CHÚ GIẢI KINH TẬN ĐỘ
THIÊN VÂN Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒACHƯƠNG THỨ TÁM
KINH HẠ HUYỆT
I.-KINH VĂN:
Kinh Hạ Huyệt
Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn,
Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.
Giải thi lánh chốn đọa đày,
Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.
Phép giải oan độ hồn khỏi tội,
Phướn tiêu diêu nắm mối trường sanh.
Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,
Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.
Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ,
Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên,
Đưa tay vịn phép diệu huyền,
Ngọc Hư lập vị Cửu tuyền lánh chơn.
Ngó Cực Lạc theo huờn Xá Lợi,
Cửu Trùng Thiên mở lối qui nguyên,
Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên,
Nước Cam Lồ rửa sạch thuyền độ nhân.
THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI
II.-NGUỒN GỐC Ý NGHĨA:
Bài Kinh Hạ Huyệt do Đức Quan Âm Bồ Tát giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Trước khi Hạ huyệt, tang gia hiếu quyến làm lễ cúng Hậu Thổ và cúng lạy Chơn linh (Linh vị), quan tài người chết lần chót, rồi đồng nhi tụng Kinh Hạ Huyệt ba hiệp, rồi sau đó tiếp tụng ba biến Vãng Sanh Thần Chú.
Bài Kinh Hạ Huyệt có nội dung nhằm cho biết cuộc sống của con người như là một giấc mộng Huỳnh lương. Khi chết tức là được xa lánh nơi đọa đày, để Chơn linh trong sạch ra khỏi Càn Khôn. Phướn Tiêu Diêu sẽ dẫn dắt Chơn hồn vào cõi Lôi Âm và Non Bồng để hưởng cảnh an nhàn và tự toại.
III.-CHÚ GIẢI:
Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn,
Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.
Thức giấc: Thức tỉnh một giấc ngủ.
Huỳnh lương 黃 糧: Hột kê vàng, một loại ngũ cốc, giống như bắp dùng để nấu ăn.
Mộng huỳnh lương: Hay huỳnh lương mộng 黃 糧 夢: Một giấc chiêm bao thấy cả cuộc đời danh lợi, vợ con, tiền tài, sự nghiệp đã dứt mà nấu nồi kê vàng chưa chín.
Do điển tích như sau: Lư sinh đời nhà Đường đến quán trọ, nằm đợi chủ nhà nấu kê vàng (Hoàng lương) nên ngũ quên, nằm mộng thấy mình lấy vợ, đẻ con, sinh cháu, giàu sang tột bực. Phút chốc tỉnh dậy, thấy mất tất cả mà trong lúc ấy người chủ nấu nồi kê vàng vẫn chưa chín. Do vậy, điển tích này dùng để chỉ đời người ngắn ngủi như giấc chiêm bao.
Mãn 滿: Dứt, chấm dứt.
Vừa mãn: Vừa chấm dứt.
Ba 葩: Hoa, tinh hoa.
Phồn ba 繁 葩: Như chữ phồn hoa 繁 華: Chỉ nơi xa hoa, náo nhiệt. Chốn phồn hoa là nơi đô hội, dân cư đông đúc, tấp nập ngựa xe, đời sống xa hoa phù phiếm.
Thoáng: Âm thanh thoảng qua bên tai.
Câu 1: Khi tỉnh thức, con người mới thấy rằng cuộc đời như một giấc mộng Huỳnh lương.
Câu 2: Âm thanh nơi trường náo nhiệt của cuộc đời không còn thoảng qua bên tai nữa.
Từ xưa biết bao văn nhân thi sĩ, các triết gia, các nhà tôn giáo đều cho cuộc đời là một giấc mộng, cuộc sống trăm năm của con người không mấy chốc, là một kiếp phù sinh.
Cao Bá Quát, một thi gia nhà Nguyễn đã than:
Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, trong tác phẩm “Cung Oán Ngâm Khúc” viết:
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê.
Hoặc ví thân phận con người nhỏ bé như bào ảnh, dễ tiêu tan trước sóng gió của biển đời:
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh.
Theo Ông mồi phú quí, bã vinh làm lóa mắt người trần thế, khiến họ quay cuồng đeo đuổi cái mộng đẹp mà rốt cuộc chỉ là hư vô:
Giấc Nam kha khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
Lý Bạch, một thi Tiên của nhà Đường, cũng là Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã coi đời như một giấc mộng:
Xử thế nhược đại mộng.
