Thiền và Tịnh Luyện

 

Từ Chơn

 

2017

 

Mở

Có một nghịch lý hiển lộ khi giáo thuyết và pháp môn của Cao Đài song hành mà, không sớm thì muộn, bất cứ tín đồ thuần thành nào cũng phải đối mặt. Dĩ nhiên, việc này không phải là vấn đề nếu chúng ta dễ dãi chấp nhận các lý thuyết pha trộn hỗ lốn để khỏi phải suy nghĩ nhiều. Thế nhưng, bài viết này kêu gọi một mức độ suy nghĩ hơi cao hơn thường lệ. Vậy nếu có bị sốc vì cách trình bày hơi khác biệt một chút, xin quí đọc giả bỏ qua tiểu tiết mà quan tâm hơn đến ý nghĩa thực người viết muốn truyền tải. Cũng xin đừng vội tin ngay những điều người viết trình bày. Hãy suy nghĩ cho cẩn thận, cho dù trong thiên niên kỷ mới với đủ thứ công nghệ phức tạp này, suy nghĩ là một xa xỉ.

Tín đồ Cao Đài nào cũng được đọc qua Thánh Ngôn là các tôn giáo mở trước đây đã "thất kỳ truyền" và Cao ̣Đài khuyến cáo mọi người hãy "qui nguyên, phục nhứt" những giáo lý đó. Nhưng ai cũng biêt́, giải thích được vấn đề này vốn đã khó khăn rồi, áp dụng cho đúng lại càng khó khăn gấp nhiều lần. Và nghịch lý phát khởi ngay chỗ này đây: Các bạn Cao Đài ơi, các bạn "qui nguyên" và "phục nhứt" Phật Giáo thế nào trong khi các bạn cũng học tập lim dim "ngồi thiền" như các nhà sư đã làm hàng ngàn năm nay. Thậm chí có bạn còn xem việc đó là cao cấp, là có...trí tuệ hơn việc tụng kinh, làm đám đầy "âm thanh sắc tướng"̣. Và dĩ nhiên, có ngay một nhóm tín đồ bảo rằng thiền đã thất truyền rồi, kỳ ba này chỉ cần phổ độ (truyền đạo) thôi là đạt đạo. (Đây là một điển hình cho những tranh cãi không có hồi kết trong tín đồ Cao Đài như: rót nước cúng tám phân hay chín phân, đặt thi thể người quá cố nằm day đầu vô hay day đầu ra, Cao Đài có mấy Giáo Tông, phái nào là đúng chơn truyền....Dù có vẻ khôi hài dưới con mắt của người ngoại đạo, nhưng trên thực tế, không thiếu tín đồ rảnh rỗi, nhiệt tình phung phí thời gian trong những hoạt động như vậy !) 
 
Hậu quả rất dễ thấy: ngoài việc thành lập hàng lô hàng lốc chi phái ra, bây giờ có thêm những phân chia mới như: dòng thiền phổ độ đối lập với dòng thiền tu chơn, chơn truyền khác với không chơn truyền, hội thánh này và hội thánh kia vv.... Trong khi đó các bạn vẫn cao giọng rao giảng rằng mọi tôn giáo phải "phục nhứt", tức là thống nhất nói theo ngôn ngữ ngày nay. Đó là chưa kể, các bạn vẫn chưa phân biệt cho rõ: thống nhất kiểu Tần Thuỷ Hoàng hay kiểu dung hợp (pluralism). Chính vì thế, trong một buổi lễ Cao Đài ở Australia trước đây, một Giáo Sư khách mời người Úc đã phát biểu rằng mục đích của đạo Cao Đài nhằm thống nhất mọi tôn giáo là "quá lớn". Không biết bạn đọc nghĩ sao chứ người viết thì vô cùng thấm thía.
 
