100 NĂM THI VĂN DẠY ĐẠO

ĐỨC PHẬT MẪU

&

CỬU VỊ NỮ PHẬT

 

TÙNG THIÊN
TỪ BẠCH HẠC
2024

 

MỤC LỤC

Lời dâng

THI VĂN & NGUỒN GỐC
Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban cho 238 Bài Thi:

PHẦN I: 69 Bài Thi Bốn Câu Bảy Chữ.
PHẦN II: 77 Bài Thi thể Đường luật.
PHẦN III: 56 Bài Thi Song thất lục bát.
PHẦN IV: 26 Bài Thơ Dài Hai Câu Bảy Hai Câu Sáu-Tám Chữ.
PHẦN V:
• 04 Bài Thi 2 câu Sáu Tám.
• 05 Bài Thể Thơ Dài 7 Chữ.
• 01 Bài Thi Thể Thơ 4 Câu 5 Chữ.




[PDF (word)/download]

Lời dâng


KÍNH DÂNG

ĐỨC ĐẠI TỪ MẪU

CỬU VỊ NỮ PHẬT DIÊU TR̀ CUNG

CHƯ CHỨC SẮC ĐẠI THIÊN PHONG

Trăm Năm Thi Văn của Diêu Tŕ Cung nhằm ghi nhớ lại lời vàng tiếng ngọc của Đức Đại Từ Mẫu và chư vị Nữ Phật ở Diêu Tŕ Cung đă ban cho từ khi d́u dắt các Thiên Sứ vào đường Đạo cho đến sau này. Chư vị Phật đă trải nỗi lòng thấu cảm với sự vô minh của con cái nơi thế gian nên t́m mọi phương cách khai khiếu, khai tâm cho nhơn sanh.

Chư vị Chức sắc Đại Thiên Phong là những bậc đại căn, lănh nhiệm vụ xuống trần khai mở ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Với lòng yêu người, yêu nước non nơi Tổ Tiên đã dày công tạo dựng, Chư vị Chức sắc buổi đầu đă có sự đồng cảm sâu sắc với lời dạy của các Đấng ở cơi vô h́nh. Nhờ vậy, tín đồ Cao Đài nói riêng, và nhơn sanh nói chung mới hưởng được ân phước Đại Ân Xá do Đấng Tạo Hóa ban cho.

Thấu cảm qua thi văn mới hiểu sự hạ mình dạy dỗ của các Đấng Thiêng Liêng là dường nào; mới hiểu bao hy sinh, khổ nhọc của Các Đấng để tạo dựng nền Chánh giáo và Thánh Thể Đức Chí Tôn tại thế. Người tín đồ Cao Đài tu hành theo chủ nghĩa Thương Đời, hết lòng Kính Ngưỡng Đức Chí Tôn, Phật Mẫu, Quí Đấng Thiêng Liêng.

Thương yêu và phụng sự Nhơn Sanh, Người tín đồ Cao Đài gắng noi dấu Chơn Truyền nhằm đạt mục tiêu giải thoát. Chúng tôi gắng công sưu tầm từng bài, tôn trọng từ dấu chấm phẩy để giữ nguyên ý gốc. Dầu thế, cũng không tránh khỏi sơ sót, kính mong Quí Đấng Thiêng Liêng tha thứ, quí bậc cao minh chỉ dẫn. Chân thành cảm ơn chư vị Tiền Hiền đã dày công lưu giữ.

Ngày 01-09-1925 (15-8-Ất Sửu) kỷ niệm lễ HỘI YẾN DIÊU TR̀ đầu tiên.

Thắm thoắt, Đạo đã trải bước đường gần trăm năm; những Ân Đức Thiêng Liêng vẫn còn đây với bao nỗi nhớ, kính thương.


Mừng Lễ Hội Yến Diêu Tŕ Cung năm Giáp Th́n

Đạo Lịch CĐ-99. (01-09-2024)

Biên soạn

Tùng Thiên

Từ Bạch Hạc

THI VĂN & NGUỒN GỐC


 

Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban cho 238 Bài Thi:

PHẦN I: 69 Bài Thi Bốn Câu Bảy Chữ.

PHẦN II: 77 Bài Thi thể Đường luật.

PHẦN III: 56 Bài Thi Song thất lục bát.

PHẦN IV: 26 Bài Thơ Dài Hai Câu Bảy Hai Câu Sáu-Tám Chữ.

PHẦN V:

PHẦN I.

Thể thơ 4 câu 7 chữ

 

1. Bà Đoàn Ngọc Quế (Vương Thị Lễ) 30-07-1925.

Trời già đành đoạn nợ ba sinh,

Bèo nước xẻ hai một gánh t́nh;

Mấy bữa nhăn mày lâm chước quỉ,

Khiến ôm mối thảm lại Diêm Đ́nh.

Thượng tuần tháng 6 năm Ất Sửu (1925) ông CAO QUỲNH CƯ đến nhà ông CAO HOÀI SANG thăm chơi, để cùng ông Sang và ông PHẠM CÔNG TẮC hàn huyên thế sự, v́ ông Phạm Công Tắc ở gần nhà ông Cao Hoài Sang, bên cạnh chợ Thái B́nh dăy phố hàng Dừa (Quận 1, Sài G̣n).

Hết hồi đàm đạo với chén trà câu thơ, giờ càng khuya, ông Cao Quỳnh Cư dường như có Thần linh thúc giục hay v́ linh tánh kích động mới nghĩ ra việc xây bàn tiếp xúc với các vong linh khuất mặt. Hai ông Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang đồng t́nh hưởng ứng. Ba ông mới đem ra trước hiên một cái bàn vuông bốn chân (*) rồi cả ba đồng để tay lên bàn; chưa mấy phút th́ cái bàn rung chuyển nhẹ nhàng. Tiếp đó bàn bắt đầu nhịp chơn gơ chữ. bàn gơ một tiếng các ông đọc A, hai tiếng đọc B, cứ như vậy đến khi bàn ngưng lại tại chữ ǵ th́ lấy chữ đó, và cứ như vậy ráp vần thành ra chữ và thành câu có ư nghĩa.

Buổi xây bàn đêm ấy là lần đầu tiên, có lẽ là có chư vong muốn nhập và tranh nhau nói chuyện nên làm xáo trộn, cái bàn gơ khi chững chàng, khi lựng khựng, làm cho ba ông càng ngạc nhiên lại thêm chán nản nhứt là ông Cao Quỳnh Cư nghi rằng có hồn ma hay ngạ quỉ vô phá phách, liền đó ông đề nghị không tiếp nhận các vong linh đó và đồng cùng hai ông ngưng việc xây bàn.

Buổi thứ ba Bà Đoàn Ngọc Quế ban Thi tại Nhà Ông Cao Hoài Sang. Qua đêm mùng 10 tháng 06 Ất Sửu (30-07-1925), nghĩa là bốn đêm sau, ba ông cũng họp lại tại nhà ông Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn nữa, kỳ này cái bàn lay chuyển một cách khoan thai, dịu dàng đoán chừng như bóng dáng của một vị Tiên Nga hạ trần, th́ ra lời đoán không sai v́ đó là vong linh một Nữ linh giáng Đàn cho thi.

Nỗi ḿnh tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng bạc c̣n xuân uổng sắc tài;
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi t́nh sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai;
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi ḿnh tâm sự tỏ cùng ai?

Kư tên: Đoàn Ngọc Quế

Cũng trong đêm nầy chúng tôi hỏi cô Đoàn Ngọc Quế đau bệnh chi mà thác, cô cho hai bài thi tiếp theo:

Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một gánh t́nh;
Mấy bữa nhăn mày lâm chước quỉ,
Khiến ôm mối thảm lại Diêm Đ́nh.

Người thời Ngọc mă với Kim đàng,
Quên kẻ dạ đài mối thảm mang;
Ḿnh dặn lấy ḿnh, ḿnh lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.

Ba ông họa bài thi bát cú của Đoàn Ngọc Quế dưới đây:

Ngẩn bút ḥa thi tủi phận ai,
Trời xanh vội lấp nữ anh tài;
T́nh thâm một gánh c̣n dương thế,
Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.
Để thảm xuân đường như ác xế,
Gieo thương lữ khách ngóng tin mai;
Hềm ǵ chưa rơ đầu đuôi thế,
Ngẩn bút ḥa thi tủi phận ai.

Phạm Công Tắc

Rằng liễu khóc oanh có mấy ai,
Mộ người quốc sắc đấng thiên tài;
Nh́n văn độ phẩm hàng khuê các,
Xót bạn tri âm cơi dạ đài.
Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước,
Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai;
Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng,
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai.

Cao Quỳnh Cư

Nửa chừng xuân găy tủi thân ai,
Nông nổi nghĩ thôi tiếc bấy tài;
Ngọc thốt dám b́ trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách Chương đài.
Những ngờ duyên thắm trao pḥng Bích,
Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai;
Một dải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa chừng xuân găy tủi thân ai.

Cao Hoài Sang

2. Bà Vương Thị Lễ (1925).

Đào Nguyên lạc lối buổi vong Hưng,

Đốt nén hương xin tỏ Lễ mừng;

Tri kỷ c̣n nhiều ngày gặp gỡ,

Chạnh ḷng nhớ đến buổi thanh xuân.

  • Nguồn gốc:

Vương Thị Lễ và Đoàn Ngọc Quế là hai tá danh của Bà Thất Nương DTC buổi đầu dùng dạy Đạo. Thừa Sử Lê Quang Tấn thuật trong “Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc” (04-1992, Nhâm Thân) nguồn gốc bài thơ lư thú trên:

Lại thêm một việc hi hữu nữa là: Tiếng đồn cô Vương Thị Lễ giáng cơ được loan truyền đi khắp nơi, khiến cho Hai vị khách lạ tự xưng là thân nhân cô Vương Thị Lễ t́m đến tận nhà ông Cao Quỳnh Cư để t́m hiểu sự thật về cô Lễ giáng đàn và yêu cầu được dự đàn cơ, quí ông không thể từ chối được.

Khi cô Vương Thị Lễ giáng cơ th́ ông Cao Quỳnh Cư liền hỏi: Tứ muội có biết 2 ông khách lạ này là ai không? Cô liền nhanh nhẹn đáp: ““Đào Nguyên lạc lối buổi vong Hưng”.

Hai ông khách lạ tên Nguyên và Hưng nghe đúng tên ḿnh liền nhanh nhẹn đốt nhang khấn nguyện và đáp lại bằng câu thơ: “Đốt nén hương xin tỏ Lễ mừng”. Cô Lễ tiếp nối bài thi: “Tri kỷ c̣n nhiều ngày gặp gỡ”. Ông Nguyên và Hưng tiếp nối câu chót. «Chạnh ḷng nhớ đến buổi thanh xuân».

Thiết tưởng nguồn thi cảm rạt rào người phàm tục và vô h́nh được gặp nhau để sáng tác thành bài thi tuyệt bút trên. Một sự huyền diệu, hiển linh như thế càng giúp cho quí ông Cư, Tắc, Sang thêm phần hứng chí về việc xây bàn cầu cơ. Những huyền diệu linh ứng do chính bản thân quí ông tiếp nhận trong việc họa thi phú hàng đêm, khiến các ông không biết mệt mỏi, mà c̣n say sưa hâm mộ nữa là khác.

Là những thi văn nổi tiếng, các ông được họa thi với cô Đoàn Ngọc Quế một vong linh với lối văn chương vô cùng lưu loát, khiến cho các ông càng say mê xây bàn hàng đêm để học hỏi thêm về huyền bí ở cơi vô h́nh. V́ thế, quí ông muốn t́m cho ra tông tích của vong linh Đoàn Ngọc Quế, người con gái “thác v́ t́nh” này. Vào thượng tuần tháng 08 năm Ất Sửu (1925), quí ông xây đàn mời cô Đoàn Ngọc Quế giáng đàn để học hỏi thêm về thế giới vô h́nh theo sự mong muốn của mấy ông từ lâu. Cô Đoàn Ngọc Quế giáng cơ chỉ dẫn cho mấy ông những bí ẩn về cơi vô h́nh, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của mấy ông. Đồng thời, quí ông đề nghị xin kết nghĩa anh em với nhau, cô Đoàn Ngọc Quế bằng ḷng và thân mật gọi: ”Ông Cao Quỳnh Cư là trưởng ca, Ông Phạm Công Tắc là nhị ca, Ông Cao Hoài Sang là tam ca, C̣n cô Đoàn Ngọc Quế tự xưng là tứ muội”. Được cùng nhau kết nghĩa huynh muội, ông Cao Quỳnh Cư không ngần ngại hỏi tên thật của cô Đoàn Ngọc Quế, nhưng cô không cho biết. Sau cùng, v́ các ông cứ nài nĩ măi nên cô Đoàn Ngọc Quế mới chiều ḷng, bàn cơ liền gơ 3 chữ viết tắt: V.T.L.

Ông Cao Quỳnh Cư hỏi tiếp: Hiện giờ mồ mă cô Quế nằm tại đâu? Cô Đoàn Ngọc Quế đáp: Ngôi mộ hiện giờ nằm tại nghĩa trang Bà Lân (Bà Tổng Đốc Phương) tại ngă bảy Sàig̣n. Quí ông nhất định phải truy t́m cho ra tông tích cô Đoàn Ngọc Quế với cái tên họ bằng 3 chữ viết tắt V.T.L. Để biết rơ thiệt hư, nhân ngày chủ nhật 3 ông Cư, Tắc, Sang đồng hẹn nhau đến nghĩa trang bà Tống Đốc Phương. Đúng 8 giờ sáng, ba ông giữ lời hứa đến nghĩa trang và đi thẳng vào th́ gặp ngôi mộ cô Vương Thị Lễ. Đáp ứng sự hiếu kỳ của 3 ông là nh́n thấy ngôi mộ xây cất rất đẹp, trên mộ bia có ảnh của cô Vương Thị Lễ, trẻ đẹp, và dưới chân dung c̣n ghi rơ họ tên. Không c̣n hoài nghi ǵ nữa, ba ông đốt nhang khẩn nguyện vong linh cô Vương Thị Lễ xong rồi mới ra về, nhưng vẫn c̣n thắc mắc, muốn biết xem ban ngày các vong linh có thể về giáng đàn được không?

Trở về nhà th́ các ông liền xây bàn cầu cơ vào lúc 9 giờ sáng, cô Đoàn Ngọc Quế liền giáng cơ mách bảo cho các ông biết rơ, ngôi mộ mà ba ông đă đến viếng hồi sáng, đó là ngôi mộ của cô. Điều này khiến cho ba ông càng thêm kinh ngạc, v́ chưa hỏi mà đă nghe cô Đoàn Ngọc Quế đáp ứng nguyện vọng. Một bằng chứng mà quí ông không thể phủ nhận là người hữu h́nh và người vô h́nh có thể trực tiếp liên hệ. Các ông đă khám phá ra sự huyền diệu của thế giới vô h́nh.


3. Ngày 01-09-1925 (rằm tháng tám Ất Sửu) tích Lễ Hội yến đầu tiên

Im-ĺm cây-cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu;
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu,

*
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng.
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu,
Non-nước đ́u-hiu xuân vắng chúa,
Nh́n quê cảnh úa giục cơn sầu.

Diêu-Tŕ-Cung Lục-Nương

  • Nguồn gốc:

Một hôm Cô Đoàn Ngọc Quế dạy ba ông rằng: Ba anh muốn cầu th́ ngày đó ba anh phải ăn chay, cầu mới được (ba ông vâng lệnh cô Đoàn ngày cầu ba ông ăn chay). Tới ngày Rằm tháng 8 năm Ất Sửu (Le 1er Septembre 1925) ba ông lập bàn hương án chưng những hoa thơm, trầm trọn ngày (nhà không tiếp khách nào hết, nhà ở đường Bourdais 134, Sài G̣n, nay là đường Calmette).

Ngày 01-09-1925 (14-08-Ất Sửu) ba ông vọng bàn cầu khẩn thắp hương thơm từ 10 giờ đêm tới giờ Tư, xông trầm hương thành tâm cầu quư cô lối năm phút th́ có 4 Cô giáng. Lục Nương Diêu-Tŕ-Cung giáng cho bài thơ này, c̣n 3 bài kia bị mối ăn.

4. Bát Nương DTC 22-09-1925


         Chia gương căn dặn buổi trường đ́nh,

Vàng đá trăm năm tạc tấm t́nh;

Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,

Lời trao buồn nhớ lối trăng thanh.

Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,

Đêm bặt đường khuya một bóng h́nh;

Lần lứa cô pḥng xuân thỏn mỏn,

Xa xuôi ai thấu buổi đinh ninh.

Hớn Liên Bạch

Ngày 05-08-Ất Sửu (22-09-1925)

  • Nguồn gốc:

Để un-đúc tinh-thần và cũng cố niềm tin cho ba ông, một hôm cô Vương Thị Lễ giáng đàn chỉ bảo về mặt đạo đức, tu hành và cố ư giới thiệu đến ba ông môt người bạn gái của cô rất giỏi thi văn tên là Hớn Liên Bạch. Được giới thiệu thêm một nữ thi văn, ông Cao Hoài Sang muốn thử tài của nữ thi sĩ này, nên liền xin phép đưa ra để thi «Tiễn biệt t́nh lang». Chẳng chậm trễ một giây phút nào, cô Hớn Liên Bạch liền giáng cơ cho bài thi trên.

Đồng thời cô Hớn Liên Bạch cho tiếp một bài thi tựa là «Hoài Lang»:

Động đ́nh nhớ buổi tạm chia đường,

Bốn giọt nh́n nhau lối rẽ cương;

Trời thảm mây giăng bao cụm ủ,

Biển sầu nước nhuộm một màu thương.

Cô thân chạnh nhớ vầy đôi bạn,

Tiệc ngọc nào khi hội nhất trường;

Mượn bạn lương nhân xin nhắn nhủ,

Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

Hớn Liên Bạch

Ngày 05-08-Ất Sửu (22-09-1925)

Hai bài thi của cô Hớn Liên Bạch giáng cơ cho vào ngày mùng 5 tháng 8 năm Ất Sửu (22-09-1925), khiến cho ba ông vô cùng thích thú. Quí ông hết sức say mê, ngưỡng mộ những tâm hồn thanh thoát từng sống nơi cơi tục.

 

5. Thất Nương DTC 08-09-1925

Lừa dịp đ́nh chơn viếng cố nhân,
Cảm t́nh trông đợi dạ ân cần;
Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,
Mà tấm ḷng kia vẫn luống gần.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương DTC giáng ban cho bài thi này ngày 08-09-1925 (22-08-Ất Sửu).


6. Cửu Thiên Nương Nương 01-10-1925

Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,

Thiên Thiên cửu phẩm đắc cao huyền;

Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ,

Nữ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”.

Ba ông (Cư, Tắc, Sang) nhờ Thất Nương DTC dạy cách cầu Đức Cửu Thiên Nương Nương. Thất Nương DTC nói: “Ba anh muốn cầu th́ phải ăn chay trước ba ngày và cầu vào đêm Trung Thu, phải có ngọc cơ cầu mới đặng”. Vào ngày đó, Đấng A.Ă.Â. bảo ba ông (Cư, Tắc, Sang) làm một cái tiệc chay đăi Mười Đấng Vô h́nh gồm: Đức Cửu Thiên Nương Nương và Chín vị Tiên Nương. Đúng vào đêm Trung Thu, ngày 01-10-1925 (14-8-Ất Sửu), tại nhà ông Cư (134 Bourdais Sàig̣n, nay là đường Calmette), đúng giờ Tư, cả thảy đều đủ mặt.

Ông Cư đă sắp đặt một cái bàn dài, rải bông lá xung quanh, phía trong bàn, ngay chính giữa, để một cái ghế mây lớn, và nối theo là chín cái ghế mây nhỏ hơn đặt chung quanh bàn, trên bàn chưng dọn những b́nh bông và trái cây tươi tốt, đặt trước mỗi cái ghế là một tách trà, một ly rượu, một cái chén cùng với muỗng, đũa. Ông Cư đốt hương xông trầm, trang hoàng rất tinh khiết. Ông Cư lên nhang đèn, cả thảy đều qú lạy, khấn vái. Xong, hai ông Cư và Tắc đem ngọc cơ ra cầu. Đức Cửu Thiên Nương Nương và Cửu vị Tiên Nương giáng ngọc cơ để lời chào mừng quí ông. Thất Nương DTC yêu cầu ba ông (Cư, Tắc, Sang) đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của ḿnh (đă làm sẵn do Thất Nương DTC dặn trước) để hiến lễ.

Chừng nhập tiệc, Thất Nương DTC mời ba ông ngồi vào bàn cho vui. Ba ông không thể chối từ, nên đem thêm ba cái ghế, sắp sau lưng chín cái ghế nọ, ba ông xá rồi ngồi xuống. Bà Hiếu (bạn đời của ông Cư) sắp đặt đồ ăn chay sẵn, đi ṿng quanh bàn dài, gắp thức ăn đặt vào chén của Mười Đấng, rồi rót rượu và rót nước trà, đăi Mười Đấng Vô h́nh, giống như đăi người hữu h́nh vậy.

Cách chừng nửa giờ sau, như là tan tiệc, hai ông Cư và Tắc đem ngọc cơ tái cầu.

Lịnh Nương Nương và Chín Tiên Cô để lời cảm tạ, nói rằng: “Từ đây có ngọc cơ rồi th́ tiện cho Diêu Tŕ Cung đến dạy việc”. Xong mỗi vị cho một bài thi 4 câu làm kỷ niệm.

Nhứt Nương

Hoa thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba e tuyết đồng về;
Non sông trăi cánh Tiên ḷe,
Mượn câu thi hứng vui đề vào nhau

Nhị Nương

Cẩm tú văn chương hà khách đạo?
Thi thần, tửu Thánh vấn thùy nhân?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh tiên c̣n mến, cơi trần anh thư.

Tam Nương

Tuyến Đức năng hành đạo,
Quăng trí đắc cao quyền;
Biển mê lắc léo con thuyền,
Chở che khách tục Cửu tuyền ngăn sông.

Tứ Nương

Gấm lót ngơ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa;
Đợi trang nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụngchẳng ngừa Tiên thi.

Ngũ Nương

Liễu yểu điệu c̣n ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân;
Hiêu hiêu nhẹ góc phong trần,
Đài sen mây lướt gió thần đưa huơng.

Lục Nương

Huê ngào ngạt đưa hơi ṿ diệu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tú phong;
Nương mây như thả cánh đồng,
Tiêu diêu phất phướn cơi ṭng đưa tiên.

Thất Nương

Lễ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tài thế tử vô ưu;
Ngày xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.

Bát Nương

Hồ Hớn hoa sen nở trắng ngày,
Càng gần hương đẹp lại càng say;
Trêu trăng bằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.

Cửu Nương

Khiết sạch duyên trần vẹn giữ,
Bạc Liêu ngôi cũ c̣n lời;
Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,
Thương người noi Đạo, Phật trời cũng thương.

Nhờ mười bài thi trên mà ta biết tên, phong cách và việc làm của Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương.


 

 

7. Ngày 13-11-1925 (27-09-Ất Sửu). Bát Nương cho thi

Động đ́nh chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn giọt nh́n nhau lối rẽ cương;
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ Thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
Tiệc Ngọc nào khi hội nhứt trường;
Mượn vận lương nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

8. Ngày 24-11-1925 (09-10-Ất Sửu), Lục Nương cho thi

Chanh ranh vạn thế ở trong ṿng,
Giành giựt lẫn nhau miếng đỉnh chung;
Khanh Tể sao bằng tên Đạo Sĩ,
Hết đời ai giữ chức làm ông.

9. Ngày 16-12-1925 (01-11-Ất Sửu). VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO.

Ngày 22-12-1925 (07-11-Ất Sửu),Thất Nương cho thi.

Đă cùng nhau trót mấy lời giao,
Cách mặt mà ḷng chẳng lảng xao;
Đàng Đạo càng đi càng vững bước,
Cơi Thiên sau ắt hội cùng nhau.

Một nhà vầy hội rất mừng thay,
Đạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay;
Một bước một đi đường một tới,
Ḷng thành xin trọng thấu Cao Đài.

10. Ngày 23-12-1925 (08-11-Ất Sửu). Lục Nương cho thi.

Từ khi hiệp mặt buổi Trung Thu,
Cảm t́nh nh́n biết đứa em ngu;
Một chung háo nghĩa bằng vàng nén,
Pḥng sau hội ngộ chỉ đường tu.

*

Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,
E chư huynh trưởng trách em thầm;
Tuy cách xa mặt ḷng không cách,
Buồn dở thơ ḥa đọc lại ngâm.

11. Ngày 23-12-1925 (08-11-Ất Sửu). Bát Nương cho thi.

Lửa ḷng rưới tắt mượn nhành dương,
V́ nghĩa sơ giao phải đến thường;
C̣n gánh đồ thơ tua vẹn giữ,
Dứt dây oan trái chớ riêng thương.

*

Mừng nay Thanh Thủy giải dây oan,
Đường Đạo từ đây bước vững vàng;
T́nh ái nhành dương đem rưới tắt,
Nắm tay d́u lại cơi Tiên bang.

12. Thất Nương DTC 13-01-1926

Người vô t́nh kẻ bạc t́nh,
Ba anh chẳng nghĩ nghĩa đồng thinh;
Đặng chim trách kẻ toan quên ná,
Buồn bực cho đây vẫn một ḿnh.

Bà Thất Nương DTC giáng ban bài thi này ngày 13-01-1926 (29-11-Ất Sửu) tại Đàn Cầu Kho khi ba Ông “Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang hỏi Thất Nương DTC: Anh trách sao em không nói thật A.Ă.Â. là ông Trời, em thấy ba anh cũng như mù em cứ gạt hoài!

Thất Nương DTC: “Trời là Trời, em là em. Em rơ biết nhưng không dám lậu, nay ba anh đặng vậy em mừng”.

13. Thất Nương DTC 13-01-1926

Thử ḷng tri kỷ đó mà thôi,
Tương ngộ có hơn bảy tháng trời;
Yêu mến một ḷng đây rơ biết,
Thỉ chung đâu để hổ cùng lời.

Bà Thất Nương DTC giáng ban bài thi này ngày 13-01-1926 (29-11-Ất Sửu) tại Đàn Cầu Kho

14. Lục Nương DTC ngày 13-1-1926

Nỗi phận vô duyên phận chẳng đành,
Trách ai mộ thói yến cùng anh;
Nương mây đợi mỏi ḷng t́nh ái,
Mượn ngọc trông ngơ tấm liệt trinh.

*
Vuốt dạ riêng đau người một cảnh,
Dằn thương cố nhớ buổi chung t́nh;
Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,
Một tấm tơ duyên đứt đoạn ǵn.

15. Bát Nương DTC ngày 14-1-1926

Chờ về vắng bặt tiết thu qua,
Tiếng nhạn kêu sầu tiếng thiết tha;
Vườn trước ngơ trông cây liễu rũ,
Non xưa chạnh nhớ bóng trăng tà.

*

Thi đề thảm lóng hơi oanh thán,
Cầm trổi buồn nghe tiếng dế ḥa;
Dậm thẳng lương nhân xin khá gắng,
Đường dài nghĩa nọ dễ đâu xa.

16. Thất Nương DTC ngày 14-1-1926

Bước đời ch́m nổi bấy nhiêu niên,
Tâm chí ghe phen dập lửa phiền;
Ấm lạnh dốc tṛn gương phấn đại,
Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.
*

Ḷng trần nung nấu trăm mùi khổ,
Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền;
Nín nẩm chờ ngày tiền quả sạch,
Trau giồi đạo hạnh hưởng ân Thiên
.

17. Lục Nương DTC ngày 27-01-1926 (14-12-Ất Sửu).

Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,
Nợ trần bước tục phải đua chen;
Vơ đài chờ trả rồi oan trái,
Xủ áo phồn hoa lại cảnh Thiên.

Bà Lục Nương DTC giáng ban bài thi này ngày 27-01-1926 (14-10-Ất Sửu). Bà tỏ lộ: “Thanh Thủy nóng biết, em xin cạn bày” bằng bài thi trên và nói “:

Em mừng ba anh đặng gặp nguồn Đạo”.

18. Thất Nương DTC 27-01-1926

Bạc t́nh chi lắm hỡi ai ơi!
Bảy tháng chung vui đă mất rồi;
Khi hứng trăng thơ khi gió sách,
Đèn khua nay luống một ḿnh thôi.

Bà Thất Nương DTC giáng ban bài thi này ngày 27-01-1926 (14-12-Ất Sửu) để thử ba ông. Khi Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật đến độ ba ông trong bảy tháng, xong rồi th́ giao lại cho Đức A.Ă.Â. và quí cô phải đi phổ độ nơi khác, nên bà Thất Nương DTC lâu giáng buồn mới có bài thi trên đây.

Ông Cao Hoài Sang ḥa nguyên vận bài thi của Thất Nương DTC trên đây như sau:

Phải nào bạc bẻo hỡi em ôi!
V́ phận nghĩa kia xử khó rồi;
Tuy chẳng gần nhau như buổi trước,
Ḷng kia quyết giữ đến cùng thôi.

Bà khen: “Hay lắm! Cám ơn Tam Ca, C̣n Đại Ca và Nhị Ca”.

Ông Cao Quỳnh Cư bèn họa nguyên vận bài thi như sau:

Chạnh ḷng Hiền Muội xót thương ôi!
Nhắc nhở khôn nguôi những chuyện rồi;

Bảy tháng gấm thêu lời nhỏ nhẹ,
Ghi tâm khắc cốt trọn đời thôi.

Sau đó, Bà mới tỏ: “Em tưởng ba anh quên em rồi chớ, buồn quá! Trước sao th́ sau vậy, ḷng thương tưởng ba anh em chẳng quên, Em buồn là từ đây ít đặng gần gũi nhau nữa. Em mắc lo cứu độ nơi khác, phận sự phải vậy. Em xin kiếu.

19. Thất Nương DTC ngày 14-1-1928

Nghĩ giận mà ra bắt nực cười,
Nhờ ai an vị lại an nơi;
Trăm năm chưa giữ bền thân sống,
Một kiếp đă gây lắm tội đời.

Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời;
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Đến cửa Thiêng liêng ngó mặt Trời

Ngày 25/4/1926 (15.3. Bính Dần), lễ Thiên phong tại nhà ngài lê văn Trung ở Chợ Lớn. Ngài Phạm Công Tắc thọ phong Hộ Pháp, Ngài Cao Quỳnh Cư thọ phong Thượng Phẩm, Ngài Lê văn Trung thọ phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ngài Lê văn Lịch thọ phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt. Hai vị Thượng Phẩm và Hộ Pháp hợp thành cặp đồng tử chấp CƠ PHONG THÁNH lập PHÁP CHÁNH TRUYỀN và TÂN LUẬT. Bỗng đâu đất bằng nổi sóng. Vào tháng 3 năm Mậu Th́n (1928), một nhóm người do Tư Mắt Nguyễn Phát Trước dẫn đầu từ Thủ Đức về Ṭa Thánh gây sự. Họ buộc Ngài Cư phải ra khỏi Ṭa Thánh trong 24 giờ, nếu không sẽ bắn bỏ. Ngài uất ức nhưng nhóm giang hồ côn đồ không cho Ngài phân giải. Đức Ngài về Thảo Xá Hiền Cung là nhà của cha mẹ ở và lâm trọng bệnh. Thất Nương giáng cho Ngài bài thi trên để an ủi. Ngài Cư mất nhằm mùng 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ/1929 đắc quả vị Kim Tiên.

20. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 04-05-1931

Diêu Tŕ Cung nội nghỉ vừa an,

Ngọc Đế lịnh truyền chiếu chỉ sang;

Nên phải xuống trần mà dạy dỗ,

Bằng không chiếu chỉ chẳng lai đàn.

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng ban thi ngày 04-05-1931 (15-03-Mậu Th́n).

21. Bát Nương DTC 05-07-1931

Bát hướng Thần Tiên hội nhóm sang,

Nương mây Ta xuống trước xem đàn;

Các vị Nữ Tiên theo hầu giá,

Cung Diêu ra khỏi cơi trần sang.

Bà Bát Nương giáng cơ ngày 05-07-1931 (20-05-Tân Mùi) báo trước có Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng và dạy: “Chư quí hữu, đồng tử chẳng tịnh, đàn khá nghiêm minh nghe”. Bà Bát Nương cho bài thi trên và báo thêm bằng bài thi kế có Thần Tiên giáng thế như sau:

Cửu cửu Thần Tiên  giáng,

Giáng truyền lập lưỡng ban;

Ban ban ban tứ lịnh,

Lịnh ư Kim Mẫu tràng.

Bà dạy tiếp: “Đồng tử chẳng trọn nguơn thần, băi đàn cho nghỉ. Định thần sẽ hầu tiếp lời Thánh Mẫu. Thiếp lui”.

Sau Khi Chỉnh đàn nghiêm Đức Diêu Tŕ Kim Mầu giáng ban thi dạy sau:

Các con,

Mẹ thương dạy dỗ hôm mai,

Nên nay di giá xuống bày thiệt hơn.

Khuyên trong con cái tầm chơn,

Hồng trần quét sạch nghe đờn không dây.

Huyền huyền diệu lư kư đây,

Khuyên trong nam nữ chớ khuây ḷng vàng.

Cảnh trần biển thảm mê mang,

Đường Tiên rực rỡ muôn ngàn ṭng xanh.

Sao con cảnh cũ quên đành,

Hồng trần c̣n hỡi giựt giành làm chi.

Thế là mây nổi khác ǵ,

Tiên đài là cảnh phương phi trong ngời.

Ấy là cảnh ấy là nơi,

Khuyên con phải nghĩ thửa lời Mẹ phân.

22. Bát Nương DTC 09-09-1931

Cầm roi mà hỏi bữa nào phong,

Cái mạng lưu linh nghĩ năo nồng;

Hai cửa khó phân sau hiệp cửu

Thôi th́ trong đó ngó bong long.


 

Bà Bát Nương DTC giáng cơ ban thi ngày 09-09-1931 (27-07-Tân Mùi) Bát Nương tại Ṭa Thánh do Đức Hộ Pháp và Ngài Văn Pháp pḥ loan, cho ông Phạm Văn Ngọ bài thi tứ cú trên. Bà cũng ban cho Ông Phạm Văn Ngọ đạo hiệu Từ Quân.

TẠO KIỂU MĂO CHỨC SẮC HIỆP THIÊN ĐÀI

Lúc trước măo tiểu phục của Chức Sắc tiểu cấp Hiệp Thiên Đài đầu đội ca lô quân đội màu trắng. Sau Bảo Thể cùng Đẩu Pḥng Văn Khoa Mục cũng đội măo ấy. Đức Hộ Pháp biểu mỗi người làm một kiểu măo cho Ngài xem. Có lối hơn 10 kiểu, Đức Ngài chọn kiểu của ông Ngọ tức là kiểu bây giờ. Vậy ông Ngọ có công trong việc tạo Thiên Phục cho Hiệp Thiên Đài, Đức Hộ Pháp đặt tên măo ấy là Khôi Khoa Mạo.

23.Lục Nương DTC 05-09-1935

Công cao th́ phận ắt gian truân,

Mượn tấm yêu thương chở khách trần;

Lănh phước khá toan chan rưới phước,

Làm cho sanh chúng hưởng Thiên ân.

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi này vào ngày 05-09-1935 (08-08-Ất Hợi) thể bốn câu bảy chữ nhưng liên tục ư thơ trên nên để luôn theo đây.


 

24.Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 15-09-1932

Diêu độ phàm phu chiếu ánh linh,

Tŕ Thiên Mẫu thích thị thâm t́nh;

Kim quang độ tận phàm chơn phách,

Mẫu địa chưởng an phục Thánh h́nh.

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).


 

25. Nhứt Nương DTC 30-09-1932

Nhứt thuyết giữ ngôn hành thử sự,

Nương nương tảo đáo tả t́nh thư;

Nhược vi tạo Thảo Lư Đường thượng,

Cấp trạch hà nhơn bỉnh toán cơ.

Bà Nhứt Nương giáng ban bài thi này vào ngày 30-09-1932 (01-09-Nhâm Thân) và dạy: “Nầy chư Hiền hữu, Tệ muội tài sơ, thơ chẳng giỏi, để lời thường chỉ rơ việc hư nên. Nay như muốn lập Thảo Đường cho có vẻ thành tựu th́ phải kư tên Luật điều Chánh pháp cùng duợt sổ Minh Thiện cho rồi, th́ giao cho kẻ chưởng hành, rồi truyền bố ra các Ty, phải đồng lập thân hành đạo, công quả tạo thành. C̣n như phép của Chánh phủ, dầu chưa cho đi nữa th́ cũng khởi hành trong tuần Mạnh Thu nầy nghe. Thôi Tệ muội từ đàn”.


 

26. Bát Nương DTC 28.12.1935

Phong vân phải thế buổi bay rồng,

Nanh vấu bây chừ đủ cánh lông;

Hiện giữa thanh không chờ nổ sấm,

Giương vi vùng vẫy cơi trời đông.

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi này cho Sĩ Tải Hợi ngày 28-12-1935 (03-12-Ất Hợi), sau khi hỏi đáp về đạo. Bà giáng đặt câu hỏi: “Tu đặng làm ǵ ?” và các vị Chức Sắc Hiệp Thiên Đài có mặt trả lời.

Bà dạy: “Nè, mấy ông tṛ khóa, hễ tu th́ tự giải tự giác, hễ c̣n một điểm biết ḿnh th́ là vị thân, c̣n một mảy biết người th́ là vị thế, hai lẽ ấy vốn không theo chơn đề tu niệm. Hỏi giáo truyền trả lời như vậy th́ trúng, hỏi tu niệm th́ trả lời như vậy th́ trật. Theo thiếp nói th́ thiếp trả lời như vầy: Tu đặng trau ḿnh theo ông Trời, đặng giống Trời là đủ lư”. Bà dạy riêng Sĩ Tải Hợi: ” Em gắng lập công, sau nầy nên phận”.

 

27. Bát Nương DTC 28-12-1935

Dặm hồng lỡ lối đă quày đầu,

Một bộ Xuân Thu dựng nghiệp Châu;

Đạp đất ra vàng chưa phải đạo,

Thâu gương nhựt nguyệt mới cao sâu.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi này cho Sĩ Tải Xin ngày 28-12-1935 (03-12-Ất Hợi), sau khi hỏi đáp về đạo.


 

28. Bát Nương DTC 24-06-1936

Râu mày dầu khác bậc quần thoa,

Là biết từ tâm với phụ tề;

Hoặc tính nghe chi cơn lửa động,

Mà thiêu tan nát nghĩa phu thê.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi này cho ông Trí ngày 24-06-1936 (06-05-Bính Tư) tai Hộ Pháp Đường.

 

29. Thất Nương Diêu Trì Cung 02-09-1942.

Thất thế náo thân chớ tưởng lâu, 
Nương cùng quí vị chỉ đường cầu;
Kính đem đến tận bờ dương liễu, 
Tặng nghĩa Đài sơn kẻ chực chầu.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương DTC giáng ban thi này ngày 02-09-1942 (22-07-Nhâm Ngọ).

 

30. Nhứt Nương DTC 24-09-1942

Nhứt khí tạo đoan cả Địa cầu,

Nương theo Mẹ cả giảng vài câu;

Kính dâng Tam bửu hằng năm vẹn,

Tặng lễ mừng thầm đắc chẳng lâu.

  • Nguồn gốc:

Đức Phật Mẫu giáng giảng dạy ngày 24-09-1942 (15-08-Nhâm Ngọ) và sau đó mỗi vị Tiên Nương ban cho một bài.


 

31. Nhị Nương DTC 24-09-1942

Nhị châu Chơn Vơ nhớ cùng không,

Nương cơi Thiên cung gởi bóng hồng;

Kính tặng vài câu mừng bạn cũ,

Tặng người hiếu hạnh chịu pḥng không.

  • Nguồn gốc:

Đức Phật Mẫu giáng giảng dạy ngày 24-09-1942 (15-08-Nhâm Ngọ) và sau đó mỗi vị Tiên Nương ban cho một bài.

32. Tam Nương DTC 24-09-1942

Tam Kỳ khai mở Đạo lần ba,

Nương náu ít lâu rơ báu ḥa;

Kính lượng bề trên ban đức tánh,

Tặng người tài trí hứng Đài Cao.

Đức Phật Mẫu giáng giảng dạy ngày 24-09-1942 (15-08-Nhâm Ngọ) và sau đó mỗi vị Tiên Nương ban cho một bài.


33. Tứ Nương DTC 24-09-1942

Tứ đức vẹn toàn mới xứng danh,

Nương hơi nhang khói chỉ điềm lành;

Kính mừng quí vị ân cần tịnh,

Tặng khách nâu sồng diệt quới khanh.

Đức Phật Mẫu giáng giảng dạy ngày 24-09-1942 (15-08-Nhâm Ngọ) và sau đó mỗi vị Tiên Nương ban cho một bài.


34. Ngũ Nương DTC 24-09-1942

Ngũ hành vận chuyển đoạt Huyền Thiên,

Nương níu đôi năm khỏe tự nhiên;

Kính có công tu nay gặp hội,

Tặng ḿnh hữu hạnh phục qui nguyên.

  • Nguồn gốc:

Đức Phật Mẫu giáng giảng dạy ngày 24-09-1942 (15-08-Nhâm Ngọ) và sau đó mỗi vị Tiên Nương ban cho một bài.

 

35. Lục Nương DTC 24-09-1942

Thất thế náu nương chớ tưởng lâu,

Nương cùng quí  vị chỉ đường cầu;

Kính đem đến tận bờ dương liễu,

Tặng nghĩa đài sơn kẻ chực chầu.

  • Nguồn gốc:

Đức Phật Mẫu giáng giảng dạy ngày 24-09-1942 (15-08-Nhâm Ngọ) và sau đó mỗi vị Tiên Nương ban cho một bài.

 

36. Bát Nương DTC 24-09-1942

Bát vu hành khất bữa mơi chiều,

Nương tưởng ḿnh to giống kẻ thiêu;

Kính đến Tây phương tầm Xá lợi,

Tặng t́nh đồng đạo phải đồng yêu.

  • Nguồn gốc:

Đức Phật Mẫu giáng giảng dạy ngày 24-9-1942 (15-08-Nhâm Ngọ) và sau đó mỗi vị Tiên Nương ban cho một bài.


37. Cửu Nương DTC 24-09-1942

Cửu Thiên mở cửa rước người hiền,

Nương  chí  dắt d́u khách hữu duyên;

Kính lập công to qui cựu vị,

Tặng tiền phát khởi lập căn nguyên.

Đức Phật Mẫu giáng giảng dạy ngày 24-9-1942 (15-08-Nhâm Ngọ) và sau đó mỗi vị Tiên Nương ban cho một bài.

 

38. Đức Phật Mẫu 24-09-1942

Thu cúc hứng sương khách kiếm mùi,

Chín Cô cùng Mẹ đến chung vui;

Thương nhau tầm kiếm chừng nào gặp,

Công đức vẹn toàn sẽ hiệp ngôi.

Đức Phật Mẫu giáng giảng dạy ngày 24-9-1942 (15-08-Nhâm Ngọ) và sau đó mỗi vị Tiên Nương ban cho một bài.


39. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 22-02-1947

Đầy ḷng  yêu  ái  đám  quần sanh,

Nghĩa cử  chỉ  trông một tấc thành;

Lựa chọn những ǵ riêng kiếp trái,

Đớn  đau  chỉ  nặng mối thâm t́nh.

Đức Phật Mẫu giáng ban cho bài thi này trong đàn cơ tại Báo Ân Từ vào ngày 22-02-1947 (02-02-Đinh Hợi). Đức Phật Mẫu dạy:

Mụ chào các con. Mừng. Mụ lấy làm thậm cảm t́nh, mặn nồng, hiếu hạnh của các con, nhứt là Hộ Pháp, đă lập nên Đền Thờ trọng hậu. Cả Diêu Tŕ Cung đều để lời cảm ơn.

Nữ phái các con. Kể từ đây, đă có nơi Mẹ con hội hiệp. Khá nên để trí tưởng rằng, chẳng buổi nào MẸ không ở gần các con, chung chia đau thảm, chỉ xin các con có một điều trọng yếu là các con phải tập tánh ḥa nhă, yêu ái lẫn nhau mà chia buồn sớt thảm cùng nhau, ấy là  lễ hiến cho Mẹ quí hóa hơn hết. Nếu biết thương yêu th́ chẳng có chi hơn là dạy dỗ  trẻ thơ đặng khôn ngoan đạo đức. Nếu Mụ c̣n điều ước vọng th́ chỉ trông Ngự Mă Thiên Quân giúp Mụ thường thường cơ bút đặng dạy dỗ nữ phái. Đức Phật Mẫu dạy thêm: “Theo ư Mụ th́ chẳng nên làm lễ Mụ trong thời Tư, e cho thất lễ với Từ Bi. Vậy nên sửa lại trong giờ Ngọ, Sóc Vọng cho có thế con cái của Từ  Bi  dâng lễ cho Người”.


40. Bát Nương DTC 03-08-1947

Bát Nhă độ đời khỏi bến  mê,

Nương cơ đạo hạnh trở về quê;

Kính lời nhắn nhủ tân lai khách,

Tặng kế qui nguyên đất Việt kề.

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi ngày 03-08-1947 (17-6-Đinh Hợi) tại Báo Ân Từ; sau khi Bà Lục Nương DTC giáng dạy đạo. Lục Nương dạy như sau:

Chào quí anh, quí chị. Mừng mấy em nam nữ. Đạo độ đời đă lố bóng, con thuyền Đạo đă ngừa nơi bến đặng chở khách hữu duyên. Đang buổi nầy khách tục ngó chừng măi quí anh quí chị lắm. Nhứt nhứt phải nêu gương tinh thần đạo hạnh để làm gương mẫu cho đời bắt chước. Phải có dạ chí thành, phải có tâm cương quyết, muôn việc đồng thanh tương ứng, hiệp với nhau làm một khối khư chặt, một như mười, mười như một, sớt thảm chia nồng với nhau mỗi khi lạc hứng, khuyên đừng tư kỷ, chi chi cũng có có cậy nhờ Bề trên chỉ dẫn. Có thế vui nhưng cũng nhờ nơi tâm chí thành của quí anh quí chị cùng mấy em cầu nguyện nơi Chí Tôn.  Nhơn hữu thiện nguyện, Thiên tất tùng chi. Đại hỷ! Vậy thiếp có mấy lời yêu cầu quí anh quí chị và mấy em nam nữ ráng dọn ḿnh cho trong sạch đặng nêu gương cho đời bước tới. Có Bát Nương DTC đến”.  


41. Bát Nương DTC 03-08-1947

Kề vai hai nước mựa hồ nghi,

Thống nhứt ngày nay đă đến kỳ;

Cao mũi mượn hơi quyền chú Mỹ,

Rồi đây lộ kế mới ra đi.

Bà Bát Nương DTC ban thi ngày 03-08-1947 (17-6-Đinh Hợi) tại Báo Ân Từ.

 

42. Bà Thiên Hậu 29-09-1947

Trước có căn duyên ở Ngọc Cung,
Cầu con nên phải đến phân cùng;
Thiên cơ mạt lộ chờ đôi lúc,
Nương cậy về sau khỏi năo nồng.

Bà Thiên Hậu giáng ban bài thi này ngày 29-09-1947 (15-08-Đinh Hợi).


43. Lục Nương DTC 29-01-1948

Hạc mây ṭng bá khó đăng cơ,

Tên tuổi mấy ai biết đến cho;

Bể hoạn bao giờ an sóng lộ,

Ai nâng thuyền Đạo khá nên ḍ.

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi ngày 29-01-1948 (19-12-Đinh Hợi) tại Văn Pḥng Hiệp Thiên Đài nhơn Ngài Tiếp Đạo xin hiệu. Bà dạy: “Chào mấy anh, mấy em. Em đă nghe anh Tiếp Đạo muốn xin hiệu cho mấy anh, vậy em cho bài thi nầy mấy anh tự biết. Vui vẻ thay.”


44. Lục Nương DTC 29-01-1948

Ḍ lần đường chánh buổi an biên,

Việt quốc từ đây nắm mối giềng;

Tánh cách chỉ huy toàn liệt địa,

Đạo mầu khôi phục khắp đông kiên.

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi ngày 29-01-1948 (19-12-Đinh Hợi) tại Văn Pḥng Hiệp Thiên Đài nhơn Ngài Tiếp Đạo xin hiệu.


45. Bát Nương DTC 16-09-1948

Hạc trắng bay về hội hướng Tây,

Cùng nhau hạnh hưởng cuộc vui vầy;

Đạo pḥng mỹ ư toan truyền bá,

Kết nghĩa gồm thâu trọng đạo Thầy. 

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi ngày 16-09-1948 (14-08-Mậu Tư) tại Văn Pḥng Hiệp Thiên Đài. Bà dạy:

Chào anh Bảo, hai anh Khai, cùng các bạn Hiệp Thiên. Em rất vui ḷng mà đặng thấy quí anh và các bạn hội họp nơi đây đồng một dạ chiêm ngưỡng các Đấng đến đàn Tiên chỉ bảo đôi lời đạo hạnh, khuyên răn tánh đức và các bạn cùng nhau lo bồi đắp nền tôn giáo, là cũng một phần lo bồi bổ giang sơn, từ mỗi vị lo thi hành nhiệm vụ của ḿnh.

Anh Bảo Thế! Anh khó ở là tại khí hậu, đời có thế, theo không kịp nên khó chịu. Vậy kể từ ngày mai đây, quí thể đặng mạnh hơn trước. Em phụng lịnh Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu đến ban phước lành cho tất cả  quí  anh cùng tất cả các bạn Hiệp Thiên Đài và để đôi lời cùng các bạn, cứ vững tâm lo tṛn nhiệm vụ của ḿnh là phải bác ái, từ tâm, công b́nh, chánh trực, hằng ngày gieo mối cảm t́nh với  đồng chủng. Các bạn chớ tưởng nền Đại Đạo ở hoài trong khuôn khổ chật hẹp nầy đâu, nó phải lướt qua bốn biển năm châu, chừng  ấy  nơi  nào  cũng có các bạn, nếu vắng mặt các bạn (HTĐ) th́ nơi ấy không thành đạo được. Vậy th́ chẳng nơi nào mà chẳng có chơn của Chức sắc Hiệp Thiên Đài. C̣n nói về quyền hành, tuy không mà có, tưởng nhỏ mà to, cả luật lệ nắm trong tay, cân công lư nằm trên vai, đố ai chạy đường nào cho khỏi. Nhưng thương th́ hay gần gũi khuyên răn, có lời chi nặng nề, xin các bạn miễn nghị và vui ḷng đàm luận th́ em lấy làm may mắn lắm. Cuộc Hội Yến đến đây rất long trọng. Các chị nơi Diêu Tŕ Cung đều sửa soạn trang hoàng, hô hào nô nức đặng đến phó hội. Các chị đồng để lời cảm ơn  đức của quí anh và các bạn”.


46. Thất Nương DTC 18-11-1950

Lễ  đức dung ḥa nam tợ nữ,

Giữ ǵn khép chữ đứng anh thư;

Lạc Hồng nhớ thuở đường thi cử,

Nhớ nét thêu xưa để đến chừ.

Bà Thất Nương DTC giáng ban thi ngày 18-11-1950 (09-10-Canh Dần). Bà dạy: “Mấy em kiếm phương hiểu ư. Hiền tỷ chỉ cho mấy em. Đă hèn lâu chị em vắng dạng v́  bổn phận của em phải ở nơi cơi Phong Đô đặng độ rỗi các chơn hồn bị sa đọa, nên chẳng thường đến như chị Bát Nương DTC được. Điều đó, hiền tỷ biết cho em. Em cũng thương đoàn nữ phái lắm chớ, nhưng chỉ v́ chút bổn phận mà em ít chuyện văn với mấy em của em. Mấy em cứ tới hầu nghe Bát Nương DTC sẽ luôn luôn giáng dạy. C̣n Em phải bận việc nên không dám hứa trước với hiền tỷ. Vậy luôn đây, hiền tỷ cho phép em nói chuyện cùng mấy em của em.

Nè mấy em, phận nữ phái đáng ra th́ khuê môn bất xuất, nhưng v́ lẽ toàn nữ phái của mặt địa cầu đều bị bả văn minh mà làm cho họ mất hết bản tánh. Nên mấy em được Diêu Tŕ Cung ban ơn huệ cho lập mà d́u dẫn lần nữ phái qui hồi cựu đức. Vậy mấy em ráng nhớ tự mấy em phải làm nên gương mẫu trước th́ mới mong d́u dẫn được các bạn của mấy em đó. Mấy em phải ráng chịu khổ hạnh trong một thời gian, ví như mấy em đă quên hẳn ḿnh là chính ḿnh. Có vậy mới thâu được kết quả tốt đẹp đó nghe mấy em. Mấy em đừng ḍm ra ngoài thế mà se sua thân phận cho thất phận đó nghe. Mấy em phải coi ḿnh là người của sanh chúng th́ mới đặng, phải hy sinh quên ḿnh th́ mới trọn lẽ thương yêu. Mấy em cũng nên biết v́ thiếu sự thương yêu mà mấy em phải đầu thai làm nữ phái đó. Thôi, em c̣n công việc phải đi, hiền tỷ thứ lỗi cho em. Mấy em khá nhớ. Chị phiền mấy em nam phái quá. Mấy em vui ḷng chị nghe. Chị xin kiếu”.  


47. Huỳnh Hoa Tiên Nữ 24-11-1950 

Huỳnh lương giấc mộng có chi vui,

Hoa trổ gặp thời chớ dể ngươi;

Tiên cảnh sẵn chờ người nữ sĩ,

Nữ nam đồng phận nếm ngon bùi.

Huỳnh Hoa Tiên Nữ (Nhứt Nương Diêu Tŕ Cung) giáng dạy đạo và ban thi ngày 24-11-1950 (15-10-Canh Dần). Bà dạy: “Chào các em nam nữ. Em rất vui mừng được thấy hiền tỷ có ḷng hoài cố nhắc nhở đến nên có đôi lời chung vui cùng hiền tỷ. Bà Nữ Chánh Phối Sư bạch: “Tôi nhớ buổi khai Đạo, Phật Mẫu cho bốn cô đến độ chúng tôi, ơn trọng ấy tôi nhớ hoài...”. “Điều đó là bổn phận của các em nơi Cung Diêu Tŕ lănh lịnh Đức Diêu Tŕ Mẫu vậy thôi, chớ có chi là ơn nghĩa, hiền tỷ chớ quá nặng. Từ đấy, em hằng nhớ hiền tỷ, nhưng chẳng gặp được dịp may. Nay em về chia mừng cùng hiền tỷ là thấy hiền tỷ đang gánh một trách nhậm thiêng liêng quan trọng để d́u dắt nữ phái, mặc dầu không có dịp gặp nhau trao đổi lời mừng, nhưng lúc nào em cũng ở gần bên hiền tỷ để chia vui sớt buồn. Hiền tỷ nên khuyên nữ phái ráng lập vị ḿnh cho xứng phận và khỏi phụ ḷng mong mỏi của các Tiên Nương  nơi  Diêu Tŕ Cung. Lúc năy, anh Cao Thượng Phẩm đă chỉ dạy nhiều về phần nữ phái rồi, nếu các em nữ phái ráng để  ư  mà thực hành theo đó th́ xong phận. Xin hẹn khi khác em sẽ đến nữa để cùng hiền tỷ hàn huyên câu chuyện đạo đức. Em xin kiếu”.

 

48. Lục Nương DTC 24-11-1950

Chỉ có cây xanh chửa có hoa,

Cùng lan xưa vẫn giữ chung ḥa;

Dưới hiên cùng đứng nh́n sương sớm,

Nắm kết đồng tâm giải nỗi thoa.

Bà Lục Nương DTC giáng ngày 24-11-1950 (15-10-Canh Dần) ban bài thi trên trước rồi hỏi Bà Nữ Chánh Phối sư là ai? Bà Nữ Chánh Phối Sư đoán đúng liền. Đàn cơ như sau: “Em xin chào hiền tỷ và các em. Để em làm bài thi rồi hiền tỷ đoán coi em là ai”. Bà Chánh Phối sư bạch: “Phải Cô Lục Nương không? Cười…Chớ c̣n ai vô đó nữa”.


49. Bát Nương DTC 1950

Biển rộng thuyền lan khá bớt lèo,

Thênh thang mặt nước thuận ḷng theo;

Tay Tiên nhe nhẽ nương chiều lái,

Gần đến Đào Nguyên nhặt mái chèo.

Bà Bát Nương DTC giáng ban bài thi này cho ông Giám Đạo Nguyễn Hượt Hài vào năm 1950 (Canh Dần). Theo sự tường thuật từ người bạn đời của ông th́ gần Tết ông về thăm nhà, vừa để vali xuống là khóc liền và nói: “Bà ơi! tôi được bà Bát Nương cho một bài thi hay quá”. Rồi đọc lên bài thi trên. Có lẽ ông nghĩ gần đến Đào Nguyên là gần ngày thành Đạo, nên ông vui mừng khoe với vợ, nào dè đâu là ngày gần về với Phật Mẫu dự hội Bàn Đào, tức là gần ngày thoát xác. Ông mất ngày 20-12 Canh Dần (1950) chôn tại đất Thánh Tây Châu Đốc, có làm mă đá tử tế. Sau này chính quyền giải tỏa khu đó, chư đồng Đạo mới chung nhau di dời ông về núi Sam.

 

50. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 12-02-1951

Thảo đường Phước địa ngộ ṭng hoa,
Lục ức dư niên vơ trụ ḥa;
Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,
Thế đăng Bồng đảo định âu ca.

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng cho bài thi này ngày 12-02-1951 (đêm 07-01-Tân Măo). Ư nghĩa: “Ngôi Thảo Đường cất nơi phước địa, gặp mối Đạo trời mới mở ra. Hơn sáu trăm ngàn năm, vũ trụ được chung ḥa. Nơi phàm gian nhơn loại cùng nhau hưởng cảnh an vui với nghiệp lành. Cơi Thế như cơi Tiên, đều vui ca ngợi”.

 

51. Bát-Nương DTC 17-01-1952

Hoa sen trong trắng có ǵ hơn,

Ở chốn bùn nhơ chẳng dạ hờn;

Chúc đến Nhâm-Th́n thêm trí cả,

Đặng theo Liên-Bạch giúp đời chơn.

Bát Nương DTC giáng ban thi cho Chức Sắc Hiệp Thiên Đài học đạo “Luật Tam Thể” do Đức Cao Thượng Phẩm dạy, chúc mừng nhân đêm cúng Tất Niên ngày 17-01-1952 (21-12-Tân-Măo). Bà dạy: “Chị Tam-Nương và chị Tứ-Nương vắng mặt, nhờ chị kiếu lỗi. Chị xin mừng và chúc một bài thi. Chị mừng thấy mấy em được trọn Lễ, mấy em khá gắng thêm. Chị lui”.

 

52. Bát Nương DTC 01-02-1952

Đào-Nguyên soi rơ một đèn từ,

Để bóng huỳnh-vân chiếu Ngọc-Như;

Rải cánh Bạch-Liên lên bể khổ,

Đưa đoàn chiên dại đến Huyền-Hư.

Bà Bát Nương DTC giáng đêm 01-02-1952 (06-01-Nhâm-Th́n) ban thi Chư vị Chức-Sắc Bộ-Pháp-Chánh Hiệp- Thiên-Đài. và dạy: “Mừng, mừng. Các em ráng nối chí của Đại-Ca và Nhị-Ca đi, Chị giữ lái cho. Chị nhượng cơ cho Cửu-Nương ”.

 

53. Cửu Nương DTC 01-02-1952

Lễ mọn ḷng trần thấu Ngọc-Hư,

Nhà Nam dựng nghiệp Lễ nên lư;

Xông trầm hơi tỏa Tâm là Lễ,

Dụng Lễ tạo Linh có mối từ.

Bà Cửu-Nương Diêu-Tŕ-Cung giáng đêm 01-02-1952 (06-01-Nhâm-Th́n) ban thi Chư vị Chức Sắc Bộ-Pháp-Chánh Hiệp-Thiên-Đài và dạy: “Chị chào mấy em. Chị Bát-Nương đă chỉ cho các em khi năy, các em c̣n nhớ không? Các em cố giữ vững đức-tin th́ các em sẽ nh́n thấy lời hứa của Chí-Tôn ra thế nào. Có khó mới có công được chớ! Nếu dễ-dàng ai làm chẳng được, mà làm được cũng là một việc thường, có ǵ gọi rằng phi-phàm? Các em đă rơ biết cảnh khó dễ của quyền đời trước kia, mà hôm nay đến đó cũng là việc thường. Các em trông, mà tới th́ lại sợ, th́ trông để làm ǵ? Các em hăy vui lên để đón rước con rồng vàng mới được. Mọi việc Chí-Tôn đă sẵn định cho con cái của Người rồi, chỉ c̣n đợi coi các đứa con ấy có đủ khôn ngoan để thọ lănh phần thưởng đó mà thôi. Các em cố nối chí là đoạt được. Con đường đă vạch sẵn, chỉ c̣n tiến bước theo là xong việc. Chị có mấy lời chỉ bảo cho các em, vậy các em nên nhớ mà lo tṛn sứ mạng của các em. Chị xin kiếu”.

Tái cầu, Bà dạy tiếp: “Chị chào mấy em, Mấy em may duyên được gần-gũi chư Tiên, chị tưởng đó cũng do cơ huyền-ẫn. Mấy em khá trau-giồi khi qua xuân mới. Chị rất mừng đuốc huệ đă có người nắm, Chị bớt khổ nhọc chút ít. Vậy Chị xin để lời cám ơn mấy em đó! Chị chỉ mong có vậy, nhờ mấy em ráng giữ lời khuyên. Chị rất mừng qua năm mới Chị vui thấy tinh-thần trọn vững của mấy em.

Chị xin để một câu vắn tắt: “Chơn-Thần tinh-khiết mới độ rỗi được xác thân và mới hiệp Chơn-Linh đặng. Chị kiếu”.

Bà cho tiếp bài thi sau (Thất Ngôn Tứ Cú-Song Thất Lục Bát):

Khuyên nhủ khách trần lánh bợn nhơ,

Tầm chơn Từ-Phụ ráng qua bờ;

Cánh buồm dong ruỗi trên khổ hải,

Xin vững lái lèo rước kẻ khờ.

