Nghi Thức & Ý Nghĩa Tang Lễ Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
THIÊN VÂN Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

TANG LỄ

TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT

 I- TANG LỄ CỦA ĐẠO HỮU. (Giữ Lục Trai) .               
II- TANG LỄ BẠT TIẾN. ĐẠO HỮU SA NGÃ và NGƯỜI NGOẠI ĐẠO                    
III. TANG LỄ CHO NHI ĐỒNG.                 
IV. TANG LỄ NGƯỜI TỰ VẬN.                     
V. TANG LỄ NGƯỜI BỊ SÉT ĐÁNH.

 

I- TANG LỄ CỦA ĐẠO HỮU.

         (Ăn chay dưới mười ngày)

         - Chư Đạo Hữu không giữ trai giới đủ 10 ngày trở lên thì hành lễ Bạt tiến.

         “Bạt tiến ”, Bạt là chọn để cất nhắc lên. Tiến là đề cử. Bạt tiến, tức là đề cử linh hồn người quá cố lên Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng nhờ cứu giúp.

         - Những vị này thuộc hàng vong phàm, khi lạy theo nghi thức lạy vong 4 lạy.

         - Không được làm phép xác

         - Cầu siêu thì chỉ tụng bài Kinh Cầu Siêu (Đầu vọng bái…) mà không tụng xen Kinh Khi Đã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi…) và được tụng Di Lạc Chơn Kinh trước Thiên Bàn.

         - Được hành lễ tế điện như nghi cúng Đạo hữu ăn 10 ngày chay.

         - Thượng sớ Tân cố, nhưng không thượng sớ Tuần Cửu, Tiểu tường, Đại tường, mỗi khi đến ngày Tuần Cửu, Tiểu, Đại tường thì tang quyến người qui liễu đem Linh vị đến Thánh Thất sở tại thiết lễ Cầu siêu và tụng Di Lạc Chơn Kinh.

         Cầu siêu thì chỉ tụng bài Kinh Đầu vọng bái… và tụng Di Lạc Chơn Kinh mà thôi. Còn như làm lễ tại Tư gia thì cũng tụng hai bà kinh trên đây. Tụng nhiều chừng nào càng tốt nhiều chừng nấy.

         Lễ Cầu siêu Bạt tiến có tụng Kinh Đưa Linh Cữu, Kinh Hạ Huyệt và Vãng Sanh Thần Chú.

NGHI TIẾT HÀNH LỄ.

         HẤP HỐI: Tụng bài Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối (Rấp nhập cảnh….).

         TẮT HƠI: Tụng bài Kinh Khi Đã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi…).

         THƯỢNG SỚ TÂN CỐ: Dâng sớ cúng Chí Tôn tại Thánh Thất hoặc tư gia.

         TẨN LIỆM: Tụng bài Kinh Tẩn Liệm (Dây oan nghiệt…).

         THÀNH PHỤC: Tang quyến có thể hành lễ tang tại Khách Đình hay tại tư gia cũng được. Nếu muốn đem vô Khách Đình thì phải làm đơn xin phép Hội Thánh.

            * Để tại Khách Đình hay tại tư gia đều phải hành lễ Đức Chí Tôn.

            * Cáo Từ Tổ.

            * Thành phục phát tang.

            * Hành lễ tế điện, cũng giống như hành lễ cho Đạo hữu giữ 10 ngày chay, và chỉ hành lễ tế điện một lần mà thôi.

            * Phụ tế, nếu có thân bằng cố hữu tế lễ, làm theo nghi châm chước.

         CẦU SIÊU: Tụng bài Kinh Cầu Siêu (Đầu vọng bái…), tụng 3 lần, niệm chú Chí Tôn 3 lần. Không tụng xen với bài Kinh Khi Đã Chết Rồi. Tiếp tụng Di Lạc Chơn Kinh.

         LỄ AN TÁNG:

-         Cáo Từ Tổ, hành theo nghi châm chước.

-         Cầu siêu, tụng 3 lần bài Kinh Cầu Siêu. Không được hành phép xác.

-         Khiển điện.

-         Di Linh cữu ra thuyền Bát Nhã, đồng nhi tụng bài Kinh Đưa Linh Cữu.

-         Đến Báo Ân Từ, thỉnh Linh vị vào bái lễ Phật Mẫu (Không có dộng chuông đưa rước).

-         Đến Đền Thánh, cũng thỉnh Linh vị vào bái lễ Đức Chí Tôn (Không dộng chuông đưa rước).

-         An táng nơi nghĩa địa.

TRẬT TỰ ĐƯA ĐÁM

            1. Bảng Đại Đạo.

            2. Phướn Thượng Sanh.

            3. Bàn vong.

            4. Đồng nhi tụng Kinh Đưa Linh Cữu, có đờn.

            5. Vãng lụy (nếu có).

            6. Thuyền Bát Nhã chỡ Linh cữu.

            7. Tang quyến.

            8. Chức sắc, Chức việc, Đạo hữu nam nữ.

         TẠI NGHĨA ĐỊA:

            Đọc ai điếu (nếu có).