Người viết ý thức rõ ràng rằng tiến trình "qui nguyên" và "phục nhứt" này sẽ vấp phải nhiều khó khăn và còn rất lâu dài vì Đức Chí Tôn Thượng Đế dạy rằng đạo Cao Đài mở 700,000 năm (thất ức niên). Nhưng để khởi đầu, người viết muốn bước một bước nhỏ về phía trước. Muốn qui nguyên, nghĩa là trở lại cội nguồn, thì ít nhất mình cũng phải biết cội nguồn đó là gì và ở đâu. Vậy xin cung cấp một ít thông tin về thiền và tịnh luyện, đồng thời rủ rê các bạn đạo cùng suy tưởng để có nhận xét chút ít về vấn đề này. Trong tương lai sẽ còn nhiều bạn tu học Cao Đài đào sâu hơn nữa và mở rộng con đường tiến gần đến chân lý. Nào mời các bạn bắt đầu bằng một câu hỏi đơn giản.

 
Thiền là gì?
 
Ngày nay, (hiện đang là 2017) khó mà tìm ra ai đó không thể trả lời câu hỏi này. Tuy nhiên, phần lớn chỉ biết trả lời qua loa, rất ít người chịu t́m hiểu đến căn cội. Ở các nước khu vực Đông Nam Á, các thiền viện mọc lên còn nhiều hơn quán Mc Donald hay KFC nữa. Áp phích in hình thiền sinh ngồi kiết già len lỏi đến cùng trời cuối đất. Ở các nước phương Tây, nhất là Mỹ Quốc, nhìn đâu cũng thấy Meditation Centers (Trung Tâm Thiền). Các trường đại học tiếng tăm đều có những trung tâm thiền quản lý bởi các Giáo Sư chính qui hẳn hoi và các sinh viên phải trả đến 5 đô la hoặc hơn nữa cho một giờ học thiền. Người viết cũng đă đọc ở đâu đó là có một tử tù ngồi thiền ngày ba lần trong khi chờ ra pháp trường! Do đó, nhiều người đổ xô đến Tây Tạng để học thiền, trong đó có cả những người không hề biết một tiếng Tây Tạng nào. Khi trở về, họ nghiễm nhiên trở thành những guru (đạo sư) đầy uy lực trong những thiền viện thâm u tĩnh mịch. Trên internet còn nhộn nhịp hơn. Chỉ cần đánh meditation, thiền, zen, chan hay yoga vào Google Search bạn sẽ có vô số địa chỉ cung cấp ê hề những thông tin về thiền bằng đủ mọi thứ tiếng. Như vậy, trong thiên niên kỷ mới này, nếu mình biết quá ít về thiền thì cũng khá là thiệt thòi đó. Không những thế, thiếu kiến thức còn dẫn đến những gán ghép sai lệch, như ghép thiền với Cao Đài hay ghép thiền với Phổ Độ vv...Người viết cho rằng chính những gán ghép này đã khiến người ngoại đạo nghĩ rằng giáo pháp Cao Đài vay mượn hỗn tạp. 

Bây giờ xin đi thẳng vào trung tâm của sự việc. Thiền là một pháp môn (cách tu tập) của những tín đồ theo đạo Phật. Dĩ nhiên Phật Giáo còn có những cách tu tập khác nữa, nhưng để tiết kiệm thời gian, xin xoáy sâu vào chủ đề thiền. Trước hết, người viết trộm nghĩ rằng đọc vài quyển sách về Phật pháp rồi tự mình đưa ra nhận định là tốt nhất. Sách về thiền thì vô số, nhưng xin giới thiệu bộ sách quan trọng nhất: Essays in Zen Buddhism (Thiền Luận) của Suzuki Daisetsu Teitaro, xuất bản 1950 tại London ̣(đã xuất bản ở Việt Nam. Dịch giả Trúc Thiên và Tuệ Sĩ). Quan trọng vì, thứ nhất, Suzuki Daisetsu Teitaro là một học giả rất uyên bác. Ông là Giáo Sư môn Phật Học tại nhiều trường đại học danh giá ở Nhật và Mỹ, được trao tặng nhiều giải thưởng kể cả việc được đề cử nhận giải Nobel năm 1963. Thứ hai, đây là bộ sách đầu tiên giải thích cặn kẽ về thiền cho thế giới phương Tây, tiên phong trong việc phổ biến thiền đến mọi tầng lớp trên thế giới. Có thể mạnh dạn nói rằng những thông tin trong sách này là đáng tin cậy. Tuy nhiên, với những vị không có thì giờ đọc sách, người viết sẽ cố gắng trình bày ngắn gọn như sau.
 
