CHÚ GIẢI KINH CÚNG TỨ THỜI

THIÊN VÂN - Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

 

 

PHỤ LỤC

 

                        A.-SỚ DÂNG CÚNG CHÍ TÔN

              NGÀY SÓC VỌNG TẠI THÁNH THẤT

I/ NGUYÊN VĂN BÀI SỚ

II/ VIẾT RA HÁN TỰ

III/ CHÚ THÍCH

 

I/ NGUYÊN VĂN BÀI SỚ:

 

ĐẠI  ĐẠO  TAM  KỲ  PHỔ  ĐỘ

(.....................niên)

Tam Giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhất

 

              Thời duy,

              Thiên vận..........niên,............ngoạt,...........nhựt,........thời, hiện tại Việt Nam quốc,..............tỉnh,.............huyện,.............xã, cư trụ Thánh Thất chi trung.

              Kim hữu đệ tử thọ Thiên ân......................................., công đồng chư Chức sắc, hiệp dữ Chức việc, Đạo hữu nam nữ đẳng, quì tại Điện tiền, thành tâm trình tấu:

 

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

 

        Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

        Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

 

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

         Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

         Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

         Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

 

             TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

         Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai.

         Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đ. Đ. T. K. P. Đ.

         Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

 

         Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

         Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn.

         Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, Vạn chưởng chư Tiên, Liên đài chi hạ.

 

              Kim vì (Sóc hoặc Vọng) nhựt lương thần, chư Thiên phong nghiêm thiết đàn tràng hương, đăng, hoa, trà, quả thanh chước chi nghi thành tâm hiến lễ.

              Ngưỡng vọng Vô Trung Từ Phụ, phát hạ hồng ân, quảng thi đại đức, bố hóa chư đệ tử trí não quang tinh thần mẫn huệ, thừa hành mạng lịnh, tế độ nhơn sanh, định tâm giác ngộ hòa ái tương thân đại đồng huynh đệ phục hồi thượng cổ Thánh đức thuần lương, cộng hưởng thanh bình, an ninh hạnh phước.

              Chư đệ tử đồng thành tâm khấu bái cẩn sớ thượng tấu

                                                                                    Dĩ văn.

 

II/ VIỂT RA HÁN TỰ:

 

         

(................. )

 

         

          ..…,.....,….,..... , .….,.....,....., .

             ......... , , 殿 :

 

                                         

                       

                             

                                         

                          西

                         

                         

                             

                             

               

                             

                             

                             

                             

                 

          ...(,)... , , .

          , , , , , , , , , , , , .

         

                                                                                    .

 

III/ CHÚ THÍCH:

 

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

        Là nền Đại Đạo được khai mở ở nước Việt Nam (cõi Á Đông), vào thời kỳ Hạ ngươn mạt pháp để phổ độ chúng sanh lần thứ ba, tức Đạo Cao Đài. Hội Thánh dịch câu này ra tiếng Pháp như sau: “Troisième Amnistie de Dieu en Orient”.

Bát thập nhất niên

Năm thứ tám mươi mốt.

          Thường mục này để trống, tùy năm Đạo mà điền vào. Năm Đạo được tính theo Âm lịch, lấy năm Bính Dần (1926) là năm thứ nhứt để tính tới.

Tam Giáo qui nguyên

          Tam Giáo qui nguyên: Ba tôn giáo chánh: Phật giáo, Tiên giáo và Nho giáo đã trãi qua nhiều thời kỳ, nên càng ngày càng xa rời chánh pháp. Nay, đến thời hạ ngươn mạt pháp, Đức Chí Tôn dùng huyền diệu cơ bút lập thành một nền Đại Đạo cốt qui nguyên Tam giáo, tức là chấn chỉnh tôn chỉ lại cho phù hợp với thời nghi của nếp sống văn minh tiến bộ, hầu độ hết tất cả chúng sanh theo đường Đạo đức.

Ngũ Chi phục nhứt

        Ngũ Chi phục nhứt: Gom Ngũ Chi Đại Đạo làm một, tức là đem Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo hiệp lại làm một gọi là Đại Đạo.

