Tìm Hiểu Khái Quát Về Cao Đài Giáo
Dã Trung Tử .
- Tổ chức giáo hội.
* Bát Quái Đài.
* Hiệp Thiên Đài.
* Cửu Trùng Đài.
* Các Hội Thánh
Về tổ chức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có 3 đài: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài.
- Bát Quái Đài:
Bát Quái Đài là nơi Đức Chí Tôn ngự trị chưởng quản càn khôn vũ trụ, Thiên triều của Ngài gồm có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật là các Đấng trọn lành phụ sự.
Bát Quái Đài là linh hồn của Đạo, mọi giáo pháp của Đại Đạo do nơi Bát Quái Đài xuất phát. Vì Chí Tôn là Đấng tự hữu và hằng hữu đã tạo lập ra càn khôn vũ trụ và vạn hữu chúng sanh. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật là những chúng sanh đã đắc Đạo, trở lại phụng sự Thượng Đế, giáo hóa nhơn loại xây dựng xã hội bác ái, công bằng.
- Hiệp Thiên Đài:
Hiệp Thiên Đài là Đài bán hữu hình, do Hộ Pháp chưởng quản. Hiệp Thiên Đài có 2 sở dụng: sở dụng Thiêng liêng nơi làm trung gian hội hiệp giữa con người (hữu hình) với Đức Chí Tôn hay Thần, Thánh, Tiên, Phật (vô hình) qua cơ bút, và sở dụng Phàm trần là giử nhiệm vụ lập pháp và tư pháp trong tôn giáo.
Về ý nghĩa Hiệp Thiên Đài, phần Pháp Chánh Truyền chú giải có ghi rõ:
* Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền thiêng liêng mối Đạo. (Phẩm Giáo Tông của Cửu Trùng Đài muốn cầu Đức Chí Tôn hay các Đấng Thiêng Liêng phải đến Hiệp Thiên Đài).
* Hiệp Thiên Đài là chơn thần của Đạo. (là trung gian của Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài).
* Hiệp Thiên Đài là tay vén màng bí mật cho sự hữu hình và vô vi hiệp làm một..
* Hiệp Thiên Đài là luật lệ. (đối với Cửu Trùng Đài là chánh trị). Hiệp Thiên Đài là cơ quan bảo thủ luật pháp chơn truyền của Đạo.
Tổ chức nhân sự của Hiệp Thiên Đài:
Chư Chức sắc Đại Thiên phong Hiệp Thiên Đài đều do Đức Chí Tôn tấn phong qua cơ bút. Chia làm ba chi: Chi Pháp, Chi Đạo và Chi Thế. Nhân sự của Hiệp Thiên Đài tùy nhu cầu và sở năng mà phân bổ vào ba chi như sau:
* Chi Pháp: Hộ Pháp chưởng quản toàn Đài kiêm Chi Pháp. Chi Pháp có 4 vị Thời quân: Tiếp Pháp, Khai Pháp, Hiến Pháp, Bảo Pháp. Dây sắc lịnh thả mối ở giữa.
* Chi Đạo: Thượng Phẩm coi Chi Đạo. Chi Đạo có 4 vị thời quân: Tiếp Đạo, Khai Đạo, Hiến Đạo, Bảo Đạo. Dây sắc lịnh thả mối ở bên phải.
* Chi Thế: Thượng Sanh coi chi Thế. Chi Thế có 04 vị thời quân: Tiếp Thế, Khai Thế, Hiến Thế, Bảo Thế. Dây sắc lịnh thả mối ở bên trái.
Mười lăm phẩm này được mang dây sắc lịnh nơi mình khi hành đạo, và có quyền trao cho người thừa hành thay mặt mình đi hành sự, nên khi người nào mang dây sắc lịnh vào mình thì được toàn quyền hành xử, dù cho sai đúng mọi người đều phải vâng phục, không một bậc phẩm nào được phép vi lịnh. Theo truyền thống xưa nay của các Tôn giáo khi thấy Lịnh tiển, Lịnh bài, Lịnh sắc ở đâu, hoặc nơi người nào, cũng đều tôn kính vâng phục như là thấy Giáo chủ vậy.
Về sau Hiệp Thiên Đài có thêm Thập Nhị Bảo Quân là Chức sắc Hàn lâm viện do Đức Chí Tôn tấn phong qua cơ bút, và Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn lập thêm các chức sắc cấp dưới từ Tiếp dẫn Đạo nhơn xuống đến Sĩ tải. Đức Hộ Pháp lập thêm phẩm Luật sự, do khoa mục tuyển chọn. Sự cầu phong cầu thăng của những chức sắc nầy căn cứ trên công nghiệp và thâm niên công vụ, hoặc do cơ bút định vị. Sự điều hành Hội Thánh Hiệp thiên Đài, do hiến pháp Hiệp Thiên Đài quy định.
Cửu Trùng Đài
Cửu Trùng Đài là phần hữu hình tức là phần xác của Đạo, nhân sự do tín đồ công cử hoặc Đức Chí Tôn ban thưởng. Về phần hữu hình, Cửu Trùng Đài có 2 nhiệm vụ là hành pháp, và lo về hành chánh quản trị của Đạo.
Nhân sự Cửu Trùng Đài phân theo Nam và Nữ (theo giới tính).
Cửu Trùng Đài Nam Phái:
Nam Phái chia làm 3 phái: Phái Thái (sắc phục màu vàng), Phái Thượng (sắc phục màu xanh da trời), Phái Ngọc (sắc phục màu đỏ).
Các bậc phẩm bao gồm: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng Pháp, Giáo Tông với số lượng như sau:
- Lễ Sanh: Không định số.
- Giáo Hữu: 3.000 vị. (Mỗi phái một ngàn).
- Giáo Sư: 72 vị (Mỗi phái 24 vị).
- Phối Sư: 36 vị (Mỗi phái 12 vị, trong đó có 3 vị Chánh Phối Sư).
- Đầu Sư: 3 vị (Mỗi phái một vị).
- Chưởng Pháp: 3 vị (Mỗi phái một vị).
- Giáo Tông: 1 vị (là anh cả của toàn thể tín đồ).
Cửu Trùng Đài Nữ phái
Nữ phái không chia phái và có Đạo phục toàn màu trắng. Quyền hành chức sắc Cửu Trùng Đài Nữ Phái y như Nam Phái, song chỉ trông coi phái Nữ mà thôi. Các bậc phẩm của Nữ phái cũng bao gồm: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư (không có phẩm Chưởng Pháp và Giáo Tông), số lượng như sau:
- Đầu Sư phái Nữ: 1 vị.
- Chánh Phối Sư phái Nữ: 1 vị.
- Các bậc phẩm từ Phối Sư xuống đến Lễ Sanh: Không giới hạn.
- Đầu Sư nữ phái phải tùng quyền Chưởng Pháp cùng Giáo Tông.
Cửu Viện:
Cửu Trùng Đài có 9 viện phụ trách điều hành trong lãnh vực hành chánh đạo, cũng như lo vấn đề dân sanh, dân trí, dân đức trong đời sống của tín đồ, đó là: Học Viện, Y Viện, Nông Viện, Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện, Hòa Viện, Lại Viện, Lễ Viện.
- Phái Thái chịu trách nhiệm Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện.
- Phái Thượng chịu trách nhiệm Học Viện, Y Viện, Nông Viện.
- Phái Ngọc chịu trách nhiệm Hòa Viện, Lại Viện, Lễ Viện.