Đầu tiên, xin lướt qua một chút lịch sử cho rõ ràng nguồn cội. Bởi vì lịch sử Phật Giáo phần lớn là truyền thuyết, nên xin chọn lọc nêu ra những điều nào được chấp nhận nhiều nhất thôi. Thái Tử Siddhartha Gautama (Sĩ Đạt Ta Cồ Đàm) ở Ấn Độ tìm ra được cách thoát khỏi bốn cái khổ của con người là sinh, lão, bệnh, tử. Ngài truyền dạy cách này cho mọi người xung quanh và được tôn là Buddha (Phật, tức là người hiểu biết). Sau khi ngài mất, các đệ tử của ngài muốn truyền lại lời vàng ngọc của ngài cho đời sau, nên mới hội họp để ghi chép lại. Những lần như thế được gọi là "kiết tập" hay "kết tập". Trong lần kiết tập thứ nhất có hai nhân vật quan trọng. Một là ngài Mahakasyapa (Ma Ha Ca Diếp) và hai là Ananda (A Nan). Ngài Ma Ha Ca Diếp đã khởi xướng và chủ trì cuộc họp còn ngài A Nan là người có trí nhớ tốt có thể nhớ những bài giảng của Đức Phật. Những ghi chép đó đã trở thành kinh Phật Giáo, truyền đến tận bây giờ.
 
Tuy nhiên, dù đọc cùng một thứ kinh sách, chỉ vài trăm năm sau, do khác biệt về cách tu tập, các đệ tử đã chia ra thành nhiều tông phái (chi phái) khác nhau như Đại Thừa, Tiểu Thừa, Mật Tông vv...Khi đạo Phật truyền qua các nước khác, các tông phái phát triển tùy theo sở thích của người dân nước đó. Chẳng hạn Mật Tông phát triển mạnh ở Mông Cổ, Tây Tạng. Tiểu Thừa được ưa chộng ở Sri Lanka, Lào, Thái Lan, Myanmar. Đại Thừa được tôn sùng ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam. Tông Phái Đại Thừa đặc biệt chú trọng việc thực hành Dhyana, tiếng Sankrit có nghĩa là "yên lặng suy tưởng". Người Trung Hoa đọc chữ Dhyana là "chan". Khi đến Nhật, người ta đọc là "zen"và ở Việt Nam đọc là "thiền". 
 
Theo truyền thuyết của thiền Trung Quốc, Phật đã truyền pháp cho ngài Ma Ha Ca Diếp qua câu chuyện "niêm hoa vi tiếu", nghĩa là mĩm cười khi thấy Phật nâng hoa lên. Câu chuyện này rất quan trọng nên cần phải nhắc lại như sau: Một hôm Phật không dạy đạo như thường lệ, mà chỉ im lặng dơ một bông hoa lên. Tất cả đệ tử đều ngơ ngác không hiểu gì cả, chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp là nhẹ nhàng mĩm cười. Phật liền đưa bông hoa cho ngài và nói: "Ta có chánh pháp vô thượng, nay trao cho Ma Ha Ca Diếp." Do đó, thiền Trung Quốc cho rằng Phật đã "ấn chứng" ngài Ma Ha Ca Diếp, (nghĩa là xác nhận ngài Ma Ha Ca Diếp đã hiểu lời dạy của Phật, nghĩa là đắc đạo) nên tôn ngài là Tổ Sư Thiền. Sau ngài Ma Ha Ca Diếp là 28 vị nữa lần lượt lãnh đạo các tu sĩ Phật Giáo Ấn Độ. Người Trung Quốc gọi đó là 28 vị Tổ Sư Tây Thiên. Vị thứ 28 là Bodhidharma (Bồ Đề Đạt Ma), cũng chính là người đã truyền dạy thiền sang Trung Quốc và được tôn làm Sơ Tổ Thiền ở Trung Quốc. Sau đó là năm vị tổ Trung Quốc nối tiếp nhau cho đến Lục Tổ Huineng (Huệ Năng).
 