            Đồng nhi tụng Kinh Hạ Huyệt và Vãng Sanh Thần Chú 3 lần, niệm chú Chí Tôn 3 lần.

            Giải tán.

 

II- ĐẠO HỮU SA NGÃ, NGOẠI ĐẠO

         Tang lễ trong trường hợp này được Hội Thánh giải thích lý do và hướng dẫn cách hành lễ như sau: “Những người chưa nhập môn cầu Đạo, chẳng luận giàu sang hay nghèo hèn, già cả hay trẻ bé, cùng đã có nhập môn rồi bỏ Đạo, mà đến giờ chót của người biết hồi tâm tin tưởng Đức Chí Tôn, hay là người chết rồi mà thân tộc người tin tưởng Đức Chí Tôn, đến rước chúng ta cầu hồn cùng là cầu siêu thì chúng ta cũng nên thi ân giúp đỡ linh hồn ấy siêu thoát. Ấy là một điều phước đức độ linh hồn con cái của Đức Chí Tôn y theo chơn truyền tận độ.

         Song cách thể hành Đạo, Chức sắc và Chức việc phải làm y như vầy:

         1/. Về việc cầu siêu:

               Nếu gần Thánh Thất thì cầu siêu nơi Thánh Thất.

               Nếu ở xa Thánh Thất thì thiết lễ cầu nơi nhà Chức sắc và Chức việc gần đó.

               Nếu người trong thân chịu nhập môn rồi thiết lễ tang sự luôn”.

         2/. Về việc cầu hồn:

         Làm tại nhà tang chủ. Cầu hồn thì tụng bài Kinh Cầu Siêu:

         “Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,

                  A Di Đà Phật độ chúng dân”

         Tối lại tất cả Đạo hữu và gia quyến của người lâm chung phải thành tâm tụng Di Lặc Chơn Kinh cho tới ngày di linh cữu.

         Điều trọng yếu hơn hết là trọn tang môn phải giữ trai giới trong mấy ngày linh cữu còn tại tiền thì mới làm “Bạt tiến” cho vong hồn giải thoát đặng.

         3/. Khi di quan:

         Tụng một bài Kinh Cầu Siêu từ lúc khởi hành đến khi hạ huyệt (không tụng kinh Di Linh Cữu, Kinh Hạ Huyệt), đọc Vãng Sanh Thần Chú.

         Như vậy, hành tang lễ cho vị Đạo hữu sa ngã và người ngoại Đạo thì không tụng các bài Kinh Thiên Đạo sau:

            - Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối.

            - Kinh Cầu Hồn Khi Đã Chết Rồi.

            - Kinh Tẫn Liệm.

            - Kinh Di Linh Cữu, thế bằng Kinh Cầu Siêu tụng từ lúc di quan đến khi hạ huyệt.

            - Kinh Hạ huyệt, chỉ tụng Vãng Sanh Thần Chú mà thôi.

         Hằng ngày, tụng Di Lặc Chơn Kinh trước Thiên Bàn càng nhiều càng tốt.

         Về phần Kinh Thế Đạo thì được tụng đủ: Các bài kinh chánh tế và các bài kinh phụ tế.

         Người chết chưa có Đạo, nhà không có thờ Đức Chí Tôn thì hành lễ tang theo phần Kinh Thế Đạo.

         Không được phép nhập môn thế, ăn chay thế cho người chết để xin hành đủ lễ tang theo nghi lễ Đạo.

 

III. TANG LỄ CHO NHI ĐỒNG.

         Theo nghi tiết cúng lễ năm 1991, con nhà Đạo từ 1 tuổi đến 17 tuổi, có giấy Tắm Thánh và giữ trọn trai giới (tức ăn 10 ngày chay trong 1 tháng), nếu qui vị thì được tụng đủ Kinh, có thượng sớ Tân cố, nhưng:

-         Không đăng điện.

-         Không làm phép đoạn căn.

-         Không làm Tuần cửu.

         Nếu không có giấy Tắm Thánh hoặc không giữ trai giới thì hành lễ tang theo nghi Bạt tiến của người chưa vào Đạo.

         Đúng 18 tuổi, phải cho trẻ lập thệ Nhập môn đổi giấy Tắm Thánh lãnh sớ Cầu Đạo. Nếu năm 18 tuổi mà chưa Nhập môn thì dù có giấy Tắm Thánh cũng tính như người ngoại Đạo. Lễ tang trong trường hợp này thực hành theo nghi Bạt tiến của người chưa vào Đạo.

 

IV. TANG LỄ NGƯỜI TỰ VẬN.

         Người tự vận là người chưa tới số vì đau khổ mà dùng mọi biện pháp để tự hủy hoại mạng sống của mình. Có nhiều nguyên do khiến người ta phải tự vận: Tự vận vì thất tình, vì bịnh tật, vì nghèo khó, vì nợ nần, vì đau đớn… Do tất cả nguyên nhân đó làm cho người ta sinh ra đau khổ, chán đời nên tìm tới cái chết để trốn nợ thế gian.