Công cử nhân sự Cửu Trùng Đài: Chức Sắc Cửu Trùng Đài bắt đầu từ phẩm Lễ Sanh (lựa chọn trong hàng tín đồ và chức việc, là những người có Đạo Hạnh tốt). Chức Sắc Cửu Trùng Đài mỗi khi cầu phong hay cầu thăng đều phải qua 3 giai đoạn sau đây :
- Quyền Vạn Linh là Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng hội chấp nhận.
- Quyền Chí Tôn tại thế (Giáo Tông và Hộ Pháp) chấp nhận.
- Cơ bút chấm Phái và nhìn nhận tại Cung Đạo.
Về sau Hội Thánh có mở thêm một số phẩm trật cho những người phục vụ theo ngành như Bộ phận Kiến trúc (công thợ), Ban Nhạc, Ban Thế đạo... các phẩm vị nầy cũng tương ứng với phẩm trật bên Cửu Trùng Đài. Còn Đầu Phòng Văn, Lễ Sĩ, Giáo Nhi…nếu đủ công nghiệp thì được cầu phong phẩm Lễ Sanh. Đặc biệt là phẩm Hiền Tài (thuộc Ban Thế Đạo) nếu có công nghiệp hành Đạo được cầu thăng sang phẩm Giáo Hữu).
TỔ CHỨC HỘI THÁNH
Giáo hội Cao Đài gồm có 4 Hội Thánh hữu hình:
- Hội Thánh Hiệp Thiên Đài: Các phẩm chức sắc Hiệp Thiên Đài từ phẩm Truyền Trạng trở lên (Chi tiết ghi ở phần Hiệp Thiên Đài).
- Hội Thánh Cửu Trùng Đài: Các phẩm chức sắc Cửu Trùng Đài từ bậc Giáo Hữu trở lên (Chi tiết ghi ở phần Cửu Trùng Đài)
- Hội Thánh Phước Thiện: Các phẩm chức sắc cơ quan Phước Thiện từ bậc Chí Thiện trở lên (Chi tiết ghi ở phần Hội Thánh Phước Thiện).
- Hội Thánh Hàm Phong: Gồm các vị chức sắc thuộc các Hội Thánh nêu trên, khi đến tuổi 60 về hưu, thì sẽ được đưa vào Hội Thánh Hàm Phong. Dù không trực tiếp tham gia hành chánh Đạo, nhưng nếu có thể đóng góp trong quá trình an dưỡng và có công trạng đặc biệt vẫn sẽ được xét để thăng phẩm vị.
NHÂN SỰ HỘI THÁNH ANH
Nhân sự Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài hợp lại thành Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Hội Thánh Cao Đài.
Về hành chánh Hội Thánh Cao Đài gồm các bậc phẩm từ Giáo Hữu (của Cửu Trùng Đài) đổ lên. (Các bậc phẩm ở Hiệp Thiên Đài hay các cơ quan khác, thì đối phẩm tương đương với phẩm Giáo Hữu).
Từ Phối Sư trở lên hành đạo ở tại Tòa Thánh. Từ Lễ Sanh đến Giáo Sư hành đạo ở địa phương. (Tộc, Châu, Trấn). Hội Thánh ở trung ương được gọi là Hội Thánh Anh.
HỘI THÁNH EM
Bàn Trị Sự tại Hương Đạo được gọi là Hội Thánh Em, gồm 3 vị: Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, và Thông Sự. Đạo Luật qui định: Dù là một phẩm nhỏ nhất (Phó Trị Sự hoặc Thông Sự) đặc trách nơi ấp Đạo, Ba vị cũng phải giữ trai giới theo luật định, và phải từ bỏ quyền Đời đặng để trọn tâm lo tròn trách nhậm Đạo. Chánh Trị sự là Đầu Sư Em, Phó Trị Sự là Giáo Tông Em, Thông sự là Hộ Pháp Em (Theo Chú giải Pháp Chánh truyền của Đức Hộ Pháp).
CÁC CƠ QUAN
TRONG NGUỒN MÁY HÀNH CHÁNH QUẢN TRỊ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
(Gọi tắt là chánh trị của Đạo)
Theo Đạo Luật Mậu Dần (1938) ấn định có 4 cơ quan trong chánh trị Đạo đó là:
- Hành Chánh:
Hành chánh là cơ quan để thi hành các luật lịnh của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn phê chuẩn, nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y Luật Pháp mà đi trên con đường Đạo Đức cho đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thật hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng. Thống quản cả các hoạt động của nền chánh trị đạo. (Chương hành chánh có 17 điều).
- Phước thiện:
Phước thiện là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi, hoặc giúp tay cho bên hành chánh thi hành Luật Pháp cho đặng dễ dàng trọn vẹn. (Phước Thiện lấy điều 10 và 11 của Hành Chánh tạo thành).
- Phổ tế :
Phổ tế là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm Đạo. (thuộc điều 14 của chương Hành Chánh).
- Tòa Đạo :
Tòa Đạo là cơ quan bảo thủ Chơn Truyền, gìn giữ Luật Pháp, chăm nom chư Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu thi hành phận sự, chở che những kẻ yếu tha, hoặc tiếp cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, để bênh vực những người cô thế, tức là giữ nét công bình trên mặt Đạo; lại cũng là một cơ quan giúp cho Hành Chánh, Phước Thiện và Phổ Tế thêm oai quyền mạnh mẻ, tôn nghiêm đặc sắc. (thuộc điều 15 của chương Hành Chánh). Tùy theo phân cấp hành chánh mà bố trí nhân sự và tổ chức các cơ quan.
PHÂN CẤP HÀNH CHÁNH
- Tổ chức hành chánh:
Đạo Cao Đài có trung ương và địa phương: Cấp trung ương đặt tại Tòa Thánh Tây Ninh.
Hội Thánh Cao Đài Trung ương gồm có các cơ quan như: Cửu Viện, Phước Thiện, Phổ Tế, Bộ Pháp Chánh, Hàn Lâm Viện, Ban Thế Đạo, Đại Đạo Thanh Niên Hội… Tổ chức Hành Chánh Đạo tại Châu Thành Thánh Địa (trung ương) với 1 vị Giáo Sư làm Khâm Thành.
Trong Châu Thành Thánh Địa có các Phận Đạo. Đầu Phận Đạo là vị Lễ Sanh. Phận Đạo có nhiều Hương Đạo, cũng như các địa phương khác, Đầu Hương Đạo là phẩm Chánh Trị sự do tín đồ công cử.
Ở cấp địa phương:
- Trấn Đạo: Địa phận một Vùng, một nước do một Giáo Sư phụ trách cầm quyền Khâm Trấn Đạo gồm nhiều Châu Đạo. Theo Đạo nghị định số 3, Đức Lý Giáo tông quy định Giáo sư làm Đầu một tỉnh, ở đây nên hiểu là một tỉnh lớn dạng Tiểu bang của một nước lớn.
- Châu Đạo: Địa phận một tỉnh hoặc một thành phố lớn, có nhiều Tộc Đạo, do một Giáo Hữu cầm quyền Khâm Châu Đạo.
- Họ Đạo: Theo Tân luật, nơi nào có 500 tín đồ trở lên, thì được lập một Họ Đạo, có một thánh thất riêng. Theo Đạo Nghị định số 3 của Đức Lý Giáo tông ấn định một Giáo hữu cầm quyền Đầu Họ Đạo. Việc lập Họ Đạo do Giáo tông phê chuẩn.
- Tộc Đạo: Địa phận một quận, huyện. Do một Lễ Sanh cầm quyền Đầu Tộc Đạo.Tộc Đạo gồm nhiều Hương Đạo.
- Hương Đạo: Gồm nhiều ấp Đạo Chánh Trị Sự phụ trách Đầu Hương Đạo.
Ấp Đạo có Phó Trị Sự và Thông Sự đứng đầu.
