|
|
Ư nghĩa mục đích của Tam cang Ngũ thường, Tam tùng Tứ đức trong Nho giáo rất hữu ích và thiết thực. Nhắm vào việc làm thế nào để mỗi con người có đạo đức, để có một gia đ́nh hạnh phúc, một xă hội thanh b́nh.
Tam cang là các mối liên hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè, tuy không bao quát được tất cả mọi liên hệ giữa người và người trên thế gian này, nhưng nó cũng bao gồm được những mối dây liên hệ chính rất quan trọng trong gia đ́nh cũng như ngoài xă hội.
- Quân thần cang là quan hệ vua tôi, có thể hiểu rộng ra là người lănh đạo và người được lănh đạo, người chỉ huy và người được chỉ huy, người ra lệnh và người tuân hành, chủ nhân và công nhân, có thể mở rộng đến những cộng sự viên, người lân cận, láng giềng, đồng nghiệp bạn bè... Nho giáo khuyên giữ “trung tín”.
- Phụ tử cang là quan hệ cha con th́ hiểu là liên hệ giữa cha mẹ và con cái, kể cả dâu rể. Nho giáo khuyên giữ “hiếu để”.
- Phu thê cang là quan hệ vợ chồng. Nho giáo khuyên giữ “thuận ḥa”.
Hiểu rộng như vậy th́ Tam cang có thể bao gồm hầu hết các mối liên hệ giữa người và người trên cơi đời này.
Đến như Ngũ thường là Nhân, Nhĩa, Lễ, Trí, Tín, th́ quả thật đáng được chúng ta tiếp nối và làm tươi mới lại, nhằm thiết lập cho con người có những đức tính cần thiết cho cuộc sống tốt đẹp và lành mạnh. Chỉ cần ba chữ: chữ Nhân, chữ Nghĩa, chữ Tín là những điều cần phải trau dồi và áp dụng ở trong đời sống, từ vua quan cho đến thứ dân – hay từ cấp lănh đạo cho đến người tuân hành, nhất là đối với những người có ít nhiều quyền lực ở trong tay.
Không có ḷng Nhân, những kẻ cầm quyền có thể chỉ là những kẻ bạo tàn, dùng mọi biện pháp phi nhân để kềm kẹp người dân, bắt buộc người dân phải sống khổ sở mà phục vụ cho bạo quyền.
Không có Nghĩa, kẻ cầm quyền chỉ nh́n thấy có cái lợi cho cá nhân mà thôi; kẻ đó chỉ có thể nhũng lạm quyền thế, chiếm công vi tư, tham lam hối lộ vơ vét của dân, làm giàu trên xương máu của đồng bào.
Không có chữ Tín, người cầm quyền chỉ là những người không thật ḷng, nói một đường làm một nẻo, khiến cho kẻ dưới mất hết ḷng tin.
Bởi vậy, Tam cang, Ngũ thường, là đạo làm người, là tiêu chí tu dưỡng cho nam nữ; từ cấp lănh đạo đất nước cho đến thường dân.
Trong một gia đ́nh, vợ chồng có đủ Tam cang Ngũ thường, và Tam tùng Tứ đức là một gia đ́nh hoàn toàn hạnh phúc. Họ và con cái sẽ có một cuộc sống ḥa thuận, yên vui, được ăn ngon, mặc ấm. Đặc biệt việc giáo dục con cái, nếu cha mẹ không đủ Tam cang Ngũ thường và Tam tùng Tứ đức, tức là chưa đủ đạo đức làm người, th́ đó là một gia đ́nh bất hạnh và nhất là con cái sẽ chịu rất nhiều thiệt tḥi.
Trong một quốc gia, mà người lănh đạo có đầy đủ Tam cang Ngũ thường, có tác phong đạo đức, th́ đất nước đó thanh b́nh thịnh vượng. Những người cầm quyền của một quốc gia nào, mà không có đủ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín th́ quả thật là một tai họa cho đất nước đó.
C̣n Tam Tùng Tứ đức dành cho nữ giới là:
- Tam Tùng là ba điều nên theo là: Tại gia tùng phụ: khi c̣n nhỏ th́ sống với cha mẹ. Xuất giá tùng phu: Khi lập gia đ́nh th́ sống với chồng. Phu tử tùng tử: nếu chồng chết th́ nuôi con ở với con.
- Tứ đức là bốn đức tính tiêu biểu của người phụ nữ là Công, Dung, ngôn Hạnh.
Chi tiết nầy khai triển ở Phần II : Tam tùng, Tứ đức.
Tam cang, Ngũ thường, Tam tùng, Tứ đức là đạo làm người, là tiêu chí tu dưỡng cho cả nam nữ; ngay nam giới cũng phải giữ Tứ đức để sửa ḿnh, nhưng nam nặng về Tam cang Ngũ thường; nữ nặng về Tam tùng Tứ đức.
Như vậy, liệu Tam cang Ngũ thường, Tam tùng, Tứ đức có lạc hậu trong thời đại ngày nay không? Chúng ta khẳng định rằng: Tam cang, Ngũ thường, Tam tùng Tứ đức măi măi là "khuôn vàng thước ngọc" của con người ở mọi thời đại, Tuy nhiên tiêu chuẩn đạo đức cho mỗi mối dây liên hệ có thể được thay đổi cho thích hợp với đời sống của con người ở ngưỡng cửa văn minh hiện đại, tức là phải có sự linh động để phù hợp với xă hội mới.
Có nhiều triết gia cho rằng hệ thống luân lư của Nho giáo tuy là tốt, nhưng cái tốt ở đây chỉ có nghĩa là không xấu mà thôi. Nên họ cho rằng Nho gia chỉ chú trọng vào phía tiêu cực, chứ ít khi nh́n về phía tích cực. Nó tiêu cực ở chỗ chỉ nhắm vào bổn phận, chứ không nhắm vào quyền lợi con người. Nó dừng lại ở chỗ chỉ khuyên người ta đừng làm những điều xấu; để có một gia đ́nh yên vui và xă hội thanh b́nh, chứ không khuyên phấn đấu vươn lên.
Một gia đ́nh và xă hội tốt của Nho giáo có thể là một gia đ́nh có lễ nghĩa, có trật tự, có một đời sống thanh bần; trong một xă hội không có chiến tranh và loạn lạc, không có áp bức, không có tham nhũng, không có xáo trộn. Nhưng nó không mang ư nghĩa kích thích tích cực để có một xă hội phát triển tiến bộ, hùng cường và một gia đ́nh hưng thịnh. V́ Nho gia khuyên con người giữ thanh bần, cho rằng “vi phú bất nhân” (làm giàu là ác). “Thanh bần thường lạc, trọc phú đa ưu” (Thanh bần th́ luôn vui, chỉ lo làm giàu đơn thuần th́ nhiều lo lắng).
Nho giáo khuyên con người cần lấy cái vui ở đời để lúc nào ḷng cũng thanh thản, không lo buồn điều ǵ cả. Người quân tử của Nho giáo th́ “tùy cảm nhi ứng, tùy ngộ nhi an” (gặp cái thiện cảm đến th́ ưng thuận, gặp cảnh ngộ nào cũng an vui). Nên không có nghịch cảnh nào mà ḿnh không thích nghi được, hoặc khuyên rằng người quân tử cam chịu áo xấu cơm thô, cam tâm gian khổ lao động, như vậy có thể không lỗi (Quân tử chi thế dă, cam ác y thô thực, cam tâm gian khổ lao động, tư khả dĩ vô thất hỉ! (Nhan Tử / di thư). Nên Nho gia khuyên con người luôn giữ “trung thứ” đừng thái quá mà cũng đừng bất cập. Luôn lấy tiêu chí “cái ǵ ḿnh không muốn, th́ đừng làm cho người khác” (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân – Luận ngữ/Nhan Uyên). Nên dù có tiêu cực đi nữa, đạo lư của Nho gia vẫn có nhiều giá trị thực tế đối với cuộc sống hiện tại.
Một số giới trẻ ngày nay cho rằng: tuy bản thân Khổng Tử là người chính trực, nghiêm túc, kiên tŕ đến độ đáng thương, “biết đạo không thể thi hành mà vẫn làm”. Ông ta không được trọng dụng ngay khi c̣n sống. Trong bối cảnh văn hóa suy đồi, chính trị băng hoại thời Xuân Thu, tinh thần chấn hưng lễ nghĩa, quảng bá học thuật của Khổng Tử đă khiến ông nửa đời lang bạt các nước như ‘con chó mất nhà’ theo cách ví của Tư Mă Thiên.
Có một số người cho rằng Luân lư của Nho giáo bị các triều đại phong kiến sau nầy lợi dụng để củng cố chế độ và quyền lực...Vào thời Hán, lần đầu tiên, đạo Nho được trọng dụng. Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Nho gia đă bị uốn bẻ theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau. Hán Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho... Tương tự, tư tưởng Nho giáo trải qua các triều Lư, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng nhất. Có thể đơn cử khái niệm Tam ṭng tứ đức, thứ chuẩn mực đạo đức đối với phụ nữ này, là do các nhà Nho Trung Quốc thời Tống Minh cổ xúy. Bản thân Khổng Tử chưa một lần nói đến việc đàn bà phụ nữ phải giữ trinh tiết. Vậy nên có thể nói, có một Khổng Tử của đời thật, nhưng có nhiều Khổng Tử của các chính thể lợi dụng. Tư tưởng của Khổng có nhiều điều hay, cũng có nhiều hạn chế.
Thật ra Đức Khổng Tử chỉ là người thừa kế chấn hưng Nho giáo đă bị suy đồi. Chứ Nho giáo có từ đời Phục Hy, Chu Công. Ngày nay Cao Đài giáo gọi đó là Nhứt Kỳ Phổ Độ (Sự cứu độ lần thứ nhứt). Nhưng sau đó vào đời Xuân Thu chiến quốc bị biến thể suy đồi, nên Đức Khồng Tử giáng sanh chấn hưng lại. Thời kỳ này Cao Đài giáo gọi là Nhị Kỳ Phổ Độ (Sự cứu độ lần thứ hai). Ngày nay Tam Kỳ Phổ độ, Cao Đài giáo cũng dụng Nho tông chuyển thế, để đem lại thuần phong mỹ tục cho đời (Nho tông phục thế hưởng thuần phong/ Thi văn dạy đạo/TNHT).
C̣n sự biến đổi học thuyết một cách uyển chuyền th́ Đức Khổng Từ cũng đă khuyên nên linh động sửa đổi cho phù hợp với thế thái, nhân t́nh. Ngay khi sinh tiền Đức Khổng Phu Tử cũng nói rằng:
"Luân lư pháp luật phải tùy thời mà sửa đổi cho thích nghi với tŕnh độ tấn hóa của nhơn sanh". (Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn Vơ, thượng thuận thiên thời, hạ tập thu thổ" - Trung Dung)
Có người cho rằng ngay sinh tiền Khổng Tử không được trọng dụng, lan than như “con chó mất nhà”. Trạng thái nầy gần như là một quy luật chung của các vị Giáo Chủ giáng trần. Ngay như Đức Chúa Jésus, sinh tiền c̣n bị người đời đóng đinh giết chết, nhưng sau đó Thiên chúa giáo truyền bá khắp năm châu bốn biển. Sinh tiền Đức Khổng Tử không được trong dụng, nhưng sau Khổng Tử có thất thập nhị hiền (72 hiền tài) tam thiên đồ đệ (3.000 học tṛ giỏi) kế thừa và xiển minh Nho giáo. Như Tử Tư đă khai triển học thuyết Trung dung: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Mạnh Tử đă phát huy tư tưởng Dân chủ: “Dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh”. Bảo rằng chưa một lần nào Khổng Tử đề cập đến người phụ nữ phải giữ ǵn trinh tiết, th́ đệ tử Nho gia sau nầy khuyên cũng là điều hợp với đạo lư thôi, chứ để người phụ nữ phóng túng tự do quan hệ t́nh dục bừa băi như “mèo mă gà đồng” (mèo hoang ngoài g̣ mă, gà hoang ngoài đồng ruộng), th́ c̣n ǵ là thể thống danh giá người phụ nữ !!! Ngay những người đả kích như vậy, chứ bản thân họ có muốn để cho vợ, con gái ḿnh mất trinh, thất tiết hay không ? !!!
Sự phát triển Nho giáo, tuy có nhiều thăng trầm. Nhưng học thuyết Nho giáo không những đă ảnh hưởng sâu đậm khắp Đông nam Á, mà c̣n ảnh hưởng sang tận trời Âu. Ngay giềng mối quan hệ vua tôi, của Nho giáo đâu phải là xấu xa, lạc hậu. Ngày nay chúng ta thấy c̣n những nước văn minh nhất nh́ thế giới họ vẫn theo thể chế quân chủ như Anh Quốc, Nhật Bản, Thái Lan... là những nước tiêu biểu, đất nước họ vẫn hùng cường, giàu mạnh. Dân chúng vẫn được tự do, ăn ngon mặt đẹp... Họ vẫn tôn quư nhà vua như con Trời, c̣n hơn những nước tuy theo thể chế dân chủ nhưng độc tài, dân chúng vẫn sống như tôi mọi !!! Dân chủ mà như vậy th́ c̣n thua xa thể chế quân chủ.
Thật ra những người lớn tiếng kích bác Nho giáo, chỉ thuộc hạng trẻ ranh, ăn chưa no lo chưa tới, nên mới lớn tiếng đă kích. Chứ thật t́nh mà nói, một xă hội không tôn trọng Tam cang Ngũ thường, Tam ṭng Tứ đức là một xă hội loạn lạc !!! Con không ra con, cha không ra cha, anh không ra anh, em không ra em, vợ không ra vợ, chồng không ra chồng, kẻ lănh đạo đất nước với thứ dân như “cá mè một lứa”, c̣n quan hệ trong cộng đồng với nhau, th́ không thủ tín, lường gạt, luôn phản bội nhau... Thử hỏi một xă hội như vậy c̣n ra thể thống ǵ !!!
Luân lư – Đạo đức là cái gốc của gia đ́nh là nét văn hóa truyền thống của một dân tộc. Ngày nay sống trong môi trường kinh tế toàn cầu hóa, con người dễ quay lưng với truyền thống đạo đức của cha ông đă dày công gầy dựng. Do đó tiêu chí Tam cang, Ngũ thường và Tam tùng Tứ đức là món quà vừa mang ư nghĩa cảnh tỉnh, báo động, vừa nhắc nhở ư thức bảo vệ vun đắp đạo đức gia phong, nhằm hướng chúng ta đến lẽ sống cao đẹp.
-----o0o-----
TAM CANG NGŨ THƯỜNG
Trong nhơn đạo, người xưa ấn định, nam th́ tuân theo tam cang, Ngũ thường, nữ th́ giữ ǵn Tam tùng Tứ đức. Trong Phần I nầy bàn trước về Tam cang Ngũ thường.
Tam cang gồm có:
- Quân thần cang.
- Phụ tử cang
- Phu thê cang1. QUÂN THẦN CANG
(Giềng mối Vua Tôi)
Ngày xưa, trong thể chế quân chủ th́ vua là người đứng đầu trong nước, ngày nay những nước theo thể chế dân chủ th́ gọi người đứng đầu lănh đạo đất nước là Quốc trưởng, Tổng thống, Chủ tịch nước. Họ là người thọ mệnh Trời chăn dân giữ nước, có đức độ, khôn ngoan tài cán hơn thường dân. Nên người dân sống trong thể chế nào, cũng cần phải trung thành với người lănh đạo, tức là trung với đất nước.
Bổn phận làm dân: Dân là một phần tử trong nước, người công dân phải giữ tṛn bổn phận của ḿnh. Yêu nước nhà, mến giống ṇi, thuế sưu đóng đủ, đừng toan kế tà, chẳng nên vầy đoàn, hiệp lũ gây việc trộm cướp, phá xóm, phá làng.
Ở trong quốc gia phải tuân hành luật nước, cũng như ở trong đạo phải giữ qui điều giới luật của Đạo và phải kiêng sợ luật Trời báo ứng và tôn trọng người hướng đạo và giáo hội. Rồi cứ một ḷng bảo hộ gia đ́nh, tương thân, tương ái với người xă hội, góp công vào việc tạo thuần phong, mỹ tục, an cư lạc nghiệp của giống ṇi, hướng đến cuộc sống tốt đời đẹp đạo.
Nếu mỗi người công dân không phạm luật nước, không trái Mạng Trời, th́ gia đ́nh được an ḥa thảo thuận, góp phần xây dựng một xă hội thái b́nh, tiến đến thế giới đại đồng.
2. PHỤ TỬ CANG
(Giềng mối Cha con)
Bổn phận làm cha
Người xưa quy định:
“Vi nhơn phụ chỉ ư từ” (làm cha phải lành / Tam tự kinh)
Chữ từ (lành) chỉ về nghĩa vụ làm cha mẹ, phải nuôi con cho nên vai, nên vóc, dạy con cho nên người hữu dụng.
