NAM MÔ

CAO ĐÀI TIÊN ÔNG

ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT

 

ẤN TÝ BIÊN KHẢO

 

BIÊN  SOẠN

NGUYỄN PHÚC THÀNH.

Email: thanh.minh96@yahoo.com

 

BẢN IN NGÀY 19-11-QUÍ TỴ (21-12-2013).

                                               

                                                               KÍNH BIẾU

 

 

Description: SAM_1182

Bắt Ấn Tý theo Đức Chí Tôn và Đức Hộ Pháp dạy: thứ tự TRÊN & DƯỚI

Description: SAM_1176

Bắt Ấn Tý theo cách Hội Thánh dạy: thứ tự TRONG & NGOÀI.

 

 

Mục Lục

PHẦN MỘT

QUAN ĐIỂM SỬ CAO ĐÀI GIÁO.

“Biên niên & chắc lọc”.

Lời Thưa trước

1/- Biên Niên.

1.1/- Ai biết Ngài và nối chí Ngài?

1.2/- Ai bắt tội Ngài?

2/- Chắc Lọc.

2.1/- Câu một: Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,

  2.1.1/- Truyện Phong Thần trong văn học.

  2.1.2/- Truyện Phong Thần liên quan đến ĐĐTKPĐ.

  2.1.3/- Đàn cơ về tiền kiếp của Đức Hộ Pháp.

  2.1.4/- Vi Hộ và Đức Hộ Pháp.

  2.1.5/- Giáng linh và tái sanh.

  2.1.6/- Chắc lọc lẽ thật và mê tín (giữ chữ Hòa).

2.2/- Câu hai: Giữa biển ai từng gặp lão Tô.

  2.2.1/-Giai thoại văn chương của Tô Đông Pha &Vương An Thạch.

   a/- Tô Đông Pha (1037-1101).

   b/- Vương An Thạch (1021-1086).

   c/- Sửa hai câu thơ.

  2.2.2/- Tô Đông Pha và thiền sư Phật Ấn.

   2.2.3/- Tân Đảng và Cựu Đảng.

  2.3/- Câu 3: Mượn thế đặng toan phương giác thế,

*.1/- Trường hợp ông Võ Văn Đợi.

 Thanh Tịnh Đại Hải Chúng và Phong Đô là hai hay một?

*.2/-  Trường hợp ông Đại Tá Đặng Quang Dương.

*3/- Trường hợp ông Đỗ Công Khanh.

2.4/- Câu 4: Cũng như nương viết của chàng Hồ.

Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171b Cống Quỳnh.

 

PHẦN HAI.

PHÁP LÝ & THỰC TẾ.

“Về bắt Ấn Tý”

1/- Bắt Ấn Tý theo lời dạy của Đức Chí Tôn.

  1.1/- Ngày 25-02-1926.

  1.2/- Từ Đạo Sử:

2/- Đức Hộ Pháp Dạy Cách Bắt Ấn Tý. (1947).

3/- Kinh Tứ Thời Nhựt Tụng dạy về Ấn Tý (trang 49 & 50).

4/- Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

5/-  Các văn bản khác của Hội Thánh.

  5.1/- Thông Tri số 05 của Văn Phòng Ngọc Chánh Phối Sư ngày 06-02-Tân Hợi (02-03-1971).

  5.2/- Bắt Ấn Tý khi cầu siêu.

  5.3/- Khi nào thì bắt Ấn Tý?.

6/- Kết luận.

Phải chờ ngày 3 hội lập quyền vạn linh định quyết về trận địa chấn có tên ấn Tý

Bản Chụp Thông Tri số 5 Dạy về Ấn Tý 

* * *

 

Phụ lục 01

Đức Hộ Pháp Bắt Ấn Tý Khi Cúng Đàn

 

Phụ lục 02

Lý Thường Kiệt Phá Tống

 

 

LỜI THƯA TRƯỚC.

Vào dịp Trung Thu năm Quí Tỵ (2013) một số người theo chánh giáo chơn truyền ĐĐTKPĐ mở cuộc thảo luận về đề tài: BẮT ẤN TÝ THẾ NÀO MỚI ĐÚNG?

Mới nghe báo đề tài nhiều người đã nhận xét rằng: Đạo khai từ năm 1926 biết bao thế hệ đã bắt Ấn Tý rồi... Nếu đặc vấn đề tìm hiểu ý nghĩa việc bắt Ấn Tý thì còn dễ nghe. Đằng nầy nêu vấn đề bắt sao mới đúng nghe phản cảm quá.

Thế nhưng đi sâu vào pháp lý tôn giáo và thực tế chúng tôi đành chấp nhận là có 02 cách bắt Ấn Tý khác nhau; xuất phát từ 04 văn bản với đầy đủ tính pháp lý tôn giáo trong đó. Đó là một sự thật sờ sờ trước mắt không có cách chi chối bỏ được. Nói cụ thể thì:

./-  Cách của Đức Chí Tôn và Đức Hộ Pháp giống nhau; theo thứ tự trên & dưới.

./- Cách Hội Thánh dạy trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo và Thông Tri số 05 của Văn Phòng Ngọc Chánh Phối Sư ngày 06-02-Tân Hợi (02-03-1971) thì lại theo thứ tự trong & ngoài.

Ngày nay Hội Thánh ĐĐTKPĐ không cầm quyền hành chánh trong tôn giáo. Hội Thánh không có nơi làm việc vì cơ ngơi đã bị chi phái Hội Đồng Chưởng Quản lập năm 1997 chiếm mất. Do vậy mà người đạo muốn thỉnh giáo Hội Thánh chơn truyền để đi đến việc bắt Ấn Tý thống nhất cũng không thể được. Cơn địa chấn mang tên Ấn Tý muốn minh lý rốt ráo và đi đến thống nhất thiết tưởng phải chờ ngày cơ đạo phục hồi rồi đưa ra cho 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh bàn tính và quyết định.

 

* * *

 

Bắt Ấn Tý theo lời dạy Đức Chí Tôn và Đức Hộ Pháp. Tay mặt ngữa ra nằm dưới. Tay trái chụp lên trên. Nghĩa là theo thứ tự trên dưới.

Bắt Ấn Tý theo cách Hội Thánh: dạy bàn tay mặt áp ngoài.

Nghĩa là theo thứ tự trong ngoài.

Tập biên khảo có 02 phần và 02 phụ lục.

-         Phần một: Quan Điểm Sử Cao Đài Giáo.

-         Phần hai: Pháp lý và thực tế về Ấn Tý.

-         Phụ lục 1: Đức Hộ Pháp bắt ấn khi cúng Đại Đàn.

-         Phụ Lục 2: Lý Thường Kiệt phá Tống.

Tập sách nầy Hội Thánh ĐĐTKPĐ chưa kiểm duyệt nên rất có thể có sai sót trong đó. Chúng tôi kính mong quí đồng đạo đón nhận nó trong tinh thần hòa bình chung sống trước khi kết luận đúng hay sai.

Nay kính.

 

PHẦN MỘT

QUAN ĐIỂM SỬ CAO ĐÀI GIÁO

“Biên niên & chắc lọc”.

 

Tiểu phẩm ở vào diện biên khảo nên phải căn cứ vào sử liệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà thể hiện. Đề cập đến sử liệu về Ấn Tý tất nhiên liên quan đến quan điểm sử của Đạo.

Quan điểm sử đạo do ai dạy, ở đâu? có nội dung như thế nào?

Thiễn nghĩ quan điểm sử do Đức Chí Tôn dạy. Dạy trong cổ pháp và thi văn. Phân tích và tìm hiểu chúng tôi thấy có 02 tiêu chuẩn: BIÊN NIÊN & CHẮC LỌC. Từ đó cung cấp một sản phẩm có những nhân tố tích cực giúp người đọc nhận thức được bến mê và bờ giác.

 

1/- BIÊN NIÊN.

Cổ Pháp tượng trưng cho Đại-Đại Tam-Kỳ Phổ-Độ là: Xuân Thu, Bình Bát Vu và Phất Chủ (đứng đối diện và tính từ trái qua phải).  Bình Bát Vu (Biểu tượng Thích Giáo), Cây Phất Chủ (Biểu tượng Lão Giáo). Quyển Xuân Thu (Biểu tượng Nho Giáo).

Xuân Thu là bộ Biên Niên Sử do Đức Khổng Phu Tử soạn.

Biên niên là ghi chép sự việc theo đúng thứ tự thời gian nó diễn ra. Sự thật thế nào thì phải ghi đúng thế ấy, không đặng tự ý bỏ bớt hay thêm vào. Sự việc và thời gian phải theo thứ tự trước sau rõ ràng.

Đó là tiêu chuẩn đầu tiên chớ không phải là duy nhất.

Kinh Xuân Thu (còn gọi Lân Kinh) là bộ Biên Niên Sử về nước Lỗ năm 722 TCN tới năm 481 TCN. Kinh Xuân Thu ghi lại 12 đời vua nước Lỗ kể từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công. Nhưng tác phẩm không gói gọn trong phạm vi nước Lỗ mà ghi chép cả thời đại (nhà Châu và nhiều nước khác kể cả thiên văn và khoa học...) Đây là văn bản lịch sử Trung Quốc sớm nhất còn lại và được ghi chép theo các quy tắc sử biên niên. Nội dung cực kỳ súc tích.

Trong Bộ Xuân Thu ngoài tính biên niên Đức Khổng Tử còn phê bình các nhân vật hay triều đại trong đó. Phê bình thì có khuôn thước, tiêu chuẩn, lập trường và quan điểm rõ ràng. Ngài đã đứng trên quan điểm nhân đạo và nhân văn mà phê bình các nhân vật hay các triều đại.

Trang Tử nhận định rằng: Xuân Thu dĩ đạo danh phận (Sách Xuân Thu là để nói cái đạo danh và phận).

Người đời sau nhận định về giá trị phê bình trong Kinh Xuân Thu: Nhứt tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhứt tự chi biếm, nhục ư phủ việt. (Một chữ khen thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn phải tội rìu búa.) Những vị vua hung bạo, tàn ác với dân chúng Ngài không nhìn đó là vua nên viết: Ta nghe nói giết đứa Kiệt, Trụ chớ không nghe nói giết vua Kiệt, vua Trụ.

Ngài để hết tâm huyết xây dựng con người công nghĩa và xã hội có kỷ cương minh chánh vào tác phẩm nên tự thán rằng: Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ! (Người biết ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu, người trách tội ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu).

 

1.1/- Ai biết Đức Khổng Tử và nối chí Ngài?

Biết Ngài là những người có tư tưởng nhân đạo vì lẽ bác ái và công bằng, biết nhìn nhận sự việc trong chiều hướng nhân văn. Biết Ngài là những người chủ trương trau dồi bản thân để thành nhân tố hữu ích cho gia đình và xã hội (tu thân). Biết Ngài là làm theo tinh thần và tư tưởng của Ngài chớ không phải là những người hô hào dựng tượng Ngài cho lớn, xây đền thờ cho bề thế và đem tư tưởng của Ngài để áp đảo thiên hạ.

Biết Ngài không phải coppy học thuyết của Ngài mà lấy những tinh hoa phối hợp với hiện đại và bổ cứu cho hoàn chỉnh (theo đường lối trung dung). Nho giáo chủ trương nhân trị mà thiếu phần thiên trị nên ngày nay Đại Từ Phụ đến dạy môn sinh bổ túc thêm phần thiên trị cho hoàn chỉnh. Do vậy ĐĐTKPĐ mới chủ trương THIÊN THƯỢNG THIÊN HẠ ĐỒNG TRỊ để xây dựng con người và xã hội.

Biết Ngài và thừa kế tinh hoa của Ngài từ trước đến nay thì có nhiều (cá nhân hay tổ chức). Ngày nay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Đạo Cao Đài) dùng Nho Tông chuyển thế; xây dựng nhân tố mới, thế giới mới trên nền tảng BÁC ÁI – CÔNG BẰNG.

Thế giới mới của ĐĐTKPĐ bắt đầu từ năm 1925 (Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung đầu tiên “15-8- Ất Sửu”). Công khai hóa trước nhân loại vào ngày 15-10-Bính Dần (19-11-1926) tại chùa Gò Kén Nam phần Việt Nam. Một địa cầu mới (địa cầu 67) đã ra đời để đưa nhân loại từ địa cầu 68 lên địa cầu 67. Trong Đền Thánh có Quả Càn Khôn với 3072 ngôi sao ứng với Thất Thập Nhị Hiền và Tam Thiên Đồ Đệ của Đức Khổng Phu Tử. Đó là thể pháp biểu thị cho Nho Tông Chuyển Thế.

Các triều đại phong kiến dùng học thuyết của Ngài phần lớn là mang tính lợi dụng để mưu cầu lợi ích riêng cho triều đình chớ không phải thật tâm xây dựng xã hội theo học thuyết của Ngài. Nếu triều đình phong kiến thật tâm xây dựng xã hội theo tư tưởng và học thuyết của Ngài thì nhân dân Trung Hoa và các quốc gia chịu ảnh hưởng Nho Giáo không bị lạc hậu và đau khổ như ngày nay.

Cộng sản ở Trung Quốc ngày nay mang học viện Khổng Tử đi trình diễn khắp thế giới như một QUYỀN LỰC MỀM cũng là một cách lợi dụng danh tiếng và uy tín của Ngài chớ kỳ thật họ chẳng khi nào muốn học thuyết của Ngài được hiểu đúng. Cộng sản đã không muốn mọi người hiểu đúng về Đức Khổng Tử thì dĩ nhiên họ chẳng có chút chất Khổng Tử nào trong việc tu thân hay trị quốc an dân. Trong thời đại internet hiện nay họ đi rao giảng thứ mà họ không có thì dối gạt được ai? và lừa đảo được bao lâu? Một ngòi bút đã là vạn binh lang mà vô vàn chiến sĩ hòa bình trên hành tinh nầy chỉ ra cái trí trá của cộng sản thì sự tiêu vong của họ chỉ còn là thời gian sớm hay muộn mà thôi.  

Các triều đại phong kiến lợi dụng học thuyết Nho Giáo để phục vụ cho đế quyền nên kẻ sĩ chân chính vì lẽ phải, trung thành với lý tưởng Nho Giáo can gián thì bị những hình phạt rất thảm khốc (xẻo thịt đến chết hay tru di tam tộc...) nhưng rốt lại thì các triều đại vẫn tiêu vong.

Ngày nay với sức mạnh của internet thì chế độ độc tài cộng sản có lợi dụng Nho Giáo đem học viện Khổng Tử đi trình diễn cũng sẽ thất bại. Nhân loại không chống đối hay tẩy chay Nho Giáo mà phản đối những cá nhân hay tổ chức lợi dụng Nho Giáo. Xét cho cùng thì chính họ là người làm sai lệch và hủy hoại Nho Giáo. Đạo Pháp Vô Biên nên cái giả dối của họ cũng có cái công (ngoài ý muốn của họ) là làm cho nhiều người biết đến Nho Giáo dỏm rồi tìm đến Nho Giáo chân chính. Đó là điều mà Kinh Thánh viết: Chúa Trời gặt trong chổ không gieo, lượm trong chổ không rãi... còn Đạo Đức Kinh viết: Thiên chi đạo lợi nhi bất hại (Đạo của Trời chỉ làm lợi mà không làm hại).

Học thuyết của Ngài đầu tiên phải dụng phép TU THÂN làm gốc (học phải hành) mà có được bao nhiêu người cộng sản tu thân? Bao nhiêu Đảng viên là bấy nhiêu ông vua thì tu thân thế nào? hành cái gì?

Học thuyết của Ngài chủ trương: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân (điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Người cộng sản thi hành ngược lại. Điều gì cộng sản không muốn thì CỨ LÀM cho dân chúng. Họ nói rất hay nhưng sự thật đã chứng tỏ rằng: chưa có một chế độ nào, một đảng phái nào, một cuộc cách mạng nào nói nhiều, hứa nhiều mà làm KHÔNG CÓ GÌ như cộng sản. Do vậy dân chúng lầm than khổ sở còn Đảng viên thì sống như bạo chúa.

Sự dối trá của cộng sản bị công chúng vạch trần qua sáng tác thực hiện di chúc 09 chữ: Không có gì quí hơn độc lập tự do.

Ông Hồ Chí Minh chết chưa đầu thai được, gặp ông Tôn Đức Thắng hỏi di chúc của Tôi thực hiện đến đâu rồi. Ông Thắng trả lời: Thưa Bác được 1/3 rồi ạ. Bác Hồ khen vậy là khá.

Ông Lê Duẫn chết gặp Bác cũng hỏi như thế. Ông Duẫn trả lời: Dạ được 1/3 rồi ạ. Ông Hồ cũng khen lấy khen để...

Kiểm tra lại thì di chúc có 09 chữ. Được 1/3 là 03 chữ. Ba chữ đó là KHÔNG CÓ GÌ... nghĩa là láo toét thôi chớ có độc lập, tự do chi đâu.

Người Việt Nam thông minh và sâu sắc như vậy thì dầu cho nhất thời có bị lầm lẫn mà bị rơi vào bàn tay quỉ quyệt của cộng sản nhưng chắc chắn dân tộc Việt Nam sẽ đủ sức chôn vùi cộng sản.

ĐĐTKPĐ khai năm 1926. Đức Chí Tôn có dạy Đạo Trời mở cho một nước là tai nạn nước đó đã hầu mãn... nên tai nạn cộng sản là tai nạn sau cùng mà dân tộc phải chịu rồi thức tỉnh và dùng đạo đức (Nho Tông làm giềng mối) xây dựng lại cương thường cho dân tộc.

Đức Khổng Tử quí nhân, trọng đức, sùng đạo, ức tà, hoằng dương chánh pháp (quí con người, trọng đức hạnh, tôn sùng Trời Đất, áp chế tà vạy, mở mang chánh pháp). Cộng sản chà đạp con người, ai đồng ý với họ là tốt, không đồng ý là xấu nên dùng cả lưu manh và côn đồ đối phó với hiền nhân quân tử hay tăng lữ, dẹp bỏ tôn giáo bổ báng Thần, Thánh, Tiên, Phật và Thượng Đế. Lập ra tà giáo thay cho chánh giáo. Nơi nào cộng sản làm chủ thì họ lập ra một hệ thống tôn giáo mới đối lập với hệ thống có từ trước. Nhân sự trong hệ thống họ lập ra thường là những người có đầy đủ tham, sân, si là 03 món độc hại của đời nên họ sa đọa về mọi phương diện (đời chán đạo ngán) để dễ sai khiến.

Khổng Tử nhận định rằng việc chính trị tốt hay xấu là do nơi người thi hành còn chế độ là phụ thuộc. Quan lại là phụ mẫu chi dân (quan là cha mẹ dân) nên phải thương dân và lo cho dân, không được phép hà khắc hay đày đọa dân. Ngài nhận định rằng chính trị hà khắc còn độc ác hơn là hổ dữ, nên bác bỏ cách dùng luật pháp hà khắc, tin rằng dùng nhân trị là cách hay nhất để duy trì trật tự trong xã hội.

Chính con người mới là yếu tố QUYẾT ĐỊNH làm cho xã hội tốt đẹp chớ không phải chế độ ưu việt cộng sản như họ láo khoét. Bằng cớ là rất nhiều quốc gia còn theo thể chế QUÂN CHỦ mà dân chúng vẫn có hạnh phúc. Còn chế độ cộng sản đang bị thế giới lên án rằng: Cộng Sản là thảm họa lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Tóm lại Bộ Xuân Thu gần như là chuẩn mực về thiện và ác trong xã hội Trung Hoa và Việt Nam cũng như cả Đông phương một thời gian dài... nhiều người căn cứ vào chuẩn mực của Xuân Thu mà nên danh phận trong xã hội. Xuân Thu đã góp phần tạo ra những bậc trung quân ái quốc, những anh thư tiết liệt kể từ khi nó ra đời.

Đặc biệt là Quan Vân Trường đời nhà Hớn căn cứ vào bộ Xuân Thu để trau dồi tam cang ngũ thường mà nên danh khi sống và hiển thánh sau khi chết. Ông được nhân loại tôn kính và thờ phụng. Người đời có câu đối khen tặng Đức Ngài:

Chí tại Xuân Thu công tại Hớn.

Công đồng Nhật Nguyệt dữ đồng Thiên.

