TU TÂM
Bổn-Tánh Thánh-Chủ
Diệu-Không Thiền SưVI DIỆU PHÁP
Kinh Di Lặc:
Vô thượng thậm thâm vi diệu PHÁP!
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim thính văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Tâm kinh Chơn thiệt nghĩa!!!
\
Quí Cao hữu!
Cả vũ trụ này được điều hành bởi một Năng lực vô đối. Năng lực đó được gọi là Pháp (Còn gọi là Đạo, là Đức Thượng Đế...). Vạn vật đều do Pháp sanh ra được gọi tắt là Vạn Pháp.
* PHÁP: Chỉ cái Phật Tánh, cái Bổn Lai Diện Mục, cái Nguyên Tánh, cái Ngươn Thần... của chúng ta. Còn gọi là cái Tịnh Thất nữa!
Chúng sanh đã luân hồi bá thiên vạn kiếp mà chưa thấy được Phật Tánh của mình (nan tao ngộ). Ngày xưa trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật Thích Ca đã KHAI THỊ cho chúng sanh thấy được Phật Tánh để mà NGỘ NHẬP vào trong đó. Phật Tánh (Pháp) thì vô thượng, thậm thâm và vi diệu!!! Đức Thích Ca khai thị cho chúng sanh thấy mà chúng sanh không chịu tin, hơn nữa là không dám tin, cho nên cứ luân hồi mãi bá thiên vạn kiếp mà thôi!!! Đến bây giờ, Đạo Trời được mở ra lần thứ ba, Đức Thích Ca lại nguyên khai thị (nguyện giải) một lần nữa cho chúng sanh thấy được Phật Tánh theo một lối giải thích mới!!! (Tâm Kinh) Các vị Phật, các vị Tổ Sư... khai đàn (mở Đạo) thuyết pháp cũng chỉ có cái mục đích sau cùng là KHAI THỊ cho chúng sanh thấy được PHÁP (Phật Tánh, Bổn Tánh, Chơn Linh, Bổn Lai Diện Mục...) để mà NGỘ PHÁP vào trong đó!!! Ngộ Nhập vào trong PHÁP, đó gọi là ngộ nhập vào Phật Tánh, là thường trụ Ngươn Thần, là thường trụ Nguyên Tánh, là hội hiệp cùng Thầy!!! Các vị đó khai thị chúng ta thấy được PHÁP, tức là thấy được Phật Tánh, thấy được BỔN LAI DIỆN MỤC của chính mình, còn chịu ngộ nhập vào trong đó hay không là vấn đề của chúng ta: Có muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!
Tóm lại, cái chữ PHÁP trong bài kệ của Di Lặc Chơn Kinh không phải là cái phương pháp tu tập, mà đó chính là cái Bổn Lai Diện Mục, là cái Tịnh Thất của riêng mình!!!
THẦY Ở ĐÂU? – CƠ THOÁT TỤC
Thánh Ngôn:
Thiên Thai chẳng có ở trần này!
Chẳng phải trên trời, chẳng phải mây!
Đưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó!
Theo chơn giỏi bước, níu sau Thầy!!!
Thánh Ngôn:
Cho đến giờ phút này, các con cũng chưa biết Thầy là ai nữa!!!
Thánh Ngôn:
Than ôi! Đã bước chân vào Đường Đạo mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn (Thầy là ai) thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh Giáo đâu?
\
Quí Cao hữu!
Đạo hư vô!!! Sư hư vô!!!
Reo chuông thoát tục! Phất cờ tuyệt sinh!
Đạo đã vô hình, mà Thầy cũng vô hình nữa thì làm sao biết Thầy là ai và Thầy đang ở đâu??? Thật là trừu tượng!!!
Quí Cao hữu! Thầy chính là Đạo! Thầy chính là Pháp! Thầy chính là Chơn lý! Thầy chính là Thiên Thai! Là Niết Bàn, là Thiên đàng, là Cực Lạc Quốc, là Ngọc Hư Cung!!! Thầy bao trùm cả vũ trụ và "bàng bạc" khắp nơi!!!
Ôi! Thầy bao la quá!!! Làm sao chúng ta níu được Thầy đây? Hễ níu được Thầy thì chúng ta sẽ được an lạc, được nhẹ nhàng như là đang được ở Cực Lạc Quốc, ở Thiên Thai Động, ở Ngọc Hư Cung vậy!!! (Mới chỉ níu được Thầy thôi mà còn hưởng được vậy, thì nói chi đến việc ôm trọn Thầy vào lòng!!!).
Nói nghe hấp dẫn quá, phải không Quí Cao hữu!!! Chúng tôi sẽ giới thiệu chỗ níu cho Quí bạn, còn chịu níu hay không là do chính Quí bạn có muốn cùng chẳng muốn mà thôi! Chúng ta níu Thầy trực tiếp không được thì chúng ta níu chéo áo của Thầy, níu cây gậy của Thầy, níu chiếc xe của Thầy!!!
Sau đây là cây gậy của Thầy hay còn gọi là Cơ Thoát tục nữa:
NAM MÔ: CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MAHATÁT (Xin đọc kỹ các bài trước thì sẽ rõ cách níu cây gậy của Thầy).
THẦN KIẾM
Kinh Khai Cửu:
Nắm cây Huệ Kiếm, Gươm Thần!
Dứt tan thế sự nợ trần từ đây!!!
Tâm kệ:
Lục mạch Thần kiếm mau cầm lấy!
Vào cửa không môn, đón Phật Đà!!!
\
Quí Cao hữu!
Mới nghe qua "Lục Mạch Thần Kiếm" xin Quí bạn đừng liên tưởng đến phim chưởng của Hồng Kông!!! Lục Mạch Thần Kiếm là cây Huệ Kiếm, là cây Gươm Thần có 6 "chiêu thức" giúp cho chúng ta đoạn được trần, tiêu diệt được phiền não, thanh toán được tà niệm và dục vọng!!!
Lục Mạch Thần Kiếm được dịch ra "Tiếng Việt" là:
Nắm cây Huệ Kiếm, Gươm Thần!
Dứt tan thế sự nợ trần từ đây!!!
Chúng tôi xin giới thiệu với Quí bạn từng "chiêu thức" một. Mỗi một chiêu thức đều có công dụng riêng của nó, tùy theo mỗi trường hợp mà áp dụng chiêu thức thích hợp!!!
1- Đệ Nhứt Mạch:
Trùng trùng duyên khởi y như mộng!!!
Hết mộng rồi thôi!!! Chẳng có gì!!!
Cho nên:
Đối với ta, tất cả đều vô nghĩa!!!
Chẳng có điều chi làm cho ta động Tâm!!!
Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.
2- Đệ Nhị Mạch:
Thấy CÓ thì bị ràng buộc!
Thấy KHÔNG thì được giải thoát!!!
Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.
3- Đệ Tam Mạch:
Nam Mô Hộ Pháp Di Đà,
Chuyển cây Ma Xử đuổi Tà, trục Tinh!!!
Nam mô: Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.
4- Đệ Tứ Mạch:
Chúng sanh mê muội!!!
Hơi đâu phiền não!!!
Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.
5- Đệ Ngũ Mạch:
Thần thông tự tại!!!
Sự sự vô ngại!!!
Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.
6- Đệ Lục Mạch:
Bổn Tánh Thánh Chủ!!!
Diệu Không Thiền Sư!!!
Nam mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát.
Chú thích:
* Đệ Nhất mạch: Lúc bình thường, chúng ta nên luôn luôn tụng niệm Đệ Nhất mạch để dạy cái Tâm của chúng ta nhận thức được lẽ vô thường, huyễn hóa!!! Nhờ nhận thức được Đời chỉ là giấc mộng, rốt cuộc cũng hoàn không thì cái Tâm của chúng ta sẽ được thanh tịnh không còn động loạn phiền não nữa!!!
* Đệ Nhị mạch: Khi cuộc sống có xảy ra sự việc bất thường đột xuất thì chúng ta tụng niệm Đệ Nhị mạch để nhắc nhở cái Tâm của chúng ta nhớ: Đời chỉ là giấc mộng!!! Rốt cuộc cũng hoàn không! Đệ Nhị mạch sẽ giúp chúng ta trở lại được một sự bình tĩnh sáng suốt trước hoàn cảnh bất ngờ!!!
* Đệ Tam mạch: Khi có tà niệm dục vọng nổi lên thì chúng ta tụng niệm ngay Đệ Tam mạch. Khi tụng mạch này thì chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của nó và phải có Đức tin mãnh liệt mới được!!! Quí bạn phải tin tưởng Đức Hộ Pháp Di Đà sẽ hộ trì chúng ta đuổi được Tà, trục được Tinh ra khỏi thân Tâm của chúng ta. Sau đó chúng ta sẽ có được một thân Tâm trong sạch và chúng ta hãy tin tưởng Đức Diêu Trì Kim Mẫu sẽ hộ trì chúng ta giữ được mãi cái thân Tâm trong sạch này!!!
* Đệ Tứ mạch: Chúng sanh bao gồm hết các sinh vật. Thí dụ: con gà bươi đống rác sau nhà của chúng ta văng tùm lum ra hết làm mất vệ sinh vô cùng, chúng ta giận quá lấy cây phang nó làm nó què hết một giò!!! Hỡi ơi!!! Con gà có biết gì vệ sinh đâu, nó bươi là vì bản năng của nó đi tìm thức ăn (nạn áo cơm) sao chúng ta không thông cảm cho nó!!! Nói rộng hơn nhân loại cũng có một số người mê muội ngu si (Y như con gà vậy. Xin lỗi!). Cho nên, chúng ta nên thông cảm họ mà đừng có phiền não hờn giận họ khi họ "ĐỤNG" tới mình!!! Do đó, khi nào gặp một người nào cãi lý với ta, chửi bới ta, mạt sát ta, quậy phá ta... thì chúng ta hãy tụng niệm ngay Đệ Tứ mạch!!!
* Đệ Ngũ mạch: Thần thông là cái Tâm (thần) thông suốt, tự tại, không bị điều gì làm phiền não, lúc nào cũng có sự sự vô ngại!!! (Sự sự là gặp nhiều sự việc, vô ngại là không có cản trở chướng ngại gì đến Tâm ta). Tụng niệm Đệ Ngũ mạch để giúp cho cái Tâm giải thoát được mọi sự việc ở trên đời (Sự sự vô ngại).
* Đệ Lục mạch: Lúc nào chúng ta cũng tin tưởng cái Bổn Tánh, cái Phật Tánh là chủ cái Tâm của mình. Mà hễ Phật Tánh làm chủ Tâm của mình thì chúng ta sẽ được hưởng an lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát, lúc đó cái Tâm của chúng ta sẽ đạt được Diệu Không!!! (Chơn không mà diệu hữu; không làm điều ác trược mà có đầy đủ tư tưởng thiện lành). Trọng Bổn Tánh Thánh Chủ để chúng ta nhớ đang ở trong Tịnh Thất (Trụ Nguyên Tánh). Tụng Diệu Không Thiền Sư để chúng ta nhớ không tạo bể dâu, không gây nghiệp chướng, không còn dục vọng hay phiền não nào nữa hết (hồn linh nhàn lạc). Tụng Bổn Tánh Thánh Chủ, Diệu Không Thiền Sư có nghĩa là: Trụ nguyên Tánh thì hồn linh nhàn lạc!!!
* Cách tụng niệm Lục Mạch Thần Kiếm
Muốn tụng niệm có kết quả thì phải có đủ 3 điều kiện:
1. Hiểu thật rõ ý nghĩa của mỗi mạch.
2. Đức tin phải thật mạnh mẽ, tin chắc mình sẽ đạt được y như nội dung của mạch.
3. Sau mỗi mạch nhớ Niệm Danh thầy để Thầy hỗ trợ cho chúng ta mau đạt được kết quả. Điều này càng làm Đức tin thêm vững chắc.
NGÀY VÍA KHƯƠNG THƯỢNG PHONG THẦN
Thánh Ngôn:
Lập "Tam Kỳ Phổ Độ" này duy Thầy cho THẦN hiệp TINH KHÍ đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh!!!
Thánh Ngôn:
Phong THẦN đừng tưởng chuyện mơ hồ!
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô!!!
\
Quí Cao hữu!
Trong Thánh Tượng thiên nhãn có hình các Đấng Thiêng liêng. Vị nào cũng có ngày Lễ vía cúng Đàn hết. Chỉ riêng có Đức Khương Thượng là không có ngày Lễ Vía!!! Tại sao vậy???
Trước khi tìm hiểu vấn đề này chúng ta hãy đọc bài Thánh Ngôn sau đây ở trang 15 trong Thánh Ngôn hiệp tuyển, quyển I.
Thánh ngôn:
Đạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh...
... rồi để trên một cái ghế lớn đặng làm NGÔI GIÁO TÔNG; ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới, đặng làm Ngôi cho ba vị Ðầu Sư. Con phải bao bốn cái ghế ấy cho tinh khiết, con đem Thiên Phục Giáo Tông mà để nơi ghế ở trên. Còn bộ Thượng Thanh thì để ở giữa; bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả, con phải viết một miếng giấy đề chữ "THÁI" cho lớn mà dán lên chỗ dựa.
...
Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng Nhị Ðầu Sư quỳ mà thề.
Quí Cao hữu!
Tại sao chỉ có 2 vị Đầu Sư mà thiếu vị Đầu Sư phái Thái? Không lẽ Thầy tìm không có người? Đức Thượng Đế dư sức tìm cả khối người, chớ đừng nói chi chỉ có một vị Đầu Sư phái Thái!!! Tại sao lại thiếu vị Đầu Sư phái Thái mà không thiếu vị Đầu Sư phái Thượng hay là phái Ngọc!!! Chắc có điều bí ẩn (bí pháp) chi đây!!! Lại phải viết chữ THÁI cho lớn mà dán lên chỗ dựa của chiếc ghế dành riêng cho ngôi Đầu Sư phái Thái. Chúng ta phải tìm cho ra điều bí mật này thì mới mong hiểu được tại sao Đức Khương Thượng không có ngày Lễ Vía!!!
Quí Cao hữu cũng đã biết:
Phái NGỌC màu đỏ tượng trưng cho TINH.
Phái THƯỢNG màu xanh tượng trưng cho KHÍ.
Phái THÁI màu vàng tượng trưng cho THẦN.
Đức Thượng Đế đã cố ý cho thiếu phái Thái để cảnh giác và nhắc nhở chúng ta rằng: "Các con đang thiếu THẦN!!!" (Thái). Sở dĩ Ngài nhắc nhở chúng ta là để chúng ta đừng có phung phí Tam Bửu, nhất là THẦN!!! Cho nên chúng ta phải luôn luôn cảnh giác mà lo gìn giữ Tam Bửu!!! Chớ đừng có "Chơi xã láng để sáng về sớm"!!! Đức Thượng Đế cũng có dạy: Các con chỉ có Tinh Khí mà thiếu Thần. Nên mở Đạo kỳ ba này Thầy ban THẦN cho các con đặng hiệp đủ Tam Bửu mà siêu phàm nhập Thánh.
Quí Cao hữu!
Thầy ban Thần cho chúng ta là một điều có thật, không phải là chuyện mơ hồ!!!
Phong THẦN đừng tưởng chuyện mơ hồ!
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô!!!
* Phong: Là ban cho.
* Thần: Là Trí huệ, là Đệ Tam bửu.
* Phong Thần: Ban Trí huệ Bát Nhã cho Tín đồ Cao Đài. Đây là việc có thật một trăm phần trăm!!! Không phải là một việc giả dối mơ hồ!!!
* Giữa biển ai từng gặp Lão Tô: Đây là sự tích của Vương An Thạch và Tô Đông Pha. Vương An Thạch ngồi ở nhà mà vẫn biết Tô Đông Pha múc nước biển ở ven bờ chớ không phải ở giữa biển khơi!!! Điều này chứng tỏ Vương An Thạch có Trí Huệ Bát Nhã!!! Như vậy thì câu thơ này chứng minh ý nghĩa của câu trên, đó là việc ban Trí huệ chính là phong THẦN vậy!!! Hai câu thơ liên đới ý nghĩa với nhau là một điều rất hợp lý!!! Quí Cao hữu, bài thơ này có tới 4 câu mà 2 câu chót cũng vẫn chứng minh Trí huệ thôi!!! Cho nên, chúng ta hiểu 2 chữ phong THẦN theo cái nghĩa ban cho Trí huệ là thật chính xác!!!
Quí Cao hữu!
Bây giờ trở lại vấn đề ngày Vía của Đức Khương Thượng. Ai cũng phải có ngày Vía hết, kể cả Đức Chí Tôn dù vô hình, vô ảnh mà cũng vẫn có ngày Vía. Đức Thượng Đế không cho Đức Khương Thượng có ngày Vía, cũng có mục đích bí ẩn!!!
Đức Khương Thượng đại diện cho Thần Đạo.
Đức Chúa Jésus đại diện cho Thánh Đạo.
Đức Lý Thái Bạch đại diện cho Tiên Đạo.
Đức Thích Ca đại diện cho Phật Đạo.
Quí Cao hữu!!! Đức Khương Thượng thiếu ngày Vía cũng có ý nhắc nhở chúng ta đang thiếu Thần đấy!!! Y như thiếu Thái Đầu Sư vậy!!! (Vì Đức Khương Thượng tượng trưng cho THẦN Đạo).
CHÚA JÉSUS
Thánh Ngôn:
...
Bởi thế, nên nay chính Thầy phải đến để đem lại cho các con nền hòa bình đã từng hứa hẹn. Rồi đây Chúa Cứu Thế sẽ trở xuống sau.
Thánh Ngôn:
Lẽ Chánh tự nhiên có lẽ Tà!
Chánh Tà hai lẽ đoán sao ra!
Sao ra Tiên Phật, người trần tục!
Trần tục muốn thành, phải đến Ta!!!
\
Quí Cao hữu!
Khi một Vị Quốc Vương đi kinh lý thì các quần thần phải đi trước dọn đường hoặc giữ an ninh cho Vị Quốc Vương. Còn ở đây, một Ông Vua Trời (Đức Chúa Trời) xuống Trần mở Đạo (Nước Việt Nam rất hữu phước được Đức Thượng Đế giáng ngự khai mở Đạo Trời: Đạo Cao Đài!!!) mà người con của Ngài tức là Chúa Cứu Thế lại xuống sau, là nghĩa làm sao??? Không lẽ người con ngồi chờ "ông già" dọn sẵn "mâm cao cỗ đầy" để rồi xuống mà an hưởng!!! Không lẽ như thế!!!
Ngày xưa, Chúa Cứu Thế tức là Chúa Jésus cũng đã có hứa trước! Trong vòng 2000 năm, Ta sẽ trở lại. Như vậy Chúa đã trở lại chưa?
Quí Cao hữu!
Muốn tìm hiểu việc này thì trước hết, chúng ta cũng nên biết một vài tiểu đề sau đây:
* Mục đích của Đạo Cao Đài
Xin xem bài Tôn Chỉ của Đạo Cao Đài. Ở đây, chúng tôi chỉ nói một phương diện. Đức Thượng Đế giáng trần mở Đạo để dạy dỗ chúng sanh (nhân loại) đạt đến sự sáng suốt Trí huệ (Thiên nhãn là cây Đèn Thần). Đức Thượng Đế sẽ ban THẦN (Trí huệ) cho chúng ta đặng đủ Tam Bửu mà siêu phàm nhập Thánh. (Phong THẦN đã nói ở bài trước).
Thầy ban trí huệ (Phong THẦN) cho chúng ta để chúng ta có đủ sáng suốt mà phân biệt Chánh Tà:
Chánh Tà hai lẽ đoán sao ra!
Sao ra Tiên Phật, người trần tục!
Người trần tục khó mà phân biệt được Chánh Tà vì còn ngu si mê muội cho nên người trần tục nếu muốn phân biệt được Chánh Tà thì phải đến với Ta, nghĩa là phải đến với Đạo Cao Đài để nhập môn học Đạo thì Ta sẽ ban Trí huệ cho, Ta sẽ phong THẦN cho.
Trần tục muốn thành, phải đến Ta!!!
Tóm lại,
Bất cứ người trần tục nào đến với Đạo Cao Đài nhập môn học Đạo cũng đều được Đức Thượng Đế ban cho Trí huệ sáng suốt. Đây là một điều có thật hoàn toàn. Phong thần đừng tưởng là chuyện mơ hồ!!! Nhưng... tại sao chúng ta thấy rất ít tín đồ Cao Đài đạt được Trí huệ Bát Nhã!!! Quí bạn có biết tại sao không? Tại vì Ông Trời không có ban cho Trí huệ một cách "đại trà" đâu!!! Tu mà còn dục vọng, còn si mê đủ thứ thì làm sao mà hưởng được Thiên Ân!!! Câu Kinh bài Dâng Rượu chứng minh:
"Thiên Ân Huệ chiếu giáng thiền minh!!!"