Kẻ khờ đó ḷng ngơ sao nỡ,

Phướng từ bi khá trở đuôi về;

Cuốn lôi dùm đám c̣n mê,

Chớ đừng riêng hưởng chẳng hề cứu nhau.

Ḱa là bước động đào tỏ nẽo,

Ráng chèo mau kẽo trể thời cơ;

Lănh phần bảo-thủ chớ ngơ,

Thuyền không về bến c̣n chờ đợi chi.

Đă là lúc Đạo-Kỳ bủa khắp,

Lấy dạ công bồi đắp trời Nam;

D́u dân phải đáng hồn Nam,

Mới tṛn lẽ hóa cơi phàm trở Tiên.

 

54. Ngũ Nương DTC 03-02-1952

Ngũ trong Thánh đức vẽ nên rồng,

Nương bóng từ bi cá hóa long;

Diêu đức trâm anh gương nữ kiệt,

Tŕ trai giữ giới độ non sông.

Bà Ngũ Nương DTC giáng ban thi ngày 19-03-1952 (24-02-Nhâm Th́n). Bà dạy: “Các em ráng sao cho cao đạo hạnh, chớ thỏn mỏn ngày qua tội nghiệp cho kiếp trần đeo thêm khổ phận mà sau đây c̣n hối hận ăn năn. Chị rất tủi khi đă được lịnh Cung Diêu để dẫn giáo mấy em, rồi lần lượt đ́u hiu thêm thẹn. Để chị nhắc nhở thêm về phương tu phải trau tâm. V́ những phương ích kỷ có thể nó đưa các em đi đến chỗ thất tâm. V́ Đạo là lẽ chánh chơn để hướng dẫn quần linh sau nầy yên ngôi vị cũ. C̣n lối tu hành phải từ từ mà tiến, không nên quá mà cũng không nên thối chí, hễ tu hành thường chịu nhiều cơ khảo mới thành nên địa vị  cao siêu. Thôi, ráng cho nên phận để Phật Mẫu buồn ḷng thêm có tội”.

 

55. Ngũ Nương DTC 19-10-1952

Phàm trần khá lánh cơi nhơ danh,

Muôn kiếp trau thân phải chí thành;

Để Đức d́u Tâm nên đức cả,

Học đ̣i đạo hạnh giữa Thiên thanh.

Bà Ngũ Nương DTC giáng ban thi và dạy đạo ngày 19-10-1952 (01-09-Nhâm Th́n). Bà dạy:

Chào chư Thánh nam nữ, các em nữ phái, các em Bạch Vân.

Bao phen để bước đến Thanh Trước Đàn, nhưng hềm nỗi chánh kiến chưa đồng, trí thức nữ lưu lại kém, nên phần học hỏi đă ngưng đôi chút. Đó là h́nh phạt của mấy em nữ phái đó. Biển lặng gió êm, thuyền từ xông lướt để t́m rơ nguyên lư của tánh đức và chơn tâm của kẻ mến Đạo ưa mùi  âm chất, cũng nên trao đổi tánh đức thờ ơ để rước vào ḷng một mối Đạo cao thâm vi diệu mà tṛn một kiếp sanh cũng chưa bao lần gặp đặng, chỉ may duyên được ngộ Cao Đài nên gắng tâm tŕ chí để đoạt vị vô vi. Chị lúc nọ cũng tâm phàm xác thịt như mấy em ngày nay, nhưng nhờ ở đức giồi trau học Đạo và mảng say mê tâm đức nên mới được đắc quả buổi nầy. Nương bóng Đạo tạo bề hạnh phúc cho kiếp trần ai  để mong giải khổ nghiệp th́ quả căn đă sạch đó. Đường Thánh nên gắng lần ḍ, nẻo tà nên xa lánh, bợn tục khá lui chơn, nẻo Tiên nên để bước, tánh phàm nên rửa bớt để đem sâu chí Thánh đặng rau gương quí báu của kiếp nữ lưu, sau nầy khỏi thẹn cùng bậc má hồng sanh ra trong cửa Đạo. Các em để ư nghe, chị cho một vần thi, rồi kiếm hiểu để rửa bớt tánh phàm”.


56. Đức Diêu Tŕ Nương Nương 14-02-1954

Vó Kư nài chi vạn dặm dài,

Càng giồi càng dẻo chí càng hay;

Giang sơn hiệp sức tay tô điểm,

D́u bước quần sinh vẹn trả vay.

Đức Phật Mẫu giáng ban thi ngày 14-02-1954 (12-01-Giáp Ngọ) và dạy đạo: “Mẹ vui mừng trông thấy các con tỏ ḷng thành kỉnh đối với Mẹ. Mấy con để tâm về Đạo, Mẹ cũng khen đó. Nhưng các con thiếu đức tánh để d́u đời, thành thử sự loạn lạc chưa sớm kết liễu được, mà mấy con cũng không thế thật hành chi để giúp ích cho chúng sanh. Trong lúc nầy cũng như chim bằng tạm nghỉ cánh. Mấy con nên t́m thế d́u dắt thêm bạn đồng chí hướng, để rồi gặp lúc sẽ ra gánh vác nhiệm vụ trong buổi thanh bạch hơn. Mấy con nên nhận lời ban ơn của Mẹ Mẹ có mấy lời đây (bài thi trên).

 

57. Lục Nương DTC 9-2-1955

Huệ năng vận chuyển pháp linh thông,

Trí lự phân minh lư đạo đồng;

Chỉnh thế do chơn trừ quỉ nghiệt,

Định an thế giới tạo huyền không.

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi này vào ngày 09-02-1955 (17-01-Ất Mùi) và dạy đạo: “Mấy anh rộn ră quá hả? Cả thế gian đang phải chịu bao trùm bởi nét phù vân mà từ người tu đến kẻ thế đành thảm lụy vào cạm bẫy lợi danh mới ra nông nỗi. Đại Đạo hoằng khai đặng phổ truyền chơn tướng của chơn truyền th́  trạng huống hiện đại đă đành phải nhiều gian khổ. Vậy nên mấy anh là người lănh trọng trách phải lắm nhọc nhằn trong cơ định thế. Việc đến phải đến và sẽ  phải  đến. Đó là lẽ dĩ nhiên, nhưng mấy anh cần phải chịu khó định nên chiều hướng cho nét “Duy Tâm ḥa với Duy Vật, tạo nên Trung Dung” cho cả Thánh thể vững bước hầu làm hướng đạo trong buổi cứu thế.

Đừng lầm tưởng: Đạo là tu, tu là hiền, hiền là gơ mơ tụng kinh. Mà trái lại: Đạo là đường, đường là chánh trị, chánh trị mới ra tu, tu mới ra hiền, hiền mới nên sư, sư mới nên hữu, hữu mới có huynh đệ, huynh đệ mới ra đại đồng. C̣n Anh Tiếp Pháp, nên nhớ rằng:  Đạo là lối đi, lối  đi  là có mực thước, mực thước th́ có luật pháp, luật pháp th́ có chí công, chí công mới ra chí ái, chí  ái mới  tương thân, tương thân mới tương trợ, tương trợ mới đại đồng”.


 

58. Bát Nương DTC 09-02-1955

Dẫn lối đài vân chịu khảo mà,

Phất cờ định thế có ai qua;

Ḱa xưa ông Thuấn chi nên sợ,

Măn lối xuân về nghiệp rạng đa.

Bà Bát Nương DTC giáng cho bài thi này cho Ngài Bảo Thế vào ngày 09-02-1955 (17-01-Ất Mùi) và dạy:

Xin chào hai anh và các em. Anh Bảo Thế, Anh phải lo chỉnh đốn nội các hành chánh v́ là phận sự của anh đó. Thiên hạ muốn chạy khỏi anh mà nào có được, v́ Chi Thế là chỉnh thế, mà Cửu Trùng Đài là phần đời tức là Thế, th́ anh phải nặng gánh cơ đồ đại nghiệp của vạn linh, chớ có chi. Cười . . . chẳng chi mà chạy, cứ bắt ấn niệm chú Chi Thế th́ là êm. Phải do Hộ Pháp trấn định giùm cho, anh chớ sợ. Thiên hạ ganh ghét mà anh sợ sao? Rồi đây họ sẽ được hiểu cả công trạng của anh. Em muốn nói riêng lư do với anh, vậy xin mời cả thảy ra ngoài một chút...”.

Anh Tiếp Pháp, em nhờ anh phải tŕ chí  định vững cửa Pháp Chánh. Anh Bảo Đạo ráng chịu khó đặng c̣n khề khà đó nghe. Cười... Múa bút th́ anh Bảo Thế đă rơ, c̣n khua chiêng là anh Bảo Đạo, phải lập thành cơ phổ hóa chơn truyền chớ chẳng chi. Anh biết đó chứ. Cả Cửu Trùng Đài nhờ Chi Thế mà định vững chơn tướng, cả tinh thần của vạn linh nhờ Chi Đạo mà nên vững chắc tinh ba. Hai anh hiểu chưa? C̣n Chi Pháp nhờ anh Tiếp Pháp làm giám cuộc nghe anh. Lôi thôi th́ coi chừng bị ṃn đầu gối đa. Em xin kiếu”.

59. Lục Nương DTC 12-02-1955

Huệ quang chiếu rọi khắp mê đồ,

Định trí gieo truyền mối Đạo Vô;

Lấy pháp lượng cân thần rơ giá,

Giúp an toàn thể định cương đồ.

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi dạy đạo vào ngày 12-02-1955 (20-01-Ất Mùi): “Cả định hướng do  trí mà nên. Vậy trí  là phương duy nhứt, kế đó là tài đức”.


60. Bát Nương DTC 30-11-1955

Bát ngát mùi hương thấu chín trùng,

Nương lằn bạch hạc viếng đàn trung;

Mừng ngôi Thiên mạng cao quyền pháp,

Thay đổi càn khôn lập đại đồng.

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi vào ngày 30-11-1955 (17-10-Ất Mùi) và dạy đạo:

Nầy mấy em,  chị đến đây cũng để đôi lời làm kỷ niệm. Cơ huyền bí thiêng liêng khó bề thố lộ, nhưng lần lượt cơ đời mấy em cũng hiểu rơ. Khi Đức Chí Tôn mở Đạo trong thời kỳ Hạ nguơn nầy th́  đă định trước. Mấy em nên hiểu rằng: cây Giáng Ma Xử của Hộ Pháp không phải là một vật thường, đến buổi sử dụng th́ chị  e cho mấy em kinh tâm tán đởm, đừng tưởng không có nghe! Mấy em, người ta thường nói rằng: Thiên vơng khôi khôi, sơ nhi bất lậu. Chị đến đây để đáp tấm ḷng tư tưởng trong sạch của mấy em”.

 

61. Bát Nương DTC 30-11-1955

Rộng bộp là nơi phép diệu huyền,

Xin đừng vội gấp cảnh Thần Tiên;

Oan khiên đó chú gần trong sạch,

Rồi cũng thung dung Bát Nhă thuyền.

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi vào ngày 30-11-1955 (17-10-Ất Mùi)

 

62. Lục Nương DTC 1956

Muốn đạt huyền linh hỏi có ǵ?

Phải chăng minh trí hỏi nguồn thi?

Chợ đời buôn bán bao nhiêu món?

Để học cho ra kịp thuở th́.

Bà Lục Nương Diêu Tŕ Cung Giáng ban bài thi này vào năm 1956 (Bính Thân) hàm ư nghĩa sâu xa của xă hội Việt Nam đă trải qua từ nhiều thế kỷ. Theo Bà Luc Nương giải thích: “Câu trạng là nhờ trí huệ để hiểu khoa thi mà thi ấy là phải t́m hiểu các món hàng của chợ đời, hầu biết giá của mỗi thứ th́ mới định được bài đặng đưa ra trường lư nầy đa”. Tuy đất nước nhỏ bé luôn bị cường quyền áp bức, chúng ta lại được Đức Chí Tôn chọn làm Thánh Thể của Ngài tức là Thầy nhơn sanh.

Theo phép thông thường của mặt thế, muốn làm Thầy trước hết ta phải làm tṛ, ta phải học cái hay cái khéo của thiên hạ. Dân tộc Việt Nam nhờ học văn minh của Tàu, của Ấn, của Pháp, của Mỹ, của Anh nên nay đă trưởng thành, khôn ngoan, gấm ghé được bực Thầy thiên hạ. Thêm vào sự học hỏi trí thức tinh thần của hầu hết các nền văn minh quốc tế, Chí Tôn lại mở nền Đại Đạo để dạy về mặt huyền linh siêu h́nh, dụng cơ bút, khai huệ trí cho con cái của Ngài, chẳng những già giặn về mặt chính trị đời mà c̣n thông suốt máy huyền vi bí mật của Đạo th́ thiết tưởng chưa có dân tộc nào được hân hạnh như thế. Hạnh phúc thay cho giống Lạc Hồng”.

 

63. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 10-09-1965

Diêu thượng huyền linh ngự Cửu Thiên,
Tŕ danh thọ sắc phổ Chơn truyền;
Phật tâm độ chúng tiêu oan trái,
Mẫu hóa quần sanh định nghiệp duyên.

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng ban thi ngày 10-09-1965 (15-8-Ất Tỵ) tại Đàn Cơ Báo Ân Từ, và dạy đạo:

Mẹ mừng các con Nam Nữ. Hôm nay Mẹ lấy làm vui trông thấy các con chung nhau hiến lễ cho Mẹ quá nên long trọng. Mẹ chỉ để lời khuyên các con, nếu biết thương kính Mẹ, th́ gắng công tu hành và lập công bồi đức để xây dựng Đại nghiệp của Chí Tôn tại thế. Mẹ cũng nói cho các con biết, lúc nầy Thiên Điều đang hành pháp. Nhơn loại phải trải qua một lúc tang thương, sanh mạng hao kém không biết số nào mà kể, nhưng người tu chơn chánh nhờ đạo đức mà vượt qua lối Thiên khiển, những kẻ bạo tàn phải chịu diệt vong. Các con nên thận trọng giữ ǵn phận sự. Mẹ cũng không vui ǵ mà nói đến điều nầy, v́ Mẹ cũng sẽ chịu mất một phần con cái yêu dấu của Mẹ. Mẹ cũng để lời khuyên những con cái của Mẹ nên thắt chặt t́nh đoàn kết thương yêu nâng đỡ nhau, tha thứ cho nhau, để làm vui ḷng Chí Tôn và cho Lư Bạch giảm cơn thạnh nộ, th́ Người mới châm chước mà lập vị cho các con.

Mẹ ban ơn cho các con Nam Nữ và nhường cơ cho Cửu Tiên Nương”.

 

64. Chín vị Nữ Phật DTC 10-09-1965

Hoa ngào ngạt mùi hương tỏa kín,
Cảm ḷng thành Điện Thánh nương về;

Khuyên đời mau tỉnh giấc mê,

Lo tu sau khỏi năo nề kiếp duyên.

  • Nguồn gốc:

Cửu Vị Nữ Phật giáng theo sau Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu lần lượt ban thi. Mở đầu, Bà Nhứt Nương viết: “Nhứt Nương, Kính chào chư Hiền Huynh, Hiền đệ Hiệp Thiên Đài, chư Hiền Huynh, Hiền Tỷ, Hiền đệ, Hiền muội Cửu Trùng Đài và Phước Thiện”.

(Bài thi thể song thất lục bát này để đây để có tính liên tục do Cửu Vị Nữ Phật giáng ban thi. V́ thế 9 bài này không đánh số).

Cẩm tịch Dao Cung Tiên vị đắc,
Hạnh phùng vũ lộ sắc Thiên ban;

Đầy vơi vui hưởng kiếp nhàn,

Ngảnh trần có khác chi tràng mộng xuân.

Tuyến nghiệp phàm vô vị,
Đạo khai dĩ định kỳ;

Hồng ân chan rưới mấy khi,

Bến mê há để lỡ th́ độ sanh.

Gấm thêu hoa càng nh́n càng đẹp,
Đức thêm tài chẳng hẹp đường tu;

Mặc người lên vơng xuống dù.

Lợi danh xạo xự thiên thu lỡ làng.

Liễu chiều gió xung xăng màn hạnh,
Như để lời cửa Thánh nhắn tin;

Đạo tâm xin gắng vẹn ǵn,

Đọa thăng hai lẽ nơi ḿnh liệu toan.

Huệ ân chan khắp toàn nhơn loại,
Vào đường tu phỉ toại kiếp sanh;

Lánh nơi tranh đấu giựt giành,

Nghiệt oan khỏi vướng thân danh vẹn phần.

Lễ văn đủ định phân khách trí,
Hạnh đức toàn xứng vị Thánh nhân;

Cơi trần là chốn mê tân,

D́u nhau lánh giả tầm chân tiếc ǵ.

Sen Trắng vóc tinh vi đảnh Hớn,
Nêu tiết trong soi sáng tài hoa;

Để lời nhủ bạn quần thoa,

Kiên trinh liệt nữ phẩm nhà chớ quên.

Khiết kỷ tu chơn duyên quả định,
Xả thân vị Đạo đắc Thiên ân;

Lâng lâng giũ sạch bụi trần,

Cứu nhân độ thế phước phần hậu lai.

65. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 26-09-1969

Diêu động vân hành giáng hạ lai,
Tŕ trung thanh tịnh bạch liên khai;
Kim quang chiếu diệu Âm quang hiện,
Mẫu ngự Cung Tiên Cửu phẩm đài.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng ban thi ngày 26-09-1969 (15-8-Kỷ Dậu) tại Đàn Cơ Báo Ân Từ, và dạy đạo:

Mẹ mừng các con Nam Nữ. Các con ôi! Nỗi mừng của Mẹ lẫn lộn với nỗi khổ tâm.

Mừng là v́ các con đă sớm nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Đức Chí Tôn, nên một phần đă được gội nhuần ân đức của Đấng Vô Cực, nên mới được giảm phần tai nạn. Nhưng những đứa con c̣n ngoài ṿng Đạo, cũng đều là con cái của Mẹ, nên Mẹ đau khổ lắm các con ơi! Mẹ xin để lời khuyên các con hăy để dạ thương hại chúng nó mà xây chuyển tinh thần nền Đạo cho thêm vững bền và đủ khả năng độ dẫn tất cả vào ṿng Đạo hạnh, cho chúng đều hưởng ân huệ. Được vậy là các con báo hiếu cho Đức Chí Tôn và cho Mẹ đó. Mẹ xin có mấy lời khuyên nhủ”.

 

66. Bát Nương DTC 27-12-1972

Hương thơm ngào ngạt Đạo Kỳ Ba,

Lự tỉnh hồng quần Thánh đức ca;

Nương bóng từ bi d́u chủng tộc.

Nương cơ thoát tục thức con nhà.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương giáng ban bốn câu thi làm Bài Thài hiến Lễ Bà Nữ Đầu Sư Hương Lự ngày 27-12-1972 (22-11-Nhâm Tư) tại Giáo Tông Đường.


 

67. Bát Nương DTC 27-12-1972

Hương thơm ngào ngạt Đạo Kỳ Ba,

Lự tỉnh hồng quần Thánh đức ca;

Nương bóng từ bi d́u chủng tộc.

Nương cơ thoát tục thức con nhà.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương giáng ban bốn câu thi làm Bài Thài hiến Lễ Bà Nữ Đầu Sư Hương Lự ngày 27-12-1972 (22-11-Nhâm Tư) tại Giáo Tông Đường. Bà Nữ Đầu Sư Hương Lự qui Thiên ngày này, hưởng thọ 95 tuổi. Bà có ba người con đều là chức sắc trong tôn giáo Cao Đài.

  • Cao Đức Trọng đắc phong Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài.

  • Cao thị Cường đắc phong Giáo Sư

  • Cao Hoài Sang đắc phong Thượng sanh Hiệp Thiên Đài.

68. Bát Nương DTC

Hớn Hồ chia cách tục cùng Tiên,

Liên đóa trà mi ư diệu hiền;

Bạch hạc đang chờ duyên hạnh Ngộ,

Giáng đàn chỉ nẻo dạ nào yên.

  • Nguồn gốc: Bà Bát Nương giáng ban cho Bà Hương Ngộ bài thi nầy không rơ ngày nào.

69. Bát-Nương Diêu-Tŕ-Cung

Ong kiến là loài rất tế vi,

Nó c̣n ưu-ái chẳng quên ngh́;

Người đời ví biết hai điều ấy,

Thử hỏi ai mà lại dám khi.


_______________________________________________________
 

PHẦN II

Thể thơ 8 câu 7 chữ

 

1. Đoàn Ngọc Quế 30-07-1925

Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai,

Mạng bạc c̣n xuân uổng sắc-tài;

Những ngỡ trao duyên vào ngọc-các,

Nào ngờ phủi nợ xuống tuyền-đài.

Dưỡng sinh cam lỗi t́nh sông núi,

Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai;

Dồn dập tương tư hoằng một gánh,

Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng ai.

  • Nguồn gốc:

Sau buổi đầu thất bại, buổi thứ nh́ có Ông Cao Quỳnh Tuân chính là phụ thân của ông Cao Quỳnh Cư, ly trần hơn 25 năm về trước giáng ban thi; ba Ông Cư, Tắc, Sang cầu buổi thứ ba tại Nhà Ông Cao Hoài Sang th́ Bà Đoàn Ngọc Quế ban bài Thi trên.

 

2. Vương Thị Lễ (Thất-Nương DTC tá danh). 18-08-1925

Duyên ǵ chưa gặp vội chia phui,

Căn-dặn nghĩ thôi luống sụt-sùi;

Tấm-mẵn tuy chưa cơn mặn-lạt,

T́nh nồng chi xiết nổi buồn vui.

Lời nguyền xưa có vừng trăng chiếu,

Câu hẹn nay đành giọt nước trôi;

Đổ lụy tương-tư đêm đứt nồi,

Nỗi niềm ai thấu hỡi ai ôi!

  • Nguồn gốc:

Cô Vương Thị Lễ giáng ban bài thi này ngày 18-08-1925 (29-06-Ất Sửu). (Bút Kư Ngài Cao Quỳnh Diêu).


 

3. Đoàn Ngọc Quế (Thất Nương DTC tá danh) 21-09-1925

Chung t́nh đoạn gánh khó làm vui,

Lần gở chưa xong chỉ rối nùi;

Lời hẹn xưa c̣n vầng Nguyệt chứng,

Hương thề nay thả giữa gịng trôi.

Kim rời cải rụng ḷng ngao-ngán,

Đá nát vàng phai dạ ngậm-ngùi;

Một khối Tuyền-đài t́nh khó dứt,

Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi.

  • Nguồn gốc:

Cô Đoàn Ngọc Quế cũng là Vương Thị Lễ nguyên là các tá danh của Bà Thất Nương DTC. Bà họa nguyên vận bài thi “Tự Thuật” của Ông Cao Hoài Sang xướng ngày mùng 4 tháng 8 năm Ất Sửu (21-09-1925). Ông Cao Hoài Sang và Ông Phạm Công Tắc lúc đầu hoài nghi vấn đề xây bàn. Ông Cao Hoài Sang ngày 21-09-1925 (04-08-Ất Sửu) làm sẵn một bài thi Tự Thuật để trong túi, khi vong linh cô Đoàn Ngọc Quế vô th́ Ông nhờ họa. Ông Cao Hoài Sang xướng bài thi như sau:

Sầu dài ngày vắn dễ chi vui,

Toan tính thâu đêm ruột rối nùi;

Ngược gió thuyền đầy cơn gió dập,

Xuôi gịng nước lớn giạt bèo trôi.

Bước đường danh lợi thêm gay trở,

Ngảnh lối tang thương luống ngậm ngùi;

Lần lựa xuân hè năm tháng lụn,

Thôi thôi đến thế, thế th́ thôi.

4. Hớn-Liên-Bạch Bát-Nương 22-09-1925

Chia gương căn-dặn buổi trường-đ́nh,
Vàng đá trăm năm tạc tấm t́nh;
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Đêm bặt đèn khuya một bóng nh́n;
Lần-lựa cô-pḥng xuân thỏn-mỏn,
Xa-xuôi ai thấu nỗi đinh-ninh.

  • Nguồn gốc:

Hớn-Liên-Bạch tức là Diêu-Tŕ-Cung Bát-Nương giáng cho bài thơ đề "Tiễn-biệt t́nh-Lang" này ngày 22-09-1925 (05-08-Ất Sửu).

Ba hôm sau nhằm ngày 25-09-1925 (08-08-Ất Sửu), Ông Quí Cao giáng ḥa nguyên vận bài thi Bát Nương Diêu-Tŕ-Cung (theo Bà ĐS Hương Hiếu) như sau:

̀nh-́nh trống giục thảm trường-đ́nh,
Đau nỗi chia phôi một chữ t́nh;
Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,
Phụng lầu gác quyển đợi ḥa thinh.
Vừng trăng xẻ nửa lưng tṛng ngó,
Một mănh gương treo biếng mắt nh́n;
Kẻ ở phương trời người góc biển,
Ḷng thành nhắn gởi chữ khương ninh.

5. Hớn-Liên-Bạch Bát Nương DTC 22-09-1925

Động-đ́nh chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn giọt nh́n nhau lối rẽ cương;
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường;
Mượn vận lương-nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

  • Nguồn gốc:

Hớn-Liên-Bạch tức là Diêu-Tŕ-Cung Bát-Nương giáng cho bài thơ đề "Hoài-Lang" này ngày 22-09-1925 (05-08-Ất Sửu).


6. Lục-Nương DTC 01-09-1925

Im-ĺm cây-cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu;
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu,
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng.
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu;
Non-nước đ́u-hiu xuân vắng chúa,
Nh́n quê cảnh úa giục cơn sầu
.

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương giáng cho bài thi Bi Thu này vào ngày 01-09-1925 (14-08-Ất Sửu).

Một hôm Cô Đoàn Ngọc Quế dạy ba ông rằng: Ba anh muốn cầu th́ ngày đó ba anh phải ăn chay, cầu mới được (ba ông vâng lệnh cô Đoàn ngày cầu ba ông ăn chay). Tới ngày Rằm tháng 8 năm Ất Sửu (Le 1er Septembre 1925) ba ông lập bàn hương án chưng những hoa thơm, trầm trọn ngày (nhà không tiếp khách nào hết, nhà ở đường Bourdais 134, Sài G̣n, nay là đường Calmette). Ngày 01-09-1925 (14-08-Ất Sửu) ba ông vọng bàn cầu khẩn thắp hương thơm từ 10 giờ đêm tới giờ Tư, xông trầm hương thành tâm cầu quư cô lối năm phút th́ có Lục Nương DTC giáng cho bài thơ này.

Ít bữa sau, ba ông cầu ông A.Ă.Â. giải nghĩa câu thi của Lục Nương DTC câu thứ năm và câu thứ sáu:

Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,

Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.

Ông A.Ă.Â. giải nghĩa:

Trường quang: ánh sáng mặt trời.

Kim Mă: Ngựa vàng là mặt trời.

Ngọc Thố: Thỏ ngọc là mặt trăng.

Thi văn lựa hai thú ấy mà chỉ mặt trời và mặt trăng, v́ hai thú ấy chạy mau, con này rượt con kia, hết ngày tới đêm, hết đêm tới ngày, chỉ là ngày giờ qua mau rất lẹ. Thi văn cũng dùng Kim Mă quá song, chỉ ngày giờ qua rất mau lẹ.


7. Lục Nương DTC 08-09-1925

Trót đă đa mang cái nợ đời,
Gánh đời nặng lắm khách đời ơi!

Oằn vai Thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.

Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công danh phú quư nhắm tṛ chơi;

Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương DTC giáng cùng thi họa với bà vị ngày 08-09-1925 (22-08-Ất Sửu), Bà cho hai câu mở. Ông Cao Quỳnh Cư hai câu trạng. Ông Phạm Công Tắc hai câu luận. Ông Cao Hoài Sang hai câu kết


 

8. Lục Nương DTC 08-09-1925

Ở thế sao chê tiếng thế buồn,
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong;

Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.

Chiếc bách dập dồn ḍng Bích Thủy,
Phồn hoa mờ mệt giấc Huỳnh Lương;

Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh,
Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương.

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương DTC giáng cùng thi họa với bà vị ngày 08-09-1925 (22-08-Ất Sửu), Bà cho hai câu mở. Ông Cao Quỳnh Cư hai câu trạng. Ông Phạm Công Tắc hai câu luận. Ông Cao Hoài Sang hai câu kết.


9. Lục Nương DTC 15-12-1925

Công Dă Tràng công cán để đâu,
Muốn ngăn sóng cả khỏa ngang đầu;
Đất ṿ nên lọn xây thành lở,
Nước dập tuông bờ lở giậu dâu.
Đấp biển v́ lo bờ biển lở,
Moi sông bởi muốn ngọn sông sâu;
Nên hư trối mặc đời phi thị,
Lam lụ buồn cười bấy lũ trâu
.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng học nguyên vận bài thi của thi sĩ Bồng Dinh ngày 15-12-1925 (30-10-Ất Sửu). Nguyên tác của thi sĩ Bồng Dinh (Lăo Bồng) như sau:

Dă Tràng ai dễ xét công đâu?
Băi biển thường xe cát lấp đầu;
Xúc cát trải bao cơn sóng lượn,
Nhăn mày cười bởn khúc sông sâu.
Biết không nên việc nơi Trời nước,
Nào có nao ḷng cuộc bể dâu?
Nhiều ít có danh trên vơ trụ,
Kẻo mà thẹn với mấy bầy trâu.

10. Thất-Nương DTC 21-12-1925

Hồ-thủy vẫy-vùng đáng phận trai,
Trời chiều nay đă rạng cân-đai;
Gành Nam nếu đặng người tên tuổi,
Đất Bắc mừng an bước lạc-loài.
Lộc nước gắng đền công chín tháng,
Nợ nhà tua vẹn gánh hai vai;
Qui điền có lúc phong trần rảnh,
Đinh-sắt một ḷng chí chớ lay.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương DTC giáng cho bài thơ này cho ông Chấn ngày 21-12-1925 (06-11-Ất Sửu).


11. Lục Nương DTC 25-12-1925

Vui nhơn vui Đạo lại vui thiền,
Vui một bước đường một bước yên;
Vui bóng Cao-Đài che khắp chốn,
Vui gương Ngọc-Đế thấy như nhiên.
Vui ngàn thế tải ngăn nhơn-sự,
Vui một màu thiên đóng Cửu-tuyền;
Vui vớt sanh-linh nơi bể khổ,
Vui Trời rưới khắp đủ ân-thiên.

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương DTC giáng ban bài thi này ngày 25-12-1925 (10-11-Ất Sửu).


12. Lục Nương DTC 13-01-1926

Mừng nay đường Đạo đă êm chơn,
Vàng ngọc công-khanh chẳng dám hơn;
Rượu-cúc Bàn-đào chờ hội ẩm,
Thuốc Tiên ḷ tạo giữ sanh-tồn.
Bồng-lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh-đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn;
Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân phân thế-tục phẩm chi sờn.

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương DTC giáng ban bài thi này ngày 13-01-1926 (29-11-Ất Sửu) tại Đàn Cầu Kho khi ba Ông “Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang hỏi Thất Nương DTC: Anh trách sao em không nói thật A.Ă.Â. là ông Trời, em thấy ba anh cũng như mù em cứ gạt hoài! Thất Nương DTC: “Trời là Trời, em là em. Em rơ biết nhưng không dám lậu, nay ba anh đặng vậy em mừng”.