Năm 1926 Đức Chí Tôn hoằng khai ĐĐTKPĐ Ngài lãnh trọng trách Tam Trấn Oai Nghiêm. Tượng của Ngài ở Bát Quái Đài có cầm quyển Xuân Thu bằng tay phải (sách mở ra như đang đọc).

Ngày nay nếu tư tưởng Đức Khổng Tử được thực thi thì cộng sản bị tiêu diệt cho nên học viện Khổng Tử kiểu của Tàu cộng thực chất là để mị dân và tuyên truyền cho cộng sản chớ chẳng có chất Khổng Tử đích thực nào trong đó. Nghĩa là dầu ở diện nào cộng sản cũng có hàng nhái, hàng kém chất lượng để tạo nên sự rối loạn.

ĐĐTKPĐ dụng Nho Tông chuyển thế để xây dựng một thế giới mới. Thầy Trời bổ xung chổ khiếm khuyết của Nho Giáo là thêm phần thiên trị. Đạo thực thi thiên thượng thiên hạ đồng trị.

Từ PHÁP CÔNG BÌNH: Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Đức Chí Tôn bổ xung: TÂM BÁC ÁI: Mình muốn nên đạo thì phải lo cho người nên đạo trước.

Luật Thương Yêu, Quyền Công Chánh sẽ tiêu diệt tà pháp để xây dựng một thế giới đại đồng.

ĐĐTKPĐ chính là tôn giáo biết Ngài và nối tiếp tư tưởng: Tứ hãi giai huynh đệ (Người trong bốn biển đều là anh em) của Ngài đó vậy.

 

1.2/- Ai bắt tội Ngài?

Bắt tội Ngài là những hôn quân, loạn thần tặc tử những hạng ác nhân, bất đức trong xã hội. Bắt tội Ngài là những kẽ ngu dốt lại ra mặt lãnh đạo về tư tưởng, văn hóa hay xã hội. Là những người thừa kế mà không nhận ra cái tinh túy của Nho Giáo để dung hòa với Tây Phương Khoa Học lại chủ trương đoạn tuyệt với Nho Giáo để chạy theo khoa học một cách mù quáng. Họ đã bảo hoàng hơn vua khi không biết rằng chính các nhà khoa học Tây phương đã kêu gào thảm thiết rằng: Khoa học không có lương tâm chỉ là sự băng hoại của tâm hồn. Họ không biết rằng thế kỷ thứ 18 Quốc Ấn nước Mỹ (1782) đã để CON MẮT trên Kim Tự Tháp. Con mắt là cửa sổ của tâm hồn là biểu tượng của tinh thần. Kim Tự Tháp biểu tượng cho sự bền vững của vật chất. Tinh thần phải ở trên vật chất; tinh thần phải chỉ huy vật chất... xã hội đão điên do những anh mù tư tưởng học được chút ít khoa học, tinh thần dân chủ của phương Tây đã vội vàng cho là tất cả rồi quay lại đạp đổ cả quá khứ cha ông gầy dựng để tạo ra một lớp người Tây chẳng phải Tây, Đông chẳng phải Đông (tiền nhân ta dạy dơi chẳng dơi chuột chẳng chuột) chỉ biết hô hè, đập phá chớ đã xây dựng được cái chi hay??? Nói cho cùng nước là cái mà họ xây dựng nên đang đẩy xã hội đi đến chỗ hổn loạn và bế tắc.

Văn hiến bốn ngàn năm sẳn có họ chê bỏ để đi rước những chủ nghĩa ngoại lai về tôn thờ mà không biết rằng chính chủ nhân của nó đã rên than rằng chúng tôi còn thiếu xót và đang đi tìm mảnh ghép còn thiếu để ghép vào cho hoàn chỉnh. Mảnh ghép còn thiếu đó chính là chữ HÒA trong tinh thần đạo học phương Đông.

Hòa là kết hợp tinh hoa Đông Tây (giử lấy tinh hoa của mình tiếp thu cái mới trong tinh thần tự chủ, cầu tiến). Đó là điều rất khó với nhân loại nên Đức Cao Đài mới đến chỉ CÁCH XÂY DỰNG CHỮ HÒA cho nhân loại và dùng Nho Tông chuyển thế. Mà Nho Giáo đang bị thất thế trước thế lực Tây Phương nên những người thích cái dễ đã chọn cách đạp đổ Nho Giáo và đầu độc xã hội bằng cái dễ. Họ dùng sự dối trá, lừa đảo để quần chúng nghe theo rồi xiềng xích dân tộc bằng thiên đường mù lòa, bắt làm nô lệ cho chế độ cộng sản. Dân Việt không nghe lời kêu gọi của Đại Từ Phụ nên đang phải chịu ách độc tài từ Nam chí Bắc. Đảng cộng sản dâng đất, biển, tài nguyên và chủ quyền cho Tàu cộng để tồn tại.

 

2/- CHẮC LỌC.

Phát xuất từ bài thi:

Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,

Giữa biển ai từng gặp lão Tô.

Mượn thế đặng toan phương giác thế,

Cũng như nương viết của chàng Hồ.

* * *

2.1/- Câu một: Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,

Phong thần là chuyện có khá nhiều ảnh hưởng trong xã hội.

2.1.1/- Truyện Phong Thần trong văn học.

Chuyện phong thần của Trung Hoa được lưu lại bằng tiểu thuyết chương hồi Phong Thần Diễn Nghĩa (Tác phẩm có 100 hồi, viết vào đời nhà Minh). Tác giả bộ Phong Thần là ai thì các nhà nghiên cứu vẫn còn đang tranh luận. Có thuyết nói là Hứa Trọng Lâm, hiệu là Chung Sơn Dật Tẩu (mất 1566), người Phủ Ứng Thiên huyện Trực Lệ biên soạn. Thuyết khác lại cho rằng do Lục Tây Tinh, hiệu Trường Canh (mất 1601), người huyện Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô viết.

Ông Lê Quý Đôn Trịnh Xuân Thụ khi làm sứ giả sang triều cống nhà Thanh năm 1762 đã chọn mua bộ Phong Thần mang về. Nhưng đến Quế Lâm thì bị giữ lại (Đây là bằng cớ cho thấy chánh quyền Trung Hoa không hề muốn nước Nam tiến bộ về mọi phương diện. Điều nầy cho thấy ý chí của nhà chánh trị trái hẳn với ý chí người viết nên tác phẩm. Văn hóa chân chính đem nhân loại đến gần nhau còn nhà chính trị thường lợi dụng văn hóa để tạo nên sự phân biệt trong cộng đồng nhân loại. Tinh thần Thiên hạ vi công của Nho Giáo đã bị triều đình chà đạp).

Đầu thế kỷ 20, tác phẩm Phong Thần được cụ Trần Phong Sắc dịch ra tiếng Việt. Sau đó Mộng Bình Sơn...

 

2.1.2/- Truyện Phong Thần liên quan đến ĐĐTKPĐ.

Từ khi nhân loại hiện sinh đã có 03 thời kỳ mở đạo: Nhứt Kỳ, Nhị Kỳ và Tam Kỳ. Ba thời kỳ mở đạo nhưng chỉ có 02 nguyên lý.

Nguyên lý của Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ là Đạo đi từ vô vi đến hữu hình và Nhứt bản tán vạn thù.

Nguyên lý Tam Kỳ đi từ hữu hình đến vô vi và Vạn thù qui nhứt bản (phản tiền vi hậu).

Nên ĐĐTKPĐ có thể pháp (hữu hình) và bí pháp (vô vi).

Thể pháp qua kiến trúc Đền Thánh có 05 phần chính theo thứ tự: Nguyên Lý Đạo Pháp (Lầu Chuông, Lầu Trống), Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Cung Đạo và Bát Quái Đài (tính từ Tây sang Đông).

Phần Cung Đạo giáp với Bát Quái Đài trên trần nhà có 03 khuôn diềm. Khuôn giữa (Chánh Tây- Cung Đoài) bố trí Tam Giáo và Ngũ Chi. Bên phái Nữ bố trí Bát Tiên (Lý Ngưng Dương, Hớn Chung Ly, Lữ Đồng Tân, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lâm Thể Hòa, Hàn Tương Tử, Hà Tiên Cô). Bên phái Nam bố trí Thất Thánh (Lý Tịnh, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Vi Hộ, Dương Tiển và Lôi Chấn Tử).

Khuôn giữa bố trí Đức Khương Thượng (Tử Nha) cầm bảng Phong Thần (Thần Đạo), kế là Đức Chúa Jésu (Thánh Đạo), Đức Lý Thái Bạch (Tiên Đạo), Đức Thích Ca (Phật Đạo).

 

2.1.3/- Đàn cơ về tiền kiếp của Đức Hộ Pháp.

Trong Thất Thánh có Vi Hộ là một trong những tiền kiếp của Đức Hộ Pháp. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ dạy trong đàn cơ tại Báo Ân Đường Kiêm Biên, ngày 15-8-Bính Thân (dl 19-9-1956). Hợi thời.

Phò loan: Hộ Pháp - Bảo Đạo.

THANH SƠN ÐẠO SĨ

Bần tăng xin chào Thiên Tôn, Chơn Quân và hiền đệ.

Thưa Thiên Tôn, có Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đến nhưng người lại nhượng cơ cho Bần tăng trước. Cười . . .

Nhiều điều Thiên Tôn hỏi thì Bần tăng khó trả lời đặng, duy Nguyệt Tâm đảm đương Thiên vụ, người hiểu biết rõ hơn Bần tăng, vậy Thiên Tôn nên hỏi nơi người.

Chỉ có về bài thi của Bần tăng có hơi huyền bí tiên tri, nên Bần tăng có thể giải đáp.

Thiên Tôn nhớ lại khi lập thành Phong Thần Bảng, những người đứng vào hàng Thất Thánh là ai?

Đức Hộ Pháp bạch: - Lý Thiên Vương, Kim Tra, Na Tra, Mộc Tra, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử.

- Phải, thì trước đầu kiếp vào nhà họ Vi, còn nay vào nhà họ Phạm. Điều ấy có chi khó hiểu mà  phỏng đoán. Tiên tri của Bần tăng đã hiểu và chỉ rõ, Việt Nam xuất Thánh thì đã hẳn rồi, còn chi không rõ rệt. Lại còn một điều trọng hệ hơn nữa là Di-Lạc giáng linh, thì Thiên Tôn đã thấy rằng tiên tri vốn không sai sót. Còn lời thứ hai, Thiên Tôn hỏi Bần tăng thì xin Ngài vấn đáp với Nguyệt Tâm vì chính mình người đã truyền tin ấy.

Vui mừng hơn nữa là từ đây, thiên hạ đã hiểu rõ Thánh chất của Thiên Tôn và ngọn cờ cứu khổ sẽ cứu quốc cho giống nòi Việt Nam, rồi lan truyền cho toàn thế giới chung hưởng.

Bảo Đạo, có phải ta tri âm với nhau về điều ấy chăng?   Cười . .     THĂNG.

 

* * *

 

2.1.4/- Vi Hộ và Đức Hộ Pháp.

Trong chuyện Phong Thần diễn nghĩa. Vi Hộ xuất hiện vào hồi 59:

Ân Hồng giữa đường thâu Chánh Ðáng

Vũ khí Vi Hộ dùng là Gián Ma Xữ.

Tác giả chuyện Phong Thần viết: Vũ khí nầy như cây chày nện vải luyện phép rất hay, cầm trên tay thì nhẹ như bông, nhưng đánh nhằm người thì nặng như núi. Ðó là một vũ khí lợi hại phi thường.

Có bài thơ rằng:

Trong lò Bát Quái luyện hằng lâu,
Chày Gián Ma Xử rất nhiệm mầu.
Vi Hộ ngày sau thành Hộ Pháp,
Văn Huy nay gặp nát tan đầu.

 

* * *

Tác giả viết chuyện Phong Thần sống vào thế kỷ 16. Bối cảnh chuyện Phong Thần diễn ra trước tác giả khoản 2.400 năm. Và trước khi ĐĐTKPĐ tổ chức Lễ Khai Đạo hơn 03 thế kỷ. Nhưng chúng ta cũng tự hỏi vì sao tác giả viết rất đúng các chi tiết như:

. Vi Hộ ngày sau thành Hộ Pháp.

. Vũ khí của Vi Hộ là Gián Ma Xử.

Hai chi tiết trên hoàn toàn phù hợp với Đức Hộ Pháp.

Ngày 13-10-Giáp Ngọ nhân lễ vía Đức Quyền Giáo Tông. Đức Hộ Pháp làm bài thi kỷ niệm có câu:

Bầu linh gậy sắt ông an thế,

Chày Giáng Xử Ma tớ giúp đời...

[[[Quan sát cây Giáng Ma Xử của Đức Hộ Pháp ta thấy có 02 phần cán và thân. Cán có hình dạng như cán cây gươm. Phần thân có lóng (đốt) như cây tầm vông (hay mía) đầu hơi nhọn. Các hình chụp khi Đức Hộ Pháp hành pháp cho thấy có 10 (mười) lóng. Cộng với phần cán ra số 11 là số của Hộ Pháp). Tác giả Phong Thần viết: Vũ khí nầy như cây chày nện vải. Trên thực tế chính Đức Hộ Pháp gọi là cây hay chày. “dĩ nhiên chày đây khác với chày vồ của thợ mộc là một khúc gổ khoan một lổ ở giữa rồi tra cán vào, có hình dạng như chữ T dùng thay cho búa”]]]

Và còn một chi tiết kín đáo nhưng rất thú vị khác ở hồi 67:

Ðàn Kim Ðài, Tử Nha bái Tướng

Khương Thượng lãnh ấn nguyên nhung xuất binh phạt Trụ hưng Châu thì lạy Thầy là Nguyên Thỉ Thiên Tôn xin cho biết tiền trình...

Các vị khác cũng xin Thầy như vậy.

Phần Vi Hộ lạy Thầy là Đạo Hạnh Thiên Tôn xin cho biết việc đi chinh chiến thế nào. Vi Hộ được dạy:

Dẫu bao nhiêu bạn tu hành kỹ,
Chỉ một mình ngươi quả vị cao.

Về mặt hữu hình Ngài được thiên phong Hộ Pháp cầm quyền Chưởng Quản HTĐ. Từ năm 1934 Ngài được công cử cầm luôn quyền Chưởng Quản CTĐ. Cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng là nắm quyền Giáo Chủ Đạo Cao Đài để ứng hợp với Bài Kinh Đại Tường (câu 01 đến 04):

Hỗn Ngươn Thiên dưới quyền Giáo chủ.

Di Lạc đương thâu thủ phổ duyên.

Tái sanh sửa đổi chơn truyền,

Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong....

ĐHP phê từ TỜ XIN TRẢ CHỨC của Lễ Sanh Ngọc Giác Thanh:

Bần Đạo buồn cười mà để dấu hỏi coi ai dạy Giác mà nó ngoan đạo quá vậy. Đương chèo Thuyền Bát Nhã là một tên bạn chèo mà coi mình trọng hơn phẩm Lễ Sanh cũng là một điều hi hữu.

 Ừ phải nó chỉ biết nó theo khuôn thuyền tế độ ấy là vì biết chủ chiếc thuyền là Đức Di Lạc Vương Phật. Nên nó nghĩ: Thà làm tôi cho một vị Phật đặng đưa bước thiêng liêng sanh chúng cho các chơn hồn, hơn là làm tôi đòi cho vạn linh sanh chúng. Sáng suốt ấy chẳng phải xác thịt phàm của nó xúi biểu nó, mà là chơn linh phật tánh của nó đã nói nhỏ với nó...

 

* * *

Qua lời phê trên chúng ta biết rằng Đức Di Lặc là chủ khuôn thuyền bát nhã. Trong Bản Hát chèo thuyền Tổng Lái là chủ thuyền. Tổng Lái là hiện thân của Hộ Pháp.

 

* * *

 

Đức Hộ Pháp giảng rằng: Di Lặc ngự trên khối nguyên tử mà đến... Thực tế là năm 1941 Pháp bắt Đức Hộ Pháp đày sang Madagascar (Phi Châu). Mục đích của Pháp là đày cho chết bên đó (các văn bản hành chánh của thực dân Pháp thể hiện như vậy). Năm 1945 chánh phủ Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống đất Nhật để kết thúc đệ nhị thế chiến. Năm 1946 Pháp phải đưa Ngài từ Madagascar về Tòa Thánh. Đó chẳng phải Đức Di Lạc ngự trên nguyên tử hay sao?     

Tái sanh là phải đầu kiếp, thọ tinh cha huyết mẹ hưởng âm dương chi khí để nên hình. Phải mang xác phàm theo luật tam thể với tên Phạm Công Tắc. Cửu tuyền diệt vong là Đóng địa ngục mở tầng thiên (Phạm Hộ Pháp - Kinh Giải Oan - câu 23). Sửa đổi chơn truyền là sửa đổi nguyên lý của Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ bằng nguyên lý của Tam Kỳ.

. Nhứt bản tán vạn thù sửa đổi thành Vạn thù qui nhứt bản.

. Ngày trước đi từ vô vi xuống hữu hình; Tam Kỳ đi từ hữu hình đến vô vi.

. Ngày trước là buổi buộc nên người tu phải nâng mình lên ngang với Thần, Thánh, Tiên, Phật nên tu thì nhiều mà thành thì ít; bởi phàm thể níu kéo. Tam kỳ Thầy cho DÂNG CÔNG ĐỔI VỊ bất luận lương hay giáo nếu biết thực thi Tam Lập (Lập Công, Lập Đức, Lập Ngôn) được nhân loại nhìn nhận thì Thầy nhìn nhận bằng cách đem phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật ban cho.

. Ngày trước gây tội tình phải đọa lạc. Tam Kỳ Thầy mở cơ Đại Ân Xá nên ngày 16-06-Ất Mùi. (03-08-1955) Đạo Núi Trần Ngọc Dương bịnh nặng làm Tờ Yêu Cầu Đức Hộ Pháp xá tội cho hết căn bịnh chướng.

ĐỨC HỘ PHÁP PHÊ: Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ, khi đến độ Bần Đạo, Bần Đạo  có hỏi về phương tận độ các vong linh thì có nói quả quyết như vầy: Dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp hối rồi chỉ kêu lấy danh ta thì cũng đặng siêu thoát.

Cho dù bị vào Phong Đô (Thanh Tịnh Đại Hải Chúng) vẫn có người đến PHỔ TẾ (Bà Thất Nương).

 

* * *

2.1.5/- Giáng linh và tái sanh.

Giáng linh Hộ Pháp Di Đà...

Về giáng linh Thầy dạy ngày 11 và 12 tháng 03 Bính Dần (22 &23- 04-1926):

.... Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế, trước ngôi ba vị Đầu-Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy:

"CỬU THIÊN CẢM ỨNG LÔI THINH PHỔ HOÁ THIÊN TÔN" lại vẽ thêm một lá buà "KIM QUANG TIÊN" để thông ngay ở giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng.

Bàn Thầy giáng cơ thì để trước vọng Ngũ-Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ đặng nhị vị Đầu-Sư quỳ mà thề.

Con lại để thêm một cái bàn giữa bên cửa sổ, đằng trước ngó vô.

Cư, nghe dặn: Con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ (xông hương cho nó) biểu nó lựa một bộ quần áo tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường đội nón...

Cười.....

Đáng lẽ nó phải sấm khôi, giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo, Thầy không biểu.

Bắt nó đứng trên, ngó mặt ngay ngôi Giáo-Tông, lấy chín tấc vải điều đắp mặt nó lạị.

Lịch, con viết một lá phù (Giáng-Ma-Xữ) đưa cho nó cầm.

Các con, phải cho thanh tịnh kể từ ngày nay, diệt tận phàm tâm chớ nhơ một điểm, thì ngày ấy thề mới đặng. ...

.... Cả hết thảy Môn-Đệ phân làm ba ban, đều quỳ xuống biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ-Lôi đặng Thầy triệu nó đến rồi mới tới trước mặt Tắc đặng Thầy trục xuất chơn-thần nó ra: nhớ biểu Hậu, Đức xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.

Rồi biểu hai vị Đầu-Sư xuống ngai,quỳ đến trước mặt Ngũ-Lôi, hai tay chấp trên đầu quì ngay bùa (Kim-Quang-Tiên) mà thề như vầy:

"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên Ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên Ân là Ngọc Lịch Nguyệt, thề Hoàng Thiên, Hậu Thổ, trước Bửu Pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên Đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là môn đệ của Cao Đài Ngọc Đế; nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo; như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt."