Quí bạn thấy chưa, Thiên Ân chỉ chiếu Huệ giáng xuống cho người tu "Thiền minh!!!". Còn Thiền MÊ thì đừng mong hưởng được Ân Huệ!!!
* Bất lập Văn Tự: Trong Đạo Thiền có nói đến bất lập văn tự, thế mà có rất nhiều sách Thiền do các vị Thiền Sư để lại!!! Do đó, chúng ta nên hiểu bất lập văn tự là không bị kẹt trong cái nghĩa hạn hẹp của ngôn từ, chớ không có nghĩa là không cần tới văn tự!!! Nếu chúng ta bị kẹt một cách cứng ngắt trong một cái nghĩa nào đó của văn tự, không chịu hiểu rộng nghĩa thêm nữa, thì đó gọi là bị lập văn tự!!! Nếu chúng ta bị lập văn tự thì chúng ta chỉ hiểu được nghĩa đen mà không thể hiểu được nghĩa bóng của văn tự. Hay nói các khác là chúng ta chỉ hiểu được thể pháp (nghĩa đen) mà không hiểu được bí pháp (nghĩa bóng) của văn tự!!!
Thí dụ khi chúng ta nghe nói đến "Chúa Jésus" thì chúng ta chỉ nghĩ đến "Một ông tóc dài tay cầm quả tim" mà thôi. Ngoài ra, mấy chữ "Chúa Jésus" không còn có một ý nghĩa nào khác nữa!!! Quí Cao hữu, bây giờ chúng ta phải hiểu mấy chữ "Chúa Jésus" thêm một ý nghĩa mới nữa. Khi hiểu được cái nghĩa mới này thì Quí bạn mới hiểu được tại sao Chúa Jésus xuống sau Đức Thượng Đế; và mới có thể hiểu được chừng nào Chúa xuống!!!
* Sự sáng suốt đời đời: Trong Thánh Kinh có nói: Đức Chúa Trời là sự sáng đời đời!!! Như vậy con của Đức Chúa Trời là Chúa Jésus cũng là sự sáng đời đời!!! Do đó, chúng ta có thể hiểu "Chúa Jésus" tượng trưng cho sự sáng suốt trí huệ. Hay nói cách khác, sự sáng suốt trí huệ của mỗi người được gọi là "Chúa Jésus" vậy!!! Bây giờ mấy chữ "Chúa Jésus" không còn là danh từ riêng để chỉ tên của một người nữa, mà đã trở thành một danh từ chung để chỉ sự sáng suốt trí huệ của mỗi người!!! Do đó, một người tu hành đã đạt được Trí huệ Bát Nhã thì chúng ta có thể nói là Chúa Jésus đã giáng trần rồi nhưng giáng vào con người đó mà thôi!!! Hay nói cách khác là người đó đã thấy Chúa Jésus!!! (đã có Trí Huệ).
Quí Cao hữu!
Đức Thượng Đế, tức Đức Chúa Trời đã giáng trần mở Đạo để dạy Đạo cho chúng sanh. Một người phàm tục mới nhập môn học Đạo thì chưa thể có Trí huệ ngay liền được đâu, mà phải có công phu và công quả đầy đủ mới hưởng được Ân Huệ của Đức Thượng Đế. Hay nói cách khác, một người phàm tục mới nhập môn học Đạo thì chưa thể gặp "Chúa Jésus" ngay liền được đâu mà phải sau một thời gian dài công phu và công quả mới mong gặp được Chúa!!! Điều này có nghĩa là Chúa Jésus xuống sau Đức Thượng Đế, hay nói cách khác, học Đạo với Đức Thượng Đế trước rồi sau này mới mong có Trí huệ!!! Mới mong gặp được Chúa Jésus!!!
Tóm lại, muốn gặp được Chúa Jésus mau hay chậm là do Công phu và Công quả của chúng ta nơi Cửa Đạo Cao Đài!!!
Phàm tục muốn thành, phải đến TA!!!
GIẢI TRỪ KIẾN THỨC
Thánh Ngôn:
Kinh sách đầy đầu, chưa thoát tục!
Đơn Tâm khó định, lấy chi mong!!!
Thiền Ngôn:
Kinh sách lưu truyền Tám Vạn tư!
Học hành không thiếu cũng không dư!
Đến nay tính lại dường quên hết!
Chỉ nhớ trong đầu một chữ NHƯ!!!
\
Quí Cao hữu!
Ngài Christnamurti bên Thông Thiên học có dạy chúng ta hãy giải trừ kiến thức!!! Kiến thức không cần thiết sao mà giải trừ, Kinh Sách không cần thiết sao mà Đức Lý nói:
Kinh sách đầy đầu, chưa thoát tục!
Đơn Tâm khó định, lấy chi mong!!!
Tại sao lại có người nói: Tu mà không học là tu đui luyện mù!!! Kẻ đui dắt người mù đi rớt xuống hố hết trọi!!!
Chúng ta cũng nên tìm hiểu ý chỉ của Ngài Christnamurti và ý chỉ của Đức Lý để tìm ra một lối thoát cho chúng ta.
Quí Cao hữu!
Nhiều người lạm dụng việc giải trừ kiến thức nên họ không thèm học hỏi, không cần đọc Kinh Sách, họ cứ tà tà!!! Chưa có kiến thức mà họ đòi giải trừ, như vậy họ giải trừ cái gì??? Christnamurti dạy chúng ta rằng: Kinh Sách lưu truyền tám vạn tư thì cứ học hành cho đầy đủ không thiếu cũng không dư! Học hành Kinh Sách cho đến khi nào thấy được Chơn lý, đoạt được Cơ Thoát tục rồi thì chúng ta mới giải trừ kiến thức!!!
Đến nay tính lại dường quên hết! (Giải trừ)
Chỉ nhớ trong đầu một chữ NHƯ!!!
Quí Cao hữu!
Đức Lý Thái Bạch cũng khuyên chúng ta y như vậy, chớ không có đả phá việc tu học Kinh Sách!!! Ngài cũng khuyên chúng ta cứ tu học Kinh Sách cho đến lúc nào thấy được Chơn lý, đoạt được Cơ Thoát tục thì chúng ta cứ nắm cơ thoát tục mà đi đến bờ Giác Ngộ giải thoát, chớ đừng ôm chặt Kinh Sách nữa!!! Ôm chặt Kinh Sách mà quên Cơ Thoát tục thì không thể nào giải thoát được!!!
Kinh sách đầy đầu, chưa thoát tục!
Đơn Tâm khó định, lấy chi mong!!!
Tóm lại, Đức Lý Thái Bạch và Ngài Christnamurti cùng chung một lời khuyên: Đừng ôm chặt Kinh Sách mà quên Cơ Thoát tục!!!
BÌNH ĐẲNG TÂM
Thánh Ngôn:
Thầy nói cho các con hiểu rằng: Muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm!!! Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy càng hành bấy nhiêu! Như xứng đáng làm môn đệ Thầy thì Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước!!! Còn ngã thì Địa ngục lại mời!!!
Thánh Ngôn:
Những sự phàm tục đều là mưu kế của "Tà Mị Tinh Quái" cốt để ngăn trở bước đường Thánh Đạo của các con! Những mưu quỉ quyệt ấy đều do Lịnh Thầy dùng để thử các con!!!
Thánh Ngôn:
Tâm trung chánh đáng thì làm cốt cho Tiên Thánh! (giáng ngự) còn Tâm chí vạy tà là chỗ cho Tà Quái xâm nhập!!!
\
Quí Cao hữu!
Bên Phật Giáo có nói tới "Bình đẳng Tâm", nếu đạt được Bình đẳng Tâm thì chúng ta sẽ được thanh tịnh và Thập Tam Ma cũng không còn quậy phá chúng ta nữa!!!
Nhưng thế nào là Bình đẳng Tâm??? Bình đẳng Tâm là cái "bình cũ" của Phật Giáo nhưng chúng tôi sẽ rót vào "rượu mới" uống cũng ngon lắm!!! Nói như vậy là chúng tôi sẽ giải thích theo lối mới chớ không có căn cứ theo Phật Giáo.
Thí dụ 1: Trên đường đi, Quí bạn thấy một cục đá xanh, bạn vẫn đi một cách bình thường. Đi một lát bạn lại thấy một sợi dây chuyền vàng do ai đó đánh rơi. Nếu bạn xem sợi dây chuyền vàng cũng bình thường như cục đá xanh hồi nảy, bạn bỏ đi một cách bình thường như không có gì xảy ra thì bạn đã đạt được Bình đẳng Tâm rồi vậy!!! Vì bạn đã xem sợi dây chuyền vàng cũng Bình đẳng như cục đá xanh!!!
Thí dụ 2: Có người khen ngợi bạn, bạn nghe được nhưng không mừng. Gặp người chỉ trích bạn, bạn cũng không buồn. Bạn đã xem lời khen ngợi và lời chỉ trích ngang nhau, bình đẳng nhau, cho nên bạn không động Tâm!!! Bạn đã được Bình đẳng Tâm!!!
* Phiền Não cũng như Bồ Đề
Khi gặp nghịch cảnh (Phiền Não) bạn vẫn giữ được bình thường không động tâm. Và khi gặp thuận cảnh (Bồ đề, an lạc) bạn vẫn giữ được bình thường. Bạn đã đạt được Bình đẳng Tâm vì bạn xem phiền não và Bồ đề ngang nhau, lúc này bạn mới có quyền nói: "Phiền Não cũng như Bồ Đề" mà thôi!!!
* Chỉ Đá hóa Vàng
Quí bạn thường nghe nói có người tu đạt được "Thần thông" chỉ Đá hóa Vàng!!! Quí bạn đừng tin, cũng đừng có mơ mộng viễn vông!!! Đá là Đá!!! Vàng là Vàng!!! Đây là Định luật vật lý!!! Quí bạn cố gắng tu đạt được Bình đẳng Tâm thì Quí bạn cũng sẽ được Thần thông, nhưng Thần thông hiểu theo ý nghĩa của Đạo Cao Đài!!! Thần thông là cái Tâm (Thần) được thông suốt, không bị vật chất, hoàn cảnh lôi cuốn hoặc làm chướng ngại!!! Ở thí dụ 1 trên, Quí bạn xem cục đá xanh cũng bình đẳng với sợi dây chuyền vàng thì đó gọi là bạn đạt được Thần thông (Tâm thông) Chỉ Đá hóa Vàng vậy!!! Tóm lại, bạn đừng mê Thần thông "dởm" (Phù phép của Tà thần), mà bạn cố gắng đạt cho được Bình đẳng Tâm là một loại Thần thông đưa bạn đến chỗ giải thoát!!!
Loại Thần thông (Tâm thông) này "chỉ có" trong Đạo Cao Đài mà thôi.
Cung tận thức, Thần thông biến hóa,
Phổ Đà Sơn giải quả từ Hàng.
Cỡi Kim Hẩu đến đến Tịch San,
Đẩu Vân nương phép Niết Bàn đến xem!!!
(Kinh Bát Cửu)
* Tâm Như Lai
Khi Quí bạn đạt được Bình đẳng Tâm rồi thì nếu có sự việc gì xảy ra đến (Lai) cho Quí bạn dù nghịch hay thuận, bạn cũng vẫn bình thường, không vui cũng không buồn!!! Hoặc nếu có sự việc từ bạn ra đi (Như), dù là nghịch hay thuận, bạn cũng vẫn không động tâm!!!
Tóm lại, việc gì xảy đến (Lai) bạn không xô ra. Hoặc việc gì có ra đi (Như) bạn cũng không níu kéo trở lại. Đó là bạn đạt được Tâm Như Lai, mà đó cũng chính là Tâm Bình Đẳng vậy!!!
* Tâm chai lì và Tâm "mát thần kinh"
Tuy nhiên, bạn đừng cố chấp Bình Đẳng Tâm. Thí dụ bạn thấy một đứa bé bò tới miệng giếng. Bạn vẫn xem sự kiện đó là bình thường cho nên bạn thản nhiên không cứu đứa bé, thì đó không phải là Bình Đẳng Tâm, mà là cái Tâm "Chai lì", hoặc nặng hơn thì gọi là cái Tâm "mát thần kinh"!!!
Do đó, Bình Đẳng Tâm phải đạt đến cái Tâm Trí Huệ Bát Nhã và Từ Bi Hỉ Xã thì nó mới không trở thành Tâm Chai lì!!! Bình Đẳng Tâm đạt được như vậy thì mới đúng là câu: "Bình thường Tâm Thi Đạo!!!" Vui cứ vui, buồn cứ buồn nhưng đừng để Nọc buồn vui len vào Chơn Tánh!!! (Lời dạy của Đức Hộ Pháp).
BÁT QUÁI ĐỒ
Thánh Ngôn:
Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư!!!
Phật Mẫu Chơn Kinh:
Chuyển luân định phẩm cao thăng!
Hư Vô Bát Quái trị thần qui nguyên!!!
Diệt tục kiếp trần duyên oan trái
Chưởng Đào Tiên thủ giải trường tồn.
\
Quí Cao hữu!
Quí bạn nào đã có nghiên cứu Kinh Dịch "quá nhiều" (ly nước đầy = nhiều định kiến) thì xin đừng đọc bài này!!! Vì khi đọc, Quí bạn đó sẽ không thu liễm được gì (tại bị nhiều định kiến bao vây) mà còn bị khơi dậy cái lòng cao ngạo tự mãn nữa!!!
Chúng tôi sẽ giới thiệu cho Quí bạn bốn loại "Bát Quái Đồ". Ồ!!! Lạ tai thật!!! Từ xưa nay người ta thường nói chỉ có hai loại Bát Quái Đồ mà thôi!!! Đó là Tiên Thiên Bát Quái Đồ và Hậu Thiên Bát Quái Đồ!!! Bây giờ lại nói tới bốn loại???
* Hậu Thiên Bát Quái Đồ: Mỗi một con người (Thân và Tâm) là một Bát Quái Đồ!!! Mà thông thường là Hậu Thiên Bát Quái Đồ!!! Sao lại cho mỗi người là Hậu Thiên Bát Quái Đồ? Tại vì Thân Tâm của chúng ta động loạn, nặng trược chứa đầy thất tình lục dục trong đó!!!
* Tiên Thiên Bát Quái Đồ: Bản chất Thân Tâm của chúng ta là một Hậu Thiên Bát Quái Đồ. Cho nên chúng ta phải tu sửa để biến cái Thân Tâm nặng trược trở thành Thanh Tịnh. Hay nói cách khác, tu sửa để biến Hậu Thiên Bát Quái Đồ (động trược) thành ra Tiên Thiên Bát Quái Đồ (Thanh Tịnh)!!!
* Trung Thiên Bát Quái Đồ: Trên thực tế của cuộc sống, chúng ta (Thân Tâm) phải chung đụng với xã hội. Cho nên chúng ta phải trung dung lại, có nghĩa là lúc nào cần động thì chúng ta cứ động, lúc nào tịnh được thì chúng ta cứ tịnh. Như vậy là Thân Tâm của chúng ta bây giờ là Trung Thiên Bát Quái Đồ vậy!!!
* Hư Vô Bát Quái Đồ: Khi nào Thân Tâm của chúng ta được trở thành Hư Vô Bát Quái Đồ thì mới mong thành Tiên Phật!!!
Kinh Cửu Cửu:
Cung Trí Giác, trụ tinh thần!
Hườn hư mầu nhiệm (Hư Vô B.Q.Đ) thoát trần đăng Tiên!!!
² Nhập trong Bát Quái: Thân Tâm là Bát Quái Đồ nhỏ phải nhập trong cuộc sống là Bát Quái Đồ lớn thì mới vào Ngọc Hư Cung được!!! Hay nói một cách khác là: Đạo Cao Đài chủ trương Nhập Thế rồi mới Xuất Thế!!!
² Nhập Thế: Nhập trong Bát Quái.
² Xuất Thế: Mới vào Ngọc Hư.
MINH SƯ
Kinh Vào Học:
Đại Từ Phụ xin thương khai KHIẾU,
Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ.
Gần điều nên, lánh lẽ hư,
Nương Gươm Thần huệ đặng trừ nghiệt căn!
...
Cầu khẩn Đấng Chơn Linh nhập thể,
Đủ thông minh học lễ học văn.
May duyên gặp hội Long Vân,
Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa!!!
\
Quí Cao hữu!
Bên Phật Giáo có nói tới "Vô Sư Trí", ý nói chúng ta có thể đạt được Trí huệ sáng suốt mà không cần có ông Thầy nào tại cõi Trần này hết! Tự nhiên có Trí huệ sáng suốt!!! Tâm lý học gọi "Vô Sư Trí" này là "Trực Giác", là tự nhiên biết không cần suy luận, không cần Thầy dạy!!!
Luật Nhân duyên và Nhân quả không cho phép chúng ta chấp thuận "Vô Sư" mà có trí huệ sáng suốt được!!! Chúng ta tìm hiểu vấn đề này xem sao?
Xin Quí bạn đọc kỹ lại bài "Kho tàng bí tạng Như Lai" và bài "Lưới Trời" thì mới nắm vững được những ý dưới đây.
* Luật Tam Thể: Mỗi một người đều có đủ ba thể: Thể xác, Chơn Thần (Tâm) và Chơn Linh! Chơn Linh là Điểm Linh Quang (Phật Tánh, Bổn Lai Diện Mục) do Đức Thượng Đế chiết xuống cho mỗi người chúng ta. Vì do chính Đức Thượng Đế chiết ra cho nên cái Chơn Linh này cũng Vô Thượng, cũng thậm thâm, cũng vi diệu, cũng sáng suốt linh diệu y như của Đức Thượng Đế vậy!!! Các Chơn Linh thì đồng đẳng nhau, của Phật cũng như cõi chúng sanh không khác!!! Cái Chơn Linh này chính là Chơn Sư riêng, là Minh Sư riêng của mỗi người chúng ta, mà chúng ta thường gọi là Lương Tâm, là Phật Tánh!!!
Khi nào cái Chơn Linh này chịu nhập vào Chơn Thần (Tâm) của chúng ta (hay còn gọi là xạ điển vào, hoặc bấm cái Remote vào Chơn Thần) thì chúng ta tự nhiên được thông minh sáng suốt không cần ai dạy!!! Tạm nói là tự nhiên được, chớ không phải là tự nhiên mà được đâu! Chính Minh Sư (Chơn Linh) của chúng ta làm cho chúng ta (Chơn Thần) đạt được điều đó, cho nên, chúng ta không được quyền gọi là Vô Sư Trí mà phải gọi là Minh Sư Trí mới đúng!!! Hay nói cách khác, Minh Sư Trí chính là Chơn Linh của chúng ta. Tùy theo Chơn Thần (Tâm) của chúng ta thanh trược nặng nhẹ mà Chơn Linh xạ điển vào nhiều hay ít, khi nào Chơn Linh nhập vào Chơn Thần một cách trọn vẹn thì chúng ta (Chơn Thần) sẽ đạt được Viên Giác!!!
Cầu khẩn Đấng Chơn Linh nhập thể,
Đủ thông minh học lễ học văn!!!
* Thông công: Khi cái Chơn Thần (Tâm) của chúng ta, nhờ công phu tu tập mà được trở thành "Một Tòa Sen báu vật" thì tự nhiên Chơn Linh (Minh Sư Trí) của chúng ta an ngự trên đó!!!
Tòa Sen báu vật xin đưa!
Chơn Linh an ngự cho vừa quả duyên!!!
(Kinh đưa Linh Cửu)
Khi cái Tâm của chúng ta đã trở thành một Tòa Sen báu vật thì chúng ta liên lạc được với Chơn Linh một cách dễ dàng!!! Sự liên lạc đó gọi là sự thông công cùng với Đấng Thiêng Liêng (tức là với Chơn Linh, với Phật Tánh...). Có người còn gọi sự liên lạc đó là sự câu thông nữa. Thông công hay là câu thông thì cũng vậy.
Quí Cao hữu!!!
Nói thì nghe rất dễ dàng!!! Nhưng chúng ta (Chơn Thần, Tâm) muốn câu thông được với Chơn Linh (Minh Sư Trí) thì không phải là một việc dễ dàng!!! Hay nói cách khác là chúng ta phải khổ hạnh công phu tu tập kiên trì thì chơn Thần (Tâm) mới trở thành Tòa Sen báu vật được!!! Hay nói rõ hơn là chúng ta phải tu Tâm, tu Trí huệ, tức là tu Thiên Đạo một cách chí thành thì mới được!!!
AI ĐI ĐẦU THAI?