Người làm cha mẹ tuy lành, nhưng cũng phải khuyên răn con vào đường đạo đức, cũng có rầy la một cách nghiêm khắc, nghĩa là phải làm thế nào cho con bỏ cái dở, theo cái hay, chớ chẳng phải lành là chiều theo ư con, muốn làm ǵ th́ làm. Tại sao khi con c̣n bé người cha không để cho con được tự do hành động? Bởi v́ con c̣n thơ ấu, trẻ ḷng, non dạ; đến một lúc nào đó con trẻ lớn khôn th́ sự tự do hành động trong chuẩn mực đạo đức của con được người cha nới rộng trong sự quan sát, nhắc nhở đúng lúc.
Nói tóm lại là con chưa đủ sáng suốt, để phân biệt phải quấy và chưa đủ tinh thần cứng rắn, để vượt qua những vật dục cám dỗ. Ấy vậy nên người làm cha mẹ phải d́u dắt con trên đường đạo đức quang minh.
Giáo dục gia đ́nh là trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ, là căn bản cho đạo xử thế
Đối với con cái, cha mẹ có thể phó thác cho con cái nuôi dưỡng ḿnh lúc về già, nhờ con cái giúp đỡ những việc nặng nề "Dưỡng nhi đăi lăo" (Nuôi con để nhờ lúc về già).
Thường t́nh th́ người có ḷng nhân không những chỉ nuôi cha mẹ, mà c̣n tự nguyện nuôi dưỡng cả những người già yếu cô đơn, nên đạo làm con đâu có thể khước từ nghĩa vụ nầy.
Cha mẹ muốn được vậy, trước hết phải làm xong nghĩa vụ của ḿnh, tức là nuôi con, dạy con cho nên người. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tṛn bổn phận của ḿnh mà bắt con phục vụ cho ḿnh như thế là bất công và không làm tṛn bổn phận làm cha mẹ.
Đạo làm con
Người xưa quy định:
“Vi nhơn tử chỉ ư hiếu” (Làm con phải thảo/ Tam tự kinh).
Hiếu thảo là Đạo làm con, chẳng những không ai được từ khước, mà ai cũng phải coi đó là bổn phận của ḿnh nữa. Cổ nhơn có câu đối:
“Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ,
Nhơn sanh bách hạnh, hiếu vi tiên"
(Năm có bốn mùa, xuân đầu tiên, người sống có trăm nết, hiếu làm đầu).
Tại sao người ta phải hiếu với cha mẹ? Công sanh thành dưỡng dục, kể sao cho hết, nào là chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm ẵm bồng, ơn nghĩa của mẹ sâu thẳm như suối nguồn, rộng lớn như biển cả. C̣n cha lại phải dày công dạy dỗ, cực nhọc, tảo tần, dẫu trăm cay ngàn đắng, dầu vào cảnh nguy nan, người cha cũng không từ, miễn là làm ra cơm tiền để nuôi con. Nhân gian có câu:
Công cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Công cha nghĩa mẹ như thế, th́ thương mến chưa đủ, mà nghĩa vụ làm con bắt buộc phải giữ tṛn đạo hiếu.
Thực hành đạo hiếu, trước nhứt là nuôi cha mẹ. Sự nuôi dưỡng ấy phải hết ḷng thành kính, giàu nuôi theo giàu, nghèo nuôi theo nghèo, ngoài miếng ăn, miếng uống, tấm áo, manh quần, c̣n phải hết ḷng vui vẻ trong phận sự, làm cho cha mẹ vui ḷng. Một hôm Thầy Tử Du hỏi chữ hiếu, Đức Khổng Phu Tử đáp:
"Ngày nay, người ta bảo chữ hiếu là biết nuôi cha mẹ, nhưng xét kỹ lại th́ giống chó ngựa kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không kính, th́ lấy ǵ để phân biệt với sự nuôi súc vật" (Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mă, giai năng hữu dưỡng, bất kính hà dĩ biệt hồ! / Luận ngữ - Vi chính)
Đạo Nho có câu:
“Thượng sự phụ mẫu, thần hôn chi tỉnh, cam chỉ chi cung hậu bạc tùy duyên, hiếu kỉnh vi chủ” (Trên thờ cha mẹ, sớm thăm tối viếng, thường cung phụng thức ăn uống ngon ngọt, nhiều ít, tùy theo khả năng của ḿnh, nhưng phải lấy hiếu kỉnh làm chủ/ Tây Viên gia huấn).
Nên phụng dưỡng cha mẹ không phải đợi giàu có mới làm được, mà nhà nghèo làm được mới quư, nên cổ nhân có câu:
"Nhà nghèo mới biết con hiếu thảo, nước loạn mới rơ bề tôi trung thành"(Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần/ Minh tâm bửu giám).
Từ xưa những gương trung hiếu, tiết liệt, phần nhiều xuất hiện trong lúc nhà nghèo khó, hoặc khi quốc gia loạn lạc.
Nên khi ở chung với cha mẹ, không nên làm buồn ḷng cha mẹ, nếu ḿnh có việc buồn riêng, cũng chẵng nên tỏ ra sắc mặt để cho cha mẹ thấy. Khi cha mẹ quở trách th́ phải tự xét ḿnh mà chừa lỗi, chớ chẳng khá buồn phiền.
Cha mẹ già phải lưu ư đến chỗ họ không nói được. Tại sao? Bởi v́ có nhiều khi cha mẹ sợ con lo buồn, mà chẳng tỏ ra hết lời. Sau đây là một gương thờ Mẹ của người xưa.
Một hôm, Bá Du bị mẹ đánh đ̣n, ngồi khóc măi mà không thôi. Mẹ hỏi:
- Mọi khi mẹ đánh con th́ con biết lỗi mà cam chịu, cớ sao lần nầy con khóc dai như thế?
Thưa mẹ:
“Mọi khi, mẹ đánh, con thấy đau; ấy là con biết mẹ c̣n sức khoẻ. Lần nầy mẹ đánh, con không thấy đau lắm. Thế là con biết mẹ đă yếu mà con khóc (Cổ Học Tinh Hoa).
Như vậy là Bá Du biết lo cho sức khoẻ của mẹ.
Khi cha mẹ c̣n sanh tiền con chẳng nên đi xa, nếu cần đi vắng th́ phải cho biết chỗ, để người nhà t́m cho dễ, khi hữu sự. Nên Nho gia có câu:
“Phụ mẫu tại bất khả viễn du, du tất hữu phương”(cha mẹ c̣n, con không nên đi xa, nếu đi nên cho cha mẹ biết chỗ - Luận ngữ/ Lư nhân)
Cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải tận tâm chạy thuốc, chạy thầy, chính ḿnh nên lo liệu mọi phương; nếu giao cho kẻ khác biết đâu người ấy v́ sơ sót, làm thêm bịnh cho cha mẹ ḿnh. B́nh nhựt cũng phải xem chừng: Nếu cha mẹ khoẻ th́ vui mừng, mệt th́ lo lắng (xem gương
Bá Du thờ mẹ đă nói trên).Ḷng hiếu thảo làm người ai cũng sẵn có trong ḷng,nhưng lại có một đôi kẻ xao lăng là v́ ham danh lợi hoặc chỉ lưu tâm lo cho vợ con. Vậy kẻ làm con nên thận trọng bổn phận của ḿnh.
Đạo hiếu không bắt buộc chúng ta phải nhắm mắt tuân lời, mà trái lại, phải kiểm điểm việc cha mẹ đă làm: Nếu hay th́ hết ḷng theo, c̣n lầm lạc th́ nên khuyên can với một cử chỉ kính mến.
Đức Khổng Tử dạy rằng:
"Sự phụ mẫu cơ gián, Kiến chibất tùng, Hựu kỉnh bất di, Lao nhi bất oán" (Luận ngữ - Lư nhân).
Nghĩa là cách thờ cha mẹ: Nếu thấy cha mẹ lầm lạc th́ nên khuyên can với lời lẽ ôn nhu, lễ phép. Nếu thấy cha mẹ không theo lời khuyên can th́ con vẫn giữ ḷng kính mến và không trái nghịch. Như cha mẹ có khiển trách hoặc đ̣n roi cũng chẳng khá phiền hà.
Cha mẹ mất th́ phải tận tâm báo hiếu. Cổ nhơn bảo: "Tang tắc trí kỳ ai", việc tang chế phải hết ḷng thương xót.
Tân Luật đạo Cao Đài định rằng: Việc tang chế không nên xa xí; không nên quàng linh cữu lâu ngày, không nên dùng Âm công ḷe loẹt, không nên đăi đằng rần rộ mà mất vẻ nghiêm tịnh, ai bi.
Đức Khổng Tử cho sự thờ cha mẹ rất hiếu là:
"Kính kỳ sở tôn, Ái kỳ sở thân, Sự tử như sự sanh, Sự vong như sự tồn, Hiếu chi thỉ dă" (Luận
ngữ/ Lư nhân).Nghĩa là: Kính người mà cha mẹ đă trọng, yêu người mà cha mẹ đă mến, thờ cha mẹ khi chết cũng như lúc sống, mất cũng như c̣n. Ấy là hiếu ban đầu vậy.
Đại ư nói rằng khi Cha mẹ c̣n tại tiền th́ con tôn kính cử chỉ hành vi, măi đến khi cha mẹ thác rồi, con cũng cứ tôn kính như cha mẹ c̣n sống.
Ngoài ra c̣n phải lo tu dưỡng đạo đức để trở thành người tốt, làm rạng danh cha mẹ là điều hiếu sau cùng:
“Lập thân hành đạo, dương danh phụ mẫu, hiếu chi chung dă”(Luận ngữ/ Lư nhân).
Nên đạo làm con phải chuyên tâm tŕ chí suốt đời, để thực thi đạo Hiếu cho thỉ chung như nhứt.
Bổn phận làm anh chị và bổn phận làm em
Nho gia khuyên rằng:
"Huynh tắc đễ, đệ tắc cung" (anh th́ nhường nhịn, em th́ cung kính/ Tam tự kinh).
Anh em, chị em đồng thọ sanh nơi một cha mẹ; bà Đoàn Thị Điểm khuyên rằng:
"Một cục máu chia phân mấy mảnh,
H́nh hài em tượng mảnh thân con.
Chữ rằng huyết mạch đồng môn,
Riêng chưng thân thể tâm hồn cũng con"
(Nữ Trung Tùng Phận)
Đồng cốt nhục, đồng máu mủ, từ lúc nhỏ dại, ở chung một nhà, ăn chung một mâm, nằm chung một chiếu, vui có nhau, buồn có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng. Vậy t́nh thương yêu ở giữa anh em, chị em không t́nh nào khắn khít ruột thịt bằng t́nh ấy.
Muốn bảo tồn cái t́nh máu mủ ấy măi măi, th́ người anh người chị phải biết bổn phận ḿnh là thương yêu, đùm bọc, che chở, nhường nhịn đàn em, kẻ làm em phải biết bổn phận ḿnh là cung kính, thuận tùng.
Khi cha mẹ vắng mặt anh chị phải thay cha mẹ: dạy dỗ, khuyên răn, ǵn giữ em trong mọi cử chỉ, hành động. Mà muốn dùng quyền người làm anh làm chị, phải làm xong nghĩa vụ của ḿnh, là nuôi dưỡng dạy dỗ em út. Cổ nhơn thường khuyên nhau rằng:
“Trước làm xong bổn phận rồi sau sẽ dùng quyền hạng”.
Theo lẽ thường, khi thành nhơn,
mỗi người đều có gia tư. Mặc dầu xa cách nhau, nhưng anh em, chị em lúc nào cũng phải ǵn giữ cái t́nh cốt nhục của ḿnh, nghĩa là luôn luôn hoài băo t́nh thương mến, giúp đỡ, việc lớn cũng như việc nhỏ, mà muốn giữ vẹn sự thân mật, th́ phải biết nhường nhịn tha thứ, không nên cố chấp lẫn nhau.
Bổn phận của ḿnh phải sáng suốt phân định lẽ phải quấy ở giữa em chồng, chị dâu, em rể, anh vợ. Có lắm khi chỉ một việc nhỏ mọn, mà có thể làm sứt mẻ t́nh ruột thịt, anh chị em tượng trưng cái h́nh hài của cha mẹ, bất ḥa là phá hại cái h́nh hài ấy. Anh chị em như thể tay chơn, bất ḥa là đoạn ly thủ túc.
Người nào xử tṛn hiếu đễ nghiêm túc trong gia đ́nh, th́ người ấy có tinh thần ḥa ái, có ḷng nhân. Hiếu thuận là gốc đạo xử thế; người trọn thảo thuận trong gia đ́nh th́ tất có ḷng thương yêu giống ṇi, trung thành với tổ quốc. C̣n nếu người nào mà không tṛn hiếu để, mà nói là trung thành, thương yêu đồng loại là giả dối, mà nếu có chăng nữa, cũng chỉ do động cơ danh lợi thúc đẩy mà thôi.
Bổn phận cháu chắt đối với Ông Bà
Ông Bà là đấng sanh thành dưỡng dục mẹ cha, lại là đấng mà cha mẹ kính trọng, thương mến. Đạo hiếu bắt buộc kẻ làm con phải kính trọng ngay những người mà cha mẹ đă thâm giao. Thử nghĩ: Người bàng quan c̣n phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột thịt của cha mẹ mà chúng ta không tôn kính ?
Ấy vậy, khi ông bà sanh tiền, chúng ta phải thay mặt cha mẹ mà trông nom, giúp đỡ những việc mà chúng ta có thể làm được và khi ông bà quá văng th́ phải thay thế cha mẹ mà phụng thờ cúng tế.
Luân lư cổ truyền của người Việt Nam dạy rằng: Ngày tế lễ, cả gia tộc hợp về nhà thờ, lo việc tế lễ hai ngày: Tiên thường và Chánh giỗ. Những người họ hàng sum hiệp, vui vầy. Có khi nhắc lại sự tích Tổ tiên, có lúc thăm hỏi việc hàn huyên gia sự. Giờ cúng tế, người người có ḷng thành kính. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn thờ, họ cúi đầu tỏ vẻ kính trọng dường như ông bà đang ngự trên cho sở tôn. Giờ tế lễ, con cháu giữ cảnh yên lặng, tôn nghiêm, người trưởng tộc hành lễ rồi con cháu cứ theo thứ tự bái nghiêm túc.
Trong cửa đạo Cao Đài vẫn giữ nguyên vẹn lễ thờ cúng Tổ tiên theo Tiên Nho. Vả lại, người tín đồ đă khai mở đạo tâm, nay đem đạo tâm ấy mà sùng bái Tổ tiên th́ có lẽ phong tục cổ truyền sẽ được tăng phần thuần mỹ thêm hơn.
Bổn phận đối vói Cậu, Cô, Chú, Bác
Cậu, cô, chú, bác là anh em ruột thịt của cha mẹ, kẻ làm con chẳng những phải thân yêu mà c̣n phải kính trọng như cha mẹ nữa. Nếu vô phước mà mồ côi, chính cậu, cô, chú, bác, là người thay mặt mẹ cha mà dưỡng dục con cháu. Vậy kẻ con cháu không v́ lẽ ǵ mà không thân yêu quư mến.
Khi thành gia thất, tất nhiên bên chồng cũng như bên vợ, ai ai cũng có cậu cô chú bác. Kẻ làm con cháu cũng phải quư mến các đấng ấy.
3. PHU THÊ CANG
(Giềng mối vợ chồng)
Con người có một linh hồn bất tử thọ mệnh từ Thượng Đế, nên tại cỏi trần về thân xác, con người tuy có phân ra ngôi thứ, cha con chồng vợ, nhưng về phương diện linh hồn, tất cả đều là anh em với nhau. Sự gặp gở của con người tại cỏi trần, đều do cơ duyên tiền định.
Nên sự kết hợp vợ chồng không phải là điều ngẫu nhiên mà đối với thiên cơ đây là:
“Cơ sanh hóa càn khôn đào tạo,
Do âm dương hiệp đạo biến thiên.
Con người nắm vững chủ quyền,
Thay Trời tạo thế, giữ giềng nhơn luân
(Kinh hôn phối)”
Sự gặp gở giữa hai vợ chồng đều do Thiên ư:
“Ở trước mặt Hồng Quân định phận,
Đạo vợ chồng đă xứng nợ duyên”
Con người qua nhiều lần đầu thai chuyển kiếp, đă tạo ra nhân duyên và nghiệp quả với nhau. Chính do những nhân duyên đó, mà Thượng Đế đă chọn hai linh hồn kết hợp với nhau thành vợ chồng, tùy cơ duyên tốt hay xấu, mà gia đ́nh thường gặp hạnh phúc hay khổ đau, nhưng dù cho hạnh phúc hay khổ đau, tức là “duyên hay nợ”, nếu người nào biết nắm cơ hội trong cuộc sống vợ chồng để học hỏi, người đó sẽ lần đến chỗ hoàn thiện.
V́ không có sự giao thiệp nào hiến một cơ hội đặc biệt như t́nh vợ chồng, để có dịp t́m hiểu người khác cũng như tự hiểu lấy ḿnh.
Khi con người đă nh́n nhận được mục đích cao siêu giữa sự hợp tác vợ chồng, th́ cuộc sống gia đ́nh sẽ giúp cho mỗi người hoàn thành một thiên chức mới, và những sự kiện xảy ra trong gia đ́nh vui hay khổ, cũng cho ta những kinh nghiệm để khám phá ra những cái mới mẻ trong cuộc sống. Nếu ta hiểu biết th́ mặt nào cũng đều có lợi. Nên Socrate đă nói rằng:
“Nếu anh gặp vợ hiền th́ anh hạnh phúc, c̣n gặp vợ dữ th́ anh sẽ thành một triết nhân”.