          Điều này Đức Hộ Pháp có giảng như sau: “Thầy hiệp Ngũ Chi đặng làm một trường học năm lớp cho mình tu luyện, chẳng khác một trường học phàm kia vậy, lần lần bước đến đặng đoạt thủ địa vị của mình. Hễ ngồi đặng phẩm nào thì địa vị mình nơi ấy chẳng ai còn tranh giành ngược ngạo không nhìn nhận cho đặng”.

          Vậy Ngũ Chi chính là hợp nhứt năm cách thức hành đạo của Ngũ Chi Đại Đạo mà Đức Hộ Pháp đã tóm lược như sau:

          - Hiền vì thương đời mà đạt cơ tùng khổ    (Nhơn đạo)

          - Thần vì thương đời mà lập cơ thắng khổ (Thần đạo)

          - Thánh vì thương đời mà dạy cơ thọ khổ   (Thánh đạo)

          - Tiên vì thương đời mà bày cơ thoát khổ   (Tiên đạo)

          - Phật vì thương đời mà tìm cơ giải khổ (Phật đạo)

Thời duy : Hiện thời vì, ngày hôm nay vì...

Thiên vận : Vận khí của Trời, mệnh Trời.

.....niên ......ngoạt .....nhựt .....thời : .....năm, ....tháng .....ngày .....giờ.

          Chúng ta dùng hệ thống âm lịch để điền. Tỷ như: Bính tuất niên, chánh ngoạt, sơ nhứt nhựt, ngọ thời.

Hiện tại Việt Nam quốc, ......tỉnh, ......huyện, .......xã, cư trụ Thánh Thất chi trung.

,.............,

          Hiện ở tại nước Việt Nam, ...........tỉnh, .......huyện, ..……xã, ở trong Thánh Thất.

Kim hữu đệ tử:........., cộng đồng chư Chức sắc, hiệp dữ Chức việc, Đạo hữu nam nữ đẳng quì tại Điện tiền thành tâm trình tấu:

......., , , 殿 :

Nay có đệ tử.............,cùng chung các Chức sắc, hiệp với Chức việc (Chức việc là một từ Nôm, Hiền Tài Mã Nguyên Lương dịch sang Hán Việt là Chức Sự ), Đạo hữu nam nữ các cấp, quì trước Bửu Điện, thành tâm tấu trình.

          Nếu là chức sắc Cai Quản Thánh Thất, thì điền như sau: Thọ Thiên ân Lễ sanh Ngọc X Thanh, cai quản Thánh Thất Họ đạo...Nếu là Chức Việc thì điền như sau: Thọ Hồng ân Chánh Trị Sự Nguyên văn Y, Phó Cai quản (Hay quyền Cai Quản) Thánh Thất Họ đạo...

Huỳnh Kim Khuyết Nội

          Huỳnh Kim Khuyết nội: Bên trong Huỳnh Kim Khuyết, tức là bên trong cổng Huỳnh Kim Khuyết.

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn

          Đây là một hồng danh của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế (Gồm 12 chữ).

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn

          Một hồng danh của Đức Phật Mẫu.

Tam Tông chơn giáo

           Ba đấng Giáo chủ Tam giáo Nho Đạo Thích.

Tây Phương Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

西

          Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Giáo chủ cõi Tây phương. Hồng danh của Đức Phật Thích Ca.

          Thích Ca Mâu Ni là một vị thái tử ở nước Ca ty la (Kapilavastu) Trung Ấn Độ, phụ hoàng tên là Tịnh Phạn, mẫu hoàng tên là Ma Da. Ngài tên là Tất Đạt Đa (Siddhartha). Còn chữ Thích Ca (Sakya) là tên một chủng tộc, dịch là Năng nhơn. Mâu Ni là tiếng khen ngợi dịch là Tịch Mặc.

          Lúc nhỏ Ngài có trí sáng suốt và có tài năng phi thường. Lớn lên Ngài thấy chúng sanh khổ não, thế gian vô thường, nên Ngài quyết chí tu hành, tìm đường giải thoát cho chính bản thân mình (tự độ), và cho hầu hết chúng sanh (tha độ) lên bờ giác ngộ.