Như vậy hệ thống Trấn, Châu, Tộc và Hương Đạo thì tổ chức hành chánh đạo tương ứng với đơn vị hành chánh của quyền Đời. Chỉ riêng có Họ Đạo thì tổ chức theo số lượng tín đồ, ở đây có thể hiểu là số tín đồ nầy tập trung theo liên cư liên địa.
Cơ sở thờ tự :
Cơ sở thờ tự của Cao Đài tại trung ương có Đền Thánh và Đền thờ Phật mẫu.
Tại mỗi địa phương một thành phố hoặc một quận huyện có một thánh thất thờ Chí Tôn và một điện thờ Phật mẫu, đây cũng kiến taọ các cơ ngơi phụ cận để làm nơi hội họp của tín đồ và làm văn phòng hành chánh cho Đầu tộc Đạo, còn các văn phòng của Khâm trấn, Khâm châu Đạo thì tùy thuận tiện sẽ đóng tại một thánh thất nào đó trong phạm vi Châu hoặc Trấn liên hệ.
Mỗi Thánh thất thành lập một Ban Tứ vụ gồm Hộ vụ lo quản trị về tài chánh, Lương vụ lo về lương thực và phụ trách việc ăn uống, Công vụ lo việc kiến trúc, Lễ vụ lo việc lễ nghi tế tự. Ban Tứ vụ thánh thất dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đầu Tộc Đạo hay Đầu Họ Đạo.
Để phụ giúp về hành chánh với Đầu Tộc hay Đầu Họ có một Đầu phòng văn (Đầu phòng văn khoa mục của Hội Thánh Trung ương thuyên bổ đi theo Đầu Họ hay Đầu Tộc) hoặc chọn trong những tín đồ hoặc chức việc là người tình nguyện tại địa phương.
Đạo Cao Đài có các kinh sách chủ yếu sau đây:
1.- Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (quyển 1 và quyển 2). Nội dung được Hội Thánh tuyển chọn trong các Thánh giáo và Thi văn dạy đạo của Chí Tôn, Phật mẫu và các Đấng Thiêng liêng giáng cơ. Người Cao Đai coi đây như là một bổn Thánh Kinh căn bản của Đạo.
2.- Pháp Chánh Truyền (được xem như Hiến pháp của tôn giáo Cao Đài do Đức Chí Tôn ban xuống qua cơ bút, có tính chất một “can tánh hiến pháp”, vì thế gian không có quyền sửa đổi. Pháp Chánh truyền được Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc vâng lệnh Thiêng liêng chú giải, thành bổn Pháp Chánh Truyền chú giải).
3.- Tân luật: Trong buổi Tam kỳ Phổ độ, Đức Chí Tôn cho nhơn sanh lập Luật thích nghi với tình trạng tiến hóa của mình để tu hành, nên Bổn Tân luật hiện nay do các vị Tiền bối soạn thảo, được Quyền Thiêng liêng phê chuẩn, theo Lời Đức Chí Tôn thì đây cũng là “Thiên điều” tại thế.
Tân luật và Pháp Chánh truyền có ảnh hưởng lớn lao về Tiên phong Phật sắc của người tu trong Đại Đạo, vì kẻ tu hành mà chẳng giữ đúng luật pháp là trái phép Đạo, mà trái phép Đạo thì không bao giờ vào được Bạch Ngoc Kinh, vì vậy Tân luật rất nên yếu trọng.
Đạo Luật: Về sau theo nhu cầu điều hành của cơ chế hành chánh Đạo cho hợp với đà phát triển. Hội Thánh đã lập thêm Đạo luật năm Mậu dần, và Luật của Ba Hội lập quyền Vạn linh và Bát Đạo Nghị định.
4.- Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo: Do các Đấng Thiêng liêng giáng cơ, vào cuối tháng 7 đến đầu tháng 8 năm Ất hợi (1935). Chỉ có 10 bài trong số Kinh Thế Đạo (song thất lục bát) do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc trước tác, được Đức Nguyệt Tâm Chơn nhơn chỉnh văn.
Trong Kinh Thiên Đạo Thế Đạo (còn gọi là Kinh Tận độ), ngoài phần Kinh cúng Tứ thời, với nội dung xưng tụng Đức Chí Tôn, Phật mẫu và các Đấng Thiêng liêng Tam giáo, còn các phần khác cũng rất linh nghiệm, vì mỗi tiếng đọc có sự rung động huyền diệu vô cùng, sức rung động ấy hiệp với sự tập trung tư tưởng mạnh mẽ và thành kỉnh của người tụng, tạo ra một thần lực phi thường để thức tỉnh tâm hồn người sống (sanh hồn), và đánh tan trược khí trong chơn thần người chết (âm hồn), giúp chơn thần họ được nhẹ nhàng, mau giải thoát sự ràng buộc của lục dục thất tình bám níu theo chơn thần họ, và giúp họ xa lánh hình phạt thiêng liêng, đặng được siêu rỗi, hoặc mau đặng đầu thai tái kiếp.
LỄ NGHI VÀ LỄ PHẨM
Nghi lễ tế tự của Cao Đài giáo tại Đền Thánh và các Thánh thất địa phương đã được Hiệp Thiên Đài soạn thảo, được Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung ban hành ngày 16 tháng 6 năm Canh ngọ (12-7-1930). Về sau Hội Thánh có soạn thảo và ban hành thêm quyển Quan Hôn Tang Lễ, quy định các lễ nghi tế tự trong Đạo chi tiết hơn.
Còn Tín đồ Đạo Cao Đài hàng ngày cúng kiến thường xuyên (hoặc tịnh - ngồi thiền) bốn lần vào các thời điểm: giờ Tý (nửa đêm), Ngọ (giữa trưa), Mẹo (từ 5 đến 7 giờ), Dậu (từ 17 đến 19 giờ). Ngoài ra cũng có thể thiết đàn tụng niệm bất kỳ lúc nào để phục vụ cho các dịp Quan, Hôn, Tang, Tế...
Lễ phẩm gồm có: bông hoa (tượng trưng Tinh), rượu (tượng trưng Khí), và trà (tượng trưng Thần), gọi là Tam bửu. Khi lễ bái thường nhật (tứ thời) thì dùng rượu vào thời Tý và Ngọ, dùng trà vào thời Mẹo và Dậu. Khi lễ bái đặc biệt quan trong (đại lễ, tiểu lễ) trong các Đàn lệ thì mới dùng đủ Tam bửu (Hoa quả, trà, rượu).
Đường hường tu hành:
Về đường hường tu hành người tín đồ Cao Đài vừa giữ Tam cang Ngũ thường theo đạo Nho, song song với luyện Tam bửu Ngũ hành theo đạo Lão, lại vừa phải giữ tròn Tam quy Ngũ giới, theo đạo Phật.
Yếu quyết tu hành của người tín đồ Cao Đài cũng giống tiêu chí tu hành của Tam giáo Ngũ chi là “vô kỷ, vô công, vô danh”, vì người tu sống với đạo, thể hiện ra việc làm từ thiện, là bởi chưn mến Đạo yêu Đời, và không thể nào làm khác hơn được, chứ không phải mong cầu phúc lộc cho riêng mình (vô kỷ), nên coi như chẳng có công ơn gì với ai cả (vô công), và cũng không muốn ai biết đến việc làm của mình, cũng như biết tên tuổi của mình (vô danh). Nên mới có câu “hiền nhơn vô kỷ, thần nhơn vô công, thánh nhơn vô danh”. Tóm lại người tu theo giáo pháp Cao Đài không do hai động cơ “danh lợi” thúc đẩy. Theo lời Đức Hộ Pháp thì “Tu không thủ lợi cầu danh mới là có Đạo”.