Theo đạo lư th́ hai linh hồn kết hợp với nhau đều có một sứ mạng: Sứ mạng kẻ làm chồng và sứ mạng người làm vợ. Hai sứ mạng nầy ngang nhau, không bên nào khinh bên nào trọng cả.
Sự kết hợp vợ chồng là để giúp đở cho ḿnh là “duyên”, hoặc để nhờ ḿnh giúp đở đền đáp là “nợ”. Cho nên người đời có câu:
“Sự gặp gở giữa hai vợ chồng là do duyên nợ”.
Cổ nhân cũng có câu:
“Vô oan trái bất thành phu phụ” (Không có nợ nần vay trả th́ không thành vợ chồng).
Nhưng dù cho duyên hay nợ, hạnh phúc hay khổ đau xảy ra trong gia đ́nh, mà hai vợ chồng hiểu biết được đạo lư, đối đăi với nhau trong sự “kính trọng và thương yêu”, th́ họa cũng chuyển thành phước, bất hạnh cũng biến ra hữu hạnh. V́ theo đạo lư th́ sự hợp tác vợ chồng là để phụng sự thiên cơ đó là cơ tấn hóa.
Như vậy đời người, nam nữ lớn lên thường lập gia đ́nh có đôi bạn. ăn ở với nhau từ tóc xanh đến đầu bạc, tạo ra giềng mối “vợ chồng” tức là Phu thê cang. Cái định luật ấy, xưa nay vẫn không thay đổi, trừ một số ít cá biệt sống độc thân mà thôi. Gia đ́nh ban đầu là sự kết hợp giữa đôi vợ chồng, rồi dần dần có thêm con cháu kế tiếp nhau để duy tŕ ṇi giống. Nên gia đ́nh là nơi hội tụ của nhiều linh hồn, nhiều thế hệ. Sự gặp gở nầy không phải ngẫu nhiên, mà do nhân duyên mỗi người, đến rồi đi, trong thời gian dài hay ngắn, để giúp đở lẫn nhau.
Do đó gia đ́nh là một trường tấn hóa, mỗi thành viên đều có bổn phận giúp đở che chở lẫn nhau để đạt đến hoàn thiện. Nên có thể nói mái ấm gia đ́nh là nơi nương náu của trẻ thơ, là trạm dừng chân nghỉ ngơi cho trai tráng, là thành lủy nương náu cuối cùng của tuổi già, nên gia đ́nh là một tiểu xă hội.
Trong gia đ́nh người chồng là rường cột, phải đảm đương mọi việc bên ngoài, vợ là phụ tá, đóng vai tṛ nội trợ để tạo hạnh phúc cho nhau. Cho nên người chồng ngoài vấn đề lo sinh kế c̣n có trách nhiệm khuyên bảo vợ con. Người xưa có câu:
"Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài" (Dạy vợ lúc mới về nhà chồng, dạy con lúc c̣n thơ ấu/ Nhan thị gia huấn/ Giáo tử )
Muốn dạy người, không phải chỉ nói suông mà trước phải sửa ḿnh cho ngay chánh, để làm gương mẫu đạo đức cho vợ con noi theo. Tiên Nho có câu:
“Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân” (Đại học).
Người chồng nên biết rằng vợ là bạn trăm năm của ḿnh. Đàn bà là người yếu đuối, nương dựa nơi ḿnh, trao thân gởi phận cho ḿnh, để cùng nhau lo việc gia thất. Hơn nữa, vợ chồng là người đầu ấp, tay gối, vui chung vui, buồn chung lo, nghèo chung chịu, giàu chung hưởng. Ḷng có nghĩ được như thế th́ mới có dạ yêu thương, dùm học.
Vợ chồng có bổn phận khuyên bảo lẫn nhau, nhưng trước phải làm xong nghĩa vụ của ḿnh, rồi sau mới khuyến bảo người khác. Tuy nói rằng có bổn phận khuyên bảo nhau, nhưng lúc nào cũng lấy tinh thần ḥa ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn lẫn nhau, th́ cũng chi trong ṿng lễ giáo kính mến; chớ chẳng khá gây gổ nặng lời, như kẻ vơ phu. Người xưa khuyên:
“Phu thê tương kính như tân”(Vợ chồng kính trọng nhau như người khách quư – Gia ngữ).
Người chồng đừng nên có thói gia trưởng, ỷ thị ḿnh ra ngoài, làm ra của cải vật chất, trong lúc vợ ở nhà chăm lo nội trợ, mà xử sự hẹp ḥi với vợ con – tính toán chi ly với vợ con từng đồng xu từng cắt bạc. Bà Đoàn Thị Điểm khuyên con trai rằng:
“Con chớ ỷ ḿnh là nam tử,
Chiếm chủ gia hẹp xử thê nhi.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng b́ đồng nhau”
[Nữ Trung Tùng Phận]
Người chồng phải vẹn giữ thỉ chung, dù lúc cơm thô áo vải, hay lúc quyền quư cao sang, vẫn trước sau như một, đừng làm như thói đời thường t́nh:
“Giàu đổi bạn, sang đổi vợ”.
Bà Đoàn Thị Điểm khuyên rằng:
“Nếu khổ cực chung cùng chia sớt,
Dầu sang vinh đừng bớt t́nh nồng.
Hễ là vào đạo vợ chồng,
Nên hư đều có của ông công bà”
[Nữ Trung Tùng Phận]
Người vợ phải có tinh thần thuận tùng, nghĩa là phải biết dung ḥa với chồng, để tạo hạnh phúc gia đ́nh. Nhân gian có câu khuyên người làm vợ rằng:
“Chồng giận th́ vợ bớt lời,
Cơm sôi bớt lửa. khỏi trồi gạo ra”.
Người vợ phải biết nhường nhịn chồng và gia nương (1), giữ ǵn ḥa khí trong gia đ́nh, để gia đ́nh yên vui. Bà Đoàn Thị Điểm dạy rằng:
“Chia chồng v́ dạ sắt son, (2)
Nhịn chồng bởi chút sắp con cái nhà”
[Nữ Trung Tùng Phận]
Phận gái dù có giàu sang cũng không nên ỷ thị hiếp đáp gia
đ́nh chồng. Kinh Sám hối khuyên
![]()
(1) Gia đ́nh bên chồng
(2) Chia sớt t́nh cảm cho hầu thiếp
rằng:
“Đừng có cậy giàu sang chẳng nể,
Không kiên chồng khi dể công cô.
Ấy là những gái hung đồ,
Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
Tánh ngang ngạnh không v́ cô bác,
Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
Ngày sau đọa chốn âm ty,
Gông kèm khảo kẹp ích ǵ rên la.
(Kinh Sám hối, câu 57-64)
Chén bát trong sóng (củi chén) c̣n động huống chi vợ chồng ăn ở với nhau cả đời, làm sao tránh khỏi một đôi khi bất đồng ư kiến, động chạm lẫn nhau. Tỉ như có trường hợp ấy xảy ra, th́ vợ chồng nên nhường nhịn lẫn nhau. Nếu khi có những bất ḥa xảy ra, th́ chồng nói vợ nên lắng nghe, vợ nói chồng cũng phải lắng nghe; phân trần điều hơn, lẽ thiệt cho rơ ràng. Tôn trọng lẫn nhau, để ḥa thuận trong ṿng lễ nghi đạo đức; điều đó là tốt nhứt; chẳng nên bắt chước phường hổn ẩu chồng một lời đi, vợ năm bảy tiếng lại. Thế rồi sinh việc bất ḥa; mà chồng vợ bất ḥa th́ gia đ́nh tan nát.
Trong gia đ́nh nếu có t́nh huống ǵ bất thường xảy ra, th́ chuyện lớn xem như nhỏ, chuyện nhỏ xem như không có ǵ, cùng nhau lấy yêu thương mà giải quyết mâu thuẩn và t́m kiếm sự thỏa hiệp th́ gia đ́nh êm ấm. Đó là một gia đ́nh hoàn toàn đạo đức, danh ngôn Tây phương có câu:
“T́nh yêu luôn luôn hợp đạo đức, kể cả khi thiếu hôn nhân, nhưng hôn nhân mà thiếu t́nh yêu là vô đạo đức” (Enllen Key)
Phận gái trọng nhứt là trinh tiết, người chồng trọng nhứt là chung thủy, tiết nghĩa; bởi vậy mỗi người – vợ cũng như chồng, phải giữ ǵn mỗi ngày tránh sự hiểu lầm nhau, để vun bồi ḷng tin tưởng lẫn nhau. Tục ngữ nói:
"Đi ngang đám dưa không nên sửa dép, Đi ngang cây lư không nên sửa mũ".
Tức là không tạo ra bối cảnh để có thể gây hiểu lầm, đại ư câu nầy khuyên người ta để ư từng hành vi, ăn nói, đi đứng đường hoàng, nhứt là phải tránh những cử chỉ nào làm cho người khác ngờ vực, cũng như đi ngang đám dưa th́ không nên sửa dép, hoặc đi ngang giàn lư th́ không nên sửa mũ, v́ làm như thế, người ta sẽ ngờ rằng ḿnh bẻ trộm dưa, hay hái trộm lư. Nhất là vợ chồng, nên tránh những cử chỉ hành động tạo ra sự nghi ngờ cho nhau, làm mất hạnh phúc.
Tề gia nội trợ là thiên chức của người phụ nữ; cho nên người vợ cần lưu tâm chăm nom việc nhà: Thiếu đủ phải biết, c̣n hết phải hay, sắp đặt an bài mọi sự; ăn cần, ở kiệm phải trọng tiền của chồng làm ra. Ăn nhịn qua ngày, ăn vay mắc nợ. Của chồng công vợ, chồng vợ chung lo tạo hạnh phúc gia đ́nh.
Người vợ nên biết rằng sự thuận tùng cũng là một cách chỉ huy khéo léo, nên một triết gia Tây phương nói rằng:
− Đàn bà hoàn toàn thấy rơ rằng họ càng vâng lời bao nhiêu th́ họ càng chỉ huy bấy nhiêu. (Jules Michelet)
Người phụ nữ như vậy, sẽ xây dựng gia đ́nh thành một tổ ấm cho nhiều thế hệ - là nơi nương náu cho trẻ thơ, là trạm dừng chân nghỉ ngơi cho trai tráng, là thành lũy cuối cùng của tuổi già.
Tóm lại: Đạo vợ chồng cần nhứt là thuận ḥa, Nhân gian có câu:
“Thuận vợ, thuận chồng tát biển đông cũng cạn”.
(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín)
1. NHÂN
Con người ai cũng bẩm thọ điểm linh quang của Đức Thượng Đế, để làm tự tánh của ḿnh. Cổ nhân cho Tánh ấy là Mạng Trời, hay Thiên lư. Mạng Trời th́ lặng lẽ, trầm mặc ẩn tàng trong cơi ḷng thanh tịnh; nhưng khi phát động trúng tiết – Phù hợp với t́nh huống, th́ đó là "Nhân". Bởi Thiên lư phát động là "Nhân" cho nên đức "Nhân" gồm đủ tất cả tính tốt, hạnh lành như: trung, hiếu, tiết nghĩa, cung, khoan, mẫn, huệ, cương, nghị, mộc (thật thà), nột (ít nói). Người nào giữ được đức "Nhân" và thể hiện đức "Nhân" khi xử thế, tiếp vật th́ đó là làm xong đạo làm người (Nhân giả, nhơn dă). Đức Khổng Phu Tử nói rằng:
"Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân" (Kinh Dịch/ quẻ Càn- Văn ngôn).
Nghĩa là người Quân tử lấy đức "Nhân" làm thể, th́ đủ làm trưởng thành ḿnh.
Người có "Nhân" lúc nào cũng an vui, ung dung, tự tại, b́nh tĩnh, trầm lặng, mà luôn luôn trong ḷng sẵn có một cái khiếu "Trực giác" mẫn huệ. Việc đến, họ biết với một cách mau chóng toàn diện. Họ làm việc cũng thích hợp đạo lư, họ thật thà, chất phác, nhưng giàu t́nh cảm tốt lành. Đối với gia đ́nh họ hiếu để, đối với xă hội, họ thuận ḥa; đối với vật, họ thương yêu giúp đỡ, làm cho vạn vật phát triển hài ḥa. Việc lợi danh ở đời, họ không lánh hẳn, nhưng chẳng bỏ đạo đức để cầu lợi danh. Đạo đức với lợi danh, nếu phải bỏ một, th́ họ vui ḷng bỏ lợi danh, cầu đạo đức. Ḷng nhân người đời nay c̣n gọi là bác ái, nó đứng đầu các đức tính khác.
Đức Chí Tôn dạy rằng:
“Nhơn là đầu hết các hành tàng”
(Thi văn dạy đạo)
Một Chơn sư cũng dạy rằng:
“Trong các đức tính th́ hạnh bác ái là quan trọng hơn hết, nếu không có hạnh bác ái th́ các đức tính khác không bao giờ đầy đủ”(Krishnamurti /Dưới chân Thầy)
Trương Hoành Cừ là người Trung Hoa sanh vào khoảng (1020-1076) cho rằng: Ḷng Nhân ái phải có thứ bậc, ông nói:
Tôn người già cả là sở dĩ tỏ ḷng kính trọng kẻ tôn trưởng, yêu thương trẻ dại là sở dĩ tỏ ḷng bênh vực kẻ yếu hèn, tôn người có đức độ hợp với lẽ Trời đất là bậc Thánh và kẻ có đức độ hơn người là bậc Hiền. C̣n những người tàn tật, quan quả, cô độc, đều là anh em với ta cả. Như thế, tuy người ta có tôn ti khác nhau, nhưng ai ai cũng phải đem ḷng thương xót để cư xử với nhau như anh em một nhà. (Nho giáo Trọng Trọng Kim).
Đại ư câu nầy nói lên được điều "Nhân" là t́nh thương yêu có thứ bực, nhưng phải trùm cả vạn vật, v́ đức Nhân là phản ảnh đức Hóa sanh của Thượng Đế.
Thực hành đạo "Nhân" cũng cần có học hỏi, bởi v́ có Trí sáng mới có thể phân biệt được thiện ác, phải quấy. Tử Hạ nói rằng:
"Bác học nhi đốc chi; Thiết vấn nhi cận tư. Nhân tại kỳ trung".
(Luận ngữ/ Học nhi)Nghĩa là: Sự học hỏi phải rộng răi, chí hướng phải dày dặn, sự hỏi han cần thiết, sự suy nghĩ phải có dính dấp với ḿnh. Trong những việc ấy hẳn có hàm súc đức "Nhân" vậy.
Thế đủ rơ rằng đạo "Nhân" cần có Trí để phân biệt phải quấy, có Dũng để mạnh dạn thực hiện sự thương yêu và giúp đỡ người cho phải chỗ và đúng mực, đúng lúc. Đó là mối đầu mà cổ nhân nương theo để thành lập cái thuyết "Tam đạt đức" (Nhân Trí Dũng). Cho nên khi thực hành điều nhân, cũng cần phải giữ quân b́nh giữa t́nh cảm và lư trí. Tây phương có câu danh ngôn:
“Có những mối cảm xúc cao thượng đầy ḷng nhân ái, nhưng lại không hợp lư, không khôn ngoan tư nào. Nếu chúng ta hành động theo đó, th́ là một sự điên rồ đáo để” (Trước thềm Đạo – Sur Le Seul) .
Đức Khổng Phu Tử nói:
“Trí giả nhạo thủy, Nhân giả nhạo sơn; Trí giả động, Nhân giả tịnh, Trí giả lạc, Nhân giả thọ (Luận ngữ/ Ung giả)
Nghĩa là người “Trí” thích nước, người "Nhân" thích núi; Trí giả th́ động (như nước lưu thông), người "Nhân" th́ an tĩnh (như núi đứng một chỗ). Bởi vậy người trí th́ vui sướng, người nhân th́ sống lâu. Nhờ an tịnh mà người "Nhân" giữ được Thiên lư lưu hành trong tâm, để làm chủ tể cho đời sống của phàm thân.
Đức "Nhân" chẳng phải hàm súc đủ mọi hạnh lành, đức tốt, mà là cái phản ảnh đức háo sanh của Thượng Đế nữa. Về phương diện nầy "Nhân" khởi đầu tại ḷng thương xót (Trắc ẩn chi tâm), nên người ta thường dùng chữ "Ái" kèm theo, thành danh từ kép “Nhân ái” để diễn tả sự thương yêu được đầy đủ.
Làm người khi học hành, trước nhất phải ưu tiên học và thực hiện điều nhân, sau đó mới học và thực hành đến các vấn đề khác. Nên Nho gia khuyên rằng:
"Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng, nhi thân Nhân. Hành hữu dư lực, tắc hữu học văn (Luận ngữ/ Học nhi).
Nghĩa là: Người đệ tử trong gia đ́nh th́ hiếu với cha mẹ, ngoài xă hội th́ kính người trên trước, làm việc th́ cẩn mật, ăn nói chắc thật, rộng thương mọi người, thân cận với người nhân đức. Làm bao nhiêu đó, nếu c̣n dư sức th́ mới học đến văn chương, nghề nghiệp.