          Ngài thành Đạo dưới gốc cây bồ đề và trải 45 năm truyền pháp độ sanh, Ngài nhập Niết bàn lúc 80 tuổi. 

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn

        Đây là hồng danh của Đức Thái Thượng Đạo Quân. (xem chú thích trong bài Kinh Tiên Giáo)

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn

        Thánh danh của Đức Không Tử.(Xem phần chú thích nơi bài Kinh Nho Giáo).

Tam Kỳ Phổ Độ Tam Trấn Oai Nghiêm

          Ba vị Tam Trấn thay mặt cho ba vị Giáo Chủ Phật, Tiên, Nho, cầm quyềm Tam Giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đó là : Nhứt Trấn Oai Nghiêm Lý Đại Tiên Trưởng, Nhị Trấn Oai Nghiêm Quan Âm Như Lai, Tam Trấn Oai nghiêm Quan Thánh Đế Quân.

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai

        Là Thánh hiệu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.

          Quan Thế Âm hay Quán Thế Âm Bồ Tát là một vị Bồ tát có lòng Đại Từ Đại Bi và thường hay cứu khổ cứu nạn, cho nên chúng sanh đâu đâu cũng thờ và tụng niệm đến danh hiệu của Ngài. Ba chữ Quán Thế Âm nói lên được lòng thương vô lượng vô biên của Ngài, lúc nào Ngài cũng lắng nghe âm thanh ở thế gian, nơi nào, lúc nào có tiếng kêu đau, kêu khổ của chúng sanh thì Ngài đều đến cứu giúp, hóa độ.

          Trong kinh Pháp Hoa có câu: , , , , Khổ não chúng sinh, nhất tâm xưng danh, Bồ Tát tức thì quan kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát. Dĩ thị danh Quan Thế Âm”. Nghĩa là chúng sanh bị khổ não mà nhứt tâm niệm đến tên Bồ Tát, tức thì Ngài xem âm thanh của chúng sanh mà độ cho được giải thoát. Vì thế, nên gọi Ngài là Quan Thế Âm.

          Người Đời thường gọi tắt là Quan Âm. Ngài còn có hiệu là Quán Tự Tại Bồ Tát, có nghĩa là quán chiếu thâm sâu, giác ngộ tự tại mà cứu độ chúng sinh.

          Đức Quán thế Âm có phép thần thông quảng đại, thường hay biến hiện nhiều sắc tướng để cứu giúp chúng sanh, nên người đời thường thờ Ngài bằng nhiều tượng khác nhau.

          Thiên thủ thiên nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát : Tượng có nghìn tay nghìn mắt.

          Chuẩn Đề Quan Âm : Tượng có ba mắt và mười tám tay.

          Nam Hải Viên Thông Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi, Tầm Thanh Cứu Khổ, Linh Cảm Quan Âm Bồ Tát : Danh hiệu nầy có nghĩa là Đức Quan Thế Âm làm Giáo Chủ Đạo Viên Thông ở miền Nam Hải, thường tìm tiếng kêu mà cứu khổ, rất cảm ứng và rất Thiêng liêng.

          Quan Âm Nữ Phật : Tượng là một người phụ nữ, cho nên còn gọi là Phật Bà Quan Âm, do hai sự tích: Quan Âm Diệu Thiện và Quan Âm Thị Kính.

          Trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Quan Thế Âm là một tướng nữ, tượng trưng cho tình thương của một bà mẹ hiền, đứng trên hoa sen, tay cầm cành dương liễu để tiếp dẫn chúng sanh và bình nước cam lồ để rưới tắt các phiền não. Trụ Xứ của Ngài là Nam Hải, nên còn được gọi Nam Hải Quan Âm hay Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai. Ngài được Đức Chí Tôn phong làm Nhị Trấn Oai Nghiêm Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai để đại diện cho Phật trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.

          Bát Nương có giáng cơ cho biết về Đức Quan Âm như sau: “Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về cơ Phổ Độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát là Đấng cầm đầu. Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải, ở An Nhàn Động, còn Cung Diêu Trì thì ở tại Tạo Hóa Thiên”.