13. Bát Nương DTC 14-01-1926

Nỗi phận vô duyên phận chẳng đành,
Trách ai mộ thói yến cùng anh;
Nương mây đợi mỏi ḷng t́nh ái,
Mượn ngọc trông ngơ tấm liệt trinh.
Vuốt dạ riêng đau người một cảnh,
Dằn thương cố nhớ buổi chung t́nh.
Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,
Một tấm tơ duyên đứt đoạn ǵn
.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cho bài thi này ngày 14-1-1926 (01-12-Ất Sửu) khi giáng cơ mà chỉ có hai vị Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc mà thiếu Ông Cao Hoài Sang. Bà nhắc: “Em mừng hai anh và Đại Tỷ (Nguyễn Thị Hiếu). Em buồn cho Thanh Thủy không đến”.


14. Bát Nương DTC 27-01-1926

Chờ về vắng bặt tiết thu qua,
Tiếng nhạn kêu sầu tiếng thiết tha;
Vườn trước ngơ trông cây liễu rũ,
Non xưa chạnh nhớ bóng trăng tà.
Thi đề thảm lóng hơi oanh thán,
Cầm trổi buồn nghe tiếng dế ḥa;
Dậm thẳng lương nhân xin khá gắng,
Đường dài nghĩa nọ dễ đâu xa.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cho bài thi này ngày 27-01-1926 (14-10-Ất Sửu).


15. Bát Nương DTC 04-07-1927

Vịnh Xuân

Ngàn liễu khoe xuân cánh rỡ màu,

Xuân nồng dường ngự vẻ thanh-tao;

Chào Xuân ác lố trăm lần rạng,

Ghẹo liễu trăng soi một sắc làu.

Thơ-thới cành hôm hoa đọng ngọc,

Êm-đềm dậu tối cỏ đeo châu;

Đượm bầu nhân-sự xuân qua lại,

Khuất bóng xuân sang khách luống-sầu.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương giáng ban cho bài thi này vào ngày 04-07-1927 (06-06-Đinh Măo).


16. Thất Nương DTC 04-1928

Nghĩ giận mà ra bắt nực cười,
Nhờ ai an vị lại an nơi;
Trăm năm chưa giữ bền thân sống,
Một kiếp đă gây lắm tội đời.
Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo?
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời;
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Đến cửa thiêng liêng ngó mặt Trời!

  • Nguồn gốc:

Như đă chú thích ở trên, Bà Thất Nương DTC giáng cho bài thi an ủi Đức Thượng Phẩm khi Ngài bị khảo đảo nặng nề phải trở về Thảo Xá Hiền Cung tịnh dưỡng, Ngài làm bài thi Tự Thán như vầy:

Công tŕnh gầy dựng Thất Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập ŕnh;
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
Xưa Ṭa Thánh dập d́u lai văng,
Nay Bửu đ́nh hiu quạnh lụy nh́n;
Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu,
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.


17. Bát Nương DTC

Mua vải dùm em để phất diều,

Treo văn trước mơ mới là kêu;

Cánh sườn cột nẹp cân cho đúng,

Lèo lái so dây gióng đặng điều.

Luồng gió ồ ào bừng thổi dậy,

Mấy anh tỉnh mỉnh đứng lên khều;

Chín từng lồng lộng bay cho thấu,

Th́ hiểu Hiệp Thiên nghĩa ít nhiều.

  • Nguồn gốc:

Bát Nương DTC giáng ban bài thi này vào lúc ban sơ mới khai đạo, không rơ ngày, theo lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp giảng “Hai Bài Thi của Thất-Nương và Bát-Nương lúc ban sơ mới Khai Đạo”, đêm 30 tháng 8 năm Nhâm-Th́n (18-10-1952), tại Đền-Thánh như sau:

Hôm nay Bần-Đạo giảng hai Bài Thi của Thất Nương và Bát Nương lúc ban sơ mới Khai Đạo, trong hai Bài Thi ấy cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn tức nhiên Hội-Thánh và con cái của Ngài chẳng luận Nam, Nữ suy gẫm rồi sẽ thấy lời Tiên tri kết liễu ngày nay một cách lạ thường, nhứt là đêm nay Bần-Đạo giảng cho mấy em Luật Sự Hiệp-Thiên-Đài lănh sứ mạng đi cùng các nơi cầm cân Công-B́nh Thiêng-Liêng của Đạo.

… … …Trong gia đ́nh có hỗn loạn, có thống-khổ th́ tới Xă-Hội Nhơn-Quần cũng vậy, cớ sao Xă-Hội có như thế? Phương pháp ấy cốt để cho toàn cả Nhơn-Quần Xă-Hội thấy đặng khó khăn thống-khổ tức phải thọ-khổ rồi mới thắng-khổ. Bài thi của Bát Nương lúc ban sơ nói về nỗi khó khăn khởi đương của nền Tôn-Giáo của Ngài mà Ngài đă gánh vác, đă đảm đương, thấy cái khó khăn ấy Bần-Đạo lại e sợ cho phần tử Hiệp-Thiên-Đài làm không đặng mà thối chí ngă ḷng. Buổi nọ Bát Nương đến kêu Bà Nữ Chánh Phối Sư của chúng ta, Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu là bạn thân của Đức Cao-Thượng Phẩm, làm một bài thi ḿnh thương Đạo kêu nói ngay Bà Nữ Chánh Phối Sư một điều, để Bần-Đạo đọc rồi cả thảy nghe câu văn cũng ngộ nghĩnh. Đức Hộ-Pháp giải nghĩa từ câu:

Nhứt câu: "Treo văn trước mơ mới là kêu" Ngài nói thêm ư chỉ nói văn mà thôi chớ không phải vơ. Đức Chí-Tôn mới mở Đại-Đạo th́ Hội-Thánh Ngoại Giáo đă cầu cơ, Bát Nương đến biểu chúng ta đem cả năng-lực đặng cứu Chúng Sanh, sứ mạng cứu thế phải khổ hạnh khó khăn thế nào, nguy hiểm thế nào! Bần-Đạo để cho con cái Đức Chí-Tôn suy gẫm hiểu cho thấu, tự hiểu lấy ḿnh v́ nó không phải khó kiếm hiểu”.



18. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 20-01-1929

Vú Mẹ chưa ĺa đám trẻ con,
Độ sanh chưa rơ phận vuông tṛn;
Quyền cao Ngự Mă là vinh bấy,
Phận mỏng Hiệp Thiên biết giữ c̣n.
Lợt điểm Thánh Tâm trần tục khảo,
Vẻ tươi bợn thế nét ḍ đon;
Thà xưa ví bẵng nay ǵn vậy,
Ḷng Mẹ ngại ngùng, con hỡi con!

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng ban thi ngày 20-01-1929 (12-02-Kỷ Tỵ) tại Đàn Cơ Thảo Xá Hiền Cung. Đức Phật Mẫu dạy: “Thiếp chào chư Đạo hữu, chư Đạo muội, b́nh thân. Thiếp v́ cảm t́nh xưa mà phải chính ḿnh đến cùng Cửu Nương cho hiểu mọi điều. Diêu Tŕ Cung đă thượng sớ cho Chí Tôn và Bảo Đạo Chơn Quân kiện nơi Ngọc Hư Cung. Thiếp c̣n nhớ khi đến d́u dắt chư Đạo hữu vào đường Đạo, phải mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, th́ Thiếp đă nói bởi v́ t́nh riêng của mấy Đấng Chơn Quân đến lo cứu độ chớ không phận sự chi trong lúc nầy, và cũng bởi lịnh Chí Tôn sai khiến, chắc rằng: “Nếu không phải Thiếp mở Đạo th́ không phương thành Đạo đặng”.

Khi Thiếp mở Đạo th́ độ ai ? Có phải là cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Các Chơn Quân thiệt t́nh của Thiếp là ai chăng? Cười ... Ôi! Cũng bởi nơi Thiếp mà chư Hiền hữu phải chịu hành hà phàm xác, khổ năo muôn phần. Chí Tôn có hứa khi ấy với Thiếp rằng: “Thế nào cũng nâng đỡ chư Hiền hữu mà chẳng cho ai ỷ lộng quyền lấn hiếp, Thiếp mới đến Khai Đạo cho chúng sanh đặng phụ mẫu song toàn, nào dè v́ ḷng đại từ đại bi quá thương nhơn loại, đành để cho chư Hiền hữu chịu hành hà đến đổi.

Thiếp đă dâng sớ cầu xin Chí Tôn lượng xét, c̣n Bảo Đạo th́ kiện cùng Ngọc Hư Cung những kẻ vô đạo của Cửu Trùng Đài. Thiếp đă thấy chán chường khởi trị hành phạt. Lư Thái Bạch muốn lo ḥa đặng Đạo cho thành, nên đă nh́n nhận tội lỗi của nhiều người, nhưng v́ công dày nên không đành để Thiên điều định án, buộc giải nạp những kẻ ấy ra Ṭa Tam Giáo. Thầy cũng nghĩ Thiếp nên … và Lư Thái Bạch đành nhận quyền hành. Hiệp Thiên Đài từ đây không ai chối nữa cho đặng”.


19. Bát Nương DTC 21-02-1929

Gượng khảy năm âm giải tấm ḷng,
Nhắn đưa gió ái đến thu-song;
Gióng dây ĺa nhạn sầu nghiêng-ngửa,
Dở ngón rơi loan thảm chập-chồng.
Lầu-Phụng mơ màng nghe quyển địch,
Cung-Tần văng vẳng lóng tơ-đồng:
Chia đôi bóng nguyệt c̣n phân nửa,
Gối lạnh thương ai
luống năo-nồng.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương giáng ban bài thi “Độc Tấu Đàn Tranh” này ngày 21-02-1929 (12-01-Kỷ Tỵ).

Bút Kư chép tay của Ngài Cao Quỳnh Diêu thuật lại như sau: “Hộ-Pháp và Văn-Pháp trong đêm 12-01-Kỷ Tỵ (21-02-1929) sau khi đờn ḥa 2 cây Tranh-Tỳ, cầu Bát Nương. Bà đến dạy: “Chào Nhị Ca và Anh Cao Liêng Tử! Nghe Em làm Thi Đờn nầy rồi Bà cho bài thi trên.”

Tây Sơn Đạo tức Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc họa nguyên vận (bản gốc chép tay trong Bút Kư):

Năm giây mượn bực tỏa tơ ḷng,

Đờn Bắc ra ai oán dội song;

Tiếng thảm làm cơm tràn quá chén,

Hơi sầu dồn gối chất nên chồng.

Tranh Tần ghẹo khóc người cung-lănh,

Tỳ Hớn khêu đau khách Ải-Đồng;

Nhạn lạc ĺa cung đành lỗi nhịp,

Cậy lằng phong-nguyệt nhắc duyên nồng.

Dị bản:

Năm âm mượn bực tỏ tơ ḷng,
Đàn “Bắc” ra “ Ai” Oán dội song...

Ngài Bảo-Văn Pháp-Quân Cao-Quỳnh-Diêu (Mỹ Ngọc) họa nguyên vận như sau:

Trổi giọng thinh âm tỏ nỗi ḷng,
Tựa màn ánh nguyệt vặc ḍm song;
Cung đàn rỉ rả thưa rồi nhặt,
Dạng khách nhớ nhung chất lại chồng.
Nhấn ngón dường khêu lời hải thệ,
Búng dây như thúc dải tâm đồng;
Nỗi t́nh nỗi hiếu vai oằn oại,
Giọt lệ rưới lau tâm nghĩa nồng.

Ngài Tiếp-Đạo Cao Đức Trọng (Chánh-Đức) họa nguyên vận như sau:

Một mối sầu tư bận tấc ḷng,
Cậy đờn dập thảm dựa đơn song;
Trông t́nh sông Ngự dây loan đứt,
Đợi ngọc cầu Lam tuổi nguyệt chồng.
Gởi nhớ nhờ mây trao bức hẹn,
Ḥa thương cậy gió nhắn câu đồng;
Xa duyên chinh nhạn đành ngưng ngón,
Chén ái đêm đông phảng phất nồng.


20. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 30-11-1929

Eo hẹp chưa từng lập cánh loan,

Muộn trông hồ hải khắp ba ngàn;.

Lửa hương đă toại duyên trong trướng,

Hàng mắc mỏ chi gánh giữa đàng.

Biết phận ba giềng giồi bá hạnh,

Nhớ ơn chín chữ giữ tam cang;

Một dày một mỏng khuyên đừng lựa,

Biết phận dầu nghèo cũng đặng an.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng ban bài thi này tại Thảo Xá Hiền Cung ngày 30-11-1929 (30-10-Kỷ Tỵ) và dạy nữ phái:

Thiếp chào chư Hiền đồ. Thiếp lấy làm hân hạnh đặng hội hiệp cùng chư Hiền đồ Nữ phái. Thiếp xin để lời căn dặn rán lấy ḷng thành hiệp cùng Thiếp, sửa cơ đời cho khỏi phụ ḷng Chí Tôn sở định. Ôi! Biết bao phen Thiếp khẩn cầu khóc lóc giữa Ngọc Hư Cung xin lập thành Nữ phái. Chí Tôn buộc sửa cải Thiên thơ, chư Hiền đồ cũng nhớ lời Chí Tôn khi lập Pháp Chánh Truyền Nữ phái, Chí Tôn than rằng, muốn bỏ đi cho đáng, nhưng ḷng Từ Phụ cũng chẳng đành. Thiếp cậy Quan Âm thay quyền Chưởng quản, nào dè lời từ bi không phương kềm thúc tánh phàm của chư Hiền đồ. Thiếp chẳng phiền là v́ chán hiểu tâm t́nh mọi bề yếu ớt và chỉ trông mong ngày dài chế cải, nào dè đă 4 năm chầy, phàm tâm chư Hiền đồ vẫn y như trước, làm cho Quan Âm buồn ḷng cáo thối. Ôi! Một Đấng Trọn lành ấy c̣n cam tâm bỏ lẫy, Thiếp mới cậy mượn tay ai? Thà Thiếp đến chính ḿnh dạy dỗ lấy con, dầu rủi may, cho đành dạ. Thiếp dặn Cửu Nương và Thanh Tâm Tài Nữ thay phiên nhau đem trí thức tinh thần thiêng liêng mà chế vào ḷng các con, họa may giảm đặng lần lần tục tánh. Thiếp cần dạy dỗ th́ Thiếp chỉ cầu chư Hiền đồ cũng ráng nghe Thiếp, tùy ḷng chẳng ép nài ai làm quá trí, mượn ng̣i Cơ Bút đề áng văn chương, tỏ tấm t́nh thương, chư Hiền đồ để dạ. Từ đây, Thiếp dùng hiệu Qui Thiện mà cho pháp hiệu “Trường đạo Diêu Tŕ”. Thiếp lại dặn hăy lựa chọn kẻ nào đặng từ bi, bác ái, đạo đức, khiêm cung, mới đặng nhập. Hương Hiếu, con khá nhớ nghe! Thiếp xin từ giă và cảm tạ chư Hiền đồ Nam phái. Hiền đồ ráng lập công quả thêm cao có ngày vào chánh vị nghe”.


21. Bát Nương DTC 14-12-1929

Yểu điệu thuyền quyên đă tiếng rằng,

Những điều t́nh tệ lánh nên chăng;

Công làm vật dụng đừng thô kệch,

Ngôn thốt lời ra chớ cộc cằn.

Dung chớ lấn chồng làm mụ chị,

Hạnh đừng hiếp trẻ giống bà chằn;

Nghe qua đừng đến trên đem dưới,

Tọc mạch thày lay kiếm nói xằng.

  • Nguồn gốc:

Diêu Tŕ Cung Bát Nương Hớn Liên Bạch giáng cho bài thi này ngày 14-12-1929 (14-10-Kỷ Tỵ) tại Thảo Xá Hiền Cung. Bà dạy:

Em rất may mắn đặng mấy chị thương t́nh, ngặt nỗi nhớ vai tuồng Em phải diễn trong trường Đạo nầy, là phận nắm bề kích trách thói tệ tánh phàm, e khi có thế mích nhau. Em xin trước mấy chị rộng t́nh tha thứ. Đại tỷ đọc lớn cho mấy chị  nghe. Chẳng chi là lạ, biết xấu mà chừa, tốt dồi mới rạng, có xấu mới rơ giá tốt, có xấu mới biết tốt hay.

Em xin để một bài, mấy chị hằng ngày ráng đọc”.


22. Bát Nương DTC 1929

Thân phận phàm nhơn trược đă đành,
Chẳng v́ nguyệt huyết kỵ anh linh;
Âm Dương Nam Nữ hoa trêu bướm,
Hoà ái tương sanh thuỷ nhập b́nh.
Tạo hoá ví tay sanh đảnh trí,
Chúng sanh nên mặt tạo khuôn h́nh;
Thợ Trời đâu dễ chê đồ tạo,
Tốt xấu sạch dơ tại miệng ḿnh.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC cho bài thi này chưa rơ ngày nào trong năm 1929 (Kỷ Tỵ).


23. Lục Nương DTC 20-02-1931

Bóng dương tỏ rạng lố chân mây,

Đầm ấm hơi Xuân nở mặt mày;

Tranh thế bớt pha lằn bợn trược,

Cuộc đời thêm rạng vẻ thanh bai.

Trường Tiên mở rộng chơn du khách,

Nẻo hoạn buông khơi trí đặc tài;

Lọc nước rửa đời Trời để  dấu,

Riêng che Nam đảnh một cân đai.

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi “Tân Niên Khai Bút” tại Ṭa Thánh ngày 20-02-1931 (04-01-Tân Mùi) và nhắn nhủ Nữ Phái (sau khi Thu Phong bái bạch: “Hèn lâu Cô vắng đến, xin Cô chỉ giáo Nữ phái về đạo đức v́ c̣n khiếm khuyết ít nhiều): “Thưa, em cảm t́nh chị, ít lâu đây, em sẽ đến lănh phần đạo giáo. Chị em ta c̣n nhiều lối tương thân tương ái. Em xin kiếu”.

 

24. Lục Nương DTC 13-03-1931

Đă nâng dưới cánh cả giang san,

Cái gánh đồ thơ chớ ngó ngàng;

Điểm nguyệt tùy phương xây ánh rạng,

Vẽ hoa đưa gió hết trong ngần.

Nương loan mỏi cánh đà ngưng lối,

Cỡi hạc quen vui  xủ phất trần;

Đảnh ngự chia buồn c̣n có kẻ,

Bớt lo âu yếm mới an thân.

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi cho Cao Văn Pháp Quân tại Ṭa Thánh ngày 13-03-1931 (25-01-Tân Mùi) sau khi giải các câu hỏi của Ngài Bảo Văn Pháp Quân.

Văn Pháp bạch: Lúc sửa Pháp Chánh Truyền trải qua những Thiên phục của các Chức sắc, Đức Giáo Tông đặt tên măo c̣n sót măo Hiệp Chưởng của Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Qua tưởng khi để măo Hiệp Chưởng không nhằm, xin em từ bi sửa lại giùm.

(Cười) đáp: “Cái ṿng tṛn úp lên đầu mà đội là thể Nhựt h́nh, c̣n h́nh bán nguyệt của măo là thể Nguyệt tượng, vậy th́ gọi là NHỰT NGUYỆT MẠO”.

Ngài Văn Pháp bạch: “C̣n sợi dây đai của Bảo Sanh Quân có hai ṿng vô vi gọi là chi? Qua kiếm Thánh ngôn coi lại không đặng, em giúp luôn thể.

Đáp: “Sợi dây của anh Bảo Sanh là Song Quang Thần Thông”.

Ngài Bảo Văn Pháp Quân bạch: “Sợi dây đai của Qua cũng chưa biết gọi là chi mà để vào Pháp Chánh Truyền?

Đáp: “Bạch Tuyết Thần Thông”. Anh nghe và kiếm hiểu.


25. Nhứt Nương & Bát Nương 30-06-1931

Bát cú khuyên ai khá giữ ǵn,

Nương câu từ thiện nguyện tâm kinh;

Thể lê Di Thúc đời khen ngợi,

Liên chẳng nhiễm nê thế nể t́nh.

Bạch tuyết trắng phau màu chẳng thẹn.

Hoa hương muôn dặm cũng hương hinh;

Nương mây hộ giá hầu Kim Mẫu,

Minh Thiện t́nh thương rất trọng t́nh.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC và Bà Nhứt Nương DTC giáng ban thi ngày 30-06-1931 (15-05-Tân Mùi), và nhắc lạy mừng Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng đàn sau đó.


26. Bát Nương DTC 01-09-1931

Dường đợi Thanh-Loan đến Hớn-Đài,

Tửu Tiên chưa phỉ tỉnh cùng say;

Nghe danh ông Tắc y ĺa ruộng,

Lóng tiếng vua Nghiêu, Thuấn bỏ cày.

Ái vật Thành-Thang quên dở ná,

Thương dân Hạ-Vơ mặc giày gai;

Ngóng mưa đă chịu ba thu măn,

Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng bài thi cho Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông ngày 01-09-1931 (19-07-Tân Mùi). Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu cầu xin Bát Nương đề thi tiễn hành ba Đại Thiên Phong trở về Ṭa Thánh.

Đức Hộ Pháp nói:“Khi đến viếng Hội Thánh Ngoại Giáo nơi Tần Quốc (Kim Biên), sau khi xong việc Đức Quyền Giáo Tông và Bần Đạo tính về liền, tối bữa đó cầu cơ, định đến sáng lên xe đ̣, Bát Nương DTC lại giáng cho một bài thi như vầy, cốt yếu là để cầm lưu lại”. Đức Hộ Pháp giảng tại Đền Thánh đêm18-10-1952 (30-08 Nhâm Th́n) như sau:

Cặp đề hay mở: “Ư nói Đạo nơi Tần Quốc c̣n trông ngóng Đạo lư nhiều lắm. Lời thuyết Đạo chưa đủ vào đâu, phải thuyết nữa.

Cặp trạng: ám chỉ về Bần Đạo (Đức Hộ Pháp và câu hai ám chỉ Đức Quyền Giáo Tông. Cặp luận: “Ư nói đừng trở về vội và nói bổn phận của Bần Đạo và Đức Quyền Giáo Tông phải nhớ. Cặp kết:“Đạo ở Tần Quốc c̣n phải ngóng đợi như vậy đó và nói phận sự của Bần Đạo (Đức Hộ Pháp) hiện giờ”.

Dị bản:

Dường đợi Thanh-Loan đến Hớn-Đài,

Tửu Tiên chưa đủ, tỉnh cùng say...

 

27. Bát Nương Diêu Tŕ Cung 30.8.1931

Ai-Lao hương nực gió đưa sang;

Lửa tam-muội đốt tiêu gịng-khổ,

Nước tử-sanh lau sạch thiện-đàng.

Gươm-huệ chặt rời giây nghiệt-chướng,

Bầu-linh chất chứa góp sầu-than;

Đài danh ví rạng sau nên tiếng,

Cứu chúng sanh linh gắng đáng trang.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương giáng ban thi tiễn Ngạn Sơn di hành đạo tại Ai Lao ngày 30-08-1931 ((17-07-Tân Mùi). Ngài Bảo Văn Pháp Quân họa như sau:

Nặng gánh Ngạn-Sơn Đạo đă hoằng,

Ai-Lao rẽ bước dặm quan-san;

Đem gương Bác-Ái nêu sanh chúng,

Khêu-đuốc từ-bi vẹt ngút-đàng.

Chớ nệ thân vùi nơi lửa-nước,

Miễn d́u người khỏi lối bùn-than;

Đôi lời khuyến bạn xin ghi nhớ,

Son-sắc ǵn ḷng mới đáng trang.

Làm tại Kiêm-Biên ngày 30-08-1931


28. Bà Bát Nương DTC

Ai-Lao hữu quốc thật vô quân,

Bác-Ái Ngạn-Sơn đến dạy lần;

Bệ-ngọc giúp nên dồi trí-sĩ,

Biên-cương định vững tạo trung-thần.

Hoài nam tục tánh màu c̣n đượm,

Oán tặc nhiệt-tâm lửa dậy rần;

Thế-Giái đại đồng nêu chủ-nghĩa,

Làm cho Vạn-quốc nước trong ngần.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC họa nguyên vận bài thi của Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc xướng ngày 30-08-1931 (17-07-Tân Mùi) nhân Lễ tiễn hành Ngạn Sơn đi Ai Lao hành đạo. Bài thi xướng:

Thơ-diện bây giờ hóa chiến-quân,

Ai-Lao khó nhọc Đạo gieo lần;

Nước-non chủ vắng gầy nên chủ,

Dân-tộc thần côi quyết dựng thần.

Công-lư phất cờ xem nượp nượp,

Văn-minh kêu gọi sáng rần-rần;

Hễ ḷng cần quốc tua ghi nhớ,

Bước thắng trí-binh chớ ngại ngần.

*Lễ tiễn hành Ngạn Sơn đi truyền Đạo nơi Ai-Lao. Tây-Sơn Đạo (Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc) xướng bài thi “Tống-Hữu Chinh Công” .


29. Bà Bát Nương DTC 14-07-1932

Quán tục bấy chừ đặng thảnh thơi,

Phân ranh ở thế khổ theo đời;

Trái oan vấn vít nhành khuê các,

Duyên phận đeo đai đóa ngọc bồi.

Lửa kiếp hương c̣n thơm cửa Phật,

Nước duyên gọt răi ước cung Trời;

Đem thân ra khỏi phồn ba cảnh,

Dầu phải dầu than cũng hạp mùi.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng gọi Ứng Quân (Bà Giáo Sư Hương Phụng- Trần Kim Phụng) và ban cho Bà bài thi trên ngày 13/14-07-1932 (10/11-06-Nhâm Thân) tại Phạm Môn có Đức Hộ Pháp và Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng pḥ loan.


30. Bát Nương Diêu Tŕ Cung 14-07-1932

Nhẹ bước nhàn du để vẽ hồng,

Sấn tay nước Việt dậm non sông;

Châu về đất Bắc dời Kim-Khuyết,

Ngọc rạng thành Nam chuộc ải-đồng.

Mở lối đài-vân mời trí-sĩ,

Dọn đường Hồng-Lạc dắt anh phong;

Động-đào quen thú mơi chiều ngắm,

Hỏi khách tao-nhân có mặn nồng.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC hiện ra trong mộng của Ngài Bảo Văn Pháp Quân dạy Đạo và ngâm cho Ngài nghe bài thi này. Ngài nhớ chỉ chín chữ. Hôm sau 16-09-1932 (16-08-Nhâm Thân), Bà giáng cơ cho nguyên bài thi, yêu cầu Ngài Bảo Văn Pháp Quân ngâm lại cho đúng giọng Bà ngâm đêm qua. Ngài Bảo Văn Pháp Quân ghi lại trong bài phú “Trung Thu Linh Mộng” phổ biến chánh thức từ tháng 3 năm 1942 (tháng 2 Nhâm Thân).


31. Bát Nương DTC 12-02-1933

Mừng nhau v́ thấy giúp nên nhau,
Mừng Đạo từ đây đẹp vẻ màu;
Mừng xác Chí Linh thêm mănh lực,
Mừng Thần Chơn Lư đặng danh cao.
Mừng duyên nhơn loại đường tu vững,
Mừng phước nguyên hồn chẳng chút hao;
Mừng Đạo từ nay nâng thế giới,
Mừng nền chánh giáo trở thanh cao.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC ban thi ngày 12-02-1933 (18-01-Quí Dậu).


32. Bà Bát Nương DTC 06-01-1934

Đài Tần bao thuở hiệp Đông Châu,

Biển hoạn mênh mông đă đủ cầu;

Ngoài ngơ dậm vang chơn ngựa tứ,

Trong trường ré dậy cánh chim câu.

Đài mây yên để nên thanh sử,

Cửa ngơ lời khoe tận Ngọc Lầu;

Đất Việt chừ nghe câu phúc hạnh,

Xin về Nhị Thủy nhấp cần câu.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi cho Hứa Phu Nhân (Phu Nhân Ngài Phan Thanh Giản) ngày 06-01-1934 (21-11-Quí Dậu). Thật vạn hạnh cho một vị phu nhân biết giúp chồng làm tṛn nhiệm vụ cùng tổ quốc nên được đời khen tặng mà các Đấng cũng tưởng thưởng hạnh đức. Há có phải một nữ lưu gương mẫu của Việt Nam cận đại chăng?


33. Thất Nương DTC 21-05-1934

Mặn ṃi cơm mắm thắm về lâu,

Cuộc nghĩa ḱa ai chịu giải dầu;

Đốt nén hương tàn theo nến khói,

Trong h́nh cảnh cũ phế du tan.

Cuộc đời lở khóc nguồn cơn nhớ,

Gánh nợ thay duyên chớ phụ phàng;

Âu yếm nhớ khi lơ lưỡng khách,

Mà nay em trả nỗi đa mang.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương giáng dạy về “Âm Quang” ngày 21-05-1934 (09-04-Giáp Tuất) tại Giáo Tông Đường. Bà dạy:

Cháu chào Di Mẫu, mấy chị, mấy anh và vợ chồng hiền muội Ngọc Hồ. Thưa đứng dậy. Em cam thất lễ, tiếc thay em cố ư dặn trước ngày em đến đặng hội hiệp đông đủ cùng nhiều chị, nhưng pḥ loan trễ nải. Em không phương gặp đặng, nhứt là về việc Diêu Tŕ Cung bị mượn danh nơi khác mà dối gạt nhơn sanh. Cái hại ấy vốn chẳng vừa về phần tín ngưỡng, chớ chi thất tại tà quyền th́ mấy em có phương trừ khử, nhưng tại nơi Đồng th́ mấy em không phương giải nạn cho mấy người mê tín.

Thưa cùng mấy chị em, em xin nhắc nhở điều nầy. Ngày hội Ngọc Hư Cung đặng lo phương tiếp pháp của Tây Phương Cực Lạc truyền qua, em đă đặng nghe thấy những lời của Địa Tạng Vương Bồ Tát than thở rằng Ngài là Phật nên khó gần gũi các hồn Nữ phái mà khuyến Giáo cơ giải thoát mê đồ, bởi cớ nơi Âm Quang Nữ hồn c̣n bị luyến tội nhiều hơn Nam phái bội phần. Em lại nghe Người ước rằng: “Chớ chi có một đấng Nữ Tiên dám đảm đương đến phổ tế, mới mong tận độ chư vong, cửa Phong Đô thoát kiếp”. Em mới để dạ lo lường cả ḷng lẫn ái đến đó, Em đă chán thấy nhiều tội t́nh chẳng chi trọng hệ, song kiếp hồn chịu sầu thảm lạ thường. Em đă liệu nhiều phương thế từ đây cho mấy chơn hồn có bề để tránh khỏi cửa Âm Quang hăm tội. Em nên nói rơ Âm Quang là ǵ đă rồi mấy chị hiểu đặng.

Âm Quang là nơi Thần Linh Học gọi rằng État drasticité nghĩa là nơi trường đ́nh của chư hồn giải thể hay là nhập thể. Đại Từ Phụ đă định nơi ấy cho, Phật gọi là Tịnh Tâm Xá, nghĩa là nơi ấy các chư hồn đến đó đặng tịnh tâm xét ḿnh coi trong kiếp sanh bao nhiêu tội phước. Vậy nơi ấy là nơi xét ḿnh. Chớ cho cả nhơn sanh biết xét ḿnh trước khi thoát xác th́ tự nhiên tránh khỏi.