Đến bàn Vi-Hộ Pháp cũng quỳ xuống,vái y vậy đều câu sau như vầy:

"Như ngày sau phạm Thiên-Điều, thề có Hộ-Pháp đọa Tam-đồ bất năng thoát tục".

(TNHT Q1 trang 16 & 17. Bản in 1973)

 

 

* * *

Như vậy tái sanh khác với giáng linh. Tái sanh là phải mang xác phàm. Mang xác phàm thì phải ở theo Luật Tam Thể. Có tái sanh rồi mới có giáng linh.

Giáng linh có nhiều bước chuẩn bị nhưng cuối cùng là: Thầy trục xuất chơn-thần của Phạm Công Tắc ra để đưa linh của Hộ Pháp Di Dà vào ngự trị trong xác phàm.

 

* * *

2.1.6/- Chắc lọc lẽ thật và mê tín (giữ chữ Hòa).

Đức Hộ Pháp dạy Thần Đạo thì là Trung Huê Phong Thần, Hi Lạp Phong Thần và Ai Cập Phong Thần, (Mythologie Chinoise, Grecque et Egyptienne).

Thầy dạy: Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ

Nghĩa là nó có phần thật và phần mê tín trong đó.

Ngày 15-08-Quí Dậu (04-10-1933) Đức Hộ Pháp giảng về Khương Thái Công: Ông Khương Thái Công gọi là Thái Công Vọng hay là Tử Nha, vâng lịnh đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn ở Côn Lôn sơn cầm Phong Thần bảng đến giúp nên nghiệp nhà Châu, cũng vì nhơn mà khai minh chơn lý của quyền hành thưởng phạt thiêng liêng, giúp thế trị đặng thêm mỹ mãn. Tôn sùng trinh liệt, trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm nhuệ khí đặng trừ tan ác nghiệt của xác thân.

Ấy là dụng quyền phép vô hình đặng điều khiển hành tàng mặt thế. Ngài giúp cho thế gian kinh nghiệm đủ cớ hiển nhiên rằng vạn ác đã đào tạo của kiếp sống con người chẳng trốn tội khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt thiêng liêng có đủ quyền năng cả xác cùng hồn, thế thì có trí tuệ của loài người, còn Đạo thì lại có Thần minh ám sát.

Triết lý Thần linh, nghĩa là quyền phép của lương tâm do đó mà lập thành căn bổn và năng lực vận hành hiện tượng của tư tưởng cùng tùng bổn nguyên thần pháp đặng nảy sanh.

Ôi!  Cũng vì cớ quả nhiên thật sự Bí pháp nầy đây mà đời chất chứa nhiều điều mê tín.

Tuy vân, chẳng phải chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền vi bí mật Phong Thần, song Ngài biết tùng lệnh thật hành những tư tưởng cao thượng của Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn, thì công ấy đủ làm đầu Thần giáo.

Đời khi ấy dường như bị phát bối ung thư chịu đau đớn sầu than chẳng xiết, mà Ngài lãnh đặng hoàn thuốc linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.

Ngài nhờ thấy bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nhơn nghĩa của nhà Châu, vua Văn Vương và Võ Vương, giục khai bổn thiện, nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám chịu nhọc nhằn khổ cực, giúp đạo đức khử bạo tàn, thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen trong nước lửa. Tuy đôi bên: Thương - Châu khác giá, mà đối với bậc trung cang trí dõng vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô tư, trong Thần vị, chỉ ngó mặt công phong phẩm tước. Dầu điều dị đoan mê tín trong Truyện Phong Thần dẫy đầy, nhưng ngó đến Bảng Phong Thần lẽ công chánh phải đành nhìn nhận thật.

 

* * *

 

Đêm 27-7-Mậu Tuất. (10-9-1958).

Hôm nay Bần Đạo giảng về Nhơn Sanh nhập vào trường thi.

Học thì phải có thi, thi mới biết giá trị của thí sinh dày công học tập chẳng uổng công phu.

Phẩm Thần Tiên cũng phải thi nếu không thi mở hội Phong Thần để làm gì?.

Đâu phải chuyện Phong Thần không có, có nên sử mới ghi lại đó.  Đó là mầu nhiệm của thời kỳ Trung Nguơn định vị.

Buổi Hạ Nguơn nầy mãnh liệt vô cùng khốc liệt, nên các cơ quan Đại Đồng Thế Giới phải nhập cuộc trường thi Phong Thánh. Bần Đạo quả quyết cho Nhơn Sanh tự thức giác, có nghĩa là cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển, bắt đầu Nguơn Tứ Chuyển thì mở cửa cho cả thiên hạ nhập trường chung cuộc khảo thí.

Tín Đồ Cao Đài là thí sinh có trường lớp, có Thầy dạy hẳn hoi. Thế mà hôm nay Bần Đạo xem môn sinh quá tệ.

Bài vở Thánh Ngôn Thánh Giáo tiềm tàng nhưng không chịu nghiên cứu học thuật để làm Thánh làm Tiên; ngược lại theo học bóng chàng đồng cốt, sấm giảng bá vơ, cúi đầu lạy tà mị, đem tiền dưng cho kẻ lợi dụng mê tín ăn hưởng...

 

* * *

Tóm lại:

Trong chuyện phong thần có những điều thật lẫn lộn với hư cấu, phải chắc lọc ra. Nói đến chắc lọc là nói đến khả năng riêng của cá nhân và thời đại. Đó là nói về nguyên tắc còn thực tế trường của Thầy có 05 lớp (ngũ chi), bài của lớp nào thì vừa với trình độ lớp đó. Hiểu như vậy được thì thuận nhĩ nhau để HÒA BÌNH CHUNG SỐNG.

 

 

2.2/- Câu hai: Giữa biển ai từng gặp lão Tô.

Theo Đức Hộ Pháp giảng thì Tô là Tô Đông Pha và cho biết vắn tắc ý nghĩa câu trên (theo nghĩa chữ biển là đại dương). Nhưng chính Đức Hộ Pháp dạy rằng mổi khi thuyết Đạo Ngài đều để khoản trống cho con cái Chí Tôn tìm hiểu.

Do vậy chúng tôi xin trình bày thêm diện chữ biển là biển trần khổ. Từ đó liên hệ đến 03 cảnh ngộ đầy trớ trêu (bi hài) của Tô Đông Pha để hiểu nghĩa câu hai. Nghĩa là trong cuộc đời (biển trần khổ) ai đã từng sống qua, trãi qua (hay hiểu) cảnh ngộ mà họ Tô từng nếm trãi. Trong 03 cảnh ngộ chúng tôi chọn có 02 cảnh ngộ do chính ông là tác nhân, tự suy nghĩ của mình làm mình vấp (chủ quan) và 01 cảnh thời thế tạo ra (khách quan). Từ chủ quan và khách quan để lại bài học cho hậu thế.

 

2.2.1/-Giai thoại văn chương của Tô Đông Pha &Vương An Thạch.

a/- Tô Đông Pha (1037-1101) tự Tử Chiêm, hiệu là Hòa Trọng hay Đông Pha cư sĩ nên thường gọi Tô Đông Pha. Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là  Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Thân phụ ông là Tô Tuân (tự là Minh Doãn, 1009-1066), và em trai là Tô Triệt (tự là Tử Do, 1039-1112). Ba cha con ông cùng được xếp vào bát đại gia Đường Tống. Ông theo đạo Phật, có lòng từ bi và rất mực yêu dân, không tham ô hối lộ. Ông có tính cương trực nên sự nghiệp chính trị đầy sóng gió.

Ông đậu tiến sĩ năm 1060 và bước vào hoạn lộ với chức Chủ Bạ huyện Phúc Xương tỉnh Hà Nam. Năm 1061, nhậm chức Thiêm phán phủ Phượng Tường tỉnh Thiểm Tây. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán.

Năm 1066, cùng em là Tử Do xin nghỉ việc quan lo tang cha.

Năm 1069, ông trở lại kinh thành nhận chức Giám quan. Ông cùng em đả kích mạnh mẽ các chính sách cải cách của Tân đảng như "Phép Thị Dịch", "Phép Mộ Dịch" do Thừa Tướng Vương An Thạch thi hành. Ông bị vu oan là lạm dụng quyền lực cướp tiền dân.. nên bị đổi ra Hàng Châu.

Sự nghiệp văn chương.

Ngoài thi văn Ông còn là một nhà thư pháp, nhà họa sĩ nổi tiếng. Những tác phẩm của ông gồm có: Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú...Lô Sơn là một trong những bài thơ bất hủ:

Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều,

Vị đáo sinh bình hận bất tiêu.

Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự,

Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều.

(Khói từ Lô Sơn tỏa trên sóng nước Triết Giang có tiếng là đẹp.

Khi chưa tới đó thì lòng ấm ức hận rằng chưa biết.

Khi đến rồi trở về chẳng thấy chi là đặc biệt.

Khói Lô Sơn vẫn tỏa trên sóng nước Triết Giang như tự thuở nào).

. Về mỹ học chúng ta thấy rằng câu 01 và 04 như nhau nhưng mức độ cảm thụ đã được nâng lên nên nghĩa câu 04 đã khác với câu 01....

 

b/- Vương An Thạch (1021-1086), tự Giới Phủ, hiệu Bán Sơn Lão Nhân, người ở Phủ Châu – Lâm Xuyên (nay là huyện Đông Hương, tỉnh Giang Tây). Ông được xếp vào nhóm bát đại gia Đường Tống.

Ông đ tiến sĩ năm Khánh Lịch thứ 2 (1042) đời Tống Nhân Tông. Ông nhà biến pháp (tân pháp),  kinh tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Quốc.

 Hoạn lộ lần một.

Năm 1042 làm trợ lí cho quan thủ phủ tỉnh Dương Châu. Năm 1047 thăng tri huyện Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang. Năm 1051 làm Thông Phán Thương Châu. Hết nhiệm k ông được điều về kinh đô.

Năm 1057 làm tri châu Thương Châu (Giang Tô). Năm 1058 làm quan hình ngục Giang Đông... Đến cuối năm 1058, ông đúc kết nhận định về chính sự trình lên Tống Nhân Tông. Ông nêu rõ các trì trệ hiện thời của Bắc Tống và nêu lên các biện pháp khắc phục. Ông muốn áp dụng tân pháp để cải cách chế độ kinh tế-xã hội, quân sự của nhà Tống. Cuộc cải cách thất bại do sự chống đối của các quan lại đương thời. Sau khi về chịu tang mẹ 3 năm ở quê nhà, ông ở lại đó và mở trường dạy học.

Hoạn lộ lần hai.

Năm 1068, Tống Thần Tông lên ngôi, triều đình khủng hoảng về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội. Vua triệu ông về kinh đô Biện Kinh, phong làm Hàn lâm viện học sĩ. Năm 1069 ông được thăng Tham tri chính sự. Năm 1070, được cử làm Tể tướng, đã đề ra chính sách cải cách kinh tế, dựng ra phép "... Bảo Giáp, Bảo Mã làm dân bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc khố dồi dào, làm binh lực nước mạnh" nhằm cứu vãn tình thế khó khăn trong nước, chống sự uy hiếp của hai nước Liêu Hạ ở phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc, đồng thời có ý mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam (trong đó có Đại Việt). (1: Xem Phụ Lục 2)

Tân pháp, hay còn gọi là biến pháp là những chủ trương cải cách gặp sự chống đối của các tầng lớp quan lại. Biến pháp Vương An Thạch tiến hành một thời gian bị các thành phần khác chống lại luật "thu thuế lúc lúa đang xanh" nên ông đã bị bãi chức lần thứ nhất.

Giai đoạn từ 1070 đến 1075, ông mạnh tay thực hiện các biện pháp cải cách. Ông cho sửa đổi lại hệ thống thi cử quốc gia, ít lệ thuộc vào Tứ Thư, Ngũ Kinh mà dựa trên những kiến thức có giá trị thực tiễn. Điều này làm tầng lớp quý tộc và quan lại theo trường phái Khổng Tử khó chịu.

Tháng 6 năm 1074, thấy không làm được gì, ông từ chức.

Đến tháng 3-1075, Vương An Thạch lại được vua Tống triệu về chấp chính. Lần này lại có làn sóng chống "luật miễn dịch" của ông.

Từ 1075 đến 1077, ông cho tiến hành luật Thị dịch. Phái chống đối ngày càng hành động quyết liệt hơn. Ông bị chỉ trích với 7 tội lớn. Nhưng hai năm thi hành luật Thị dịch, cuộc sống ở kinh thành ổn định hơn.

Vào năm 1076, Vương An Thạch lại được vua phong Tể tướng. Tháng 10 năm 1077, vua lại phế chức ông, đồng thời ông cũng xin từ chức do vua không nghe theo các cải cách khác của ông.

Năm 1085 Tống Thần Tông qua đời, Tống Triết Tông (10 tuổi) lên ngôi, nhà vua bổ nhiệm Tư Mã Quang làm Tể tướng. Một năm sau khi Tư Mã Quang chấp chính, các biện pháp cải cách bị loại bỏ gần hết.

Tháng 10, năm Hi Ninh thứ 9 (1077) Vương An Thạch quay về Giang Ninh. Ông trồng cây, làm vườn... đến khi mất (66 tuổi).

Sự nghiệp của ông trên chính trường có 02 ngôn luận khác nhau: Khen cũng lắm mà chê cũng nhiều.

Về văn chương: Ông là một trong bát đại gia về văn xuôi và thơ phú thời Đường Tống (thế kỷ 7 đến thế kỷ 13).

 

c/- SỬA HAI CÂU THƠ.

Họ Vương lớn hơn họ Tô 16 tuổi. Họ Tô đọc thơ họ Vương:

Minh nguyệt sơn đầu khiếu,

Hoàng khuyển ngọa hoa tâm.

Ông luận rằng ánh trăng sao lại hót trên đỉnh núi, trăng soi chiếu đỉnh núi thôi chớ và con chó vàng to thế sao nằm giữa đóa hoa được, chó nằm dưới bóng hoa thôi chớ... và cho là không hợp lý. Ông sửa thành:

Minh nguyệt sơn đầu chiếu,

Hoàng khuyển ngọa hoa âm,

(Trăng sáng soi đỉnh núi, chó vàng nằm dưới bóng hoa).

Ông Tô ưng ý, nhiều người cũng cho rằng ông Tô hữu lý và câu chuyện tới tai họ Vương. Tác giả cười nhưng không nói gì. Người có quan tâm càng phục ông Tô hơn.

Nhiều năm sau họ Tô đổi ra làm quan ở Hải Nam. Một hôm trăng sáng ông đi qua triền núi nghe tiếng chim hót rất hay. Thi nhân đi trong đêm trăng, tắm mình trong ánh tơ vàng... nghe chim hót... rõ ràng là cảnh hiếm có. Ông tìm hỏi mới biết con chim hót hay đó tên là chim Minh Nguyệt, (nó chỉ hót vào đêm trăng sáng). Họ Tô trực nhớ lại câu thơ mình đã sửa cảm thấy hụt hẩng như đất sụp dưới chân... ông nghĩ đến câu thứ nhì và tìm hiểu thêm thì biết vùng nầy còn có loại sâu tên Hoàng Khuyển chuyên ăn nhụy hoa (nên nằm ở giữa đóa hoa). Ông ngộ rằng:

Minh nguyệt sơn đầu khiếu,

Hoàng khuyển ngọa hoa tâm.

(thực nghĩa là chim minh nguyệt hót trên đỉnh núi, con sâu hoàng khuyển nằm giữa đóa hoa). Ông biết mình đã lầm khi sửa thơ họ Vương.

Họ Vương quan sát thực tế từ thiên nhiên để viết câu thơ trên nên hoàn toàn đúng. Họ Tô xét về lý là đúng nhưng trong trường hợp cụ thể nầy chính cái sự thật từ cuộc sống đã bác bỏ cái lý của ông.

Hậu thế nhận xét: họ Vương thì uyên bác, thâm trầm, họ Tô thì phóng khoán, bộc trực; cả hai đều tài hoa và thể hiện phẩm hạnh đáng khâm phục. Cả hai đều cư xữ rất đẹp xứng đáng với chữ GIAI (đẹp).

Bài học từ họ Tô ở đây là dù thông minh, biết suy luận nhưng chưa trãi qua thực tế nên lầm. Đến khi biết sai thì can đảm sửa sai. Đây là cú vấp tốt lành mà họ Tô là người có chuyên môn cao lại vấp ngã từ chính lãnh vực (thi văn) mà ông tự tin nhất.

[[[Viết đến đây rồi buồn cho cảnh đồng đạo cùng theo chơn truyền ĐĐTKPĐ, không theo chi phái 1997 do ông Nguyễn Thành Tám lãnh đạo. Cùng là người đạo mà cứ hễ thấy ai nghĩ hay nói khác ý mình thì phán xanh dờn: theo bàn môn tả đạo, theo chi phái, theo cộng sản.... Nặng nhẹ nhau còn quá hơn đời... mà chắc chi ý mình đã đúng? Đạo thì TIÊN GIÁO HẬU TRỊ. Đạo dùng giáo lý và pháp luật để xây dựng lẫn nhau, họ chẳng giáo lấy một câu chỉ lăm le, chực chờ để nặng nhẹ đồng môn.

Một cái hại lớn là văn bản của Hội Thánh dạy sờ sờ ra đó không đọc, không học mà cứ luận rằng xưa làm sao nay cứ coppy vậy, không cần xét đến cái lý đúng sai. Chúng tôi có đầy đủ bằng cớ nhưng chẳng phải nơi nên chẳng trưng ra làm gì. Nhắc vậy để cảnh giác là nên nhớ tới chữ GIAI khi THOẠI với người trái ý “vì biết đâu họ đúng còn mình sai”...  Nên hằng nhớ rằng: khiêm cung là hạnh yêu dấu của Thầy.

Thầy Trời còn than rằng: Thầy là bậc Chí Tôn mà còn chưa vừa hết lòng người... Vậy mà có lắm người ra mặt dạy khôn rằng phải làm vừa lòng hết, rồi kêu gọi đoàn kết là gộp chung kẻ trắng người đen...“sic”. Họ không biết rằng dẫu anh có trái ý với tôi nhưng chúng ta cùng học một Thầy, (nếu không cùng tín ngưỡng cũng là bạn đồng sanh) thôi thì việc anh anh cứ làm, việc tôi tôi tiếp tục, đường ai nấy đi nhưng chúng ta vẫn HÒA BÌNH CHUNG SỐNG. Thầy cho biết: Chẳng mất một con nghiệt cả bầy...số đông đâu phải đồng nghĩa với chân lý trong buổi tà chánh còn chưa đưa ra 03 Hội Lập Quyền vạn linh phán quyết]]].

 

2.2.2/- Tô Đông Pha và thiền sư Phật Ấn.

Tô Đông Pha thường tạo dịp để đến chùa Kim Sơn đàm đạo với thiền sư Phật Ấn. Kẻ tăng người tục kết thành đôi bạn tâm giao khi thì thưởng thức chén trà xanh ngắm vầng dương vừa lố dạng, khi bày cuộc cờ, khi lặng lẽ nhìn mây chiều với những cánh chim bay về tổ ấm, tắm mình dưới ánh trăng thanh trong gió mát thi họa cùng nhau, chia xẽ những nghĩ suy về đời người và người đời hay nhận định về thế cuộc....

Một hôm ông hỏi thiền sư: Đại Sư thấy Tôi như thế nào?

Thiền sư: Ông có cốt cách uy nghi như một vị Phật.

Thiền sư hỏi lại: Cư sĩ thấy Tôi ra sao?

Đông Pha đáp liền: ông giống như đống phân.

Thiền sư cả cười rồi thản nhiên trò chuyện tiếp....

Khi sắp ra về họ Tô không kềm lòng được mới hỏi: Tôi nhận xét về ông như vậy ông có phiền không?

Thiền sư cười đáp có chi đâu mà phiền não...

Thấy họ Tô ngạc nhiên chưa hiểu thiền sư ôn tồn nói: Phật dạy Ta là Phật đã thành các Ngươi là Phật chưa thành. Phật nhìn chúng sanh thấy ai cũng có Phật tánh. Chúng sanh lấy tâm chúng sanh nhìn người nên tâm thế nào thì nhìn chúng sanh như thế đó... tâm ta chứa gì thì nó thể hiện ra như thế ấy... Họ Tô tâm phục và ra về. Đây là cú vấp trong lãnh vực mà ông không uyên thâm (chuyên môn không cao) nên cũng là điều dễ hiểu.