          Sau đây là bài Thánh thi của Đức Quan Âm Như Lai:

                                 

                     Khán đắc phù sinh nhứt thế không,

                          

                     Điền viên sản nghiệp diệc giai không.

                          

                     Thê nhi phụ tử chung ly biệt,

                          

                     Phú quý công danh tổng thị không.

                          

                     Cổ ngữ vạn ban đô thị giả,

                          

                     Kim ngôn bá kế nhứt trường không.

                                 

                     Tiền tài thâu thập đa tân khổ,

                          

                          Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ không.

                                                            (Quan Âm Như Lai)

 

                                          DỊCH NGHĨA

                          Được thấy phù sinh vốn cõi không,

                          Ruộng vườn sự nghiệp cũng đều không.

                          Vợ con cha mẹ rồi ly biệt,

                          Danh lợi sang giàu rốt cũng không.

                          Lời cổ: muôn điều toàn giả tạm,

                          Câu nay: trăm kế một trường không.

                          Tiền tài gom góp nhiều lao khổ,

                          Nẽo đến Suối Vàng, tay sạch  không.

                                                      (Thiên Vân dịch)

Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

        Là một vị Tiên Trưởng thọ lịnh Đức Chí Tôn làm Nhứt Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Tiên Giáo trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, kiêm Giáo Tông Đạo Cao Đài.

          Long vị thờ tại Đền Thánh viết: Thái Bạch Kim Tinh .

          Ngài giáng linh nơi nước Trung Hoa là Lý Thái Bạch vào năm702 đời vua Trần Huyền Tông nhà Đường. Mẹ Ngài nằm mộng thấy sao Trường canh hay sao Thái Bạch Kim Tinh sa xuống mình Bà, nên đặt tên là Lý Thái Bạch, gọi tắt là Lý Bạch.

          Hồi được bảy tuổi, Lý Bạch chưa biết nói, nhưng khi bà mẹ bồng lên lầu, bổng nhiên Ngài ngâm được bốn câu thơ mà ý thực quái dị:

                                    Nguy lâu cao bách xích

                                         

                                    Thủ khả trích tinh thần.

                                         

                                    Bất cảm cao thanh ngữ,

                                         

                                    Khủng kinh thiên thượng nhân.

                                         

              Nghĩa là:

                                    Vòi vọi lầu trăm thước,

                                    Vói tay hái được sao.

                                    Chỉ e nói lớn tiếng,

                                    Kinh động Tiên trên cao.

          Lớn lên, Lý Bạch tướng mạo khôi ngô, cốt cách thanh kỳ, thông minh dĩnh ngộ. Lúc thiếu thời Ngài có tài văn chương, nổi tiếng là một thi gia, được người đương thời tặng danh hiệu là “Ông Tiên bị đày” (Thiên thượng trích Tiên nhân ).

          Lý Bạch có tên hiệu là Thanh Liên Cư Sĩ . Bản tính của Ngài không ham danh lợi, thích đi chơi khắp các danh thắng ở bờ sông Trường giang, giao du với những ẩn sĩ mà đời gọi là Trúc Khê lục dật.

          Ngài được phong đến chức Hàn lâm học sĩ, nhưng vì không ham danh lợi, quyền tước, nên Ngài không chăm lo việc nước, mà chỉ uống ruợu ngâm thi mà thôi.

          Vua Đường Huyền Tôn rất trọng Ngài, nhưng Ngài không như bọn phàm phu khác, chịu đem cái tài hoa của mình nịnh nọt bọn vương hầu, lại xin trở về hưởng nhàn. Có lần say ruợu Ngài ngâm nga chí của mình, coi đời như giấc mộng, bon chen làm chi cho cực lòng.

                                       

                                    Xử thế nhược đại mộng

                                       

                                    Hồ vi lao kỳ sinh ?

                                       

                                    Sở dĩ chung nhật tuý,

                                       

                                    Đồi nhiên ngọa tiền doanh.

                                       

                                    Giác lai miện đình tiền,

                                       

                                    Nhất điểu hoa gian minh.

                                       

                                    Tá vấn thử hà nhật ?

                                       

                                    Xuân phong ngữ lưu oanh.

                                       

                                    Cảm chi dục thán tức,

                                       

                                    Đối chi hoàn tự khuynh.