Thánh Ngôn:
Ai biết Đạo tức có duyên phần! Phải mau chơn tiến bước mới khỏi đọa luân hồi, bằng còn luyến ái sự thế thì sau ăn năn rất muộn!!!
Thánh Ngôn:
Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn lìa khỏi xác mới thấy cơ mầu nhiệm đặng thì chừng ấy đã muộn rồi!!!
\
Quí Cao hữu!
Chúng ta dường như hầu hết phải bị luân hồi chuyển kiếp rất nhiều lần ở cái cõi ta bà nặng trược này!!! Nói là chúng ta đầu kiếp, nhưng chúng ta là ai? Các bài trước chúng ta đã biết Thầy là ai để chúng ta qui hồi Cựu Vị mà hội hiệp cùng Thầy. Còn bây giờ, chúng ta phải biết chúng ta là ai mà phải đi đầu kiếp nhiều lần, chìm đắm mãi trong cái Biển Trần Khổ vơi vơi Trời Nước này!!! Biết người biết ta thì trăm trận trăm thắng!!! Do đó chúng ta cần phải biết rõ: Chúng ta là ai???
Xem kỹ lại bài "Kho tàng bí tạng Như Lai" thì chúng ta biết rằng: Mỗi một người có ba thể: Thể xác, Chơn Thần và Chơn Linh. Cái thể thứ nhì là Chơn Thần. Chơn Thần còn gọi là Tâm, là Não bộ. Chơn Thần chính là chúng ta. Chúng ta là Chơn Thần. Chơn Thần chính là cái Tâm, là một tên mê muội đầy cả lục dục thất tình, chính nó (Chơn Thần = Tâm – Chúng ta) phải đầu kiếp nhiều lần để học khôn rồi nó mới Giác Ngộ thấy được cuộc đời là vô thường, là biển khổ mênh mông, nó mới tầm Đạo Giải Thoát, nó mới tìm đường trở về hiệp nhứt với Chơn Linh của Nó. Nhắc lại, Nó chính chúng ta vậy!!! Sở dĩ nó đầu kiếp nhiều lần là tại vì Nó chưa thấy và biết Chơn Linh của Nó (chưa Kiến Tánh) chính là Cực Lạc Quốc, là Ngọc Hư Cung, là Cõi Đào Nguyên, là Niết Bàn, là Thiên Đàng!!!
Cho nên Nó cứ mãi mê luyến hồng trần chạy theo lục dục mà nó lại cho là hạnh phúc, một thứ hạnh phúc khổ đau! Tại vì Nó chưa thấy và biết Chơn Linh của chính nó nên ngày xưa từ Đức Phật Thích Ca đến các Vị Tổ Sư Thiền Đức đã KHAI THỊ cho Nó thấy để Nó NGỘ NHẬP vào trong Chơn Linh Phật Tánh, tức là ngộ nhập vào cái TỊNH THẤT của chính Nó!!! (Trụ Nguyên Tánh!!!).
Phật dạy: Chính Nó cũng có Phật Tánh y như của Phật vậy. Nó không chịu tin, mà cũng không dám tin chính mình là Phật nữa!!! Cho nên, Nó cứ mãi lang thang nơi cõi Ta bà không có hẹn ngày về, không có hẹn ngày hội hiệp cùng Thầy! Đức tin là trên hết!!! Không TIN thì ráng chịu!!! Không TIN cứ luân hồi chuyển kiếp mãi đi!!!
* Luân hồi ngay lúc còn sống
Sau khi chết, nói về việc luân hồi chuyển kiếp là điều hợp lý. Sao lại nói luân hồi ngay lúc còn sống, nghe lạ tai quá!!! Quí bạn hãy đọc kỹ đoạn này để tự mình có thể đoán được chính mình có bị luân hồi sau khi chết hay không?
Chúng ta đã biết cầu siêu lúc sanh tiền, đừng đợi chết rồi khiêng!!! Chết rồi không siêu kịp!!! Cũng như chúng ta phải giải thoát luân hồi ngay lúc còn sống mới chắc ăn!!! Thí dụ: Bạn đã hứa với "bà Huyện" là từ nay tôi không uống rượu nữa thì phải cố gắng bỏ dứt khoát!!! Nếu một thời gian sau, bạn uống rượu trở lại mà còn uống nhiều hơn nữa thì đó là luân hồi ngay lúc còn sống, ngay lúc còn tỉnh táo!!! Các thí dụ khác như hứa bỏ cờ bạc, thuốc hút!!!
Tổng tóm lại, mỗi người đều có ba thể: Thể xác, Chơn Thần và Chơn Linh. Chính cái Chơn Thần này phải đi đầu thai chuyển kiếp nhiều lần vì nó còn quá nhiều dục vọng!!!
NÓ chính là CHÚNG TA vậy!!!
CON MẮT HUỆ
Thánh Ngôn:
Thầy đến để hườn nguyên "Chơn Thần" cho các con đắc Đạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho Chư Đạo hữu con rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó!!! Thầy khuyên con mỗi phen nói Đạo, hằng nhớ đến Danh Thầy!!!
\
Quí Cao hữu!
Bên Phật Giáo có nói đến Con Mắt Huệ Bên Cao Đài cũng có nữa. Đó là "Thần cư tại Nhãn" Nhưng Thần cư tại Nhãn là tại chỗ nào? Thần cư tại con mắt phải hay tại con mắt trái??? Không lẽ Thần cư tại cả hai con mắt, như vậy là Thần phân ra làm hai rồi thì làm sao Thần đắc nhứt được!!!
Quí Cao hữu!
Chúng tôi xin giới thiệu một chỗ cho Thần cư tại đó. Nếu Quí bạn tập trung Thần vào chỗ đó lâu ngày Quí bạn sẽ có Trí huệ, cho nên, chỗ đó được gọi là "Con Mắt Huệ". Quí bạn có thấy chung quanh Tòa Thánh có những khuôn hình tam giác đều mà ở giữa có một con mắt. Đó là Con Mắt Huệ!!! Không lẽ nhìn những con mắt đó mà sanh ra Trí huệ??? Không phải vậy đâu!!! Quí bạn vạch một cạnh nằm ngang nối liền hai con mắt của bạn, đây là cạnh đáy của hình tam giác đều, kế đó bạn vẽ thêm hai cạnh nữa cho thành hình tam giác đều (Bạn vẽ tưởng tượng trên mặt của bạn). Trọng tâm của hình tam giác đều đó chính là chỗ Thần cư, chỗ đó chính là Con Mắt Huệ vậy!!! Khai mở được Con Mắt Huệ này thì chúng ta sẽ được sáng suốt, được Trí huệ, được Bát Nhã!!! Hay nói cách khác là đạt được Huệ Quang!!!
"Huệ quang chiếu thấu chánh tà!!!
Chèo thuyền Bát Nhã, Ngân Hà độ sanh!!!"
(Kinh Giải Oan)
GIẢI KHỔ KIỀU
Kinh Cứu Khổ:
Nam mô Đại Từ, Đại Bi Quảng Đại!!! LINH QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT!!!
Nam mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, Bá Thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ.
\
Quí Cao hữu!
Xin đọc lại bài "Cảnh và Tâm" để nắm vững cách giải khổ trong cuộc sống.
* Thay đổi Tivi màu: Từ Tivi đen trắng, chúng ta cho chuyển hệ thành Tivi màu thì thật là hấp dẫn phải không Quí bạn? Quí bạn đừng cười vì chúng tôi đã "lạc đề" quá xa, phải không? Xin bình tĩnh đọc tiếp.
* Tivi: "Tivi" chính là tư duy của Quí bạn đó, phát âm thanh giống nhau mà!!! Ở đây, "Tivi" không phải là Máy thu hình mà là tư duy, là quan điểm đối với Ngoại cảnh chung quanh.
* Tivi đen trắng: Là tư duy, là quan điểm tạo ra sự đau khổ trong cuộc sống!!! Đó là quan điểm tiêu cực và bi quan!!!
* Tivi màu: Là tư duy, là quan điểm tích cực và lạc quan. Quan điểm này sẽ giúp cho chúng ta được an lạc trong cuộc sống, hay nói khác hơn là nhờ có tư duy lạc quan mà chúng ta giải được khổ!!!
* Thí dụ 1: Trong một đám tang, những người lớn trong nhà đều sầu thảm khóc lóc!!! (Tại vì họ có những tư duy tiếc nuối sầu thảm). Trong khi các đứa bé, dù đang đội tang trên đầu, lại nô đùa vui vẻ mà còn hỏi nhau: Tới chừng nào có được như vầy nữa, thật là vui !!!
Chúng ta hãy thay đổi cái tư duy sầu thảm đen tối (Tivi đen trắng) của người lớn nói trên đi, để thay vào cái tư duy vui vẻ (Tivi màu) của mấy đứa trẻ, thì chúng ta sẽ tự mình giải khổ được!!! Đức Lão Tử cũng có dạy điều này: "Tu sao cho đạt được Trí huệ Bát Nhã, rồi sống như một đứa trẻ thơ!!!"
* Thí dụ 2: Mỗi buổi sáng, bạn phải giặt một thau quần áo đầy nhóc!!! Ban tư duy (Tivi đen trắng) như sau: Ta đúng là một thằng ăn mày, phải giặt đồ như một đứa đầy tớ, bữa nào cũng phải ngồi mỏi lưng, giặt mỏi cả tay, thật là khổ hết sức!!! Nếu bạn tư duy như vậy thì chẳng khác nào bạn tự mình làm khổ mình!!! Bạn không biết "Chuyển hệ" gì hết!!! Nếu bạn chuyển hệ được thì bạn biến khổ thành vui, chuyển bại thành thắng. Hay nói cách khác bạn đã đạt được 72 Phép Biến Hóa thần thông rồi đó!!! Dù ở trong một hoàn cảnh nào, bạn cũng Biến Nó Hóa thành một cảnh an lạc vui vẻ thì bạn đã đạt được Thần Thông rồi, còn muốn gì nữa chớ!!!
Ở thí dụ 2 này chúng tôi xin gởi tặng Quí bạn một cái Tivi màu (Tư duy lạc quan) như sau: "Đã quá!!! Bữa nào Ta cũng được dịp luyện tập "Ưng Trảo Công" hết!!! Luyện tập một thời gian thì các ngón tay của Ta sẽ thành cứng chắc y như các móng vuốt của con Chim Ưng vậy!!! Lúc đó đôi tay của Ta đã trở thành một gọng kềm vô địch!!! Đã quá!!! Đã quá!!!". Như vậy là chúng ta đã BIẾN khổ HÓA thành vui, biến tư duy tiêu cực hóa thành tư duy tích cực lạc quan!!!
Tóm lại, trong cuộc sống là Biển Trần Khổ vơi vơi Trời Nước này, chúng ta phải biết Biến Hóa để sống dung hòa vui vẻ với mọi ngoại cảnh chung quanh. Hay nói cách khác là chúng ta phải biết chuyển hệ, biết thay đổi tư duy quan điểm đối với Ngoại cảnh!!! Đây là cách giải khổ siêu tuyệt!!!
TRUYỀN PHÁP
Pháp Bửu Đàn Kinh:
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xuống nhà sau hỏi Huệ Năng:
- Gạo giã thế nào?
- Dạ, gạo đã trắng rồi, chỉ thiếu cái sàng!
Tổ Hoằng Nhẫn chẳng nói gì, lấy gậy gõ vào cối 3 cái rồi quay lưng đi. Tối hôm đó, vào lúc canh ba, Huệ Năng vào phòng của Tổ và được Tổ truyền Y Bát cho được làm Tổ thứ 6.
\
Quí Cao hữu!
Ngũ Tổ đã truyền PHÁP gì cho Huệ Năng? Ai cũng muốn biết và muốn được truyền!!! Tại sao chỉ truyền riêng mà không truyền chung, hay ít ra cũng phải truyền cho nhiều người để PHÁP không đứt đoạn chớ!!!
* PHÁP là gì? Trong bài Vi Diệu Pháp có nói một câu Khai Kinh Di Lặc:
Vô thượng thậm thâm vi diệu PHÁP!
Ở đây, chữ PHÁP có nghĩa là cái Phật Tánh, cái Bổn Tánh, cái Bổn Lai Diện Mục, cái Phật Trí Kiến, cái Tịnh Thất, cái Điểm Linh Quang, cái Điểm Lương Tâm, cái Tiểu Thượng Đế của mỗi người!!! Cái PHÁP này đã được Chư Phật, Chư Tổ KHAI THỊ cho chúng ta thấy lâu rồi, nhưng chúng ta chưa chịu NGỘ NHẬP vào trong PHÁP đó mà thôi!!! Các Chư Tổ cũng như Cổ Đức Thiền Sư đều nói rằng: "Các Chư Phật, Chư Tổ xuất hiện trên đời cũng chỉ có cùng một mục đích là Khai Thị cho chúng sanh thấy được cái PHÁP này mà thôi!!! Ngoài ra không cái PHÁP nào khác!!!
Cái PHÁP này, Chư Phật Chư Tổ đã phổ truyền rộng rãi trên các Kinh Sách rồi, chúng ta chỉ cần Ngộ Nhập vào trong PHÁP đó là xong ngay!!! (Trụ Nguyên Tánh hồn linh nhàn lạc!!! Thường Trụ Ngươn Thần thì mọi đường bặt!!! Trụ Căn thì Quỉ Khí phải Cửu Tuyền!!!). Như vậy Tổ Hoằng Nhẫn nửa đêm truyền cái PHÁP gì cho Huệ Năng? Chắc chắn không phải là cái PHÁP mà chúng ta đã bàn nảy giờ ở đoạn trên!!! Điều này, Quí bạn phải có công phu suy gẫm để tự tìm hiểu lấy, đây cũng là một công ao Thiền (Nghi tĩnh) để Quí bạn tu tập!!!
Tuy nhiên, chúng tôi cũng có thể "nhá cạnh" cho Quí bạn thấy: "PHÁP mà Huệ Năng được truyền chỉ là MỘT PHƯƠNG TIỆN để bảo vệ bản thân, bảo vệ Ngôi Tổ, bảo vệ Phật Pháp mà thôi"!!!
LONG VÂN VÀ LONG HOA
Phật Mẫu Chơn Kinh:
Hội Ngươn hữu Chí Linh huấn chúng,
Đại Long Hoa nhơn chủng hòa ki.
Tam Kỳ khai hiệp Thiên Thi,
Khoa môn Tiên Vị, ngộ kỳ Phật duyên!
Đại Tường Kinh:
Hội Long Hoa tuyển phong Phật Vị,
Cõi Tây Phang đuổi quỉ trừ ma.
Giáng linh Hộ Pháp Di Đà,
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.
\
Quí Cao hữu!
Trên Kinh Sách, chúng ta thường được nghe nói đến Long Vân Hội và Long Hoa Hội, nhưng trên thực tế thì hai Hội đó đối với chúng ta có vẻ mơ hồ và trừu tượng!!! Chúng ta phải hiểu làm sao đây cho có vẻ "Logic" để chúng ta có thể áp dụng trong việc tu tập chớ!!!
* Long Vân Hội: Là kỳ thi chọn lấy Tiên Vị. Căn cứ vào đâu mà nói như vậy?
Long: Là rồng, là tinh thần, là Tâm!!!
Vân: Là mây, là nhẹ nhàng thoải mái, là tự do tự tại!!!
Kết hợp hai chữ Long và Vân lại thì có nghĩa là cái Tâm của chúng ta được nhẹ nhàng thoải mái, được tự do tự tại!!!
Cái Tâm này chính là cái bản chất của Tiên gia vậy!!! Hay nói cách khác, người nào tu được cái Tâm này thì người đó đạt được Tiên Vị!!!
Muốn đạt được Tiên Vị không phải dễ, chúng ta phải nhập vào trong "Bát Quái Trận Đồ" mà tu!!! Chớ không được trốn lên Am, lên Núi hay vào Rừng thẳm mà tu!!! Nhập thế mà tu, đó là Tôn chỉ của Đạo Cao Đài!!!
Hoàn cảnh xã hội và kinh tế quá khó khăn hiện nay trên thế giới là một hình ảnh Trường Thi Long Vân để cho Quí Cao hữu dự thi Tiên Vị vậy!!!
Trong một hoàn cảnh sống quá khó khăn mà Quí bạn vẫn giữ được cái Tâm nhẹ nhàng thoải mái, tự do tự tại thì Quí bạn mới có hy vọng chiếm được Bảng Vàng Tiên Vị!!!
Trường thi đã có, Quí bạn được quyền đăng ký dự thi một cách tự do không hạn chế. Còn thi đậu hay không thì còn phải tùy theo Công Phu và Công Quả của Quí bạn!!!
* Long Hoa Hội: Là kỳ thi chọn lấy Phật Vị!!! Kỳ thi này chỉ dành riêng cho những người đã đắc được Tiên Vị trong kỳ thi Long Vân Hội mà thôi!!! Cũng như thi đậu xong Tú Tài I chúng ta mới có quyền lập hồ sơ thi Tú Tài II vậy. "Khoa môn Tiên Vị, ngộ kỳ Phật duyên" mà!!!
Long: Là rồng, là tinh thần, là Tâm!!!
Hoa: Là liên đài, là Bát Nhã, là Xá Lợi Tử, là Thánh Thai, là Mâu Ni Châu.
Kết hợp hai chữ Long và Hoa lại thì có nghĩa là: Cái Tâm đã trổ hoa hoặc gọi là Thần đã đắc nhứt, hoặc Tâm tụ lại thành Mâu Ni Châu, thành Thánh Thai, hoặc gọi là đạt được Đệ Nhị Xác Thân (Xá Lợi Tử), xuất ngoại mà vân du nơi cõi Thọ Trường Sanh bất tử, hoặc nói cách khác là đắc được Phật Vị vậy!!!
Tóm lại, muốn dự thi Long Hoa Hội thì điều kiện đầu tiên có tính cách bắt buộc là phải thi đậu Long Vân Hội, tức là phải đạt được cái Tâm trang nghiêm thanh tịnh!!! Chưa có cái Tâm thanh tịnh trang nghiêm mà đòi hỏi có Xá Lợi Tử, cũng như chưa thành Tiên mà đòi thành Phật, thì đó là một điều không tưởng, vô minh và nguy hiểm!!! Đừng quá ham thành Phật mà mê "Luyện Đạo"!!! Hãy cẩn thận kẻo bị "Tẩu hỏa" rồi "Ma nhập" thì không có thuốc mà chữa!!! Không chịu tu Tâm dưỡng Tánh, không lo tu Đức sửa mình, chỉ ngồi không ở đó mà mong Long Hoa Hội mau đến, thì đó là một điều mê tín!!!
CHÂN THIỀN
Thiền Truyện:
Một Vị Thiền Sư A gởi một đứa cháu của mình đến thiền viện của Thiền Sư B tu học. Trong một buổi tọa thiền trong Thiền Viện, Thiền Sư B cầm một cây thước đi kiểm soát các Thiền Sinh xem Trò nào "ngủ gục" hoặc "hôn trầm" thì gõ cây thước vào vai của Trò đó để nhắc nhở. Thay vì gõ nhẹ vào vai Thiền Sinh, Thiền Sư B lỡ tay gõ mạnh trên đầu đứa cháu Thiền Sư A. Đứa cháu của Thiền Sư A bị đánh trên đầu đau quá, giận dữ đứng lên, vừa "thoi" Thiền Sư B vừa la lớn: Thiền như vầy tôi không học đâu!! Nói xong, đứa cháu bỏ đi và trở về gặp Thiền Sư A phân bua chê trách Đạo Thiền, trong khi đó Thiền Sư B cũng đến gặp Thiền Sư A để mắng vốn về đứa cháu ngỗ nghịch!!! Cùng một lúc Thiền Sư A vừa bị mắng vốn, vừa bị đứa cháu đánh giá Đạo Thiền!!! Bỗng nhiên, Thiền Sư A phát cười lớn lên một cách đắc chí, Ông nói: Ồ!!! Chân Thiền!!! Chân Thiền!!!
\
Quí Cao hữu!
Phần đông các Cao Đạo hữu chưa hiểu Thiền là gì mà vội đánh giá Thiền!!! Hoặc có người chưa có trình độ lại đọc sách Thiền nên có nhiều sự hiểu lầm tai hại! Hiểu sai một ly đi một dặm!!! Hiểu sai lại tưởng mình đúng nên cứ mãi giữ lập trường, đây mới thật là một điều tai hại!!! Cũng như qua câu chuyện Thiền trên đây, họ hiểu lầm Thiền như thế này: "Thiền đâu có gì lạ! Đói thì ăn, khát thì uống! Muốn đánh là đánh, muốn thoi là thoi! Tự do tự tại mà!!! Thèm rượu cứ uống, buồn ngủ cứ ngủ!!! Tự nhiên luyện Đạo (Thiền) mà!!!