Âm Quang nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội t́nh mà phút chót biết ăn năn tự hối cầu khẩn, Chí Tôn độ rỗi th́ cũng lánh xa khỏi cửa Âm Quang lại c̣n hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn, là các chơn hồn đặng tự hối hay đặng Giáo hóa mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ, hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi. Ôi! Tuy vân hồng ân của Đại Từ Phụ như thế mà em vẫn thấy các chơn hồn bị sa đọa hằng hà mỗi ngày, xem chẳng ngớt, là tại thiếu kém đức tin và ḷng trông cậy nơi Thầy, nhứt là các Đạo Hữu tín đồ thất thệ. Em trông thấy bắt đau ḷng; phái Nữ cũng phần đông hơn hết.

Thưa cùng Di Mẫu, cháu cậy Di Mẫu lấy bài than của cháu đây dạy dùm cho nhơn sanh lánh tội th́ cháu cảm nghĩa chẳng cùng. Em Ngọc Hồ, những lời của chúng ta giao ngôn buổi nọ kết quả em há. Em phải để tâm nghe thi nầy thầm hiểu. Cười…Họ hiểu hết mà em nói lén nỗi ǵ (cười)”.

 

34. Bát Nương DTC 29-06-1935

Nương bóng thiều quang đếm tuổi đời,

Lấy cân nhựt nguyệt định tâm chơi;

Mảnh thân bảy thước trời gần xủn,

Tấm bụng ba gang đất giữa vời.

Ôm trái địa cầu xây lỏng chỏng,

hổi bay máy tạo ngất chơi vơi;

Ḍm trong thế cuộc h́nh con vợ,

Nhắm trọn nhơn sanh những vật người

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi vào ngày 29-06-1935 (29-5-Ất Hợi). Bà Bát Nương giáng cơ, Phong Chí bạch xin Tiên Cô d́u dắt cho tṛn phận sự nơi Chợ Lớn, kế Âu Dương Tu qú lạy bạch chi đó….

Bà viết: “Nhiều điều mấy anh lo lắng mà không nghĩa lư chi hết. Em nói dứt là phàm. Thôi đứng đi mà! Cười... Hễ theo nghĩ nghị cho vừa phàm tánh th́ mấy anh ở đây cho tới tận thế cũng phải nghĩ hoài. Thôi bỏ phứt đi cho khỏi nhọc trí. Làm thi chơi nè! Rồi Bà cho bài thi trên. Và dạy thêm: “Ai coi đời đáng ǵ mà làm bộ dữ vậy hử?”.


35. Bát Nương DTC 1.9.1935

Vàng ṛng bao thuở lộn cùng thau,

Đă đáng nêu gương khách má đào;

Học sách Xuân Thu chưa hết trí,

Múa gươm huệ kiếm nhượng chi đao

Thành xưa tuy chẳng so Tây tử,

Nghiệp cũ ghe phen sánh ả đào;

Ơn trọng tấm duyên chưa măn nguyện,

Đo đường sang trọng thử là bao.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi tại Giáo Tông Đường cho bà Hương Vàng vào ngày 12-09-1935 (15-08-Ất Hợi). Bà dạy: “Chị Hương Vàng, em hằng nghe chị vái em hoài, nên nay đến đền nguyện (bài thi này). Cười... Tâm t́nh đều nói đủ trong thơ ấy hết, chị nghe. Đứng dậy mà... “Em nên nói rơ rằng: Em chỉn để tâm hành đạo cho Chí Tôn. Ai đủ đạo tâm em mới để lời dặn bảo, c̣n chị nào lỏng lẻo th́ em chẳng dám thốt lời, xin đừng phiền em tội nghiệp!”.


36. Bát Nương DTC 12.9.1935

Tịnh đường mặc kệ bóng mây qua,

Gắng lượm hồng ân lúc tuổi già;

Lộc thế đă thừa mùi mặn lạt,

Duyên trời vui giữ chớ sai ngoa.

Đôi câu kệ Phật trừ oan nghiệt,

Vài phép Tiên giao để khử tà;

Nước đục lóng trong toan lánh bợn,

Cừu y đành đổi mảnh cà sa.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi tại Giáo Tông Đường cho bà Hương Tịnh vào ngày 12-09-1935 (15-08-Ất Hợi). Hương Tịnh, em gởi thi nầy cho Nhị Tỷ, v́ người cầu xin.


37. Bát Nương DTC 12-09-1935

An nhàn từ đấy giữ khuôn viên,

Đă trót đem thân gởi cửa chiền;

Rộng hẹp đường đời e ngán bước,

Thung dung cửa Đạo khá tầm duyên.

Mảnh trăng dầu cũ gương c̣n tỏ,

Bóng nước kia xao lượn vốn liền;

Học thử Mạnh Quang c̣n tích để,

May ra chồng Phật, vợ nên Tiên.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi tại Giáo Tông Đường cho bà Nguyệt An vào ngày 12-09-1935 (15-08-Ất Hợi). Em Nguyệt An, chị đă không uổng lời dạy em buổi trước há? Cười... Tuy vân có phạm mà cũng có công biết sám hối là điều hậu phúc. Cười... Mấy người bên nam, có nhiều em đáng thương lắm, song chị th́ có tánh gắt, nên đợi cho mấy em thiệt thèm, cầu xin cho dữ, rồi chị mới cho kẹo. Tháng 10, chị trở lại nữa”.


38. Bát Nương DTC 17-09-1935

Để coi ai dở với ai hay;

Năm xe kinh sử đưa rồng Hớn,

Ba lược thi văn chiến hổ bài.

Niêm luật Châu đề chờ khảo lịnh,

Quyển chương Tấn pháp đợi hùng oai;

Nhập vi cử sởi bao nhiêu mặt,

Đến trước Bát Nương chiếm vơ đài.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cơ ban thi tại Thánh Địa Bạch Vân, Nam Vang, buộc các Chức Sắc Hội Thánh Ngoại Giáo họa vào ngày 17-09-1935 (20-08-Ất Hợi). Bà dạy:

Ai đây há? Không biết em vô duyên thế nào mà nhiều người cừu hận quá! À! Em tưởng tại nơi một bạn quần thoa khó sánh tài tu mi nam tử nên mới ra t́nh lănh đạm chăng? Có người sợ với lỗ miệng mà thôi. Thi nè! Ôi mà khoan đă, hễ xướng th́ có họa, chớ một ḿnh lănh vai đào kép th́ vui chi pḥng thi phú chớ! Anh Nhàn Tịnh đâu? Em c̣n nhớ mài mại ông Cử buổi nọ. Ôi! Lịch sự chi cái khăn mà sửa soạn anh. Em hỏi anh chịu giúp em một việc không? Không chi khó.

Nhàn Tịnh bạch: “…”.

Bà dạy tiếp: “Duy coi chừng giùm mấy ông Cử làm thi họa bài của em đừng trốn mà thôi.... Học họa đi em Lợi”.


39. Bát Nương DTC

Quen chiều non nước lúc xuân xanh,

Tên tuổi đài mây đă sẵn dành;

Lộc thế rẻ mùi chê mặn  lạt,

Ơn Trời nên phận gắng đua  tranh.

Lẫy lừng cánh hộc xông trường vơ,

Đầm ấm duyên loan để chí thành;

Vùng vẫy vơ môn qua mấy cấp,

Soi tâm đêm quạnh phó Trường Canh.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi tại Thánh Địa Bạch Vân, Nam Vang cho Ông Hiển vào ngày 21-09-1935 (24-08-Ất Hợi). Bà dạy:

Em chào mấy anh. Có Lục Nương và Anh Què (Lư Thiết Quài là tiền thân ngài Lê văn Trung). Cười... Khí ạ! Chị thấy người ta ăn gian em nên đến hỏi em muốn làm Giáo Sư không? Chị lo cho... Thang ham chức quá phải chơi! … Đây em mới hỏi Đức Hộ Pháp, vậy chớ anh cầu phong cho ai lên chức Giáo Sư nam?

Đức Hộ Pháp: “… “. “Phải. C̣n nữa?”. “Phải. Nghĩa là anh đă xin cho 3 người, duy có Từ Huệ bị bác, c̣n hai người kia đặng chớ? Vậy th́ mấy anh cả tiếng kêu em Khí và chị Huê là Giáo Sư giùm coi”. Phong Chí bạch: “…”.

Nè anh Gió, tôi không cầu anh nghe không. Em Hiển, Qua mừng cho em đó. Em muốn kẹo phải không? qú đó em. Thi nè (cho bài thi trên cho Ông Hiển). Em nhớ lời chị dặn, gắng trọn trung trọn hiếu nghe!”.

 

40. Lục Nương DTC 21-09-1935

Trường công đă vững tuyển hiền tài,

Thống nhứt quyền hành ở một tay;

Lượn sóng xu danh khi đă lặn,

Câu tiên độ thế đă cao bay.

Cầm gươm huệ chiếu thanh đường tục,

Nắm kiếm phong vân diệt cảnh đài;

Lũ kiến cḥm ong xa cửa Đạo,

Chỉ lo định vị các tôi ngay.

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi tại Thánh Địa Bạch Vân, Nam Vang vào ngày 21-09-1935 (24-08-Ất Hợi).


41. Bát Nương DTC 28-09-1935

Đă cạn lời khuyên tự buổi nào,

Rằng đừng buộc nợ cơi thương đau;

Tri Thiên rắp đến vô công nghiệp,

Hữu hậu gần xem đậm vẻ màu.

Phấn trước đă phai t́nh nghĩa trước,

Hương sau c̣n phất đức tài sau;

Nặng mang nỗi nợ phong lưu cũ,

E nỗi đường tu phải chịu sầu.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi cho bà Ứng Quân vào ngày 28-9-1935 (01-09-Ất Hợi) tại Thánh Địa Bạch Vân nhờ bà Hương Nhâm trao lại. Bà dạy thêm: “Em nói rằng trời chiều dành để mỗi tội mỗi h́nh, khá giải tội, h́nh kia phải dứt”.


42. Bát Nương DTC 28-09-1935

Quê người đơn chiếc lại riêng t́nh,

Non nước bây chừ đă lịch xinh;

Dặm gió kư kỳ xông gió buộc,

Đài mây cù cá thoát biên đ́nh.

Lửa hương đă bén công Như Tử,

Quyền quí thêm xuê phận Khổng Tŕnh;

Dầu chịu đ̣i phen truân chiếc dạ,

Xin theo đường Thánh bước thân sinh.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi cho bà Ứng Quân vào ngày 28-09-1935 (01-09-Ất Hợi) tại Thánh Địa Bạch Vân. Bà dạy: “Em v́ từ tâm để bài thi nầy, ai hiểu tâm sự ḿnh th́ lănh lấy”, khi Bà mới làm câu đầu th́ có vị thi trọng lễ nên Bà viết: “Thiếp cám ơn trọng lễ, xin thứ lỗi”.

Bà dạy thêm sau khi viết tiếp bài thi: “Em cho hay rằng: Đau đôi lát đây rồi sẽ an vui đặng và nạn ách khổ tâm sẽ giải khỏi, đừng ưu tư ưu lự v́ mạng Trời định vậy”.


43. Bát Nương DTC 12-11-1935

Cầm mối Thiên thơ đă phải hồi,

Định an hoàn vơ một ḿnh thôi;

Xô non tuy chẳng tài ông Bá,

Dựng núi đă hay phép chú Hồi.

Thẳm thẳm ngàn trùng ḱa Ngọc các,

Vơi vơi muôn dặm ấy Thiên lôi;

Chuyển luân cơ tạo quyền dự trữ,

Nương phép thiêng liêng gánh nghiệp Trời.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi này cho Đức Hộ Pháp vào ngày 12-11-1935 (17-10-Ất Hợi) tại Hộ Pháp Đường. Bà căn dặn thêm: “Cả Diêu Tŕ Cung (DTC) đều mừng cho danh thể Hiệp Thiên Đài, nhứt là Phật Mẫu th́ hơn hết, nên vội vàng tư mật ư qua Thái Thượng Lăo Quân cám ơn người đă để ư chí vào Ngọc Hư Cung lúc trước. Em nên dặn anh nhớ bài thi của Lịnh Mẫu gởi cho  anh  buổi  nọ  đa  nghe. Anh cứ do nơi Đức Giáo Tông Lư Thái Bạch Giáo Tông mà cầm quyền trị thế th́ sẽ đắc thắng, chẳng chi pḥng ngại. Nghe bài thi nầy và giữ  y nguyên sở vọng của anh  th́  nên  việc cả”.


44. Bát Nương DTC 28-12-1935

Ḍng là ánh nguyệt chiếu trong veo,

Lặng lẽ thuyền côi lỡ nhịp chèo;

Lững chững trôi theo chiều lượn sóng,

Lỡ làng quày quả liệng đường neo.

Giục sầu đêm quạnh nghe ngư phủ,

Gợi thảm sương mơi giục trở lèo;

Ôm ấp t́nh chung trời một góc,

Hỏi mưa nhắn gió biết đâu theo.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi này cho Sĩ Tải Kiết ngày 28-12-1935 (03-12-Ất Hợi), sau khi hỏi đáp về đạo. Bà giáng đặt câu hỏi: “Tu đặng làm ǵ ?” và các vị Chức Sắc Hiệp Thiên Đài có mặt trả lời. Bà dạy:

Nè, mấy ông tṛ khóa, hễ tu th́ tự giải tự giác, hễ c̣n một điểm biết ḿnh th́ là vị thân, c̣n một mảy biết người th́ là vị thế, hai lẽ ấy vốn không theo chơn đề tu niệm. Hỏi giáo truyền trả lời như vậy th́ trúng, hỏi tu niệm th́ trả lời như vậy th́ trật. Theo thiếp nói th́ thiếp trả lời như vầy: “Tu đặng trau ḿnh theo ông Trời, đặng giống Trời là đủ lư”.

Bà dạy thêm: “Bạn của em vừa vào Cung Vạn Pháp, nhưng c̣n vương vấn t́nh đời nên chưa giải thể, lập vị chưa đặng. Em khuyên người cha gắng tâm thành niệm th́ họa may khỏi chuyển kiếp luân hồi, chớ không chánh đáng như vậy hoài th́ buộc ràng thêm oan nghiệt”.


45. Bát Nương DTC 08-02-1936

Rảnh rồi sự thế đặng an nhàn,

Dầu chẳng hơn ai cũng mặt quan;

Cửa Thánh đă từng đưa gót liễu,

Pḥng Ngô lắm lúc đợi roi vàng.

Công hầu trước cửa c̣n trông mặt,

Đài các đường xưa để tấc gang;

Lượm ngọc non Nam chưa mấy quí,

Thà cam nấu đá vá giang san.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cho bà Hương Lộc bài thi vào ngày 08-02-1936 (16-01-Bính Tư) tại đàn cơ Hộ Pháp Đường. Bà dặn thêm: “Em Hương Lộc, chị cậy em một việc nghe không. Em ráng lui tới chơi với sắp con của cụ Hoàng Trọng Phu  làm dây liên lạc, đặng chị độ nhà đó, em nghe. Chị cho em bài thi nầy riêng kiếm hiểu tứ”.


46. Thất Nương DTC 08-02-1936

Cái nghĩa nhơn luân vốn luật Trời,

Chẳng v́ cảnh tục phải lưng vơi;

Câu kinh cửa Khổng dường non Thái,

Tiếng kệ đời Nghiêu giống đảnh Kỳ. (Đọc. Cười . . .)

Ước hiệp Quan Trường nên Thánh vị,

V́ xa Nghĩa Đế chịu ĺa ngôi;

Trăm năm trọn kiếp bền che đậy,

C̣n có Chí Tôn với mắt Người.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương DTC giáng cho bài thi này vào ngày 08-02-1936 (16-01-Bính Tư). Bà dặn riêng hai vị Hương Hiếu và Hương Nhiều:

Đại tỷ, Nhị tỷ, Hai chị nghe em nói: Nhị vị bá mẫu, nhờ có hồng ân Chí Tôn và em hết tâm điều độ nên đă vào An Lạc Cung rồi. Hai chị  an ḷng lo lập công bồi đức thêm  nữa. Hai chị đ̣i phen làm cho em thương tâm và Cao Thượng Phẩm  rơi  lụy v́ không thuận nhau. Cho em  xin  điều  ấy nghe hai chị”. An Lạc Cung ở Lục Thiên. Em ít  thường đến, đáng  lẽ hai chị nhớ thương em th́ cũng  cùng thương nhau mới phải. Xin hai chị  đừng hoài t́nh mà ngày về thiêng liêng thẹn mặt  nghe”.


47. Bát Nương DTC 23-09-1942

Thu về thắm thoát kế thu qua,

Thu hỡi chừng nao định chánh tà;

Thu đạm non Âu lằn ác xế,

Thu treo đảnh Việt bóng trăng già.

Thu c̣n nung-nấu ng̣i binh lửa,

Thu tỏa đ́u-hiu dặm hải-hà;

Thu trước thu nầy bao kẻ biệt,

Thu sầu gượng nhắn khách đường xa.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương họa nguyên vận bài thi “Bi Thu Vấn Nguyệt” của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu ngày 23-09-1942 (14-08-Nhâm Ngọ).

Bài thi xướng của Ngài Bảo Văn Pháp Quân như sau:

Thử hỏi thu nồng đă thoát qua,

Thu sang thu trở đến thu tà;

Đường thu Cung-Quảng bao nhiêu trải,

T́nh thế Hằng-Nga chẳng thấy già.

Gương đă làu-soi bầu thế-giái,

Nguyệt sao ảm-đạm nẻo quan-hà;

Đạo tràng ngẩn lối trông tin nguyệt,

Nguyệt vẫn lu-lờ lánh dạng xa.


48. Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung

Những là khổ nhọc chịu cơ đời,

Hạnh phúc thử nh́n đă mấy mươi;

Vinh nhục đ̣i cơn vui lẫn khóc,

Ghét thương lắm lúc giận pha cười.

Đường tâm tự tỉnh chơn ra giả,

Nẻo đức gồm theo thiệt hóa chơi;

Thoát tục ví ai t́m nẻo Thánh,

Biển mê lướt sóng đến ven Trời.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung họa nguyên vận bài thi của Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (Chánh Đức-Huyền Quang) xướng bài thi “Luận Cơ Đời” này lâu trước 1945. Bài thi được họa nguyên vận bởi Bà Giáo Sư Hương Phụng (Ứng Quân), Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang (Thanh Thủy) và Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung.

Ngài Bảo Văn Pháp Quân nhận bốn bài thi từ Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang (Thanh Thủy) ngày 09-01-1945. Ngài viết trong Bút Kư: “Bốn bài thi này tại Kiêm Biên đă lâu nhưng Thanh Thủy mới trao cho ngày 9 Janvier 1945”.

Bài thi xướng của Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (Chánh Đức-Huyền Quang) như sau:

Thay đổi tang thương tỷ cuộc đời,

Chuyển xây ṿng thế biết bao mươi;

Cợt tṛ huyển mộng, người khôn dại,

Thử thách nhơn gian tiếng khóc cười.

Lừa lọc khuôn linh đâu cũng thiệt,

Sắp bày cơ tạo há rằng chơi;

Vẫy vùng cho khỏi lằng vay trả,

Đến cửa vĩnh-sinh mới thấy Trời.

Bà Giáo Sư Hương Phụng (Ứng Quân) họa nguyên vận như sau:

Đon hỏi cùng ai cuộc ở đời,

Tẻ vui ḥa lẫn mấy nhiêu mươi;

Gặp thời tranh cạnh say rồi tỉnh,

Nói chuyện tang thương khóc gượng cười.

Hư thiệt tṛ đời mua cũng rẻ,

Lợi danh choán thế nghĩ mà chơi;

Nào ai muốn biết cơ mầu nhiệm,

Thử bước non cao thấy tột Trời.

Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang (Thanh Thủy) họa nguyên vận:

Trót đă sanh ra ở cơi đời,

Trăm phần phải khổ đủ mười mươi;

Vai tṛ chửa măn c̣n vinh nhục,

Nắm đất vùi chôn dứt khóc cười.

Xạo xự công khanh tàn giấc mộng,

Cạnh tranh phú quí cũng tṛ chơi;

Khổ đời ví muốn t́m phương thuốc,

Lánh bến mê tân núp bóng Trời.

Cao Thanh Thủy

Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu (Cao Liêng Tử) họa nguyên vận:

Dừng chơn toan hỏi thử tṛ đời,

Ngảnh lại tuổi đầu đă sáu mươi;

Thấy nẻo công danh thêm chán ngán,

Ḍm gương phú quư bắt buồn cười.

Đai cân mượn vẻ như con hát,

Chung đỉnh bày tṛ ấy chuyện chơi;

Sao bẳng đưa chơn theo hạc nội,

Ven mây lần bước đến thang Trời.


49. Bát Nương DTC 10-09-1946

Đào-nguyên lại trổ trái hai lần,

Ai ngỡ Việt-Thường đă thấy lân;

Cung-Đẩu vít xa gươm Xích-quỉ,

Thiềm-Cung mở rộng cửa Hà-ngân.

Xuân Thu định vững ngôi lương-tể,

Phất-Chủ quét tan lũ nịnh thần;

Thổi khí vĩnh-sanh lau xă-tắc,

Mở đường quốc-thể định phong-vân.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung giáng trong đàn cơ do Đức Hộ Pháp, Ngài Văn Pháp pḥ loan cho bài thi này ngày 10-09-1946 (15-08-Bính Tuất) và dạy: “Xin mấy anh nối điêu”.

Bút Kư Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu ghi ngày 09-09-1946 (14-09-Bính Tuất), có lẽ tối 14 rạng rằm 15-08-Bính Tuất (10-09-1946).

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu dạy Cửu Nương giáng ban cho các bài ngày 10-09-1946 (15-08-Bính Tuất) tại Ṭa Thánh. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu dạy:

Thiếp chào chư  Thiên mạng nam nữ. Thiếp xin tỏ đôi lời cùng Ngự Mă Thiên Quân Hộ Pháp. Từ ngày Thiếp đến chung cùng chư Thiên mạng đến nay th́ tính đă 20 năm có lẻ, chỉ lấy t́nh thân ái thiêng liêng mà xưng hô cùng nhau là v́ Thiên thơ tiền định. Thiếp đến d́u đường cho con cái Chí Tôn đến ngày thành Đạo. Ngày nay đă đúng kỳ sở định, Thiếp mới đặng quyền nh́n nhận con cái của Thiếp. Vậy từ đây, Thiếp chỉ dụng lời chí thiết yêu đương, là Mẹ con tương hội. Vậy chư Thiên mạng đừng phiền Thiếp nghe!

Hộ Pháp xem bài văn Thiếp mà nghĩ đến t́nh trạng của Diêu Tŕ Cung đau thảm đến dường bao, khi con mông trần buổi nọ. Cửu Nương nối điệu toàn văn động đ́nh.  Các con nữ phái b́nh thân”.

Theo lịnh Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, Nhứt Nương DTC khởi bài Văn và tám vị “Tiếp Văn” theo thể thơ song thất lục bát.

Sau đó, Cửu Nương DTC nhượng bút cho Bà Bát Nương DTC ban riêng thêm bài thi tám câu thơ bảy chữ (Thất Ngôn Bát Cú) trên. Ư nghĩa như sau:

- Trổ trái hai lần: Thánh-Thi của Đức-Lư cho Đức Hộ-Pháp có đoạn:

Nhị kiếp Tây-Âu cầm máy tạo,

Hữu duyên Đông-Á nắm Thiên-Thơ.

Ư nói Ngài Ngự-Mă Thiên-Quân có hai kiếp: tiền kiếp là Chúa Jesus mở Đạo ở phương Tây; kiếp này đầu thai ở Việt Nam là Phạm-Công-Tắc, được Hộ Pháp Di Đà giáng linh, giao cho Ngài nắm Thiên Thơ, giữ chức Hộ Pháp hữu h́nh  mà mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ở vùng Đông Á.

    • Thấy Lân: Sách Khổng-Tử có câu: “Kỳ Lân xuất hiện quốc gia thái b́nh”. Bà nói khó mà tin rằng Việt- Thường thái b́nh. Thế mà nay Đức Chí-Tôn cho nền Đại- Đạo-Tam-Kỳ là sẽ được thái b́nh đó.

    • Cung Đẩu: Tức Đẩu Xuất do Đức Di-Lạc chưởng-quản. Hộ-Pháp có nhiệm vụ đuổi tà trục tinh ở cơi Tây-Phương Cực-Lạc.

    • Xích quỉ: Chỉ phía Kim-Quang-Sứ (Bắc-Cù Lưu-Châu)

    • Thiềm-Cung: Cơi Tạo-Hóa của Phật Mẫu mở rộng cửa để đón các Chơn-Linh đạt Đạo từ khắp nơi trong càn khôn vũ trụ về hiệp với Mẹ.

    • Xuân-Thu: Sách củạ Khổng-Tử dùng cai trị dân. Xưa Ngài làm đến chức Tể-Tướng. Nay Xuân-Thu là một trong các cổ Pháp của Đạo Cao Đài, chỉ hành tàng của Cửu-Trùng-Đài Hành-Chánh-Đạo.

    • Phất-Chủ: Bửu Bối của Lăo-Tử trị loạn, Ngài ứng hóa Tam Thanh phá trận Vạn-Tiên, diệt trừ triệt giáo.

Nay Hộ-Pháp lănh chưởng quản Nhị-Hữu-H́nh-Đài, do đó Đức Ngài phải thực hiện hết Cổ Pháp: Xuân-Thu, Phất-Chủ, Bát-Vu để bảo vệ đất nước và bảo vệ nền Đại- Đạo.

Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc họa nguyên vận như sau:

Chông gai đường Đạo mảng ḍ lần,

Từ bước ta bà trở cố lân;

Biển Thái vừa êm hơi súng nổ,

Gành Nam kế lóng tiếng chuông ngân.

Buồm thuyền tế độ xao mơ mộng,

Gió hạc chiêu Tiên giục định thần;

Cam Lộ ḱa ai dành để sẵn,

Cầm dương rửa sạch nét phù vân.

Phạm Hộ-Pháp

Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang họa nguyên vận như sau:

Dựng gầy Xă Tắc bấy nhiêu lần,

Mong mỏi vùng Nam đặng thấy lân;

Đảnh Việt Trời che ǵn cảnh trí,

Thuyền sen Đạo vững lướt ḍng ngân.

Đài-Hoa soi-tạc gương anh tuấn,

Thiên khiển dành riêng đám tội thần;

Gặp phải nước nhà cơn loạn lạc,

Làm trai tua vẹn chí thanh vân.

Cao Thượng-Sanh

(bản chép tay)

Bộ Y tiền vận:

Vận nước trung hưng đă mấy lần,

Gặp hồi đời đạo phải tương lân;

Đời nung khí phách qua vùng khổ,

Đạo vẹt mây mù rạng bóng ngân.

Lập chí xa Châu gương nghĩa-sĩ,

Tiếc lời giúp Ngụy phận hàng-thần;

Hiệp đồng kết chặt giây thân-ái,

Đảnh Việt làu khoe sắc thoại-vân.

Cao Thượng-Sanh

(bản chép tay)

Ngài Tiếp-Đạo Cao-Đức-Trọng họa nguyên vận và thuận nghịch đọc như sau:

Qua Thu bước khổ cảnh thay lần,

Trị quốc điềm đem hiện thấy lân;

Ḥa-ái chạm gương nêu trước-tử,

Nghĩa-nhân bia dấu tạc kiều-ngân.

Ca hoàn Việt, lập an ngôi Thánh,

Định đảnh Nam, vang tiếng hạc thần;

Nhà, Nước, Đạo xong gầy phúc hậu,

Hoa-tiên bức chép rạng đài-vân.

Cao Tiếp Đạo

Vân Đài rạng chép bức hoa tiên,

Phúc hậu gầy xong Đạo nước nhà;

Thần hạc tiếng vang Nam đảnh định,

Thánh ngôi an lập Việt hoàn ca.

Ngân kiều tạc dấu bia Nhân-Nghĩa,

Tử trước nêu gương chạm ái-hoà;

Lân hiện thấy đem điềm quốc trị,

Lần thay cảnh khổ bước thu qua.

Cao Tiếp Đạo

Bộ Y tiền vận:

Thấm giọt nhành-dương đă mấy lần,

Nghiệp trần mừng đặng dũ lâng-lâng;

Phướn-linh quét sạch lằng vân ám,

Đuốc-huệ soi ḷa dặm hải-ngân.

Nhân-nghĩa lập nên an Xă-Tắc,

Phước-duyên bủa đức vũng tinh-thần;

Trường tiên nhắn-nhủ ai nong-nả,

Tẻ nẻo trần-hoàn đón Bạch-Vân.

Cao Tiếp Đạo

Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu họa nguyên vận như sau:

Đuốc Đạo sáng soi đă mấy lần,

Hỡi người thiền thị chí thôn lân;

B́nh tâm tịnh mẫn trau gương huệ,

Tŕ chí thanh cao lóng tiếng ngân.

Chuông Thánh trí hồn reo đảnh Việt,

Thang mây đưa bước đến non thần;

Vầy đoàn hồng lạc cùng tay nắm,

Lũ lượt kéo vào động Bạch vân.

50. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 30-01-1947

Lượng sóng đời kia khó định chừng,

Vườn Xuân khô lá khó trông Xuân;

Hiên mai gió tạt nghiêng rèm hạnh,

Giậu tối trăng soi đổ bợn trần.

Tiếng hạc kêu vui xa thẳm thẳm,

Hơi quyên chào thảm lóng gần gần;

Chờ xem thế cuộc tùy duyên phận,

Đừng tính đeo mang gánh nợ trần.

  • Nguồn gốc:

Đức Phật Mẫu giáng ban cho bài thi này vào ngày 30-01-1947 (09-01-Đinh Hợi) tại Ṭa Thánh và dạy:

Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn, Mừng các con. B́nh thân. Các con chưa rơ cái mùi phú quí cao sang nơi thế nầy là cái bẫy để gài những bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải sa đọa không mong đắc quả. Bởi cớ ấy mà đứa nào đặng hưởng lộc cao quyền cả th́ Mẹ lại lo cho đứa ấy sẽ quên cội bỏ nguồn, đành thả trôi chơi vơi nơi bể thảm. Trong đám nầy chỉ có một số ít đứa biết hối ngộ tu tâm, chun vào cửa Phật. Cũng lắm đứa miệng niệm Nam mô mà ḷng lại cay nghiệt đè ép kẻ yếu thế cô, đương thâu của bá gia về tấn cúng, ḷng ham tưởng chúng khen ngợi mà không kiếm hiểu câu tội phước công b́nh kia. Trời Phật, Thánh Thần chẳng đ̣i, không biểu lễ cúng chi cả. Các con v́ ḷng tín ngưỡng, chẳng biết điều chi, tạm dùng lễ để cung kính, rốt lại để khoe ḿnh và để ch́u theo thói phàm tục. Các con hiểu Đạo, Mẹ chẳng nói nhiều, các con khá suy nghĩ. Chư Tiên, chư Phật cùng các Đấng Thiêng liêng chỉ dùng Tâm trong sạch, tín ngưỡng kỉnh thành, ấy là một vật báu để hiến lễ đó. Trên Thế, cũng chẳng khác chi trên sân khấu, sắp cho đủ lớp, nào là trung nịnh, hiền dữ, chen lấn múa men, la gầm, than thở, rốt cuộc bôi mặt th́ đứa nào cũng ra đứa nấy. Dầu các con đặng địa vị cao sang thế nào cũng chẳng nên tự kiêu tự đắc, húng hiếp những đứa thấp hèn. Các con ráng ẩn nhẫn, hằng ngày bền chí trau tâm. Chỗ Hằng sống là nơi căn cội của các con. Vậy các con cũng chẳng nên quyến luyến thế đời mà quên cựu vị nghe!