處 世 若 大 夢
Hồ vi lao kỳ sinh?
胡 為 勞 其 生
Nghĩa là:
Ở đời tựa giấc chiêm bao,
Làm chi mà phải lao đao nhọc mình?
Riêng Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy rằng: ...“bóng thiều quang nhặt thúc, con đường hy vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi, sự thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh ly pha màu tử biệt, làm cho sự vui vẻ giàu sang danh vọng đều thành một giấc huỳnh lương, rồi đây vĩnh biệt ngàn năm, tội tình muôn kiếp”.
Con người vừa dứt ba tấc hơi nằm xuống thì mọi âm thanh đều dứt hết bên tai, mọi hoạt động, mọi việc đều buông bỏ:
Tam thốn khí tại thiên ban dụng,
三 寸 氣 在 千 般 用
Nhứt đán vô thường vạn sự hưu.
一 旦 無 常 萬 事 休
Nghĩa là: Ba tấc hơi còn thì ngàn việc dùng (tức là có thể làm tất cả mọi việc).
Một buổi sáng vô thường (chết) muôn việc đều buông xuôi.
Giải thi lánh chốn đọa đày,
Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.
Giải thi 解 尸: Cởi bỏ thi thể, hình hài, tức là đã chết.
Lánh: Xa lánh khỏi.
Chốn đọa đày: Nơi bị đày đọa khổ sở. Chỉ cõi trần gian.
Chơn linh trong sạch: Chơn linh là điểm linh quang của Chí Tôn ban cho, tự nó đã là trong sạch nhẹ nhàng rồi.
Sở dĩ Chơn linh không trong sạch là bởi vì con người đã trải qua biết bao nhiêu kiếp luân hồi sinh tử, gây ra biết bao nhiêu oan nghiệt, mà tạo nên nghiệp quả khiến cho Chơn thần phải chịu nặng nề ô trược. Khi Chơn thần bị trọng trược thì sẽ níu kéo Chơn linh, làm cho Chơn linh cũng nặng nề ô trược.
Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm,
Mùi đau thương đã thấm chơn linh.
Dây oan xe chặt buộc mình,
Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.
(Kinh Giải Oan)
Để Chơn linh được trong sạch nhẹ nhàng, con người phải dẹp bỏ thất tình lục dục, và tu dưỡng một thân thể tinh khiết bằng cách giữ gìn trai giới, có tư tưởng thanh cao, phát huy bản thể trọn lành của Thượng Đế và thường xuyên lễ bái để tâm hồn mình được thông công, giao cảm với Trời, mà nâng bước tiến tâm linh ngày thêm Thánh thiện.
Ra ngoài Càn khôn: Ra khỏi ngoài cõi trần gian để đi vào Càn khôn Vũ trụ.
Câu 3: Khi cởi bỏ thể xác, Chơn thần và Chơn linh mới thực sự từ bỏ được cõi đọa đày của thế gian.
Câu 4: Chơn thần và Chơn linh trong sạch nên mới được nhẹ nhàng vượt ra ngoài Càn khôn Vũ trụ.
Phép giải oan độ hồn khỏi tội,
Phướn tiêu diêu nắm mối trường sanh.
Phép giải oan: Là một Bí pháp giải oan nghiệt của Đạo Cao Đài.
Con người vì luân hồi sinh tử nên mới tạo ra nhiều oan khiên nghiệt chướng, do đó quả nghiệp chồng chất lên khiến người tu hành phải đền trả mãi, khó giải thoát. Trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn mở nền Đại Đạo, đại khai ân xá cho vạn linh, đóng địa ngục mở thiên đường để tận độ chúng sanh, và đặc biệt ban cho bí tích giải oan, tắm thánh, làm phép xác...hầu nhơn sanh dứt được oan gia nghiệt chướng dễ bề tu hành đắc quả.
Độ hồn 度 魂: Độ rỗi linh hồn.
Phướn Tiêu diêu: Còn gọi là phướn Truy hồn, một bửu pháp của Lục Nương Diêu Trì Cung.
Nắm mối: Giữ cái mối.
Trường sanh 長 生: Sống mãi, hay hằng sống
Câu 5: Phép giải oan nhằm giúp cho linh hồn cởi bỏ được những oan nghiệt đã gây ra từ trước cho linh hồn trong sạch nhẹ nhàng.