         Theo Nho giáo người tự vận là người làm con bất hiếu đối với cha mẹ, bởi vì Đức Khổng Tử đã từng nói: Thân mình thịt da chịu nơi cha mẹ mà sinh ra, nên giữ gìn đừng làm thương tật, đó là đầu cái hiếu vậy “ , Thân thể phát phu thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương hiếu chi thủy dã”. Ta thấy rằng, người xưa rất trọng thân mạng của mình, vì họ cho là công lao cha mẹ đã cưu mang sinh dưỡng, nên buộc phải giữ gìn, đừng để thương tật. Sự tổn hại thân thể của mình dù nhỏ còn coi là bất hiếu thay huống chi là tự vận, là cái tội tự mình hủy diệt cơ thể mình. Kinh Sám Hối cũng có nói:

Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,

Liều mình tự vận không màng thảo ngay.

         Về mặt Đạo pháp, người tự vận, tức trốn nợ thế gian, là người chịu rất nhiều tội lỗi và mang nhiều oan nghiệt, nợ nần. Do bởi tiền khiên, họ phải trả quả nghiệp trong hiện kiếp, thế mà trong kiếp sanh họ không trả, lại vay thêm nhiều tội lỗi, oan trái mới, rồi tự hủy hoại sự sống để trốn tội lỗi và nợ đời, làm cho Chơn linh họ nặng nề, bởi chồng chất thêm những oan khiên nghiệt báo, nên phải ở lại cõi Âm Quang sám hối, ăn năn chờ ngày thoát hóa. Vì vậy, chánh pháp Cao Đài không hành tang lễ cho người tự vận.

         Dù là vị Chức sắc, hay Đạo hữu trường trai, sinh tiền là người hạnh đức, siêng năng hành Đạo, lập nhiều công quả, nhưng khi tự vận chết thì luật pháp Đạo cũng không cho phép hành lễ tang theo nghi lễ Đạo được.

         Nhưng còn có loại tự vận cũng tự hủy diệt mạng sống mình, song không do những nguyên nhân ích kỷ trên, mà do một thế lực ép buộc phải tự vận, gọi là bức tử, song các hành vi của họ có lợi ích cho quốc gia dân tộc, hay nhơn quần xã hội, hoặc những người tự thiêu vì tranh đấu cho quyền lợi con người, hay cho Đạo pháp. Trong các trường hợp đặc biệt này, chúng ta thấy rằng, cũng là hành vi tự tử nhưng cứu cánh của họ rất nên cao quý, phải xem như họ đã hy sinh mạng sống của mình cho tự do, dân tộc hay Đạo pháp. Vì vậy, Hội Thánh sau này nên có quy định về tang lễ biệt lệ của người tự vận.

 

V. TANG LỄ NGƯỜI BỊ SÉT ĐÁNH.

         Có nhiều người cho rằng, những người sét đánh đều bị tan hồn xác, tức là tam thể xác thân đều tan rã, nên không còn gì để cầu siêu được nữa.

         Nghi lễ năm 1991 có qui định: “Trường hợp người bị sét đánh, hành lễ tang phần Thế Đạo: Tế điện, không cầu siêu, không tụng kinh đưa Linh cữu, Kinh Hạ Huyệt, có Vãng Sanh Thần Chú, không Tuần cửu”.

         Như vậy, Hội Thánh cũng quan niệm rằng người bị sét đánh không còn Chơn Thần và Chơn linh nên nghi lễ không hành phần Thiên Đạo, tức là phần độ hồn, chỉ hành về Thế Đạo mà thôi. Hành Thế Đạo là hành những nghi thức cúng tế để thể hiện sự đền đáp ơn nghĩa của kẻ sống đối với người mất.

         Tóm lại, người bị sét đánh tang lễ không cầu hồn, cầu siêu, không tụng Kinh Đưa Linh Cữu, không tụng Kinh Hạ Huyệt, không làm Tuần cửu, chỉ tụng Vãng Sanh Thần Chú khi hạ huyệt mà thôi. Nhưng cho phép đăng điện cúng vong, chánh tế và phụ tế.

 

VI. TANG LỄ SAU NGÀY ĐƯA THÁNH.

         Sau ngày đưa Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật triều Thiên, tức là khoảng kể từ ngày 23 đến ngày 30 tháng chạp nếu có:

         ● Chức Sắc Thiên phong từ phẩm Chánh Phối Sư đổ xuống Giáo Hữu và các phẩm tương đương qui vị thì hành lễ tế điện tại tư gia, không di Linh cữu vô Báo Ân Từ và Đền Thánh, không chèo hầu, chỉ được chèo đưa.

         Nếu không có tư gia thì hành lễ tại Khách Đình.

         ● Phẩm Lễ Sanh và các phẩm tương đương, Chức Việc và Đạo Hữu qui liễu thì hành lễ cúng tế tại tư gia. Nếu vị nào không có tư gia thì hành lễ tại Khách Đình.

         Các cuộc lễ Tế điện, Cầu siêu, Hành pháp Độ thăng, An táng đều được đọc Kinh như thường lệ.

      HOME