Mẹ mừng đặng thấy các con hội hiệp với nhau. Vậy các con hăy nắm tay nhau cho chặt chẽ, đi cho vững. Mẹ ban ơn cho cả Nam Nữ”.


51. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 22-02-1947

Chờ về vắng bặt tiếng thu qua,
Tiếng nhạn kêu sầu tiếng thiết tha;
Vườn trước ngơ trông cây liễu rủ,
Non xưa chạnh nhớ bóng trăng tà.
Thi đề thảm, lóng hơi oanh thán,
Cầm trổi buồn, nghe tiếng dế ḥa;
Dặm thẳng lương nhân xin khá gắng,
Đường dài nghĩa nọ dễ đâu xa
.

  • Nguồn gốc:

Đức Phật Mẫu giáng ban cho bài thi này trong đàn cơ tại Báo Ân Từ vào ngày 22-02-1947 (02-02-Đinh Hợi). Đức Phật Mẫu dạy: “Mụ chào các con. Mừng. Mụ lấy làm thậm cảm t́nh, mặn nồng, hiếu hạnh của các con, nhứt là Hộ Pháp, đă lập nên Đền Thờ trọng hậu. Cả Diêu Tŕ Cung đều để lời cảm ơn.

Nữ phái các con. Kể từ đây, đă có nơi Mẹ con hội hiệp. Khá nên để trí tưởng rằng, chẳng buổi nào MẸ không ở gần các con, chung chia đau thảm, chỉ xin các con có một điều trọng yếu là các con phải tập tánh ḥa nhă, yêu ái  lẫn nhau mà chia buồn sớt thảm cùng nhau, ấy là  lễ hiến cho Mẹ quí hóa hơn hết. Nếu biết thương yêu th́ chẳng có chi hơn là dạy dỗ  trẻ thơ đặng khôn ngoan đạo đức. Nếu Mụ c̣n điều ước vọng th́ chỉ trông Ngự Mă Thiên Quân giúp Mụ thường thường cơ bút đặng dạy dỗ nữ phái.

Đức Phật Mẫu dạy thêm: “Theo ư Mụ th́ chẳng nên làm lễ Mụ trong thời Tư, e cho thất lễ với Từ Bi. Vậy nên sửa lại: trong giờ Ngọ, Sóc Vọng cho có thế con cái của Từ Bi dâng lễ cho Người”.


52. Đức Diêu Tŕ Nương Nương 29-09-1947

Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,

Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm;

Tâm Thành ắt đoạt đường tu vững,

Tâm Chánh mới mong mối Đạo cầm.

Tâm Ái nhơn sanh an bốn biển,

Tâm Ḥa Thiên hạ trị muôn năm;

Đường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,

Có buổi hoài công bước Đạo tầm.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng ban bài thi này vào ngày 29-09-1947 (15-08-Đinh Hợi). Đức Phật Mẫu dạy:

Đời hay Đạo cũng vậy, muốn lập nền tảng cho sự thái b́nh, phải cần lập Tâm cho chơn chánh, đĩnh đạc, để gieo sự ḥa nhă yêu đương, rồi mới mong tề gia, trị quốc. Bạo tàn áp bức, oai vơ chế kềm, chẳng qua là tạo cảnh khổ về sau, không thể trường tồn. Vậy cần trau chữ Tâm cho lắm. Cái thất bại của Đạo và Đời vừa qua là nơi kẻ cầm quyền không trọn Tâm đức và nếu được ḥa hiệp thành một khối chặt chẽ, th́ các con mới  d́u dắt  nhơn sanh khỏi lo  lầm lạc.

Mẹ khuyên các con, dầu Hiệp Thiên hay Cửu Trùng, nên gắng sức lập Tâm, đặng để công vào Đạo. Mẹ để lời dưới đây cho các con dùng làm chuẩn thằng trong bước Đạo (Đức Phật Mẫu ban thi trên).

Hăy suy nghĩ và thật hành bao nhiêu đó, các con sẽ đắc đạo tại thế vậy. Mẹ ban ơn cho các con”.


53. Bát Nương DTC 12-12-1947

Kỷ niệm đề thi chúc tỷ nương,

Vui say lễ thọ rất phi thường;

Tinh thần một thuở đầy hoan lạc,

H́nh thể trăm năm đủ thái bường.

Đáo tuế mấy ai so sánh kịp,

Lục tuần nào kẻ dám phô trương;

Tặng cho bốn chữ: trường sanh bất ...

Kỷ niệm đề thi chúc tỷ nương.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi chúc mầng thọ Bà Hương Hiếu trong đàn cơ tại Giáo Tông Đường ngày 12-12-1947 (01-11-Đinh Hợi) và dạy:

Chào các anh, các em nam nữ. Nơi Diêu Tŕ Cung  rất vui vẻ  được thấy đại tỷ hưởng trọn hạnh phúc buổi sanh tiền. Tiếc ǵ em không được dự cuộc vui trong lúc nọ. Vậy cũng chúc tặng một bài thi nguội (Bài thi trên và bài thi dưới đây):

Tỷ nương khá khai đường tỏ rạng,

Pḥng dắt d́u các bạn nữ nhi;

Chờ ngày mở hội khoa thi,

Ắt là chiếm đặng một kỳ công cao.


Khuyên nữ phái khá mau sửa tánh,

Trau tria sao như ánh trăng trong.

Mới không hổ phận quần hồng;

Để làm khuôn mẫu đại đồng soi gương.

Đừng xem tánh đức coi thường.

Thôi, em có mấy lời chúc tụng đại tỷ để làm kỷ niệm với các bậc thi hào, lại cũng là kỷ niệm lễ lục tuần của đại tỷ. Xin chào các anh chị”.


54. Bát Nương DTC 6.9.1950

Mặt nước long lanh rọi bóng thuyền,

Ánh trăng lố dạng bóng nghiêng nghiêng;

Buông cần trúc ngấm theo ḍng nước

Hứng gió thu đưa khép mọi miền

Sông Vị Ḱnh Ngư khi có nhớ,

Lưỡi câu Khương Tử sử c̣n biên;

Nào ai muốn biết trần gian sự

Trông mấy đường câu cũng rơ liền.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nuong DTC giáng cho bài thi này ngày 06-09-1950 (05-08-Canh Dần). Ngài Giám Đạo Phan Hữu Phước họa nguyên vận lại như sau:

Mênh mang mặt nước đỡ con thuyền,

Lượn sóng lô nhô mặt ngửa nghiêng;

Gió lướt đầu gành chim dấu bóng,

Trăng soi đáy nước cá về miền.

Buông cần những tưởng bờ sông Vị,

Cập bến buồn trông chốn hải biên;

Lẵng lặng nh́n trời xanh nước biếc,

Vần mây lơ lửng thoáng qua liền.


55. Bát Nương DTC 12-12-1950

Đường đạo d́u nhau chuộng chữ ḥa,

Tiết trinh trong sạch giống ḍng ta;

Học tài tô điểm vinh hồn nước,

Lập đức hằng lo giữ nghiệp nhà.

Yểu điệu trau ḿnh nên giá ngọc,

Thuyền quyên vẹn phận đẹp thân ngà;

Nghĩa nhân nên tạc gương kim cổ,

Đường đạo d́u nhau chuộng chữ H̉A

  • Nguồn gốc:

Bát Nương DTC giáng ban thi ngày 12-12-1950 (04-11-Canh Dần), Bà đồng thời dạy nữ phái:

Chào các em nam nữ. Chị thấy rơ ít em nữ phái nơi đây, nhưng khẩn cầu nhiều việc. Vậy chị dạy cho đôi điều và một bài thơ mà chị dặn mấy em đem cho chung đoàn nữ phái. Phần đông nữ phái c̣n thấp thỏi về việc học hỏi, vậy chị khuyên các em phải cố gắng lo lường cho mở mang thêm. Nghĩ lại, Đức Chí Tôn lấy sự ḥa nhă thương yêu mà nắm mảnh h́nh hài của chúng ta th́ chúng ta nên theo đó mà làm cho vừa Thánh ư của Ngài. Đó, các em phải tập tánh như chị đây th́ muôn việc đều yên và khỏe tâm.

Nhớ cho các em nữ phái nghe chung. Chào các em”.


56. Bát Nương DTC 17-12-1950

Cái hư cái thiệt đoán sao ra,

Thiệt thiệt hư hư vẫn đó mà;

Muốn lợi ham danh, danh phải mất,

Mến hiền ưa Đạo, Đạo càng  ra.

T́m Hư trong Thiệt, Hư đà đáng,

Kiếm Thiệt ngoài Hư, Hư vẫn ḷa;

Thương bấy nhiêu trần đành bỏ thiệt,

Nhớ rằng Hư, Thiệt vẫn do ta.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi vào ngày 17-12-1950 (09-11-Canh Dần) và dạy phái Nữ:

Các em phải ráng rèn luyện tánh đức cho đúng bực nữ lưu đặng làm gương sáng cho mấy em chúng ta noi chung. Chị vẫn hằng thấy trong các em có những chuyện xích mích không đáng vào đâu mà gây nên những chuyện oán ghét. Chị khuyên các em phải giữ ḷng vị tha. Thường t́nh của nữ phái là hay đố kỵ, v́  đó khiến cho sự bất ḥa càng thêm phô diễn. Hiền tỷ có nhớ hôm trước anh Cao Thượng Phẩm đă nói ǵ không? Em chắc hiền tỷ đă hiểu rơ rồi.

Các em, lúc các em mang Thiên tước nơi ḿnh th́ các em là người của Diêu Tŕ Kim Mẫu để tại thế gian nầy, vậy mà người thay mặt cho Đấng Thiên Tôn lại quên hẳn phận ḿnh là thể ḷng từ bi mà cứu sanh độ thế, lại c̣n lấm chút bụi trần là thương ai th́ nên tṛn, ghét ai nên méo, sang th́ c̣n đến chốn quyền môn, giàu th́ ưa mùi hoa gấm; chớ có biết đâu đối với cảnh thiêng liêng là sang th́ ngồi tại bệ son, c̣n giàu th́ nhiều danh đạo đức.

Các em thử nghĩ lại coi bên nào hư, bên nào thiệt? Hư th́ chỉ c̣n tồn tại trong một kiếp sanh, c̣n Thiệt là vĩnh cửu thiên niên chẳng lợt. V́ đó mà nói cái Hư  ở trong cái Thiệt, cái Thiệt ở trong cái Hư. Nếu ham Thiệt ở trong Hư th́ muôn ngàn kiếp vẫn c̣n, như muốn Hư trong Thiệt th́ sự đời phải ra tro mạt.Các em có hiểu rơ không? Để chị cho một bài thi. Các em coi bài thi đó th́ hiểu. Hiền tỷ, em nhờ hiền tỷ ráng nhắc nhở thêm giùm em. Thôi, em xin chào hiền tỷ. Chị kiếu các em”.

 

57. Bát Nương DTC 01-02-1951

Mở rộng đường mây rước khách trần,

Bao nhiêu t́nh gởi nhắn Nguyên Nhân;

Biển mê Cầu Ngọc liên phàm tục,

Cơi thọ Sông Ngân tiếp đảnh thần.

Chuyển nổi Càn Khôn xây Vũ Trụ,

Nhẹ nâng Nhựt Nguyệt chiếu Đài Vân;

Cầm gươm Huệ chặt tiêu oan trái,

Điều độ quần sinh diệt quả nhân.

  • Nguồn gốc:

Đức Cao Thượng Phẩm giáng dạy đạo và trao bài thi của Bát Nương DTC gởi cho Đức Hộ Pháp ngày 01-02-1951 (25-12-Canh Dần) tại Trí Huệ Cung. Ngài dạy: “Chào Hộ Pháp, Tiếp Đạo và Thừa Sử. Cười... Hộ Pháp, nếu bạn trông thấy cái vui mừng vô biên nơi Diêu Tŕ Cung và Ngọc Hư Cung từ ngày trấn bửu pháp đến nay th́ sự khổ nhọc của bạn cũng nên cho là đáng giá. Đức Chí Tôn vui mừng hơn hết, c̣n các bạn nữ của ḿnh th́ chỉ có thấy một điều, nhứt là Bát Nương DTC: “Bạn không cho ai vui với bạn hết”.

Bát Nương DTC gởi nhắn một bài thi, Bần đạo chỉ làm lon-ton đưa lại Hộ Pháp, có lời Diêu Tŕ Cung cho hay rằng: Phật Mẫu muốn giáng thăm. Xin Hộ Pháp định ngày tiếp rước. Hộ Pháp: “Xin để Đức Mẹ trọn quyền định ngày”. “Vậy th́ Bần đạo thưa lại rằng: Ngày mùng 7 tháng giêng lúc giờ Tư, Hộ Pháp liệu đặng chăng?”. Hộ Pháp: “Đặng, phải Tiếp Đạo pḥ loan chăng?”. “Phải, Tiếp Đạo pḥ loan chớ ai bây giờ?”. Cám ơn các bạn”.

 

58. Bát Nương DTC 21-12-1951

Đông về bấc đến tận hiên mai,

Gơ cửa kêu ai dạ luống hoài;

Gió lạnh cành mai xơ-xác lá,

Sương mù bóng hạc chập-chờn cây.

Ngân-Kiều ngắm lại xa xôi khách,

Kim-Khuyết nh́n ra vắng vẻ bầy;

Mở trí đón đường phong tuyết phũ,

Đông về bấc đến tận hiên mai.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát-Nương giáng ban thi và dạy đạo ngày 21-12-1951 (23-11-Tân Măo). Bà dạy:

Chị chào mấy em. Muốn học hỏi phải ra công, dày sức th́ mới mong thâu được kết-quả, mấy em cũng vậy.

Thừa-Sử Phước bạch: “Dạ mấy em cố-gắng, nhưng c̣n tối-tăm quá”.

“… Vậy chớ ngọn đèn khêu chưa sạch bất, chùi chưa sạch bóng, hỏi tỏ rạng sao được. Hăy lau bộ năo đi”.

Thừa-Sử Phước bạch: “Chừng nào bỏ xác phàm mới hoàn-toàn sáng-suốt được”.

Lẽ dĩ-nhiên; nhưng sự học hỏi trong khi c̣n mang xác phàm th́ cơ tấn-hóa mới có giá-trị. Khi học Đạo, muốn học điều ǵ phải coi đi coi lại, rồi suy gẫm cho rơ lư. Chừng hiểu được tường tận rồi mới học qua điều khác, chớ muốn học cho biết luôn một lượt, th́ đến tận-thế đó mấy em. Lau bộ óc là đừng cho sự hám biết, và khí giận xen vào. Phải ḥa hưỡn, thư thái và tŕ chí suy gẫm th́ sẽ được kết-quả. Chị khuyên mấy em ráng xem sách và tra cứu đặng tầm lư th́ đến khi học Đạo rất dễ chớ chẳng chi. Đạo-pháp là khoa huyền-bí vô-vi, mấy em phải dày công mới được. Bây giờ chị cho thi, rồi ngâm cho chị nghe”.



59. Bát Nương DTC 04-02-1954

Chẳng phải Xuân này mới thấy Xuân,

V́ chưng Ngọc Lộ mới nên mừng;

Cung Đoài gác bóng hồn non nước,

Cửa Khảm rời thân nghiệp thấu chăng.

Định vững trí thành nên đẹp thể,

D́u an Tâm Đức mới xinh trần;

Giữ phương Pháp Chánh trau Thiên thể,

Cực Lạc phàm gian sẽ kiến lân.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cơ ban bài thi họa nguyên vận bài thi của Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng vào ngày 04-02-1954 (02-01-Giáp Ngọ) tại Văn Pḥng Pháp Chánh. Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng xướng bài thi như sau:

Đầu cành oanh hót mách tân xuân,

Đoái lại trăm hoa sắc sảo mừng;

Mĩm miệng đào thơ cười cợt gió,

Nghiêng ḿnh liễu yếu đón chào trăng.

Non thần hạt múa nghê thường khúc,

Nước chí thi ngâm điệu tháp trần;

Cảnh vật nghiêng ḿnh sang giáp ngũ,

Riêng ta hồn xác sạch lâng lâng.

Huyền Quang Tử

 

60. Bát Nương DTC 04-02-1954

Đồng bầu đạo đức sợ chi ôi,

Định phép hằng tâm quả được thôi;

Nợ thế cùng Xuân cùng nợ măi,

Duyên thiên dầu hạ cũng duyên rồi.

Trải thân cậy trúc Ma Ha nước,

Rửa thế nhờ nơi Tịnh Thủy nồi;

Xuân đến đầy ḷng vui đạo đức,

Chúc ông Bảo Đạo đặng ăn xôi.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cơ ban bài thi họa vận tại Văn Pḥng Pháp Chánh. Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa xướng bài “Xuân Giáp Ngọ” ngày 04-02-1954 (02-01-Giáp Ngọ):

Xuân này hai chín đó ai ôi,

Xuân đă qua rồi rẻ măi thôi;

Xuân đến qui nguyên ḷng toại chí,

Xuân lui hiệp nhứt phỉ nguyền rồi.

Xuân về an giấc nhà hoan lạc,

Xuân tới trúng mùa gạo cứng nồi;

Xuân đặng như nguyền xin khấn hứa,

Hăm ba Xuân nữa cúng chè xôi.


61. Bát Nương DTC 24-08-1954

Lập nghiệp thế gian khỏi hổ thằng,

Một niềm Đạo Cả giữ ngon ăn;

Đưa đường gậy phép trao tay lăo,

Dẫm lối Ma Ha rưới kẻ măng.

Gai góc bước càng chong chẳng gợm,

Phẳng bằng chạy gấp mặt e nhăn;

Chúc mừng gia thế anh vui đẹp,

Thánh Đạo qui căn chẳng có răng

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban bài này vào ngày 24-08-1954 (26-07-Giáp Ngọ). Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa họa nguyên vận như sau:

Thời cuộc lá lay rất hổ thằng,

Làm ǵ không đặng lại tranh ăn;

Bắc phương cộng sản xem già dặn,

Nam đại quốc gia thấy trẻ măng.

Chia rẽ nước nhà ai phải quấy,

Hiệp ḥa dân tộc rơ lăng nhăng;

Rồi đây Quốc Cộng ḥa hay chiến,

Xin mách đôi lời hiểu để răn.

 

62. Bát Nương DTC 24-08-1954

Độ thế cứu dân mới phải thằng,

Giúp đời mạng sống đủ làm ăn;

Việt Nam ải Bắc c̣n tay Lăo,

Hồng Lạc miền Nam lắm kẻ măng.

Thống nhứt nước nhà e mỏi gối,

Phân ranh nay đă chớ mày nhăn;

Đuổi xua kẻ nghịch nên lo trước,

Đạo đức tinh thần đủ để răn.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban bài thi họa nguyên vận này vào ngày 24-08-1954 (26-07-Giáp Ngọ).


63. Bát Nương DTC 08-09-1954

Đủng đỉnh thuyền sen ghé bến trần,

Cam lồ để mái giọng cao ngân;

Rưới chan tịnh thủy an lê thứ,

Bồi đắp sơn hà thuận nghĩa nhân.

Mở túi Càn Khôn trao phép lạ,

Đưa cần Nhựt Nguyệt thả h́nh chân;

Thất t́nh lục dục là mồi mị,

Bí pháp chơn truyền tạo đảnh vân.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban ba bài thi liên hoàn này vào ngày 08-09-1954 (12-08-Gíáp Ngọ) tại Báo Ân Từ.


64. Bát Nương DTC 08-09-1954

Đảnh vân mở lối định biên cương,

Nước Việt ngày sau sẽ phú cường;

Đạo đức treo giềng nơi vạn quốc,

Tinh thần để lối dẫn đài chương.

Diệt tà định được hồn Hồng Lạc,

Tôn chánh tạo nên cơi thái bường;

Liệt quốc sau cơn nguy đại chiến,

Hướng về Việt Quốc lănh niềm thương.


65. Bát Nương DTC 08-09-1954

Niềm thương d́u dắt cả hoàn cầu,

Bỏ chiến tham ḥa định nghiệp lâu.

Thất ức niên dư sùng Đại  Đạo,

Thập tam thời định đắc Kim Câu.

Hoàn tu thử nhựt cơ qui thống,

Tảo đắc lai niên nghiệp hợp châu;

Biết rơ giang sơn nhiều máu đổ,

Phải lo nội chính đặng nên mầu.

 

66. Bát Nương DTC 06-12-1953

Biển tục luyện Thần một cái Không,

Thay giềng Bảo Đạo hiểu chưa ông;

Long tu kết quạt đưa đường lạc,

Phất chủ liền tay quét nẽo thông.

Rửa sạch bợn trần nhờ Pháp giới,

Đánh tan tục khí có Thiên Bồng;

Biết phần cửa Đạo vùa chơn lư,

Nảy nét công từ định quả công.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban bài thi này vào cùng ngày 06-12-1953 (01-11-Quư Tỵ) tại văn pḥng Pháp Chánh và dạy Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa họa lại cả hai bài. Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa họa nguyên vận như sau:

Trần ai tuy ở cũng như không,

Cực trí v́ người lại gọi ông;

Trước vướng nợ đời đành phải trả,

Nay mong về Đạo lánh trần hồng.

Dè đâu c̣n lănh mang Thiên tước,

Có phải nghiệp xưa chốn Đảo Bồng;

Phẩm vị ban cho nghe quá lớn,

Biết ḿnh có xứng lập nên công.



67. Bát Nương DTC 06-12-1953

Thoát khỏi dục t́nh đến quả không,

Thời quân chi Đạo ấy là ông;

D́u đường tục khổ theo đường Thánh,

Giúp Đạo trần gian thoát bụi hồng.

Đạo đức dẩy trăng an thế giới,

Chánh chơn bủa khắp sánh Tiên bồng;

Từ bi phương giúp vùa sanh chúng,

Tạo vị nên đời mới thật công.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban bài thi này vào cùng ngày 06-12-1953 (01-11-Quư Tỵ) tại văn pḥng Pháp Chánh và dạy Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa họa lại cả hai bài.

Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa họa nguyên vận như sau:

Có không, không có, có như không,

Ông lớn ham chi những chức ông;

Lớn chức lo quyền nhiều tội lỗi,

Cao ngôi trọng tước khổ trần hồng.

Sao bằng học hỏi trường Tiên Phật,

Chi quí thanh cao cơi nhược bồng;

Hữu phước gặp kỳ khai Đại Đạo,

Ráng sao góp nhặt một phần công.



68. Bát Nương DTC 26-04-1956

Lời hẹn ngày xưa trước điện tiền,

Giúp tay Hộ Pháp tạo ngôi Thiên;

Đưa tay lau lụy đời đau khổ,

Cất tiếng kêu thương Đạo nắm giềng.

Tạo Thế phải toan phương lấy Đức,

D́u đời  nắm chặt  lấy t́nh thiêng;

Cơ  đời ví chẳng khuôn linh định,

Thế Đạo lập ra để tạo quyền.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cơ cho bài thi này cho ông Thoại ngày 26-04-1956 (15-03-Bính Thân) tại Báo Ân Đường Kim Biên, Nam Vang, Cam Bốt.


69. Bát Nương DTC 26-04-1956

Thế giới đương cơn mít mịt mù,

Việt Nam nầy loạn ú ù u;

Mỹ Nga chuẩn bị ầm ầm chát,

Hồ, Diệm gài then bít bịt bù.

Đau thảm nhơn sanh chiu chít chịt,

Khổ dân chúng gọi cú cù cu;

Cao Đài giục khởi bồng bông bổng,

Dân Việt phất phơi vú vũ vù.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cơ cho bài thi này cho Ngài Bảo Đạo ngày 26-04-1956 (15-03-Bính Thân) tại Báo Ân Đường Kim Biên, Cam Bốt.


70. Đức Phật Mẫu Diêu Tŕ 06-10-1960

Đă dấn thân vào cửa Sắc Không,

Nữ nhi cực nhọc há nao ḷng;

Pḥng the vẹn phận trau gương thắm,

Liễu yếu đừng phen cợt gió Đông.

Sóng khổ dẫu xao ḍng nước trí,

Cành xuân gắng giữ mảnh  hương nồng;

Đường về các trẻ xin ghi nhớ,

Cửa Khuyết hằng ngày Mẹ ngóng trông.

  • Nguồn gốc:

Đức Phật Mẫu dạy đạo và ban bài thi này vào ngày 06-10-1960 (16-08-Canh Tư) tại Nữ Đầu Sư Đường. Đức Phật Mẫu Diêu Tŕ Nương Nương dạy:

Mẹ đă vui ḷng chứng nhận lễ thành kính của các con nam nữ hiến dâng cho Mẹ nhơn ngày kỷ niệm Diêu Tŕ Cung vừa qua. Cái tinh thần đoàn kết của các con, cái tinh hoa đạo đức của các con đă tiến bước phần nào. Nhưng Mẹ cũng lắm lo lắng đường tu các con hằng bị trở ngại, v́  tà tâm c̣n nhiễu loạn trong một phần đáng kể các con của Mẹ. V́ vậy, mỗi con đều thận trọng ǵn giữ bổn phận của ḿnh để tránh khỏi bị lôi cuốn vào lối hiểm họa.

Các con, nhứt là Nữ phái, công phu các con lắm nhọc nhằn, th́ con đường lánh giả tầm chơn, lập nên ngôi vị, không phải khó. Mẹ trông ngày hội hiệp của các con sau khi  trả vay hoàn tất, nhưng trường thi lắm gay go, lướt khỏi cũng không dễ dàng. Các Tiên Phật bị đọa trần v́  đó mà đành mất Thiên vị. Các con nên gắng tâm khổ hạnh, quyết chí tu hành  thế nào  cho được ḷng trắng như băng, thanh như giá, không bợn một mảy  lợi  quyền bất chánh, th́  cái  ư chí cứng rắn của các con  mới thắng nổi mọi cơ  thử thách. Đời đă tàn, thuyền Đạo sắp xa bến. Sự hung bạo của nhơn loại đă tới mức nào, các con cũng thấy rơ.

Mẹ băn khoăn v́ bầy con hạ thế, chưa chắc ngày tương hội thiếu đủ thế nào? Mẹ mong các con xét nghĩ đủ sáng suốt trọn hành phận sự cho xứng đáng ḷng tin cậy của Mẹ th́ đó là đền ơn  cho Mẹ vậy. Mẹ có mấy lời sau đây, các ái nữ của Mẹ nên khá để tâm. Mẹ ban ơn cho các con nam nữ”.


71. Bát Nương DTC 14-03-1964

Nghe chưa rơ nghĩa để Ta bày,

Muốn đặng nhiệm mầu chẳng hỏi ai;

V́ Đạo quên thân ḿnh phú quư,

Cứu đời phủi xác thể cân đai.

Vào cung Tận Thức thần thông hóa,

Vén cảnh Hư vô diệu lư đầy;

Ǵn giữ thanh tâm vun cội Thánh,

Phất trần hé cửa động Thiên Thai.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cơ cho bài thi này ngày 14-03-1964 (01-02-Giáp Th́n) tại Ṭa Thánh.


72. Bát Nương Diêu Tŕ Cung

Hễ muốn làm sư phải huợt tṛ,

Vụng may thường đổ lỗi người đo;

Nhái duyên Tây Tử cười môi méo,

Đoạt điệu Đường Phi bước trẹo gị.

Bắt nguyệt lại ṃ trăng đáy nước,

Theo Tây bợ ngợ viết nhà Nho;

Vui chi hơn gặp trang tài tử,

Vẫy lưới cḥm cây có cứt c̣.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung cho bài thi này không rơ ngày nào. Bà kêu Chư Vị Chức Sắc họa lại bài thi này và ngâm cho Bà nghe.

Ngài Bảo Thế họa nguyên vận bài thi của của Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung tuy Ngài Bảo-Thế lúc sinh tiền, rất ít làm thơ:

Lố xố lăng xăng mấy chú tṛ,

Văn chương lá mít của so đo;

Vác mai chạy quấy ngồi rơi lụy,

Múa búa khoe danh chạy bại gị.

Trí thiển ḍm Trời bằng cái xịa,

Tài sơ ngóng chữ tợ rừng Nho;

May duyên đưa đến mùi Tiên Thánh,

Mừng được bài thi khỏi gắn c̣.

Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa họa lại nguyên vận như sau:

Thế sự hôm nay diễn lắm tṛ,

Ḷng người nham hiểm thước nào đo;

Bởi đâu nhơn loại chia hai khối,

Mới khiến lê dân chạy ră gị.

Trong lúc giết nhau thây tợ núi,

Lẽ đâu ngâm vịnh lối đồ nho;

Ai ôi có thế t́m tân thuyết,

Cứu vớt nhơn sanh thoát bẫy c̣.

Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa tự xét ḿnh thấy: “Trong lúc quá bực bội nên đệ tử họa lại bài thi có phần thất lễ với Bà Bát-Nương; kịp thời suy nghĩ thấy Bà Bát-Nương Diêu Tŕ Cung v́ thương đa số Chức-Sắc buổi ấy cũng bực bội như đệ tử mà không lối ra, nên mới bày ra họa thi làm lăng khuây nỗi ḷng đôi lúc, nên đệ tử biết lỗi ăn năn mới họa thêm một bài thứ hai, nhờ Bà Bát-Nương Diêu Tŕ Cung tha tội” như sau:

Hiểu đạo rồi nay mới nhận tṛ,

Cơ Trời mầu nhiệm dễ ǵ đo;

Chí Linh vi diệu đưa chơn bước,

Nhơn loại muội ngu khá nối gị.

Đạo đức d́u đời cơ chuyển thế,

Nghĩa nhân giúp đạo phép tông nho;

Cao-Đài Đại Đạo ban truyền khắp,

Đệ tử năm châu trắng tợ c̣.



73. Bát Nương Diêu Tŕ Cung

Nhẹ bước nhàn du để vẻ hồng,
Sấn tay nước Việt dặm non sông;
Châu về đất Bắc dời Kim Khuyết,
Ngọc rạng thành Nam chuộc ải đồng.
Mở lối Đài vân mời trí sĩ,
Dọn đàng Hồng Lạc dắt anh phong;
Động đào quen thú mai chiều ngắm,
Hỏi khách tao nhân có mặn nồng?

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương cho bài thi này không rơ ngày nào.


74. Thất Nương Diêu Tŕ Cung

Đố ai rơ thấu hiểu ra sao,

Chín chữ cù lao giá thế nào;

H́nh vóc cảnh Tiên c̣n vinh bấy,

Chơn Thần nước Phật rửa thai bào.

Nỗi riêng từ phụ chưa xong phận,

Nghĩa nặng đeo đai phận má đào;

Thà xuống âm cung chia khổ tội,

Cha vầy ai nỡ ngự đài cao.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương cho bài thi này không rơ ngày nào. Nguyên có một đàn cơ Cô Thất Nương đến tâm sự cùng Đức Hộ Pháp. Cô cho bài thi này. Cũng v́ nỗi hiếu mà cô không nỡ ngồi nh́n song thân đang khổ khắc nên mới lén đến Phong đô để cứu rỗi. Sự việc không tŕnh qua thiêng liêng nên Ngọc Hư Cung bắt tội. Cô mới đến bày tỏ nhờ Đức Ngài che chở.

