MỤC LỤC

 

[ Hình bìa ]

 

GIẢI THÍCH
NỘI TÂM VÀ NGOẠI TÂM
ĐỀN THÁNH CAO ĐÀI TÂY NINH

GIẢI THÍCH TAM THÁNH KÝ HOÀ ƯỚC TRƯỚC ĐỀN THÁNH

 

Hình Tam Thánh Ký Hòa Ước

- Tạo sao trước đền thờ ĐỨC CHÍ-TÔN lại có tượng ba bậc vĩ-nhân của ba nước Việt- Pháp- Hoa là NGUYỄN-BĨNH-KHIÊM, VICTOR-HUGO và TÔN-VĂN mà chúng ta tôn là Tam Thánh.

- Theo Thánh-Giáo, nơi cỏi vô hình vốn có một Động Thiêng Liêng gọi là Bạch Vân Động (Loge Blanche). Trước kia, 3 vị cao đồ Bạch Vân Động vâng lịnh giáng thế giúp đời. Một vị thác sanh xuống nước Việt Nam với phàm kiếp Nguyễn Bỉnh Khiêm (tức Trạng Trình). Một vị thác sanh xuống nước Pháp với phàm kiếp Vitor-Hugo và một vị thác sanh xuống nước Trung Hoa với phàm kiếp Tôn Văn hiệu Trung-Sơn.

- Sau khi làm tròn Thiên mạng, 3 vị ấy trở về cỏi Thiêng Liêng, rồi Tam Kỳ Phổ Độ nầy, ba vị lại có phận sự Phổ Độ về mặt vô hình và lãnh sứ mạng lập Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kiêm Biên dưới quyền Chưởng Đạo của ĐỨC NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN mà phàm kiếp cuối cùng là Victor Hugo đó vậy. Ba vị nầy thường có giáng cơ dạy đạo. Hiện giờ đệ tử Bạch Vân Động giáng phàm giúp đạo rất đông.

* TIỂU SỬ NGUYỄN BỈNH KHIÊM

-Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ là người làng Trung Am, Huyện Vĩnh Lại, Tỉnh Hải Dương, sanh năm Tân Hợi, đời Hồng Đức vua Lê Thánh Tôn. Ông đậu Trạng Nguyên năm Ất Mùi, đời Mạc Đăng Doanh (1935). Ông làm quan được 8 năm, đến chức Lại Bộ Tả Thị Lang. Tính tình cương trực, ông dâng sớ hạch 18 vị quan lộng quyền. Sau ông về trí sĩ dựng lên trong làng một cái am gọi là Bạch Vân Am để dạy học trò cùng hưởng thanh nhàn, ngâm phong vịnh nguyệt. Trong hàng môn đệ ông có Phùng Khắc Khoa, Lương Hữu Khánh và Nguyễn Dữ là những bậc trí tài xuất chúng. Vua Nhà Mạc cảm phục tài đức ông, nên mỗi khi trong Trào có điều chi quan trọng, vua liền sai người đến hỏi ý kiến ông, vì ông giỏi về dịch học và thuật số, đoán đâu trúng đó. Ông lại làm nhiều thơ Quốc Âm có ý khuyên đời nên ăn ở theo đạo nghĩa. Ông có để lại một tập thơ gọi Bạch Vân Thi Tập và một tập Sấm gọi là Sấm Trạng Trình. Ông được nhà Mạc phong cho chức Lại Bộ Thượng Thơ, tước Trình Quốc Công, nên thời nhân gọi ông là Trạng Trình. Ông mất ngày 18 tháng giêng năm Ất Dậu, thọ 95 tuổi.

* TIỂU SỬ VICTOR HUGO

-Victor Hugo giáng sinh tại thành phố Besancon nước Pháp năm 1802. Ông là đệ nhất thi hào nước Pháp vào thế kỷ 19. Lúc thiếu thời ông theo cha qua nước Tây Ban Nha (Espagne), rồi sang Ý Đại Lợi (Itlie), rồi sau cùng trở về nước Pháp, an túc tại Ba Lê (Paris) và theo học tại trường Bách Khoa. Tánh vốn thông minh thiên phú, ông học một biết mười và sẳn có một hồn thơ phong phú. Năm 15 tuổi ông đã làm thơ gửi dự thi tại Hàn Lâm Viện Pháp Quốc và được chấm đậu. Về sau ông sáng tác rất nhiều thi phẩm tuyệt luân, thể hiện những tư tưởng thanh cao, những tư tưởng dồi dào, những ngụ ý kín đáo. Ông định hướng Văn Nghệ Giới theo chủ nghĩa lãng mạng - là chủ nghĩa cảm tình, vô câu thúc, cứ tự do mô tả tính tình và cảm giác của con người chứ không chịu gò bó trong qui thức nào cả.

