hành hồ bần tiện; tố di địch hành hồ di địch; tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, quân tử vô nhập nhi bất đắc yên , , , , , , ).

          Người tu thì lấy đường trung đạo mà tu tập, phải tránh xa hai cực đoan, tức là giữ thái độ vô chấp, vô trụ, là không bị lệ thuộc vào định kiến nào và không bị đóng khung trong một phạm trù tư tưởng nào, cứ theo mức trung mà hằng ngày tu tập.

          Khổng Thánh : Tức là Đức Khổng Tử .

          Khổng Tử, người làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nay thuộc phủ Duyện Châu, tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Thân phụ Ngài là Thúc Lương Ngột làm quan võ, mẹ Ngài là Bà Nhan Thị. Ngài sinh vào mùa đông tháng mười năm Canh Tuất là năm thứ 21 đời vua Linh Vương nhà Châu, tức là năm 551 trước Tây Lịch. Vì có cầu tự trên núi Ni Khâu, cho nên sinh ra Ngài mới đặt tên là Khâu , tên tự là Trọng Ni .

          Khi Đức Khổng Tử lên ba tuổi, thân phụ Ngài mất, nhờ mẹ nuôi nấng và dạy dỗ nên người. Lớn lên Ngài là người học Nho, nên rất trọng về lễ nghi và những phép tắc của các Đế Vương đời trước.

          Ngài có ra làm quan cho nước Lỗ, nhưng thấy vua mê nữ sắc bỏ phế việc triều chính, Ngài bèn từ quan mà đi chu du liệt quốc chư hầu, mong tìm vị minh quân để phò tá, nhân đó xiển dương Thánh Đạo.

          Cuối cùng, Ngài thất vọng phải trở về nước Lỗ mở trường dạy học và san định lục kinh. Lúc Ngài viết quyển kinh Xuân Thu vừa xong, có tin người thợ săn bắt được một con kỳ lân què chơn trái, Ngài thắc mắc “Kỳ lân ra làm gì thế ?”. Ít hôm sau nghe tin kỳ lân bị giết chết, Ngài bưng mặt khóc mà than rằng: Đạo Ta cùng vậy (Ngô Đạo cùng hỹ ). Ngài mất vào đời vua Ai Công nước Lỗ, tháng 4, ngày Kỷ Sửu thọ được 73 tuổi.

          Từ Bi : Là lòng thương yêu tất cả chúng sanh không vụ lợi, không phân biệt sang hèn hay thân sơ, không trông mong một sự đền đáp nào.

          Lòng thành, lòng nhơn: Lòng thành thật và lòng thương người mến vật.

          Nho giáo đề cao đức “Thành”, sách Trung Dung cho rằng lòng chí thành thì rộng dày và cao sáng tựa như Càn khôn, có thể che chở muôn vật: Cố chí thành vô tức, bất tức tắc cửu, cửu tắc trưng, trưng tắc du viễn, du viễn tắc bác hậu, bác hậu tắc cao minh, bác hậu sở dĩ tái vật dã, cao minh sở dĩ phú vật dã, du cửu sở dĩ thành vật dã 故 至 誠 無 息, 不 息 則 久, 久 則 徵, 徵 則 悠 遠, 悠 遠 , , , , 悠 久 : Hễ Chí thành không ngừng, không ngừng thì dài lâu, dài lâu thì hiện ra ngoài, hiện ra ngoài thì truyền xa, truyền xa thì rộng dày, rộng dày thì cao sáng; rộng dày để chở muôn vật (tức là đất), cao sáng là để che muôn vật (tức là Trời), còn xa xôi lâu dài là để làm thành muôn vật.

          Thánh thi của Đức Chí Tôn có dạy về lòng thành như sau:

                        Tâm thành có thuở nghiệp nhà nên,

                        Đạo đức khuyên con cứ giữ bền.

                        Hễ đặng bữa cày, buông bữa giỗ,

                        Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.

            Khổng Tử là một người nhơn từ, thường có lòng xót thương dân chúng bị khổ sở, đớn đau, nên Đạo của Ngài chủ trương lấy nhơn làm gốc của trăm nết. Đức Chí Tôn cũng có dạy về lòng nhơn như sau:

Nhơn là đầu hết các hành tàng,

                        Cũng bởi vì nhơn, dân hóa quan.

                        Dân trí có nhơn nhà nước trị,

                        Nước nhà nhơn thiệt một cơ quan.

Câu 7: Đức Khổng Thánh dạy rành về Đạo Trung Dung.

Câu 8: Đức Phật căn dặn phải có lòng Từ bi, lòng thành thật và lòng nhơn từ biết thương yêu vạn vật.

 

Phép Tiên Đạo: Tu chơn dưỡng tánh

Một cội sanh ba nhánh in nhau

          Phép Tiên Đạo: Phép tu luyện của Đạo Tiên.

          Tu theo Đạo Tiên, trước đây thường hay tịnh luyện. Điều nầy, nếu người có minh sư chỉ giáo hoặc người có đầy đủ công đức thì nên tu tịnh, nhưng phải do Hội Thánh cho phép vào Tịnh thất và tuân hành luật nhà Tịnh.