Nghe qua tự sư Đức Hộ Pháp nói: “Người có ḷng hiếu thảo như vậy mà có tội nữa sao?.

Cô Thất Nương mới nói: “Em nói nhỏ cho đại ca nghe một ḿnh, mà đại ca nói lớn coi bộ giận dữ nữa.”.

Tiếng nói của Ngài kèm theo sự bất b́nh làm vang động đến Bạch Ngọc Kinh, Đức Chí Tôn hay nên gọi Đức Lư đến nói: “Hộ Pháp trách Thầy, con đến để khuyên lơn.”

Đức Lư giáng ban cho bài thi như sau:

Phải giữ chơn linh đặng trọn lành,

Ngọc Hư toàn ngự Đấng anh linh;

Luật điều Cổ Phật không chưa tội,

H́nh phạt Chí Tôn chẳng vị t́nh.

Chánh trực kinh oai loài giả dối,

Công b́nh vừa sức kẻ chơn thành;

Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,

Biết sợ xin khuyên cẩn thận ḿnh.

Ngài dạy thêm: “Em c̣n nhỏ, chưa rơ Thiên Điều luật pháp nghiêm minh, chính v́ vậy mà Đức Chí Tôn sai Lăo đặng chỉ thêm.”


75. Thất Nương Diêu Tŕ Cung

Hai kiếp đeo đai lắm nợ trần,

Có thân v́ khổ bận cho thân;

Niềm duyên đổ ngọc loan pḥng nguyệt,

Nỗi hiếu rơi châu tưới mộ phần.

Giữ đạo những mong ngồi độc tịch,

Bán ḿnh quyết cứu độ song thân;

Nước non càng ngắm càng thêm chạnh,

Chạnh thảm khi mang mảnh xác trần.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương cho bài thi này không rơ ngày nào.

Cô Vương thị Lễ (1900-1918) có cha là Đốc phủ Vương Quan Trân. Ông Trân và Giáo sư Vương Quan Kỳ cùng là con của ông Vương Quan Để và bà Huỳnh thị Bảy. Ông Để là con của Thống chế Vương Quan Hạc, c̣n bà Bảy là con của ông Huỳnh Mẫn Đạt, một nhà thơ yêu nước thời Pháp thuộc. Năm 1925, trong một đàn cơ có mặt ông Vương Quan Trân, Cô giáng cho bài thi như sau:

Cúi lạy thân sinh thứ lỗi con, 
Âm Dương tuy cách, hiếu tâm c̣n. 
Hồn quê níu nắm t́nh non nuớc, 
Phách quế náo nương dạ sắt son. 
Ác lặn hiên đoài già nhắc nhỏm, 
Nguyệt trầm non Thái trẻ thon von. 
Thấy nhau thêm tủi đường ly biệt, 
Đá nát xương tan nghĩa vẫn c̣n.

Ngày 22.11. Đinh Hợi (1947), Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa thuyết Đạo về Luật công b́nh thiêng liêng có cho biết: vào năm 1929, Cô Lễ hay tin ông Trân bị đọa nơi Diêm Cung nên Cô lén xuống để thức tỉnh cha. V́ phế phận, nên Ngọc Hư Cung bắt tội Thất Nương làm cho cả Diêu Tŕ Cung náo nhiệt. Đức Phạm Hộ Pháp xin ân xá cho Cô.

Cô Thất Nương được đặc ân của Ngọc Hư xá tội, Cô t́nh nguyện đến Âm Quang để độ rỗi các chơn linh nữ phái thất thệ để trả nghĩa cho Thầy (thể theo lời ước của Đức Địa Tạng Vương, v́ Người khó gần các chơn linh nữ phái). Trước khi đi, cô có giáng cơ từ giă với Đức Hộ Pháp và các vị chức sắc Hiệp Thiên Đài, cô có viết bài thơ trên.


76. Thất Nương Diêu Tŕ Cung

Rủi tâm đă nịnh khó làm trung,

Chẳng khác người cao muốn hóa lùn;

Đội măo sung thiên Trời lúng túng,

Mang y chiếu địa đất lum khum.

Cửa son ghé mắt ngươi phân nửa,

Lầu tía đưa chơn bụng sĩ ḷng;

Bán nước đă cam dâng phận tớ,

Thái Sư sụp măo cũng danh ông.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương làm bài thi “ Tả Chú Nịnh” không rơ ngày nào.


77. DIÊU TR̀ KIM MẪU


Thâu canh thổn thức bởi v́ con

Nhớ trẻ lệ châu hạc mỏi ṃn

Trần cấu mê say mùi vật chất

Kim bồn tư lự bóng thon von

 

Con quên cảnh cũ nơi hằng sống

Mẹ để ngôi xưa chỗ vẫn c̣n.

Tất cả Thần Tiên đồng nguyện hứa

Tam Kỳ Phổ Độ hăy về con.


Con hăy đứng lên dựng miếu đường

Trên ḥa dưới thuận Đạo yêu thương

Khiêm cung lấy lễ đầu dân trí

Kiên nhẫn dụng nhân cứu quốc cường


Thực dạ tin nhau nên nghiệp cả

Thành tâm đoàn kết để làm gương

Giáng trần nhủ trẻ nên ghi nhớ

Là học tṛ Tiên phải khác thường.


 

  • Nguồn gốc: không rơ ngày tháng năm Phật Mẫu cho thi.


PHẦN III

Thể thơ SONG THẤT LỤC BÁT


1. Nhứt Nương DTC 01-10-1925

Hoa thu ủ như màu thẹn nguyệt,

Giữa thu ba e tuyết đông về;

Non sông trải cánh Tiên ḷe,

Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”.

Ba ông (Cư, Tắc, Sang) nhờ Thất Nương DTC dạy cách cầu Đức Cửu Thiên Nương Nương. Thất Nương DTC nói: “Ba anh muốn cầu th́ phải ăn chay trước ba ngày và cầu vào đêm Trung Thu, phải có ngọc cơ cầu mới đặng”. Vào ngày đó, Đấng A.Ă.Â. bảo ba ông (Cư, Tắc, Sang) làm một cái tiệc chay đăi Mười Đấng Vô h́nh gồm: Đức Cửu Thiên Nương Nương và Chín vị Tiên Nương.

Đúng vào đêm Trung Thu, ngày 01-10-1925 (14-08-Ất Sửu), tại nhà ông Cư (134 Bourdais Sàig̣n, nay là đường Calmette), đúng giờ Tư, cả thảy đều đủ mặt. Ông Cư đă sắp đặt một cái bàn dài, rải bông lá xung quanh, phía trong bàn, ngay chính giữa, để một cái ghế mây lớn, và nối theo là chín cái ghế mây nhỏ hơn đặt chung quanh bàn, trên bàn chưng dọn những b́nh bông và trái cây tươi tốt, đặt trước mỗi cái ghế là một tách trà, một ly rượu, một cái chén cùng với muỗng, đũa. Ông Cư đốt hương xông trầm, trang hoàng rất tinh khiết. Ông Cư lên nhang đèn, cả thảy đều qú lạy, khấn vái. Xong, hai ông Cư và Tắc đem ngọc cơ ra cầu. Đức Cửu Thiên Nương Nương và Cửu vị Tiên Nương giáng ngọc cơ để lời chào mừng quí ông. Thất Nương DTC yêu cầu ba ông (Cư, Tắc, Sang) đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của ḿnh (đă làm sẵn do Thất Nương DTC dặn trước) để hiến lễ.

Chừng nhập tiệc, Thất Nương DTC mời ba ông ngồi vào bàn cho vui. Ba ông không thể chối từ, nên đem thêm ba cái ghế, sắp sau lưng chín cái ghế nọ, ba ông xá rồi ngồi xuống.

Bà Hiếu (bạn đời của ông Cư) sắp đặt đồ ăn chay sẵn, đi ṿng quanh bàn dài, gắp thức ăn đặt vào chén của Mười Đấng, rồi rót rượu và rót nước trà, đăi Mười Đấng Vô h́nh, giống như đăi người hữu h́nh vậy. Cách chừng nửa giờ sau, như là tan tiệc, hai ông Cư và Tắc đem ngọc cơ tái cầu.

Lịnh Nương Nương và Chín Tiên Cô để lời cảm tạ, nói rằng: “Từ đây có ngọc cơ rồi th́ tiện cho Diêu Tŕ Cung đến dạy việc”. Xong mỗi vị cho một bài thi 4 câu làm kỷ niệm.

Ư nghĩa bài thi trên:

Hoa thu tức thu cúc vàng nhưng kém màu vàng của trăng. Giữa mặt hoa (thu ba là sóng mùa thu, nghĩa bóng là sóng mắt) sợ mùa đông đến. Nhưng trong mùa thu khắp nơi cánh hoa tiên nở sáng rực. Nhân hứng, Nhất Nương mượn đề vịnh hoa cúc để làm thơ chào nhau”. Hoa cúc trồng vào mùa Xuân, có hoa vào mùa thu, gặt hái hoa vào mùa đông để ướp trà hoặc để làm thuốc, nên "giữa thu ba e tuyết đông về" là vậy. Chữ thu ba là vừa dùng nghĩa bóng, vừa dùng cách hoán vụ (lấy một phần để chỉ toàn thể). Vào mùa thu, khắp nơi đất nước hoa cúc đều nở rộ "trải cánh tiên loè", đến mùa đông th́ bắt đầu tàn.

Theo Kinh Đệ Nhất Cửu, nhiệm vụ của Nhứt Nương là chăm sóc vườn Ngạn Uyển. Cô thường coi các bông trong vườn mà biết được số kiếp con người, v́ trong vườn có bao nhiêu đoá hoa là có bao nhiêu linh hồn nhơn loại ở thế gian. Hoa nào héo th́ "giải thi thoát khổ, diệt (hữu) h́nh đoạn căn (duyên)". Nhứt Nương có nhiệm vụ phổ độ nhơn sanh miền Bắc VN.

2. Nhị  Nương DTC 01-10-1925

Cẩm tú văn chương hà khách đạo?

Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân?

Tuy mang lấy tiếng hồng quần,

Cảnh Tiên c̣n mến, cơi trần anh thư.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”. Ba ông (Cư, Tắc, Sang) nhờ Thất Nương DTC dạy cách cầu Đức Cửu Thiên Nương Nương. Thất Nương DTC nói: “Ba anh muốn cầu th́ phải ăn chay trước ba ngày và cầu vào đêm Trung Thu, phải có ngọc cơ cầu mới đặng”. Vào ngày đó, Đấng A.Ă.Â. bảo ba ông (Cư, Tắc, Sang) làm một cái tiệc chay đăi Mười Đấng Vô h́nh gồm: Đức Cửu Thiên Nương Nương và Chín vị Tiên Nương. Đúng vào đêm Trung Thu, ngày 01-10-1925 (14-8-Ất Sửu), tại nhà ông Cư (134 Bourdais Sàig̣n, nay là đường Calmette), đúng giờ Tư, cả thảy đều đủ mặt.

Sau khi dự lễ, Lịnh Nương Nương và Chín Tiên Cô để lời cảm tạ, nói rằng: “Từ đây có ngọc cơ rồi th́ tiện cho Diêu Tŕ Cung đến dạy việc”. Xong mỗi vị cho một bài thi 4 câu làm kỷ niệm.

Ư nghĩa bài thi trên: “Người khách đạo văn chương như gấm như thêu ở đâu? Làm thơ như Thần, uống rượu như Thánh hỏi được mấy ai? Tuy sanh ra là con gái (hồng quần), nhưng là bậc anh thư ở cơi trần và một vị Tiên ở cơi trên”. Cô Cẩm Tú (do kỵ quí, lấy công tŕnh nổi tiếng thay tên thật) là một người khách Đạo, nghĩa là không phải người trong nước Việt Nam. Cô làm thơ như Thần, uống rượu như Thánh, hỏi mấy ai sánh kịp? Ở cơi trần, Cô là bậc vua chúa, ở cơi trên là một vị Tiên Nữ. Nhiệm vụ Nhị Nương là giữ Vườn Đào, dọn yến tiệc và đăi thuốc trường sanh cho các đẳng linh hồn, rồi đưa đến cơi Thanh Thiên. Như vậy, Nhị Nương có bổn phận bảo sanh con người lúc sống như lúc chết và phổ độ người Chân Lạp (Cao Miên nay là Campuchia) theo Đạo mới.

Bài thài của Nhị Nương có câu: "Cẩm Tú văn chương hà khách đạo?"

Cẩm Tú hay Cẩm Bửu (Cambhupura) là công tŕnh văn hoá lớn của người khách Đạo (bạn đạo nước ngoài) tên là Jyeshthâryâ, người Thuỷ Chân Lạp. Theo truyền thuyết, vị thần dựng nước Chân Lạp tên Kambu, nên tên nước là Kambujâ tức Chân Lạp (CHENLA). Pháp dịch Cambodge, Cambhu là Cẩm Bửu, Pura là thành thị. Tên ghép là thành thị Cẩm Bửu gồm lưu vực sông Mékong và Miền Nam VN ngày nay. Lúc ấy bị chia làm nhiều khu vực do các vị Hoàng thân và tướng lănh Phù Nam thống trị.

Nữ Vương Jyeshthâryâ là cháu 3 đời của Quốc Vương INDRAKOLA cai trị vùng đất quanh tỉnh Kratié ngày nay, đồng thời với vua Jayavarman II (802-850). Năm 803, Nữ Vương xây một ngôi tháp ở Cambhupura, là đế đô cũ của vua Mahendravarman (600-615). Kiến trúc của tháp nầy ảnh hưởng đạo Bà La Môn, nét hoa văn trang trí trên tháp như cẩm tú (như gấm như thêu). Bà thật xứng đáng bậc anh thư Chân Lạp.

"Tuy mang lấy tiếng hồng quần,

Cảnh tiên c̣n mến, cơi trần anh thư".

Nữ Vương theo Bà La Môn, tôn thờ các đấng Bhrama, Christna, Civa mà Đạo Cao Đài tạc tượng thờ trên nóc Bát Quái Đài. Ngươn linh của Bà là Nhị Nương ở cung Diêu Tŕ, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân Cao Miên (Campuchia) theo Đạo mới. Nhờ vậy, mà việc phá rừng xây cất Toà Thánh trong buổi đầu mới thành tựu được.


3. Tam  Nương DTC 01-10-1925

Tuyến đức năng thành đạo,

Quảng trí đắc cao huyền;

Biển mê lắt lẻo con thuyền,

Chở che khách tục, cửu tuyền ngăn sông.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”...

Bài thi này cách điệu nhưng để chung đây v́ tính liên tục chư Tiên giáng ban thi.

Ư nghĩa bài thi:

Thường tích đức th́ thành đạo. (Tuyến đức là đường đạo đức). Hiểu biết rộng th́ được quyền cao. Biển trần (mê tân), Cô đưa Thuyền Bát Nhă bập bềnh để chở khách trần tục khỏi đoạ xuống Chín suối (Cửu tuyền).

Cô Tam Nương chất chứa nhiều đức và sự hiểu biết về Đạo hơn người tức nhiên được thành đạo và đắc vị Tiên Nương. Cô có bổn phận chèo thuyền Bát Nhă đưa khách trần khỏi bến mê để về cơi Tiên. Tam Nương rất quảng trí xuất hiện trần gian để độ thế, thường Cô chỉ mặc áo tràng trắng có viền kim tuyến (giống áo Chức sắc Nữ phái): "Tuyến đức năng thành đạo", mỗi khi Cô hiển hiện. Thế nên người đời thường gọi Cô là Bà Kim Tuyến.

Người ta c̣n truyền lại: “Khi Nguyễn Hoàng rời bỏ họ Trịnh, từ Thăng Long vào miền Trung t́m nơi đóng đô chưa được, th́ may thay gặp một bà già mặc áo quần trắng có viền kim tuyến trên một ngọn đồi. Bà trao cho Nguyễn Hoàng một nén hương đang cháy và dạy: “Ngươi hăy cầm nén hương nầy mà đi, bao giờ hương tắt th́ đó là nơi đóng đô. Theo lời dạy, khi nhang tàn, quả nhiên Nguyễn Hoàng thấy trước mắt một vùng núi sông hiền hoà (sông Hương núi Ngự). Thế nên Nguyễn Hoàng quyết chọn làng Phú Xuân (nay là Huế) làm kinh đô”. Để nhớ ơn bà già tặng nhang, Nguyễn Hoàng cho xây dựng trên ngọn đồi nầy một ngôi chùa. Đó là chùa Thiên Mụ bên sông Hương. Trong chùa có tháp Phước duyên làm biểu tượng của Huế, có tượng thờ Đức Di Lạc; nổi tiếng nhứt là tiếng chuông Thiên Mụ (Thiên Mụ là người đàn bà ở cơi Trời)”.

Bà giáng hạ có phận sự độ khách tục khỏi biển mê và Cửu Tuyền. Bà Tam Nương ở Cung Diêu Tŕ có phận sự vụ siêu độ khách trần, phổ độ lương dân miền Trung và Nam Trung phần VN theo Đạo mới.

 

4. Tứ  Nương DTC 01-10-1925

Gấm lót ngơ chưa vừa gót ngọc,

Vàng treo nhà ít học không ưa;

Đợi trông nho sĩ tài vừa,

Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”. ..

Ư nghĩa bài thi:

Gấm vóc có trải dài theo đường ngơ, Cô cũng không màng. Ngày xưa, việc thách cưới phải mâm cao cổ đầy, vàng bạc châu báu. Nhưng ở đây, Cô không ưa cả ṿng vàng treo đầy nhà, của để đầy kho, mà chỉ kén bậc nho sĩ tài ba để kết duyên. Đằng giao khởi phụng là rồng bay phụng dậy, tức ám chỉ người tài hoa xuất chúng, thi phú như Tiên”. Đây là bài tự vịnh phong cách của Bà Đoàn Thị Điểm, hiện thân của Cô Lê Ngọc Gấm.

Vào năm 1655, Chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật đem quân vượt Sông Gianh ra Bắc đánh quân Trịnh. Trịnh Đào thua chạy về An Trường (nay là Nghệ An). Quân Nguyễn thừa thắng đuổi theo chém giết vô kể, rồi chiếm Nghệ An. Cô Lê Ngọc Gấm sanh trong một gia đ́nh thủ công nghệ bị chết trong cảnh loạn quân đó, lúc đó mới 9 tuổi. Linh hồn Cô phảng phất và tá túc ở Đền Ṣng, Thanh Hoá nơi thờ Bà Liễu Hạnh. Năm 1705, Cô chuyển kiếp vào nhà họ Lê ở Văn Giang, ông Hương Cống Lê Doăn Nghi nằm mộng thấy linh thần tặng cho họ Đoàn nên đổi từ họ Lê sang họ Đoàn. Ông Nghi lập gia đ́nh, sau sinh được hai người con đều hay chữ là Tiến sĩ Đoàn Doăn Luân và bà Đoàn Thị Điểm. Như vậy cô Gấm là tiền thân của bà Đoàn Thị Điểm. Bà bẩm sinh tư chất thông minh, văn hay chữ tốt, một giai nhân khiêm cung đức độ, được vậy là nhờ bà là chơn linh của Tứ Nương. Dưỡng phụ Bà là Thượng thư Lê Anh Tuấn tiến cử Bà vào Cung Chúa Trịnh, nhưng b́nh sanh Bà không ưa cảnh quan quyền nên khước từ. Bà dốc hết tâm trí vào việc trau dồi văn chương cho được "Đằng giao khởi phụng". Bà mở trường dạy học và dạy nữ công (nên tượng Tứ Nương cầm cây Kim Băng). Bà chế ra hai cái túi : Một cái thêu kiểu tam hữu (Tùng, trước, mai) và một cái thêu kiểu Bát Quái, ám chỉ Bà là Tiên nữ.

Bà Đoàn Thị Điểm đă giáng cho nhiều bài Kinh thuộc phần Thế Đạo như: Kinh tụng khi Thầy qui vị, Kinh Cầu Tổ phụ đă qui liễu, Kinh tụng khi chồng hoặc vợ qui vị, v...v…Theo Thánh ngôn, Bà là nhà bác học về chân thiện mỹ, có phận sự phổ độ chúng sanh khoa bảng văn chương ở các thành thị miền Bắc VN.

5. Ngũ Nương DTC 01-10-1925

Liễu yểu điệu c̣n ghen nét đẹp,

Tuyết trong ngần khó phép so thân;

Hiu hiu nhẹ gót phong trần,

Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”...

Ư nghĩa bài thi: “Cây liễu mềm mại yểu điệu c̣n thua nét đẹp duyên dáng của Cô. Tuyết trong ngần làm sao sánh kịp da dẻ trắng hồng của Cô. Cô coi nhẹ chốn bụi trần mà nhẹ gót thơ thới theo mây gió về cơi Phật (Đài sen)”. Cô Liễu Hạnh tự vịnh phong cách của ḿnh với cây liễu.

Cô là Ngũ Nương Diêu Tŕ Cung, có bổn phận siêu độ các linh hồn đắc đạo về Bạch Ngọc Kinh (tức cơi Thiêng liêng Hằng sống). Nhờ xe Như Ư đưa linh hồn viên măn đến cơi Xích Thiên, khai Kinh Vô Tự phán đoán căn quả.

Vào đời Hậu Lê, năm 1557 ở thôn Thái An, t́nh Nam Định, có nhà họ Lê, vợ mắc bệnh suy nhược không sinh đẻ được. Một hôm, có một vị đạo sĩ đến nhà xin trị bịnh, bằng cách cho người chồng là Lê Thái Công đánh thiếp lên Thiên đ́nh. Ông Lê Thái Công t́nh cờ thấy công chúa Quỳnh Hương lỡ tay làm bể chén ngọc, nên bị Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đày xuống trần. Khi xả đồng tỉnh lại, Lê Thái Công được tin vợ sanh được một người con gái đẹp như Tiên giáng trần, đặt tên là Liễu Hạnh. Năm 1578, đột nhiên Cô Liễu "hiêu hiêu nhẹ gót phong trần" trút xác phàm trở về Thượng giới trong khi chưa hết hạn làm khách trần chuộc tội. Thế nên sau đó Đức Thượng Đế ra lịnh Cô xuống trần lần nữa. Chính lần nầy Cô gặp Cô Gấm (Tứ Nương). Để công phổ độ sớm hoàn thành, Cô đi khắp vùng Bắc phần và Bắc Trung phần VN để giúp nhơn sanh. Cô xuất hiện giữa ban ngày ở vùng Phố Cát (Thanh Hoá) và nhiều nơi khác. Để tỏ ḷng biết ơn Bà, dân chúng xây đền thờ Bà ở nhiều nơi như: Phủ Giầy (Nam Định), Đền Ṣng, Phố Cát (Thanh Hoá), Đền Sùng Sơn (Hà Nội). Triều đ́nh nghe danh phong tặng Bà là "Thượng đẳng Phúc Thần" (Thần ban phúc). Nhân dân gọi Bà là Mẫu Liễu, lễ vía vào ngày 03-03 Âm lịch. Đến cuối đời Hậu Lê, một vị quan nằm mộng thấy Bà Liễu lên xe mây về Trời. ( Hoàng Trọng Miên, Việt Nam văn Học toàn thư. Sài G̣n 1959).

Bà là Ngũ Nương ở Cung Diêu Tŕ, có phận sự phổ độ nhơn sanh đồng bằng Bắc phần và Bắc Trung phần VN theo Đạo Cao Đài.


6. Lục Nương DTC 01-10-1925

Huê ngào ngạt đưa hơi ṿ dịu,

Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong;

Nương mây như thả cánh hồng,

Tiêu Diêu phất phướn, cơi ṭng đưa Tiên.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”...

Ư nghĩa bài thi: “Huê là bông có hương thơm êm dịu. Cô là người tài ba có đầy đủ phong cách riêng và bay trên mây như chim hồng phượng, một loài với chim loan (Đức Phật Mẫu kỵ Thanh loan) nhưng sắc đỏ (hồng) nhiều hơn (xin xem ở trước). Cô ở cơi Tiên phất phướn Chiêu hồn (Tiêu diêu) điều khiển phướn Chiêu hồn nhằm tẩy sạch bợn trần để đưa các linh hồn vào cửa chư Tiên”.

Bà là Lục Nương ở Cung Diêu Tŕ, điều khiển phướn Chiêu hồn nhằm tẩy sạch bợn trần để đưa các linh hồn vào cửa Tây phương.

Cô Hồ Thị Huê vốn là con nhà quan, nhờ có đầy đủ tư cách : thục, thận, hiền, trinh mà được tiến vào cung vua. Nhưng chẳng bao lâu bỏ cảnh hồng trần về cơi Tiên.

Cô Hồ Thị Huê là hậu thân của bà Jean D'Arc, theo Thánh giáo: Jean D'Arc (1412-1431) tự là Pucelle d'Orléans, nữ anh hùng nước Pháp, sanh ở Domreny (biên giới tỉnh Lorraine và Champagne). Bà thuộc gia đ́nh nông dân, hiếu thảo vẹn toàn. Năm 13 tuổi (1428) trong lúc chăn cừu, Bà nghe tiếng nói thiêng liêng giục Bà cứu Hoàng Thái Tử Charles VII và giải nguy cho nước Pháp. Quân Anh vây Orléans, khi sắp hạ thành th́ Bà xuất hiện (30-4) với một đội quân dũng cảm. Ngày 8-5, Bà đánh bại quân Anh. Nhờ đó, nhân dân Pháp vùng dậy tràn đầy hy vọng, thừa thắng xông lên. Sau đó Bà rước vua Charles VII về Rêm (Reims) để làm lễ tấn phong theo tục lệ bấy giờ. Năm 1430, Bà không chịu được thái độ của bọn cựu thần và cũng v́ chán sống cảnh an nhàn sa đọa của triều đ́nh phong kiến, Bà lại ra quân giải vây thành Compiègne. Bà bị quân Bourguignon bắt, bán lại cho người Anh. Bà bị giam cầm khổ sở. Sau cùng, tôn giáo pháp đ́nh của người Anh kết án Bà là tà giáo phải bị hỏa thiêu vào ngày 30-5-1431 tại Rouen. Năm ấy Bà mới có 19 tuổi. Bà Jean d'Arc là anh hùng nông dân Pháp, một biểu tượng trong sạch từ thể xác tới tinh thần. Sự xuất hiện của Bà chứng tỏ rằng sứ mạng của bọn quư tộc phong kiến và vơ sĩ đă chấm dứt. Năm 1920, lễ kỷ niệm Bà được nhân dân Pháp tôn vinh là quốc lễ.

Bà là Lục Nương, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân tộc Pháp theo Đạo mới. Bà đă phổ độ nhà văn Gabriel Gobron đắc phong Tiếp Dẫn Đạo Nhơn và nhiều người khác. Sau Bà Jean d'Arc chuyển kiếp đầu thai ở Việt Nam tên là Hồ Thị Huê (hay Hoa) sanh năm 1790, con của ông Khâm sai Hồ Văn Vui và bà Hoàng Thị, người huyện B́nh An, tỉnh Biên Ḥa. Lăng mộ họ Hồ hiện ở gần Thị trấn Thủ Đức. Chính Bà đă phổ độ ông huyện Thơ ở Thủ Đức (sau đắc phong Đầu Sư) và hướng dẫn Đức Hộ-Pháp hành pháp tại Long Vân Thánh Tịnh (gần cây mùa cua Thủ Đức) trong buổi đầu khai Đạo. Bà là Lục Nương ở Cung Diêu Tŕ có phận sự phổ độ những người trong Hoàng tộc theo Đạo mới, như bà Từ Cung, mẹ của vua Bảo Đại. Bà Từ Cung được ân phong phối sư Nữ Phái.

 

7. Thất  Nương DTC 01-10-1925

Lễ  bái thường hành tâm đạo khởi,

Nhân từ tái thế tử vô ưu;

Ngày xuân gọi thế hảo cừu,

Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”.

Ư nghĩa bài thi: “Cúng lạy thường ngày th́ đạo trong tâm khởi hiện. Người hiền đủ tài đức ở đời th́ khi chết không biết lo âu. Ngày c̣n thuở con gái (thanh xuân) gọi như thế là một oán hờn tốt. Dù duyên nợ được trăm phước ở cơi tục cũng không bằng cái buồn ở cơi Tiên. Nghĩa là cái trăm vui ở cơi trần gian không sánh nổi cái u buồn ở cơi trên, tức là cái buồn ở Thượng giới vẫn vui hơn trăm lần vui ở hạ giới”.

Bài này tả tâm sự của cô Vương Thị Lễ. Cô được sanh ra trong một nhà quan, khi bị bệnh trầm kha. Thân mẫu của Cô nói ai cứu được th́ gả Cô cho người ấy. Nào ngờ, khi Cô được thầy thuốc chữa lành bịnh, mẹ cô quên lời hứa cũ. C̣n Cô th́ vẫn âm thầm thương nhớ vị lương y: "Ngày xuân gọi thế là hảo cừu". Nhưng sau nhờ tu luyện "Lễ Bái Thường Hành", Cô đắc đạo mới rơ "Trăm duyên phước tục chẳng bù buồn Tiên".

Cô là Thất Nương có bổn phận độ người theo Đạo. Cô là người đầu tiên dẫn dắt các Thiên sứ theo Đạo mới và lập Đạo mới, nên tượng thờ Cô, trên tay có cầm hoa sen.


8. Bát  Nương DTC 01-10-1925

Hồ Hớn Hoa Sen Trắng nở ngày,

Càng gần hơi đẹp lại càng say;

Trêu trăng hằng thói dấu mày,

Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”...

Ư nghĩa bài thi: “Cái hồ ở nhà họ Hớn bông hoa sen trắng nở ban ngày; càng đến gần hương hoa lại càng thơm ngát, như trêu cả mặt trăng núp bóng mây (v́ trăng sáng láng đẹp đẽ nhưng thiếu hương thơm như sen). Cả áng mây, sen cũng lướt qua mà lên chốn Phật đài (thêm hoa là thêm chơn linh đắc quả)”. Bài này tự vịnh phong cách của cô Hớn Liên Bạch (sen trắng).

Hồ là họ kiếp sau của cô. Cô cho rằng trong các loài hoa chỉ có hoa sen thanh cao, tinh khiết và đẹp nhất. Trăng và mây là hai thể tinh vân: một đàng vằng vặc soi sáng khắp thế gian; một đàng bồng bềnh trôi nổi. Thế mà sen đối với cô Hớn Liên Bạch cũng phải thẹn, cũng phải nhường bước. Quả thật Cô là một nhà uyên bác, nhà tư tưởng và triết lư gia của Đạo Cao Đài. Chỉ một bài kinh Phật Mẫu, cô giáng cho hàm súc đủ bản nguyên tư tưởng của Đạo Cao Đài; Vũ trụ quan, Nhân sinh quan, triết lư tôn giáo, con đường cứu rỗi, v..v… Trong cơi Hư Linh, cô điều khiển cơ huyền vi giáo hoá các linh hồn mê muội trong cơi vật chất mà độ rỗi họ, đồng thời đưa các đẳng linh hồn vào cơi Phi Tưởng Thiên mà hoá vị.