-Năm 1841 ông có chân trong Hàn Lâm Viện Pháp Quốc. Sau cuộc cách mạng 1948 ông tham gia Hội Nghị Lập Pháp. Nơi đây ông trổ tài hùng biện để binh vực chủ nghĩa tự do.

- Nước Pháp của thế kỷ 19 có một Quốc Hồn và một Quốc Tuý cao cả, phần lớn nhờ hướng theo tư tưởng chánh trị và văn hoá của ông bộc lộ trong những tác phẩm phong phú về lượng cũng như về phẩm.

- Ông mất năm 1885. Lễ quốc táng được chính phủ Pháp cử hành long trọng và thi hài ông được an trí vào miếu Công Thần (Panthéon).

* TIỂU SỬ TÔN TRUNG SƠN

- Ông họ Tôn tên Văn tự Dật Tiên, giáng sinh năm 1866 tại tỉnh Quảng Đông, huyện Trung Sơn, nên ông cũng lấy hiệu là Trung Sơn. Cha mẹ chuyên vốn nghề nông nhà nghèo. Lúc nhỏ ông theo anh là Tôn Đức Chương sang ăn học tại Đàn Hương Sơn - thủ đô quần đảo Hạ Uy Di (HonoLulu) - thuộc Mỹ Quốc. Đến năm 18 tuổi ông trở về Quảng Đông rồi học ở trường Y Khoa Hương Cảng. Ông sớm được hấp thụ văn hoá Mỹ Quốc nên có những tư tưỏng tân kỳ, không chịu khuất phục dưới chế độ độc tài của Triều Thanh lúc bấy giờ. Rồi nhân dịp nhà Thanh suy bại, trong nước loạn ly, ông bèn sang Áo Môn gây mầm cách mạng.

- Sau trận Trung Nhật chiến tranh (năm Giáp Ngọ) ông trở qua Đàn Hương Sơn tổ chức Hưng Trung Hội, cổ xuý bọn kiều bào của ông ở ngoại quốc tham gia phong trào cách mạng, lúc ấy ông được 29 tuổi.

- Đến năm 1905 ông đề xướng chủ nghĩa Tam Dân và Ngũ Quyền Hiến Pháp.

* Tam dân là: Dân Quyền, Dân lập, Dân sanh.

* Ngủ Quyền là: Quyền Lập Pháp, quyền Hành Pháp, quyền Tư Pháp, quyền Phúc Quyết (Tức quyền của nhân dân được phủ quyết Pháp Luật hay Chính Phủ hay Nghị Viện lập ra) và Quyền Bải Miễn (tức quyền dân được cách chức tham quan ô lại).

- Ông lại sang Nhật Bổn tổ chức tại Đông Kinh đảng Trung Quốc Cách Mạng Đồng Minh Hội kết tụ được nhiều bạn đồng chí đại để như: Huỳnh Hưng, Hồ Hấn Dân, Uông Tinh Vệ. Quyết đánh đỗ đế chế Nhà Thanh.

- Năm Tuyên Thống thứ 3 (1911) tháng 3, cuộc đảo chánh của Đảng ông bị thất bại thảm khốc, có đến 72 liệt sĩ bỏ mình chôn xác tại gò Hoàng Hoa Cương ở chân núi Bạch Vân, ngoài cửa thành Quảng Đông nhưng đến tháng mười năm ấy ông lại thành công, đem Dân Quyền thay Đế Chế.

-Thế là từ đây, người dân nước Tàu gọi là người Trung Hoa Dân Quốc dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Tôn Trung Sơn. Không bao lâu ông nhường chức cho Viên Thế Khải. Đến đây đảng Quốc Dân lại chia rẽ, ông nhận thấy cần phải tổ chức lại một đảng mới hầu cứu vãn tình hình. Đảng mới lấy hiệu Trung Hoa Cách Mạng đảng.

- Đến năm Bính Ngọ (1906) Viên Thế Khải xưng Đế rồi lại bị ông hưng binh trừ khử. Ông mất vào ngày 12 tháng 5 năm 1926 dương lịch trong cảnh thanh bần gia tài chỉ vỏn vẹn có mấy bộ quần áo và vài ba quyển sách.

►Xem tiếp: Giải thích chữ Khí

 

Last changed: 25-07-2005