Chữ "Nhân" (仁) người xưa cắt nghĩa rằng: "Nhân" gồm có một chữ "Nhơn" (人) là người, Một chữ "Nhị" (二) là hai. Đại ư Nhân là t́nh cảm ở giữa hai người.
Tỉ như t́nh thương thiêng liêng ở giữa người mẹ và đứa con, người mẹ có thể liều mạng sống của ḿnh để cứu con trong cơn nước lửa. Hoặc giả t́nh thương giữa hai vợ chồng, người chồng có thể hi sinh ḿnh để giúp vợ, ngược lại người vợ cũng hi sinh như vậy để giúp chồng.
Nên lưu ư rằng t́nh thương ở giữa hai người phải nhắm vào sự "vị tha", nghĩa là v́ người mà thương. Trái lại, nếu thương người để cầu lợi cho ḿnh th́ sự thương ấy không phải là "Nhân". Đại sư Vivekananda nói rằng:
- T́nh yêu chân thật là t́nh yêu không biết mặc cả. Nơi nào có chuyện t́m kiếm một sự trả giá, th́ không thể có t́nh yêu chân thật. (Vivekananda - Tôn giáo là ǵ).
.- T́nh yêu không cần biết phần thưởng là ǵ. Đừng hỏi điều ǵ báo đáp cho t́nh yêu của bạn, hăy để địa vị của bạn luôn là kẻ cho. Hăy dâng t́nh yêu bạn cho Thượng Đế, đừng đ̣i hỏi điều báo đáp, dầu là từ Ngài (Vivekananda /Tôn giáo là ǵ).
T́nh thương không chỉ giới hạn trong sự tôn trọng người với người, mà phải lan tỏa đến tất cả chúng sanh:
"Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,
Người thiện phải ngừa đức háo sanh.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
Thương yêu tất cả chúng sanh thành".(Thánh ngôn/Thi văn dạy đạo)
Phương pháp thực hành
Có người hỏi phương thức thực hiện điều Nhân. Đức Khổng Phu Tử nói rằng:
"Kỷ dục lập nhi lập nhơn; kỷ dục đại đạt nhơn. Năng cận thủ thí khả vị Nhân chi phương giả dĩ" Luận ngữ/ Ung dă XXVIII).
Nghĩa là người Nhân hễ muốn ḿnh lập thân thế nào th́ cũng giúp người cùng lập thân như ḿnh. Ḿnh muốn thông đạt đến đâu th́ cũng giúp người cùng thông đạt như ḿnh. Hễ xử với ḿnh thế nào th́ cũng xử với người chung quanh như thế ấy; điều đó là làm "Nhân" vậy.
Các đệ tử hỏi Đức Khổng Tử về Nhân, Ngài tùy theo tŕnh độ mỗi người mà trả lời như sau:
- Thầy Tử Trương hỏi "Nhân", Đức Khổng Phu Tử nói:
"Hăy làm năm điều nầy trong thiên hạ là "Nhân" rằng:
Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung th́ không khinh lờn, Khoan th́ được ḷng người, Tín th́ được người tin cậy, Mẫn th́ có công, Huệ có ơn th́ đủ khiến được người". (Luận ngữ/Nhan Uyên)
- Nhan Hồi hỏi Nhân, Đức Khổng Phu Tử nói rằng:
"Khắc kỷ phục lễ vi Nhân" (Sửa ḿnh theo lễ là "Nhân" tức bỏ hết ḷng tư dục để hành động theo Thiên lư / Luận ngữ - Nhan Uyên , XII)
- Phàn Tŕ hỏi "Nhân" Đức Khổng Phu Tử nói rằng:
"Ái nhơn: Thương người” (Luận ngữ - Nhan Uyên , XII)
Sách Luận Ngữ chép rằng Đức Khổng Phu Tử trả lời cho mỗi người một khác; ấy là Ngài tùy yếu điểm của từng đệ tử mà bổ khuyết.
Đức "Nhân" sẵn có ở nơi người, nhưng tại sao lại có người không làm được?
Đó là do sự ganh ghét đố kỵ, làm trái đức "Nhân", nên khiến ḷng nhân mất đi. Giả tỉ khi cha con ghét nhau th́ mất ḷng từ hiếu, chồng vợ ghét nhau th́ mất thuận ḥa, anh em ghét nhau th́ mất kính nhường, người trong thiên hạ ghét nhau th́ kẻ mạnh hiếp yếu, kẻ dữ lấn người hiền.
Bởi v́, ḷng người không bao giờ có hai t́nh cảm một lượt. Hễ có ghét th́ không thương; hoặc có thương th́ không ghét. Ấy vậy nên chúng ta cứ mở rộng ḷng thương, th́ tự nhiên ḷng ghét không xen vào được, cũng như có ḥa b́nh th́ không chiến tranh vậy.
Đức Khổng Phu Tử lấy đức "Nhân" làm căn bản cho đạo làm người, rồi tùy t́nh cảm mà ứng xử, cứ ung dung theo Thiên lư mà hành động, chớ
không cố chấp điều ǵ. Thế nên đứng vào cảnh ngộ nào cũng an vui; không nghịch cảnh nào làm mất tư cách người quân tử.
NGHĨA
Về tâm học "Nghĩa" là phương pháp giúp cho kẻ học đạt thành đức. Về luân lư học, "Nghĩa" là lẽ phải giúp cho kẻ học hoàn thành bổn phận làm người, hoặc nói cách khác "Nghĩa" là cụ thể hóa ḷng Nhân thành hành động.
Về thực tế Nghĩa là giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn, khốn khó. Ở đây, hai chữ "Nhân" có nghĩa là thương người, và "Nghĩa" có nghĩa là giúp người. Nên “nhân nghĩa” thường đi đôi với nhau, thành một danh từ kép, mới bộc lộ được cả tư tưởng và hành động đi đôi, nếu có “Nhân” mà không có "Nghĩa" th́ đạo đức thiếu thực tế; c̣n như có "Nghĩa" mà không có “Nhân” th́ đạo đức thiếu tinh thần. Tỉ như chúng ta có ḷng thương người lâm nạn, nhưng không ra công, hoặc ra của, để cứu giúp, th́ ḷng nhân không được thể hiện bằng hành động. Ngược lại, nếu ra công, ra của để giúp đở, mà chẳng có t́nh thương, th́ đó là một do một động cơ danh lợi nào khác, chớ không phải do bởi ḷng Nhân.
LỄ
Lễ trước dùng để tế tự, sau lan rộng đến nề nếp xử sự, tiếp vật mà nhân quần xă hội thừa nhận. Chữ "Lễ" lại đồng thể với chữ Lư; cho nên nó phải tùy thời mà biến đổi, càng ngày càng tốt hơn, chớ chẳng nên cố chấp mà phải sa vào sự lạc hậu.
Về phương diện tế tự, Lễ có mục tiêu thứ nhất là làm cho đàn tế được trang nghiêm; mục tiêu thứ nh́ là đào tạo, hướng con người tới một tâm lư Thành và Kỉnh (kính trọng). Có Kính th́ mới giữ được sự nghiêm túc của ḿnh, có Thành mới cảm ứng được với Trời. Đó là Lễ giúp người tồn tâm dưỡng tính.
Theo sách Lễ Kư: Ḷng người ta lúc nào cũng ham muốn sự ăn uống, t́nh dục, sợ nghèo khổ và cái chết. Nếu người ta không nghĩ đến Lễ th́ Thiên lư sẽ bị tiêu diệt, nên "Lễ" giúp người ta giữ vẹn Thiên lư.
Nói giữ ǵn "Lễ" th́ khi đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng không nên cẩu thả, lờn dễ. Thường nhật xử sự th́ cung (cẩn trọng), làm việc th́ kính (lễ phép), giao thiệp th́ ḷng thành (thành thật). Ba điều cung, kính, thành ấy, dầu ở chung với kẻ thất phu hạ tiện cũng chẳng khá lăng quên. Đức Khổng Tử dạy:
“Xuất môn như kiến đại tân, Sử nhân như thừa đại tế” (Luận ngữ, Nhan uyên XII/II).
Nghĩa là ra khỏi cửa th́ tác phong, ăn mặc nghiêm túc, như tiếp vị khách quư; sai khiến kẻ dưới th́ trang nghiêm cẩn trọng như chủ tŕ một cuộc tế lễ lớn, Nhứt cử, nhứt động, đều phải có "Lễ", đó là người lịch sự. Hành vi, lời nói và tư tưởng, mỗi mỗi đều có trước sau, là người có tiết khí.
Trên trường giao tế, "Lễ" phải có “Nghi” làm h́nh thức. Nên hai từ “Lễ nghi” thường đi đôi thành danh từ kép. Tỉ như chúng ta gặp người trưởng thượng, th́ chúng ta đem ḷng cung kính, đó thuộc về Lễ, rồi chúng ta nghiêng mũ cúi chào, tỏ ḷng kính ra ngoài, đó thuộc về nghi thức. Thế nên nói: “Nghi tùy Lễ mà chế”. Hai chữ "Lễ Nghi" thiếu một th́ không thành qui tắc. Tỉ như chúng ta có sự kính trọng trong ḷng, mà không nghiêng mũ cúi chào, th́ ḷng cung kính không chỗ tỏ rơ ra bên ngoài, ai làm sao biết được ḷng ḿnh cung kính. Trái lại, trong ḷng không kính mà bên ngoài làm ra vẻ cúi chào. Nghi mà không lễ th́ đó chỉ là hành động giả dối khô khan mà thôi.
Lễ nghi dùng để thể hiện nhân cách và phân định ngôi thứ, tôn ti, thượng hạ. Tỉ như trong một cuộc hội đàm, người lớn cứ ăn nói lỗ măng, hành động sỗ sàng, kẻ nhỏ th́ hổn ẩu không kính nể người lớn. Thế th́ làm sao mà hiệp ḥa nhau được, cho nên nói rằng: “Thất Lễ” th́ loạn.
Lễ về giới hạn giữa nam nữ
Ranh giới giữ nam nữ thời xưa, yêu cầu tương đối khắc khe. Nam nữ gần đến tuổi trường thành th́ giao tiếp phải cách biệt, dù anh chị em, cha và con gái, mẹ và con trai, ông gia và dâu, bà gia và rễ, kể cả những người giúp việc nam nữ... Ở chung một nhà, phải cách biệt, ở riêng pḥng, không được nằm chung một giường, không ngồi chung một ghế, ăn uống không chung một tô chén, tiếp xúc phải có một khoản cách nhứt định, không được động chạm, cọ quẹt vào quần áo da thịt của nhau.
Trong cửa đạo ngày nay c̣n khắc khe hơn, nam nữ phải cách biệt, thường nhật nam ở đông lang (nhà phía đông chùa) nữ ở tây lang (nhà phía tây chùa), khi cần tiếp xúc phải công khai, luôn có mặt người thứ ba, không được tiếp xúc riêng tư, thầm kín giữa hai người trong khuôn viên tu hành.
Các giới hạn trên nhằm ngăn ngừa những cảm xúc xấu, dẫn đến hành động sai trái, tội lỗi. V́ trên phương diện vật lư, ḍng nhân điện nam thuộc dương, ḍng nhân điện nữ thuộc âm, âm dương gần nhau th́ thu hút như nam châm với sắt, nếu không có một khoản cách nhất định. Nên người xưa đă nhận định “nam nữ thụ thụ tắt thân” (thân thể nam nữ gần nhau ắt sinh thân thiết), nên mới ngăn cấm “nam nữ thụ thụ bất thân” (nam nữ dù gần nhau nhưng không được thân thiết). V́ vậy trong sách giải kinh Lễ có viết:
“Tác dụng giáo hóa của lễ nó luôn thấp thoáng ẩn hiện không thấy được, trong khi tội ác chưa kịp h́nh thành, chính lễ đă góp phần khống chế nó, khiến con người càng ngày càng đi vào con đường lương thiện, xa rời tội ác, mà bản thân cũng chưa nhận ra” (nguyên văn: Cố lễ chi giáo hóa dă vi, kỳ chi tả dă vu vị h́nh, sử nhân mục đồ thiện viễn tội nhi bất tự tri dă”).
Khi h́nh thành một loại lễ chế nào, đều có bối cảnh và nguyên nhân của nó cả. Kinh nghiệm nhân loại trong thời kỳ tiền sử, đă sinh hoạt tụ cư, khi bước sang xă hội văn minh, họ tự nhân thấy t́nh trạng không phân biệt nam nữ đă xảy ra nhiều tội ác và nhiều vấn đề khiến trật tự xă hội rối loạn. V́ vậy mới có những yêu cầu khắc khe của lễ, sau khi có lễ chế quan hệ giữa nam nữ trong gia đ́nh, cũng như ngoài xă hội sẽ b́nh thường, như vậy sẽ tạo được một gia đ́nh có trật tự, hài ḥa, một xă hội ổn định.
Tác dụng của lễ chế trong các t́nh huống b́nh thường lại không nhận ra được. Nhưng dù không nhận ra tác dụng của nó, hoặc cho đó là sự hạn chế không cần thiết, mà hủy bỏ phá hoại nó đi, th́ nam nữ không c̣n cách biệt. Do t́nh trạng tiếp xúc quá gần gũi thân mật, không có khoản cách biệt nhất định, th́ t́nh trạng dâm dục thác loạn sẽ tràn ngập, đến khi nó trở thành vấn đề vi phạm đạo đức nghiêm trọng, dù có muốn văn hồi cũng không c̣n kịp nữa. Nên nhiều nhà tâm lư học cho rằng, thà chấp nhận sự phê b́nh chỉ trích Lễ chế cổ đại là nghiêm khắc, bảo thủ, lạc hậu, không thông thoáng. Nhưng chúng ta nên một mực khẳng định là vẫn cứ duy tŕ sự ràng buộc của lễ đối với nam nữ. Có thể nói đây là một quyết định sáng suốt, thấy được cái lớn mà giữ lại cái nhỏ. Những chỗ nầy cũng chính là bài học cũng đáng để cho chúng ta ngày nay phải lưu tâm suy nghĩ.
Giới huyền môn có bí pháp cầu nguyện, để ngăn chặn tà tâm: Khi đứng trước mặt một người khác phái, hăy nh́n ngay trái tim họ và cầu nguyện:
“Cầu xin Ơn Trên ban cho anh tôi (chị tôi, hay em tôi), luôn đoan chánh, tinh tấn với tấm ḷng từ thiện”
Làm như vậy tà tâm hai bên sẽ không nhen nhóm lên được.
Học "Lễ" không phải khó khăn, như có người lầm tưởng. Bởi v́ "Lễ" thuận ḷng người mà tỏ ra, chớ không phải cưỡng bách. Cổ nhơn thường khuyên nhau:
“Trước học lễ rồi sau mới học văn” (Tiên học lễ, hậu học văn/ Minh tâm bửu giám),
Tức là trước tiên học đạo lư lễ nghi, rồi sau mới học đến các môn văn hóa khác. Luật pháp dùng để răn người phạm tội. Lễ nghi để ngăn những biểu hiện xấu, những t́nh huống thiếu tôn ti trật tự. Thường t́nh người ta sợ luật hơn sợ lễ, đó là tại luật có h́nh phạt kèm theo, nên ít ai phạm; c̣n lễ th́ chỉ khuyên lơn, răn dạy, nên những người nào ít học hay bị vi phạm, th́ chỉ bị người đời chê cười mà thôi.
Người nào ǵn giữ từ hành vi, lời nói và tư tưởng mỗi mỗi điều thích trung dung, ấy là người có lễ độ. Tóm lại: "Lễ" mực thước để đo lường tư tưởng, lời nói và hành vi trong khi xử thế, tiếp vật. Đức Lăo Tử nói rằng:
“Khi thất Đạo mới theo Đức, khi thất Đức th́ mới theo Nhân, khi thất Nhân mới theo Nghĩa, khi thất Nghĩa th́ nên theo Lễ” (Đạo Đức Kinh).
Vậy chúng ta có thể nói rằng kẻ học theo Lễ để trở về với Nghĩa, theo Nghĩa để trở về với Nhân, theo Nhân để trở về với Đức và theo Đức trở về với Đạo. Nên lễ là bước đầu là nền tảng của các đức tính khác.
TRÍ
Trí là năng lực hiểu biết Người ta nhờ Trí để biết phân biệt phải quấy, lành dữ. Người Trí biết đạo đức và lần hồi hoán cải việc dở thành hay, điều ác thành điều thiện và mỗi ngày mỗi làm cho ḿnh được tăng thêm phẩm hạnh, nhưng lư trí phải đi đôi với trực giác:
“Lư trí của người ta dẫu minh mẫn thế nào, cũng có giới hạn, không hiểu biết được nhanh và sâu xa như trực giác. Có lắm điều cứ để tự nhiên theo trực giác th́ biết rơ ngay được, mà dùng lư trí để suy xét, th́ nghĩ ngợi măi mà không ra manh mối. Là v́ những sự biết mẫn tiệp và sâu xa là thường do trực giác, chứ không phải do lư trí. Song khi đă biết điều ǵ rồi, tất phải dùng lư trí mà kiểm soát lại, để biết cho rơ những điều đă do trực giác mà biết.