Đạo hạnh thiền sư Phật Ấn thể hiện qua lập ngôn thật đáng cho hậu thế kính phục. Chẳng bù với mấy ông sư hay những nhà tôn giáo được Đảng cộng sản đưa vào làm dân biểu trong quốc hội nước CHXHCNVN hiện nay mở miệng ra là bay mùi thối làm ô nhiễm cả xã hội...

Đức Cao Đài dạy: Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh (Niết Bàn). Nhưng Thầy biết con người còn mang phàm thể thì có thương ắt có ghét. Sự ghét lẫn nhau là mầm móng của chiến tranh và mở đường vào cảnh khổ (ngục môn ai oán) nên Thầy đóng cửa địa ngục cho môn đệ bằng lời dạy: Không thương được thì cấm ghét. Nghe à.

Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo bài Kinh Giải Oan câu 23 & 24 dạy:

Đóng Địa ngục mở tầng Thiên,

Khai đàng cực lạc, dẫn miền Tây Phương.

Nghĩa là có đường thăng thì có nẽo đọa. Thầy chỉ con đường thăng và CẤM ĐI VÀO con đường đọa. Bởi pháp công bằng Thầy không xóa bỏ nẽo đọa nhưng Thầy CẤM môn sinh đi vào đó. Nẽo đọa vẫn còn nhưng môn đệ nghe Thầy thì không sa vào địa ngục.

 

2.2.3/- Tân Đảng và Cựu Đảng.

Là người tài hoa và có lòng nhân ái với dân chúng nhưng hoạn lộ của Ngài Tô Đông Pha đầy sóng gió. Khi Tân đảng do Vương An Thạch cầm quyền thì cho rằng Tô Đông Pha là người theo cựu đảng nên không trọng dụng. Họ Vương bổ ông đi làm quan ở các địa phương để thuyên giảm ảnh hưởng của ông trong triều đình.

Khi cựu đảng do Tư Mã Quang đứng đầu được cầm quyền trong triều đình thì lại cho rằng ông theo tân pháp (hay biến pháp) của Vương An Thạch nên cũng không trọng dụng.

Vậy thực chất ông là người của cựu đảng hay tân đảng?

Rằng cựu rằng tân tớ cũng ừ

Bài học ở đây là hể có thực tài và thực tâm lo cho dân chúng, phụng sự xã hội thì được xã hội đền đáp lại. Tài hoa mà bất phùng thời âu cũng là do sự tích tụ trong vô lượng kiếp, người đã biết đạo lý thì cũng chẳng dám oán trách cao xanh. Hiểu được rằng tạo hóa rất công bằng:

Bắt phong trần phải phong trần,

Cho thanh cao mới đặng phần thanh cao.

Có đâu tư vị người nào,

Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.

(Nguyễn Du - Truyện Kiều).

Trang Tử viết trong Nam Hoa Kinh: ...con khỉ con vượn nhảy nhót ở trong rừng thì người có tài bắn cung như Bàng Mông, Hậu Nghệ... cũng không làm chi được nó, con cọp xuống đồng bằng thì thất thế bị rượt đuổi chạy dài... ấy là do môi trường mà ra 

 

2.3/- Câu 3: Mượn thế đặng toan phương giác thế,

Thiễn nghĩ đây là câu rất hàm súc... Mượn thế có mấy cách hiểu:

Cách một: Mượn thế là mượn những điều như thế (trong Phong Thần rất mờ hồ mà vẫn có phần thật và cuộc đời Tô Đông Pha tài hoa, lịch lãm mà vẫn va vấp) để dồi mài kiêu khí và mê tín của khách trần.

Cách hai: Mượn thế là mượn thế gian (là biển trần khổ) với đầy đủ diện mạo, mùi vị và góc cạnh của nó để làm đề thi tấn hóa cho khách trần đi từ bến mê sang bờ giác (đáo bĩ ngạn) khi trãi bước trên đường luân hồi.

Cách ba: Thầy là Đấng tự hữu và hằng hữu, Thầy là chúa tể càn khôn, nhưng Thầy không nhơn thân phàm ngữ lại cao không với tới, khuất không rờ đặng thì làm sao nhơn sanh nghe được lời Thầy dạy? Do vậy mà Thầy phải cậy lương sanh dẫn dắt quần sanh. Lương sanh là những người hữu căn hữu kiếp được Thầy hun đúc một khối từ bi trong lòng, có trách nhiệm trong Tam Kỳ họp lại thành Hội Thánh. Hội Thánh ấy thay mặt Đức Chí Tôn mà dìu dẫn nhân loại đi trong con đường tương đối nhập thế và xuất thế. Ấy là mượn người phàm (mượn người thế gian) để độ người thế gian...

Hiểu mượn thế theo cách nào thì MƯỢN THẾ đều là phương tiện mà cứu cánh là GIÁC THẾ. Muốn giác thế thì môn đệ Thầy phải rút ra được bài học và có giáo án phù hợp cho từng lớp và từng giai đoạn. Phải thu phục nhơn tình (hòa bình chung sống) trước khi nói đến phương án xây dựng thế giới đại đồng.

Nhơn tình ví chẳng mưu thâu phục,

Thế giới mong chi phép độ lường...

Mượn Đời dồi Đạo, mượn Đạo trau Đời cả hai đấp điếm nhau giúp cho khách trần thực thi Tam Lập (lập vị). Cuối cùng là Đạo thì nên mà Đời thì rạng. Người đời tiêm nhiễm những văn bút chia rẽ đạo đời đôi ngã đã mấy ngàn năm qua; nay Đức Chí Tôn đến để cho nhân loại hiểu rằng Đạo hay Đời cũng từ Đức Chí Tôn mà có. Nên Thầy dạy rõ rằng Đạo Thầy là phương châm thoát tục cũng là kế bảo tồn quốc túy. Trong nền chánh giáo của Thầy có phương án xây dựng cá nhân và xã hội trong diện thượng thừa và hạ thừa. Pháp điều của Tam Kỳ Phổ Độ là thực thi Tam Lập. Thầy không bồng ẩm ai lên địa vị nào hết. Muốn đạt địa vị nào thì cứ lo phụng sự cho con cái của Thầy theo tam lập. Dù Đạo hay đời mà biết thực thi Tam Lập được chúng sanh nhìn nhận thì Thầy đem phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật trả công cho. Thánh ngôn dạy:

Trường đời đem thử gan anh tuấn,

Cửa Đạo mới ra mặt thánh hiền.

Do vậy trong ĐĐTKPĐ (là cái nhánh do Thầy làm chủ) có 09 viện nghiên cứu (Cửu viện: Học, Y, Nông, Hộ, Lương, Công, Hòa, Lại, Lễ) để bậc thể thiên hành hóa và những anh tài còn nặng nợ trần ai mà có tâm phụng sự có đầy đủ tài nguyên và môi trường thực thi Bảo Sanh – Nhơn Nghĩa – Đại Đồng (Trường học, Dưỡng Lão, Ấu và Tịnh thất).

 

* * *

 

Cơ tận độ và độ tận của ĐĐTKPĐ mở ra cho cả người sống và người đã bỏ xác phàm. Trong giờ phút lâm chung Thầy dạy: Dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp hối rồi chỉ kêu lấy danh ta thì cũng đặng siêu thoát.

Thậm chí Đức Hộ Pháp dạy: ... sau khi giải thể (bỏ xác phàm) thì mổi người đều phải đến Nghiệt Cảnh Đài nhìn vào hành tàng của mình (là kinh vô tự của chính mình) đã làm trong kiếp sinh rồi tự mình làm quan tòa xử mình. Phiên tòa thiêng liêng đó tự mình đóng vai nguyên cáo, bị cáo, bào chữa và kêu án.

Đài Chiếu giám cảnh minh nhẹ bước,

Xem rõ ràng tội phước căn sinh...

(Kinh Đệ Ngũ Cửu câu 5 & 6)

Tự mình xem xét rồi xử mình thì đâu thể kêu ca chi được. Có khi tội tình mình chẳng đáng mà mình TỰ XỬ mình nặng quá mức, quá nghiêm khắc với chính mình... do vậy Ngài dặn: khi phải TỰ Xử thì ĐỪNG TỰ XỬ mà xin giao hết cho Đức Chí Tôn xử. Mà Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ thì Ngài chẳng phạt đứa con nào hết. Ngài sẽ bảo lãnh cho tái kiếp mà trả nợ.

(Thiễn nghĩ kinh sách xưa nay dạy tha thứ chính là tập cho mình thói quen tha thứ đến mức thành ra phản xạ tự nhiên để đức tánh tha thứ đó gắn chặc với mình... kết quả là đức tính tha thứ đó đem áp dụng cho chính mình. Kinh Thánh dạy kẻ nào xóa nợ cho người khác ở thế gian thì sẽ được xóa nợ nơi thiên đàng cũng nằm trong lẽ bí mật, sâu xa ấy).

Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo bài Kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu câu 26 & 27 dạy:

Thong dong cõi thọ hương hồn,

Chờ con lập đức giúp hườn ngôi xưa.

Nghĩa là con cái biết lập công quả thì đủ quyền dâng công quả ấy lên cha mẹ... giúp cha mẹ đã mãn phần trở về ngôi xưa vị củ.

 

*.1/- Trường hợp ông Võ Văn Đợi (tạ thế năm 1947, ba năm sau “1950” các sư đệ đồng tu xin dâng công quả).

 

 

Tờ đề ngày 03-11- Canh Dần (1950).

Của Nguyễn Văn Thế và 16 vị nữa đồng đứng dâng công quả của mấy vị ấy để chuộc tội cho Ông Võ Văn Đợi là Sư huynh của họ ở Đạo Núi.

LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:

Đợi bị phế vị là do nó dám chối Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng.

Ngày nay theo Thiên điều thì nó phải tái kiếp mà hành đạo lại.

Nếu nó đặng ở Thanh Tịnh Đại Hải mà tu hành nơi cõi hư linh cũng là may phước cho nó.

Còn quyền thiêng liêng thưởng phạt là do nơi quyền Ngọc Hư Cung có phải của Bần Đạo đâu mà xin Bần Đạo.

Còn dâng công quả cho Đợi chỉ có vợ con Đợi mới đặng; còn mấy em ai thèm đâu mà dâng.                                                                                                                                     

HỘ PHÁP

(Ấn Ký)

 

Vậy: Thanh Tịnh Đại Hải Chúng và Phong Đô là hai hay một?

Theo lời giảng của Đức Hộ Pháp về bà Đoàn Thị Điểm kết hợp với Thánh giáo của Bát-Nương: Giải thích về âm-quang tháng 10 năm (1932) (TNHT trang 85 & 86) và Thánh giáo bà Thất Nương ngày 09-04-Giáp Tuất (1934) (TNHT trang 91 & 92) thì ngày xưa gọi là Phong Đô nay với cơ Đại Ân Xá của Đại Từ Phụ thì đó là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng.

 

*.2/-  Trường hợp ông Đại Tá Đặng Quang Dương (dâng công quả khi cha ông vừa tạ thế).

 

 

Tờ đề ngày 27-10-Nhâm Thìn (09-09-1952).

Của Đại Tá Dương Quang Đặng xin dâng công nghiệp để cầu thăng cho người cha tên Dương Văn Y, 57 tuổi.

LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:

Bần Đạo từ  ngày trở về cố quốc thường để tâm suy nghĩ  đối với Bần Đạo cũng như đối với con cái chí hiếu với Chí Tôn đã chịu biết bao khổ hạnh truân chuyên vì đạo. Vừa thoát khỏi ách lệ thuộc lại bị cường bức của họa độc tài. Nào giết chốc đánh đập tra tấn, thiệt không còn giá trị con người mà là con vật. Nếu may còn sống sót thì cái thân già đã mang không biết bao nhiêu là tật bịnh.

Tuy nhiên đã hiểu rằng luật thiên nhiên có một: Sống thì ở, thác thì về. Song nhớ đến tình trạng đau đớn ấy, Bần Đạo nhiều phen không ngăn giọt lệ.

Tư cho Q. Ngọc Chánh Phối Sư lập Thánh Lịnh ân tứ do Q Chí Tôn tại thế phong Dương Văn Y vào hàng phẩm Lễ Sanh Phái Ngọc hàm phong.

Thánh Lịnh nầy đọc trước linh sàng trước khi di linh cửu.                                                                                                                                  

HỘ PHÁP

(Ấn Ký).

 

 

* * *

*3/- Trường hợp ông Đỗ Công Khanh (khi cha còn tại thế).

 

Phúc trình số 329/PT ngày 23-12-Nhâm Thìn (07-11-1952).

Của Thánh Vệ Trưởng dâng lên Đức Hộ Pháp kèm theo tờ của Thiếu Tá Khanh xin nhường chức Lễ Sanh lại cho thân phụ là cựu Chánh Trị Sự Đỗ Văn Cầm 73 tuổi xin được ân phong hàm phong.

LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:

Phê y và cho Q Ngọc Chánh Phối Sư lập Thánh Lịnh ân phong cho cụ anh Đỗ Văn Cầm vào hàng phẩm Lễ Sanh Phái Ngọc (hàm phong) còn Thiếu Tá Khanh chỉ còn là 1 vị Tín Đồ mà thôi.

Bần Đạo còn để lời khen lòng hiếu thảo của Khanh đáng ghi vào nơi Đạo Sử                                                                                                                                  

HỘ PHÁP

(Ấn Ký).

 

Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo bài Kinh Cầu Tổ Phụ Đã Qui Liễu câu 17 đến 20 dạy:

Kìa lố bóng hồng ân bao phủ,
Cả thế gian đầy đủ đạo mầu.

Âm-dương đôi nẻo như nhau,

Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ-trì.

 

Là dạy dù cho thế gian hay miền âm cảnh đều có Đạo, có hồng ân của Chí Tôn bao phủ. Cả hai nơi đều có con đường (Đạo) cho người biết hối ngộ, tu sửa hưởng được ân lành của Đạo. Dương gian âm cảnh đồng nhất lý là ĐỀU CÓ Đạo mầu, có hồng ân Thầy bao phủ...

Bọn lừa đảo kinh văn giải thích: ĂN XÀI NHƯ NHAU... Người trần ăn thịt, cá, dùng tiền, nhà lầu, xe hơi... thì người chết cũng thế nên đem thịt, cá, tiền âm phủ, xe hơi... cúng vái rồi đốt cho người chết dùng.

Thậm chí bày trò THUÊ heo quay đem cúng vái ông bà (hay Trời, Phật...). Người THUÊ đem heo quay vào rồi mướn bọn chuyên môn vái mướn giải oan cho ông bà, cha mẹ... chưa tàn nén hương thì họ đã khiêng heo quay xuống để cho người khác thuê tiếp. Một cái xác con heo quay mà bọn lừa đảo kinh văn kết hợp với hạng kinh doanh tôn giáo làm cho quay cuồng xã hội như thế. Lạ là không thấy tôn giáo nào ở Việt Nam lên tiếng chính thức tẩy chay. Các tôn giáo được cộng sản cho phép hoạt động thì ĂN XÔI CHÙA NÊN NGẬM MIỆNG. Chín chi phái Cao Đài vì hưởng lộc cộng sản, LIÊN HIỆP với chính trị nên cũng im lặng.

Đạo và Đời liên hiệp nhau làm cho xã hội đảo điên rồi biểu sao đạo đức xã hội không xuống cấp. Một xã hội băng hoại như thế nếu không dụng Nho Tông để khai hóa (giúp người đời hiểu được đúng sai bằng nghị luận theo khuôn thước đạo đức chuẩn thằng) thì dùng cái chi? Dụng khuôn thước đạo đức để dung hòa cá nhân với cá nhân; cá nhân và xã ước cùng đi vào đạo lý nhau. Đó là chuyển thế.    

Tóm lại trong biển trần khổ (hay gặp khổ cảnh) phải nhờ ánh sáng của Đạo, lần chân trên đường đạo đức để an lạc.

 

2.4/- Câu 4: Cũng như nương viết của chàng Hồ.

Đức Hộ Pháp xác định Hồ là Đổng Hồ (không phải Hồ Chí Minh hay một Hồ nào khác).

Đổng Hồ là một nhân vật thời Đông Châu. Bộ Đông Châu Liệt Quốc lưu hành là thành quả của nhiều người. Khởi đầu dĩ nhiên là những câu chuyện truyền miệng. Ông Dư Thiệu Ngư  biên soạn ra khoảng niên hiệu Gia Tĩnh (triều Minh) với tên Liệt quốc chí truyện. Thời Minh mạt Ông Phùng Mộng Long cải biên thành bộ Tân liệt quốc chí. Đến thời Thanh ông Sái Nguyên Phóng  cải biên thành Đông Chu liệt quốc chí có 108 hồi như đang lưu hành.

Đông Chu Liệt Quốc đề cập đến thời kỳ lịch sử rất dài khoảng hơn 400 năm (thế kỷ III, IV, V, VI trước Công Nguyên) của Trung Quốc, bắt đầu từ đời Tuyên vương nhà Chu cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa. Sử sách cũng gọi thời kỳ ấy là đời Đông Chu, được chia làm hai giai đoạn là Xuân Thu và Chiến Quốc.

Trong bộ Đông Châu Liệt Quốc do Đỗ Mục dịch hồi 51 có tên:

ÐỒNG HỒ CHÉP THẲNG ÁN ÐÀO VIÊN
VUA SỞ MỪNG CÔNG MỞ ÐẠI HỘI.

Tấn Linh Công hoang dâm vô đạo nên lập mưu giết tướng quốc Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn bỏ trốn, trên đường đi gặp Triệu Xuyên hỏi chuyện đầu đuôi. Nghe xong bảo Triệu Thuẫn rằng: Thúc phụ chớ sang nước khác vội, hãy đợi trong mấy ngày tôi sẽ có tin báo.

 Triệu Xuyên về dinh lập mưu và sắp xếp các việc xong xuôi rồi tuyển hai trăm quân giáp sĩ vào Ðào Viên giết Tấn Linh Công.

Triệu Xuyên đi đón Triệu Thuẫn về. Các quan trong triều đến đông đủ cả. Triệu Thuẫn phục ở bên cạnh thi thể Tấn Linh Công khóc  rất thảm thiết.... Tấn Linh công chưa có con trai. Triệu Thuẫn bàn với các quan rồi mới sai Triệu Xuyên sang nhà Chu đón công tử Hắc Ðiến về nước (nhằm gở tội giết Linh Công cho Triệu Xuyên). Công tử Hắc Ðiến nối ngôi xưng là Tấn Thành Công.

Triệu Thuẫn vẫn lấy việc Ðào Viên làm áy náy, một hôm sang chơi sử quán. Bảo quan Thái Sử là Ðổng Hồ trình xem chép việc Linh Công chết ở Ðào Viên ra sao. Ðồng Hồ đem bản thảo trình lên. Triệu Thuẫn mở ra xem, trông thấy chép rõ ràng: “Mùa thu, tháng bảy, năm Ất Sửu Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao ở Ðào Viên”.

  Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ nói:

  -Quan Thái Sử lầm rồi! Ta đã chạy ra Hà Ðông cách kinh thành hơn trăm dặm, Ta có biết đâu đến việc giết vua, mà quan Thái Sử chép vậy thật là oan cho Ta lắm!

  Ðổng Hồ nói:

  - Ngài làm quan Tướng Quốc, trốn đi chưa khỏi địa giới nước nhà mà đã có việc giết vua, khi ngài về lại không trị tội quân giặc, như thế mà bảo không phải ngài chủ mưu, còn ai tin được?

  Triệu Thuẫn nói:

  -Bây giờ có thể chữa lại được không?

  Ðổng Hồ nói:

  -Ðã gọi là tín sử thì có thế nào phải chép như thế, bởi vậy đầu tôi có thể cắt được, chứ bản thảo này thì không thể chữa lại được.

  Triệu Thuẫn thở dài than rằng:

  -Thế mới biết cái quyền chép sử, còn lớn hơn cái quyền làm Tướng Quốc! Tiếc thay, bấy giờ ta chưa ra khỏi địa giới, để đến nỗi chịu tiếng xấu muôn đời, hối sao cho kịp!