Họ hiểu Thiền như vậy nên họ sống buông trôi, sống mặc kệ, quậy xã láng để rồi sáng về sớm!!! Đối với Thiền, đây là một lối sống đáng ghê tởm, cần phải triệt tiêu!!!
Tuy nhiên chúng ta cũng nên thông cảm họ vì các câu truyện Thiền. Các công án quá cô đọng, quá gút mắc, quá nghịch lý, quá vô lý... làm cho họ không thật hiểu Thiền một cách đúng đắn được! Chẳng hạn câu truyện Thiền dẫn chứng ở trên là một thí dụ, sự việc xảy ra lung tung như vậy mà Thiền Sư A cười nói: Ồ!!! Chân Thiền!!! Chân Thiền!!!
Quí Cao hữu!
Trước khi giải mã hai chữ Chân Thiền ở trên, chúng tôi cũng xin đưa ra một công án Thiền tượng trưng:
Công án (tức là một câu truyện Thiền):
Một Ông Tăng hỏi một Vị Sư:
- Tổ Đạt Ma qua Trung Quốc làm gì?
Sư trả lời:
- Một tấc lông rùa nặng 9 cân!!!
...
Quí Cao hữu!
Rùa làm gì có lông!!! Mà lại cân nặng tới 9 cân!!! Thật là vô lý hết mức!!! Ông Tăng hỏi một đàng, Nhà Sư trả lời một nẻo!!! Mà lại trả lời "tầm bậy" nữa chớ!!! Làm sao hiểu Công án này đây? Có nhiều người tìm hiểu hoài mà không ra đáp số, cho nên họ thất vọng thốt lên: "Thôi!!! Hơi đâu mà tìm hiểu những câu truyện khùng khùng điên điên như vậy!!!"
Quí Cao hữu!
Ai khùng đây? Nhà Sư khùng? (không lẽ) Ông Tăng điên? Người đọc công án điên chăng? Chúng ta thử giải mã công án này xem sao:
Một điều chắc chắn là: Đã là một Nhà Sư rồi thì không thể nào chúng ta cho ông ta điên được!!! Như vậy chúng ta thử tìm hiểu "bí kíp" mà ông đã trao (dạy) cho Vị Tăng nọ. Nhà Sư dạy Tăng rằng:
"Tổ Đạt Ma qua Trung Quốc làm gì là việc của ổng!!! Nhà ngươi (Tăng) thắc mắc tìm hiểu, "chỏ mũi" vào việc của người khác để làm gì cho phiền não!!! Ổng làm gì "Kệ tía ổng"!!! Nhà ngươi đừng có vẽ thêm chân cho rắn, gắn lông thêm cho rùa!!! Việc làm vô bổ đó chỉ làm cho Tâm của nhà ngươi phiền não nặng nề (nặng đến 9 cân) mà thôi!!! Hiểu chưa!!! Hay là nhà ngươi chờ cho Ta: "Tống một đạp" theo kiểu Sư Lâm Tế nữa thì mới hiểu!!!".
Quí Cao hữu!
Như vậy Quí bạn đã giải mã công án này được rồi đó!!! Ông Tăng điên đã đành!!! (Vì thêm chân cho rắn, gắng lông cho rùa). Còn chúng sanh đọc tới công án này lại dám đánh giá Nhà Sư thì chúng sanh mới đúng là "khùng khùng điên điên" vậy!!!
* Chân Thiền:
Bây giờ trở lại công án "Chân Thiền" ở trên. Ông Thiền Sư A bị đứa cháu la lối thậm tệ, đồng thời lại bị ông Thiền Sư B mắng vốn nặng nề!!! Thế mà lúc đó ông A cảm thấy an lạc thanh tịnh, không một chút phiền não nào hết, ông mới thấy ông đã đạt được Thiền, ông vui quá mới thốt lên: Ồ!!! Chân Thiền!!! Chân Thiền!!! Ý của ông nói: Ta đã đạt được Chân Thiền!!! Chớ không phải ông cho việc la lối quậy phá mắng vốn là Chân Thiền đâu!!! Quí Cao hữu đừng có hiểu lầm mà có những lời nói và hành động tai hại!!! Người đạt được Chân Thiền thì lúc nào cũng được an lạc và tự nhiên đối với ngoại cảnh!!! (An Nhiên!!!).
" Đi cũng Thiền! Ngồi cũng Thiền!
Nói nín, động tịnh thảy An Nhiên!!!"
CỘT RỒNG TAM BỬU
Thánh Ngôn:
Lập "Tam Kỳ Phổ Độ" này duy Thầy cho THẦN hiệp TINH KHÍ đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh!!!
\
Quí Cao hữu!
Trong Tòa Thánh có 3 loại cột rồng:
* Cột Đỏ Rồng Xanh: Màu đỏ tượng trưng cho TINH là thể xác. Màu xanh tượng trưng cho KHÍ là Bộ Não, là Chơn Thần, là Tâm. Đây là nói về luyện TINH hóa KHÍ.
* Cột Xanh Rồng Vàng: Màu xanh tượng trưng cho KHÍ. Màu vàng tượng trưng cho THẦN. Đây nói về luyện KHÍ hóa THẦN.
* Cột Trắng Rồng Trắng: Đây nói về THẦN đã được hườn hư, hay nói cách khác THẦN đã nhập vào "Hư Vô Bát Quái Đồ" (xin xem bài Bát Quái Đồ).
- Cung trí giác trụ tinh thần!
Hườn hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên!!!
- Chuyển luân định phẩm cao thăng!
Hư Vô Bát Quái trị THẦN qui nguyên!!!
Tóm lại, hiệp đủ Tam Bửu có nghĩa là luyện TINH hóa khí, luyện KHÍ hóa thần, luyện THẦN hườn HƯ là Cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh!!!
PHẬT PHÁP TĂNG
Niệm trước khi Cúng:
Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng.
Nam Mô: Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Mahatát.
Nam-Mô: Quan Thế Âm Bồ Tát Mahatát.
Nam Mô: Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ.
Nam Mô: Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
Nam Mô: Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần.
\
Quí Cao hữu!
Có một lần chúng tôi về quê được gặp một số Cao Đạo hữu trọng tuổi. Gặp chúng tôi ở Tòa Thánh Tây Ninh về chơi, họ mừng lắm nên "Phỏng vấn" liền: Tại sao thiết lễ cúng Đức Chí Tôn là Chúa Tể Càn Khôn Vũ Trụ mà không Niệm Danh Đức Cao Đài Tiên Ông trước, lại niệm Phật Pháp Tăng trước? Phật Pháp Tăng đâu có lớn hơn Đức Chí Tôn được!!!
Thật là một câu hỏi bất ngờ!!! Chúng tôi phải bối rối giây lát!!! Tuy nhiên, sau đó chúng tôi nhận được Remote của Đại Từ Phụ như sau:
* Mục đích của Đàn Cúng Đức Chí Tôn
Thiết lễ Cúng Thầy cũng có nghĩa thiết lễ Cúng dâng Tam Bửu lên Đức Chí Tôn. Phải có đủ Tam Bửu (dâng Hoa, dâng Rượu, dâng Trà) mới có đủ điều kiện thiết lễ cúng Thầy. Không có Tam Bửu thì không được!! Đây là điều kiện ắt có và đủ cho một buổi lễ cúng Thầy!!!
* Ý nghĩa của Phật Pháp Tăng:
Tăng tượng trưng cho TINH, Pháp tượng trưng cho KHÍ, Phật tượng trưng cho THẦN. Như vậy, Phật Pháp Tăng là Tam Bửu Tinh Khí Thần!!!
* Quà tặng Cha Mẹ
Khi chúng ta ở xa đi về quê thăm Cha Mẹ thì chúng ta ra chợ mua một số quà tặng, chẳng hạn Cam, Quít, Bưởi... để dâng tặng lên Cha Mẹ. Cam, Quít, Bưởi đâu có "lớn hơn" Cha Mẹ của mình được, nhưng cần phải mua chúng trước!!!
* Tam Bửu dâng lên Đức Chí Tôn
Không có Tam Bửu thì lấy gì cúng Đức Chí Tôn!!! Cho nên chúng ta phải kiếm đủ Tam Bửu trước!!! (Phật Pháp Tăng). Mặc dù Tam Bửu Tinh Khí Thần (Phật Pháp Tăng) không có lớn hơn Đức Chí Tôn được!!! Cũng như Cam, Quít, Bưởi đâu có lớn hơn Cha Mẹ mà chúng ta cũng phải kiếm nó trước!!! Do đó, Niệm Phật Pháp Tăng trước khi Niệm Đức Cao Đài cũng là một điều hợp lý!!!
Tóm lại, khi chúng ta Niệm Phật Pháp Tăng thì chúng ta phải nhớ giữ gìn Tam Bửu Tinh Khí Thần. Vì có đủ Tam Bửu chúng ta mới có hy vọng hội hiệp cùng Thầy!!! (Chầu lễ Đức Chí Tôn = Lễ triều Chí Linh).
GIÁO TÔNG
Hai câu liễn Giáo Tông Đường:
Giáo hóa nhơn sanh nhựt nhựt TRUNG Tâm Qui thiện Quả.
Tông khai Tăng chúng thời thời TRỌNG Đạo hiệp Chơn Truyền.
\
Quí Cao hữu!
Có một số ít Cao Đạo hữu đề nghị sửa đổi hai chữ: Trung và Trọng của hai câu liễn trên, cho nên trước hết chúng ta nên tìm hiểu ý nghĩa chân thật của hai câu liễn thì mới biết hư thực ra sao?
* TRUNG: Là một động từ, có nghĩa là hiếu, là giữ gìn. "Tâm Qui Thiên Quả" là một túc từ phụ nghĩa cho động từ TRUNG. Cả câu liễn có ý nghĩa là: Giáo hóa nhơn sanh lúc nào cũng nhớ giữ gìn cái Tâm thiện lành!!! Như vậy thì cái chữ Trung (忠) ở Giáo Tông Đường là trúng rồi, khỏi cần phải đề nghị sửa lại (中) làm chi!!!
* TRỌNG: Là động từ, có nghĩa là tôn kính. "Đạo hiệp Chơn Truyền" là túc từ của động từ Trọng. Cả câu có ý nghĩa là: Dạy cho các Tín đồ (Tăng chúng) lúc nào cũng phải tôn trọng cái Đạo hiệp Chơn Truyền, cái Đạo không hợp với Chơn truyền thì đừng theo!!! Như vậy thì chữ Trọng (重) ở Giáo Tông Đường là trúng rồi, khỏi cần phải đề nghị sửa lại (仲) làm chi!!!
TRUYỀN Y BÁT
Thánh Ngôn:
Thầy cho các con đến Thế Giới này với một Thánh Thể thiêng liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con không chịu lại nghe lời cám dỗ mê luyến hồng trần, ăn cho phải bị đọa, dâm cho phải bị đày, cho nên phải chịu nạn áo cơm!!!
\
Quí Cao hữu!
Ngày xưa các vị Tổ Sư tìm được người thừa kế liền truyền cho Y Bát và Pháp để cho có dấu ấn chứng để truyền bá Đạo Pháp! Hay nói cách khác là để cho có "Tư cách pháp nhân" làm chưởng môn phái hầu truyền nối Chánh Pháp!!!
* Y Bát: Y là áo, Bát là chén cơm. Y Bát tượng trưng cho Áo Cơm!!! Ngoài ý nghĩa Y Bát là dấu ấn tư cách pháp nhân, việc truyền Y Bát có một ý nghĩa siêu tuyệt khác mà ít ai để ý!!! Tổ Sư truyền Y Bát cho người đệ tử thừa kế, điều đó có nghĩa là vị Tổ Sư chỉ thị cho người đệ tử đó phải lo nạn áo cơm của tất cả chúng sanh, hay nói cách khác là phải lo cứu khổ cứu nạn cứu đói cho chúng sanh trước khi thuyết pháp cho chúng sanh. Có thực mới vực được Đạo mà!!! Hay nói cách khác là phải lo việc Tế độ trước rồi liền sau đó mới lo việc Phổ độ (xem bài Phổ độ và Tế độ).
* Đức Chí Tôn truyền Y Bát: Hiểu theo nghĩa bóng Đức Chí Tôn đã chỉ thị cho Đạo Cao Đài nói chung, cho Cơ quan Phước Thiện nói riêng phải lo nạn áo cơm cho chúng sanh, tức là phải lo cứu đói cứu nạn cho chúng sanh. Tất cả các Cao Đạo hữu đều được Đức Chí Tôn truyền cho y bát. Điều đó có nghĩa là mỗi Tín đồ Cao Đài đều phải có nhiệm vụ ngoài việc lo cứu đói chính mình, còn phải lo cứu đói chúng sanh nữa!!!
* Đức Chí Tôn truyền Pháp: Đức Chí Tôn đã truyền cho Thánh Ngôn, Thánh Giáo, Pháp Chánh truyền, Tân Luật, Kinh Thiên và Thế Đạo... Nói chung, mỗi Tín đồ Cao Đài đều phải có nhiệm vụ truyền pháp này cho chúng sanh. Nói riêng, Chức Sắc Cửu Trùng Đài phải đặc trách việc thuyết pháp cho chúng sanh, hay nói cách khác là Chức Sắc Cửu Trùng Đài phải lo việc Phổ độ!!!
Tóm lại, việc truyền Y bát và Pháp có ý nghĩa là chúng ta phải đồng thời lo việc Tế độ (Y bát) và việc Phổ độ (Pháp).
Phổ Tế Tổng Pháp Tông mà!!!
LẬP ĐỨC VÀ LẬP NGÔN
Kinh Cúng Tế:
Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập Đức giúp hườn ngôi xưa.
\
Quí Cao hữu!
Phần đông các Cao Đạo hữu hiểu hai chữ Lập Đức một cách trừu tượng mơ hồ, cho nên hôm nay chúng ta thử tìm hiểu cụ thể ra sao.
Thánh Ngôn có dạy: Như không làm đặng thế này (tức là thuyết pháp lập ngôn) thì tìm cách khác mà lập Âm Chất (tức là làm việc Phước Thiện, lập Đức).
* Lập Ngôn: Tức là thuyết pháp, lo việc mở mang trí huệ cho chúng sanh, tức là lo phần tinh thần trí não cho chúng sanh. Việc Thuyết Pháp Lập Ngôn không phải là một việc dễ dàng, cũng không phải là một việc mà ai ai cũng làm được!!! Phải có trí huệ mới đảm đương nổi!!! Thuyết Pháp sai lệch phải bị đọa vì "Một câu thất đức là thiên niên đọa"!!! Cho nên, Đại Từ Phụ sợ chúng ta không đảm đương nổi mới khuyên chúng ta nên tìm cách khác mà lập âm chất!!! Công việc Thuyết Pháp Lập Ngôn được giao cho Chức Sắc Cửu Trùng Đài!!!
* Lập Đức: Chính là lập Âm Chất cho chúng sanh. Âm chất là vật chất cho chúng sanh, Âm chất là vật chất hữu hình như áo cơm, thuốc men, nhà cửa... Công việc lập âm chất được giao cho cơ quan Phước Thiện. Như vậy, làm việc Phước Thiện lo về âm chất như cứu đói, cứu bịnh... thì được gọi là lập Đức! Công việc lập Đức (lập Âm chất) thì dễ dàng hơn lập Ngôn nhiều, vì khi chúng ta có tiền và có sức khoẻ là chúng ta có thể làm được!!!
Tóm lại, lo mở mang Phần tinh thần trí não của chúng sanh là thuộc về nhiệm vụ của Cơ quan Cửu Trùng Đài. Còn việc lo Phần thể xác cho chúng sanh như cứu đói, cứu bịnh là thuộc về nhiệm vụ của Cơ quan Phước Thiện.
Cơ quan Cửu Trùng Đài = Lập ngôn (lo Phần tinh thần cho chúng sanh).
Cơ quan Phước Thiện = Lập Đức (lo Phần thể xác cho chúng sanh).
* Công quả: Lập Ngôn và lập Đức đều có công quả cả. Nên nhớ, lập Ngôn và lập Đức cho chúng sanh, chớ không phải lập cho chính bản thân mình, thì mới được gọi là Công quả!!! Còn lập ngôn và lập Đức cho chính bản thân mình thì gọi là Công phu. Đó là công phu tu Tâm và công phu giữ gìn Tam Bửu!
Tóm lại,
Công quả = Lập Ngôn + lập Đức (lo cho chúng sanh)
Công phu = Lập Ngôn + lập Đức (lo cho mình)
Quí Cao hữu!
Bây giờ chúng ta cũng nên tìm hiểu ý nghĩa (lý sâu) của 2 câu Kinh cúng tế trên.
* Thong dong cõi thọ nương hồn
Trước khi đi sâu vào ý nghĩa thì Quí Cao hữu nên chấp nhận "nguyên tắc" này: Tất cả các bài Kinh Cúng Tế đều có một mục đích chánh là dạy Đạo cho những người còn sống!!! Quí bạn nên xem lại bài "Cầu Siêu" rồi mới đọc tiếp dưới đây.
Người nào còn sống từ tuổi 60 trở lên thì người đó đã vào cõi thọ rồi vậy. Người đó có quyền thong dong tuổi già, không còn phải lo nạn áo cơm nữa!!! (Để cho con cháu nó lo). Nên nhớ không phải thong dong đi uống rượu hoặc đánh bài!!! Mà phải nương hồn!!! Có nghĩa là dùng thì giờ rảnh rỗi đó mà lo tu Tâm dưỡng Tánh (nương hồn) chờ ngày hội hiệp cùng Thầy!!! (hoàn ngôi xưa: Chết).
Trong khi chờ đợi người đó trở về quê xưa (chết) thì phận làm một đứa con hiếu thảo phải lo bảo dưỡng nuôi nấng, cung cấp đầy đủ vật chất cho Cha mẹ!!! (để Cha Mẹ được thong dong rảnh rỗi mà lo tu Tâm dưỡng Tánh, tức là lo nương hồn!!!)
Việc làm của người con đó gọi là LẬP ĐỨC. Chờ con Lập Đức giúp hườn Ngôi xưa mà!!!
CON LONG MÃ
Thi của Bát Nương:
...
Rồng bay ngựa chạy cho ai cỡi,
Đất dậy chừng bao đổi xác Trời.
Thi của Đức Hộ Pháp:
...
Long Mã bạn đường Tiêm Trạng Kỵ,
Cù phi hải sụp Lý thay Trời!
\
Quí Cao hữu!
Trên nóc của Tòa Thánh thuộc phần Cửu Trùng Đài có tượng con Long Mã mang trên lưng 3 cái "Bửu Pháp". Hình tượng đó là Thể pháp, bây giờ chúng ta tìm hiểu ý nghĩa (bí pháp) dạy Đạo của Thể pháp đó là như thế nào?
Quí Cao hữu!
Một điều chắc chắn là không có con Long Mã thật sự sống trên Địa Cầu này. Đó chỉ là Con Vật hư cấu để dạy Đạo mà thôi!!! Như vậy con Long Mã tượng trưng ý nghĩa gì?
* LONG: Là rồng, tượng trưng cho cái Tâm của chúng ta. Mà Tâm chính là Chơn Thần, là Bộ Não, cho nên tựu trung lại là cái Đầu Rồng.
* MÃ: Là ngựa, là sức mạnh (Mã lực) tượng trưng cho cái thể xác của chúng ta. Cho nên cái Đầu Rồng gắn liền với cái thân con ngựa, gọi chung lại là Long Mã!!! Như vậy, con Long Mã tượng trưng là cái "Thân Tâm" của một con người bói chung, của một người tu nói riêng. Long Mã tượng trưng cho Thân Tâm, rộng hơn nữa là tượng trưng cho Âm Dương. Đầu Rồng gắn liền với thân Ngựa tượng trưng một tu sĩ đã đạt được Âm Dương hiệp Nhứt, tức là tinh thần và thể xác đã hiệp lại thành Một. Khi tu hành đạt được Âm Dương hiệp Nhứt thì chúng ta sẽ có được 3 Bửu Pháp, hay nói một cách bình dân là chúng ta sẽ có được 3 cái "Bửu Bối".
* Đầu Rồng hướng về phía Đông: Phía Đông là hướng mặt Trời mọc, tượng trưng là sự sáng suốt, là Huệ Quang, là Bát Nhã. Đầu Rồng hướng về Đông là có ý dạy chúng ta nên tu Tâm tức là tu Trí huệ, tu Thiên Đạo, làm sao cho đạt được 3 Bửu pháp trên lưng con Long Mã!!!