Thiền Tông Trung Quốc kể lại rằng khi một Tổ Sư ấn chứng một đệ tử, sẽ giao luôn y bát cho vị đó. Y là cái áo, bát là cái tô lớn mà Phật Thích Ca sử dụng lúc sinh thời. Vậy y bát có vai trò như bằng cấp xác nhận năng lực trong xã hội ngày nay vậy. Vị nào giữ y bát là đă đắc đạo. Việc này diễn ra nối tiếp nhau cho đến Tổ Sư thứ sáu ở Trung Quốc là Huệ Năng thì dừng lại vì người ta bắt đầu dùng vũ lực để tranh dành y bát rất nguy hiểm. Do đó, Lục Tổ không truyền y bát lại cho học trò nữa. Từ đó cho đến nay, đệ tử nào được thầy xác nhận là đạt yêu cầu không  giữ y bát và cũng không được gọi là Tổ Sư. 

Có lẽ đến đây mời người đọc cùng rút ra một số nhận xét về thiền. Trước hết, thiền là một cách tu tập của Phật Giáo, chú trọng thực hành suy nghĩ trong yên lặng. Vậy chìa khóa của thiền là rèn luyện tư tưởng chứ không phải là tập luyện thể xác. Những cách ngồi kiết già, bán già (theo tư thế hoa sen) hay xếp bằng chỉ là phụ, không phải là yếu tố quyết định. Kể cả cách thở cũng vậy, ngày nay các chuyên gia thiền thống kê được đến tám cách thở, có lẽ còn nữa. Sở dĩ nói tư tưởng mới là yếu tố quyết định bởi vì theo Pháp Bửu Đàn Kinh, anh học trò nghèo Huệ Năng (sau này là Tổ Sư Thiền Trung Quốc thứ sáu) khi gánh củi đi ngang qua chùa, nghe Ngũ Tổ giảng kinh là đã giác ngộ (hiểu) ngay, đâu cần ngồi hay đứng thở gì đâu. Trong những câu truyện thiền học cũng vậy. Người học thiền phải suy nghĩ lâu dài, có khi đến cả đời người mới tìm ra câu trả lời. Có một số vị t́m ra câu trả lời khi đang... giẫy cỏ hay đang làm ǵ khác chứ không nhất thiết là phải ngồi thiền. Ngay cả Phật Thích Ca lúc mới đi tìm đạo cũng học tập các tôn giáo cổ ở Ấn Độ, như Vedism (Phệ Đà) hay Brahmanism (Bà La Môn) không loại trừ việc ngài phải tập các tư thế yoga vốn rất phổ biến trong các tôn giáo này. Khi nhận thấy những cách thức đó không hiệu quả, ngài đã quyết chí ngồi suy tưởng 49 ngày dưới cội bồ đề và đã thành công. Ngày nay ở phương Tây, thiền cũng được gọi bằng vô số tên, nhưng phổ biến nhất là Mindful Meditation, tạm dịch là "suy tưởng bằng ư thức". Người phương Tây cũng biết suy nghĩ là quan trọng trong thiền vậy.