 

* * *

 

Sử quí ở chổ có sao viết vậy không cải sửa theo ý muốn người có quyền (nhưng sẳn sàng đính chánh và cải sửa khi phát hiện ra lỗi do ghi nhận chưa đủ thông tin hay nhận định sai). Tô hồng hay bôi đen trong tác phẩm sử thì sớm muộn gì cũng bị vạch trần. Trong thời đại internet ngày nay tư liệu rất phong phú đâu dễ gì đổi trắng thay đen...

Đức Chí Tôn nói đúng, nói sai là khuôn thước chuẩn thằng để người có tín ngưỡng căn cứ vào đó mà tu sửa đồng thời đối chiếu xem những người làm trái thánh ý, trái với lời dạy của Ngài có kết quả như thế nào. Các công thức, các thế Ngài dạy cho ĐĐTKPĐ xây dựng phẩm hạnh cá nhân hay một thế giới mới đem đối chiếu với công thức đường lối của các chánh trị gia từ Âu sang Á... xem đâu là con đường rộng mở khả thi và đâu là con đường trói buộc và đi vào bế tắc.

Điều nầy tương đối khó nhận ra vì bước đầu hai đường lối đồng dạng nhau ở chổ ĐẠI HÙNG, ĐẠI LỰC mà chỉ khác nhau ở bước thứ ba. Với Đức Chí Tôn là ĐẠI TỪ BI còn đời là ĐẠI ÁC.

Đại Từ Bi là Thầy bày con đường hay lẽ phải ra đó, dạy dỗ cho con cái và môn đệ thực thi. Giáo hóa và nuôi dạy là phần của Đại Từ Phụ còn nghe hay không tùy ý (Lành dữ hai đường vừa ý chọn). Thầy treo bảng cấm đi vào con đường đau khổ, đọa lạc nhưng ai không nghe Thầy không phạt. Để cho luân hồi vay trả, trau dồi đến mức tỉnh ngộ. Đạo không chặt chân hạt cho ngắn, cũng không kéo chân vịt dài ra cho bằng nhau.

Đại ác là bắt buộc phải thực thi, ai không tuân theo thì bị hành hạ, bị tù đày, bị giết chết bằng đủ loại cực hình (có khi tru di tam tộc). Đại ác có chiếc giường của Procuste (Le lit de Procuste), cứ đem người họ muốn hành hạ lên đó rồi kéo dãn ra hay chặt chân cho bằng với chiếc giường.

 

* * *

 

Tín sử hay không tín sử tự thân nơi tác phẩm thể hiện. Nếu Đổng Hồ sửa lại theo ý Triệu Thuẫn thì có xưng là tín sử liệu có ai tin?

Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171b Cống Quỳnh TPHCM soạn bộ LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI Q1 được Nhà xuất bản Tôn Giáo in năm 2005. Ban soạn sử tự phong là BAN TÍN SỬ và đứng trên lập trường THUẦN CHƠN VÔ NGÃ để soạn sách. Nhưng xem trong nội dung thấy:

*/- Từ trang 348 đến 356 vị chi là 09 trang sách viết về Ngài Ngô Văn Chiêu (1878-1932) là người đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài được dạy Pháp Môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi. Ngài có 08 năm hành đạo. Một cuộc đời hành đạo rất êm đềm.

Một năm hành đạo của Ngài Chiêu tính ra hơn 01 trang sách.

 

*/- Từ trang 361 đến 365 có 05 trang sách viết về Ngài Phạm Công Tắc (1890-1959) là một trong số 03 đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài được dạy về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngài có 35 năm hành đạo. Trong đó có hơn 05 năm bị thực dân Pháp lưu đày sang tận Madagascar (Phi Châu). Ngài là giáo chủ của Đạo Cao Đài hay Phật Giáo Chấn Hưng.

Bảy năm hành đạo của Ngài Tắc mới được 01 trang sách.

Như vậy xưng BAN TÍN SỬ có đáng tin không? Thuần chơn vô ngã là như vậy đó sao?

So sánh một chi tiết đó thôi đủ để người biết quan sát nghi ngờ cách làm việc của BAN TÍN SỬ & THUẦN CHƠN VÔ NGÃ.

 

 

* * *

 

PHẦN HAI:

PHÁP LÝ & THỰC TẾ.

“Về bắt Ấn Tý”

 

Tìm hiểu, nhận xét và phân tích những lời dạy về bắt Ấn Tý chúng tôi nhận thấy có hai cách khác nhau. Cụ thể là cách bắt Ấn Tý của Thầy và Đức Hộ Pháp giống nhau. Cách dạy bắt Ấn Tý của Hội Thánh KHÁC VỚI cách dạy bắt Ấn Tý của Thầy và Đức Hộ Pháp.

Lưu ý là chúng tôi phân tích thấy khác nhau thì nói khác chớ chẳng dám nói là Hội Thánh sai.

 Đây là tiểu phẩm biên khảo nên việc đầu tiên là trích nguyên văn. Kế đó là phân tích và đối chiếu.

Việc trích văn không nhứt thiết phải theo thứ tự thời gian mà căn cứ vào nội dung ở vào diện (trên dưới hay trong ngoài) để việc tìm hiểu được thuận lợi.

Sau đó là phần nghị luận. Nếu được rõ ràng thì đi tới kết luận. Việc kết luận không nhầm mục đích thuyết phục người đọc mà muốn hiệp tác với người đọc để đi đến tận cùng sự thực. Nó có thế nào thì phải được hiểu như thế ấy chẳng cần cường điệu hay xin được thông cảm.

 

* * *

 

1/- Bắt Ấn Tý theo lời dạy của Đức Chí Tôn.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển và Đạo Sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu có ghi lời dạy của Đức Chí Tôn về Ấn Tý.

1.1/- Ngày 25-02-1926.

ĐỨC CHÍ TÔN DẠY:

Khi bái lễ, hai tay con chắp lại, song phải để tay trái ấn TÝ, tay mặt ngữa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.

TNHT Q1, tr 11, bản in 1973.

1.2/- Từ Đạo Sử:

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm. Sài Gòn, Vendredi 25 Février 1926 (13-01-Bính Dần). (Tại nhà Ðức Cao Thượng Phẩm, đường Bourdais số 134). Thầy dạy về ấn Tý:

Phải chính mình con dâng các lễ ấy, khi bái lễ hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.

* * *

 

 

PHÂN TÍCH.

Theo chổ tìm hiểu của chúng tôi thì trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển và Đạo Sử Đức Chí Tôn dạy về bắt ấn Tý có một lần duy nhứt. Theo lời Thầy dạy có 04 thao tác.

Thứ nhứt: hai tay chấp lại (như trước nay đã làm).

Thứ hai: tay trái ấn Tý.

Thứ ba: tay mặt ngữa ra nằm dưới.

Thứ tư: tay trái nằm ở  trên.

Thầy không dạy các ngón khác phải làm như thế nào.

Lưu ý Thầy dạy: Tay trái ở trên tay mặt dưới.

Nghĩa là thứ tự của Thầy dạy là TRÊN & DƯỚI.

Thầy không có dạy (TAY MẶT ÁP NGOÀI) như trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo hay Thông Tri 05 năm 1971 của Hội Thánh.

Hội Thánh dạy theo thứ tự TRONG & NGOÀI.

Hẳn nhiên thứ tự (trên & dưới) KHÁC VỚI (trong & ngoài).

 

 

2/- ĐỨC HỘ PHÁP DẠY CÁCH BẮT ẤN TÝ. (1947).

Bần Đạo nhắc lại, người tín đồ Cao Đài luôn luôn nằm lòng lời minh thệ, đó là nghĩa vụ mà cũng là quyền lợi của mình. Phải ghi tâm mới giử được sự thương yêu bạn đồng môn; và chúng sanh là con chung của Đức Chí Tôn để khỏi bị thất thệ mà mình đã hứa: “Hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài...”. Cúng lạy phải tuân thủ tuyết đối thực hành nghiêm chỉnh và hoàn chỉnh: “Đàn không nghiêm thì Thầy không giáng”.

Chí Tôn đã dạy: Bắt ấn tý “khi bái lễ hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn tý, tay mặt ngữa ra nằm dưới, tay trái ấn tý chụp lên trên

Nghĩa là đầu ngón cái tay trái điểm vào gốc ngón áp út (cung Tý) nắm chặt lại để khủyu ngón tay trái ấn vào gốc ngón tay giữa (cung Sửu) tay mặt ngữa ra đỡ bàn tay trái rồi nắm lại, ngón cái của tay mặt điểm vào gốc ngón trỏ của tay trái (cung Dần) nắm chặt lại, tức nhiên các ngón của tay mặt không che khuất gốc của ba ngón trỏ, giữa và áp út của bàn tay trái (tức ba cung Tý, Sửu và Dần). Ấn tý là thể hiện Đức Chí Tôn nắm trọn Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn. Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Nhớ giữ ấn tý nơi ngực cho chặt, mắt ngó ngay Thiên Nhãn ấy là phương pháp tịnh tâm. Thể pháp hoàn chỉnh mới mong tìm được bí pháp đó vậy. Khi bắt ấn Tý tức điểm đủ Tam Tài. Xá và lạy cũng thực hiện Tam Tài đến với bản thể của chúng ta ở thể pháp mà Kinh Phật Mẫu có câu:

“Lập Tam Tài định kiếp hòa căn,

Chuyển luân định phẩm cao thăng”

Vậy ấn tý tiêu biểu cho Tam Kỳ Phổ Độ để chư môn đệ của Thầy sử dụng khi bái lễ Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng. Nếu bắt ấn tý không đúng, để bàn tay phải (âm) khi nắm lại trùm phủ ba cung Tý, Sửu, Dần tức bao trùm Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn ở bàn tay trái (dương) là một điều sai lạc rất hệ trọng “Dương thạnh tất sanh, Âm thạnh tất tử” sẽ có ảnh hưởng đến nghiệp đạo.

Chí Tôn đã dạy: “Nơi lòng Thầy ngự hễ động Thầy hay” nên ấn Tý luôn ở nơi ngực, tuyệt đối không được thả xệ xuống bụng mà thất lễ.

Bần Đạo nhắc lại lần nữa, khi xá và lạy đều thể hiện kỉnh đủ Tam Tài Thiên Địa Nhơn. Đưa tay lên trán: Kỉnh Thiên; xá thẳng hết tay, đầu hơi cúi: Kỉnh Địa; đưa về nơi ngực: Kỉnh Nhơn.

Đức Chí Tôn đã dạy: “Thập Nhị Khai Thiên là Thầy. Chúa cả càn khôn thế giới, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay, số 12 là số riêng của Thầy”.

Bái lễ Đức Chí Tôn thì ba lạy, mổi lạy bốn gật, mỗi gật phải niệm danh Thầy “Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.

Còn làm lễ Đức Phật Mẫu cũng ba lạy, mỗi lạy ba gật, mỗi gật niệm “Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn”.

 

* * *

 

 

PHÂN TÍCH.

Việc đầu tiên cần xác định là văn bản trên đây có phải là của Đức Hộ Pháp hay không?

Chúng tôi có được văn bản nầy chung với một số văn bản khác từ một vị Lễ Sĩ. Nhưng nhiều người nêu nghi vấn và cho rằng đây là văn bản giả danh Đức Hộ Pháp vì không thấy ghi là dạy ở đâu... một số vị còn dẫn chứng câu coi chừng Hộ Pháp giả của Tôn Sư dặn dò rồi kết luận đây là văn bản không đáng tin cậy. Nếu Đức Hộ Pháp dạy như vậy cớ sao Hội Thánh không đem thi hành???

Chúng tôi đem văn bản trình với nhiều vị chức sắc còn theo chơn truyền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để thỉnh ý xem văn bản trên có đáng tin hay không?

Tất cả các vị đều xác định rằng căn cứ vào nội dung và cách hành văn thì văn bản trên là của Đức Hộ Pháp.  Trưởng huynh Thừa Sử Lê Quang Tấn khi còn sanh tiền cũng xác định đây là lời dạy của Đức Hộ Pháp và đề nghị phải phổ biến sâu rộng văn bản nầy.

Song điều quan trọng nhất là lời dạy trong văn bản trên đây phù hợp với lời dạy của Đức Chí Tôn nên chúng tôi tin chắc rằng văn bản trên là của Đức Hộ Pháp. Nghĩa là căn cứ vào nội dung nên chúng tôi tin rằng đây là lời dạy của Đức Hộ Pháp.  Do vậy chúng tôi xin phép phân tích.

Lời dạy trên đây đúng với bốn thao tác căn bản của Đức Chí Tôn và chỉ dẫn tường tận hơn.

Thứ nhứt: đầu ngón tay cái (của bàn tay trái) bấm vào cung Tý, khuỷu ngón cái ấn vào cung Sửu.

Thứ nhì: ngón cái của tay mặt điểm vào gốc ngón trỏ của tay trái (cung Dần) nắm chặt lại

Thứ ba: các ngón của tay mặt không che khuất gốc của ba ngón trỏ, giữa và áp út của bàn tay trái (tức ba cung Tý, Sửu và Dần).

Cách bắt ấn Tý của Đức Hộ Pháp dạy cũng theo thứ tự TRÊN & DƯỚI. Bên trên là 03 ngón trỏ, giữa và áp úp phải lộ ra không bị che khuất. Bên dưới là 04 ngón trỏ, giữa, áp út và ngón út của bàn tay mặt.

Bảy ngón tay chia ra 03 ngón ở trên và 04 ngón ở dưới cho ta hình ảnh của Thất Đầu Xà 03 đầu Hỉ, Lạc, Ái ở trên bên dưới là Nộ, Ái, Ố, Dục. Còn nói về dịch lý (3/4) ứng với quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp.

* * *

Lời dạy trên đây cũng chỉ ra sự tai hại nếu bắt Ấn Tý sai:

Nếu bắt ấn tý không đúng, để bàn tay phải (âm) khi nắm lại trùm phủ ba cung Tý, Sửu, Dần tức bao trùm Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn ở bàn tay trái (dương) là một điều sai lạc rất hệ trọng “Dương thạnh tất sanh, Âm thạnh tất tử” sẽ có ảnh hưởng đến nghiệp đạo.

* * *

Tóm lại: Văn bản của Đức Hộ Pháp chỉ ra cách bắt Ấn Tý đúng và chỉ ra cái tai hại của bắt Ấn Tý sai.

ẢNH MINH HỌA.

Bắt Ấn Tý như vầy thể hiện thứ tự trên & dưới và không che khuất gốc 03 ngón trỏ, giữa và áp út. Điều quan trọng là tay trái ở trên và tay mặt ở dưới (theo lời Thầy dạy).

03 ngón trên và 04 ngón dưới cho phép ta liên tưởng đến Thất Đầu Xà...

Bắt ấn Tý như vầy cũng không che khuất GỐC của 03 ngón trỏ giữa và áp út (Tý Sửu Dần) nhưng không thể hiện thứ tự trên & dưới (tay mặt không ngữa ra và tay trái không nằm trên) mà thể hiện thứ tự trong & ngoài.

Thực tế rất khó bắt ấn tý theo thứ tự trong & ngoài mà phủ luôn gốc 03 ngón trỏ, giữa và áp úp được.

LƯU Ý: chữ ĐÚNG & SAI là nơi văn bản của Đức Hộ Pháp  chúng tôi không dám cải sửa. Phần chúng tôi đã thưa trước là nói khác nhau mà thôi (nhắc lại để khỏi phải tranh cãi hay chỉ trích nhau rất vô bổ).

VÌ SAO LỜI DẠY NẦY CÓ RẤT ÍT NGƯỜI BIẾT?

Tìm hiểu cuộc đời hành đạo của Đức Hộ Pháp khi còn mang xác phàm chúng ta thấy có 02 trường hợp:

./- Thấy sai Ngài chỉnh đốn ngay.

./- Thấy sai và cho biết cái sai mà không chỉnh đốn ngay lại dạy:

. Để đó ngày sau toàn đạo sẽ tính:

...Câu chú mà khi thượng sớ, chúng ta thường nghe đọc "TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN". Thật sự thì như vầy "TAM THIÊN THẾ GIÁI HỘ PHÁP GIÁNG LÂM". Từ trước đến giờ, các bậc tiền bối của chúng ta đã để như nói trên nên không thể sửa cải được, phải để y như vậy....

(LTĐ Ðền Thánh, đêm 14-02- Mậu Tý - dl. 24-03-1948).

 

* * *

 

Theo đây thì có sai nhưng Ngài không sửa, dạy cứ để y vậy nhưng nếu để y vậy thì người đời phê bình rằng TU LÀ SỬA mà quí vị thấy sai tại sao không sửa...? thì mới trả lời sao?

. Trường hợp chờ có tướng lễ ra đời sẽ chỉnh đốn.

Như trường hợp lạy Phật Mẫu khi dâng Tam Bữu. Đức Hộ Pháp lạy tổng cộng cho 03 bữu là 09 lạy (mổi lần cúi lạy 03 gật).

Bà Nữ Chánh Phối Sư lạy tổng cộng cho 03 bữu là 27 lạy (mổi bữu cúi lạy 03 lần, mổi lần 03 gật).

Khi có người thỉnh giáo Ngài trả lời:...cứ làm theo cách 27 lạy chờ sau nầy tướng lễ ra đời sẽ định....

(Chúng tôi hiểu tướng lễ là các văn bản chính thức của Hội Thánh ra đời chớ không phải là một người nào mang xác phàm gánh trách nhiệm làm Tướng Lễ. Bởi vì hành chánh tôn giáo có vị Tiếp Lễ Nhạc Quân nhưng vị đó chưa phải là tướng lễ.

Quyển QUAN HÔN TANG LỄ của Hội Thánh ban hành (1976) mới là tướng lễ của Đạo.

Hội Thánh nhìn nhận quyển QUAN HÔN TANG LỄ còn thiếu sót... nên nhân sự tôn giáo thỉnh giáo một số vấn đề Ngài Ngọc Đầu Sư và Hồ Bảo Đạo có bút phê rằng chờ khi chỉnh đốn quyển QUAN HÔN TANG LỄ sẽ giải quyết...(lời thỉnh giáo về việc bắt Ấn Tý khi cầu siêu như thế nào của Q Tiếp Lễ Nhạc Quân là một bằng chứng).

. Khuyên nhơn sanh tìm hiểu để hành xữ đúng mức quyền của mình. Diễn văn ngày 15-8-Quí Dậu (04-10-1933).

Bần đạo xin tỏ rằng : Duy bậc phẩm hèn của Đạo mới dày công nghiệp với Chí Tôn, còn có công nghiệp thì có đủ quyền hành, có quyền hành thì có tự do ngôn luận. Cũng vì chư Đạo hữu trong Hội Nhơn Sanh chưa hiểu rõ quyền hành nên Chức Sắc Thiên Phong lộng phép. (Xin chư Đạo hữu lưỡng phái đọc luật cho thường, rồi kiếm hiểu).

Tóm lại cách dạy của Ngài làm cho Tín đồ không đặng ỷ lại rằng: Các việc đúng sai đã có Hộ Pháp hay Hội Thánh lo hết rồi, mình không phải lo đến hay thắc mắc chi...ĐHP vẫn để khoản trống cho con cái Chí Tôn tìm hiểu và thể hiện khi thực thi tam lập.

Đức Chí Tôn không hề bồng ẩm con cái vào bất cứ một địa vị nào mà để cho nhân loại tự lập thân danh với đời với đạo thì Đức Hộ Pháp cũng đi trong khuôn viên ấy. Ngài chỉ đường dẫn lối cho Tín đồ lập vị mình nhưng Ngài không thể làm thay. Đó là pháp công bình.

 

* * *

3/- Kinh Tứ Thời Nhựt Tụng dạy về Ấn Tý (trang 49 & 50).