Người tu cũng có ba bậc là hạ thừa, trung thừa và thượng thừa, tuỳ theo thực hiện tam lập mà định vị. Khi người tín đồ đã làm tròn nhơn đạo, thì được nhập Tịnh, nơi đây họ sẽ được chơn sư truyền thọ các bửu pháp luyện tinh, khí, thần, mà tầm cơ giải thoát.
Nói chung đường hướng tu hành của người Cao Đài là làm phải làm lành, lập công bồi đức, đồng thời tu tâm dưỡng tánh cho thuần phát thiên lương, song song với luyện mạng cho tinh khi thần hiệp nhứt, để phát triển thần huệ. Đó là phương Tâm Mạng song tu, còn gọi là Phước Huệ song hành.
Phương diện sinh hoạt, lập công và thăng tiến của tín đồ:
Một tín đồ bình thương khi mới nhập môn thì chủ yếu là giữ đúng trai giới và quy điều theo Tân luật ấn định, đồng thời còn thực hiện lễ bái, cầu nguyện tại Thiên bàn tư gia hàng ngày, và các đàn lệ sóc vọng thường kỳ tại Thánh thất và Điện thờ Phật mẫu địa phương, cùng chăm lo tập luyện thân thể vào mỗi buổi sáng theo 12 bài Khí công, Đạo dẫn (thoa bóp) và thể dục của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tác chỉ giáo.
Ngoài việc mưu sinh thường nhật, nếu có điều kiện tham gia các hoạt động của đạo và có năng lực thích hợp sẽ được giữ chức vụ tương ứng như thủ quỹ, thư ký, hay viên chức trong ban Tứ vụ (Hộ, Lễ, Lương, Công) của Thánh thất, hay sẽ được bầu vào hàng chức việc Bàn Trị sự, hoặc được tuyển chọn bằng khoa mục như Đầu phòng văn...
Rồi do công nghiệp hành đạo và thâm niên công vụ cùng tình nguyện dành trọn cuộc đời hiến thân cho đạo sẽ được đề cử vào phẩm Lễ sanh và từ đó do đồng phẩm công cử với nhau, có thể thăng cấp từ từ lên cho đến Giáo tông, nhưng riêng Giáo tông thì 3 phẩm Đầu sư và 3 Chưởng pháp có thể dự cử, nhưng phải chịu sự công cử của toàn thể tín đồ, ngoài ra có ngoại lệ là do cơ bút chỉ định.
Con đường lập vị và tu luyện của tín đồ khi có đủ công đức:
Về phương diện tu luyện Đạo Cao Đài không chủ trương người tín đồ đi theo một con đường lập vị duy nhất, mà có ba con đường tu khác nhau:
Con đường thứ nhất là lập vị theo Cửu Thiên khai hóa:
Cửu Thiên khai hóa là con đường lập vị theo Cửu Trùng Đài lấy quyền hành phẩm tước hữu hình trong Hội Thánh làm phương tiện giáo hóa phổ độ chúng sanh để tạo công nghiệp. Con đường nầy lấy đức hạnh và công nghiệp hành đạo làm chính, khi làm tròn thiên chức, thì phẩm vị hữu hình sẽ đối hàm với phẩm trật của Cửu Thiên Khai Hóa nơi thiêng liêng là Thần Thánh Tiên Phật.
Con đường nầy cũng bao gồm các chức phẩm tương đương của Hiệp Thiên Đài và các ban bộ chuyên môn trong cửa đạo.
Con đường thứ hai là lập vị theo Thập nhị đắng cấp Thiêng liêng:
Đó là lập vị theo con đường Phước thiện (thập nhị đẳng cấp thiêng liêng) là phẩm trật từ Minh đức đến Phật tử. Sở hành của họ là lo phần cứu khổ cho chúng sanh, nhất là về phương diện vật chất để lập công đức. Khi làm tròn thiên chức cũng đối hàm với Thần Thánh Tiên Phật nơi cỏi thiêng liêng.
Con đường thứ ba là tu chơn tịnh luyện:
Con đường thứ ba theo Đạo sử thì có từ năm 1929, Khi Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc mở ra sinh hoạt Phạm môn (cửa Phật), về hình thức Phạm môn là những cơ sở hợp tác kinh tế nhỏ, dành cho những người đồng chí hướng tu hành, cùng làm ăn sinh sống cộng đồng với nhau, khi người nào có đủ công đức, thì sẽ được nhập tịnh thất thọ lãnh bí pháp thiền định tịnh luyện, không phải kinh quá chức sắc phẩm trật nào cả.
Con đường nầy cũng bao gồm các chức sắc của Cửu Trùng Đài và Phước Thiện khi có đủ công đức cũng có thể nhập tịnh thất để tu luyện. Về sau Đức Hộ Pháp phổ biến thêm lý thuyết tu chơn là “Phương luyện kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại Đạo” mở thêm lối vào con đường thứ ba nữa cho những tín đồ theo phương tu nầy.
Như vậy con đường thứ ba bao gồm những chức sắc Cửu Trung Đài, Phước Thiện. Những người trong sinh hoạt Phạm môn và những tín đồ tu theo Phương luyện kỷ, khi đã có đủ công đức tức là đã thực hiện đủ Tam lập: Lập đức, Lập công, Lập ngôn.
Con đường thứ ba là con đường đi tắc trong kiếp sanh, để xuất chơn thần vân du thiên ngoại, về diện kiến với Đức Chí Tôn khi còn tại thế, rồi nhập xác lại để sống hết kiếp người theo thiên ý. Trong cửa Đạo hiện nay đã có hai cơ sở tịnh luyện dành cho sinh hoạt này, đó là Trí Huệ cung, và Trí giác cung, còn cơ sở thứ ba là Vạn Pháp cung, chỉ mới dự đinh, nhưng chưa xây dựng được.
Xưng hô:
Khi xưng hô với nhau, tín hữu Cao Đài sử dụng các từ “huynh”, “đệ”, “tỷ”, “muội” (tức là anh chị em một nhà), tuỳ theo Thiên chức (giáo phẩm), tuổi tác, giới tính mà dụng thêm các từ ngữ sau đây:
- Khi cấp dưới tỏ ra kính cẩn đối với cấp trên, nhất là đối với các nhân vật quan trọng trong Đạo, họ còn thêm “Đức”, “Ngài”, Như “Đức Hộ Pháp”, “Ngài Hiến Pháp”, khi thưa gởi thì dùng các từ trịnh trọng cung kính như “Bạch Đức Ngài...”
- Còn đối với cấp khác thì thêm “Đại”, hay “Hiền” phía trước những đại từ nhân xưng trên, như “đại huynh”, “đại tỷ”, “hiền huynh”, “hiền tỷ”.
- Khi để tỏ sự khiêm tốn, người trên đối với cấp dưới, thì dùng các từ như “Bần, Tiện, Tệ, Tiểu, Thiểu...” như “Bần Đạo” (từ nay Đức Hộ Pháp hay dùng). Còn các cấp khác thì dùng “Bần Tăng”, “Tiện hiền”, “Tiện huynh”, “Tệ huynh”, “Tiện sĩ”...
- Khi người dưới tỏ ra khiêm tốn với cấp trên cũng tự xưng như: “Tiện đệ”, “Tiểu đệ”, “Tiểu muội”, “Tệ chức”, “Thiểu phẩm” ... )
Sự bình đẳng nam nữ:
Đạo Cao Đài nhấn mạnh sự bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội.