                                       

                                    Hạo ca đãi minh nguyệt,

                                       

                                    Khúc tận dĩ vong tình.

                        (Lý Bạch--Xuân nhật túy khởi ngôn chí)

          Nghĩa là:

                              Ở đời tựa giấc chiêm bao,

                        Làm chi mà phải lao đao nhọc mình.

                              Suốt ngày mượn chén khuây tình,

                        Say rồi nghiêng ngửa bên mành hàng ba.

                              Tỉnh ra trông mé trước nhà,

                        Một con chim hót trong hoa ngọt ngào.

                              Hỏi xem ngày ấy ngày nào,

                        Chim oanh ríu rít đón chào gió đông.

                              Thở than cảm xúc nỗi lòng,

                        Chuốc thêm ít chén say cùng cảnh vui.

                              Hát ngao chờ bóng trăng soi,

                        Ca vừa dứt khúc, đã nguôi mối tình.

                                                   (Trần Trọng Kim dịch)

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân

        Là Tam Trấn Oai Nghiêm, đại diện Đức Khổng Thánh cầm quyền Nho Giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

          Thế danh của Đức Hiệp Thiên Đại Đế là Quan Võ, sau đổi là Vân Trường, tục danh là Quan Công. Ngài sanh nhằm triều vua Hoài Đế, đời Đông Hán, quê quán tại Bồ Châu, tỉnh Sơn Đông Trung Quốc.

          Sanh ra trong thời kỳ Hán thất suy vi, bên trong bọn hoạn quan chuyên quyền, bên ngoài giặc Huỳnh cân dấy lên tứ phía, Ngài tuy ham học, thích đọc kinh Xuân Thu, nhưng trước cảnh loạn lạc, Ngài đành châu du để tìm hào kiệt mưu cầu đại nghiệp.

          Ngài kết nghĩa đào viên với hai người là Lưu Bị, tự Huyền Đức là anh cả, thuộc dòng dõi nhà Hán, và một người nữa là Trương Phi, tự Dục Đức, là em út.

          Có lần Ngài bị Tào Tháo dụ phong cho chức Hán Thọ Đình Hầu, nhưng sau Ngài trả ấn. Quan Công cùng Trương Phi phò Lưu Bị lập nên nhà Thục, một nước trong tam quốc: Thục, Ngụy, Ngô.

          Ngài lầm mưu của Lữ Mông mà bị bắt, rồi Ngô Quyền đem xử trảm, thọ 58 tuổi.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn

        Là vị Giáo Chủ của Thiên Chúa Giáo, còn được gọi là Công Giáo, hay Gia Tô Giáo.

          Gia Tô được người Tàu dịch từ Jésus, đầy đủ hơn là Jésus Christ, là Đấng Chúa Cứu Thế ở Do Thái.

          Người Tàu dịch âm đúng viết là : Da Tô. Đây là cách viết ở Long vị được thờ tại Đền Thánh: Da Tô Giáo Chủ .

          Ngài sanh vào đêm 25 tháng 12 tại thành Bethléem. Mẹ của Ngài là Maria, một nữ tu tại đền thờ Jérusalem. Cha Ngài là Joseph. Hai ông bà rất mộ đạo, tuy bà đang có thai, gần ngày sanh, nhưng hai người vẫn cố gắng tới Đền thờ để chầu lễ. Vì vậy, đúng 12 giờ đêm Noel bà chuyển bụng sanh ra Chúa Jésus nơi máng cỏ trong chuồng chiên.

          Năm 30 tuổi, Ngài được Thánh Jean Baptiste làm lễ giải oan tại bờ sông Jourdain. Từ đó, Ngài khởi sự giảng Thánh Kinh ngay trong xứ Galilée và Jérusalem, lập nên đạo Thánh ở Do Thái, rồi truyền bá mạnh mẽ sang Châu Âu. Uy quyền bọn vua quan phong kiến bị lung lay, nên chúng tìm cách giết Ngài.

          Bọn chúng mua chuộc một tông đồ của Ngài là Yuda, phản lại Ngài vu cáo cho Ngài mưu việc phản loạn, rồi bắt Ngài lên án tử hình và đóng đinh trên thập tự giá.