... Nay Đấng Chí Tôn giáng cơ tiếp điển mở Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hiệp đủ Phật, Tiên, Thánh là kỳ kiết quả độ đủ 92 ức nguyên nhân về nơi nguyên thỉ. Có câu sách Thiên Địa tuần hườn châu nhi phục thỉ, tam giáo qui nguyên, chấp tay hoa sen đã thành trái quả bên tay trái thuộc dương, ngón cái là mẫu chỉ, ngón trỏ là thực chỉ, ngón giữa là trung chỉ, ngón út là tiểu chỉ còn một ngón không tên là vô danh chỉ. Sách có câu vô danh thiên địa chi thỉ là trước khi Trời Đất chưa khai thì một khí không không sau định hội Tý mới mở trời nên chữ Tý ở tại gốc ngón tay vô danh. Khi mở Trời rồi mới có hữu danh vạn vật chi mẫu, muôn vật có hình chất đều thọ nơi mẫu mới hóa sanh. Nay đến hội Tam Kỳ kiết quả, độ hết cả quần linh về cõi Niết Bàn, chẳng để một điểm chơn linh ở miền Đông Độ. Nên ngón tay cái là mẫu chỉ vào chữ Tý, còn tay hữu ngón cái chỉ vào chữ Dần. Tay tả bốn ngón đều bao ngoài. Tay tả là nhơn vật quần linh tận qui nguyên vị. Tay tả là dương mà có ngón tay hữu âm chỉ vào, còn tay hữu âm mà có tay tả dương ở trong. Vậy nên kinh Diệc nói: Âm nội hữu chơn dương, dương nội hữu chơn âm, âm dương lưỡng cá tự, năng hữu kỳ nhơn tri. Như cách dạy nầy là thời kỳ dạy đạo. Còn người luyện đạo cách lạy cũng hai tay kiết quả nhưng mà khi lạy chí đất phải để hai bàn tay ngữa mới cuối đầu. cách lạy mầu nhiệm nghĩa lý sâu xa chưa đến kỳ Tịnh Thất nên chưa dám giải diệu mầu e lậu thiên cơ chẳng dễ.

 

* * *

 

PHÂN TÍCH.

Cách dạy bắt ấn Tý trên đây gồm các thao tác:

Thứ nhứt: chấp tay hoa sen

Thứ nhì: ngón tay cái (tay trái) chỉ cung Tý.

Thứ ba: bàn tay trái nắm lại (04 ngón bao ngoài).

Thứ tư: ngón tay cái (tay phải) chỉ ngay cung Dần.

Theo lời dạy trên đây chưa thể hiện rõ vị trí bàn tay trái và bàn tay phải theo thứ tự trên & dưới hay trong & ngoài. Nhưng các trích dẫn từ Kinh dịch: Âm nội hữu chơn dương, dương nội hữu chơn âm... cho phép ta nghĩ rằng thiên về thứ tự trong & ngoài.

Ngày nay Kinh Tứ Thời Nhật Tụng đã được thay thế bằng Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo. Nên phần Ấn Tý cũng chỉ mang tính tham khảo. Đối chiếu chúng ta thấy phần dạy quì trong Kinh Tứ Thời Nhật Tụng lại bị bỏ sót không đưa vào Kinh Thiên Đạo & Thế Đạo. Thiết tưởng ngày sau cần bổ túc phần dạy cách quì.

 

 

* * *

4/- Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

Chấp hai tay lại như dưới đây:

Tay trái bắt Ấn-Tý (Bắt ấn tý nghĩa là: bấm đầu ngón tay cái vào gốc ngón tay áp út) rồi nắm lại. Kế đó, bàn tay mặt áp ngoài, rồi ngón cái (tay mặt) xỏ vô giữa ngón cái và ngón trỏ bên tay trái.

Để hai tay như vậy mà đưa lên trán, xá sâu ba xá rồi quì xuống đưa hai tay lên trán như trước mà niệm ''Nam-mô Phật''; đưa qua bên trái niệm ''Nam-mô Pháp''; đưa qua bên mặt niệm ''Nam-mô Tăng'', rồi để ngay ngực mà niệm:

.... Khi lạy thì 2 bàn tay trải ra và hai ngón cái phải gác tréo nhau.

 

* * *

 

 

PHÂN TÍCH.

Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo in lần đầu năm 1936.

Chúng tôi không có đầy đủ bản in các năm để đối chiếu lời dạy về Ấn Tý. Nhưng các bản kinh in năm 1968, 1974 và 1975 lời dạy về Ấn Tý đều giống nhau. 

Theo lời dạy trong kinh thì bàn tay trái và bàn tay phải theo thứ tự trong & ngoài (bàn tay mặt áp ngoài).

Các thao tác như sau:

Thứ nhất: ngón cái bàn tay trái chỉ ngay cung Tý rồi nắm lại.

Thứ hai: bàn tay mặt áp ngoài.

Thứ ba: ngón cái bàn tay phải xỏ ngay cung Dần (xỏ vô giữa ngón cái và ngón trỏ bên tay trái).

Thứ tư: khi lạy thì 2 bàn tay trải ra và hai ngón cái phải gác tréo nhau.

* * *

Về khoản 02 ngón tay gác chéo nhau ông Lễ Sanh Thái Quý Thanh cho biết trong khi ông học Hạnh Đường có người thỉnh giáo Ngài Bảo Đạo: tay tả là dương, tay hữu là âm. Gác 02 ngón tay như vậy là để âm lên trên dương, như vậy có phải là âm thạnh dương suy hay không?. Ngài khen câu hỏi rất hay nhưng không trả lời.

Theo thiển nghĩ khi lạy thì 2 bàn tay trải ra và hai ngón cái phải gác tréo nhau theo thứ tự trên dưới: ngón cái tay phải (âm) trên ngón cái tay trái (dương) như vậy tượng cho quẻ Địa Thiên Thái.

Theo dịch lý quẻ Thái có 03 hào âm ở trên và 03 hào dương ở dưới; khí âm nặng vốn ở dưới thông thương nhau được nên lên trên và khí dương vốn nhẹ nên ở trên thông thương nhau được nên xuống dưới. Sự thông thương như vậy tạo nên sự chuyển hóa lẫn nhau nên dịch lý cho đó là tốt (THÁI).  Cũng như trong một tổ chức mà trên (thượng tầng) và dưới (hạ tầng) có sự trao đổi mới thông hiểu nhau được. Còn như khí dương ở trên không xuống dưới được và khí âm không lên trên được thì là BĨ. Vì trên dưới không thông nhau là bế tắc.

 

5/-  Các văn bản khác của Hội Thánh.

5.1/- Thông Tri số 05 của Văn Phòng Ngọc Chánh Phối Sư ngày 06-02-Tân Hợi (02-03-1971).

...Phần bắt Ấn Tý cúng Thầy phải giử đúng theo lời dạy của Đức Chí Tôn và Hội Thánh. Nghĩa là ngón tay cái trái bấm vào ấn Tý rồi nắm lại, tay mặt áp ngoài, ngón cái tay mặt bấm vào ấn Dần chớ không được gác ngan, qua ngón trỏ bàn tay trái, hoặc thọc sâu bên trong lòng bàn tay trái, là trái pháp. Bởi Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần đó là “bí pháp” của Đức Chí Tôn vậy.

(cuối văn bản còn có hình vẽ minh họa cách bắt Ấn Tý theo thứ tự trong ngoài rất rõ ràng).

* * *

 

PHÂN TÍCH

Hội Thánh dạy: ...Nghĩa là ngón tay cái trái bấm vào ấn Tý rồi nắm lại, tay mặt áp ngoài, ngón cái tay mặt bấm vào ấn Dần chớ không được gác ngan, qua ngón trỏ bàn tay trái, hoặc thọc sâu bên trong lòng bàn tay trái, là trái pháp.

Nghĩa là tay trái ở TRONG tay phải BAO NGOÀI. Hội Thánh dạy theo thứ tự trong & ngoài.

Cho dù Hội Thánh viết rằng đúng với lời dạy của Đức Chí Tôn, song phân tích chúng ta thấy TRONG & NGOÀI chắc chắn là khác với TRÊN & DƯỚI.

Nói cách cụ thể thì:

Nóc nhà và nền nhà thể hiện cho trên và dưới.

Căn nhà và tường rào thể hiện cho trong và ngoài.

(Chúng tôi nhấn mạnh rằng KHÁC chớ chẳng dám nói là sai, xin các vị bảo thủ chơn truyền vui lòng đối chiếu lời dạy của Hội Thánh với lời dạy của Đức Chí Tôn đừng vội cho là nghịch mạng với Hội Thánh để phủ nhận đề tài.

Nói rõ như thế vì trên thực tế chúng tôi đã từng gặp nhiều vị phán rằng Hội Thánh dạy vậy... nay có ý kiến khác thì các vị giỏi hơn Hội Thánh rồi hay là các vị muốn làm Hội Thánh.

ĐĐTKPĐ đang đứng trước vô vàn khó khăn, có được những đồng đạo hiệp đồng nhau bảo thủ chơn truyền là rất đáng trân trọng do vậy chúng tôi không muốn tự chúng ta làm suy yếu hay mất một bằng hữu nào nên trình bày mọi lẽ để hiểu đúng lời Thầy dạy mà thôi)  

 

5.2/- Bắt Ấn Tý khi cầu siêu.

Năm 1980 Vị Q Tiếp Lễ Nhạc Quân có thỉnh giáo về cách bắt Ấn Tý như thế nào về cầu siêu...

Nguyên văn như sau:

HĐCQ.

VP. TLNQ.

SỐ:87/TLNQ.

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.

(Ngũ Thập Ngũ Niên).

Tòa Thánh Tây Ninh.

THỈNH GIÁO.

Q.  Tiếp Lễ Nhạc Quân

Hội Viên HĐCQ phụ trách nghi lễ.

Kính dâng Hội Đồng Chưởng Quản.

Theo thông lệ mổi khi có cầu siêu nơi Đền Thánh thì toàn thể Chức Sắc và Đạo Hữu đều bắt Ấn Tý.

Riêng tại Báo Ân Từ và Khách Đình toàn thể đều khoanh tay đọc kinh. Đến khi dứt kinh niệm câu chú của Thầy cả thảy mới bắt Ấn Tý.

Hai trường hợp trên có được đúng hết hay không?

Do đó nên Tôi kính dâng Hội Đồng Chưởng Quản hoan hỉ chỉ giáo để có sự thống nhất theo chơn truyền của Đạo.

Lễ phép kính dâng.

Nay kính.

Ngày 18-12-Kỷ Mùi.  (04-02-1980).

Q Tiếp Lễ Nhạc Quân.

Nhạc Sư Võ Thành Tươi.

(Ấn Ký).

 Đồng ý với Hiền Huynh Ngọc Đầu Sư Cửu Trùng Đài.

Sự việc nầy là một thủ tục từ khi Tôi mới về Đạo đến nay. Vậy chờ khi bổ túc quyển Tang Lễ hoặc khi có cơ bút thỉnh giáo sẽ quyết định sau.

Ngày 22-12-Kỷ Mùi.

(09-02-1980).

Bảo Đạo. Q CQ HTĐ.

(Ấn Ký).

Kính chuyển đến Hiền Huynh Bảo Đạo Q Chưởng Quản HTĐ xin có ý kiến.

HĐCQ  hôm phiên họp ngày 18-12-Kỷ Mùi có ý kiến: Tạm thời đình lại chờ khi điều chỉnh và bổ túc thêm quyển Tang Lễ thống nhất sẽ quyết định. Hiện tại cứ giử theo tình trạng củ.

Ngày 19-12-Kỷ Mùi.

(05-02-1980).

Ngọc Đầu Sư.

(Ấn Ký).

 

* * *

 

 

PHÂN TÍCH.

Có nhiều người nói rằng Hội Đồng Chưởng Quản là một chi phái...sao lại đem vào đây?

Xin thưa rằng: Năm 1980 Hội Đồng Chưởng Quản còn trong mạng lịnh Hội Thánh ĐĐTKPĐ. Đến năm 1997 HĐCQ mới ra khỏi mạng lịnh Hội Thánh thành một Chi Phái...với danh hiệu 10 chữ.

Diễn tiến cụ thể như sau:

Ngày 04-02- Kỷ Mùi (01-03-1979) Hội Thánh ký Đạo Lịnh 01.

ÐIỀU THỨ HAI:

Tất cả chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng  Nam, Nữ từ phẩm Giáo Hữu và các phẩm  tương đương trở lên, hợp thành một Hội Thánh duy nhứt là: HỘI THÁNH ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ gồm:

- Hiệp Thiên Đài  nhiệm vụ bảo vệ Giáo pháp Chơn truyền của Ðạo.

- Cửu Trùng Đài nhiệm vụ Giáo hóa và Phổ độ nhơn sanh trên đường Ðạo và đường Ðời.

Hội Thánh ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ Ðộ lập một Cơ quan hành Ðạo duy nhứt tại Tòa Thánh là: Hội Đồng Chưởng Quản của HỘI THÁNH ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ gồm có.

Một Chưởng Quản.

Một Phó Chưởng Quản

Một Từ Hàn

Một Phó Từ Hàn

Tám  Hội Viên.

*  Hội Đồng Chưởng Quản của HỘI THÁNH ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ thay mặt cho Chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng  với chức năng và nhiệm vụ sau đây:

a)- Là Cơ quan Thường trực của Hội Thánh, chịu trách nhiệm trước Hội Thánh và Toàn Ðạo, quản lý nền Ðạo về mặt tín ngưỡng từ Trung ương Tòa Thánh đến các Thánh Thất và Ðiện Thờ ở địa phương; chăm lo sự nghiệp tu hành cho Chức sắc và toàn Ðạo, xây dựng Thánh Thể hữu hình của Ðức Chí Tôn đời này qua đời khác.

b)- Hội Đồng Chưởng Quản hành Ðạo theo nguyên tắc Dân chủ tập trung, cá nhân phụ trách, chấp hành nghiêm chỉnh và đứng đắn Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Giáo pháp Chơn truyền của Ðạo và các biểu quyết của Hội Thánh về mặt Ðạo, lập các Ðạo Lịnh, Thông Tri, Huấn Lịnh, chỉ đạo chư Chức sắc Nam Nữ làm nhiệm vụ giáo hóa và phổ  độ nhơn sanh trên đường Ðạo và đường Ðời.

 

* * *

Đạo lịnh 01 xóa hành chánh 05 cấp (Trung Ương, Trấn, Châu, Tộc và Hương Đạo) LẬP RA hành chánh 02 cấp (Trung Ương và địa phương). Cho dù không tán thành chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng Đạo Lịnh 01 có đầy đủ mạng lịnh Hội Thánh trong đó (11 con dấu và chữ ký “trong đó có Ấn Ký vị Thời Quân Bảo Đạo Q Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài).

Nhiều vị không ưng lý luận rằng Hội Thánh không có đủ quyền ký Đạo Lịnh 01. Nhưng Pháp Chánh Truyền chú giải phần HTĐ có qui định về quyền năng dây sắc lịnh:

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt".

CHÚ GIẢI: Vì lời khuyên của Thầy mà Đức Lý Giáo Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài phải Minh Thệ giữa Hội Thánh rằng: Lấy dạ vô tư mà hành Đạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên Đài thật trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Đồ và cả Chức Sắc Thiên Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp Thiên Đài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành chánh nơi nào, thì phải tuân mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chìu theo, chỉ để cho Hội Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức Sắc nào đã thọ quyền của Hiệp Thiên Đài cũng phải minh thệ, y như vậy mới đặng hành chánh

 

* * *

 

Những phẩm nào có dây sắc lịnh?

Có 15 phẩm có dây sắc lịnh. Đó là 03 vị Chưởng Quản 03 chi: Đạo, Pháp, Thế (Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh) và 12 vị thời quân của 03 chi.

Ngài Bảo Đạo được ban dây sắc lịnh. Do vậy trong hành chánh tôn giáo Ngài có đầy đủ quyền ký Đạo Lịnh 01.

Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh làm áp lực buộc Hội Thánh  thành lập Hội Đồng Chưởng Quản. Họ viết trong bản thảo: Hội Đồng Chưởng Quản  Hội Thánh ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ.

Cách viết lập lờ nầy tạo thế cho HĐCQ đứng trên Hội Thánh.

Ngài Ngọc Đầu Sư xem xong viết thêm chữ CỦA: Hội Đồng Chưởng Quản CỦA  Hội Thánh ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ.

Hội Thánh rõ ràng là đứng trên HĐCQ.

HĐCQ do Ngài Bảo Đạo Chưởng Quản thì đạo sự vẫn trôi chảy, chơn truyền vẫn được bảo thủ. Chánh sách phá hoại tôn giáo của chánh quyền bị thất bại... nên sau đó họ tìm cách phế truất Ngài Hồ Bảo Đạo xuống hàng Đạo Hữu và quản chế Ngài tại tư gia. Năm 1986 khi sức khỏe Ngài kém chánh quyền có tới tư gia Ngài nhiều lần vận động Ngài viết ĐƠN XIN PHỤC HỒI PHẨM BẢO ĐẠO để làm đám tang theo nghi thức Thời Quân...

Ngài trả lời chánh phủ định sao là quyền của chánh phủ...phần của Ngài không có xin gì với chánh phủ hết...câu trả lời rất nhỏ nhoi mà đầy quyền thế, dường như yếu ớt mà thật ra rất mạnh mẽ... chánh phủ hết phép.

 Ngày 18-12-Bính Dần (17-01-1987) Ngài tạ thế cả chánh quyền (Mặt Trận Tổ Quốc, Ban Tôn Giáo...) và Hội Đồng Quản Lý, Ban Cai Quản Thánh Thất Đệ Tam (Phận Đạo Đệ Tam)... họp tại văn phòng xã Hiệp Tân, bàn thảo rất lâu xem phải hành đám theo phẩm nào?

Cuối cùng chánh quyền mới ra lịnh làm theo phẩm Đạo Hữu.

Khi tế điện cầu siêu người Đạo đến cúng tế rất đông. Các mâm tế đem đến trước còn có chổ để, các mâm tế đem đến sau không có đủ ghế nên phải để dưới đất. Chính quyền theo dõi thấy người đạo tôn kính Ngài Bảo Đạo như vậy nên tức tối và lo sợ mới ra lịnh cho ông Lễ Sanh Thượng Tiếng Thanh (Trưởng Ban Cai Quản Phận Đạo Đệ Tam) chịu trách nhiệm hành đám tang phải rút ngắn chương trình tang lễ.

Ông Lễ Sanh trả lời rằng chính các ông ra chương trình tang lễ và chúng tôi đã niêm yết công khai. Nay các ông muốn rút ngắn chương trình thì cứ ra chương trình mới để chúng tôi niêm yết và thi hành. Còn như ra lịnh miệng như thế khó làm việc lắm... chính quyền hội ý với nhau rồi cuối cùng để y, không ra chương trình mới...

 

* * *

 

Nhiều văn bút viết rằng Đạo Lịnh 01 ngưng cơ bút.

Vậy có đúng với sự thật hay không? 

Văn Tịch Pháp Nhơn Luân Chi Đạo của Ngài Hồ Bảo Đạo trang 87 có nội dung:

Ngày 01-10- Đinh Tỵ (11-11-1977) Hội Đồng Chánh Phủ Việt Nam ra nghị quyết 297 về một số chánh sách đối với tôn giáo.

Qui định khoản 3 phần 6: Việc phong chức, bổ nhiệm những người chuyên hoạt động tôn giáo (kể cả những người do tín đồ bầu cử) phải được chánh quyền chấp thuận trước. Tuỳ theo phạm vi hoạt động Tôn giáo của những người nầy  trong một Xã, Huyện, Tỉnh hoặc Thành Phố mà Uỷ Ban Nhân Dân Xã Huyện Tỉnh hoặc Thành Phố chấp thuận. Nếu phạm vi hoạt động tôn giáo bao gồm nhiều Tỉnh thì phải do Thủ Tướng Chánh Phủ quyết định.

Chương II- Điều 10  có nội dung: những cuộc họp của Tôn giáo mà thành phần nhân sự bao gồm nhiều Tỉnh thì phải xin phép thủ tướng chánh phủ ….

* * *

 

Ngày 23-12- Đinh Tỵ (31-01-1978). Ngài Hồ Bảo Đạo và Ngọc Đầu Sư (Ngọc Nhượn Thanh) trình trong phúc sự chung niên rằng:

Nghị quyết 297 là sợi xích thằng trói buộc Đạo Cao Đài… nên Hội Thánh quyết định ngưng các cuộc cầu phong và cầu thăng để giử giá trị thiêng liêng cao quí của phẩm tước Chức Sắc Thiên Phong không chịu đặt Đạo Cao Đài do Thượng Đế thành lập dưới quyền của phàm tục.

Ngày 19-8- Mậu Ngọ (20-9- 1978) Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh  ban hành “Bản án Hoạt Động Phản Cách Mạng Của Một Số Tên Phản Động Trong Giới Cầm Đầu Giáo Phái Cao Đài Tây Ninh”  và triễn khai rộng rãi….