* Thân Ngựa hướng về phía Tây: Phía Tây tượng trưng cho sự thanh tịnh (Tây Phương), sự thanh nhàn, sự an lạc. Thân Ngựa hướng về phía Tây là có ý dạy chúng ta nên giữ gìn thể xác được thanh nhàn thì mới mong cái Tâm mở được Huệ Quang (xin xem lại bài Nhàn Âm Đạo Trưởng). Một cái thể xác quá khắc khổ, yếu đuối, bịnh hoạn thì làm sao Tinh Thần sáng suốt được!!! Cho nên ngày xưa Đức Thích Ca bỏ lối tu khổ hạnh ép xác mà trở lại lối tu "Trung Đạo". Có Nhàn Âm (thể xác an nhàn) thì mới có "Đạo Trưởng" (Trí huệ phát triển). Cũng như Tây Phương có câu: "Một tinh thần minh mẫn nằm trong một thể xác tráng kiện"!!!
Cái câu: "Một tinh thần minh mẫn nằm trong một thể xác tráng kiện" đó chính là "Con Long Mã" vậy!!!
Bây giờ chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của 3 Bửu Pháp.
* Hư Vô Bát Quái (xem bài Bát Quái Đồ):
Khi chúng ta đạt được Bửu Pháp này thì khi gặp Tà ma quỉ mị, chúng ta tung Bửu Pháp này lên thì Tà ma quỉ mị sẽ bị tiêu ra tro!!! Lúc đó chúng ta mới được ung dung trở về quê xưa hội hiệp cùng Thầy mà không còn bị điều gì chướng ngại nữa hết!!! Nói nghe giống thần thông quảng đại, hấp dẫn quá phải không Quí bạn? Nhưng, xin Quí bạn (Thêm: Hư Vô Bát Quái trị thần qui nguyên mà) đừng hiểu lầm, ở đây chỉ nói về ý nghĩa Tâm lý trong Đạo học mà thôi!!!
* Vô Tự Chân Kinh:
Là quyển Kinh Vô Tự hay còn gọi là Bạch Ngọc Kinh (xin xem bài Bạch Ngọc Kinh). Khi đạt được Quyển Bí Kíp này thì chúng ta sẽ được Trường Xuân, được khoái lạc, được vạn sự như ý!!!
"Cung Như ý Lão Quân tiếp khách,
Hội Thánh Minh giao sách trường xuân.
Thanh quang rỡ rỡ đời ngàn,
Chơn thần khoái lạc lên đàng vọng thiên!"
(Kinh Tam Bửu)
* Phi Thường Huệ Kiếm:
Khi đạt được "Phi Thường Huệ Kiếm" thì chúng ta nhập vào "Bát Quái Đồ Trận" một cách dễ dàng không bị điều gì cản trở!!! Hay nói cách khác hơn là khi chúng ta nhập vào cuộc sống (Bát Quái) thì không bị Trần Cảnh lôi kéo ràng buộc!!! Đạo Thiền gọi là "Thông tay vào chợ"!!! Đây cũng là ý nghĩa "Cây Kiêm đâm ngang Bát Quái Đồ" trên lưng con Long Mã vậy!!!
Phi thường Huệ Kiếm mau cầm lấy!!!
Vào cửa "không môn", đón Phật Đà!!!
(Kệ Thiền)
MAHA THỦY
Kinh Giải Oan:
Cứ noi bóng CHÍ LINH soi bước,
Gội mê đồ tắm nước Ma Ha.
Liên đài nay nở thêm hoa,
Lão Đam cũng biết, Thích Già cũng quen!!!
\
Quí Cao hữu!
Muốn làm bạn với Thích Ca, muốn chơi thân với Lão Tử thì Quí Cao hữu phải gội mê đồ của Quí bạn, hay nói cách khác là Quí bạn phải tắm nước maha!!! Maha Thủy có phải là nước giếng không? Là nước suối? Là sữa tươi? Phải biết rõ Maha Thủy để mà tắm gội chớ!!! Coi chừng chúng ta "Ở dơ" vì không biết Nước Maha ở đâu mà múc tắm!!! Chúng tôi sẽ xin giới thiệu cho Quí bạn một "Cái giếng mạch" chứa đầy Maha Thủy!!! Còn vấn đề có chịu múc nước tắm gội hay không là việc riêng của Quí bạn, không có ai ép buộc bạn được!!!
* Maha Thủy: Xin xem lại các bài Tắm Thánh, Tu Thánh Chất, Năng chiếu Diệu Quang... Cái giếng chứa đầy Maha Thủy đó chính là "Đạo Cao Đài"!!! Maha Thủy đó là Thánh Ngôn, Thánh Giáo, Kinh Tứ Thời... Maha Thủy tràn đầy miệng giếng mặc sức chúng ta tắm gội!!! Cho nên, mới có nói:
Cứ noi bóng CHÍ LINH soi bước,
Có chịu noi bóng (tắm gội) hay không là quyền riêng của chúng ta:
"Dầu chẳng phải mực thiên điều!
Cũng quyền tự chủ dắt dìu thiên lương!
Chúng ta rất may được gặp được Đạo Trời, được Đại Từ Phụ chan rưới Maha Thủy cho chúng ta để rửa sạch tiền khiên, rửa sạch mê đồ, rửa sạch oan trái!!!
"May đặng gặp Hồng Ân chan rưới,
Giải trái oan sạch tội tiền khiên!!!"
Thế mà chúng ta không chịu lo tắm gội, mà cứ lo:
Phong trần quen thú cung âm!
Cho nên:
Cảnh thăng ngơ ngẩn! Lạc lầm phong đô!!!
Và:
Thiên Cung lỡ lối, chơi vơi cõi trần!!!
Quí Cao hữu!
Chúng ta đã trải qua vô số kiếp nhiễm trần, cho nên chúng ta phải tắm gội Maha Thủy thường xuyên mới sạch được. Vì vậy mà Kinh Di Lặc có dạy: "Năng chiếu Diệu Quang" (Năng tắm gội Maha Thủy) thì mới: "Tiêu trừ nghiệt chướng" được!!!
Quí Cao hữu!
Bây giờ chúng ta nên hiểu thêm Maha Thủy một cách gọn nhẹ trở lại để chúng ta dễ nhớ: Maha Thủy là Thánh Chất "HỈ XÃ" của chúng ta. Nói đảo lại, Hỉ Xã chính là Maha Thủy!!! Chúng ta tu Tâm, luyện Tâm, dạy Tâm thế nào cho cái Tâm của chúng ta đạt được hỉ xã trọn vẹn thì chúng ta mới có hy vọng giải thoát!!! Tuy nhiên, muốn đạt được hỉ xã không phải là một việc dễ dàng!!! Cho nên trước khi tắm nước "Maha" thì chúng ta phải tắm nước "Đại Bồ Tát"!!!
* Đại Bồ Tát Thủy: Đại Bồ Tát Thủy chính là Thánh Chất "TỪ BI" của chúng ta. Cái Tâm của chúng ta phải đạt được Từ Bi thì mới mong tiến tới Hỉ Xã!!! Thí dụ cho dễ hiểu "Đứa cháu nội đích tôn của chúng ta trong khi chơi giỡn, lỡ làm rớt bể cái "bình cổ đời Khang Vi" của chúng ta. Chúng ta chẳng những không giận hờn rầy la mà còn nói: Không sao đâu cháu, để Nội mua bình khác!!! Sở dĩ chúng ta hỉ xã tha thứ dễ dàng như vậy là vì chúng ta có sự thương yêu thật sự!!! Phải chi chúng ta thương yêu mọi người, thương yêu tất cả chúng sanh chơn thành y như thương yêu đứa cháu nội đích tôn của chúng ta vậy, thì vấn đề hỉ xã và tha thứ hóa ra rất dễ dàng!!! Tuy nhiên, muốn đạt được sự thương yêu thật sự thì cũng không phải là một việc dễ dàng!!! Như vậy, chúng ta phải làm sao đây để tắm nước TỪ BI (Đại Bồ Tát Thủy)?
* Giác Ngộ Thủy: Muốn đạt được sự thương yêu thật sự thì chúng ta phải có sự Giác Ngộ!!! Giác cái gì? Ngộ điều chi?
Chúng ta phải thấy biết 3 điều chánh yếu sau đây mới được gọi là Giác Ngộ:
1- Thấy biết được Vạn Pháp đều vô thường, huyễn hóa, phiền não và nghiệt chướng!!! Hay nói cách khác là mọi sự, mọi vật cuối cùng đều trở về con số KHÔNG!!! Đời chỉ là Giấc mộng!!! Rốt cuộc cũng hoàn KHÔNG mà!!!
2- Thấy biết được cuộc sống chính là Biển Trần Khổ vơi vơi Trời Nước!!! Thấy biết được nguyên nhân của sự KHỔ chính là lục dục và thất tình!!!
3- Cái Thấy biết thứ ba này rất là quan trọng!!! Nếu thiếu điều này thì không thể gọi là Giác Ngộ được!!! Đó là cái thấy biết: Mỗi người chúng ta đều có một thiên đàng riêng, một Cực Lạc Quốc riêng, một Thiên Thai Động riêng, một Ngọc Hư Cung riêng, một Tịnh Thất riêng, một căn nhà cõi thiêng riêng, một cơ thoát tục riêng... đó chính là cái BỔN LAI DIỆN MỤC, là Phật Tánh, là Điểm Linh Quang, là Chơn Linh, là Lương Tâm của mình!!! Có thể nói cái điều Giác Ngộ thứ ba này là "Đại Giác Ngộ"!!!
Tổng tóm lại, chúng ta trước hết phải có Giác Ngộ thật sự. Có Giác Ngộ thật sự thì chúng ta mới có Từ Bi thật sự. Có Từ Bi thật sự thì chúng ta mới có Hỉ Xã thật sự. Có Hỉ Xã thật sự thì chúng ta mới có Giải Thoát thật sự!!!
Để kết luận:
Tâm kệ:
Thương yêu là công quả!
Thanh tịnh là công phu!
Công nào cũng được cả!
Miễn lòng mình hỉ xã!!!
Nam Mô: CĐTÔ
Đại Bồ Tát
Mahatát
Đại Giác Ngộ
Đại Từ Bi
Đại Hỉ Xã
Giác Ngộ Thủy
Đại Bồ Tát Thủy
Mahatát Thủy
Chú thích: Lúc lâm chung, ai biết Niệm Danh Thầy thì sẽ được về cùng Thầy!!! Hay nói cách khác: DANH THẦY chính là Pháp Giải Thoát, là cơ thoát tục, là Phép Cân Đẩu Vân để về cõi An Lạc, Niết Bàn vậy!!!
CON HẠC VÀ CON QUI
Kinh Tế Cha Mẹ:
Thà cam vui chốn động Đào!
Đừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian!
Nuốt tiếng than đôi hàng lã chã!
Tưởng đến điều nhân quả mà đau!
Xem thân tuổi hạc càng cao,
E ra tử biệt, Thiên Tào định phân!
\
Quí Cao hữu!
Ở trong các Chùa Phật thường có chưng trên bàn thờ một cặp: Con Hạc đứng trên lưng Con Qui!!! Bây giờ Đạo Cao Đài cũng có nữa!!! Như vậy hiện tượng đó có ý nghĩa gì?
Cái ông tác giả đầu tiên của cái hiện tượng đó muốn gởi gấm một thông điệp cho hậu sinh chúng ta. Cái hiện tượng con hạc đứng trên lưng con qui là Thể pháp, còn cái thông điệp chứa đựng trong đó là cái Bí pháp!!! Lâu dần về sau, hậu sinh không còn hiểu được cái thông điệp đó nữa, cho nên họ mới sáng tác ra một sự tích để giải thích cái hiện tượng đó, một cái hiện tượng mà rất nhiều người thắc mắc muốn tìm hiểu!!! Nên nhớ sự tích (chỉ là một sáng tác chớ không có thật) có sau hiện tượng chớ không phải có trước hiện tượng!!! Sự tích cho rằng Đức Phật Thích Ca cấm con Hạc vào nghe Phật giảng Kinh, con Hạc thấy con Qui bò vào chỗ Phật giảng Kinh, nên con Hạc nảy ra một sáng kiến là đứng trên lưng con Qui để vào nghe giảng Kinh mà Phật không thể bắt bẻ nó được. Nếu bị Phật rầy nó sẽ "bán cái" cho con Qui, tại con Qui bò vào chớ nó đâu có đi vào!!!
Quí Cao hữu!
Con hạc, con qui làm gì mà nghe giảng Kinh được, ngay cả con người đây mà còn chưa hiểu nổi lời Phật thuyết, huống chi là những con vật bé nhỏ kia!!! Sự tích thật là vô lý!!! Nhưng ở đây chúng ta không bàn đến sự tích có vô lý hay không mà chỉ bàn đến cái "Thông điệp" của Tác giả hiện tượng đầu tiên mà thôi!
Quí Cao hữu!
Con qui tượng trưng cho cái thể xác của chúng ta, tượng trưng cho TINH trong Tam Bửu!!! Còn con hạc tượng trưng cho Chơn Thần của chúng ta, tượng trưng cho cái Tâm của chúng ta, tượng trưng cho KHÍ trong Tam Bửu!!! Như vậy hiện tượng Qui Hạc tượng trưng cho TINH KHÍ của chúng ta! Chúng ta chỉ có tinh khí mà thiếu THẦN, không đủ Tam Bửu. Cho nên Đức Thượng Đế mở Đạo kỳ ba này để ban THẦN (Phong Thần) cho chúng ta hiệp cùng Tinh Khí mà đắc Đạo! Trong Đạo Cao Đài, con hạc còn ngậm một đóa hoa Sen để trên đầu của nó nữa, mà hoa Sen tượng trưng cho THẦN trong Tam Bửu!!! Tóm lại, cái hiện tượng Qui, Hạc và Hoa Sen tượng trưng cho Tam Bửu Tinh Khí Thần của chúng ta!!! Tương trưng Tinh Khí Thần để làm chi vậy? Xin Quí Cao Đạo hữu đọc bài kệ sau đây:
"Một ngày thỏn mỏn, một ngày qua!!!
Tinh Khí hao mòn, Tiên Phật xa!!!
Phải nhớ gom gìn Tam Bửu lại!!!
Mới mong thành Phật, khỏi thành Ma!!!
NĂM CÂY HƯƠNG
Tâm kệ:
Không bất bình thế sự!
Không bàn chuyện thị phi!
Không động Tâm ưa ghét!
Trang nghiêm thanh tịnh!
An lạc thái bình!!!
\
Quí Cao hữu!
Cái lư hương để trước thiên bàn có cặm 5 cây nhang trước khi cúng thời. Năm cây nhang này tượng trưng dạy Đạo điều chi? Có rất nhiều lối giải thích, lối nào cũng được miễn sao thích hợp với Tâm thức của mình là xong!!! Chúng tôi xin giới thiệu một số cách giải thích, tùy theo Quí bạn chọn, miễn sao có ích lợi thiết thực trong việc tu tập của Quí bạn là được!!! Sau đây là sơ đồ thứ tự của 5 cây nhang:
* Cách giải thích thứ nhứt:
Là Giới hương.
? Là Định Hương.
? Là Huệ hương.
? Là Giải Thoát hương.
? Là Giải thoát tri kiến hương.
Đây là cách giải thích để nhắc nhở chúng ta nhớ pháp tu: Giới Định Huệ.
* Cách giải thích thứ nhì:
Cách giải thích này cho rằng 5 cây Hương tượng trưng cho ngũ khí của chúng ta: Kim Mộc Thủy Thổ Hỏa (Khí), tức là: Can Tâm Tỳ Phế Thận!!! Cách giải thích này nhắc nhở chúng ta nên nhớ giữ gìn tinh ba của mình, đó là nền tảng của sự tu tập!!! Năm sắc hoa tươi xinh kỉnh lễ mà!!! Ngũ khí triều nguyên, tam hoa tụ đảnh mà!!!
* Cách giải thích thứ ba:
Đây là cách giải thích "Mới nhất" mà chúng tôi muốn giới thiệu với Quí bạn vì nó rất có ích lợi một cách thiết thực.
Là không bất bình thế sự!
? Là không bàn chuyện thị phi!
? Là không động Tâm ưa ghét!
? Là trang nghiêm thanh tịnh!
? Là an lạc thái bình!!!
Cứ mỗi lầm cặm một cây hương là Quí bạn nhớ Tâm niệm một câu như vậy. Cặm 5 cây thì niệm 5 câu!!! Mỗi ngày cứ ý thì niệm, còn Tâm thì hành theo, chắc chắn một ngày nào đó Quí bạn sẽ đạt được kết quả!!!
Lúc đó người ta sẽ không còn phê bình bạn là một ông "Đạo Cặm" nữa!!! (Làm biến Cúng Thời, chỉ lo cặm nhang mỗi buổi thôi).
Quí Cao hữu!
Tâm lý chung là nếu chúng ta cứ mãi "ăn bún bì" thì sẽ sanh ra chán!!! Quí bạn có thể thay đổi "Món ăn", chẳng hạn Quí bạn có thể đổ "Bánh xèo" mà ăn!!!
Sau đây là thí dụ "Bánh xèo".
Là tất cả đều là ơn.
? Là không một chút oán hờn.
? Là luôn luôn ta tự tại.
? Là chẳng điều gì quái ngại.
? Là thoát trần ta bước siêu nhiên!
Tâm không dính cảnh, là Tiên trên đời!!!
Nam Mô: Cao Đài Tiên Ông, Đại Bồ Tát, Mahatát!
CHƠN PHÁP VÀ TÂM PHÁP
Khai Kinh Di Lặc:
Vô thượng, thậm thâm, vi diệu PHÁP,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
\
Quí Cao hữu!
Phần đông các Cao Đạo hữu đi tìm kiếm và muốn ngộ được Chơn Pháp hoặc là Tâm Pháp. Đức Phật Thích Ca và các Vị Tổ Sư thừa kế cũng chỉ truyền lại cho hậu sinh cái Chơn Pháp này mà thôi!!! Cái việc truyền Chơn Pháp này trong Kinh Pháp Hoa gọi là KHAI THỊ NGỘ NHẬP Phật Tri Kiến!!!
Quí bạn muốn đi lượm Kim Cương thì trước hết Quí bạn phải biết rõ Kim Cương, nếu không thì Quí bạn chỉ lượm nhầm đá cuội, đá xanh... mà thôi!!! Việc tìm kiếm Chơn Pháp cũng như vậy, cho nên trước hết chúng ta phải hiểu rõ một số ngôn từ:
* PHÁP: Xin xem bài Đạo và Pháp. Pháp là năng lực vô đối tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ. Mọi vật đều do Pháp sinh ra, gọi chung là Vạn Pháp. Cây viết, cây kiểng, cái bình, lời nói... đều được gọi là Pháp!!!
* CHƠN PHÁP: Cái gì cũng gọi là Pháp cả. Trong các Pháp đó (Vạn Pháp) thì cái nào được gọi là Chơn Pháp? Cây bút chì chăng? Không phải!!! Vì cây bút chì là vô thường huyễn hóa, nay còn mai mất thì không thể gọi cây bút chì là Chơn Pháp được mà chỉ gọi Nó là Giả Pháp mà thôi!!! Cái nhà lầu cao tầng là Chơn Pháp chăng? Cũng không phải!!! Vì cái nhà lầu cũng chỉ là Giả Pháp như cây bút chì thôi!!! Khó thật!!! Vạn Pháp đều vô thường huyễn hóa, nay còn mai mất, thì làm sao biết được cái nào là Chơn Pháp??? Quí bạn đừng vội bi quan!!! Chúng tôi sẽ giới thiệu cho Quí bạn một cái PHÁP: không vô thường, không huyễn hóa, cũng không nay còn mai mất!!! Cái PHÁP này trường tồn vĩnh cửu mà lại vô thường, thậm thâm và vi diệu nữa!!! Đó chính là cái BỔN LAI DIỆN MỤC của Quí bạn đó!!! Cái Bổn Lai Diện Mục còn gọi là Bổn Tánh, là Phật Tánh, là Lương Tâm, là Điểm Linh Quang, là Chơn Linh, là Chơn Tâm... chính cái Bổn Lai Diện Mục này là cái CHƠN PHÁP mà Quí Cao Đạo hữu đi tìm kiếm đấy!!!
Từ xưa Đức Thích Ca ra đời cũng chỉ có một mục đích duy nhất là KHAI THỊ cho chúng ta thấy được cái Chơn Pháp này để chúng ta NGỘ NHẬP vào trong đó! Thường Trụ Ngươn Thần thì mọi đường bặt mà!!! (Ngươn Thần = Chơn Pháp).
Trụ nguyên Tánh hồn linh nhàn lạc!
Cõi Đào Nguyên cỡi Hạc thừa Long!