Lư trí là năng lực suy luận để hiểu biết sự việc tính chất, h́nh thể bề ngoài bằng những định nghĩa, mà không thể biết được cái tinh thần linh hoạt trong các sự vật ấy ẩn tàng bên trong. Vậy nếu ta bỏ trực giác là cái biết của tâm, mà chỉ chuyên dùng lư trí để suy luận, th́ thường hay làm cho ta sai lầm, cho nên người ta cho rằng trực giác vượt trước xa lư trí là vậy” (Nho giáo Trần Trọng Kim).
Muốn thành người Trí, chúng ta phải học hành rộng răi, quán thông. Nho gia dạy rằng:
“Học cho rộng, hỏi cho cặn kẽ, suy nghĩ cho thật cẩn thận, phân biện cho sáng tỏ, thực hành cho thiết thực. Không học th́ thôi, mà đă học mà chưa lănh hội quyết không bỏ; không hỏi th́ thôi, đă hỏi mà chưa biết, quyết không bỏ; không suy nghĩ th́ thôi, đă suy nghĩ mà không có kết quả quyết không bỏ; không phân biện th́ thôi, mà đă phân biện mà không sáng tỏ, quyết không bỏ; đă không thực hành th́ thôi, thực hành mà không thiết thực, quyết không bỏ. Người khác học một lần, ta học ngàn lần. Nếu biết thực hành theo phương pháp đó, tuy ngu muội cũng biến thành thông minh, dẫu yếu hèn cũng biến thành mạnh mẽ” (Bác học chi, thẩm vấn chi, thận tư chi, minh biện chi, đốc hành chi. Hữu phất học, học chi phất năng, phất thố dă; hữu phất vấn, vấn chi phất trim phất thố dă; hữu phất tư, tư chi phất đắc, phất thố dă; hữu phất biên, biện chi phất minh, phất thố dă; hữu phất hành,hành chi phất đốc, phất thố dă. Nhân nhất năng chi, kỷ bách chi; nhân thập năng chi, kỷ thiên chi. Quả năng thử đạo hĩ, tuy ngu bất minh, tuy nhu bất cường”/ Trung dung).
Theo Nho giáo, kẻ học phải thực hiện năm điều, đó là: Học, vấn, tư, biện, và hành.
Học: Lấy sự t́m kiếm làm cho giỏi mọi việc gọi là Học.
Vấn: Lấy sự học hỏi giải thích cho rơ ngờ vực gọi là Vấn.
Tư: Lấy sự suy ngẫm làm cho thông suốt mọi lư thuyết gọi là Tư.
Biện: Lấy sự thảo luận suy xét, làm cho tinh tường lẽ phải trái, để rồi đưa ra bằng chứng cho rơ, từ đó chấp nhận hay bác bỏ, gọi là Biện. Nên người ta thường dùng chung với các từ ngữ khác thành các danh từ kép như biện chứng, biện luận, biện minh, biện bạch, biện bác, biện hộ...
Hành: Lấy sự t́m kiếm hiểu biết, thực hiện sự kiện gọi là Hành động.
Học và hành phải đi đôi th́ sự hiểu biết mới được cụ thể. Tỉ như chúng ta biết thờ Trời là một việc rất hữu ích: Nhưng biết thờ Trời chưa đủ, thành thử chúng ta phải thực hiện lễ bái Đức Chí Tôn hằng ngày, để tập cho ḿnh có ḷng thành kính, đạo tâm phát triển. Ḷng thành kính biểu hiện từ Chân tâm, nó sẽ giúp chúng ta trừ khử được vọng tâm và cảm thông với Thiên lư (giới tu hành gọi là Công phu). Thờ Trời, tế Trời là một phương pháp làm sáng cái đức sáng của chính ḿnh. Nên trong cửa đạo có câu:
“Lễ bái thường hành tâm đạo khởi”(Bài thài Thất nương Diêu Tŕ cung).
Thầy Tuân Tử nói:
“Bất văn bất nhược văn chi, văn chi bất nhược kiến chi, kiến chi bất nhược tri chi, tri chi bất nhược hành chi. Học chi ư hành chi nhi chỉ hỷ. Hành chi minh giả, minh chi vi thánh nhân. Thánh nhân giả giả bản nhân nghĩa, đương thị phi, tề ngôn hạnh, bất thất hào ly, Vô tha đạo yên, dĩ hồ hành chi hỷ”/ Tuân tử - Nho hiệu VIII)
Nghĩa là “Chẳng nghe chẳng bằng nghe, nghe chẳng bằng trông thấy, trông thấy không bằng biết rơ, biết rơ không bằng làm được. Sáng suốt mọi việc th́ làm Thánh nhân. Thánh nhân là người lấy nhân nghĩa làm gốc, định rơ phải trái, lời nói với việc làm như nhau, không sai lầm một hào một ly nào. Học đến làm được mới thôi. Không có đạo nào khác nữa”. Như vậy cái “đức sáng” của ḿnh càng ngày càng sáng suốt thêm lên.
Sự học có nhiều lối: Học với sách vở, với kinh nghiệm của người khác, với kinh nghiệm của chính ḿnh, và học với trí suy ngẫm. Ví dụ: Chúng ta chưa biết lửa có tính nóng. Nay v́ có một duyên cớ ǵ, chúng ta chạm lửa làm phỏng tay; Thế là chúng ta học bài học biết lửa có tính nóng và tránh nó lần sau. Một học giả Tây phương có câu:
“Trên thế gian có ba hạng người, một loại học hỏi bằng sách vở, lại học hỏi qua kinh nghiệm của người khác, một loại học bằng chính những hành động dại dột của ḿnh”(Cari Barney).
Đời là một trường học
Rủi chúng ta bị phiền năo v́ một việc ǵ, th́ chúng ta chẳng khá trách người, chẳng khá trách vật, chẳng khá trách Trời; mà trái lại, phải tự xét ḿnh, t́m cho ra nguyên nhân nào làm cho chúng ta phải phiền năo. Phải chăng: Tại không biết, tại trễ năi, tại tức giận? Khi đă thấy nguyên nhân tạo ra phiền năo rồi, chúng ta nên t́m phương giải quyết, để cho cách xử sự lần sau được khá hơn.
Trí tuệ con người là một trường tiến hóa
Khoa học ngày nay, nhờ Trí mà phát minh biết bao nhiêu cơ khí kỹ xảo. Chúng ta nên dùng Trí của ḿnh để hiểu biết đời sống của ḿnh: Đại để như nh́n ra vũ trụ bao la, biết bao nhiêu thiên hà, thế giới vận động không ngừng, lại nh́n đến vạn vật yên lặng, trang nghiêm, rồi nghĩ đến thân phận người ta ở đời: Sống như vậy rồi chết ra sao? Và c̣n biết bao nhiêu những việc huyền bí trong vũ trụ mà chúng ta chưa biết được. Vậy chúng ta nên ghi nhận những vấn đề ấy, để rồi suy ngẫm khám phá sự liên lạc của người với Trời, người với người và người với vật.
Một khi chúng ta khám phá những lẽ bí mật của Tạo vật rồi, ắt chúng ta sẽ giải quyết được đời sống của chúng ta với một cách xứng đáng. Theo lư, đương nhiên đời sống chẳng phải t́m kiếm những việc nhỏ mọn trong ṿng vật dục, mà phải vượt ra ngoài, hướng thượng để rồi sống với đạo, sống với Thượng Đế và sống với chúng sanh.
Mục đích của người Trí là biết Đạo, thế nên kẻ học phải chuyên tâm tŕ chí. Cách học phải mở cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cùng, phân biệt cho rơ và hết sức làm theo; để thành toàn cái biết của ḿnh. Mỗi ngày phải xét ḿnh và bền ḷng tự xét tự tỉnh măi cho đến một ngày kia, chúng ta sẽ có tâm trọn lành (phát Huệ tâm).
Trí đă phát khởi, thấu hiểu chơn lư thiện ác và biết giới hạn của dục t́nh rồi. Lúc bấy giờ, chúng ta ung dung thông cảm với Thiên lư mà sống với một thái độ thuận ḥa, b́nh tĩnh theo Đạo tự nhiên.
TÍN
Tín là tin. Thủ tín là điều quư trọng của người, nhứt là kẻ tu hành. Lời nói của ḿnh thốt ra phải trọng nó: Nói ra rồi phải nh́n nhận, nếu nói không chắc một lần, về sau mặc dầu chúng ta nói thật, người ta cũng không tin "Nhơn vô tín bất lập": Người không đặng tín nhiệm th́ chẳng làm nên việc ǵ được.
Đối với ḿnh lại càng phải thủ tín hơn nữa. Chúng tôi xin nhắc câu sách Đại Học nói rằng:
"Sở vị thành kỳ ư giả vô tự khi dă".
Nghĩa là giữ ư ḿnh cho thành thật, tức là ḿnh không tự khinh khi ḿnh, tức là tự trọng .
Đại để nói rằng cốt yếu là thành thật ngay từ trong tâm, nếu mà tự dối ḿnh tức là ḿnh không biết tự trọng lấy ḿnh vậy.
Ví dụ: Chúng ta hứa với ḿnh "Học cho giỏi" thế mà rồi ít lâu lại quên mất, không làm được như lời hứa. Đó là tại sao? Tại ḿnh tự dối ḿnh, mà kẻ tự dối ḿnh tức là dối lương tâm; mà dối lương tâm là dối Trời. Thử hỏi: Trời có nên dối chăng?
Những kẻ bội ước, bất trung, nói rồi chối, hoặc điên đảo xảo ngôn, là kẻ xúc phạm đến thần minh, kẻ ấy thế nào cũng phải chịu sự trừng phạt.
Mất ḷng tín nhiệm của người lại mất ḷng tự tín của ḿnh, kẻ ấy thành ra một nhân vật khả ố. Kẻ học đạo tự ḿnh phải nói thật và thủ tín, v́ khoản thất tín nầy này rất khó dung chế.
Chữ “Tín” về tôn giáo c̣n gọi là Tín ngưỡng. Đứng về phương diện tín ngưỡng tôn giáo, ngày nay nhân loại vẫn c̣n trạng thái cực đoan, cứ cho những giáo lư, giáo luật và nghi lễ của ḿnh tin là chánh giáo, mà xem các tôn giáo khác là tả đạo bàng môn, cần phải loại trừ. Thậm chí những phần tử cực đoan c̣n tạo nên nhiều cuộc ác chiến đẩm máu tàn sát lẫn nhau, mà họ cả tin rằng hành động đó là phựng sự Thượng Đế. Chúng ta nên hiểu rằng: Thượng Đế lập ra tôn giáo là v́ con người, chứ không phải tạo ra con người để v́ tôn giáo.
Mục đích tôn giáo Thượng Đế lập ra, là cốt để hướng dẫn con người biết sống với phẩm chất nhân văn, cọng yêu ḥa ái, tôn trọng mạng sống lẫn nhau, chứ không phải con người sinh ra với mục đích bảo vệ tôn giáo của ḿnh, mà tàn sát hủy diệt các tôn giáo khác, để cho ḿnh độc tôn.
TIỂU KẾT
Tam cang Ngũ thường là tiêu chuẩn để hướng dẫn hành động con người để trở nên đạo hạnh, cũng như thước qui để làm h́nh tṛn, thước củ để làm h́nh vuông. Muốn làm h́nh tṛn, h́nh vuông mà không dùng thước qui thước củ, để làm rập th́ không thể được, nên người ta hay gọi chung là “quy củ”, cũng như muốn làm người đức hạnh mà chẳng dùng Tam cang Ngũ thường để hướng dẫn th́ biết theo đâu mà làm.
Để cụ thể Tam cang là ba giềng mối, cổ nhân đă đề ra “Thập nghĩa” là phụ từ (lành), tử hiếu (thảo), huynh lượng (rộng răi), đệ để (thuận ḥa), phu nghĩa (ân nghĩa), phụ thính (lắng nghe), trưởng huệ (thi ân), ấu thuận (vâng lời), quân nhân (nhơn đức), thần trung (trung thành), cốt rao giảng điều tin, để đạt được sự ḥa thuận, chuộng sự từ nhượng, bỏ sự tranh cướp (Lễ kư – Lễ vận XI)
Ngũ thường tuy có năm đức con người hằng tuân thủ, nhưng Nhân đứng đầu của đạo làm người. Lễ là mực thước để làm đạo Nhân, thực hiện trọn đạo Nhân, tức là thể hiện Thiên lư thành Nhơn luân và cũng là làm tṛn bổn phận con người.
----o0o----
TAM TÙNG TỨ ĐỨC
CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ THEO QUAN NIỆM HIỆN ĐẠI
Đại cương
Làm người, mặc đầu nam hay nữ, đều phải lấy tu thân làm căn bản cho bậc Nhơn Đạo, nghĩa là trước cần trau dồi thân tâm cho đạt đến Chân Thiện Mỹ, đó là tu thân; rồi sau mới lo phần xử thế là sửa việc nhà, lo việc nước và đóng góp vào công việc ḥa b́nh Thiên hạ, theo tiêu chí và thứ tự của cổ nhân gọi là:
Tu thân, Tề gia, Trị quốc, B́nh thiên hạ (Đại học/ chương I).
Người xưa rất coi trọng đạo Tu thân, họ thường khuyên:
“Từ vua đến thứ dân, người nào cũng phải Tu thân trước rồi sau mới làm đến những nghĩa vụ khác”(Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn - Đại học, Phần dẫn nhập).
Trái lại, nếu thân chẳng tu mà muốn tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ th́ e làm không nên; bởi gốc đă không vun vén để yếu ớt không ra ǵ, mà muốn cho ngọn phát triển sum xuê xanh tốt là điều không bao giờ có được.
Tam cang, Ngũ thường, Tam tùng Tứ đức là đạo làm người, là tiêu chí tu dưỡng cho cả nam nữ; ngay nam giới cũng phải giữ Công Dung Ngôn Hạnh để sửa ḿnh, nhưng nam nặng về Tam cang Ngũ thường; nữ nặng về Tam tùng Tứ đức.
Thời nay, khi đề cập đến Tam tùng và Tứ đức của phụ nữ, không ít người phản đối, nhất là nữ phái, họ cho rằng đă cổ hủ, lỗi thời. V́ đời nay đang ở vào thời đại văn minh, khoa học tiến bộ, tự do dân chủ, nam nữ b́nh quyền, mà đem chuyện Tam tùng, Tứ đức cách đây hàng bao nhiêu thế kỷ, để áp dụng cho phụ nữ là không thức thời. Nhưng trước khi phê phán, chúng ta cũng nên b́nh tâm t́m hiểu một cách rơ ràng cái tinh hoa của Tam tùng, Tứ đức là ǵ? Hay dở thế nào? Để “Khử thô dụng tinh” (bỏ cái dở dùng cái hay), tránh những điều ngộ nhận về đạo lư làm người của cổ nhân, tức là tránh cái “chê một đĩa mà bỏ cả một mâm”, th́ thật là đáng tiếc. Như vậy, liệu Tam tùng, Tứ đức có lạc hậu trong thời đại ngày nay không? Ngày xưa Đức Khổng Phu Tử cũng nói rằng:
"Luân lư pháp luật phải tùy thời mà sửa đổi cho thích nghi với tŕnh độ tấn hóa của nhơn sanh". (Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn Vơ, thượng thuận thiên thời, hạ tập thu thổ" - Trung Dung)
Vậy chúng ta nên lược lại những qui luật cổ truyền, như cái thuyết "Tam tùng, Tứ đức" chẳng hạn, rồi châm chước sửa đổi cho vừa lằn tấn hóa; nghĩa là chúng ta giữ những cái "Hay" hợp thời, bỏ những cái "dở" lạc hậu, để đưa đoàn hậu tấn đến con đường "Thuần phong mỹ tục ".
V́ trong cuộc sống, chúng ta không thể thiếu cái đẹp, cái đẹp bất biến trường tồn, cái đẹp tiềm ẩn trong con người được biểu hiện qua cách đối nhân xử thế, qua nét cao quư của tâm hồn, qua cái đạo đức trí tuệ. Cái đẹp đó giúp con người xây dựng nhân cách ngày càng hoàn thiện hơn. Cái đẹp đề cập đây, chính là cái đẹp tâm hồn của người phụ nữ, đó là Tam tùng, Tứ Đức.
Tam Tùng là 3 điều nên theo của phụ nữ là:
- Tại gia tùng phụ,
- Xuất giá tùng phu,
- Phu tử tùng tử.1.1. Tại gia tùng phụ
Tại nhà (từ thơ ấu đến khi sắp lập gia đ́nh) th́ sống theo cha mẹ.
Điều nầy rất đúng đắn và tự nhiên, bởi v́ cha mẹ sanh ra ḿnh, nuôi ḿnh lớn lên, dạy cho biết điều hay lẽ thiệt, th́ ḿnh phải vâng lời cha mẹ là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, tùng cha mẹ nhưng phải ư thức là tùng theo lẽ phải và đạo đức, chớ không phải tùng theo một cách mù quáng máy móc.
Phần cha mẹ nên là người hiền lương chơn chất, hết ḷng thương con, lo lắng cho con, dạy dỗ con thành người tốt hữu ích cho gia đ́nh và xă hội.
Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn dạy về Tùng Phụ:
C̣n đương thuở tuổi xanh thơ bé, Rán theo cha học lễ học văn.
Phép xưa tùng phụ đă hằng,Dựa thân cội tử đợi hàng
trượngphu.
Chỉ khi nào cha mẹ làm điều ǵ trái với với đạo lư, th́ người con cần phải khuyên cha mẹ, nhưng phải bằng tất cả sự thương yêu, hiếu kỉnh, phải hết sức khiêm tốn, nhỏ nhẹ; đề nghị cha mẹ nên xét lại điều đó, nếu cha mẹ không bằng ḷng, dù có bị la rầy đánh đập, ḿnh cũng giữ ḷng tôn kính không oán hận. Đức Khổng Tử dạy rằng;
“Sự phụ mẫu cơ gián, kiến chi bất ṭng, hựu kính bất vi, lao nhi bất oán” [Thờ cha mẹ, th́ khi cha mẹ có làm điều ǵ lầm lỗi, con phải t́m cách êm đềm, dịu dàng mà can ngăn, thấy cha mẹ không nghe, th́ cũng kính trọng hiếu thảo, không trái lễ, dầu chịu đau đớn khổ nhục cũng không oán giận – Luận ngữ/ Lư nhân, IV )
Trong Tứ đại điều quy của Đạo cũng đă dạy là:
“Dưới gián trên đừng thất khiêm cung” (Tân luật)
1. 2. Xuất giá tùng phu
Theo nghĩa hẹp là “Có chồng th́ theo chồng”, nhưng nghĩa rộng, ta có thể hiểu đây là nguyên lư “âm dương phối hợp” – Ta thấy từ một nguyên tử li ti trong cơ cấu vật chất, đến những đại tinh cầu trong không gian đều hiện diện hai phần âm dương và luôn phải ảnh hưởng bởi nguyên lư phối hợp nầy mới tồn tại. V́ “độc âm th́ bất sinh, cô dương th́ bất trưởng”. Âm dương phối hợp mới biến hóa sinh tồn. Nên kinh Hôn phối có câu:
“Cơ sanh hóa càn khôn đào tạo,
Do âm dương hiệp đạo biến thiên”
Nên tùng phu không có nghĩa là lệ thuộc chồng, mà hiểu đúng nghĩa của nó, là người phụ nữ tự nguyện phối hợp với chồng để tạo dựng một gia đ́nh mới, có thể là vợ theo chồng hoặc chồng theo vợ, điều nầy không nhứt thiết, mà tùy hoàn cảnh mỗi người, nhưng đa số th́ người vợ theo về nhà chồng nhiều hơn.
Sự tùng theo chồng, đó là bổn phận của người phụ nữ, mà cũng là h́nh thức phân chia trách nhiệm giữa vợ và chồng trong gia đ́nh. Người chồng đảm nhận trách nhiệm làm chủ gia đ́nh, lo về kinh tế - làm việc, sanh lợi nuôi sống vợ con; Và ngược lại. Do đó, một cách rất tự nhiên, người vợ luôn đóng vai em, nhường cho chồng quyền làm chủ, c̣n vợ là phụ tá, giữ ǵn gia nghiệp. Mọi việc trong gia đ́nh, người vợ thường đóng góp ư kiến cho chồng giải quyết, nhưng dành cho chồng quyền quyết định sau cùng.
Đó là tùng theo chồng, với điều kiện người chồng phải sáng suốt và tài cán, chứ không phải như thời xưa qui định:
“Có chồng th́ phải theo chồng,
Chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo"
Ngày xưa dù chồng không ra
ǵ vợ cũng vẫn tuân theo, như kiểu “chồng chúa vợ tôi”, kiểu đó ngày nay không c̣n hợp thời nữa, mà:“Đạo phu thê như đũa nên đôi”
[Nữ Trung Tùng Phận]
Về Tùng phu, Nữ Trung Tùng Phận có câu:
Đến lúc đă chung pḥng ḥa hợp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
Trong nhân gian cũng có câu :
“Vai mang khăn gói sang sông,
Mẹ kêu, thưa mẹ có chồng con theo"
Người vợ thuận tùng chồng bao nhiêu th́ càng chỉ huy chồng bấy nhiêu
Người vợ nên biết rằng sự thuận tùng chồng, đó cũng là một cách chỉ huy chồng khéo léo. Theo Đức Lăo Tử th́ “nhu thắng cang”. Khi người vợ đă nhiệt t́nh vâng lời chồng, th́ trong đó sẽ ẩn tàng một sự chỉ huy chồng khéo léo. Mới nghe th́ có vẻ nghịch lư, nhưng trên thực tế về mặt t́nh cảm, nam giới rất dễ dăi, do đó khi người vợ đă có thiện chí thuận tùng, gây được sự tin yêu với chồng, th́ nói ǵ chồng cũng nghe theo cả... Nên một tâm lư gia kiêm triết học Tây phương nói rằng:
− Đàn bà hoàn toàn thấy rơ rằng họ càng vâng lời bao nhiêu, th́ họ càng chỉ huy bấy nhiêu. (Jules Michelet)
Đây là một phép xử thế mà
ít người hiểu biết và thực hiện được, bí pháp này càng làm tăng cường thêm quyền năng và sứ mạng người phụ nữ mà họ không ngờ. Ngược lại theo khuynh hướng “b́nh quyền b́nh đẳng” hiện nay, nhiều người phản đối, cho rằng quy chế “tùng phu” làm hạ thấp giá trị của người phụ nữ. Đó không những là một nhận định sai lầm nghiêm trọng, mà c̣n làm đảo điên trật tự trong gia đ́nh.
Phong tục và tập quán trong xă hội, cũng như luật pháp của đời lẫn đạo thời nay là nam nữ b́nh quyền, nghĩa là hai vợ chồng có quyền hạn và nghĩa vụ ngang nhau, không bên nào khinh, không bên nào trọng.
Người đàn ông chỉ được có
một vợ, và người phụ nữ chỉ được có một chồng, và vợ chồng phải sống ḥa hợp chung thủy với nhau.Phương ngôn ta cũng có câu:
Vợ chồng là ruột là rà,
Anh em có cửa có nhà anh em.
1.3. Phu tử tùng tử
Chồng chết th́ theo con.
Tùng theo con, không có nghĩa là lệ thuộc vào con, hay để con chỉ huy; mà ư nói rằng, khi chồng chết th́ người vợ nên ở vậy, thủ tiết thờ chồng, quên ḿnh mà lo tạo dựng cho con.
Thật ra, thời xưa cũng như thời nay, đây không phải là điều bắt buộc, mà chỉ là lời khuyên. Nếu người vợ c̣n trẻ tuổi, luân lư và luật pháp không cấm người vợ tái
giá khi măn tang chồng.
Việc người quả phụ bước thêm bước nữa là việc b́nh thường, và chúng ta cũng thường thấy như thế. Nhưng nếu người phụ nữ ấy thủ tiết, ở vậy thờ chồng nuôi dạy con khôn lớn, th́ đó mới là điều phi thường, đáng tôn trọng; Cái khó khăn mà người ta không làm được, ḿnh làm được th́ mới đáng quí, đáng bậc trung kiên, tiết liệt. V́ nó thể hiện ḷng cứng cỏi bất khuất, chiến thắng dục vọng b́nh thường của người nữ.
Không có chiến công vẻ vang nào bằng tự thắng được dục vọng của ḿnh. Nên ngày xưa, người góa phụ nào giữ được như thế, vua ban thưởng, phong tặng cho tấm bảng vàng với bốn chữ:
“Tiết hạnh khả phong”.
Trong nhân gian, hay trong tôn giáo cũng luôn luôn mong muốn người phụ nữ sống cao thượng, cho nên khuyến khích người phụ nữ, khi chồng chết th́ không nên tái giá; ở vậy thờ chồng nuôi con và xây dựng cho con. Tuy nhiên, đây chỉ là sự chỉ vẽ đường lối có tánh cách khuyến khích, chớ không bắt buộc. Người phụ nữ tùy ư lựa chọn con đường ḿnh đi, muốn ḿnh sống b́nh thường như bao nhiêu phụ nữ khác, hay muốn trở nên bực phi thường, th́ người phụ nữ có toàn
quyền tự do lựa chọn và định đoạt
cuộc đời ḿnh. Ngày xưa có một câu chuyện hài hướt, nhưng cũng mang nội dung trên, đó là có một cô tên Nguyễn Thị Đào, chồng chết, làm đơn xin quan huyện tái giá, quan phê trong đơn rằng:Phê cho cô Nguyễn Thị Đào:
Sông sâu ai nở cắm sào chờ ai?
Chữ rằng: xuân bất tái lai.
Lấy chồng th́ lấy, lấy ai th́ đừng !!!
Ư hai câu cuối là khuyên cô Đào không nên tái giá.
Trong cửa Đạo cũng khuyên góa phụ nên thủ tiết thờ chồng, sau đây là lời phê của Đức Phạm Hộ Pháp có liên quan đế vấn đề nầy:
- Phúc tŕnh số 306 đề ngày 4 tháng 4 năm Quí Tỵ, của Hoà viện và Thánh Vệ vâng lịnh Đức Hộ Pháp minh tra vụ Đặng Văn Nang xin cưới bà Đoàn Thị Ngàn làm vợ.
LỜI PHÊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
Theo Chơn Pháp th́ Hội Thánh chẳng đặng phép phê cho góa phụ tái giá v́ buộc thủ tiết cùng chồng, song Thị Ngàn góa chồng khi c̣n nhỏ tuổi mà con lại đông, phần côi cút, chẳng đủ sức nuôi con, chỉ có một điều khó tính là con của nó đă được Phạm Môn nuôi dưỡng, th́ nó cũng an phận hành đạo trong sở Dưỡng Lăo.
Sự giải quyết thân phận của nó cũng gọi là an ổn rồi, th́ cũng không lư do ǵ cần yếu cho nó tái giá.
Ấy là v́ t́nh mà Nang và
Ngàn muốn gá nghĩa cùng nhau, th́ chúng làm ǵ tùy ư. Hội Thánh chỉ không bắt tội Thị Ngàn là nhiều lắm rồi.HỘ PHÁP
(Ấn Kư)
Theo bút phê của Đức Hộ Pháp th́ vừa hợp lư, vừa cận nhân t́nh, tuy chơn pháp không cho phép tái giá, và đời sống cô Ngàn đă ổn định, nhưng về t́nh cảm vẫn để cho góa phụ tùy ư quyết định.
Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn Thị Điểm cũng viết về Tùng tử như sau:
Thôi đành gởi tâm hồn giá tuyết,
Theo nương con cho hết Tam Tùng.Một là tṛn nghĩa thủy chung,
Hai là chia dạ năo nùng với con.
Tứ Đức là 4 đức tốt của người phụ nữ gồm: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
2.1. Công
Ngày xưa Nữ công là lo về gia chánh: biết coi trong ngó ngoài, chăm sóc gia đ́nh, nhà cửa cho sạch sẽ, trật tự, vén khéo; biết nấu nướng các món ăn, biết đường kim mối chỉ, thêu thùa may vá; để cho chồng con được ăn ngon, mặc ấm, ngoài ra c̣n biết lo cho chồng, nuôi con khỏe, dạy con ngoan.
Nữ Công đối với người phụ
nữ ngày xưa th́ chỉ ứng dụng trong gia đ́nh, c̣n theo quan điểm hiện đại, th́ Nữ công c̣n nặng nề hơn xưa, đó là:
“Đảm đang việc gia đ́nh, giỏi dang việc xă hội”.
Nghĩa là vừa làm tốt công việc gia đ́nh, vừa lo chu toàn công tác ngoài xă hội, tức là phải quán xuyến cả việc nhà lẫn việc nước.
Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn Thị Điểm dạy về Công như sau:
Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách,
Công chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ, gỡ đày chinh phu ([1]).
Trong phần Công, bà Đoàn Thị Điểm c̣n dạy phụ nữ nên dành th́ giờ lo học tập, trau giồi văn hóa nâng cao kiến thức, để giúp chồng làm vẻ vang ṇi giống:
Dụng văn hóa trau tria nữ phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
Gươm thư giúp sức gươm hùng
Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.
[Nữ trung tùng phận]
Cụ thể Nữ công của người phụ nữ hiện đại là biết sắp xếp công việc gia đ́nh và xă hội sao cho hợp lư, Ngoài ra c̣n phải có nghề nghiệp ổn định và làm tốt nghề của ḿnh. V́ làm tốt nghề nghiệp của ḿnh, ngoài sự giúp chồng con, c̣n giúp người phụ nữ tự tin, khẳng định được khả năng của ḿnh, góp phần vào kinh tế cho gia đ́nh và đóng góp tài năng, trí tuệ xây dựng xă hội.
Ngày nay, tuy có nhiều phụ nữ đă thành công trong cuộc sống, như đảm đang việc nhà, giỏi giang việc nước, sánh vai cùng nam giới trong công cuộc xây dựng xă hội. Nhưng cũng không ít những chị em chểnh mảng coi nhẹ về nữ công, nên chữ Công đang có nguy cơ bị phai mờ, đó là một điều sai lầm nghiêm trọng.
V́ trước hết, do đời sống khá giả, một số chị em không biết đến cái cơ bản nhất là giặt đồ, v́ “nhà đă có sẵn máy giặt”, cho đến nấu ăn cũng là cực h́nh đối với họ. Thậm chí nhiều chị em hiện nay cũng không màng đến công việc nhà, chỉ giao cho người giúp việc, mà chỉ lo chăm lo nhan sắc để t́m một người chồng giàu có. Hơn nữa, dù đă có gia đ́nh, một số chị em cũng không giỏi Nữ công, như không biết hát ru con, không biết kể truyện cổ tích cho con nghe, không biết nấu những món ăn dân tộc cho chồng con thưởng thức. V́ hát ru đă có băng đĩa, ăn uống đă có đồ hộp, những món ăn liền bán sẵn.
Chúng ta nên khẳng định rằng người phụ nữ nếu không biết nữ công gia chánh, th́ không thể là một người ǵn giữ hạnh phúc cho gia đ́nh được bền lâu.
2.2. Dung
Napoléon gọi “Phụ nữ là những bông hoa có linh hồn”. V́ thế, chữ Dung đối với phụ nữ rất quan trọng. Dung là tác phong, vẻ mặt và dáng dấp bên ngoài. Người phụ nữ cần chăm sóc dung nhan cho tươi tắn, tướng đi đứng dịu dàng, cử chỉ từ tốn đoan trang, thân thể sạch sẽ, quần áo tươm tất gọn gàng. Nhiều phụ nữ ngày nay, cao ráo nhờ guốc dép, trắng trẻo nhờ kem dưỡng da, hồng hào nhờ mỹ phẩm, lộng lẫy nhờ thời trang. Những thứ đó cứ có tiền là mua được, song vẻ đẹp trong tâm hồn th́ không tiền nào mua nổi.
Một số phụ nữ lại rất chăm chú đầu tư về h́nh thức, nhưng họ không biết rằng, đàn ông thích mộc mạc: “Đơn giản là đẹp” (C’est beau et simple), hoặc là “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Nếu một phụ nữ chỉ là người ăn mặc đúng mốt, đúng thời trang, nhưng không có tâm hồn cao thượng, không có trí tuệ minh mẫn th́ thật sự không có vẻ đẹp; Cái đẹp hoàn hảo là cái đẹp cả h́nh thức bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Cái đẹp là biết thông cảm với mọi người, sống kính trên nhường dưới, biết tôn trọng người khác, biết quảng đại trao ban.
Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn Thị Điểm dạy về Dung như sau:
Phàm phận gái đứng hàng khuê cát.
Phải trau tria tướng hạc h́nh mai.
Chín tầng cửa đóng then gài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.
Dung của người phụ nữ thời nay, không c̣n là nét đẹp “yểu điệu, liễu yếu đào tơ” mà ngày nay, vẻ đẹp phụ nữ rất đa dạng. Có vẻ đẹp kiêu sa, quư phái, năng động, cũng có cả vẻ đẹp “bốc lửa”; nhưng cái đẹp được ưa chuộng nhất là vẻ đẹp khoẻ khoắn, v́ khỏe để làm việc tốt, để giữ ǵn hạnh phúc gia đ́nh và để sinh ra những đứa con thông minh, khỏe mạnh.
Đồng thời, Dung c̣n là nét đẹp nữ tính: gọn gàng, tinh tế trong cách ăn mặc và trang điểm, là vẻ mặt linh hoạt, luôn tươi cười; là phong thái cởi mở, ḥa nhă, là cử chỉ thân mật, chân thành. Nhất là luôn biết nhu ḥa, khiêm tốn với mọi người. Đức Khổng Tử khuyên:
“Xuất môn như kiến đại tân,
Sử nhân như thừa đại tế”.
(Luận ngữ/ Nhan Uyên XII/ II)
Nghĩa là ra khỏi nhà phải ăn mặc chỉnh tề như tiếp một vị khách quư. Sai bảo người khác làm việc, th́ nghiêm chỉnh cẩn trọng như sắp làm chủ một cuộc tế lễ lớn. Ngày nay nhiều chị em ăn mặc quá cẩu thả, ngay khi ra đường cũng mặc hở hang, áo treo hai dây, mặc quần cụt đến bẹn !!! Ngày xưa Hitler, tuy là nhà độc tài khét tiếng, nhưng luôn ăn mặc tươm tất ngay trong nhà, kể cả khi xuất hiện trước người giúp việc.