Tuy nhiên, trong phạm vi tôn giáo, nữ giới không được giữ các ngôi vị Chưởng Pháp, Giáo Tông. Trong chú giải Pháp Chánh Truyền, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc khẳng định rằng đây là mệnh lệnh của Thượng Đế, Người đã tuyên bố rằng nam tượng trưng Dương, nữ tượng trưng Âm. Nếu nữ giới nắm những chức vị đó, tức là Âm thịnh Dương suy, nên nữ giới lên ngôi vị Chưởng Pháp, Giáo Tông thì Đạo sẽ đi vào sự hủy diệt.
Việc không cho nữ phái lên các phẩm Chưởng Pháp, Giáo Tông cũng có những lý do vì Thượng Đế yêu thương nữ phái, không muốn phận nữ nhi phải chịu nhiều trách vụ nặng nề. Bởi lẽ lên phẩm vị càng cao, trách nhiệm công việc càng lớn, đó là 1 gánh nặng vô cùng mệt mỏi mà nữ phái thì làm việc theo xu hướng tình cảm cho nên nếu gánh trách nhiệm nặng nề, thì dễ dẫn đến những việc không hay có thể xảy ra trong quá trình hành chánh Đạo. Còn nam giới, làm việc vốn xu hướng theo lý trí, nên khi đối mặt những khó khăn sẽ có thể bình tâm, tỉnh trí để xử lý những việc trọng đại sao cho công tâm nhất.
Linh hồn là một siêu thực thể trường tồn.
Ngày nay giới khoa học hiện đại đã xác nhận linh hồn là một siêu thực thể, tuy thể xác chết đi nhưng linh hồn vẫn tồn tại nơi cỏi hư linh. Khoa học còn phát giác trong linh hồn con người có một bộ máy tính lượng tử cực mạnh, ghi chép tất cả hành động của con người khi còn sống vào một bộ nhớ, lưu trử vượt không gian và thời gian, không bao giờ mất được. Bằng chứng là những linh hồn tử sĩ thân xác bị thất lạc trên chiến trường, những linh hồn nầy đã nhập xác các nhà ngoại cảm để chỉ hài cốt của họ, và còn tường thuật những việc làm hoặc tâm tư của họ khi còn sống vẫn còn tồn tại trong ký ức của họ. Sự kiện nầy cũng trùng hợp với quan điểm của Cao Đài giáo là con người có một linh hồn trường tồn, và những những tính tình cùng sự hiểu biết do học hỏi của kiếp nầy cũng được lưu giữ trong linh thân, làm thành sự hiểu biết bẩm sinh cho kiếp sau.
Yếu quyết tu hành của người tín đồ Cao Đài cũng khác xa với đường lối tu hành của các tôn giáo ngày nay.
Ngày nay đường lối tu hành của nhiều tôn giáo thiên về lễ bái tụng niệm, cao hơn thì chuyên về tịnh luyện, tịnh khẩu, tuyệt cốc... mà lơ là phần công đức. Còn trong yếu quyết tu hành của người tín đồ Cao Đài, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã khuyên mọi người bắt đầu hành đạo bằng cách phụng sự vạn linh, chỉ khi nào công đức dày, đạo hạnh cao, thì mới có thể theo đuổi việc luyện đạo. Nếu sự tịnh luyên bắt đầu quá sớm trong khi ba thể xác thân, vía phách, trí não của người đệ tử chưa được chuẩn bị để có đủ khả năng đón nhận những nguồn thần lực mạnh mẽ từ cỏi trên, sẽ đưa người tu đến thất bại hoàn toàn, đôi khi còn khiến tâm trí trở nên điên loạn là khác.
Thật ra kẻ tu hành theo pháp môn nào cũng vậy, tâm linh vẫn là căn bản, vì vậy người đệ tử Cao Đài luôn trau dồi thiên lương cho đến mức độ thuần phát, tức là phải đủ đầy công đức, và lòng yêu thương phải thấm nhuần trong tư tưởng và thể hiện ra hành động. Vì bí kíp tịnh luyện trên nguyên tắc nó rất đơn giản, nhưng sự lập công bồi đức và luyện cho tinh thần người đệ tử đầy lòng yêu thương là việc làm vô cùng khó khăn. Khi người đệ tử có đầy đủ công đức và tấm lòng tràn đầy yêu thương, thì dù không thọ bí pháp tu luyện nơi nào đi nữa, nhưng người tu vẫn có thể đón nhận bí pháp đó qua Thầy dạy Tâm linh của chính mình do quyền Thiêng liêng điều động. Bởi vì Đức Hộ Pháp đã xác nhận rằng: “Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh tại thế” (Phương luyện kỷ). Như vậy khi con người tràn đầy lòng yêu thương là đã nắm được bí pháp siêu phàm nhập thánh rồi vậy. Còn khi công nghiệp và đạo hạnh người tu chưa đầy đủ, theo lời Đức Hộ Pháp thì dù có thọ pháp do nơi nào đi nữa, nó cũng sẽ tự biến đi mất, mà đôi khi còn gây hậu quả nghiêm trọng cho mình nữa.
Theo quan niệm hiện đại đạo đức không chỉ đem lại sự an lạc về phần tâm linh mà còn làm cho con người gia tăng sức khỏe và tuổi thọ.
Như trên đã nói: Con đường Đạo và sự an-lạc không dành riêng cho một ai, không tìm ở đâu xa, cũng không nhờ một Đấng Thiêng-liêng nào ban cho, mà con người chỉ cần thực-hành đạo-đức, thì sự an-lạc sẽ có ngay tức-khắc. Sự an lạc này không những đến với con người về phần tâm linh, mà đến ngay cả với thân xác hữu hình, đó là sức khỏe và sự gia tăng tuổi thọ. Vì theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới ngày nay thì “sức khỏe là một trạng thái thỏa mái cả về thể chất lẫn tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh hoạn hay thương tật”, mà muốn đạt được trạng thái đó thì con người phải có một đời sống đạo đức thì mới hưởng trọn vẹn cả hai được .
Đạo Cao Đài là một tôn giáo luôn tôn trọng sinh mạng.
Đạo Cao Đài đích thực là một tôn giáo luôn luôn coi mạng sống của chúng sanh là tối trọng, nên trong năm giới cấm, giới luật đầu tiên là “cấm sát hại sanh mạng” (nhất bất sát sanh). Vì Đức Chí Tôn đã dạy rằng:
“Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơnh linh Thầy, hễ có sự sống ắt có Thầy, Thầy là cha của sự sống... Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp... Nếu ai giết mạng sống đều chịu quả báo không sai...(Thánh giáo năm Mậu thìn / 1928/ TNHT/Q1).
Để thực hiện giới luật nầy, người Cao Đài coi sự “thương yêu” là tối trọng, trên thương Thượng Đế, giữa thương Đạo, dưới thương cả chúng sanh, nên Đức Chí Tôn nhắc nhở rằng:
“Các con nhớ biết thương Thầy, mà hễ thương Thầy thì ắt thương Đạo, mà biết thương Đạo, thì thương hết chúng sanh”. (Thánh giáo ngày Tết 1 tháng 1 Đinh mão/ 2-2-1927/ TNH/ Q1/ tr.94).
Theo Thánh giáo trên có nghĩa là con người chỉ cần thương yêu chúng sanh là đã thể hiện được lòng mến Đạo thương Thầy. Do đó người Cao Đài lấy “Bảo sanh” làm giềng mối, để thực hiện “Nhơn nghĩa” hầu tiến đến “Đại đồng”.