Ngày 23-12-1978 Báo Tây Ninh bộ mới số 47 có đăng quyết nghị của Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh kỳ 6 khoá 1 nơi  điều thứ 3 và 4 như sau:

Ðiều 3: Giải tán và nghiêm cấm hoạt động hệ thống tổ chức hành chánh đạo từ trên đến cơ sở, xoá bỏ và nghiêm cấm cơ bút.

Chánh quyền sẽ quản lý toàn bộ các cơ sở vật chất mà Ðạo đang quản lý kinh doanh không thuộc chức năng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích xã hội.

Ðồng thời căn cứ vào tính chất tu hành, chánh quyền sẽ qui định cụ thể số cơ sở để lại Ðạo quản lý và số người trong từng cơ sở để chuyên lo về mặt tín ngưỡng.

Ðiều 4: Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh chịu trách nhiệm tổ chức chỉ đạo, thực hiện thắng lợi Nghị quyết này, và báo cáo kết quả lên cấp trên, và Hội Ðồng Nhân Dân Tỉnh trong kỳ họp tới.

Ngày 12-01 1979 Hội Thánh ra Thông tri số 01.

Ngày 01-3-1979 Hội Thánh ra Đạo Lịnh 01.

 

* * *

Qua các sử liệu trên chúng ta thấy Ngài Bảo Đạo và Ngọc Đầu Sư CHỦ ĐỘNG xin với thiêng liêng ngưng cơ bút TRƯỚC KHI có Bản Án Cao Đài. Mục đích ngưng cơ bút là:  để giử giá trị thiêng liêng cao quí của phẩm tước Chức Sắc Thiên Phong không chịu đặt Đạo Cao Đài do Thượng Đế thành lập dưới quyền của phàm tục.

Thời gian và ý chí việc xin ngưng cơ bút rõ ràng như thế mà văn bút của nhiều người cứ viết tràn lan rằng Đạo Lịnh 01 (1979) ngưng cơ bút. Thứ nữa họ lập luận rằng Đạo Cao Đài do cơ bút mà có... nay ngưng cơ bút là xóa bỏ Đạo Cao Đài... và công khai xin với chính quyền cho dùng cơ bút.

Việc cơ bút của Đạo sao lại phải xin với chánh quyền? Chính Hội Thánh xin với thiêng liêng ngưng cơ bút chớ đâu có trình trước với chánh quyền. Thẳng thắn mà nói nếu xin chánh quyền chưa chắc đã cho. Bởi vì chánh quyền cộng sản từng lợi dụng cơ bút để giết đạo bằng cách lập ra chi phái.

Tạp chí Cao Đài do các chi phái xuất bản đã viết rất rõ rằng: Trong thời kỳ chiến tranh Đảng Cộng Sản Việt Nam đã dùng cơ bút để lập hết chi phái nầy đến chi phái khác, hết tổ chức nầy đến tổ chức khác để chống phá chơn truyền của Đạo. Đa số chi phái trước ngày 30-04-1975 đều do Đảng dùng cơ bút lập ra. Sau ngày 30-4-1975 Đảng lập thêm chi phái mới năm 1997 mà không có cơ bút. Họ phải lập ra chi phái mới trong thế yếu và bị động chính là do Hội Thánh xin ngưng cơ bút. Lập chi phái 1997 không qua cơ bút là tử huyệt đã lộ ra.    

Sau ngày 30-4-1975 nếu Đảng khống chế đồng tử rồi dùng đàn cơ ở Cung Đạo lập ra những nội dung trái với chánh giáo...phong chức cho nhân sự họ cài vào tôn giáo... Người của họ cài vào có đủ tư cách của Hội Thánh rồi ký lịnh phải thế nầy thế khác SAI VỚI CHƠN TRUYỀN thì người còn tin vào chánh giáo làm sao đối phó? Hội Thánh ngưng cơ bút là đã mở thế thượng phong cho chánh giáo.

Việc ngưng cơ bút chính là yếu tố quyết định để bảo tồn chánh giáo của Đức Chí Tôn không qui phàm vậy. Cú đột phá sáng suốt và mạnh mẽ của Hội Thánh đã làm cho Đảng Cộng Sản Việt Nam không còn biến hóa chi được. Tiếp đó là cuộc đấu tranh của chức sắc, chức việc và nhơn sanh từ các nơi đòi thực hiện điều 04 của Đạo Lịnh 01 (1979) để chấn chỉnh cơ Đạo. Đảng bí quá phải hiện nguyên hình là quỉ vương nên họ đở đầu cho HĐCQ lập ra chi phái vào năm 1997.

Năm 1997 Hội Đồng Chưởng Quản tự thành lập một chi phái mới với danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh.

Cho HĐCQ thành chi phái là để giết đạo nên mọi việc của chi phái không có giá trị với cái gốc là ĐĐTKPĐ.

Báo Xa Lộ Pháp Luật số 36 ra ngày 17/8/2013 trang 16 cột bốn dòng 26 viết: 

...Hiện nay, Cao Đài Tây Ninh được nhà nước công nhận là một trong chín chi phái Cao Đài hoạt động hợp pháp ở Việt Nam.

Chứng cứ rành rành ra đó chối cải nổi gì.

 

 

5.3/- Khi nào thì bắt Ấn Tý?.

Khi còn bé Mẹ có dạy chúng tôi rằng khi lạy ông bà các con không bắt Ấn Tý mà để hai ngón cái song song nhau. Mẹ không biết chữ nhưng biết Đạo và tin Đạo nên dạy chúng tôi cúng lạy từ khi còn thơ bé như vậy. Thời đó không có đèn điện, nhà đốt đèn bằng dầu hôi. Tối tối có khi Mẹ lấy quần áo ra kết lại nút áo, hay vá chiếc quần mà chúng tôi làm rách. Thời thơ ấu chúng tôi thường phải mặc quần áo đến khi rách mới được thay quần áo mới. (Bây giờ ít ai mặc đồ đến rách mới thay...trong số ít đó lại có Tôi trong đó, lắm khi con Tôi cười chúm chiếm hỏi sao đồ củ rồi ba không thay...Tôi cũng cười nói còn xài được mà con, cái dĩ vãng mặc đồ cho tới rách và Mẹ ngồi vá quần áo liền sống lại trong tôi rất ấm áp, rất ngọt ngào...). Có khi lớn nhanh quá đồ chật mà còn tốt thì Mẹ giặt thật sạch rồi giao cho đứa em kế mặc khính... Mẹ không biết câu Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn... nhưng chính cuộc sống của Mẹ thể hiện đức tính tốt đẹp đó. Chúng tôi đem đồ sứt nút, đứt dây lưng hay rách ra... nhìn tay Mẹ cầm cây kim sáng bóng thoăn thoắt dưới ánh đèn và nghe Mẹ kể chuyện... khi bỏ quê hương chạy loạn về Tòa Thánh với hai bàn tay trắng. Thánh Địa khi ấy còn nghèo chưa phát triễn muốn đi làm mướn (cấy, gặt...) cũng không ai có việc gì để mướn. Mẹ đi mót lúa nhưng chủ ruộng bảo họ chỉ có ít ruộng nên phải để họ mót mới đủ sống... Mẹ thất thiểu đi hái rau rừng đào củ nần đem về rắm rồi tẻ nước nhiều lần cho bớt độc để ăn thay cơm. Sau đó Đức Hộ Pháp phát động chương trình trồng mì, trồng lúa... Thánh Địa mới lần hồi có công ăn việc làm, nạn đói lui dần...

Hội Thánh mở rộng trường lớp Đạo Đức Học Đường... buộc phải cho trẻ em đi học nhờ vậy mà các con biết chữ... những người ở xa thì Bàn Trị Sự vận động người biết chữ mở lớp dạy tại nhà (với học phí rất nhẹ) để giúp cho trẻ em khỏi phải thất học.

Khi lớn lên quan sát xã hội, nhìn lại thời thơ ấu và tìm hiểu ĐĐTKPĐ chúng tôi được các vị tiền bối chỉ ra rằng Hội Thánh ĐĐTKPĐ đã ÂM THẦM làm cuộc CÁCH MẠNG XÃ HỘI BẰNG ĐẠO ĐỨC rất rõ ràng cho cư dân Thánh Địa (để làm mẫu mực cho hậu tấn noi theo đó mà hành sự). Cuộc CÁCH MẠNG XÃ HỘI BẰNG ĐẠO ĐỨC có 05 chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo.

Gia cư: Cấp KHÔNG cho mổi gia đình chạy về Thánh Địa một phần đất và buộc phải cất nhà ở nếu không sẽ bị thu hồi. Những người tham lam xin nhiều phần đất cũng bị thu hồi.

Mưu sinh: Buộc phải làm ruộng hay rẫy hoặc tiểu thủ công nghiệp để mưu sinh, cương quyết không để cho nạn đói kém xãy ra.

Giáo Huấn: Điều nầy được thể hiện trong Tân Luật (ban hành ngày 01-06-1927) phần Đạo Pháp chương VI: VỀ GIÁO HUẤN. Điều 23, 24 và 25.  Phần Thế Luật điều thứ 13.

Nhưng quan trọng là Hội Thánh bám sát và đôn đốc thực hiện. mười năm sau (1937) Hội Thánh đã tính đến chuyện giao việc giáo dục bậc Tiểu học và Trung học cho các địa phương để Hội Thánh rãnh tay lo Đại Học Đường (vi bằng Hội Nhơn Sanh năm Đinh Sửu-1937).

Kiến thiết: dù còn nghèo và cư dân còn thưa thớt nhưng Hội thánh đã có qui hoạch từ đầu về đường xá, chợ búa, trường học.... đây là điều mà đến năm 2013 qua nhiều thời kỳ chánh phủ tại Việt Nam không thể nào sánh kịp.

Tôn giáo: Nề nếp tôn giáo là mẫu mực. Sự thờ phượng, cúng kiến, chay lạt, tương thân tương trợ, tinh thần phụng sự vô vụ lợi...là thể pháp tôn giáo được thực hiện xuyên suốt nên biến thành thể pháp xã hội.

Năm điểm trên chính là những điều căn bản cho một xã hội hòa bình, tự do, dân chủ và nhân quyền. Hội Thánh đã thực hiện CUỘC ĐẠI CÁCH MẠNG mà không thể công khai vì Đạo chưa đủ mạnh nên sẽ bị thực dân Pháp tiêu diệt từ trong trứng nước. Đây là bài học mẫu mực cho ĐĐTKPĐ áp dụng khi xây dựng đạo nghiệp ở bất cứ nơi nào trên bước đường phổ độ chúng sanh. Đạo có nhiệm vụ giải quyết CÁI KHỔ của chúng sanh mà không có chương trình trên lấy gì giải quyết?

Người đi năm châu bốn biển nếu chú ý quan sát và tôn trọng sự thật phải nhìn nhận rằng:

./- Thánh Địa là nơi có nhiều người ăn chay nhất thế giới. Người ăn chay đi trong vùng Thánh Địa sẽ gặp rất nhiều quán ăn chay rất ngon và rất rẽ... và bảo đảm dinh dưỡng lẫn vệ sinh vì thường thì người bán thức ăn chay cũng ăn chay.

./- Thánh Địa là nơi có rất nhiều người có tinh thần làm công quả phụng sự xã hội. Đặc biệt tinh thần phụng sự về tang tế sự thì không nơi nào trên thế giới nầy sánh được. Xã hội đang dần dần nhận ra rằng ĐĐTKPĐ rất trân trọng con người khi sống và chết (nhân phẩm) nên tang lễ của Đạo rất trang nghiêm, chu đáo, dùng toàn đồ chay lạt và tinh thần công quả hoàn toàn. Bất cứ ai có Đạo hay không có Đạo khi lâm chung mà có lời nhờ thì Đạo lập tức có mặt để giúp đở cho tang lễ từ A đến Z.

./- Kiến thiết của Thánh Địa về hạ tầng giao thông tỷ lệ đường xá rất lớn đáp ứng cho đại đô thị. Kể cả trường hợp đột xuất trong một thời gian ngắn mà lượng người về rất đông cũng bảo đảm lưu thông không tiềm ẩn tai nạn dẫm đạp nhau đến chết... Quan sát lễ Hội Yến Diêu Trì Cung hằng năm vào ngày rằm tháng tám hằng năm (số lượng người dự lễ rất đông từ ngày 13...đặc biệt đêm 15 sáng 16 hầu như chen chân không lọt. Nhưng đến sáng 16 hầu như nội ô Tòa Thánh vắng lặng) cho phép chúng ta tin chắc như vậy.

Địa linh thì sinh nhân kiệt. Một tinh thần đạo đức như thế hẳn phải có nơi kết tinh để làm bằng chứng với nhân loại. Chúng tôi muốn đề cập đến chương trình PHƯỚC THIỆN của Bác Sĩ Nha Khoa Bùi Quốc Thái.

Mang trong lòng một tinh thần phụng sự như thế nên Châu Thành Thánh Địa sản sinh ra Bác Sĩ Bùi Quốc Thái và đội ngũ cộng sự với những cơ sở trị bịnh miễn phí hoàn toàn. Người đến trị bịnh được cấp thuốc miễn phí, đãi ăn miễn phí và nếu không có chổ ở thì Bác Sĩ Thái cung cấp luôn nơi ở. Nghèo quá không có tiền xe khi về còn được cấp tiền xe. Một số xe đò ở Việt Nam cũng hưởng ứng tinh thần Phước Thiện nên hành khách nói rằng đi lên Tây Ninh hốt thuốc Bác Sĩ Thái thì nhà xe giảm tiền tùy người và tùy xe... Song điều quan trọng là nó thể hiện rằng tinh thần Phước Thiện đã được xã hội hưởng ứng.

Rất nhiều người đạo nghèo đi làm mướn kiếm sống, thấy cây chi làm thuốc được mọc hoang thì nhổ hay chặc đem về còn như có chủ thì xin đem về. Họ phơi khô rồi buổi tối bày vạc và cho vào bao... hôm sau đi làm tiện đường thì chở theo rồi ghé ngang giao cho bác sĩ lo cho bệnh nhân. Nhiều người dành dụm được ít tiền thì mua gạo, thức ăn...đem đến phụ lo ăn cho người bệnh. Có những đoàn giàu lòng hảo tâm xa gần lo sẳn thức ăn hẹn rằng ngày tháng đó họ sẽ đến nấu món gì, bao nhiêu phần... để cho bệnh nhân và công quả dùng...dĩ nhiên là thức ăn chay. Nhiều người khỏi bệnh rồi cảm ơn bằng cách tình nguyện ở lại làm công quả một thời gian.

Nhiều người ở xa nghe tiếng tự họ tìm đến quan sát và tìm hiểu rồi lặng lẽ mua nhà và đất xây dựng nên cơ ngơi hẳn hoi với những tiện nghi ăn ở, vệ sinh tối thiểu cho nhiều người sinh hoạt được rồi mời bác sĩ đến xem và giao cho bác sĩ dùng để phục vụ cho bệnh nhân.

Đội ngũ chuyên môn hợp tác với Bác sĩ Thái đều là người có bằng cấp chuyên môn hẳn hoi và dĩ nhiên là làm công quả. Thành phần công quả căn bản đều phải thọ trường chay (với thành phần căn bản nếu chưa có chuyên môn thì lo cho đi học chuyên môn...). Thành phần công quả hợp tác khi có thời giờ thuận tiện thì tùy theo chuyên môn có sẳn, với diện nầy không phân biệt tôn giáo hay chính kiến miễn có lòng phụng sự thì kết hợp được.

Đó là tinh thần PHƯỚC THIỆN chân chính của ĐĐTKPĐ.

Chánh quyền Việt Nam vẫn đố kỵ ĐĐTKPĐ nên đố kỵ luôn công việc Phước Thiện nầy. Họ sách nhiễu dưới nhiều hình thức mà một trong những chiêu thức thông thường nhất là kiểm tra tạm trú tạm vắng để đuổi người bệnh ra khỏi cơ sở.

Chiếc phao cuối cùng của những người nghèo khó và bệnh tật đã bị chánh quyền Việt Nam tước đoạt và dẹp bỏ... để mặc người bệnh hoạn và nghèo khó tự bơi trong khốn khó và tuyệt vọng... Họ đã bịnh và nghèo tiền đâu chạy chữa trong những cơ sở của chánh phủ?  Chính quyền đuổi người bệnh ra khỏi những cơ sở Phước Thiện của Bác Sĩ Thái là hành động rất tàn nhẫn và vô nhân đạo.

Chi phái Hội Đồng Chưởng Quản thì càng ghét chương trình Phước Thiện nầy hơn nữa nên ra lịnh cho nhân sự của họ không được đến cơ sở của Bác Sĩ Thái xem bệnh hay hốt thuốc. Chúng tôi ghi nhận điều có thật (do nhân sự của chi phái than thở ra mới biết) còn lý do vì sao HDCQ cấm như vậy thì chúng tôi không biết.

Chính quyền lẫn chi phái ông Cựu Dân Biểu Quốc Hội Nguyễn Thành Tám đều không ưa và muốn triệt tiêu chương trình Phước Thiện nầy ngay từ đầu (hơn 20 năm về trước) nhưng nhân dân thì ưa mà ai mạnh hơn nhân dân được? Do vậy mà qua bao sóng gió chương trình vẫn tồn tại và ngày một phát triễn.

 

* * *

 

Chúng tôi quan sát thấy thời đó (thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20) lạy ông bà đều làm như thế cả (bây giờ vẫn còn nhiều cụ già để hai ngón tay cái song song nhau khi lạy ông bà).

Sau lớn lên đọc trong Quan Hôn Tang Lễ thấy Hội Thánh dạy:

Lễ Bái Chí Tôn, Thần, Thánh, Tiên, Phật và Vong Phàm

Người Đạo Cao Đài hễ khi lạy thì tay chấp bắt ấn Tý. Lạy Thần, Thánh, Tiên, Phật hay vong phàm tay cũng đều bắt ấn Tý.

Tôi nói với Mẹ điều đó. Mẹ bảo chắc hồi đó còn mới Hội Thánh chưa dạy rõ như vậy con à. Vậy thì từ đây cứ bắt Ấn Tý.

Ấn Tý Mẹ nói đây là Ấn Tý theo thứ tự TRONG & NGOÀI của Hội Thánh dạy.

 

* * *

 

6/- KẾT LUẬN.

Chúng tôi xin trả lời câu chất vấn: Đức Chí Tôn và Đức Hộ Pháp dạy như vậy cớ sao Hội Thánh không đem thi hành???

Xin thưa rằng không riêng gì lời dạy về Ấn Tý không được đem ra thi hành ĐÚNG mà có một vài điều RẤT QUAN TRỌNG chính Hội Thánh đã quyết định cũng KHÔNG được thi hành.

Nói có sách, mách có chứng xin trình ra sự việc sau:

Châu tri số 15 của Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt ban hành ngày 30-02-Tân Mùi (18-08-1931) trong đó có nhắc lại chương Trình HIẾN PHÁP của ĐĐTKPĐ do Đức Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ dạy Hội Thánh lập thành.

Nguyên văn trong Châu Tri 15 phần chương trình Hiến Pháp:

 

Hồi năm Mậu Thìn, Ðức LÝ GIÁO TÔNG giao cho Ông Phối Sư Thái Ca Thanh lập chương trình Hiến Pháp. Ngày 14-07 Mậu Thìn (28 Aout 1928) khi Lễ Trung Ngươn có nhóm Hội Thánh, có lập vi bằng ký tên. Tôi xin lục rút tờ Vi Bằng ấy ra sau đây cho Chư Hiền Hữu xem:

***

Tòa Thánh Tây Ninh, le 28 Aout 1928

VI BẰNG

Chiều ngày 14 tháng 7 Annam, năm Mậu Thìn, y theo tờ mời nhóm của Hiệp Lý "Cửu Trùng Ðài", các Quản Lý "Cửu Viện" tựu tại Tòa Thánh hồi 7 giờ tối với các Chức Sắc Thiên Phong có mặt kể ra sau này:

Ông Phối Sư Thái Ca Thanh đọc chương trình Hiến Pháp.

 

CHƯƠNG TRÌNH HIẾN PHÁP

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

CHƯƠNG THỨ V

Ðiều thứ 22: -Nghiêm cấm trong Ðạo không ai đặng lấy danh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ và dùng THIÊN ÂN, THIÊN NHÃN mà đề vào bìa Kinh sách, Bố cáo, vân vân... hay là in Thánh Tượng, Kinh sách (bán hoặc phát không) nếu Kinh sách và Thánh Tượng ấy không có trình ban kiểm duyệt xem xét trước và đóng con dấu kiểm duyệt.