Vấn đề thứ hai là, nếu suy nghĩ là quan trọng, thì người tu học phải suy nghĩ về điều gì và phải suy nghĩ như thế nào? Điều này dẫn đến một vấn đề cũng quan trọng không kém: đó là đạo sư, sư phụ, chơn sư, nói cho dễ hiểu là thầy dạy thiền. Xét theo những câu truyện trong thiền học, thì ngoài Đức Phật Thích Ca tự mình suy nghĩ và tìm ra cách giải quyết vấn đề, những vị tổ đời sau đều có thầy dạy và được thầy chứng nhận là thành công (đắc đạo). Thông thường, một tổ sư có nhiều học trò. Ông theo dõi, biết rõ trình độ và tính t́nh của từng người nên giao cho mỗi người một công án (đề tài để suy nghĩ) khác nhau, có khi công án không được nói rơ ra mà chỉ hai thầy tṛ ngầm hiểu với nhau. Xin nêu một vài thí dụ dễ hiểu về công án trong bộ sách Thiền Luận như "Hãy tìm âm thanh tiếng vỗ tay." hay "Phật là gì?" Những công án này chỉ có hai thầy trò biết mà thôi, không công khai cho các học trò khác. Khi học trò tìm ra câu trả lời sẽ trình riêng với thầy và cũng chính thầy sẽ trực tiếp cho học trò biết câu trả lời đó là đúng hay sai. Suy ra, học trò có trả lời được hay không là vấn đề không ai ngoài hai thầy trò biết. Nếu câu trả lời được thầy chấp nhận, người học được gọi là đắc đạo, giác ngộ, đắc pháp hay thành Phật.
 
Thêm một điều cũng rất quan trọng: Thiền là suy tưởng, không phải là kiến thức, cho nên học thiền không giống như học một môn học ở nhà trường phổ thông ngày nay, nghĩa là học sinh sẽ thi đậu nếu nhớ hết mọi điều thầy dạy. Hay nói rơ hơn không phải người có nhiều kiến thức sẽ dễ đắc đạo hơn người ít học. Bằng chứng của điều này là Ngũ Tổ đă ấn chứng Huệ Năng (không biết chữ) chứ không ấn chứng Thần Tú (người học rộng biết nhiều) làm Lục Tổ. Lại càng không thể có chuyện "tốt nghiệp 100%" được. Bởi vì hiện nay có khoảng 488 triệu tín đồ Phật Giáo trên toàn cầu (theo Pew Research Center, 2015) nếu tất cả số đó đều là Phật, thì thế giới ngày nay đâu có lắm vấn đề như vậy! Theo một bài thánh ngôn Cao Đài, thì cả ngàn năm nay ở Á Đông chỉ có một vị đắc đạo, đó là nhà sư Huệ Mạng Trường Phan ở núi Điện Bà, Tây Ninh. Chúng ta còn nhớ, trong tất cả học trò theo học đạo thì Phật Thích Ca chỉ ấn chứng có một vị thôi, đó là ngài Ma Ha Ca Diếp. 
 
Như vậy, kể từ ngài Ma Ha Ca Diếp cho đến Lục Tổ Huệ Năng, chúng ta có thể biết vị nào đắc đạo. Bởi vì dù các đạo sư không nói ra, nhưng chúng ta thấy có một vị giữ y bát và nối tiếp làm tổ sư đời kế tiếp. Còn từ Lục Tổ cho đến nay thì chúng ta không thể biết vị nào đắc đạo, vị nào không, vì việc ai đắc đạo không được tuyên bố công khai và cũng không còn truyền y bát nữa. 
Thêm vào đó, từ xưa đến nay, không có một qui định chính thức nào về tiêu chuẩn đắc đạo trong Thiền Tông cả. Mặc định là người đắc đạo dạy và xác nhận (ấn chứng) người học có đắc đạo hay không, không chứng minh, không xét duyệt, cấp bằng ǵ cả. V́ vậy ngày nay, rất khó biết ai là một vị thầy đúng nghĩa (chơn sư). Người viết còn nhớ Krishnamurti, triết gia nổi tiếng Ấn Độ trong thế kỷ 20 có nói: "Bạn làm sao biết một người nào đó là đắc đạo nếu bạn chưa đắc đạo?" 
Tóm lại, hiện nay điều quan trọng nhất khi bạn muốn thực hành pháp môn  thiền là phải t́m cho được thầy dạy. Sau đây mời quí đọc giả nghiên cứu phần hai của bài viết: Tịnh luyện là gì?  
 