(Kinh Phụ Tế)
(Nguyên Tánh = Chơn Pháp)
Quí Cao hữu đã thấy rõ CHƠN PHÁP chính là cái BỔN LAI DIỆN MỤC của chính mình!!! Như vậy thì chúng ta hãy NGỘ NHẬP vào cái Bổn Lai Diện Mục (Chơn Pháp) của chính mình mà ở yên tu luyện, chớ đừng tầm kiếm cái Chơn Pháp bên ngoài nào nữa cho uổng công!!!
* TÂM PHÁP theo định nghĩa thứ nhứt:
Tâm Pháp là phương pháp luyện Tâm thật là đơn giản!!! Đó là pháp môn TỰ KỶ ÁM THỊ kèm theo ĐỨC TIN và Ý CHÍ!!! Tâm Pháp này cũng còn được gọi là Thiền Pháp nữa!!! Phương tiện của pháp môn này là Tâm Kinh, Tâm Chú,, Chánh Niệm...
Xin quí bạn đọc kỹ lại các bài đã viết, ở đây xin miễn lập lại.
* TÂM PHÁP theo nghĩa thứ nhì:
Chữ Tâm ở đây có nghĩa là Chơn Tâm, là Lương Tâm, là cái Bổn Lai Diện Mục của mỗi người. Chính cái CHƠN TÂM này là cái CHƠN PHÁP đã nói ở trên!!!
"Chơn Tâm chính là Chơn Pháp!
Chơn Pháp chính là Chơn Tâm!"
Gọi chung lại là TÂM PHÁP!!!
Như vậy thì hai chữ Tâm Pháp cũng là một cái tên gọi khác nữa của cái Bổn Lai Diện Mục mà thôi!!!
Bổn Lai Diện Mục chính là Tâm Pháp!
Tâm Pháp chính là Bổn Lai Diện Mục!
Tổng tóm lại,
Cái CHƠN PHÁP hay là cái TÂM PHÁP mà các Cao Đạo hữu chạy khắp đông tây bỏ ra nhiều công phu tìm kiếm, chẳng qua chỉ là BỔN LAI DIỆN MỤC của chính mình mà thôi!!! Chúng ta hãy hội nhập vào cái TỊNH THẤT Bổn Lai Diện Mục của chính mình mà ở yên tu luyện, đừng xao động nữa!!!
PHẬT MẪU ĐƯỜNG – 3 TIẾNG CHUÔNG
Tâm kệ:
Vạn hữu Tương đều phải vô thường!
Dù cho ngay tại Hộ Pháp Đường!
Ngà voi Mão quí cũng phải mất!
MẸ giáng dạy hai chữ: PHI THƯỜNG!
Kinh Phật Mẫu:
Ngồi trông con đặng phi thường!
Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh!
\
Quí Cao hữu!
Trong nội ô Tòa Thánh có Chí Tôn Đường (Tòa Thánh), Giáo Tông Đường, Đầu Sư Đường (kể cả Nữ Đầu Sư Đường cũng có nữa) và Hộ Pháp Đường!!! Thế mà tại sao lại không có Phật Mẫu Đường? Tại sao lại mượn Tòa Báo Ân Từ để thờ cúng Đức Phật Mẫu???
Lúc trước, vào cái thời tạo tác cơ ngơi của Đạo Cao Đài có đầy đủ phương tiện, nào là đất đai có sẵn, nào là các mạnh thường quân, nào là công thợ làm công quả dồi dào... Lúc đó xây dựng bao nhiêu cái Phật Mẫu Đường cũng có thể được hết!!! Thế thì Đức Hộ Pháp tại sao không chịu xây dựng Ngôi Phật Mẫu Đường??? Chắc cũng có lý do! Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu lý do đó xem sao!!!
* Phật Mẫu: Tượng trưng cho cái Chơn Thần, tượng trưng cho cái Đệ Nhị xác thân, Do vậy mà Phật Mẫu Đường chính là cái Tâm của chúng ta, là cái đệ nhị xác thân của chúng ta!!! Trên nóc Báo Ân Từ có Tượng Đức Phật Mẫu cỡi con chim Loan, cho nên con chim Loan cũng tượng trưng cho Chơn Thần của chúng ta nữa!!!
Con Quỉ = Đệ I thể = Thể xác = Tinh.
Con Loan = Đệ II thể = Phật Mẫu = Khí.
Con Rồng = Đệ III thể = Chí Tôn = Thần.
Quí Cao hữu!
Sở dĩ ngày trước, Đức Hộ Pháp không cho xây Phật Mẫu Đường (Điện thờ Phật Mẫu) là để cho chúng ta mỗi người tự xây lấy cái "Phật Mẫu Đường" của chính mình!!! Hay nói cách khác là Đức Hộ Pháp để cho chúng ta tu tạo Đệ II xác thân, tu tạo cái "Tòa Sen báu vật" của riêng mình hầu có phương tiện trở về Ngôi Xưa mà hội hiệp cùng Thầy!!!
Tòa Sen báu vật xin đưa!
Chơn Linh an ngự cho vừa quả duyên!!!
(Kinh đưa Linh Cửu)
Như vậy thì chúng ta không nên chờ đợi, mong cầu một cái Phật Mẫu Đường được xây dựng bằng Ciment gạch ngói hữu vi nữa!!! Mà hãy ngay liền bây giờ quay trở vào bên trong mà lo xây dựng cái Tâm của chúng ta cho trở thành cái "Phật Mẫu Đường" tức là trở thành cái "Tòa Sen báu vật" hầu có phương tiện trở về hội hiệp cùng Thầy!!!
Khi chúng ta tu hành đạt được "Tòa Sen báu vật", đạt được "Phật Mẫu Đường", đạt được "Đệ II xác thân" thì chúng ta mới có thể Báo được Ân của Ông Bà Cha Mẹ trong Tông đường (về mặt hữu hình) và mới có thể Báo được Ân của Chí Tôn, Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng Thần Thánh Tiên Phật nữa!!!
Đây là lý do tại sao thờ cúng Phật Mẫu tại Báo Ân Từ!!! Nói cách khác, nếu chúng ta muốn Báo Ân Đức Chí Tôn Phật Mẫu và Ông Bà Cha Mẹ thì chúng ta phải tự mình xây dựng cho được một cái "Phật Mẫu Đường" chớ không có ai xây dựng giùm cho mình được đâu!
Tại sao Phật Mẫu Đường (Báo Ân Từ) lại được xây dựng cận kề với Hộ Pháp Đường? Còn Chí Tôn Đường lại xây dựng lẻ loi ở đằng kia?
Hộ Pháp Đường = Thể xác = Tinh
Phật Mẫu Đường = Chơn Thần = Khí
Chí Tôn Đường = Chơn Linh = Thần
Tinh Khí tượng trưng cho Thể xác và Chơn thần, luôn luôn phải đi chung với nhau, nếu Chơn thần đi rời Thể xác thì chúng ta phải chết!!! Còn THẦN là Chơn Linh của chúng ta. "Nó" đứng ở ngoài "Tinh Khí" (Thân Tâm) mà vẫn liên lạc điều khiển Tinh Khí. Tóm lại, Tinh Khí không thể tách rời nhau được, hay nói cách khác là Hộ Pháp Đường phải được xây dựng kề bên Phật Mẫu Đường vậy!
* Ba tiếng chuông nhập đàn cúng: Hai tiếng chuông đầu nhặt lại là tượng trưng cho Tinh Khí. Tiếng thứ ba thưa tượng trưng THẦN. Điều này nhắc chúng ta nhớ giữ gìn Tam Bửu vậy!
CHỨNG NGỘ
Quí Cao hữu!
NGÀY XƯA Đức Thích Ca nhìn thấy Ngôi Sao Mai mọc mà được chứng ngộ!!! Thiền Sư Linh Vân nhìn thấy Hoa Đào nở mà được chứng ngộ!!! Cư sĩ Trương Cửu Thành đang đêm nghe tiếng ếch kêu mà được chứng ngộ!!!
NGÀY NAY S.H. nghe tiếng kêu của con tắc kè mà được chứng ngộ!!!
* Chứng ngộ ca:
Đang đọc kinh, nghe tiếng tắc kè!
Tâm liền bừng sáng!!! Khỏe khòe re!!!
Bao năm quyết chí tìm Thiền Lý!
Giờ thấy nó rồi!!! Khỏe khòe re!!!
* Công án tu tập thiền:
S. H. chân thành giới thiệu cho Quí Cao hữu nào hữu duyên, 5 công án Thiền để tu tập.
1. Con bọ hung!!!
2. Chiêu Quân Cống Hồ!!!
3. Tiêu diện Bồ Tát!!!
4. Con tắc kè!!!
5. Đàn không dây... khải khúc VÔ SANH.
S. H. cũng xin giới thiệu 3 bài thài cho Quí Cao hữu có thiện căn Tâm niệm hằng ngày.
* Bài thài cho Đệ I thể (Thể xác):
Một kiếp phù sinh qua rất mau!!!
Chỉ toàn nghiệp chướng với thương đau!!!
Sao chưa tỉnh thức lo tu sửa!
Mà cứ trầm luân mãi biển sâu!!!
* Bài thài cho Đệ II thể (Chơn Thần):
Lầm lủi mà đi tới Cửa Thiền!
Chí thành thanh tịnh hưởng Ân Thiên!
Công phu, công quả cho đầy đủ!
Chẳng gặp Phật Đà, cũng gặp Tiên!!!
* Bài thài cho Đệ III thể (Chơn Linh):
Địa Ngục A Tỳ đã trải qua!!!
Bây giờ Thiên Cảnh phải là nhà!!!
Phi thường Huệ Kiếm mau cầm lấy!!!
Vào cửa không môn, đón Phật Đà!!!
Tâm kệ:
Trùng trùng duyên khởi!!!
Trùng trùng duyên khởi!!!
Vui đầy đủ!!!
Buồn đầy đủ!!!
Gió thổi mây bay!!!
Hết đêm tới ngày!!!
CON BỌ HUNG
Kinh Phật Mẫu:
Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm!
Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu!
Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,
Cũng vì tà mị dẫn đường con thương.
Đỉnh chung là miếng treo gương,
Khiến nên trẻ dại lạc đường quên Ngôi!
Kinh Giải Oan:
Phong trần quen thú cung âm,
Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm phong đô!!!
\
Quí Cao hữu!
Con bọ hung tượng trưng cho sự đam mê của chúng ta dù là đam mê thanh hay trược!!! Tất cả chúng ta đều là những con bọ hung!!! (Xin lỗi!!! Hãy bình tĩnh đọc tiếp). Tuy nhiên, bọ hung có nhiều loại: Bọ hung cánh đen, bọ hung cánh xanh, bọ hung cánh vàng, cánh trắng...
Một điều quan trọng nhất cho người tu là phải thấy được Con bọ hung của chính mình, chớ đừng nhìn Con bọ hung của người khác!!! Và chúng ta trước hết phải loại bỏ các Con bọ hung cánh đen nặng trược và sau đó chúng ta dẹp bớt các Con bọ hung khác cho đến khi chúng ta không còn một con bọ hung nào nữa!!! Thế là chúng ta đã đạt được Nhơn dục tịnh tân, Thiên Lý lưu hành rồi vậy!!!
CHIÊU QUÂN CỐNG HỒ
Kinh Sám Hối:
Sang giàu chẳng khác như mây!
Khi tan khi hiệp đổi xây không thường!!!
Kinh Hạ Huyệt:
Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn!
Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai!!!
\
Quí Cao hữu!
Chung quanh vách của Báo Ân Từ (Phật Mẫu Đường) có vẽ sự tích "Chiêu Quân Cống Hồ". Sự tích này được vẽ ngay ở tranh đầu tiên, kế bên đó là tranh "Công dã tràng".
Sự tích Chiêu Quân Cống Hồ thì ai cũng rõ, sự tích nêu lên tấm gương những anh thư trinh liệt!!! Ý nghĩa chỉ có bấy nhiêu thôi sao? Chắc phải có ý chỉ nào khác nữa!!! Chúng ta tìm hiểu xem sao!!!
* Chiêu Quân: Tượng trưng cho vật chất sắc tướng tạo ra khích động lòng dục của con người. Chiếc xe hơi cũng chính là " Chiêu Quân", cái nhà lầu, viên hồng ngọc, chiếc nhẫn vàng, bức tranh đẹp... tất cả những thứ đó đều được gọi là "Chiêu Quân" vì chúng nó có sức thu hút lòng dục vọng của con người!!! Bây giờ hai chữ "Chiêu Quân" đã trở thành một danh từ chung rồi, không còn là một danh từ riêng chỉ tên của một người con gái nữa!!! Như vậy hai chữ Chiêu Quân được dùng để chỉ tất cả các loại vật chất có sắc tướng hương thơm thu hút lòng người.
* Cống Hồ: Đem cống sứ cho nước Hồ. Nghĩa bóng là không còn nữa, là tiêu ra tro, là huyễn hóa, là vô thường!!!
* Chiêu Quân Cống Hồ: Sự tích này nêu lên cho chúng ta thấy được lẽ vô thường huyễn hóa của Vạn Pháp!!! Sự tích này khuyên chúng ta đừng đam mê vật chất, đừng chứa nhiều con bọ hung trong lòng!!! Càng chứa nhiều con bọ hung, càng ôm nhiều Chiêu Quân thì chúng ta càng phiền não, càng khổ sở mà thôi!!! Cuối cùng rồi Vạn Pháp cũng hoàn về không!!! Hay nói cách khác, đó chỉ là "Công dã tràng" mà thôi!!!
Tóm lại, sự tích Chiêu Quân Cống Hồ dạy chúng ta đừng ôm chặt các Giả Pháp huyễn hóa, mà nên đi tìm cái Chơn Pháp Vĩnh Cửu!!! Tìm được Chơn Pháp tức là thấy được cái Bổn Lai Diện Mục của chính mình vậy!!!
ÔNG TIÊU
Kinh Khai Cửu:
Ngó chi khổ hải sóng xao,
Đoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên!
\
Quí Cao hữu!
Thường thường ở các Chùa Phật có để một bộ mặt ra vẻ dữ dằn và một cái lưỡi le ra thật dài. Đó là tượng của Tiêu Diện Bồ Tát, gọi tắt là Ông Tiêu!!! Ông Tiêu le lưỡi ra thật dài để làm chi vậy? Để trừ ma ếm Quỉ? Hay là để hù dọa khách thập phương? Ma Quỉ và khách thập phương có sợ Ông Tiêu chăng?
Quí Cao hữu!
Thật ra cái lưỡi dài của Ông Tiêu là để tượng trưng cho sợi dây ràng buộc, cột trói cái Tâm của chúng ta!!! Chúng ta ai ai cũng bị cái lưỡi này ràng buộc hết! Chẳng những bị một cái lưỡi mà có rất nhiều cái lưỡi cột chặt chúng ta nữa!!! Thất tình lục dục là những cái lưỡi cột chặt chúng ta ở mãi trong cái thế giới ta bà đầy phiền não này!!! Cho nên Kinh Khai Cửu có dạy chúng ta nên đoạn tình và yểm dục thì mới được vào Cõi Thiên!!! Nói rộng ra thì cái lưỡi của Ông Tiêu cũng tượng trưng cho chiếc xe hơi, cái nhà tường, vàng bạc, ngọc ngà... Ôi, có biết bao nhiêu thứ của cải vật chất là có bấy nhiêu cái lưỡi của Ông Tiêu!!! Cho nên người tu hành lo chặt bỏ bớt những cái lưỡi của Ông Tiêu đi, chặt bỏ cho đến lúc không còn một cái lưỡi nào nữa thì mới có hy vọng giải thoát!!! Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đến các Chùa Phật bẻ hết cái lưỡi của mấy "ổng" đâu nhé!!!
Chặt bỏ cái lưỡi của Ông Tiêu đồng nghĩa với cắt dây oan nghiệt của chính mình:
Bảy dây oan nghiệt hết ràng!
Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương!
(Kinh Nhất Cửu)
Tóm lại, Tượng Ông Tiêu ở các Chùa Phật có ý dạy các Phật Tử rằng: Trước khi vào Chánh Điện lễ Phật thì các Phật Tử phải bỏ hết các hệ lụy trần tục đi, đừng có mang "cái lưỡi" lòng thòng bên mình!!!
Những cái lưỡi của Ông Tiêu chính là những sợi râu Rồng của Đạo Cao Đài!!!
(Xin xem bài Rồng có râu).
ĐÀN... KHÔNG DÂY
Kinh Phụ Tế:
Cửa Cực Lạc đón đường thẳng tới!
Tầm không môn đặng đợi Như Lai!
\
Quí Cao hữu!
Chúng tôi xin phép không giải mã công án con tắc kè, để Quí bạn tự nghiệm lấy. Bài này sẽ thảo luận công án: "Đàn không dây... khải khúc VÔ SANH"
* VÔ SANH: (Xin xem bài Vô Sanh Pháp).
Vô Sanh là không... sanh sự nữa, không tạo bể dâu nghiệp chướng nữa!!! Rộng hơn nữa Vô Sanh chính là Vô sở trụ!!! Khải khúc Vô Sanh là Trụ vào chỗ không Sở trụ!!! Trụ vào chỗ Vô Sở Trụ cũng đồng nghĩa với Tầm không môn!!!
Khải khúc
VÔ SANH
Sẽ gặp Như Lai
Trụ vào chỗ
Vô Sở Trụ
Sẽ gặp Như Lai
Tầm
Không môn
Sẽ gặp Như Lai
* Đàn không dây:
Khi đã quyết tâm không khải đàn (Vô Sanh) thì dù cây đàn có đầy đủ dây ở ngay trong tay, chúng ta cũng vẫn không khải!!! Tuy nhiên, để phòng xa thì chúng ta đừng gắn dây cho đàn để khi nào cái Tâm của chúng ta nổi hứng lên muốn đàn thì cũng không có dây mà đàn! Điều này muốn nói chúng ta nên dẹp bỏ cái nhân duyên từ trong trứng nước thì sẽ không còn nhân duyên nào làm cho chúng ta động loạn trở lại!!!
Tổng tóm lại, các công án giới thiệu:
* Con bọ hung: Chúng ta phải nhận diện cho rõ các đam mê của mình để mà đoạn tình yểm dục đặng vào Cõi Thiên!
* Chiêu Quân Cống Hồ: Chúng ta phải thấy rõ lẽ vô thường huyễn hóa của vạn pháp để không còn đam mê vật chất như con bọ hung nữa!!!
* Tiêu diện Bồ Tát: Chúng ta phải thấy rõ các con bọ hung và các Chiêu Quân chính là những sợi dây oan nghiệt buộc ràng chúng ta ở mãi trong cái cõi ta bà trọng trược này!!!
* Đàn không dây... khải khúc Vô Sanh: Chúng ta đã thấy rõ 3 công án trên thì chúng ta nên hạ quyết tâm dứt khoát không tạo bể dâu nghiệp chướng nữa!!! Hay nói cách khác là đi tìm KHÔNG MÔN mới gặp được NHƯ LAI.
PHÁP GIẢI THOÁT
Kinh Tứ Cửu:
Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng!
Bộ Lôi Công giải tán trược quang!
Cửa lầu Bát Quái chun ngang,
Hỏa Tinh Tam muội thiêu tàn oan gia!!!
\
Quí Cao hữu!
Có một số ít Quí Cao hữu bỏ Đạo Cao Đài Tây Ninh mà đi tìm sang các chi phái hoặc các môn phái khác!!! Đó là vì họ không thấy được BÍ PHÁP giải thoát!!! Chúng ta bị cái gì ràng buộc mà tìm Pháp giải thoát??? Tất cả chúng ta ai ai cũng bị thất tình lục dục bao vây kín mít! Do đó chúng ta phải tìm cách cắt đứt các sợi dây oan nghiệt đó, tiêu diệt các con bọ hung, thanh toán các nàng Chiêu Quân!!! Hay nói cách khác là chúng ta tìm cách trừ các Quái khí và giải tán các trược quang!!! Muốn hiểu rõ Bí pháp giải thoát, trước hết chúng ta nên tìm hiểu 4 câu Kinh Tứ Cửu nêu trên.
* Trừ Quái Khí: Quái Khí là tật xấu, là những con bọ hung!!!
* Roi Thần: Là cây Kim Tiên, là Trí huệ, là Bát Nhã của mình.
* Chớp nhoáng: Lấy cây Huệ Kiếm tức là cây Kim Tiên chặt đứt một cách mau lẹ các tật xấu của mình, đừng chần chờ do dự nữa! Tuy nhiên nhiều khi cây Huệ Kiếm không đủ sức chặt đứt cái Quái khí của mình! Thí dụ ai ai cũng biết hút thuốc lá là có hại (có sáng suốt) nhưng không bỏ thuốc được! Bỏ rồi lại hút! Hút rồi lại bỏ! Cứ như vậy mà luân hồi tới lui mãi thôi!!! Thế là chúng ta phải làm sao đây? Không lẽ chịu thua Quái khí à!!! Đừng lo!!! Chúng tôi sẽ giới thiệu cho Quí bạn một Bộ Lôi Công để hiệp sức với Roi Thần mà giải tán trược quang!!!