Câu 6: Phướn Tiêu diêu nắm giữ mối trường sanh, tức là các Chơn linh nhờ Phướn Tiêu diêu của Lục Nương Diêu Trì Cung đưa về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Theo bí pháp Đạo Cao Đài, một tín đồ sau khi qui liễu, Chơn hồn sẽ được các vị Tiên Nương trong Diêu Trì Cung dìu dẫn vào Cửu Trùng Thiên, trong đó có Lục Nương cầm phướn Tiêu Diêu đưa Chơn hồn vào cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, tức là Chơn hồn sẽ được trường sanh (sống mãi) nơi cõi vô vi.
Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,
Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.
Hồng phước 洪 福: Những điều phước đức to lớn.
Chí Linh 至 靈: Tức Chí Tôn.
Lôi Âm 雷 音: Tức Lôi Âm Tự 雷 音 寺: Là chùa Lôi Âm, một ngôi chùa của Đức Phật A Di Đà nơi cõi Cực Lạc Thế Giới.
Tự toại 自 遂: Tự mình thỏa thích, không bị ràng buộc nên lòng ung dung thơ thới.
Bồng Dinh 蓬 瀛: Hay Bồng Doanh là một nơi Tiên ở. Đó là hai hòn đảo nằm trên biển Bột Hải: Bồng Lai và Doanh Châu. Trên đảo Bồng Lai (Bồng Đảo) có một ngọn núi gọi là Bồng Sơn.
Câu 7 và 8: Nhờ hồng phước của Đức Chí Tôn, nên Chơn linh được thung dung tự tại nơi cõi Bồng Dinh (tức cõi Tiên), và thảnh thơi nhàn nhã ở chùa Lôi Âm (tức cõi Phật)
Chúng sanh được may duyên sinh vào thời Tam Kỳ Phổ Độ là một phước lành to lớn mà Đức Chí Tôn đã ban cho, “nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng”. Lại nữa, pháp môn tu trong thời kỳ này chỉ trau dồi chữ Tâm và lo cho chúng sanh trong trường thi công quả, như lời Thái Thượng Đạo Tổ đã giáng cơ dạy: “Ngày chung qui chỉ đem về Thầy một chữ Tâm và những công nghiệp đã gây thành cho sanh chúng”.
Nếu Chơn linh nào thực hiện đúng lời dạy trên thì sẽ được tiêu diêu nơi cõi Tiên, hoặc thanh nhàn trong nước Phật.
Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ,
Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên,
Hậu thổ 后 土: Là vị Thần cai quản đất đai một vùng lớn. Thổ địa là vị Thần cai quản một khu vực nhỏ.
Xương tàn: Xương cốt tàn lụi.
Nghĩa Chí Tôn: Ơn nghĩa của Đức Chí Tôn.
Tha thứ tiền khiên: Tha cho những tội lỗi đã gây ra từ các kiếp trước.
Câu 9: Xin cho gửi lại đây nấm xương tàn của người qui liễu, nhờ Hậu thổ gìn giữ dùm.
Câu 10: Xin Chí Tôn ra ơn tha thứ cho các tội lỗi đã gây ra từ trước.
Đưa tay vịn phép diệu huyền,
Ngọc Hư lập vị Cửu tuyền lánh chơn.
Phép diệu huyền: Những phép thiêng liêng huyền diệu mà Đức Chí Tôn ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ được hưởng, đó là những pháp và bí tích của đạo Cao Đài.
Ngọc Hư 玉 虛: Ngọc Hư Cung 玉 虛 宮.
Lập vị 立 位: Tạo lập ngôi vị.
Cửu tuyền 九 泉: Chín dòng suối, chỉ cõi Âm Phủ. Tương truyền rằng nơi Âm phủ có chín con suối, nên gọi là Cửu tuyền hay Chín suối. Ngoài ra Âm phủ còn được gọi là Suối vàng hay Huỳnh tuyền.
Lánh chơn: Bước chơn xa lánh đi.
Câu 11 và 12: Nhờ hưởng những phép huyền diệu của Chí Tôn ban cho nên Chơn linh tạo được ngôi vị của mình nơi Ngọc Hư Cung mà xa lánh cõi Âm phủ.
Ngó Cực Lạc theo huờn Xá Lợi,
Cửu Trùng Thiên mở lối qui nguyên,
Ngó Cực Lạc: Hướng về Cực Lạc Thế Giới.
Xá lợi 舍 利: Hình hài, thân xác của Đức Phật Thích Ca hay các bậc Thánh đắc đạo, sau khi hỏa táng, xương cốt còn lại là những tinh thể tròn hạt như viên bi, sáng lóng lánh như ngọc, nên người ta gọi những tinh thể đó là ngọc Xá lợi.