 
Tịnh luyện là gì?

Gần đây có một số tín đồ Cao Đài, đa số là trẻ tuổi, len lén t́m đến những cơ sở dạy thiền. Kết quả hoặc là họ quay mặt làm ngơ với kinh sách  Cao Đài, một số thậm chí c̣n cải đạo (tham gia một cộng đồng tôn giáo khác). Có người nói rằng làm như vậy là thất thệ (vi phạm lời thề lúc nhập môn Cao Đài) và sẽ lănh một hậu quả nặng nề. Việc này xin phép để bàn trong một bài viết khác. Trong bài này th́ ư  kiến của người viết là:   họ không có ǵ đáng trách cả. V́ muốn t́m đạo mà không gặp được cách tu học phù hợp nên họ mới làm như thế. Vậy chúng ta, tín đồ Cao Đài, luôn rao giảng thánh ngôn là sẽ phổ độ (nghĩa là dạy đạo cho tất cả mọi người) đă có ǵ để cho họ học chưa? Người viết tin rằng muốn trả lời câu hỏi này, e là phải cần rất nhiều thời gian và công sức. Để góp phần vào việc t́m câu trả lời, người viết cố gắng t́m hiểu và ghi lại theo khả năng hạn hẹp của ḿnh. Hy vọng ngày kia sẽ giúp được ít nhiều cho cộng đồng tôn giáo Cao Đài.

Mọi tín đồ Cao Đài đều từng đọc kinh sách hoặc nghe nói về tịnh luyện. Dĩ nhiên đó là cách tu tập của Cao Đài, nhưng số người chịu khó t́m hiểu rơ đó là ǵ th́ c̣n rất khiêm tốn. Thông thường người ta nghĩ đó là thiền định v́ về mặt ư nghĩa hai từ ngữ này gần gần như nhau. Bởi thế mới có người viết sách về "Thiền Cao Đài"! Việc này cũng như người ta từng gọi Cao Đài là Phật Giáo cải cách bởi v́ thấy có thờ Phật Thích Ca vậy!        
 
Bây giờ xin đi vào vấn đề. Cao Đài Giáo khuyến nghị tín đồ ba cách tu tập: lập công, lập đức và tịnh luyện. Muốn lập công th́ tham gia làm chức sắc chức việc cho Hội Thánh, muốn lập đức th́ làm từ thiện theo Cơ Quan Phước Thiện và muốn tịnh luyện th́ vào tịnh thất (nhà tịnh). Xin nói thêm cho rơ chỗ này: Cao Đài không hề khẳng định là duy nhất chỉ có ba cách này mà thôi, cũng không khẳng định là cách nào cao hơn hay hiệu quả hơn cách nào. Vấn đề nằm ở chỗ cách làm có phù hợp với căn cơ và thuận tiện cho hoàn cảnh của người học đạo hay không.  
 
Ngay từ lúc mở đạo, trong Tân Luật Pháp Chánh Truyền đă có qui định về Tịnh Thất. Đức Hộ Pháp đă trực tiếp chỉ đạo xây Trí Huệ Cung (nhà tịnh dự kiến cho nữ phái) và cũng chính ngài làm lễ trấn thần rồi nhập tịnh tại đây. V́ vậy có thể suy ra tịnh luyện là một trong những cách tu tập chính thức của Cao Đài Giáo. Thánh ngôn dạy rằng thời kỳ này phải "bày bửu pháp ra để tận độ chúng sinh" và bửu pháp, hay c̣n gọi là bí pháp, đă được tŕnh bày qua các thể pháp, tức là các h́nh thức nh́n, nghe, cảm nhận được. Xin phép mở ngoặc một tí ở đây, người ta hay nhầm lẫn giữa bí pháp và bí tích. Phép xác, phép tắm thánh, phép cắt dây oan nghiệt... là những bí tích, thuộc về thể pháp. Còn bí pháp, nghĩa đầu tiên là cách tịnh luyện của Cao Đài, còn nhiều nghĩa khác nữa, nhưng xin trình bày vào một bài khác.
 