* Bộ Lôi Công:
Bộ Lôi Công gồm có 2 món: Đức tin và Ý chí. Hai món này chúng ta cũng phải kiên trì khổ luyện mới có, chớ không phải tự nhiên mà có!!!
Khi chúng ta luyện Bộ Lôi Công có đầy đủ công lực rồi thì Quái khí cũng như trược quang sẽ bị Roi Thần tiêu diệt một cách dễ dàng!!! Thí dụ: Chúng ta quyết tâm (ý chí) bỏ hút thuốc và dứt khoát tin tưởng dứt khoát là phải bỏ được (Đức tin) thì sớm muộn gì chúng ta cũng thành công!!!
* Bí pháp giải thoát:
Bí pháp giải thoát của Đạo Cao Đài gồm có Roi Thần và Bộ Lôi Công. Hay nói rõ hơn, Bí pháp cắt đứt dây oan nghiệt gồm 3 món:Trí huệ, Đức tin và Ý chí.
1. Trí huệ: Là cây Kim Tiên của Đức Hộ Pháp.
2. Đức tin: Là Long Tu Phiến của Đức Thượng Phẩm.
3. Ý chí: Là Thư Hùng Kiếm của Đức Thượng Sanh.
Tóm lại, Bí pháp cắt dây oan nghiệt là sự hợp nhất của 3 cái Bửu pháp: Cây Kim Tiên, Cây Long Tu Phiến và Cây Thư Hùng Kiếm!!! Bí pháp này được đặt trước mắt mọi người ở trong Tòa Thánh, ngay tại Thất đầu xà thuộc phạm vi Hiệp Thiên Đài!!!
* Cửa lầu Bát Quái chun ngang: Ở đây Bát Quái có nghĩa là cuộc sống. Cả câu Kinh này có nghĩa là Nhập vào cuộc sống (Nhập thế = Nhập trong Bát Quái). Nói rõ ra là chúng ta đi vào bên trong Chợ Long Hoa (Chợ Long Hoa có 8 cửa tượng trưng Bát Quái)
* Hỏa: là khí, là Thần, là cái Tâm.
* Tinh: Là tinh khiết, là trong sạch.
* Tam muội: Tiếng Phạn là Samadhi, là định, là tịnh!!!
* Tinh + tam muội: Thanh + Tịnh = Thanh Tịnh.
* Hỏa tinh tam muội = cái Tâm của chúng ta đã đạt được thanh tịnh, chơn thật!!!
* Oan gia: Ở trong cuộc sống (trong Chợ) có rất nhiều món làm cho cái Tâm của chúng ta phải si mê đọa lạc!!! Nhưng nếu cái Tâm của chúng ta đã đạt được thanh tịnh chơn thật thì các món oan gia đó đâu có làm hại chúng ta được. Điều này được diễn tả là "Thiêu tàn oan gia"!
Tổng tóm lại,
Nếu chúng ta tu luyện đạt được 3 Bửu pháp là Cây Kim Tiên (Trí huệ), Cây Long Tu Phiến (Đức tin) và Cây Thư Hùng Kiếm (Ý chí) thì chúng ta sẽ hiên ngang đi vào Chợ Long Hoa mà không sợ oan gia nghiệp chướng phá rối chúng ta nữa!!! Hay nói cách khác:
Cửa lầu Bát Quái chun ngang,
HỎA Tinh Tam muội thiêu tàn oan gia!!!
DÂNG HOA
Bài Thài Dâng Hoa:
Từ Bi giá ngự rạng môn thiền,
Đệ tử mừng nay hữu HUỆ duyên!
Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ,
Cúi mong Thượng Đế rưới Ân Thiên!
\
Quí Cao hữu!
Trong Đạo Cao Đài có 3 bài Thài để dâng Tam Bửu Tinh Khí Thần khi thiết Đàn cúng Đức Chí Tôn hoặc Đức Phật Mẫu.
Hoa tượng trưng cho Tinh.
Rượu tượng trưng cho Khí.
Trà tượng trưng cho Thần.
Trong bài viết này, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của bài Thài dâng HOA.
* Từ Bi: Là ngôn từ để chí Đức Đại Từ Phụ!!! Đức Từ Bi ngự giá đến chỗ nào thì chỗ đó được hưởng hào quang của Đức Từ Bi chiếu sáng rạng ngời!!! Đó là nghĩa gần! Sau đây là nghĩa sâu xa! Cái Tâm của chúng ta nếu chứa đầy lòng thương yêu, bác ái, từ bi thì sẽ được sáng suốt trí huệ!!! Nói rõ hơn, nếu chúng ta muốn được sáng suốt trí huệ thì chúng ta hãy thương yêu, hãy bác ái, hãy từ bi đi!!!
* Môn Thiền: Là Cửa Thiền, Cửa Chùa!!! Nơi nào thanh tịnh tu hành thì nơi đó được gọi là Cửa Thiền tức là môn Thiền. Thiền là pháp môn tu thanh tịnh, tu trí huệ. Đạo Cao Đài chính là Đạo Thiền!!! Vì tu theo Đạo Cao Đài thì chúng ta sẽ đạt được thanh tịnh và đạt được trí huệ!!! Đó là nghĩa gần! Sau đây là nghĩa sâu xa! Cái Thân Tâm của người tu chính là Cửa Thiền, là Môn Thiền!!! Cái Thân Tâm này nếu muốn được rạng ngời hào quang thì hãy thương yêu thật sự, hãy từ bi bác ái thật sự!!!
* Huệ duyên: Là duyên may được trí huệ, là cơ hội có được trí huệ! Gặp được Đạo Cao Đài là gặp được cơ hội đạt đến trí huệ. Đệ tử thật rất có duyên gặp được Đạo Trời!!! Đệ tử rất mừng vì Đạo Trời sẽ ban cho đệ tử sự sáng suốt trí huệ nếu đệ tử chí thành tu theo Đạo Trời. Có được cái thân làm người lại gặp được Đạo Trời, mà lại được ở ngay tại Thánh Địa Tây Ninh nữa thì còn gì hữu duyên bằng!!!
* Năm sắc hoa tươi: Khi thiết đàn cúng lễ Đức Chí Tôn hoặc Phật Mẫu thì chúng ta phải kiếm đủ 5 loại hoa thật tươi để dâng lên kỉnh lễ!!! Đây là nghĩa gần! Sau đây là nghĩa sâu xa! Năm sắc hoa tươi chính là ngũ tạng, là ngũ hành trong bản thể của chúng ta!!! Ngũ khí triều nguyên tam hoa tụ đảnh mà!!! Ngũ khí trong con người chúng ta phải được đầy đủ, phải được tươi nhuận, phải được mạnh mẽ!!! Đây mới đúng là 5 sắc hoa tươi để hiến lễ vậy!!! Mỗi người phải có 5 sắc hoa tươi đúng theo nghĩa này thì mới mong được Thượng Đế ban rưới Thiên Ân, tức là được ban cho trí huệ!!! Phương ngôn cũng có câu: Một tinh thần minh mẫn trong một thể xác tráng kiện!!! Tráng kiện chính là 5 sắc hoa tươi!!! Năm sắc hoa chỉ là Thể pháp tượng trưng, cho nên khi thiết lễ chúng ta cũng đừng cố chấp tìm kiếm cho đủ 5 loại hoa rồi mới cúng!!!
* Ân Thiên: Hay là Thiên Ân cũng vậy. Đó là cái ân Trời ban cho chúng ta. Mà Đức Thượng Đế ban cho chúng ta cái gì??? Quí Cao hữu muốn biết thì hãy đọc tiếp bài Thài Dâng Rượu.
Tóm lại, người tu phải biết giữ gìn sức khoẻ, tinh ba của mình vì nhờ đó mà chúng ta sẽ được trí huệ sáng suốt!!!
DÂNG RƯỢU
Bài Thài Dâng Rượu:
Thiên Ân Huệ chiếu giáng Thiền minh,
Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh.
Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,
Thoát tai bá tánh ngưỡng Ân Sinh.
\
Quí Cao hữu!
Thường ở cuối bài Thánh Ngôn có câu: Thầy ban ơn các con!!! Thầy thăng!!! Thầy ban cho chúng ta những cái gì???
* Thiên Ân: Là cái ơn Trời ban cho chúng ta. Trời sẽ không ban cho chúng ta những thứ của cải vật chất hữu hình hữu hoại đâu!!! Trời chỉ ban cho chúng ta một món quà tinh thần có giá trị vĩnh cửu đó là TRÍ HUỆ!!! Trí huệ là THẦN! Ban cho chúng ta trí huệ, tức là Phong Thần cho chúng ta vậy!!! (Phong = ban cho). Cho nên mới có câu: Phong THẦN đừng tưởng chuyện mơ hồ!!! Phong thần tức là ban cho Trí huệ, là một điều có thật, không phải chuyện giả dối mơ hồ!!! Đức Đại Từ Phụ đã từng nói: "Lập "Tam Kỳ Phổ Độ" này duy Thầy ban cho THẦN (Phong Thần) hiệp cùng TINH KHÍ để có đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh!!!" Do đó, Thầy ban ân huệ cho chúng ta là một điều có thật hoàn toàn!!! Ai có hưởng được ân huệ mới biết!!!
* Thiền Minh: Thiên ân chiếu HUỆ giáng xuống ban cho những người tu THIỀN, nhưng chỉ giáng cho THIỀN MINH chớ không giáng cho Thiền MÊ đâu!!! Tu mà còn mê đủ thứ thì không bao giờ được hưởng Thiên ân. Tức là không thể được hưởng ÂN HUỆ của Đức Thượng Đế ban cho!!! THIỀN MINH còn có nghĩa là tu HUỆ. Tu HUỆ thì sẽ được hưởng HUỆ là điều tự nhiên! Cũng như tu PHƯỚC thì sẽ được hưởng Phước vậy!!!
* Trường Xuân: Là vui hoài không dứt, khi một vị quân thần được Đức Vua ban cho một ly Ngự tửu thì rất vui mừng và rất vinh hạnh đưa cả 2 tay một cách thành kỉnh mà nâng ly ngự tửu lên uống!!! Đối với một vị Vua ở dưới phàm trần mà còn được như vậy, huống chi ở đây được ông VUA TRỜI ban cho một ly Tửu Quỳnh thì còn gì vinh hạnh bằng, còn gì vui mừng bằng mà không chịu thành kỉnh nâng hai tay lên để chước ly Tửu Quỳnh chớ!!!
* Tửu Quỳnh: Là một loại rượu rất quí chỉ dùng cho các yến tiệc mà thôi. Ở đây, nếu uống được Tửu Quỳnh thì sẽ được lạc và hứng cùng tột y như đã lạc vào động Đào Nguyên vậy, y như đã được thoát trần rồi vậy!!! Quí Cao Đạo hữu hãy tìm rượu này mà uống, uống được Tửu Quỳnh thì được thoát tai bá tánh ngay!!! Các Cao Đạo hữu nào đã có hưởng được Thiên Ân thì mới thấy được cái lạc hứng của Tửu Quỳnh!!! Vậy Tửu Quỳnh là gì? Ở đâu có?
Các Cao hữu đã từng biết có nhiều loại rượu như rượu củ mì, rượu gạo, rượu nếp, rượu nho, rượu sakê... Nhưng có một loại rượu khô, không có chút nước mà Quí Cao hữu chắc chắn chưa từng được nghe nói đến!!! Loại rượu không có nước này cũng vẫn làm cho người ta say sưa hấp dẫn!!! Đó là Rượu THƠ của Thi sĩ Hàn Mặc Tử!!! Đây là loại Rượu được nấu bằng THƠ, chớ không nấu bằng gạo, nếp... như các loại rượu thường thấy!!!
Ta không nhấp rượu,
Sao lòng ta say!!!
À! Té ra ta làm thi sĩ!!!
(Thơ Hàn Mặc Tử)
Đó! Rượu thơ đã làm cho Thi sĩ Hàn Mặc Tử say sưa như vậy đó!!!
Đặc biệt hơn nữa là còn có một loại rượu mà chắc chắn Quí Cao hữu cũng chưa từng được nghe nói đến!!! Đó là Rượu HUỆ!!! Đây là một loại Rượu được nấu bằng Huệ chớ không được nấu bằng các nguyên liệu hữu hình! Rượu Huệ này được gọi là Tửu Quỳnh!!!
Uống được Rượu Huệ tức là uống được Tửu Quỳnh thì được thoát tai bá tánh! Tửu Quỳnh tức là Rượu Huệ, chính là Thiên Ân mà Đức Thượng Đế ban cho chúng ta đó!!! Cho nên chúng ta cần phải thành kỉnh cúi đầu mà chước lấy Tửu Quỳnh một cách trường xuân!!! Ai đã có làm Thi sĩ thì mới thấy được cái "đã", cái "say sưa" của Thơ!!! Cũng như, ai có hưởng được Thiên Ân thì mới thấy được cái "đã", cái "say sưa" của Huệ!!!
* Chước Tửu Quỳnh: Châm là rót rượu ra ly. Chước là uống. Chước Tử Quỳnh là uống rượu Huệ!!! Uống Tử Quỳnh có nghĩa rộng là nhận được ân huệ của Đức Thượng Đế.
Mỗi lần nhận được ân huệ của Đức Thượng Đế là mỗi lần được an lạc, được nhẹ nhàng lâng lâng siêu thoát. Ở đây không nói nhiều vì ai có uống nước mới biết nóng lạnh mà thôi!!!
* Khấu Cung giai miễn lễ: Cái lễ nghi khấu bái cung kính được miễn hết, không còn chấp nữa khi chúng ta hưởng được Thiên Ân, uống được Tửu Quỳnh. Vì lúc đó chúng ta được lạc hứng cùng tột y như được vào Thiên Thai Động,y như đã thoát trần, y như đã đắc giải thoát! Đức Thượng Đế đã miễn lễ cho chúng ta khi Ngài ban Tửu Quỳnh cho chúng ta thì chỗ Khấu Cung khỏi đánh chuông cúi đầu!!! Chúng ta nên cúi đầu ở chỗ thành kỉnh để kính nhận ly Ngự tửu của Vua Trời!!!
* Thoát tai bá tánh: Thoát trần, không còn dục vọng phàm phu nữa khi chúng ta uống được Tửu Quỳnh, uống được rượu Huệ!!
* Ngưỡng ân sinh: Chỉ lo trở về Cội Nguồn để hiệp nhứt cùng Đấng Tạo Hóa!!! Chỉ còn lo "Vào Kinh Bạch Ngọc" mà "Lễ triều Chí Linh" thôi!!!
Tóm lại, muốn được giải thoát thì phải có Trí huệ. Muốn có Trí huệ tức là muốn hưởng được thiên ân thì phải tu Thiền MINH mới được!!! Mà muốn tu Thiền Minh thì cần phải giữ gìn sức, giữ gìn TINH ba mới được!!! Cũng có nghĩa là phải giữ gìn 5 sắc hoa cho tươi nhuận mới được!!!
DÂNG TRÀ
Bài Thài Dâng Trà:
Mai Xuân Nguyệt Cúc vị trà hương,
Kỉnh lễ thành Tâm hiến bửu tương.
Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước,
Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường!!!
\
Quí Cao hữu!
Hai bài dâng Hoa và dâng Rượu đã dạy cho chúng ta điều này: Muốn được giải thoát thì phải có Trí Huệ. Muốn có Trí Huệ thì phải tu Thiền Minh. Muốn tu Thiền Minh thì phải có đủ 5 sắc hoa tươi! Năm sắc hoa tươi chính là Ngũ Tạng của chúng ta! Ngũ tạng phải được đầy đủ, tươi nhuận và mạnh mẽ!!!
Còn bài dâng Trà này dạy chúng ta điều gì?
* Mai Xuân: Mùa Xuân thì có hoa Mai. Hoa Mai tượng trưng cho mùa xuân. Vào mùa xuân thì vạn vật hưng phấn, phát triển, tiến hóa. Đó là thời DƯƠNG sanh!!! Vậy mùa xuân tượng trưng cho khí DƯƠNG.
* Nguyệt Cúc: Mùa Thu thì có hoa Cúc, có trăng sáng. Trăng mùa thu thì trong sáng và đẹp nhất. Vào mùa thu thì vạn vật úa vàng và bắt đầu thu tàn!!! Đó là thời âm tụ!!! Vậy mùa thu tượng trưng cho khí ÂM.
* Vị Trà Hương: Quí Cao hữu đã từng uống trà. Vậy Quí bạn có biết loại trà uống ngon nhất không? Trà Sen? Trà Tàu? Trà Huế? Chúng tôi xin giới thiệu cho Quí bạn một loại Trà đặc biệt thơm ngon nhất thế giới!!! Bảo đảm ngon nhất vì loại Trà được dâng Cúng Đức Chí Tôn mới bữa mà!!! Đó là loại Trà có cái tên là Trà Mai Cúc!!! Trà này ướp bằng hoa Mai của mùa xuân và hoa Cúc của mùa Thu!!! Bảo đảm ngon tuyệt!!! Vì nếu Trà Mai Cúc không thơm ngon thì sao Quí bạn chọn Cúng dâng lên Đức Thượng Đế hàng ngày chớ!!!
* Bửu Tương: Là nước quý!!! Ở đây, nước quý là Nước Trà Mai Cúc vậy!!! Nước Trà Mai Cúc là một loại nước rất quý, là Bửu Tương mà chúng ta thành tâm Kỉnh lễ hiến dâng lên cho Đức Thượng Đế!!!
Nói thì nghe như vậy!!! Nhưng chắc chắn là Quí Cao hữu chưa được thỏa mãn trong lòng!!! Làm sao mà biết được Trà Mai Cúc ngon tuyệt??? Có ai đã uống được Nước Trà này chưa???
Chúng tôi xin nói rõ: Khí Âm và khí Dương trong bản thể con người nếu được hiệp nhứt lại thì chúng ta sẽ có được loại nước giếng thơm ngọt có tên gọi là Cam Lồ!!! Cam Lồ chính là Bửu Tương, là Nước Trà Mai Cúc vậy!!! Mai là Dương và Cúc là Âm!!!
Tóm lại, Mai Cúc là Âm Dương, còn Bửu Tương chính là Cam Lồ vậy!!! Nhưng làm thế nào cho Âm Dương trong bản thể được hiệp nhứt? Hay nói cách khác là làm thế nào cho có được Nước Cam Lồ?
Cam Lồ rưới giọt nhành dương,
Thất tình lục dục như dường tiêu tan!!!
(Kinh Tam Bửu)
* Ngưỡng Vọng Từ Bi: Luôn luôn hướng cái Tâm của chúng ta về sự thương yêu, luôn luôn tu tập cho cái Tâm được đại từ, đại bi, bao dung, quảng đại và hỉ xã!!! Đó chính là phương pháp làm cho Âm Dương trong bản thể được hiệp nhứt lại!!! Vì càng thương yêu thì càng được thoải mái thanh tịnh!!! Càng thanh tịnh thì Âm Dương càng được hiệp nhứt! Âm Dương càng hiệp nhứt thì càng được trí huệ! Càng được trí huệ chính là càng được hưởng Thiên Ân, tức là càng được Gia Tế Phước vậy! Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh và Cực Lạc Thế Giới mà!!!
* Khai minh: Khai mở Huệ Quang Khiếu, là được sáng suốt trí huệ!!! Chúng ta tu làm sao cho đạt được Trí huệ Bát Nhã!!! Lúc đó chúng ta sẽ nhờ trí huệ mà thoát ngộ được Chơn Lý, ngộ được Đạo!!! Có ngộ được Đạo, có nắm được Chơn Lý, có ôm được Thầy vào lòng thì chúng ta mới được thanh tịnh, an nhàn, tự do, tự tại, hay nói cách khác là chúng ta mới được thanh bường (thanh bình).
Đạo ® Chơn Lý ® THẦY ® Chơn Lý ® Đạo.
Quí Cao hữu!
Nếu chúng ta ôm được Thầy vào lòng thì ở bất cứ chỗ nào chúng ta cũng được an lạc thanh bình!!! Ở trên xe đò, ở quán nước, ở trong chợ... đâu đâu chúng ta cũng được "Thanh bường"!!!
Tổng tóm lại,
Bổn phận của người tu là phải giữ gìn sức khoẻ (dâng Hoa), lo tu Tâm, tu trí huệ, tu Thiên Đạo (dâng Rượu) và thực hiện sự thương yêu vô cùng tận (dâng Trà)!!! Điều đó rất thích hợp với Thánh Chất "Bảo Sanh và Đại Từ Bi" của Đại Từ Phụ nhất!!!