Huờn Xá lợi: Tức là hạt Xá lợi (Xá lợi tử 舍 利 子). Theo Kinh Đại Thừa Chơn Giáo, khi một người tu đắc đạo, thì Tam Bửu hiệp nhứt, cũng kết thành một xác thân Thiêng liêng, gọi là huờn “Xá lợi” hay “Mâu Ni”. Xác thân Thiêng liêng ấy là cái bản tánh thuần dương, bất tiêu, bất diệt, bất tử...
Cửu Trùng Thiên 九 重 天: Chín tầng Trời.
Mở lối: Khai mở một con đường.
Qui nguyên 歸 元: Trở về nguồn gốc, tức trở về với Đức Chí Tôn.
Câu 13: Hướng về cõi Cực Lạc Thế giới để nương theo một xác thân Thiêng liêng là “Xá lợi”.
Quyển Đại Thừa Chơn Giáo có viết: “Các con muốn hiểu chỗ Đạo thì các con trước phải phanh luyện Tinh Khí Thần và phải tạo một xác thân Thiêng liêng kêu rằng “mâu ni” hay là “xá lợi”. Cái xác thân Thiêng liêng ấy bất tiêu, bất diệt, bất tử, bất tồn mà các con cần phải có xác thân ấy.
Xác thân ấy là chi?
Là cái bổn tánh thuần dương vậy. Khi các con bỏ xác phàm nầy thì điểm Linh quang của các con nương theo đó mà về thẳng đến nơi Thầy. Nếu các con không có xác thân ấy, các con phải chuyển kiếp khác hoài, luân hồi khó dứt”.
Câu 14: Chí Tôn mở ra một con đường Cửu Trùng Thiên để các Chơn hồn trở về với Đức Chí Tôn.
Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên,
Nước Cam Lồ rửa sạch thuyền độ nhân.
Rỡ ràng: Sáng đẹp.
Phật cốt Tiên duyên: Cốt cách như Phật, dáng vẻ như Tiên. Câu này đồng nghĩa với câu Tiên phong Phật cốt 仙 風 佛 骨: Chỉ phẩm cách cao thượng, ví như có phong thái như Tiên, cốt cách như Phật.
Nước Cam lồ: Do từ Hán Cam lộ thủy 甘 露 水: Đây là một thứ nước Thiêng liêng huyền diệu của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát luyện ra chứa trong Tịnh bình, dùng để tiêu trừ bịnh chướng, giải tỏa oan nghiệt, cải tử hoàn sanh...
Bí pháp Đạo Cao Đài cũng luyện được Cam Lộ Thuỷ để làm phép xác cho các tín đồ qui liễu.
Cách luyện Cam Lộ Thủy được Ngài Đầu Sư Thượng Sáng Thanh chỉ như sau: “Để chén ngay Thiên bàn, gát ngang nhành dương liễu qua miệng chén, đoạn lấy hai chung nước Âm Dương xáp lại cùng nhau cho Âm Dương ký tế, nghĩa là hai mặt nước hiệp nhau rồi đổ ngay giọt xuống chén mà niệm câu chú này: Cam Lộ Thủy năng hủy trược kiếp ô sinh oan nghiệt tội chướng chi đọa. Hễ dứt câu niệm thì phải dừng giọt nước. Đoạn tay trái bắt ấn Hộ Pháp, để chén nước Cam Lồ trên Ấn; tay mặt cũng bắt Ân Hộ Pháp chụp lên miệng chén co ngón tay giữa tay mặt vẽ bùa (.) trên mặt nước rồi buông ngón tay ra, truyền thần xuống mặt nước. Đoạn nhắm hai mắt định thần, hễ thấy Thiên nhãn giáng ngay mặt nước thì tức cấp giựt tay ra, đừng đứng đợi để tiêu Thiên nhãn thì thất pháp. Nước Cam Lộ đã luyện thành”.
Thuyền 船: Chiếc thuyền.
Thuyền độ nhân: Chiếc thuyền cứu độ con người, đó là thuyền Bát Nhã.
Câu 15: Cốt cách sáng ngời như Phật, có dáng vẻ đẹp như Tiên.
Câu 16: Nước Cam lồ của Đức Phật Quan Âm rửa sạch hết các oan khiên nghiệt chướng, rồi con thuyền Bát Nhã cứu độ để đưa người chìm đắm nơi biển khổ qua bờ.