Hiện nay muốn lập công hay lập đức đă có Hội Thánh Cao Đài rồi, tín đồ nào chọn cách này cứ việc tham gia, chỉ cần tuân thủ Tân Luật Pháp Chánh Truyền, Ngũ Giới Cấm, Tứ Đại Điều Qui và hành đạo cho đến cuối đời. Riêng pháp môn tịnh luyện th́ c̣n chưa định h́nh cụ thể, nhưng trong tương lai chắc chắn phải phát triển để theo kịp tiến bộ của nhân loại. Như trên đă tŕnh bày, hiện nay thiền học được phát triển rất mạnh ở các nước phương Tây. Chắc chắn không phải v́ người Anh người Mỹ, vốn có tŕnh độ văn minh cao nhất hành tinh hiện nay, đột ngột quay ra   "mê tín dị đoan" đâu! Thực sự là khoa học trong thiên niên kỷ mới đang tiến vào lănh vực nghiên cứu bộ năo con người mà thiền học là bộ môn có liên quan đến tư tưởng đă có từ rất xưa. Hiện nay họ chưa t́m được ai "đắc đạo" để nghiên cứu, nhưng với những bộ óc siêu đẳng, rồi ra họ cũng sẽ đạt mục đích. Đó là lúc mà các tiền bối Cao Đài gọi là "giống Thần Thông Nhơn lập Ngươn Thánh Đức".
 
Tính cho đến nay (năm 2017) người viết xin nêu lên những cơ sở hiện có thuộc về pháp môn này để chúng ta tính đến hướng phát triển. Về mặt cơ sở vật chất th́ hiện có ba nơi: Trí Huệ Cung, Trí Giác Cung và Vạn Pháp Cung đều thuộc tỉnh Tây Ninh. Theo cơ bút và Tân Luật th́ Cao Đài Giáo chỉ có ba Tịnh Thất này, ở các nơi khác  không có. Trí Huệ Cung và Trí Giác Cung đă xây dựng hoàn chỉnh. Vạn Pháp Cung hiện do một số tín đồ tự lập riêng, không theo thiết kế của Hội Thánh. Cả ba nơi này hiện không có hoạt động chính thức nào về tịnh luyện. Nếu có là những hoạt động tự phát, không thông qua quyết định của Hội Thánh.
 
Về mặt lư thuyết, tài liệu về tịnh luyện của Cao Đài chưa định h́nh thành những qui điều cụ thể. Chưa có văn bản hay sách vở nào đề cập đến tịnh luyện do Hội Thánh ban hành chính thức. Phần lớn tài liệu tịnh luyện hiện nay nằm rải rác trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, những bài Thuyết Đạo, văn bản của Đức Hộ Pháp hoặc lan truyền trong tín đồ. Nổi bật là quyển Bí Pháp Luyện Đạo của Bát Nương Diêu Tŕ Cung(Hiền Tài Nguyễn văn Mới, tốc kư viên của Hộ Pháp chấp bút). Đây là quyển sách đề cập tịnh luyện trực tiếp, đầy đủ và dễ hiểu  nhất từ trước đến nay. Quyển sách đă được giao cho Hội Thánh từ năm 1980, nhưng vẫn chưa được phát hành chính thức mà chủ yếu là chuyền tay đọc.
 
Qua những tài liệu kể trên, xin phát hoạ qui tŕnh tịnh luyện như sau. 
Trước hết, Hội Thánh sẽ chọn lựa người được vào tịnh thất dựa trên tiêu chuẩn:
1. Phải trường trai.
2. Đạt được một trong Tam Lập (Lập Công, Lập Đức, Lập Ngôn). 
Kế đó, thực hiện 100 ngày nhập tịnh theo hướng dẫn của Tịnh Chủ. Sau 100 ngày sẽ xuất tịnh dù có đạt kết quả hay không. Tín đồ có thể nhập tịnh nhiều lần với điều kiện được Hội Thánh cho phép. Về phương pháp tịnh luyện, xin nghiên cứu ở đây. Xin nói thêm, người viết chỉ giới thiệu quyển Bí Pháp Luyện Đạo của Bát Nương Diêu Tŕ Cung bởi v́ các thông tin về tịnh luyện của Cao Đài đă được tŕnh bày đầy đủ trong sách. Đọc thêm tài liệu khác bổ sung càng tốt, nếu đọc giả có th́ giờ nghiên cứu thêm. 
 