Thuận THIÊN thỉ giả tồn!!! Quí Cao Đạo hữu ạ!!!
NGŨ NGUYỆN:
Nam-Mô Nhứt nguyện:
Đại Đạo hoằng khai.
Nhì nguyện:
Phổ Độ chúng sanh.
Tam nguyện:
Xá tội đệ tử.
Tứ nguyện:
Thiên hạ thái bình.
Ngũ nguyện:
Thánh Thất an-ninh.
Quí Cao hữu!
Đã có nhiều người chịu tốn giấy mực và kể cả "nước bọt" để thảo luận về "Ngũ nguyện" rồi. Hôm nay chúng tôi cũng góp ý để cho đầy đủ hoa lá cành thì mới sum sê vạn tượng.
* Đại Đạo hoằng khai:
Chúng ta cầu nguyện cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đạo Trời được Hoằng khai khắp cả Thế giới cho tất cả chúng sanh không phân biệt chủng tộc thấy và biết Đạo Trời.
* Phổ Độ chúng sanh:
Chúng ta là những tín đồ của Đạo Trời tức là những cán bộ của Đức Thượng Đế phải có nhiệm vụ lo phổ độ tất cả chúng sanh trên toàn thế giới không phân biệt chủng tộc cũng không có ranh giới. Phổ độ là lo việc "Thuyết Pháp" lập ngôn (xin xem bài Phổ Tế).
* Xá tội Đệ Tử:
Đệ Tử là ai đây? Đây là điểm then chốt của Ngũ nguyện. Ai nguyện Đại Đạo hoằng khai? Ai nguyện Phổ Độ chúng sanh? Bây giờ ai đang xin xá tội đây? Quí bạn sẽ trả lời ngay: Chúng ta đây chớ ai!!!
Nhưng, chúng ta là ai mới được chớ! Xin xem lại bài Kho Tàng bí tạng Như Lai, Quí Cao hữu đã biết: Mỗi một người chúng ta đều có ba thể: Thể xác, Chơn Thần và Chơn Linh. Cái thể nào của chúng ta đang ngũ nguyện đây?
Đó là Chơn Linh, là Lương Tâm, là Điểm Linh Quang mà Đức Thượng Đế đã chiết ra từ khối Đại Linh Quang của Ngài. Linh Quang này tức là Lương Tâm phải có bổn phận mà Đức Thượng Đế đã giao cho.
"Ngoài việc theo dõi hai cái thể kia (Chơn Thần và Thể xác) để hộ trì, để dạy dỗ, để ghi chép tất cả các hành tàng mà dâng lên cho Tòa phán xét, cái Chơn Linh còn phải "tiếp tay" với Đại Từ Phụ hoằng khai Đại Đạo ra toàn cả Thế giới và Phổ Độ toàn thể chúng sanh". Quí Cao hữu đã thấy cái nhiệm vụ quá nặng nề của Chơn Linh chưa!!! Mà lãnh nhiệm vụ của Đại Từ Phụ đâu phải là công việc giỡn chơi!!! Cũng không phải là một nhiệm vụ dễ hoàn thành!!! Chơn Linh vừa phải lo việc riêng mà vừa phải lo việc chung nữa!!!
Tóm lại, ở đây, hai chữ Đệ Tử chính là Điểm Tiểu Linh Quang xin xá tội với Khối Đại Linh Quang, tức là xin xá tội với Đức Đại Từ Phụ!!!
* Thiên hạ thái bình:
Ở đây, hai chữ Thiên hạ không phải là nhơn loại, vì nhơn loại đã được đề cập đến ở nhì nguyện rồi!!! Ở tứ nguyện này Thiên hạ chính là chúng sanh ở trong bản thể của chúng ta, chớ không phải là nhơn loại ở bên ngoài!!! Hay nói cách khác hơn, Thiên hạ chính là cái thể xác, cái tiểu vũ trụ riêng của chúng ta!!! Thiên hạ này chính là 92 ức chúng sanh mê muội đang ở trong cái bản thể riêng (thể xác riêng) do chính Chơn Linh chúng ta cai quản!!! Ở đây cầu nguyện cho Thiên hạ thái bình là cầu nguyện cho cái thể xác (trong đó có Thiên hạ gồm 92 ức chúng sanh) được an lạc và thanh tịnh.
* Thánh Thất an ninh:
Nghĩa đen: Thánh Thất là một tòa nhà để các tín đồ đến tu tập cái Thánh Chất của mình. Nghĩa bóng: Thánh Thất chính là Đệ nhị thể, là Chơn Thần, là cái Tâm của chúng ta!!! (xem bài Kho Tàng bí tạng Như Lai). Ở đây, cầu nguyện cho Thánh Thất an ninh là cầu nguyện cho cái Tâm của chúng ta được vào Cực Lạc Quốc, được an lạc thanh bình!!!
Tóm lại, người đệ tử tụng ngũ nguyện chính là Chơn Linh của chúng ta:
- Nhứt nguyện và Nhì nguyện: Tiếp tay với Đại Từ Phụ lo Hoằng khai Đại Đạo và Phổ độ chúng sanh.
- Tứ nguyện và Ngũ nguyện: Nhiệm vụ riêng lo độ 2 cái thể kia: Thể xác và Chơn Thần (Tâm).
ĐẠO NGÔN
Quí Cao hữu!
Chúng tôi xin sưu tập một số Đạo Ngôn để cho Quí Cao Đạo hữu có thiện căn lo tụng niệm hàng ngày.
* Cuộc sống là một thực tại phải chấp nhận!!! Vì chúng ta không thể nào trốn tránh được!!! Cho nên chúng ta phải luôn luôn lạc quan, siêng năng hoạt động và biết tiết kiệm thì sẽ làm cho đời sống tốt đẹp hơn!!!
* Tham sân si là nguồn cội của tất cả mọi tội lỗi!!!
* Không một điều gì xảy đến cho một người nào mà không có nguyên nhân của nó!!!
* Nhân nào Quả nấy! Không cấy đừng trồng! Không gây đừng sợ!
* Chính ta tạo Thiên đường cho ta! Cũng chính ta tạo Địa ngục cho ta! Không đổ thừa cho ai được hết!!!
* Dẹp hết âm thanh sắc tướng là Đại Bố Thí! Bỏ hết mong cầu, dục vọng là Đại Tọa Thiền! Thần thông tự tại, sự sự vô ngại là Đại Giải Thoát!!!
* Tử thần không chờ ai mà cũng không ngán ai!
* Đã gieo nhân thì phải gặt quả!!!
* Chuông chùa giục đổ giữa đêm khuya! Gọi người trần thế mau lìa oan khiên!!!
* Tất cả đều phải chết!!! Cho nên, chúng ta nên sửa soạn hành trang cho cái chết!!! Chớ đừng ngồi đó mà... chờ chết!!!
* Đời chỉ là giấc mộng!!! Rốt cuộc cũng hoàn không!!!
* Đạo hư vô! Sư hư vô! Reo chuông thoát tục! Phất cờ tuyệt sinh!
* Lúc nào cũng có Chánh Niệm hiện tiền thì các ma tự lui!!! Năng chiếu Diệu Quang (Chánh Niệm) thì tiêu trừ được các nghiệp chướng!!!
* Nước nhành Dương! Tắm gội thường! Thấy Thiên Đường!
* Vô sự nơi Tâm! Vô Tâm nơi sự!
* Đi cũng Thiền! Ngồi cũng Thiền! Nói nín, động tịnh, thảy an nhiên!!!
* Vạn pháp vốn yên lặng! Tự người ồn náo!!!
* Tâm còn đối tượng là còn phiền não!!!
* Con cò trắng!!! Con quạ đen!!!
* Buồn vui sướng khổ của nhân sinh thì cũng chỉ có bấy nhiêu thôi!!! Thế mà chúng sanh cứ mãi đua chen, lặn lội để phải chịu cảnh luân hồi, chuyển kiếp mãi mãi!!! Thật là vô lý hết mức!!!
* Trùng trùng duyên khởi y như mộng! Hết mộng rồi thôi chẳng có gì!!!
* Dứt bặt mọi dấu vết! Tự tại ngoài sắc không!
* Tất cả chỗ đều không Tâm!!! (Không khởi Tâm mong cầu, mê chấp, ưa ghét..)
* Người nào luôn tưởng nhớ đến TA và tuyệt đối tin tưởng vào TA không lúc nào ngừng nghỉ thì người đó đến cùng TA rất dễ dàng!!! (TA: Đức Thượng Đế)
* Khi có sự tin tưởng tuyệt đối vững chắc thì Tâm Kinh (Tâm Chú) sẽ có hiệu quả thật quá sức nghĩ bàn!!!
* Nếu chưa thành Phật, Ta quyết không rời khỏi cội Bồ Đề!!! (Danh Thầy, Tâm Kinh).
* Đã nguyền siêu xuất về Cung Ngọc! Còn tiếc làm chi việc thế gian!!!
* Chúng sanh mê muội! Hơi đâu phiền não!!!
* Thấy được Bổn Tánh là Thiền! (Bổn Tánh Thánh Chủ). Vọng niệm chẳng sanh là Định! (Diệu Không Thiền Sư).
* NGỘ là thấy được Bổn Tánh, là ngộ được không!!! (Tôn Ngộ Không). ĐỐN là dứt bặt mọi dấu vết, tự tại ngoài sắc không (Tôn Hành Giả).
* Đạo cao thâm! Đạo cao thâm! Cao thâm, vạn sự tại Nhơn Tâm!!!
* Đắc Đạo cùng chăng là tại cái Tâm của các con muốn cùng chẳng muốn mà thôi!!!
* Đi đứng nằm ngồi đều chẳng khởi Tâm mong cầu ưa ghét!!! Tất cả chỗ đều không Tâm, thì tất đắc giải thoát!!!
* Có phi tướng mới đạt phi thường! Mới an nhiên tự tại mà về đường hằng sanh!!!
* Đi đứng nằm ngồi... đều không được quên cơ thoát tục!!! (Danh Thầy, Tâm Kinh...)
* Thường trụ Ngươn Thần thì mọi đường bặt!!!
* Trụ Nguyên Tánh hồn linh nhàn lạc! Cõi Đào Nguyên cỡi Hạc thừa Long!!!
* Ngân Kinh muốn luyện không bằng khế hội Chơn Tâm!!! An trụ vào Chơn Tâm = Bổn Tánh Thánh Chủ! Không khởi vọng niệm = Diệu Không Thiền Sư!
* Không sợ phiền não, chỉ sợ quên: Bổn Tánh Thánh Chủ và Diệu Không Thiền Sư.
* Thấy CÓ thì bị ràng buộc!!! Thấy KHÔNG liền được giải thoát!!!
* Thương yêu là Công quả! Thanh tịnh là Công phu! Công nào cũng được cả! Miễn lòng mình hỉ xã!!!
* Phàm sở hữu Tướng giai thị hư vọng!!!
* Bổn Tâm vốn Tịnh, Vạn pháp vốn KHÔNG thì có chi mà thuyết!!!
* Bất khả tư nghĩa là Đệ Nhất Nghĩa KHÔNG, là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là Pháp Giải Thoát, là Cơ thoát tục, là Chơn Tâm, là Phật Tánh, là Bổn Lai Diện Mục!!!
* Tới giờ nó đến! Hết giờ nó đi! Thế thôi!!!
* Ngộ Bổn Tánh rồi sống với Bổn Tánh (Bổn Tánh Thánh Chủ) cho đến lúc tất cả các vọng tưởng đều lắng sạch (Diệu Không Thiền Sư) thì sẽ Viên mãn được Quả Phật!!!
* Giữ Bổn Tánh (Bổn Tánh Thánh Chủ) là cội gốc của Niết Bàn, là yếu môn vào Đạo, là Tông của 12 bộ Kinh, là Tổ của Chư Phật!!!
* Gặp cảnh tức có! Chẳng cảnh tức KHÔNG!!!
* Không nghĩ Thiện, không nghĩ Ác, hoàn toàn Vô Niệm thì lúc đó tự nhiên khế hội Bổn Tánh!
* Trọn ngày làm việc mà không bị Cảnh mê hoặc mới gọi là người tự tại!!!
* Hãy cố gắng và cảnh giác!!! Vì hơi thở ra không bảo đảm trở vào!!!
* Các Tổ Sư truyền nhau cái TÂM thanh tịnh và an lạc, chớ không hề nói đến cái Tâm tư duy phân biệt!!!
* Đàn không dây... Khải khúc VÔ SANH!!!
* Quý ở chỗ lãnh hội, chớ không quý ở chỗ đọc nhiều!!!
* Chèo Thuyền THIỀN trên sông DỤC!!!
* Chẳng Giới thì không THIỀN! Chẳng THIỀN thì không ĐỊNH!, Chẳng ĐỊNH thì không HUỆ!
* Lần theo dòng (Bổn Tánh Thánh Chủ) mà về đến nguồn!!! (Diệu Không Thiền Sư)
* Không khởi Tâm ưa ghét, đó gọi là thấy mà không có chỗ thấy!!!
* Nhìn SẮC mà thấy TƯỚNG của Sắc thì bị ràng buộc!!! Nhìn SẮC mà thấy TÁNH của Sắc thì được giải thoát!!!
* Thấy mà không khởi Tâm ưa ghét là cái Thấy của Phật. Còn thấy mà khởi Tâm ưa ghét là cái thấy của chúng sanh. Cái thấy của Phật là giải thoát, còn cái thấy của chúng sanh thì luân hồi!!!
* Đối với tất cả Thiện Ác đều phân biệt rõ ràng, đó là HUỆ! Phân biệt rõ ràng mà chẳng khởi Tâm ưa ghét, đó là ĐỊNH!
* Thường chẳng rời Phật (Bổn Tánh Thánh Chủ) tất đắc giải thoát!!! (Diệu Không Thiền Sư).
* ĐỐN là dứt bặt mọi dấu vết!!! NGỘ là Ngộ được KHÔNG, là kiến được TÁNH, là thấy được thật tướng vô Tướng và Vạn Pháp vô thường! Do cố Ngộ mới có Đốn! Do có Đốn mới có Giải Thoát!!! Gọi chung lại là Đốn Ngộ!!! Đốn Ngộ là ngay trong đời này được giải thoát!!!
* Đốn Ngộ là Đờn không dây khải khúc vô sanh!!!
* Chẳng sợ Niệm khởi, chỉ sợ Giác chậm!!!
* Bổn Tánh Thánh Chủ = Huệ = Ngộ! Diệu Không Thiền Sư = Định = Đốn! Trọn ngày Định Huệ thì lúc lâm chung đâu có bị hôn tán!!!
* Con sông Mê chảy vào biển khổ! Nhảy vào Biển dục liền bị trầm luân!!!
* Khi giận thì không vui! Khi vui thì không giận! Tâm chứa Phật thì không có Ma! Tâm chứa Ma thì không có Phật!
* Đừng hỏi tại sao thì mau đạt Đạo!
* Đã chấp nhận thương đau thì đừng hỏi tại sao?
* Vô Tâm là Phật! (Vô cầu); Hữu Tâm là chúng sanh! (Hữu cầu).
* Cái muốn là nguồn gốc của cái khổ!!!! Con sông mê đang chảy vào biển khổ!!!
* Còn một chút dục vọng là còn luân hồi!!!
* Nhất ẩm, nhất trác giai do nhân duyên tiền định!!!
* Nếu Tâm ta không được yên ổn thì vàng bạc, của cải, ngựa xe có ích chi đâu!!!
* Không bất bình thế sự! Không động Tâm ưa ghét!
* Lo hoài, lo mãi nhưng nào có ai đã xong việc!!!
* Không chừng lát nữa chết! Sẽ phải từ bỏ hết! Mới thấy được vô thường! Thì đã gặp Diêm Vương!!!
* Khi thấy được Phật ở trong bản thể của mình (Bổn Tánh Thánh Chủ) thì trước sau gì bạn cũng sẽ thành Phật! (Diệu Không Thiền Sư).
* Có Đức tin tuyệt đối vào Thần Lực của Đức Cao Đài thì chắc chắn sẽ hưởng được Thần Lực đó!
* Cố tủy giải thoát nằm trong chữ PHI!!! Có phi tướng mới đạt được phi thường!!!
* Ngồi trông con đặng phi thường!!! Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh!!!
* Thấy được Tánh KHÔNG và Tánh BẤT KHẢ ĐẮC của Vạn Pháp thì được gọi là Bát Nhã!!!
* Bát Nhã đó là Kiến TÁNH, là sẽ thành Phật!
* Sanh ra Phải Quấy chỉ vì chưa kiến Tánh!
* Lòng còn Mê Tướng ắt sanh vọng niệm, tạo ra phiền não, nghiệp chướng!!!
* Chẳng tin chắc cái Bổn Tánh của mình thì Phật dù cho tu hành trải qua bao nhiêu kiếp cũng không thành Đạo đặng!!!
* Đức tin là trên hết! Là cội nguồn của Đạo! Là nguồn gốc của Niết Bàn, của Thiên Đàng!!!
* Người Trí tu Chơn Tánh! (Trụ Nguyên Tánh). Đứa ngu chuộng sắc thanh!!!
* Dò đặng đường về Quê Quán cũ (Bổn Tánh Thánh Chủ) Đông Tây Nam Bắc hết phiêu lưu (Diệu Không Thiền Sư).
* Bồ Tát thấy sắc mà chẳng trụ nơi sắc!!!
* Tỏ ngộ Nhơn, Pháp đều không, kể cả cái KHÔNG cũng không nữa thì là công đức lớn lao vậy!!! (Đệ I nghĩa KHÔNG = Bất khả tư nghì!!!)
* Phản Bổn = Bổn Tánh Thánh Chủ! Hoàn Nguyên = Diệu Không Thiền Sư!
* Không chịu lìa các Tướng (Phi Tướng) mà tu đủ hết các pháp thì cũng không được giải thoát!!!
* Quê xưa trở = Bổn Tánh Thánh Chủ! Cõi đọa từ = Diệu Không Thiền Sư!
* Nói mà thanh tịnh an lạc! Làm mà thanh tịnh an lạc! Đó là Phật!!! Chớ ông Phật chẳng phải không nói không làm gì cả!!!
* Dù cho không dùng sắc Tướng tìm cầu Phật thì cũng chưa thấy Như Lai đặng đâu!!! Nói thử coi, làm thế nào mà thấy Như Lai đặng!!!
* Phàm những người chưa Kiến Tánh thì làm sao mà nói cả thảy đều không cho đặng!!!
* Đờn không dây... khải khúc Vô Sanh!!! Tiếng đờn nghe tuyệt quá!!!
* Thanh tịnh là Chơn Đạo! Mới trừ được nghiệp báo! Thanh tịnh Tam Bửu hiệp! Phải rốt ráo mới kịp!!!
* Không lìa Bổn Tánh thanh tịnh của mình (Bổn Tánh Thánh Chủ) đó gọi là Công Đức! Công Đức này liên tục không ngừng nghỉ thì gọi là đầy đủ công đức!!!
* Bổn lai không một vật! Lấy gì vướng trần ai!
* Chẳng lìa Tánh = Bổn Tánh Thánh Chủ! Không sanh Tâm= Diệu Không Thiền Sư!
* Cái Bổn Tánh là Phật! Lìa Bổn Tánh thì không có Phật nào khác!!!
* Không còn thấy thân và không còn thấy Tâm mà chỉ còn thấy Thanh Tịnh Vô Vị!!! Đó là Trí huệ, là Bát Nhã, là Kiến Tánh!
* Thấy TÁNH mà Tâm không theo TÁNH (không chịu Trụ Nguyên Tánh) là tại Tâm còn mê chấp.
Tìm đặng Đường về Quê Quán cũ! (BTTC)
Đông Tây Nam Bắc hết phiêu lưu! (DKTS)
\
Tâm kệ:
Trùng trùng duyên khởi!!!
Trùng trùng duyên khởi!!!
Vui đầy đủ!!!
Buồn đầy đủ!!!
Gió thổi mây bay!!!
Hết đêm tới ngày!!!
\
Bổn Tánh Thánh Chủ: Hòa nhập vào Năng lực huyền diệu vô đối (Đạo) của Đức Thượng Đế.
Diệu Không Thiền Sư: Sạch hết phiền não, dục vọng và nghiệp chướng!!! (An lạc, nhẹ nhàng và siêu thoát!!!).
\
Bổn Tánh Thánh Chủ!
Diệu Không Thiền Sư!
Nam Mô: Cao Đài Tiên Ông! Đại Bồ Tát! Mahatát!
BẤT KHẢ TƯ NGHÌ!
ĐỆ NHẤT NGHĨA KHÔNG!
___________________________________________________________MỤC LỤC