Vì tôn trọng mạng sống mà Đạo Cao Đài coi án tử hình của thế gian đang áp dụng trị thế là một bất công của xã hội:
Từ khi khai Đạo Đức Chí Tôn phú thác cho Đạo Cao Đài làm thế nào để thế gian xóa bỏ được án tử hình, vì đó là một cách giết người bất công. Theo triết lý Cao Đài quyền sống là quyền căn bản, sự giết chóc bất kỳ lý do nào cũng không giải quyết được vấn đề gì cả.Vì con người không phải là sản phẩm do con người tạo nên, hễ bất toàn thì vứt bỏ như một đồ vật, mà dù họ sinh ra có tật nguyền cũng phải được nâng niu bảo trọng, và trong đời sống họ có tội lỗi đến đâu cũng phải giáo hóa dìu dắt... không được ruồng bỏ giết chóc. Vì thế ngày nay nhiều nước đã xóa bỏ án tử hình. Điều này Đức Chí Tôn cũng đã khẳng định rằng:
“Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy . (Thánh giáo năm Mậu thìn / 1928/ TNHT/Q1).
Để thi hành sứ mạng nầy, sinh tiền Đức Hộ Pháp đã quan tâm thuyết phục các nhà lãnh đạo quốc gia xóa bỏ án tử hình. Khi Đức Ngài bị đồ lưu ở Madagasca có quen biết với hai nhân sỉ ở đây, về sau hai người nầy tham gia phong trào phục quốc, đã bị chính phủ Pháp kết án tử hình. Đức Hộ Pháp đã gởi điện văn cho chính phủ Pháp xin xóa án tử hình đó, hoặc thay bằng một hình phạt khác, thay vì phải giết người. Lời kêu gọi nầy đã được chính phủ Pháp hưởng ứng, và hai người đó được thoát chết. (Theo thuyết đạo của Đức Hộ Pháp vào rằm tháng 6 Kỷ sửu / 1946 về “Cái án tử hình bất công của xã hội”.)
Cao Đài Giáo vừa là một tôn giáo hòa đồng Tam giáo sẵn có, vừa là một tân tôn giáo:
Qua các tiết mục nêu trên, chúng ta nhận thấy Cao Đài Giáo vừa là một tôn giáo tổng hợp giáo lý của Tam giáo, còn vừa là một tân tôn giáo, có một tổ chức Giáo hội, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và Tôn chỉ, Mục đích cùng Phương châm hành đạo đặc thù, không giống bất cứ một tôn giáo nào trên thế gian.
a)- Tôn giáo tổng hợp hoà đồng:
Cao Đài giáo có thể coi vừa là một tôn giáo tổng hợp hoà đồng với tiêu ngữ là Quy Tam giáo, Hiệp Ngũ chi.
Trong Tam kỳ Phổ độ Thượng Đế không phế bỏ các Tôn giáo đã có sẵn trước đây, mà Quy Tam giáo, Hiệp ngũ chi. Lấy tiêu ngữ nầy không phải Thượng Đế muốn nhập chung các tôn giáo thành một khối, mà cốt làm cho các Tôn giáo cùng nhìn nhận nhau từ một nguồn cội, để cùng sống với nhau một cách hoà bình. Ngoài ra còn rút tỉa cái tinh hoa của Tam giáo để tạo thành giáo lý của Cao Đài giáo.
b)- Tân tôn giáo:
Cao Đài cũng vừa là một tân tôn giáo, từ tôn chỉ mục đích, tổ chức giáo hội, đến nghi lễ và phương châm hành đạo, có những nét đặc thù khác hẳn với các tôn giáo ra đời từ xưa đến nay:
- Tôn chỉ và mục đích:
Về mục đích và Tôn chỉ Quy Tam
giáo Hiệp ngũ chi ngoài sự xem mọi tôn giáo có cùng một nguồn gốc, mà còn là một phép tu hành, tức là tín đồ Cao Đài phải tuân giáo luật của Tam giáo, và phải trải qua năm lớp học Ngũ chi, mới đạt được tột phẩm vị của mình tại thế gian.
Về Thiên đạo Cao Đài xem mỗi linh hồn là con cái Thượng Đế:
Con người tuy về mặt thể chất có khác biệt, nhưng về linh hồn đều là anh em với nhau. Điều nầy chúng ta dễ nhận thấy khi vào lễ bái Chí Tôn thì thấy có đẳng cấp, riêng biệt. Còn khi vào lễ bái Phật mẫu thì mọi người như nhau, dù cho Giáo Tông hay Hộ Pháp cũng ăn mặc như tín đồ, và thứ bậc ngang nhau.
- Trong Thế đạo, Cao Đài Giáo lấy nhơn luân làm đạo trọng:
Đối với các tôn giáo, khi con cái là chức sắc trong Đạo họ, thì xem cha mẹ, anh em mình như là sanh chúng khác, thậm chí cha mẹ chết, không bái lễ, không thọ tang....!!!. Còn đối với Cao Đài thì dù cho là Giáo tông hay Hộ Pháp, vào gia dình cũng phải giữ vẹn nhơn luân, hiếu hạnh như các con cái khác trong nhà.
- Trong Thế đạo, Cao Đài Giáo lấy nhơn nghĩa làm giềng mối:
Nếu con người giữ tròn nhơn nghĩa, mới biết coi nhau như anh em, lấy đức háo sanh làm tiêu chuẩn cho lẽ sống, để tạo một thế giới đại đồng cả tinh thần lẫn vật chất. Đây là một xã hội lý tưởng của Cao Đài, đồng thời cũng là lý tưởng của các nhà xã hội học hiện đại.
- Về Tổ chức Giáo hội.
Tổ chức Giáo hội Cao Đài cũng khác xa với các Tôn giáo khác, Giáo hội Cao Đài gồm có Tam Đài là Bát Quái Đài (vô vi), Hiệp Thiên Đài (bán hữu hình) và Cửu Trùng Đài (hữu hình).
Điểm đặc trưng của Cao Đài là cả ba Đài có thể giao tiếp với nhau qua trung gian của Hiệp Thiên Đài bằng phương tiện cơ bút và những phương pháp thông công khác do các đồng tử của Hiệp Thiên Đài đảm trách.
Như vậy về điều hành của Giáo hội Cao Đài luôn hiện hữu sự chỉ đạo chặc chẽ của Thiêng liêng, thể hiện một cơ chế Thiên nhân hiệp nhất.
Phân tách Thể chế hành chánh quản trị của Cao Đài Giáo được gọi tắt là “Chánh trị Đạo”.
Sau đây là một số phân tách về Thể chế hành chánh quản trị của Cao Đài Giáo từ lâu được gọi tắt là “Chánh trị Đạo” và so sánh Thể chế này với các Thể chế khác nhau của Đời đang tồn tại, để chúng ta nhận định được những nét ưu việt của nó.
Thể chế của Cao Đài giáo gồm có một bộ máy hành chánh quản trị được gọi tắt là “Chánh trị Đạo”. Như vậy danh từ “Chánh trị Đạo” là một từ ngữ thông dụng trong cửa Đạo cách đây non một thế kỷ. Ở đây, nên hiểu là một bộ máy “hành chánh quản trị” để điều hành vấn đề phát triển, cũng như duy trì việc trật tự, trị an trong nội bộ của đạo mà thôi.
Ngày nay khi nghe đến danh từ “chính trị” đối với thế hệ trẻ hoặc người ngoại đạo, người ta thường hiểu rằng đó là một “hội kín” chuyên tranh giành quyền lực trị quốc, hoặc tham gia vào chính quyền. Nên khi họ mới nghe qua danh từ “Chánh trị Đạo”, vội ghép cho Cao Đài là tôn giáo làm chính trị !!! Chứ thật ra Đạo với Chính trị chẳng bao giờ dính dáng cả, vì Thánh giáo ngày 15 tháng 9 Bính dần (21-10-1926) Đức Chí Tôn khẳng định rằng:
“Chánh trị với Đạo chẳng buổi nào liên hiệp cùng nhau” (TNHT/Q1/ Tr.61).