V́ thế, Dung là vẻ đẹp của sự hài ḥa giữa h́nh thức và tâm hồn. Sắc đẹp là diễm phúc của người phụ nữ, nhưng bản thân sắc đẹp không phải là đức tính, mà cái cái đẹp của nết na mới đáng quư, v́:
“Cái nết đánh chết cái đẹp”.
Từ đó ta có thể nhận định rằng:
“Không có phụ nữ nào xấu, mà chỉ có những ngừoi phụ nữ không biết làm cho ḿnh đẹp mà thôi”.
Cái sai lầm của một số phụ nữ Việt Nam ngày nay là dành ưu tiên cho việc đầu tư ngoại h́nh, để không thua em kém chị. Nhưng cái đáng buồn là nét đẹp bên trong lại tỉ lệ nghịch với cái đẹp bên ngoài. V́ cái đẹp bề ngoài dễ trau chuốt hơn, nên phụ nữ thời nay thích cái dễ, v́ họ đang sống trong thời đại “ḿ ăn liền”.
2.3. Ngôn
Ngôn là lời nói phải thành thật, ngay thẳng, dịu dàng, xác đáng, gây được t́nh cảm tốt đẹp trong mọi người; tránh lời thị phi, nói hành, đâm thọc, xảo trá lợi ḿnh hại người.
Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn dạy về Ngôn:
Đối với khách đồng bàn đồng tuổi,
Nhớ cho hay lời nói giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng, phục người
mới ngoan.
Người xưa có câu:
“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”.
Lời nói có duyên bao giờ cũng gây được thiện cảm với người nghe.
Ngôn trong Tứ Đức là lời nói dịu dàng, có duyên. Không thể phủ nhận sức thuyết phục của người phụ nữ mỗi khi lên tiếng khuyên chồng, dạy con ở nhà, dàn xếp công việc, thương lượng trong kinh doanh, Ngôn là lời nói có duyên, sẽ gây được thiện cảm với người nghe, người phụ nữ có lời nói dịu dàng, giọng nói nhẹ nhàng th́ hiệu quả càng lớn khi dạy bảo con cái, khi khuyên nhủ người chồng và cả khi dàn xếp công việc ngoài xă hội, thương lượng trong kinh doanh.
Thậm chí hiện nay cũng có nhiều phụ nữ đảm trách việc ngoại giao, tiếp xúc với ngoại bang, họ chỉ dùng ba tất lưỡi ngọt ngào, đă đem lại thành công cho quốc gia đại sự.
Ngày nay, người phụ nữ không chỉ cần nói năng lịch thiệp, mà c̣n rất cần sự thẳng thắn, chống lại sự bất công trong gia đ́nh và ngoài xă hội. Nên lời nói của người phụ nữ càng dịu dàng, tế nhị, th́ sức thuyết phục và sự thành công càng cao.
Bất kỳ nam hay nữ ra đời nên lưu ư cách nói chơi giữa đám đông, vô t́nh làm xúc phạm đến người khác, Kinh Sám hối khuyên rằng:
“Đừng chỗ đông buông tánh quá vui,
Cợt người ra bộ dễ duôi,
Sinh điều xích mích đâu nguôi dạ hờn”
Cách nói chơi cũng là một nghệ thuật, đừng bao giờ đem những khuyết điểm của người khác ra diễu cợt, mà nên t́m những ưu điểm để biểu dương, th́ họ rất hài ḷng hơn là đem cái xấu của người ta ra bêu riếu, đó là một cách xúc phạm khó tha thứ. Nhất là đừng bao giờ luận bàn đến chính trị và tôn giáo, là hai vấn đề rất nhạy cảm, thường xảy ra sự bất đồng chính kiến, dễ gây bất ḥa với nhau.
Khi ra đời, mọi lời nói năng nhỏ nhẹ, đều hiệu quả hơn cách nói oang oang, như lệnh vỡ, hoặc phát ngôn bừa băi, chứng tỏ ḿnh là người thiếu hiểu biết.
2.4. Hạnh
Hạnh là tánh nết hiền lành, ḥa nhă, hiếu thảo, kính trên nhường dưới, khoan dung và đoan chính. Giá trị sự hiền ḥa của người phụ nữ được Napoléon nhận định rằng:
“Đàn bà đẹp làm vui mắt, đàn bà hiền làm vui ḷng. Người trước là một thứ nữ trang, c̣n người sau là một kho tàng”.
Trong Nữ Trung Tùng Phận, Bà Đoàn dạy về Hạnh như sau:
Sửa từ nết, ngày thâu tập tánh,
Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu xa rách rưới lơa lồ,
Đoan trang tánh đức cũng cho gái lành.Hạnh của người phụ nữ ngày nay, tuy không lệ thuộc chồng con, nhưng đức hạnh muôn đời vẫn là yêu chồng, thương con, giàu ḷng hy sinh, chung thủy trong hôn nhân, không đua đ̣i trong cuộc sống. có tinh thần trách nhiệm với bản thân, gia đ́nh và cộng đồng.
Đồng thời, người phụ nữ cần có ḷng vị tha, độ lượng với mọi người; có ước mơ, hoài băo trong nghề nghiệp và biết nỗ lực biến ước mơ thành hiện thực. Cần có ḷng nhân, chia ngọt sẻ bùi với nỗi bất hạnh của tha nhân.
Biết nhường nhịn chồng và gia nương(1), giữ ǵn ḥa khí trong gia đ́nh, để gia đ́nh yên vui.
“Chia chồng v́ dạ sắt son (2)
Nhịn chồng bởi chút sắp con cái nhà”
[Nữ Trung Tùng Phận] _________
1. Gia đinh nhà chông.
2. Chia sớt t́nh thương của chồng cho hầu thiếp.
Người phụ nữ như vậy, sẽ xây dựng gia đ́nh thành một tổ ấm cho nhiều thế hệ, là nơi nương náu cho trẻ thơ, là trạm dừng chân nghỉ ngơi cho trai tráng, là thành lũy cuối cùng của tuổi già.
Đức hạnh của người phụ nữ ngày nay đang bị xói ṃn !!!. V́ một số bạn gái tưởng lầm rằng phải biết uống rượu, đánh nhau, đi hoang qua đêm, bỏ học, chửi thề và yêu nhiều, mới là "người phụ nữ lư tưởng".
Theo nhiều nhà tâm lư học đă nhận định rằng, một trong những nguyên nhân dẫn đến giảm đức hạnh của các bạn gái là cha mẹ chưa quan tâm con cái đúng mức. Các bạn gái đâu có biết rằng, khi lập gia đ́nh th́ mọi buồn vui, hạnh phúc, đau khổ, thành công hay thất bại đều do cái đức hạnh của người phụ nữ quyết định cả.
Về trinh tiết, trong đạo vợ chồng vấn đề t́nh dục là điều không thể thiếu, nhưng người phụ nữ phải biết giữ ǵn trinh tiết cho đến khi về nhà chồng. Lớp trẻ ngày nay quan niệm rất hời hợt về chuyện giữ ǵn trinh tiết, cho yêu là hiến dâng, là quan hệ xác thịt, thậm chí khi chưa yêu, chỉ mới quen nhau cũng vẫn quan hệ t́nh dục.
Ngày nay, có nhiều bạn gái thích sống thử trước hôn nhân. Một số bạn rất ngây thơ trong chuyện này: Ai sẽ là người chịu thiệt tḥi? Nạn nhân chính là người con gái. Con trai vốn ích kỷ, họ chỉ muốn được thỏa măn nhu cầu xác thịt, nhưng khi cưới vợ, họ lại muốn người con gái ấy hoàn toàn trinh nguyên.
Đến một ngày nào đó, bạn sẽ gặp một người mà bạn thật sự yêu thương, liệu bạn có đủ dũng cảm để đối mặt với người ấy và liệu họ có chấp nhận khi bạn không c̣n trong trắng? Hay họ luôn nghi ngờ sự nhẹ dạ của bạn:
"Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh,
Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.
[Nữ Trung Tùng Phận]V́ thế, người con gái phải tự bảo vệ cái quư giá nhất của đời ḿnh. Sống thử, nếu dính bầu th́ đi phá thôi sao? Đừng v́ một giây phút nông nổi, mà bạn phải ân hận khi mất cái thiên chức làm mẹ.
Về trinh tiết của người phụ nữ, trong Nữ Trung Tùng Phận bà Đoàn Thị Điểm khuyên như sau:
Đóng chặt cửa giữ nguyên trinh tiết,
Trọng thân danh bền nét đào yêu.
Các bạn gái Việt Nam trong thời đại ngày nay, đúng là có rất nhiều cám dỗ và cạm bẫy, nhưng các bạn hăy tự bảo vệ chính ḿnh, đừng tự hủy hoại bản thân và cuộc sống sau này. Tiêu chuẩn tối cao của cái đẹp muôn thuở vẫn là sự hài ḥa giữa sắc đẹp thân thể và nhân cách.
TIỂU KẾT
Tóm lại nguyên nhân khiến phụ nữ ngày nay không coi trọng Tứ Đức, V́ với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, kinh tế và đời sống hưởng thụ đă làm cho Công, Dung, Ngôn, Hạnh đang bị xói ṃn. Một số chị em không c̣n coi trọng “Tứ Đức” của ông cha dạy bảo nữa.
Chúng ta có thể khẳng định, Tam tùng, Tứ đức của người phụ nữ không thời nào có thể xem nhẹ được. Trong các gia đ́nh ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Tam tùng, Tứ đức của người phụ nữ đang ngày càng được đề cao, mặc dù hai quốc gia này có nền kinh tế rất phát triển. Việt Nam ta gần đây, do măi bận rộn với đời sống kinh tế, mà các gia đ́nh xem nhẹ việc giáo dục Tứ đức cho con gái. V́ thế, xu hướng nam tính trong phụ nữ nước ta gần đây đă tăng lên. Nhiều bạn gái, sống như con trai, và nếu như thế th́ họ không c̣n là phụ nữ nữa. Đó là một điều rất thiệt tḥi cho nữ giới
Tam tùng Tứ đức măi măi là "khuôn vàng thước ngọc" của người phụ nữ ở mọi thời đại, nhưng phải linh động, tức là phải có sự thay đổi để phù hợp với sự đổi mới, nghĩa là phải hợp lư và cận nhân t́nh.
Một người đàn ông có được một người vợ đủ Tứ đức, là một niềm hạnh phúc lớn lao đối với họ. Họ và con cái sẽ có một gia đ́nh ḥa thuận, yên vui, được ăn ngon, mặc ấm. Đặc biệt là việc giáo dục con cái, nếu người mẹ không đủ Tứ đức, không giỏi nữ công gia chánh, th́ con cái sẽ rất thiệt tḥi, nhất là con gái.
TAM TÙNG, TỨ ĐỨC
CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ CAO ĐÀI
Người phụ nữ Cao Đài, đă dăi dầu với cuộc sống, họ đă nếm nhiều đau khổ; khi trẻ th́ lụy v́ ái ân, thề non hẹn biển, khi có gia đ́nh th́ khổ v́ chồng con, sinh đẻ, ghen tương, tranh danh đoạt lợi. Ngoài xă hội th́ khổ v́ mạnh hiếp yếu, dữ lấn hiền, hại nhau chẳng kể ǵ nhân nghĩa !!! Chung cuộc, đời họ được mấy ngày vui, chỉ toàn là sầu thảm, y như một giấc mộng:
Ngắm cuộc thế chẳng bằng một giấc
Kiếp phù sinh đặng thất là bao
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.
[Nữ Trung Tùng Phận]
Nên đă tỉnh ngộ, quyết tâm ĺa bỏ:
"Đoạn t́nh ái đem quăng bể khổ,
Dứt hồng duyên, tính bỏ non thề.
Nầy bờ tục, nọ bến mê,
Từ đây ta quyết không về thấy ngươi.
V́ thấy đó, cả cười lộn khóc,
Sách của ngươi không học mà say.
Cửa ngươi, cửa đọa cửa đày,
Ghét ngươi ta dứt từ ngày bữa ni.
Lần chuổi hạt từ bi cứu khổ,
Lấy gió thanh trăng tỏ làm nhà...
[Nữ Trung Tùng Phận]
Nên họ nương ḿnh vào cửa đạo,:
"Trương thẳng cánh con thuyền
Bát nhă,
Cỡi đau thương, giải quả trừ khiên.
[Nữ Trung Tùng Phận]
Để quên đau thương, họ công phu, tụng niệm, t́m niềm vui và t́m phương giải khổ cho ḿnh:
Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,
Sớm công phu, tối tụng văng sanh.
Đă quen cửa Phạm lánh ḿnh,
Nên phương nhờ bởi đoạn t́nh ái yêu.[Nữ Trung Tùng Phận]
Đó là những nguyên nhân khiến họ tỉnh ngộ, để lần bước từ Nhơn đạo qua Thiên đạo.
Người phụ nữ Cao Đài, muốn bước vào phần Thiên đạo th́ phải thực hiện xong Tam tùng Tứ đức của Nhơn đạo, rồi c̣n phải trau luyện để nó thăng hoa thành Tam Tùng Tứ Đức của Thiên đạo, trở nên một trong Thánh thể Chí Tôn, để tế độ chúng sanh, mới mong thoát khỏi oan khiên, trở về ngôi vị cũ.
Ngay bà Đoàn Thị Điểm dù nguyên căn là một nữ tiên, nhưng trong kiếp sanh thiếu công phổ độ, nên khi qua đời vẫn ngồi ở thanh tịnh đại hải, Chờ 178 năm sau khi khai Đạo, Đức Chí Tôn ân xá cho bà về cơ viết tám bài Kinh Thế Đạo và quyển Nữ Trung Tùng Phận để tế độ nữ phái, Bà mới được trở về Diêu Tŕ cung (Theo thuyết đạo của Đức Hộ Pháp 26-10 Tân măo - 1951).
V́ có công phổ độ mới giải được tiền khiên oan trái, nên Đức Chí Tôn dạy rằng:
“Có công phổ độ giải tiền khiên”
Dù cho một vị Đại La Thiên
Tiên xuống trần mà không tu, tức là không có công phổ độ, th́ cũng không thoát khỏi được cửa luân hồi.Phần Tam tùng, Tứ đức của
Thiên đạo được Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy như sau:
"Tam Tùng, Tứ Đức là về phần Nữ phái”.
Tam Tùng
- Tùng phụ: Như người con gái phải giữ trọn tiết trinh, cũng như kẻ tín đồ phải giữ tṛn danh Đạo.
- Tùng phu: Như bóng với h́nh, tức nhiên phải ví ḿnh như một trong Thánh thể, tùng Hội Thánh.
- Tùng tử: là phải v́ đám hậu sanh mà quên ḿnh, đặng tạo nên sự nghiệp tương lai cho chúng, tức nhiên là bổn phận của Chức sắc vậy.
Tứ đức
Công, Dung, Ngôn, Hạnh, tức là việc làm cho cho nhơn sanh thoát khổ, lời nói để đưa đường giáo hóa, hành vi cử chỉ để treo gương mặt thế, tức là phải biết nâng cao giá trị của Thánh thể Đức Chí Tôn, nết na đầm thấm, giữ trọn thương yêu, tức nhiên là làm nền móng cho Đại đồng Thế giới." [Thánh ngôn sưu tập]
Người nữ tín đồ Cao Đài thực hành trọn vẹn phần Nhơn đạo để bước vào Thiên đạo, th́ mới được giải thoát khỏi ṿng luân hồi sanh tử. Nữ Trung Tùng Phận có câu:
Sứ mệnh của người phụ nữ Cao Đài về Tam tùng, Tứ đức của Thiên đạo đại để như sau:
Tam tùng của Thiên đạo
- Tùng phụ: Theo Cha.
Cha đây là Đấng Cha Trời, là Đại Từ Phụ. Phải tuân theo lời dạy của Ngài, tu hành tinh tấn, làm lành lánh dữ, diệt lục dục, lánh phàm tâm, th́ linh hồn mới trỗi bước lên phẩm vị cao sang, thoát đọa luân hồi. Nữ Trung Tùng Phận có câu:
Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
Mệnh thiên giữ vững tay cầm,Đoạt phương tự diệt giải phần hữu sanh.
- Tùng phu: Theo chồng
Chồng thuộc Dương, vợ thuộc Âm, vợ chồng ḥa hợp (cơ ngẫu) th́ cũng như sự tu luyện làm cho Âm Dương trong cơ thể tương hiệp nhau, tức là đạt được Ngũ khí triều nguơn, Tinh Khí Thần hiệp nhứt, th́ đắc đạo tại thế, Trong Nữ Trung Tùng Phận có câu:
Ngũ Khí thanh diệt trừ quả kiếp,
Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế đă nên Thần,Ba mươi sáu cơi, đặng gần Linh Thiên
Khi đắc đạo trở nên một trong Thánh thể, tùng quyền Hội Thánh tế độ nhơn sanh.