Ðiều thứ 23: -Ai phạm nhằm hai điều lệ trên đây thì các Kinh sách, Tượng ấy phải đem nạp cho Tổng Lý hủy bỏ. Người có lỗi ấy sẽ giao về Bình Viện phân đoán, chiếu theo điều lệ thứ 9 (Chương III)

Thảng như người ngoại Ðạo mà phạm nhằm điều lệ thứ 22 thì Quản Lý Nội Viện chạy tờ Châu Tri cho Chư Ðạo Hữu các nơi biết, mà không dùng đến Kinh sách, Tượng in sái phép ấy.

Ðiều thứ 24: -Kể từ ngày ban hành "Chương Trình Hiến Pháp" duy có một mình Hội Thánh "Cửu Trùng Ðài" được quyền in Kinh sách, Tượng để hiệu "Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ".

Lập tại Tòa Thánh, ngày Rằm tháng bảy năm Mậu Thìn.

Ký tên:

Chưởng Pháp:
Trần Ðạo Quang

Ðầu Sư:
Thượng Trung Nhựt - Ngọc Lịch Nguyệt

Chánh Phối Sư:
Ngọc Trang Thanh - Thượng Tương Thanh - Thái Thơ Thanh

Phối Sư:
Thái Ca Thanh - Thái Bính Thanh

Giáo Sư:
Thượng Thành Thanh - Thượng Giảng Thanh -
Thượng Vinh Thanh (Nguyễn Thế Vinh) -
Thượng Lai Thanh - Ngọc Tựu Thanh

Giáo Hữu:
Lê Châu Trì - Lê Văn Sanh - Ðỗ Quang Ngự -
Trần Quang Minh - Tuyết Tấn Thành

Lễ Sanh:
Nguyễn Văn Phùng

Lục rút y bổn chánh lưu tại Tòa Thánh.

Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT

***

Châu tri nhắc rõ Hiến Pháp như thế nhưng chúng ta quan sát thực tế xem việc NGHIÊM CẤM dùng đại tự ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ được bao nhiêu người Đạo thực thi??? Thậm chí một số người không chấp hành lại quay ra chỉ trích người thi hành là muốn lập chi phái, công kích, mạ lỵ người chấp hành mới thấy ghê hồn cho lưỡi không xương...

Cách dùng đại tự ĐĐTKPĐ trong tương lai CÓ CẦN đem ra làm rõ để thực thi hay không? Theo chúng tôi là RẤT CẦN đem ra bàn định ĐỂ THỰC HIỆN cho nghiêm minh. Đại tự ĐĐTKPĐ đã như vậy thì việc bắt Ấn Tý như thế nào?

Theo chúng tôi thì vấn đề Ấn Tý cũng phải đem ra phân tích và đi đến thống nhất là PHẢI LÀM THEO lời dạy của Đức Chí Tôn là Ấn Tý phải thể hiện thứ tự trên & dưới.

Nền chánh giáo của Đức Chí Tôn có thể pháp. Thiên thơ cũng là thể pháp. Nhờ thể pháp mà chánh giáo của Thầy được bảo tồn. Nhờ văn tự của Thầy lưu lại mà chúng ta có đầy đủ cơ sở pháp lý để đối chiếu xem lời Thầy dạy có được thi hành đúng hay không. Phải bảo tồn thể pháp và thực thi đúng thể pháp trước khi tìm hiểu bí pháp.

TÓM LẠI:

Bắt Ấn Tý theo lời dạy Đức Chí Tôn và Đức Hộ Pháp.

 Chúng tôi chọn cách nầy.

Bắt Ấn Tý theo cách Hội Thánh.

Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn của quí vị

 

 (PHẢI CHỜ NGÀY 03 HỘI LẬP QUYỀN VẠN LINH ĐỊNH QUYẾT VỀ TRẬN ĐỊA CHẤN CÓ TÊN ẤN TÝ...)

 

 

BẢN CHỤP THÔNG TRI 05 DẠY VỀ ẤN TÝ.

 

TRANG 01.

 

TRANG 02.

(BẢN CHỤP THÔNG TRI 05).

Email: thanh.minh96@yahoo.com

 

 

PHỤ LỤC 01.

ĐỨC HỘ PHÁP BẮT ẤN KHI CÚNG ĐẠI ĐÀN.

 

Đây là phần chúng tôi kết hợp từ BÀI NÓI CHUYỆN đêm 14-02-Mậu Tý (24-03-1948) của Đức Hộ Pháp (Lời Thuyết Đạo Q2) với một số ảnh trên trang web caodaibanchinhdao.org

Do đâu mà trang web có số ảnh nầy?

Gốc của số ảnh nầy từ tạp chí LEFI.

Điều chúng tôi thấy liên hệ với phần bắt Ấn Tý trong phần nầy là ẤN HẠ NGƯƠN của Hộ Pháp về thứ tự tay tả và tay hữu: ... tay tả thuộc dương để trên, tay hữu thuộc âm để dưới,...

Hạ ngươn ứng với Tam Kỳ Phổ Độ. Ấn của Tam Kỳ Phổ Độ là Ấn Tý. Hộ Pháp nói rõ thứ tự của tay trái và tay mặt là TRÊN & DƯỚI (phù hợp với lời Đức Chí Tôn dạy và bài dạy bắt Ấn Tý của Đức Hộ Pháp năm 1947).

 Trích nguyên văn và ảnh minh họa.

ẤN THƯỢNG NGƯƠN.

Còn Ðại Ðàn lại còn rối cho Hộ Pháp hơn nữa, là có ba ấn: Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn,...

 

ĐHP bắt ấn thượng ngươn.

Kế dâng bông, bắt ấn Thượng Ngươn dưới đạp Ngưu Ðẩu, tay đưa Gián Ma Xử lên hiệp với chữ Khí, đem khí ấy đưa ra cả càn khôn thế giới. Ấn Thượng Ngươn làm chủ chữ Khí, đem khí ấy hiệp hết cả Ngươn Khí đặng bao trùm vũ trụ.

 

* * *

ẤN TRUNG NGƯƠN.

 

ĐHP bắt ấn Trung Ngươn.

Ðến Trung Ngươn bắt ấn Hiệp Chưởng biến hóa, Gián Ma Xử để nằm ngang, đuôi bên Thế, cán bên Ðạo, ý nghĩa Ðạo cầm cán đặng trị Ðời. Bắt ấn Hiệp Chưởng, cầm cả cơ pháp của vạn vật biến sanh đặng bảo tồn không cho tương tranh, tự diệt nhau.

 

 

* * *

 

ẤN HẠ NGƯƠN.

 

ĐHP bắt ấn Hạ Ngươn?

* * *

NHẬN XÉT.

Nếu đúng thứ tự đàn cúng thì ấn Hạ Ngươn bắt sau rốt.

Khi dâng bông bắt ấn Thượng Ngươn.

(Thiễn nghĩ khi dâng rượu bắt ấn Trung Ngươn và khi dâng trà bắt ấn Hạ Ngươn)

Nhìn quí vị chức sắc HTĐ đi vào cho thấy đây mới là lúc nhập đàn cúng. Chưa phải khi đang cúng như hai ảnh bắt ấn Thượng Ngươn và Trung Ngươn.

Bởi vì nhiếp ảnh gia không cố ý chụp đủ 03 cách bắt ấn.

Nhưng từ tấm ảnh nầy so sánh với nội dung về bắt ấn hạ ngươn chúng ta thấy không khác nhau về tư thế (hai tay bắt ấn và cây Gián Ma Xử chúi xuống...).

Có lẽ khi bắt Hạ Ngươn cũng như thế nầy chăng?

Tới Hạ Ngươn, tay tả thuộc dương để trên, tay hữu thuộc âm để dưới, rồi để Gián Ma Xử chúi xuống, trụ thần đem cả càn khôn hiệp cả vạn vật. Bắt ba ấn phải trụ thần, làm sao cho ấn ấy đừng thất pháp. Cho nên ban sơ, buổi Chí Tôn mới giao cho Bần Ðạo tại Từ Lâm Tự, cái khó là trí óc vẫn lo ra, vì không quen, không phải mình làm thầy phù, thầy pháp gì ổng giao cho học mãi làm không trúng. Vì cớ nên mới có quỉ lộng tại Từ Lâm Tự buổi nọ, các ấn khác của Hộ Pháp có linh hay không mà quỉ lộng? Ấy là Thiên Cơ khiến vậy. Chí Tôn mở Tam Thập Lục Ðộng coi có phá nổi Ngài không? Có thể làm cho tiêu diệt nền Chánh Giáo không? Ðể cho chúng sanh thí nghiệm mà thay quyền năng vô tận của Ngài. Buổi nọ vì thời gian ngắn ngủi, nên công việc chưa rành rẽ, vì không đủ thì giờ để chuyên luyện, hoặc cho là chưa trọng hệ cho lắm, nên có điều sơ lược. Ðó là Thánh ý của Ðức Chí Tôn muốn như vậy.

 

 

 

* * *

ĐHP đang hành pháp. Chú ý là cây Giáng Ma Xử luôn luôn được CẦM bằng tay mặt (theo PCT).

ĐHP đang bắt ấn Hộ Pháp...tư thế hai tay giống như tay Brama Phật trên nóc Bát Quái Đài.

 

PHỤ LỤC 02.

LÝ THƯỜNG KIỆT VÀ VƯƠNG AN THẠCH.

“Họ Lý kết thúc sự nghiệp tể tướng họ Vương”.

* * *

Lý Thường Kiệt (10191105) là một danh tướng đời nhà Lý có công đánh bại quân nhà Tống vào năm 1075-1077. Họ Lý của ông là do vua ban cho. Lý Thường Kiệt sinh 1019 lớn hơn họ Vương 02 tuổi.

Chiến công phá Tống của anh hùng Lý thường Kiệt gắn liền với thời kỳ Vương An Thạch làm tể tướng. Ông đã góp phần kết thúc sự nghiệp tể tướng họ Vương. Sử Trung Quốc chép tên ông là Lý Thường Cát hoặc Lý Thượng Cát. Tướng thời Thái Tông và Thánh Tông.

Chiến tranh với Tống: Tiên phát chế nhân

Đánh Tống 1075-1076”.

Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt (chuẩn bị tiến chiếm Đại Việt). Vua Lý biết tin, sai ông và Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh.

Quân bộ gồm 60.000 người do các tướng Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An chỉ huy, tổng chỉ huy là Tôn Đản. Bộ binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu rồi tràn sang đánh các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, châu Tây Bình, Lộc Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới đánh các trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo. Quân ta thắng như chẻ tre.

Lý Thường Kiệt chỉ huy 40.000 quân thủy cùng voi chiến đi đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm.. cùng Tôn Đản vây châu Ung.

Ngày 30-12-1075, quân Nam tiến chiếm thành Khâm Châu, bắt toàn bộ quan quân mà không phải giao chiến một trận nào. Ba ngày sau, 2-1-1076 Liêm Châu cũng thất thủ.

Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất hoang mang, lo ngại, các tướng ở địa phương bối rối. Ti kinh lược Quảng Nam tây lộ vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, xin thêm khí giới, đồ dùng và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động, tất cả lấy dọc đường từ Kinh đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng, ti ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung Châu.

Triều đình Tống đối phó rất lúng túng. Vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế Châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây.

Trên các mặt trận, quân Đại Việt hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn đạo đổ bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Hẹn ngày 18-1-1076, hai đạo quân sẽ cùng hội lại vây chặt lấy Ung Châu.

Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương quyết cố thủ.

Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay thuộc thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận.

Tri Ung Châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành, trong thành không thể chữa được cháy. Cuối cùng quân Nam bắt dân Tống chồng bao đất cao lên để đánh thành. Ngày thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu. Người trong thành không chịu hàng, nên bị giết hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 100.000.

Lý Thường Kiệt đánh xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân Châu, nghe thấy quân Nam kéo gần đến thành, liền bỏ thành chạy trốn.

Mục tiêu hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về.

Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý cho những người phương bắc đó vào khai phá vùng Hoan - Ái (Thanh - Nghệ).

* * *

 

Phòng thủ sông Như Nguyệt

Trận Như Nguyệt  Phòng tuyến sông Như Nguyệt

Do tiền đồn ở Ung châu là căn cứ tập trung quân để nam tiến bị phá tan, nhà Tống phải điều động thêm nhân lực và lương thảo để thực hiện chiến tranh với Đại Việt.

Tháng 3-1076, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm Thành  Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt.

Nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không dám tiến vào Đại Việt. Quân Tống có bộ binh 10 vạn quân, một vạn kỵ binh và hai mươi vạn dân phu, khí thế rất mạnh mẽ.

Tuyến phòng thủ của quân Nam, Lý Thường Kiệt dựa vào sông núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu.

Trên bộ từ trại Vĩnh Bình vào châu Lạng, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến Đông Mô ngày nay, vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc châu Ôn. Rồi lại phải qua dãy núi lèn (đá không phá đất), đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu, tức là ải Chi Lăng, ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Lạng Sơn ngày nay.

Về đường thủy, để chặn địch qua sông, quân Nam chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.

Các tướng lĩnh thuộc Man Động như: Nùng Quang Lãm, Nùng Thịnh Đức coi ải Hà Nội, Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân giữ châu Môn, Vi Thủ An giữ châu Tô Mậu

Quân Tống tràn xuống, theo đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh, tới phía tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra, vòng sang phía đông đánh bọc hậu quân Nam ở Giáp Khẩu (Chi Lăng) và thẳng tới sông Cầu.

Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, lập chiến lũy sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông Bạch Đằng. Từ Lục Đầu ra đến biển, là một cái hào tự nhiên sâu và rộng, che chở cho đồng bằng nước Việt để chống lại quân ngoại xâm đường bộ từ Lưỡng Quảng kéo vào. Đối với đường sá từ châu Ung tới Thăng Long, thì sông Bạch Đằng không can hệ, vì đã có sông Lục Đầu, là cái hào ngăn trước rồi.

Trái lại, sông Cầu rất quan trọng. Thượng lưu sông Cầu qua vùng rừng núi rất hiểm. Chỉ có khoảng từ Thái Nguyên trở xuống là có thể qua dễ dàng, và qua rồi thì có đường xuôi. Nhưng sau sông, ở về phía tây có dãy núi Tam Đảo, là một cái thành không thể vượt. Chỉ có khoảng từ huyện Đa Phúc đến Lục Đầu là phải phòng ngự bờ nam mà thôi. Trong khoảng ấy, lại chỉ khúc giữa, từ đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền, là có bến, có đường qua sông để tiến xuống miền nam một cách dễ dàng (thẳng và gần).

Lý Thường Kiệt phòng thủ nhiều lớp. Đem chủ lực chặn con đường từ trại Vĩnh Bình đến sông Nam Định (sông Cầu) bằng cách đặt những doanh đồn và phục binh ở hai ải tiếp nhau: ải Quyết Lý ở phía bắc châu Quang Lang và ải Giáp Khẩu (Chi Lăng) ở phía nam châu ấy. Nếu hai phòng tuyến ấy bị tan, thì phải cố thủ ở phòng tuyến thứ ba, tức là nam ngạn sông Nam Định. Để cản quân Tống qua sông, Lý Thường Kiệt sai đắp đê nam ngạc cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giậu, dày đến mấy từng. Thành đất lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, đã đổi thế sông Nam Định và bờ nam ngạn ra một dãy thành hào, che chở cả vùng đồng bằng Giao Chỉ. Thành hào ấy dài gần trăm cây số, khó vượt qua và nhưng lại dễ phòng thủ hơn là một thành lẻ như thành Thăng Long.

Cùng lúc đó thuỷ binh Tống do Hòa Mân và Dương Tùng Tiểu chỉ huy đã bị thủy quân Nam do Lý Kế Nguyên điều động, chặn đánh ngoài khơi lối vào Vĩnh An. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Nam tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu. "Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ, táng đảm, không đánh đã tan".

Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Nam lại tập kích, doanh trại của phó tướng Triệu Tiết bị phá... dù quân Tống cũng giết được hoàng tử quân Nam là Hoàng Chân và Chiêu Văn nhưng quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần.

Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí, mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin "nghị hoà" để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân.

Sách Việt Sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện này: Triều thần nhà Tống cho rằng "Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng hoà, không thì chưa biết làm thế nào"

* * *

Lược ghi theo bài của Hòa Cao. Đăng trong Bán Nguyệt San Thông Liên số 67 ra ngày 20-04 Nhuận- Nhâm Thìn (09-06-2012).

 

HẾT.

 

 

LỜI CẢM ƠN.

Tập thể Nguyễn Phúc Thành xin thành thật cảm ơn quí đồng đạo,  chư vị hiền nhân quân tử bốn phương góp ý và gởi tặng tài liệu ủng hộ

chúng tôi biên soạn tập biên khảo về ấn Tý.

Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của quí vị để tập biên khảo được phong phú hơn...

Email: thanh.minh96@yahoo.com

Nay kính.

 

  

DÀN BÀI.

BIÊN KHẢO VỀ ẤN TÝ.

 

* * *

LỜI THƯA TRƯỚC.

 

PHẦN MỘT

QUAN ĐIỂM SỬ CAO ĐÀI GIÁO.

“Biên niên & chắc lọc”.

1/- BIÊN NIÊN.

1.1/- Ai biết Ngài và nối chí Ngài?

1.2/- Ai bắt tội Ngài?

2/- CHẮC LỌC.

2.1/- Câu một: Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,

2.1.1/- Truyện Phong Thần trong văn học.

2.1.2/- Truyện Phong Thần liên quan đến ĐĐTKPĐ.

2.1.3/- Đàn cơ về tiền kiếp của Đức Hộ Pháp.

2.1.4/- Vi Hộ và Đức Hộ Pháp.

2.1.5/- Giáng linh và tái sanh.

2.1.6/- Chắc lọc lẽ thật và mê tín (giữ chữ Hòa).

2.2/- Câu hai: Giữa biển ai từng gặp lão Tô.

2.2.1/-Giai thoại văn chương của Tô Đông Pha &Vương An Thạch.

a/- Tô Đông Pha (1037-1101).

b/- Vương An Thạch (1021-1086).

c/- SỬA HAI CÂU THƠ.

2.2.2/- Tô Đông Pha và thiền sư Phật Ấn.

2.2.3/- Tân Đảng và Cựu Đảng.

2.3/- Câu 3: Mượn thế đặng toan phương giác thế,

*.1/- Trường hợp ông Võ Văn Đợi.

 Thanh Tịnh Đại Hải Chúng và Phong Đô là hai hay một?

*.2/-  Trường hợp ông Đại Tá Đặng Quang Dương.

*3/- Trường hợp ông Đỗ Công Khanh.

2.4/- Câu 4: Cũng như nương viết của chàng Hồ.

Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171b Cống Quỳnh.

 

* * *

PHẦN HAI.

PHÁP LÝ & THỰC TẾ.

“Về bắt Ấn Tý”

1/- Bắt Ấn Tý theo lời dạy của Đức Chí Tôn.

1.1/- Ngày 25-02-1926.

1.2/- Từ Đạo Sử:

2/- ĐỨC HỘ PHÁP DẠY CÁCH BẮT ẤN TÝ. (1947).

3/- Kinh Tứ Thời Nhựt Tụng dạy về Ấn Tý (trang 49 & 50).

4/- Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

5/-  Các văn bản khác của Hội Thánh.

5.1/- Thông Tri số 05 của Văn Phòng Ngọc Chánh Phối Sư ngày 06-02-Tân Hợi (02-03-1971).

5.2/- Bắt Ấn Tý khi cầu siêu.

5.3/- Khi nào thì bắt Ấn Tý?.

6/- KẾT LUẬN.

PHẢI CHỜ NGÀY 03 HỘI LẬP QUYỀN VẠN LINH ĐỊNH QUYẾT VỀ TRẬN ĐỊA CHẤN CÓ TÊN ẤN TÝ...

 BẢN CHỤP THÔNG TRI 05 DẠY VỀ ẤN TÝ.

 

* * *

PHỤ LỤC 01.

ĐỨC HỘ PHÁP BẮT ẤN KHI CÚNG ĐẠI ĐÀN.

PHỤ LỤC 02.

LÝ THƯỜNG KIỆT PHÁ TỐNG.

HẾT.

 

 

 

Top of Page

      HOME