Bởi vì “Đạo” luôn lấy “thương yêu hóa giải hận thù”, để mọi người chung sống hòa bình với nhau trong cọng yêu hòa ái. Còn “chính trị” thì “biến căm thù thành sức mạnh” để làm chất liệu đấu tranh, tiêu diệt đối phương, hầu giành thắng lợi về cho mình, đôi khi bất chấp cả thủ đoạn, vì chính trị thì “lấy cứu cánh thành công để biện minh cho phương tiện bạo lực”, còn Cao Đài giáo thì “lấy phương tiện nhân nghĩa để đạt đến cứu cánh đại đồng”.
Lại nữa, khi thấy tổ chức Giáo hội Cao Đài có một hệ thống quản trị chặc chẽ từ trung ương đến địa phương, lại vội ghép cho Cao Đài là muốn lập một nước trong một nước !!! Thật là một nhận định khá thiển cận.
Vì tôn giáo nào cũng phải có một hệ thống tổ chức điều hành như vậy cả, tiêu biểu như Thiên Chúa giáo, hiện tại họ có cả một triều nghi do Đức Giáo hoàng lãnh đạo, dưới có các bộ ngành, cơ sở trung ương đặt tại Tòa Thánh La-mã, về phương diện hành chánh La mã là một lãnh địa riêng biệt. Còn tại các địa phương trên toàn thế giới đều có Hồng y giáo chủ, Giám mục, Linh muc, Thầy giòng... để cai quản các cơ cấu đạo của từng nước, từng vùng cho đến tận làng xã...
Ở đây nếu cho rằng tôn giáo có tổ chức bộ máy hành chánh quản trị giống một nước, thì tôn giáo là một nước không biên giới, địa bàn của nó lan tỏa khắp thế gian, tùy theo thời gian phát triển mà tín đồ họ quản trị, đôi khi có thể bằng dân số nhiều nước hợp lại.
So sánh nhưng điểm giống nhau và khác nhau giữa thể chế hành chánh quản trị của Đạo và các thể chế của Đời:
Theo Chương 5 “Chánh trị Đạo” của Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa soạn thảo dưới sự hướng dẫn của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, cho chúng ta những nhận định về cơ cấu tổ chức hành chánh quản trị của Đạo Cao Đài có những đặc điểm giống với tinh hoa ưu việt của nhiều chánh thể khác nhau sau đây:
* Về hệ thống lãnh đạo chỉ huy Cao Đài Giáo giống như “Thể chế quân chủ lập hiến”, vì Giáo tông xem như là vua Đạo, nhưng khác với vua là Giáo tông do tín đồ công cử, nên không được cha truyền con nối. Còn Hiến pháp Đạo là Pháp Chánh Truyền do Đức Chí Tôn truyền xuống qua cơ bút, có tính chất một “can tánh hiến pháp”, do đó thế gian không có quyền sửa đổi. Sự bầu cử Giáo tông còn giống như “Chế độ Tổng thống” của các nước dân chủ tư bản, vì Tổng thống của họ cũng do dân bầu.
* Về nhân quyền và cơ chế điều hành nền Đạo, giống như “Chính thể Cọng hòa của các nước dân chủ tư bản, trong đó quyền hạn người tín đồ và tài sản riêng tư được tuyệt đối tôn trọng, họ có quyền tự do tham gia bầu cử, ứng cử vào các cơ quan hành chánh đạo, cùng đóng góp ý kiến và kiểm soát các sinh hoạt của Đạo từ địa phương đến trung ương, thông qua Ba Hội Lập quyền vạn linh, đó là “Hội Nhơn sanh, Hội Thánh và Thượng hội”. Đây là một nét đăc trưng của thể chế Cao Đài, khác xa với các tôn giáo và nhiều chế độ khác. Chỉ có người tín đồ Cao Đài mới có quyền thể hiện quyền tự do dân chủ trong tôn giáo mình một cách tuyệt đối như vậy.
* Về vật chất nuôi sống con người, thì Đạo Cao Đài có các cơ sở Phước thiện, nơi đây các thành viên sinh hoạt tập thể, đó là “sống chung, làm chung, ăn chung...”. Phúc lợi đem giúp đời bằng tấm lòng yêu thương: “đói cho ăn, rách cho mặc, đau cho thuốc...”, giống như lý tưởng của thể chế vô sản. Nên có thể nói Phước thiện là loại sinh hoạt “siêu vô sản”.
Nên so sánh với các thể chế hiện tại, chính thể Cao Đài giáo giống như chính chế “Quân chủ lập hiến” hay có thể nói là thể chế “Quân dân cọng chủ”.
Giáo thuyết Cao Đài có nhiều màu sắc “chính đáng tính” hiện đại.
Giáo thuyết Cao Đài mang đậm nét “chính đáng tính” so với các học thuyết hiện đại trên thế giới, nên đã được các thành phần trí thức tiếp thu nhanh chóng, ngay từ những năm đạo mới khai đã có những trí thức ngoại quốc nhập môn, tiêu biểu vào năm 1931 đã có Giáo sư Gabriel Gobron (1895-1941) ở Bayonville (Pháp), sau đó ông được Đức Chí Tôn ân phong phẩm Tiếp dẫn Đạo nhơn tại Pháp, trong suốt những thập niên 30 của thế kỷ XX ông đã tham dự nhiều hội nghị tôn giáo thế giới và thuyết trình nhiều đề tài về Cao Đài giáo. Vợ ông là bà Marguerite Gobron đã nhập môn được Thiên phong từ phẩm Lễ sanh lên Giáo hữu, ngoài ra ông còn thông thạo nhiều ngoại ngữ như Anh, Đức, Ý, Tây ban nha, Bồ đào nha... nên đã trước tác nhiều sách vở bằng Pháp văn, và viết báo bằng ngoại ngữ về Cao Đài giáo, nhờ vậy mà các trí thức Âu châu sớm biết về Cao Đài.
Hiện nay có các nhà trí thức tuy không phải là tín đồ Cao Đài, nhưng họ rất mến mộ, nên đã tiếp thu giáo thuyết Cao Đài để giảng dạy trong các Viện Đại học họ phụ trách, như Giáo sư Trần Mỹ Vân Đại học South Australia (Úc), Giáo sư Nguyến khắc Tiến Tùng viện Đại học Leipzig (Đức), Giáo sư Kazi Islam Đại hoc Dhaka (Bangladesh), Tiêu biểu là Giáo sư Tiến sĩ Sergei Blagov (Nga), ông đã bảo vệ thành công luận án Cao Đài năm 1991. Ông đã tham dự các hội nghị tôn giáo thế giới, và thuyết trình nhiều đề tài về Cao Đài. Ông cũng đã dạy môn Cao Đài tại viện Đại học Đông phương Moscow (Nga). Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu sinh ngoại quốc đã bảo vệ thành công luận án Cao Đài, trở thành những Tiến sĩ (Ph.D), Thạc sĩ (Master of Arts). Từ năm 1974 đã có Tiến sĩ Pierre Bernardini (Pháp), năm 1991 có Tiến sĩ Sergei Blagov (Nga) các năm gần đây có Tiến sĩ Jermy Jammes (Pháp), Tiến sĩ Christopher Hartney (Úc) Tiến sĩ Mohamad Jahangir Alam (Bangladesh), Thạc sĩ Betty Koegel (Đức). Ngoài ra còn nhiều nghiên cứu sinh của các nước đang bảo vệ luân án Cao Đài để trở thành Tiến sĩ.