          Việc luyện đạo, Đức Chí Tôn có giải thích như sau: “Người tu hành nếu chưa trường trai trì giới nổi đặng thì hãy lo lập đức, bồi công để làm nền móng vững chắc cho việc Luyện Đạo tương lai, chớ dục vọng mong sớm Luyện Đạo để làm Tiên Phật mà thiếu phần công quả, âm chất. Vì Thầy lập Đạo kỳ nầy là mở một trường thi công quả”.

          Tu chơn : Là một phương pháp tu sửa để con người trở nên chơn chánh, thiện lương. Đường lối tu hành nầy chủ trương không qua hình thức áo mão, chức quyền, mà chuyên chú về Tam lập: Lập công, Lập ngôn, Lập đức cho viên mãn để được thọ truyền bửu pháp tịnh luyện tự giải thoát lấy mình.

Đức Hộ Pháp đã dựa Thánh ý Đức Chí Tôn trong bài thi:

                          Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn,

                                   

                     Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn.

                                   

                          Vô lao bất phục hồi chơn mạng,

                            

                     Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.

                            

mà lập ra Phạm Môn là đường lối tu chơn trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đây chính là tu theo con đường thứ ba của Đạo Cao Đài.

          Dưỡng tánh : Nuôi dưỡng tánh.

          Con người khi được sinh ra thì Chí Tôn đã ban cho một Thiên Tánh, nhưng lớn lên lại mang quá nhiều vọng tưởng và chấp trước, là cội gốc của mọi phiền não, nên dần dần mất Thiên Tánh, và mãi chìm sâu trong vòng luân hồi sinh tử vô tận.

          Theo Mạnh Tử, con người mới sinh ra, tánh vốn lành nhưng vì do tập nhiễm xã hội mà xa lần tánh lành đi ( Nhân chi sơ, tánh bản thiện, tánh tương cận, tập tương viễn , , , ). Vì thế, con người cần phải nuôi dưỡng cái Tánh của mình cho trở lại lành như xưa, tức là phục hồi cái Linh tánh hay Thiên Tánh vậy.

          Một cội sanh ba nhánh in nhau: Nghĩa là một gốc mà sinh ra ba nhánh, tức là từ một nguồn cội mà phát sinh ra Tam giáo in nhau. Như ta biết, gốc là Đạo, mà Đạo sinh ra ngôi Thái Cực hay Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, rồi lại sinh ra Tam giáo là Phật giáo, Tiên giáo và Nho giáo.

          Thực vậy, Đức Chí Tôn tùy theo thời kỳ, ngươn hội hay căn cơ chúng sinh mà mở ra các nền Tôn giáo ở mỗi xứ có giáo lý khác nhau, nhưng tựu trung mục đích vẫn là giáo hóa chúng sinh, đưa chúng sinh trở về với cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

          Tam Giáo có những giáo điều, phương pháp khác nhau nhưng vẫn lấy Tâm và Tánh làm gốc để dạy chúng sinh tu hành: Phật dạy Minh Tâm kiến Tánh, Tiên dạy: Tu Tâm luyện Tánh, Nho dạy Tồn Tâm dưỡng Tánh.

Câu 9: Phương pháp tu Tiên là phải tu chơn dưỡng tánh.

Câu 10: Đức Chí Tôn làm chủ hay nói cách khác là gốc của Tam giáo.

 

Làm người rõ thấu lý sâu

Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh

          Rõ thấu lý sâu: Con người vốn là một sinh vật thượng đẳng, chẳng những có một hình thể hoàn hảo, mà cả đến phần tâm linh cũng mẫn huệ tinh vi. Chính vì thế, con người luôn luôn lúc nào cũng băn khoăn thắc mắc, thường tìm hiểu về cội nguồn của mình để biết rõ cái nguyên lai của vạn vật và lý huyền diệu cao sâu của Trời đất.

          Có tìm hiểu bản căn của Càn khôn muôn loại, mới thấy được vũ trụ bao la bát ngát, vạn vật muôn hình vạn trạng, từ đó con người mới thán phục công trình sáng tạo của Đấng toàn tri, toàn năng.

          Có hiểu được cái chơn lý huyền diệu của Trời đất thì con người mới ý thức được sự sống của mình, thế nào để được hòa điệu nhịp nhàng với muôn loài vạn vật, với Trời và đất, tức là có một đời sống thuận theo thiên lý hầu sau này chơn linh nhẹ nhàng mà trở về cùng Đức Chí Tôn.

          Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh: Muốn tụng những bài kinh của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, trước nhứt con người nên tu sửa hằng ngày cái tâm cho chơn chánh, và lòng trong sạch, dứt hết mọi dục vọng, có vậy tư tưởng mới nhẹ nhàng hòa đồng với Thiên lý: Nhân dục tận tĩnh, Thiên lý lưu hành , .Và Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy như sau: “Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy xong chưa, mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng ?

          Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên tĩnh thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con lo chi chẳng bì chí Thánh”.

          Theo Phật, thế gian là cõi cấu trược nên con người sống trong ấy, lòng phải bị ô nhiễm bởi những phàm trược. Do vậy, người tu phải nhất tâm tu sửa hằng ngày, hằng đêm như lời khuyên trong bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối:

                            Ngày ngày tập sửa tánh thành,

                            Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.

Câu 11: Làm con người phải đạt lẽ sâu xa của chơn lý.

Câu 12: Khi tụng niệm những bài kinh Phật Tiên thì trước nhứt phải sửa lòng cho trong sạch.

Tiếp theo >

Top of Page

      HOME