Tiếp theo sẽ là một bảng đối chiếu giữa thiền và tịnh luyện để tham khảo.
 
   Thiền  Tịnh luyện
 Hướng dẫn  Thiền sư 
(người tập tự tìm)
 Tịnh chủ
(Hội Thánh chọn)
 Phương pháp  Thiền sư quyết định  Phổ biến công khai
 Thời gian  Thiền sư quyết định  100  ngày (1 khóa)
 Yêu cầu  Thiền sư quyết định  Trường trai, Tam lập 
 Người tập  Thiền sư chọn  Hội Thánh chọn
 Kết quả  Giác ngộ  Giác ngộ hoặc xuất chơn thần
 Ấn chứng  Thiền sư quyết ̣định  Thượng Đế quyết định
 

 
Sự khác biệt
 
Qua so sánh kể trên, chúng ta thấy hai khác biệt quan trọng: một là phần khởi đầu và hai là phần kết quả. 
Trong phần mở đầu, pháp môn thiền cần một thầy dạy thiền. Như đã trình bày, đây là phần khó khăn, vì chúng ta không biết ai đủ tiêu chuẩn làm thiền sư. Vậy nếu ta chọn ai đó, vì lý do nào đó, thì coi như mình tự gánh chịu hậu quả nên hư. Trái lại, tịnh chủ cần Hội Thánh quyết định. Hội Thánh gồm có nhiều chức sắc đã tu tập lâu năm có trình độ tâm linh cao, nên quyết định ít ra là sẽ tốt hơn của một người. Thí dụ như Thập Nhị Bảo Quân tức là Hàn Lâm Viện Cao Đài sẽ tham gia trong quyết định chọn vị Tịnh Chủ xứng đáng. Ngoài ra, theo Tân Luật, Hội Thánh có quyền thông công (liên lạc) với các đấng thiêng liêng, nên sẽ được chỉ dạy cách làm chi tiết hơn.
Trong phần kết quả, chúng ta dễ dàng nhận ra khác biệt cực kỳ lớn giữa việc được một Thiền Sư (người phàm) ấn chứng và được Thượng Đế ấn chứng. Dĩ nhiên phần này còn cần thời gian để có minh chứng thuyết phục hơn.
 
   
Thúc
 
Có lẽ đến đây, chúng ta có thể tạm kết luận được rằng không phải vì có tư thế ngồi kiết già ̣(hoa sen) hay bán già (nửa hoa sen) và cách hít thở giống nhau mà có thể đánh đồng tịnh luyện với thiền. Thực sự ra hai cách tu tập này có khởi đầu và kết quả khác nhau xa. Riêng tịnh luyện, còn cần thời gian để định hình và phát triển. 
Vì thế là tín đồ Cao Đài, chúng ta cần nghiên cứu vấn đề tịnh luyện một cách thực tiễn và khoa học, không gán ghép với những quan điểm thần bí hoang đường. Chúng ta cần nghiên cứu, thực nghiệm và đưa ra kết luận khách quan giống như cách giới học thuật phương Tây đón nhận thiền học. Điều đó sẽ giúp các bạn đạo thu ngắn được thời gian cần thiết để thành công khi tu tập. Trong khi chờ đợi Hội Thánh có quyết định cụ thể, người viết muốn làm viên gạch nhỏ đầu tiên cho tiến tŕnh đó bằng bài viết ngắn ngủi này. Hy vọng các đồng đạo chấp nhận và chỉ giáo sửa chữa những sai sót ngoài ý muốn. 
 
Từ Chơn

 

Sài gòn, Sept 2017