          Cái chết của Đức Chúa Jésus thật là cao cả, Ngài chuộc tội cho loài người bên xứ Châu Âu, trở thành một vị Chúa Cứu Thế cho nhơn loại.

Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn

管 法

        Đây là Thánh danh của Đức Khương Thượng Tử Nha.

          Long vị thờ tại Đền Thánh viết: Khương Thượng Tử Nha 姜尚子牙.

          Đức Thái Công Tướng Phụ là người họ Khương , tên Thượng , tên chữ là Tử Nha 子牙, được vua nhà Châu là Võ Vương tôn lên làm Thượng Phụ hay Tướng Phụ, hàm ân là Thái Công.

          Lúc thiếu thời Ngài rất mộ đạo Tiên, nên tầm sư học đạo và thọ giáo Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn tại núi Côn Lôn. Ngài quyết chí tu hành, không màng đến việc thế tục nữa, theo thầy lo tu hơn 40 năm trên núi.

          Vào thời ấy, Trụ Vương vì đắm say nữ sắc của Đắc Kỷ, không lo việc triều chính, công thần nhiều vị khuyên can đều bị giết hại, nhân dân đồ thán, giặc cướp nổi lên bốn phía, vận nước suy vi.

          Nguơn Thỉ Thiên Tôn khuyên Khương Tử Nha hạ trần để phò Châu, phạt Trụ. Khí số nhà Thương sắp mãn, vận nước Tây Châu hưng thịnh, nên Cơ Phát lên nối nghiệp cha, xưng hiệu Võ Vương, rồi cử binh phạt Trụ. Trên mười năm mới bình định xong tứ phương, vua lên ngôi thiên tử, phong Khương Tử Nha đứng đầu các bậc khai quốc công thần, và cho làm vua nước Tề, đời đời con cháu được phụ truyền tử kế mà hưởng lộc tại nước Tề.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn

          Tam Châu: Ba châu trong Tứ Đại Bộ Châu, thuộc cõi trung giới, đó là Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Nam Thiệm Bộ Châu. Các chơn linh ở trên ba châu này có trình độ tiến hóa cao. Còn Địa cầu của nhơn loại chúng ta thuộc về Nam Thiệm Bộ Châu. Ba Đại Bộ Châu này thuộcquyền giáo hóa của Hộ Pháp Thiên Tôn.

          Riêng Bắc Cu Lư Châu, không thuộc quyền Hộ Pháp mà do Kim Quang Sứ chưởng quản (tức quỉ vị).

          Bát bộ: Tám bộ, mỗi bộ cai quản một phẩm chơn hồn, bát bộ cai quản bát phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.

          Tám bộ ấy thuộc quyền hạn của Hộ Pháp đến mở cơ quan tận độ chúng sanh nơi cõi trần. Vì thế, Đức Hộ Pháp được xưng là Tam Châu bát bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Thập Phương Chư Phật vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ , , .

          Thập phương chư Phật: Là tất cả các vị Phật ở mười phương trong Càn khôn Thế giới. Mười phương đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, phương trên và phương dưới.

          Vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ: Các vị Tiên cầm quyền muôn việc và chư Tiên Phật và chư vị Thiêng Liêng bên tòa sen.

Kim vì (sóc, vọng) nhựt lương thần chư Thiên phong nghiêm thiết đàn tràng hương đăng hoa trà quả, thanh chước chi nghi thành tâm hiến lễ.

(, ) , : , , , , , , .

          Ngày nay vì (mùng một, rằm) giờ tốt chư chức sắc Thiên phong nghiêm trang thiết lễ nơi đàn cúng tế: Nhang, đèn, bông, trái cây, rượu tinh khiết, lập thành nghi thức, thành tâm hiến lễ.

          Sóc, vọng ,: Sóc là ngày đầu trong tháng, tức ngày mồng một. Vọng là ngày rằm.

          Nghiêm thiết đàn tràng: Hay nghiêm thiết đàn trường , tức là trang nghiêm thiết lễ đàn cúng tế.

          Thanh chước : Rượu tinh khiết. Ý nói rượu trong sạch dùng để cúng tế.