- Tùng tử: Theo con
Sau khi đắc đạo rồi, c̣n phải trở lại d́u dắt những đứa con đang dại khờ ch́m đắm trong ṿng vật dục, để chúng sớm giác ngộ mà quay trở lại con đường Đạo. Nữ Trung Tùng Phận có câu:
Lấy tâm chánh làm cân đong thế,
Cậy ḷng lành làm kế d́u đời.
Chông gai vạch bước thảnh thơi, Lấy phương cứu khổ độ người trầmluân.
Tứ đức của Thiên Đạo
- Công
Từ chỗ chăm lo đời sống đạo đức cho gia đ́nh như khuyên chồng, dạy con, họ c̣n lo cho chúng sanh, truyền bá kinh sách giáo hóa người đời, phụng sự nhơn sanh, để tạo công đức cho ḿnh. Nữ Trung Tùng Phận có câu:
Chừ mới rơ nguồn cơn kiếp sống,
Tấc thây phàm rất mỏng số căn.
Ham phương cứu thế độ nhân,Giải mê khách tục, cơi trần lánh xa.
- Dung
Người phụ nữ Cao Đài cần trau dồi vẻ đẹp thể chất lẫn tâm hồn cho hài ḥa, rồi biểu hiện ra bằng t́nh thương bao la, cứu giúp chúng sanh thoát khổ. Nữ Trung Tùng Phận có câu:
Lấy bác ái làm ḥa vạn vật,
Đem thiện duyên xây nấc thang hồng.
Đoạn căn, đóng chặt Âm cung,
Ṭa sen chín phẩm để cùng Phật Tâm.- Ngôn
Từ chỗ nói năng đoan chính đem lại ḥa ái cho mọi người, tiến lên nói điều đạo đức, thuyết minh giáo lư, khai mở tâm tánh, thức tỉnh nhơn sanh biết tu hành, tùng lương cải ác, bà Đoàn Thị Điểm dạy như sau:
Gót nhân ái đến nhà kẻ bịnh,
Giọng từ bi thức tỉnh hung tâm.
Giữa cơn náo loạn trỗi cầm,
Lấy hơi ḥa nhă dẹp lần bỉ thô.(Nữ Trung Tùng Phận)
- Hạnh
Từ đức tánh hiền ḥa nhân hậu, lập hạnh từ bi, tiến lên đến mức bác ái vị tha, để thay Trời độ thế, d́u đời vào đường đạo đức, cứu vớt chúng sanh đồng thoát khổ, nên Nữ Trung Tùng Phận dạy rằng:
Tóm lại, Tam tùng Tứ đức của người phụ nữ đạo Cao Đài trong Thiên đạo, chỉ là sự thăng hoa đến mức cao tột độ, của Tứ Đức và Tam Tùng Nhơn đạo.
TIỂU KẾT
Theo quan điểm của Cao Đài giáo th́ quyền năng và sứ mạng của người phụ nữ rất là hệ trọng đối với sự sinh tồn của nhân loại.
Với người phụ nữ, sứ mạng cao cả của họ là để tạo nên những thể xác cho những linh hồn sẽ đầu thai xuống trần. Vậy phụ nữ không nên coi sứ mạng nầy là một việc phiền năo, không nên bàn tới. Trái lại đó là sự vinh diệu nhứt của một kiếp làm đàn bà, một cơ hội lớn lao mà chỉ đàn bà mới có, c̣n đàn ông th́ không làm được, sự huy hoàng của người làm mẹ th́ không phải là của họ.
Chính nữ giới mới làm công việc to tác nầy, để giúp đỡ thế gian trong việc duy tŕ ṇi giống, và họ làm công việc nầy với một sự hy sinh, đau đớn, mà một số nam giới có thể không biết hết được một cách trọn vẹn về sự hy sinh, huyền bí của họ.
Để thực hiện đươc sứ mạng cao cả nêu trên, người phụ nữ cần tu tâm dưỡng tánh cho thuần phát thiên lương, tạo một phẩm chất trong sáng, để đón nhận được những chơn linh cao trọng từ cơi trên đầu thai đến với ḿnh, v́ thế gian có câu:
“Mẹ hiền th́ sinh con hiền,
Mấy đời mẹ cú con tiên bao giờ”.
Như vậy chắc chắn họ sẽ
sanh được những đứa con thông minh, hiền ngoan và dễ dạy, lớn lên sẽ làm rạng danh cha mẹ và hữu ích cho đời.Phần Tam tùng Tứ đức của Nhơn đạo và Thiên đạo vẫn măi ḥa quyện, kết hợp với nhau và trở thành chuẩn mực nhân cách của người phụ nữ trong thời hiện đại nói chung, phụ nữ Cao Đài nói riêng .
Nó không chỉ là nền tảng giá trị của người phụ nữ về mặt Thế đạo, mà c̣n giúp cho nữ lưu bước vào lănh vực Thiên đạo, để công phu, trau tâm luyện tánh hầu biến oan khiên trở thành hồng ân, dứt sạch nợ trần, trở nên Tiên Thánh. Nên Nữ Trung Tùng Phận đă đề cập như sau:
Người phụ nữ Cao Đài, khi xử tṛn Nhơn đạo th́ tiến lên Thiên đạọ, là đặt ḿnh trong Thánh thể Chí Tôn để độ đời, cứu thế, dùng từ bi để thức tỉnh hung tâm, dạy dỗ chúng sanh tùng lương cải ác.
“Để chuông mơ dựa kề son phấn,
Chất nhơn t́nh chồng cận kệ kinh.
Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,Biển mê chèo chiếc thuyền t́nh độ nhân.
Người phụ nữ Cao Đài đă đắc đạo, khi sống th́ hiệp với Đấng Hóa Công cầm quyền chuyển thế, khi chết th́ trở về ngôi xưa vị cũ, thoát đọa luân hồi, tiêu dao nơi cơi Thiêng liêng hằng sống, trong Nữ Trung Tùng Phận đă đề cập như sau:
Hiệp Tạo Hóa cầm quyền chuyển thế
, Dạy vạn linh dụng thế từ bi.
Sanh ấy kư, tử là qui,Diệu huyền cơ Tạo chẳng ǵ gọi hơn.
Tóm lược những nét chính yếu của Tam tùng Tứ đức Nhơn đạo lẫn Thiên đạo như sau.
1. Tam tùng Tứ đức của Nhơn đạo
- Tam tùng
* Tại gia tùng phụ, từ bé đến khi có gia đ́nh ở nhà nghe theo lời cha mẹ.
* Xuất giá tùng phu, có chồng theo chồng.
* Phu tử tùng tử, chồng chết ở với con, thờ chồng, tiếp tục xây dựng gia đ́nh, nuôi dạy con.
- Tứ đức
* Công là biết sắp xếp công việc gia đ́nh và xă hội hợp lư, có nghề nghiệp ổn định và làm tốt nghề của ḿnh. Ngoài việc giúp chồng con, c̣n góp phần vào kinh tế cho gia đ́nh và đóng góp tài năng, trí tuệ xây dựng xă hội.
* Dung là phong thái nghiêm trang, chân thành, thân mật, nhất là luôn nhu ḥa, khiêm tốn với mọi người, luôn vui tươi và linh hoạt. Thanh tao, gọn gàng trong cách ăn mặc và trang điểm.
Cái dung nhan hoàn hảo của phụ nữ là cái đẹp cả h́nh thức bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Cái đẹp bên trong là biết thông cảm với mọi người, sống kính trên nhường dưới, biết tôn trọng người khác, biết quảng đại trao ban.
* Ngôn trong Tứ Đức lời nói thành thật, ngay thẳng, dịu dàng, chính xác, tránh nói hành, thị phi, xảo trá lợi ḿnh hại người. Lời nói có sức thuyết phục, gây được t́nh cảm tốt đẹp cảm hóa được mọi người; người phụ nữ có lời nói dịu dàng, giọng nói nhẹ nhàng th́ hiệu quả càng lớn, rất có lợi mỗi khi lên tiếng khuyên chồng, dạy con, dàn xếp công việc, thương lượng trong kinh doanh.
* Hạnh là tánh nết hiền lành, ḥa nhă, hiếu thảo, kính trên nhường dưới, khoan dung và đoan chính.
Hạnh của người phụ nữ muôn đời vẫn là yêu chồng, thương con, giàu ḷng hy sinh, chung thủy trong hôn nhân. Đồng thời, cần có ḷng vị tha, độ lượng, biết nhường nhịn chồng và gia nương để gia đ́nh êm ấm; có ước mơ, hoài băo trong nghề nghiệp và biết nỗ lực biến ước mơ thành hiện thực. Cần có ḷng nhân, chia ngọt sẻ bùi với nỗi bất hạnh của tha nhân.
Về trinh tiết, người phụ nữ phải biết giữ ǵn tiết hạnh cho đến khi về nhà chồng, không nên sống thử trước hôn nhân, người con gái phải tự bảo vệ cái quư giá nhất của đời ḿnh, đừng tự hủy hoại bản thân và cuộc sống sau này. Tiêu chuẩn tối cao của cái đẹp muôn thuở vẫn là sự hài ḥa giữa sắc đẹp thân thể và nhân cách.
2. Tam Tùng Tứ Đức của Thiên đạo
- Tam tùng của Thiên đạo
* Tùng phụ là theo Đại Từ Phụ (Cha Trời), Phải tuân theo lời dạy của Ngài, siêng năng tu hành, làm lành lánh dữ, diệt lục dục, lánh phàm tâm, th́ linh hồn mới trổi bước lên phẩm vị cao sang, thoát đọa luân hồi.
* Tùng phu là tu luyện đắc đạo để trở nên một trong Thánh thể, tức là một chức sắc Thiên phong, tùng quyền Hội Thánh tế độ nhơn
sanh.*Tùng tử là sau khi đắc đạo rồi, phải trở lại hành đạo, d́u dắt chúng sanh đang ch́m đắm trong ṿng vật dục, để họ sớm giác ngộ cải tà quy chánh.
- Tứ đức của Thiên Đạo
* Công từ chỗ chăm lo đời sống đạo đức cho gia đ́nh, như khuyên chồng, dạy con, họ c̣n lo cho chúng sanh, truyền bá kinh sách giáo hóa người đời, phụng sự nhơn sanh.
* Dung trau dồi tác phong đoan chính cả thể chất lẫn tâm hồn cho hài ḥa, rồi biểu hiện ra bằng t́nh thương bao la, cứu giúp chúng sanh thoát khổ.
* Ngôn là nói năng nghiêm túc, đem lại ḥa ái cho mọi người, tiến lên nói điều đạo đức, thuyết minh giáo lư, khai mở tâm tánh, thức tỉnh nhơn sanh biết tu hành, tùng lương cải ác.
* Hạnh là từ tánh hiền ḥa nhân hậu, lập hạnh từ bi, tiến lên đến mức bác ái vị tha, để thay Trời độ thế, d́u đời vào đường đạo đức, cứu vớt chúng sanh đồng thoát khổ.
Cũng có nhiều chị em đă sớm chọn con đường tu chơn, không lập gia đ́nh, tức là vượt qua phần Tùng phu, Tùng tử, của đời người phụ nữ, nhưng cũng phải giữ tṛn Công Dung Ngôn Hạnh của Thế đạo trong đời sống hằng ngày, để tiến lên Tam tùng Tứ đức của Thiên đạo, th́ mới hy vọng thoát đọa luân hồi, trở về ngôi xưa vị cũ.
Làm người, mặc đầu nam hay nữ, đều phải lấy tu thân làm căn bản cho Nhơn đạo, nghĩa là trước nên trau dồi thân tâm ḿnh đạt đến Chân Thiện Mỹ, rồi sau mới lo phần xử thế là sửa việc nhà, lo việc nước và đóng góp vào công việc ḥa b́nh thiên hạ, theo tiêu chí và thứ tự của cổ nhân gọi là tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ.
Người xưa rất coi trọng đạo Tu thân, nên họ thường khuyên:
“Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Từ vua đến kẻ thứ dân, người nào cũng phải tu thân làm gốc/ Đại Học, Phần dẫn nhập).
Trái lại, nếu thân chẳng tu mà muốn tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ, th́ e rằng làm không thành; bởi v́ gốc đă không vun quén để yếu ớt không ra ǵ, mà muốn cho ngọn phát triển sum sê, xanh tốt là điều không bao giờ có được.
Tam cang, Ngũ thường và Tam tùng Tứ đức là đạo làm người, là tiêu chí tu dưỡng cho cả nam nữ, ngay nam giới cũng phải giữ Công Dung Ngôn Hạnh, nữ giới cũng phải giữ Tam cang Ngũ thường. Nhưng nam nặng về Tam cang Ngũ thường, nữ nặng về Tam tùng Tứ đức.
Tam cang, Ngũ thường, Tam tùng Tứ đức do Chu Công Đán là một khai quốc công thần của đời nhà Chu Trung Quốc đề xướng, Ông có nhiều cống hiến trong việc xác lập lễ nghi và đẳng cấp trong xă hội, làm cho quan hệ đẳng cấp vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em có tôn ti trật tự, bảo đảm ổn định xă hội.
Về sau Đức Khổng Tử đă tiếp thu Tam cang Ngũ thường, Tam tùng Tứ đức, và khai triển thành tiêu chí tu thân, xữ thế của Nho gia. Nên Đức Khổng Tử luôn xem Chu Công Đán là bậc thầy.
Ngày nay Tam kỳ Phổ độ lấy Nho tông chuyển thế, nên Cao Đài giáo cũng dùng Tam cang Ngũ thường và Tam tùng Tứ đức làm tiêu chí tu luyện, để làm tṛn Nhơn đạo, hầu tiến lên Thiên Đạo giải thoát.
Như vậy liệu Tam cang Ngũ thường, Tam tùng, Tứ đức có lạc hậu trong thời đại ngày nay không? Để h́nh thành một gia đ́nh lư tưởng với những phẩm chất nhân văn, đạo đức tốt đẹp, nhất thiết phải tuân thủ theo “Tam cang Ngũ thường và Tam tùng Tứ đức”. Nên dù cho bất kỳ trường phái nào, dù duy tâm hay duy vật, dù có tín ngưỡng hay bài bác thần linh, biên khảo nầy cũng có thể giúp ích cho con em của ḿnh.
Vậy chúng ta nên châm chước sửa đổi cho phù hợp với tŕnh độ tấn hóa của hiện đại, giữ những cái "hay", bỏ những cái "dở", để tạo nên một xă hội có "Thuần phong mỹ tục".
Nên Tam cang, Ngũ thường và Tam tùng Tứ đức măi ḥa quyện, kết hợp với nhau và trở thành chuẩn mực đào luyện nhân cách của con người thuộc mọi thế hệ, mọi giai cấp, để làm tṛn Nhơn đạo, hầu tiến lên lănh vực Thiên đạo. Người xưa cho rằng:
“Muốn tu Thiên đạo, trước phải tu Nhơn đạo, nếu Nhơn đạo không tu, th́ Thiên đạo rất xa vời”(Dục tu nhơn đạo, tiên tu nhơn đạo. Nhơn đạo bất tu, thiên đạo viễn hỷ / Minh tâm Bửu giám).
Như vậy, có nghĩa là trước khi muốn trở thành Thần, Thánh, Tiên, Phật, th́ điều đầu tiên phải học làm người, làm tṛn bổn phận con người.
CHUNG
TƯ LIỆU THAM KHẢO
- Kinh Thiên Đạo Thế Đạo.
- Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1 & Q.2
- Nữ Trung Tùng Phận của Bà Đoàn Thị Điểm giáng cơ đề bút.
- Các lời phê của Đức Phạm Hộ Pháp.
- Các quyển Lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp.
- Chơn sư và Thánh đạo nguyên tác của Đức Giám mục C. W. Leadbeater, Bản dịch Nguyễn Hữu Kiệt.
- Nho giáo / Trần Trọng Kim
- Giáo lư của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng
- Thánh ngôn sưu tập của Hiền tài Nguyễn Văn Hồng
- Tứ thư: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử
- Nho Gia châm ngôn lục / Hàn Tinh sưu tập.
- Kinh Dịch / Bản dịch Ngô Tất Tố
- Lịch sử thế giới / Nguyễn Hiến Lê & Thanh Giang
- Từ điển thành ngữ điển tích / Trịnh Văn Thanh.
- Tôn giáo là ǵ? / Joon Yale – NXB An Tiêm
- Một số tài liệu rời sưu tập trên các báo chí và Internet
1. Ngày xưa chồng nàng Tô Huệ bị đày đi lính thú phương xa, cô rất giỏi nữ công, nàng dệt thơ văn trên bức gấm, dâng lên vua, nhà vua mến tài nữ công của cô, nên cho chồng về với gia đ́nh. Nên Thánh giáo Thất nương cũng có đề cập:
Thương Tô Huệ hằng ngày dệt gấm,
Dâng tâm trung vào tận đền rồng.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Đồng Đạo có thể đọc các
ấn phẩm của tác giả, trên một số trang Web của Cao Đài giáo
hay vào trực tiếp Website: datrungtu.net
hoặc biên thư hay gọi điện về
LÊ THỊ HỒNG
130 đường Ông Ích Đường,
quận Cẩm Lệ,
Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam.
Tél. 0511.3846687
Mob. 0989.754.420
Sẽ có sách in ấn thành phẩm