Như vậy mới non một thế kỷ tuy với con số khiêm tốn nêu trên, nhưng cũng đã nói lên sự góp mặt tích cực của Cao Đài giáo trong nền văn minh tinh thần của nhân loại, và giáo thuyết Cao Đài cũng đã có sức hấp dẫn đối với nhiều bậc thức giả trên thế giới quan tâm.
Cửa địa ngục đã đóng lại bởi Tam kỳ Phổ Độ.
Theo nhận định của Giáo sư Tiến sĩ Sergei Blagov (Nga) cho rằng :
“Tính sáng tạo của Đạo Cao Đài trong lời tuyên bố của Đạo là cửa địa nguc đã đóng lại do Tam kỳ Phổ độ, Thiên đường mở ra cho mọi linh hồn” (Trích từ Cao Đài: Một tôn giáo mới / Dr. Sergei Blagov)
Trong kinh điển Cao Đài cũng có những câu đề cập đến sự kiện nầy:
“Vô địa ngục, vô quỷ quan,
Chí Tôn đại xá nhứt trang quy nguyên”
(Phật Mẫu Chơn kinh).
“Đóng địa ngục mở tầng Thiên,
Khai đường cực lạc dẫn miền Tây phuơng
(Kinh Giải oan)
Như vậy ngày nay Đức Chí Tôn đại ân xá, nếu sống đạo hạnh, thì chết sẽ vào Thiên đường. Còn nếu sống gian ác, thì khi chết, linh hồn cũng phản phất nơi phàm trần hoặc trung giới, chờ tái kiếp để trả quả, chứ không còn bị đọa đày nơi địa ngục. Nên ngày nay thường thấy các vong hồn hay nhập xác các người có khả năng ngoại cảm, tùy theo trình độ tấn hóa của họ mà có thẻ xúi dục những người này làm điều thiện hoặc ác.
Ngược giòng Đạo sử, từ khi mới khai Đạo, các bậc tiền bối đã vâng lệnh Thượng Đế Chí Tôn, khai sáng ra Cao Đài giáo. Quý Ngài đã gan dạ vượt qua tất cả các rào cản của thế gian, để tổ chức nền Đạo có một thể chế quản trị đầy đủ luật pháp, điều hành theo đúng chơn truyền, và tạo dựng một Thánh địa rộng lớn, một Đền Thánh hoành tráng và một cơ ngơi hành đạo khang trang, nhờ vậy mà nền Đạo đã phát triển chưa đầy một thế kỷ, mà con thuyền Đạo đã cập được nhiều bến đỗ vinh quang, và ánh đạo mầu tỏa sáng khắp năm châu.
Nên đối với một tín đồ chúng ta cần thấu đáo chơn truyền, để có thể giải thích với những người đã hiểu lầm kích bát, cho họ tâm phục khẩu phục. Chứ đừng mới nghe người ta chỉ trích, đã vội cho Đạo mình là lầm lạc, rồi trở lại biếm nhẻ cha ông của mình, như lời Đức Chí Tôn đã đề cập sau đây:
“Thấy kẻ dốt nát kích bác, trở lại chịu thiệt rằng: Đạo mình lầm lạc... Nhiều đứa chưa thấu đáo huyền diệu là gì, bị người ta chê, rồi còn biếm nhẻ nữa... Người truyền đạo như vậy có sai chánh lý chăng...? Phần đông trong các con nhiều kẻ ấy...”. (Thánh giáo 23 tháng 8 Bính dần / 29-9-1926.
Lời cảnh tỉnh trên đây là một sự thật phũ phàng...!!! Chúng ta đã từng thấy lúc bình nhật thì nhiều người đã vổ ngực hy sinh, nhưng đến khi ngộ biến thì rút êm bỏ ngỏ...!!! Cũng như lúc Đạo thạnh thì nhiều người xưng là hiền tài, trí đạo, áo mão xuê xang, khuê bài đầy ngực, viết lách lung tung...Khi gặp sóng gió thì run rẩy vội vàng dâng tờ trả chức, đốt sách, cuốn tượng...!!!
Còn những người có trách nhiệm
với sự tồn vong của nền Đạo, thì lại quờ quạng thay đổi chơn truyền, xóa bỏ thể chế, sửa tên đổi họ, giải tán lung tung... chẳng kể gì đến Thiên điều Đạo pháp.
Ngày xưa Thầy Mạnh Tử có nói rằng:
“Thiên hạ có đạo, thì người hiền đem thân thi thố đạo khi được trọng dụng. Thiên hạ vô đạo thì người hiền ẩn thân liều mình để giữ đạo. Chứ chưa từng nghe có người cố hủy hoại đạo để thuận theo quyền thế bỉ tục của người đời bao giờ” (Thiên hạ hữu đạo dĩ đạo tuẩn thân, thiên hạ vô đạo dĩ thân tuẩn đạo, vị văn dĩ đạo tuẩn hồ nhân dã / Mạnh Tử / Tận tâm thượng).
Đạo lý rộng bao la, Đạo pháp lại cao vô cực, ngay Đức Thích Ca khi thuyết đạo đã cho đệ tử biết rằng:
“Đạo mà ta biết như lá trong rừng, nhưng điều ta nói ra được chỉ là nắm lá cầm trong tay”.
Câu trên có nghĩa là cái Đạo Ngài đắc được thì nhiều, nhưng Ngài chỉ có thể diễn tả trong muôn một mà thôi.
Nói về một Đạo đã khó như vậy, huống hồ nói về Cao Đài giáo là đề cập đến Tam giáo Ngũ chi cho rõ nét thì thật là thiên nan, vạn nan... Nên Chương Thái Viêm một học giả Trung hoa đã nói rằng:
“Đề cập đến tôn giáo chẳng khác nào đi vẽ vết chân chim đang bay trong không trung, họa sĩ nào cũng cho là khó” (không trung điểu trích, họa giả giai nan).
Bởi chân chim thì có thật đấy, mà vẽ cho người ta thấy được thì rất là khó khăn, tỷ dụ nầy có nghĩa là chân lý tôn giáo thì hiện hữu mênh mông, mà nói sao cho mọi người hiểu được, thì không phải là chuyện dễ dàng. Do đó nhiều cây bút mới xem được năm ba bài báo mô tả một cách phiến diện về Cao Đài, rồi vội vàng suy luận méo mó để kích bát một cách đầy ác ý... Bởi thế Đức Chí Tôn dạy rằng:
“Đinh ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,
Mình biết Đạo mình giữ đấy thôi.
Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,
Phải coi nên chỗ để nên lời”
(Thi văn dạy Đạo)
Vì sự khen chê của nhân thế là chuyện thường tình, nên Đức Chí Tôn đã khuyên rằng, cần phải tùy chỗ mà đối đáp, chứ không nên tranh luận bừa bãi để sinh ra bất hòa và mất thì giờ vô ích.
Qua các tiết mục sơ lược nêu trên, với một ngôn ngữ thô thiển hữu hạn, lại thu vén trong một khuôn khổ ngắn gọn, mà trình bày một Đạo lý bao la, thì chắc chắn có rất nhiều thiếu sót, không thể nào đầy đủ được. Kính xin các bậc đàn anh cao minh chỉ giáo để tài liệu được súc tích, hầu góp phần vào công cuộc phổ truyền chơn lý Cao Đài.
CHUNG
Đồng Đạo có thể đọc tài liệu nầy trên một số trang Web của
Cao Đài giáo.
Hoặc biên thư hay gọi về:
LÊ THỊ HỒNG
130 đường Ông Ich Đường, Cẩm lệ,
Thành phố Đà nẵng, Việt nam.
Tél. 0511.3846687 & 0511.3506360