          Hiến lễ : Dâng lễ vật.

Ngưỡng vọng vô trung Từ Phụ, phát hạ hồng ân, quảng thi đại đức , ,

          Ngưỡng mong Đức Từ Phụ trong cõi Hư vô, ban xuống ân sâu, rộng thi đức lớn.

          Ngưỡng vọng : Ngửa trông, ngẩng mong nhờ.

          Quảng thi : Thi ân rộng khắp.

Bố hóa chư đệ tử trí não quqng minh, tinh thần mẫn huệ, thừa hành mạng lịnh, tế độ nhơn sanh, định tâm giác ngộ,hòa ái tương thân

, , , , ,

           Bố hóa cho chư đệ tử trí não sáng láng, tinh thần lanh lẹ thông minh, thừa hành mệnh lệnh của ơn Trên, để tế độ nhơn sanh, tâm được giác ngộ và an định, thân thiết yêu thương nhau.

              Bố hóa : Hóa độ khắp nơi.

              Mẫn huệ : Sáng láng lanh lợi.

Đại đồng huynh đệ, phục hồi Thượng cổ Thánh đức thuần lương, cộng hưởng thanh bình, an ninh hạnh phước

, , ,

           Anh em sống trong cảnh đại đồng, phục hồi lại thời Thượng cổ để đời được thánh đức, người được thuần lương, cùng nhau hưởng cảnh thanh bình, an ninh và hạnh phước.

              Phục hồi : Cái gì đã đi qua nay trở về lại gọi là phục hồi.

              Thuần lương : Tốt đẹp, ngay thẳng.

Chư đệ tử đồng thành tâm khấu bái cẩn sớ thượng tấu. Dĩ văn.

.

          Chư đệ tử cùng thành tâm cúi lạy, và kính cẩn dâng sớ tâu lên. Kính trình.

          Cẩn sớ : Kính cẩn dâng sớ lên.

          Thượng tấu : Tâu trình lên.

 

 

IV/ GIẢI NGHĨA:

 

ĐẠI  ĐẠO  TAM  KỲ  PHỔ  ĐỘ

(Năm Đạo thứ 81)

Tam Giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhất

 

              Nay thời,

              Vận Trời năm..........tháng...........ngày.........giờ, hiện tại nước Việt Nam,............ tỉnh, ..........huyện, .............xã, , ở nơi Thánh Thất.

              Nay có vị đệ tử thọ ........................................., cùng chung các Chức sắc, hiệp với Chức việc, Đạo hữu nam nữ các cấp, quì trước Chánh Điện, thành tâm tâu trình:

 

TRONG HUỲNH KIM KHUYẾT

    Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

    Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

 

GIÁO CHỦ TAM GIÁO

            Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

            Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

            Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

 

BA TRẤN OAI NGHIÊM TAM KỲ PHỔ ĐỘ

              Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai.

              Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông  Đ. Đ. T. K. P. Đ.

              Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

              Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

              Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn.

              Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, Vạn chưởng chư Tiên, Liên đài chi hạ.

          Ngày nay vì...(mùng một,rằm)... giờ tốt chư chức sắc Thiên phong nghiêm trang thiết lễ nơi đàn cúng tế : Nhang, đèn, bông, trái cây, rượu tinh khiết, lập thành nghi thức, thành tâm dâng lễ.

          Ngưỡng mong Đức Từ Phụ trong cõi Hư vô, ban xuống ân sâu, rộng thi đức lớn. Bố hóa cho chư đệ tử trí não sáng láng, tinh thần lanh lẹ thông minh, thừa hành mệnh lệnh của ơn Trên, để tế độ nhơn sanh, tâm được giác ngộ và an định, thân thiết yêu thương nhau. Anh em sống trong cảnh đại đồng, phục hồi lại thời Thượng cổ để đời được thánh đức, người được thuần lương, cùng nhau hưởng cảnh thanh bình, an ninh và hạnh phước.

          Chư đệ tử cùng thành tâm cúi lạy, và kính cẩn dâng sớ tâu trình lên.

                                                                                    Kính trình.

Tiếp theo >

Top of Page

      HOME