Bà Bát Nương xuống trần vào đời Tiền Hán; trước thời Vương Măng phản triều đ́nh. Bà tên thật là Hớn Liên Bạch mà cô Thất Nương hằng giới thiệu và kính nhường là thi thơ hay nhất. Bà có tài văn chương, tính người thẳng thắn, mực thước. Bà v́ bất b́nh trước việc bất trung của Vương Măng mà xui khiến chư hầu và các tướng tá giúp nhà Hán triệt hạ Vương Măng. Song đến thời Hậu Hán, khi Lưu Tú lên ngôi, sai Tô Định và Mă Viện sang xâm lược nước ta, Bà lại bất b́nh kẻ mạnh hiếp yếu nên chuyển kiếp sang Việt Nam chống lại nhà Hậu Hán, với họ Hồ để che mắt người đời. Bà giáng sinh trong nhà Hồ Công An ở Đông Cao, tên là Hồ Đề, hàm ư "Hồ Đề kháng Hớn" (Cô Hồ chống nhà Hớn). Cô Hồ có sức khoẻ hơn người, đă bắt được ngựa dữ lúc c̣n ít tuổi. Tô Định hay tin nầy, phái sứ giả tới đ̣i. Hồ Đề tát tai tên quan. Thân phụ cô lo sợ sanh bệnh rồi mất. Cô cùng mẹ đến động Lăo Mai ẩn náo, ngày ngày cưỡi ngựa bán muối. Nhờ đó cô Hồ Đề biết trong số 72 động chúa, quá nửa đều bất b́nh với giặc Hán. Sau cô bắt được voi trắng, dân 72 động tôn cô là "Vua Thiên Sứ" (Thái Nguyên), coi cô là Tiên Nữ giáng trần. Danh tiếng cô bay khắp các châu quận, ngày càng có nhiều hào kiệt đến xin theo. Khi hay tin Hai Bà Trưng tụ nghĩa ở Mê Linh, Hồ Đề cầm cờ xanh (màu Tiên), cỡi voi trắng (voi thần) cùng 2000 nghĩa binh miền núi về Mê Linh hội quân. Hồ Đề được phong chức Phó Nguyên soái, đứng đầu hàng nữ tướng, ngang chức với Bà Trưng Nhị. Hồ Đề ra trận nào thắng trận ấy, có lần đuổi Mă Viện chạy dài ở Cao Bằng. Sau khi Hai Bà Trưng tử tiết, (năm 43 sau Tây Lịch), Hồ Đề một ḿnh chống giặc, cô mở đường chạy tới bờ sông Nguyệt Đức và hét to lên một tiếng, nước rẽ làm hai đón cả người lẫn voi. Cô Hồ Đề đă trở về cơi Trời.

Cô là Bát Nương, có bổn phận bảo hộ và phổ độ dân Trung Hoa (lúc là Hớn Liên Bạch) và người Thượng, đồng bào ít người ở nước ta theo Đạo mới”.


9. Cửu Nương DTC 01-10-1925

Khiết sạch duyên trần vẹn giữ,

Bạc Liêu ngôi cũ c̣n lời;

Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,

Thương người noi đạo, Phật Trời cũng thương.

  • Nguồn gốc:

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương DTC cho biết về Diêu Tŕ Cung: “Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương DTC, Hớn Liên Bạch là Bát Nương DTC”...

Ư nghĩa bài thi này như sau: “Duyên nợ ở cơi trần quyết giữ tṛn trong sạch”. Ở Bạc Liêu c̣n truyền thuyết về ngôi "Bà Chúa Xứ". Bài này diễn tả tâm sự của Bà Chúa Xứ Chân Lạp. Bà được dân Hậu Giang, nhất là dân Bạc Liêu ca ngợi công đức mở đất giúp lưu dân. Chẳng ngờ, vua Chân Lạp, chồng bà mới chung sống được 8 năm th́ qua đời, Bà chỉ c̣n niềm vui là lo giúp lưu dân Việt Nam đến làm ăn vùng đất mới, sau khi qua đời cũng đắc quả Cửu Nương. Bà nắm cơ huyền vi xây chuyển, thế hữu h́nh biến dạng, từng địa hạt văn chương, thi phú, cầm kỳ, bá nghệ mỹ thuật đều nhờ sự điều khiển khai đuốc linh quang cho từng chúng sanh (theo Thánh giáo). "Bạc Liêu ngôi cũ c̣n lời" tức là chuyện của bà không được lịch sữ ghi rơ mà chỉ c̣n truyền miệng.

Cô Cao Thoại Khiết là hậu thân của Công chúa NGỌC VẠN. Từ thế kỷ 17, có nhiều người Việt Nam đến đất Chân Lạp (miền Biên Hoà, Bà Rịa ngày nay) để vở đất làm ruộng. Lúc ấy, vua Chân Lạp Chey Chetta II cũng muốn t́m một đối lực chống lại Xiêm La nên đă xin cưới con chúa Hy Tông. Năm 1920, Chúa Nguyễn gă công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp. Vậy bà Ngọc Vạn trở thành "Bà Chúa xứ Chân Lạp". Bà đă đem nhiều người Việt Nam đến đất mới Oudong, có người được cất nhắc giữ chức hệ trọng trong triều. Năm 1628, Chey Chetta II mất, bà Ngọc Vạn thủ tiết thờ chồng. "Chính chuyên buồn chẳng trọn đời".

Năm 1658, v́ ghét người con ghẻ là vua Nặc Ông Chân lấy vợ người Mă Lai và lúc nào Bà cũng nghĩ bà phải là "Bà Chúa xứ Chân Lạp" nên bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn khuyên các con của Cựu vương Préah Outey cầu cứu Chúa Nguyễn, Chúa Thái Tông sai tướng bắt được Nặc Ông Chân. Từ đó, lưu dân Việt đến Đồng Nai, Gia Định rất đông, lấn sang miền Hậu Giang. Họ làm ăn rất sung túc nên bị người Triều Châu ở Bạc Liêu thầm ghen ghét. Để nhớ ơn người đă mang đất đến cho họ, nhân lập đă lập miếu thờ ở núi Sam (Thất Sơn) tục gọi là "Bà Chúa Xứ" Chân Lạp. Người ta tạc tượng Bà cao tới 1,25 mét phảng phất văn hoá Bà La Môn (là Đạo của Chetta II). Bà rất linh hiển, pḥ hộ dân chúng như ngày c̣n sống nên hằng năm cứ đến ngày 25-4 âm lịch là khách thập phương tụ tập làm lễ "Vía Bà".

Đọc hai câu liễn thờ th́ thấy rơ quá tŕnh độ dân của Bà:

Cầu tất ứng, thành tất linh, mộng trung chỉ thị.

Xiêm khả kính, Thanh khả mộ, ư ngoại nan lường

(Nguyễn Văn Hầu, Nửa tháng trong miền Thất Sơn, Sài G̣n, Hương sen 1971).

V́ sự hiện diện của Bà ở đất Chân Lạp mà quân Xiêm lo sợ uy danh Chúa Nguyễn nên không dám xâm lăng, c̣n người Thanh đây ám chỉ lưu dân Trung Hoa sang ở đất ta (khi Tôn Văn diệt nhà Thanh) rất nể oai danh Bà. Về sau có nhiều người buôn bán làm ăn ở Bạc Liêu lên miếu Bà thán oán về người Triều Châu (Trung Hoa) làm họ phá sản. Bà đưa đường dân Việt đến xứ nầy, Bà phải bảo vệ họ nên Bà chuyển kiếp vào nhà họ Cao với cái tên Thoại Khiết (1895) tại Tân Hưng, Bạc Liêu, em thứ chín của Cao Triều Phát. Năm 21 tuổi bà lập gia đ́nh với ông Nguyễn Bá Tính, v́ không nợ hồng trần nên Bà tuyệt tự và qui Tiên (1920) lúc chưa tṛn 25 tuổi.

Bà là Cửu nương Diêu Tŕ Cung, có phận sự bảo hộ người miền Tây theo đạo mới như Cao Triều Phát. Vùng này có nhiều người theo Đạo và nhiều Chức sắc cao cấp được ân phong. Đó là công đức của Bà Chúa Xứ.


10. Nhứt Nương DTC 15-09-1932

Hoa huỳnh nở trời thơm mấy dặm,

Lần xem thu lần ngắm qua đông;

Sông mai lạc lối dặm hồng,

Đề thơ cậy lá ngô đồng rơi tin.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).


 

11. Nh́ Nương DTC 15-09-1932

Cẩm phong nhụy đào thơ nở bóng,

Vẻ trân cam lồng lộng mùi thơm;

Ḱa nghe tiếng hạc bay hôm,

Giải sầu gởi bóng khuyên hồn chơi Tiên.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).


 

12. Tam Nương DTC 15-09-1932

Tuyến đẹp vẻ thêu bông nổi mặt,

Đoạt kinh luân nặng thắt túi thơ;

Ḱa ai nhớ lúc khua tơ,

Tài ba có biết đă nhờ ở ai?

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).


13. Tứ Nương DTC 15-09-1932

Gấm hiền trước v́ vài câu nói,

Dựa người nhơn chẳng mỏi đường xa;

Ngừa loan phải gọi pḥng ḥa,

Trường hồng đă tạo mấy nhà tài văn.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).


14. Ngũ Nương DTC 15-09-1932

Liễu dựa bến lá cành dă  dượi,

Hỏi buồn chi nên phải xơ rơ;

Trăng khuya dựa cửa đương chờ,

Tiếng kêu t́nh mộng bấy giờ mới trao.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).


15. Lục Nương DTC 15-09-1932

Huệ phong nguyệt nhập vào nhung thắm,

Điệu phong ba đă lậm màu trần;

Xưa từng làm tướng cầm quân,

Nay quen thói khách hồng quần phấn son.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).

16. Thất Nương DTC 15-09-1932

Lễ kính bái chị em thương tưởng,

Nhớ nhau không cân lượng dễ sầu;

Dường như biển thảm không cầu,

Kẻ th́ cuối băi, người đầu gành khơi.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).

17. Thất Nương DTC 15-09-1932

Hớn hở hỏi ai là mắc cở,

Dựa bên ḿnh c̣n nợ tiền khiên;

T́m thành toan bỏ cửa chiền,

Cũng v́ bị nạn ông tiền ghét Tiên.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).


 

18. Cửu Nương 15-09-1932

Khiết tinh thần đẹp phong h́nh bóng.

Trọn h́nh soi phải lóng nước trong;

Gương xưa v́ chút t́nh nồng,

Không ai biết vợ gọi chồng chi chi.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật giáng ban mỗi người một bài thi tại đàn cơ Thảo Xá Hiền Cung ngày 15-09-1932 (15-08-Nhâm Thân).


19. Nhứt Nương DTC 01-09-1935

Hoa Tiên đổ đẹp xinh văn miếu,

Gót Tiên đưa yểu điệu nữ dung;

Cung Diêu ghé mắt thư hùng,

Reo tơ may gặp hội cùng tương tri.

  • Nguồn gốc:

Bà Nhứt Nương DTC giáng ban thi ngày 01-09-1935 (04-08-Ất Hợi) tại Giáo Tông Đường.


20. Nhị Nương DTC 01-09-1935

Cẩm chức dệt câu biệt khách,

Bút Tiên vẽ nét tri hoan;

Xé mây lướt dặm trần hoàn,

Ḍm theo nỗi khổ, đôi hàng lệ sa.

  • Nguồn gốc:

Bà Nhị Nương DTC giáng ban thi ngày 01-09-1935 (04-08-Ất Hợi) tại Giáo Tông Đường.


21. Tam Nương DTC 01-09-1935

Tuyến kim đưa khách chưa ḥa,

Mượn gương bạch thố rọi nhà tri âm;

Ngân kiều cách bức bao lăm,

Ướm buông lời ngọc hỏi trần vui chưa?

  • Nguồn gốc:

Bà Tam Nương DTC giáng ban thi ngày 01-09-1935 (04-08-Ất Hợi) tại Giáo Tông Đường.


22. Tứ Nương DTC 01-09-1935

Gấm Tô Huệ ngày xưa đề thảm,

Nét Tiên hoa sầu đạm vân phong;

Ḱa thương những khách má hồng,

Đẹp xinh tô đậm bụi nồng thế gian.

  • Nguồn gốc:

Bà Tứ Nương DTC giáng ban thi ngày 01-09-1935 (04-08-Ất Hợi) tại Giáo Tông Đường.


23. Ngũ Nương DTC 01-09-1935

Liễu yếu ớt những lo gió dội,

Có mảnh thân e nỗi khổ thân;

Riêng lo tài sắc hồng quần,

Không nhơ bợn tục nợ trần lánh chơn.

  • Nguồn gốc:

Bà Ngũ Nương DTC giáng ban thi ngày 01-09-1935 (04-08-Ất Hợi) tại Giáo Tông Đường.


24. Lục Nương DTC 01-09-1935

Huệ trí định Tiên phàm đôi lẽ,

Của không môn mới nhẹ tiền duyên;

Phất phơ đưa phướn diệu huyền,

Trông vơi thấy khách cửu tuyền rậm chơn.

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi ngày 01-09-1935 (04-08-Ất Hợi) tại Giáo Tông Đường.


25. Thất Nương DTC 01-09-1935

Lễ kinh để mấy chương tiết nghĩa,

Vô tự đề cửa tía chứa hoan;

Trăm cay là phép tạo nhàn,

Có phong ba mới dựa hàng trượng phu.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương DTC giáng ban thi ngày 01-09-1935 (04-08-Ất Hợi) tại Giáo Tông Đường.


26. Bát Nương DTC 01-09-1935

Sen th́ ở nơi hồ hoán trược,

Công th́ hay định phước vinh ba;

Non Thần nhắn bạn đường xa,

Đường tu khổ hạnh mới là cao siêu.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi ngày 01-09-1935 (04-08-Ất Hợi) tại Giáo Tông Đường.


27. Cửu Nương DTC 01-09-1935

Khiết tính nết thanh liêm là trọng,

Phép tu thân nhớ bóng là hơn;

Chuông mai dập thức mê hồn,

Cung Tiên mới đặng rửa hờn kiếp sanh.

  • Nguồn gốc:

Bà Cửu Nương DTC giáng ban thi ngày 01-09-1935 (04-08-Ất Hợi) tại Giáo Tông Đường.


28. Tam Nương DTC 05-09-1935


Phận mỏng manh dám tranh hơn thiệt,

Để có người oanh liệt giao phong;

Dầu chi cũng nghĩa đồng song,

Lời quê ai dám đèo bồng chọc nhau.


29. Nhứt Nương DTC 10-09-1946

Nhẫng ngồi giữ Huỳnh Hoa Ngạn Uyển,

Mà quên nghe đặng tiếng vĩnh sanh;

Đoạn đường lều cỏ cḥi tranh,

Tay nương cây gậy một ḿnh trông vơi.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu dạy Cửu Nương giáng ban cho các bài ngày 10-09-1946 (15-08-Bính Tuất) tại Ṭa Thánh. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu dạy:

Thiếp chào chư Thiên mạng nam nữ. Thiếp xin tỏ đôi lời cùng Ngự Mă Thiên Quân Hộ Pháp. Từ ngày Thiếp đến chung cùng chư Thiên mạng đến nay th́ tính đă 20 năm có lẻ, chỉ lấy t́nh thân ái thiêng liêng mà xưng hô cùng nhau là v́ Thiên thơ tiền định. Thiếp đến d́u đường cho con cái Chí Tôn đến ngày thành Đạo.

Ngày nay đă đúng kỳ sở định, Thiếp mới đặng quyền nh́n nhận con cái của Thiếp. Vậy từ đây, Thiếp chỉ dụng lời chí thiết yêu đương, là Mẹ con tương hội. Vậy chư Thiên mạng đừng phiền Thiếp nghe!

Hộ Pháp xem bài văn Thiếp mà nghĩ đến t́nh trạng của Diêu Tŕ Cung đau thảm đến dường bao, khi  con mông trần buổi nọ. Cửu Nương nối điệu toàn văn động đ́nh.  Các con nữ phái b́nh thân”.

Theo lịnh Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, Nhứt Nương DTC khởi bài Văn và tám vị “Tiếp Văn” theo thể thơ song thất lục bát..

 

30. Nhị Nương DTC 10-09-1946

Trông động cũ màu trời biến sắc,

Trông cung nga thiếu bậc từ quân;

Trông xa đảnh Thánh non Thần,

Trông đền Ngọc Khuyết vắng phần Thiên lương.


31. Tam Nương DTC 10-09-1946

Nay đầm ấm con đường hạnh phúc,

Cơi phong trần gội chút hồng ân;

Tiêu diêu phai lợt mùi trần,

Tỉnh say với giọt nước ngần tẩy mê.


32. Tứ Nương DTC 10-09-1946

Tưởng trọn phận tô xuê đảnh Việt,

Nương thuyền từ cứu tuyệt trần ai;

Đường quê nào thấy Thiên thai,

Công tŕnh lập đặng Vân đài chí công.



33. Ngũ Nương DTC 10-09-1946

Mở rộng cửa đại đồng vạn chủng,

Khai nẻo sanh cứu sống nhơn gian;

Trị tâm mở mắt song quang,

Khai đường Cực Lạc, mở đàng Lôi Âm.



34. Lục Nương DTC 10-09-1946

Đưa gương rạng Quan Âm dẫn thế,

Diệt mê hồn tồi tệ kiếp căn;

Cam lồ rửa sạch phong trần,

Gương xưa để bước đi lần cảnh thăng.



35. Thất Nương DTC 10-09-1946

Nào dè phép Quỉ toan cải chánh,

Mượn quyền Yêu so sánh Chí Linh;

Đem thân lữ thứ làm binh,

Cầm gươm huệ chặt tan tành cung thương.

 

36. Bát Nương DTC 10-09-1946

Hỡi nào kẻ lo lường nghiệp Đạo,

Hỡi những trang nóng máu anh phong;

Ngôi Thiên để dựa bóng hồng,

Phục hưng gầy nghiệp con Rồng cháu Tiên.


 

37. Cửu Nương DTC 10-09-1946

Gầy sự nghiệp tổ tiên ngày trước,

Dựng miếu đường hưởng phước tự do;

Mảng trông bến cũ đưa đ̣,

Chơn quân lương tể gây tṛ vinh phong.

Xin nhượng bút cho Bát Nương DTC. Bà Bát Nương DTC giáng ban cho bài thi tám câu bảy chữ như sau:

Đào nguyên lại trổ trái hai lần,

Ai ngỡ Việt Thường đă thấy lân;

Cung Đẩu vít xa gươm Xích quỉ,

Thiềm cung mở rộng cửa Hà ngân.

Xuân Thu định vững ngôi lương  tể,

Phất Chủ quét tan lũ nịnh thần;

Thổi khí vĩnh sanh lau xă tắc,

Mở đường quốc thể định phong vân.


 

38. Bát Nương DTC 1950

Mến những khách cầm kỳ thi họa,

Mến những người nho nhă tri âm;

Khi vui ngâm khúc nguyệt cầm,

Khi nhàn dạo bước theo ḍng Đào Nguyên.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung giáng ban bài thi “Tứ Thời” để dạy cách hành thi vào ngày xx-05-1950 (04-Canh Dần) để dạy Chức Sắc Tiểu Cấp Hiệp Thiên Đài. Trong năm tháng từ ngày 10-06-1950 (25-04-Canh Dần) đến 08-11-1950 (29-09-Canh Dần), Bà chịu khó dạy Chức Sắc Tiểu Cấp Hiệp Thiên Đài làm thi với những bài song thất lục bát rất có giá trị.

39. Bát Nương DTC 1950

XUÂN

Khi thơ thẩn gian biên đợi khách,

Nghe oanh vàng véo vắt tin xuân;

Trăm hoa đua nở tưng bừng,

Vườn hồng phai thắm đến chừng hạ sang.

 

40. Bát Nương DTC 1950

HẠ

Miền Tây Vức sen vàng khoe lục,

Cá Vi Hà trương vuốt háo Long;

Lưng trời gió dục Nam Phong,

Đờn ve hơi mỏn tiết hồng thu sang.


41. Bát Nương DTC 1950

THU

Ḱa thỏ bạc hồng nhan điểm soạn,

Nọ cúc vàng ngào ngạt đưa hương;

Chồi ngô vừa nảy bên tường,

Rừng ṭng tuyết gội đă chường đồng liên.


 

42. Bát Nương DTC 1950

ĐÔNG

Xem rừng trước Bảy Hiền ẩn dật,

Cụm thanh ṭng bền chất kiên tâm;

Cung Tiên thảnh thót hạc cầm,

Trời đông hầu măn bước tầm ai xuân.


 

43. Bát Nương DTC 1950

NGƯ

Thuyền Ngư Phủ trông chừng băi hạc,

Bóng ác vàng vừa gát hiên Tây;

Kinh luân một quảng gánh đầy,

Vui miền Sông Vị tháng ngày thung dung.

Chờ vận thời tang bồng toại chí,

Đợi thời lai hồ thĩ tung hoành;

Non sông mở mặt hùng anh,

Đem tài thao lược giúp thành Nam Bang.

 

44. Bát Nương DTC 1950

TIỀU

C̣n lắm kẻ tầm đàng Từ Thức,

Mến cảnh nhàn mượn chức tiều phu;

Non Tiên học chước nhiệm mầu,

Gặp thời Tây Bá công hầu cũng vui.

 

45. Bát Nương DTC 1950

CANH

Thương ông Thuấn tánh người khiêm tốn,

Mang áo tơi cày chốn Lịch San;

Nông phu cũng thú thanh nhàn,

Phải đời Thánh Đức mở đàng chăn dân.

46. Bát Nương DTC 1950

MỤC

Trời rựng sáng ân cần chức nghiệp,

Túc c̣i sương vầy hiệp đoàn chiên;

Chăn nuôi lớn nhỏ vẹn tuyền,

Cầm cương giữ lấy mối giềng phận ta.


 

47. Ngũ Nương DTC 05-05-1951

Liễu gió thổi cành hoa thơ thới,

Sen đông hạ càng mới càng hay;

Mỗi nơi lố bóng Cao Đài,

Mượn danh tá thế là bài chánh chung.

  • Nguồn gốc:

Bà Ngũ Nương DTC giáng ban thi ngày 05-05-1951 (30-03-Tân Măo). Bà Ngũ Nương DTC dạy: “Đây là ngọn gió bấc sắp  thổi cho cả con cái Chí Tôn để am hiểu máy huyền linh cơ tạo, hầu nêu cao phẩm hạnh của mỗi cá nhân”.

 

48. Nhứt Nương DTC 10-09-1965

Hoa ngào ngạt mùi hương tỏa kín,

Cảm ḷng thành Điện Thánh nương về;

Khuyên đời mau tỉnh giấc mê,

Lo tu sau khỏi năo nề kiếp duyên.

  • Nguồn gốc:

Bà Nhứt Nương và trọn Cửu Vị Nữ Phật giáng theo sau Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu lần lượt ban thi. Bà Nhứt Nương viết: “Nhứt Nương, Kính chào chư Hiền Huynh, Hiền đệ Hiệp Thiên Đài, chư Hiền Huynh, Hiền Tỷ, Hiền đệ, Hiền muội Cửu Trùng Đài và Phước Thiện”.


49. Nhị Nương DTC 10-09-1965

Cẩm tịch Dao Cung Tiên vị đắc,

Hạnh phùng vũ lộ sắc Thiên ban;

Đầy vơi vui hưởng kiếp nhàn,

Ngảnh trần có khác chi tràng mộng xuân.

  • Nguồn gốc:

Bà Nhị Nương và trọn Cửu Vị Nữ Phật giáng theo sau Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu lần lượt ban thi.

 

50. Tứ Nương DTC 10-09-1965

Gấm thêu hoa càng nh́n càng đẹp,

Đức thêm tài chẳng hẹp đường tu;

Mặc người lên vơng xuống dù.

Lợi danh xạo xự thiên thu lỡ làng.

 

51. Ngũ Nương DTC 10-09-1965

Liễu chiều gió xung xăng màn hạnh,

Như để lời cửa Thánh nhắn tin;

Đạo tâm xin gắng vẹn ǵn,

Đọa thăng hai lẽ nơi ḿnh liệu toan.


52. Lục Nương DTC 10-09-1965

Huệ ân chan khắp toàn nhơn loại,

Vào đường tu phỉ toại kiếp sanh;

Lánh nơi tranh đấu giựt giành,

Nghiệt oan khỏi vướng thân danh vẹn phần.


 

53. Thất Nương DTC 10-09-1965

Lễ văn đủ định phân khách trí,

Hạnh đức toàn xứng vị Thánh nhân;

Cơi trần là chốn mê tân,

D́u nhau lánh giả tầm chân tiếc ǵ.

 

54. Bát Nương DTC 10-09-1965

Sen Trắng vóc tinh vi đảnh Hớn,

Nêu tiết trong soi sáng tài hoa;

Để lời nhủ bạn quần thoa,

Kiên trinh liệt nữ phẩm nhà chớ quên.

 

55. Cửu Nương DTC 10-09-1965

Khiết kỷ tu chơn duyên quả định,

Xả thân vị Đạo đắc Thiên Ân;

Lâng lâng giũ sạch bụi trần,

Cứu nhân độ thế phước phần hậu lai.

 

56. Bát Nương DTC

Bạch-Liên hữu nhụy chiêu hương khách,

Thanh-nguyệt hề quang dụ quí-quân;

Trăng trong dục bước du-nhân,

Hoa thơm luyến khách vầy đoàn chi-lan.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương cho bài thi này không rơ ngày, Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu chép trong “Bút Kư”.


_________________________________________________________________________________________________________________

 

PHẦN IV

Thể thơ dài SONG THẤT LỤC BÁT


 

1. Bát Nương DTC 14-12-1927

Non Thần tiếng hạc chầu vang đảnh,

Chờ rước người ngay chánh t́m đường;

Mơ màng chưa tỉnh huỳnh-lương;

Sóng xao biển khổ nên thương khách trần.

Nhọc-nhằn chịu mấy lần cay đắng,

Cũng đ̣i khi ruột quặn ḷng đau;

Đau v́ non Việt đổi màu,

Tang-thương lắm lúc quốc gào nhành khuya.

Rơi lá lấp xuân chia thu hạ,

Ĺa cảnh xưa người lạ đoanh tṛng;

Châu đầy mắt ngó non sông,

Thuyền khơi tách bến không trông cơi bờ.

Ngày tháng lụn thần-thơ thơ-thẩn,

Ngẩn dạ xem ngọc vẫn châu trầm;

Hiệp vầy mấy kẻ đồng tâm,

Phui-pha thế-sự tiếng cầm ḥa thinh.

Non sông mong buổi tạo thành …

  • Nguồn gốc:

Bà Bát nương DTC giáng ban cho bài thi này ngày 14-12-1927 (21-11-Đinh Măo). Diêu Tŕ Cung Bát-Nương Hớn Liên Bạch xin tiếp thi (bài thi trên).


 

2. Bát Nương DTC 14-12-1929

Trong gia thất điều đ́nh phần Nữ phái,

Điều hư nên trái phải nơi ḿnh;

Sẵn tay nắm mối tơ t́nh,

Làm nên quân tử phận ḿnh mới an.

 

Đừng cậy sắc dọc ngang búng rảy,

Dầu ngu si cũng ngăi vợ chồng;

Đừng nay khen bưởi chê ḅng,

Đổi thay mái tóc duyên nồng lại quên.


 

Nương lấy bóng ṭng quân mượn tiếng,

Đă đeo mang lấy miếng hồng quần;

Đừng ham mây khỏa đảnh Thần,

Nhớ cơn lỗi đạo tảo tần mai xưa.


Đặng trí thức phải ngừa ḷng khách,

D́u dắt nhau chớ nghịch ḷng nhau;

Biết tâm biết chí anh hào,

Nữ tâm làm mảnh nhung bào chở che.

 

Dầu lời thốt dặt dè từ chuyện,

Mượn đoan trang thay miếng đỉnh chung;

Làm cho sấn chí anh hùng,

Non sông trổi bước ngàn trùng gươm đao.


Nghi dung chớ mượn màu son phấn,

Để trong gương mà hứng non sông;

Coi như gác tía lầu hồng,

Chẳng phen giữa trận tên đồng không nao.


Có công khéo khá trau nên khéo,

Phen nàng Tô dệt điệu Hồi văn;

Đừng theo tính nết ả Hằng,

Đêm khuya bán nguyệt trốn chồng cung trăng.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng cho bài thi Điệu Động Đ́nh này và giảng nhân đàn cơ ngày 14-12-1929 (14-11-Kỷ Tỵ) tại Thảo Xá Hiền Cung:

Em chào mấy anh và mấy chị. Xin đứng dậy.

Thưa anh (Thượng Trung Nhựt), Thầy Em có để lời cám ơn anh (cười) sắp đặt Nữ phái (Cười). Nhị ca, anh có giận th́ giận chớ đừng ĺ ĺ nặng Thần cơ, Em viết không đặng, Em rầy đa (Cười). Em có nhiều điều nói lắm, liệu lấy (Cười).

Thưa chị Hương Thanh, Em vưng mạng lịnh Thầy lo về sự khuyết điểm trí thức tinh thần của Nữ phái, c̣n chị th́ lo về phần vật chất tuồng đời. Vậy th́ Em sở cậy chị sự hành động làm thế nào cho sự dạy dỗ của mấy Em ra thiệt hành th́ mới mong cải sửa đặng tà tâm của nhiều kẻ.

Thưa chị, Em chẳng dám nào xin cạn tỏ ra đây  nhiều  điều ước vọng của Thầy Em và  Quan Âm Bồ Tát. Cả cơ độ tận Nữ phái chỉ xu hướng về trí thức tinh thần. Có đủ trí thức tinh thần mới mong đoạt đặng sự khôn ngoan của cơ Tạo hóa. Đoạt đặng cơ Tạo hóa mới đắc đạo đặng. Hại thay, Em chưa thấy Nữ phái đặng một người th́ mong chi độ rỗi. Thưa chị, xin ráng chung sức nhau, chị phần Đời, các Em phần Đạo, lo liệu nên phương đặng dạy lẫn giùm Nữ phái, kẻo Thầy Em và Chí Tôn đă lắm phen buồn thảm. Chị nương theo Thánh giáo của mấy Em, chẳng khác nào mấy Em nương theo điều dạy răn của chị, nhưng Em xin một điều là, phải khởi tuyển chọn Nữ phái y như lời anh Thượng Phẩm đă chỉ vẽ cho anh Hộ Pháp, nghĩa là các nơi nào chưa lập Nữ phái, chị  gia công lo lập cho thành, và lựa người cho đi  các nơi quan sát sở hành của Nữ Chức sắc. Em thưa thiệt cùng chị rằng, nhiều kẻ lạm dự Thiên phong mà làm nhục lây toàn Nữ phái.

Thưa anh Thượng Trung Nhựt và chị, đă đắc lịnh Chí Tôn rồi, th́ từ đây không c̣n vị  nể chi đặng nữa. Nên th́ để, hư th́ bỏ. Dường ấy mới có phương lập thành Nữ phái. Em nên cho chị hiểu rằng, Nữ phái lập thành, Nam phái chỉnh đốn lại hoàn toàn th́ Lư Giáo Tông mới giảm nộ và tái thủ quyền hành. Em dùng điệu văn “Động đ́nh biến hóa” mà khởi răn lỗi của đời. Xin mấy chị ngày sau dùng nó mà trách khuyên phái Nữ”.


3. Thất Nương DTC 16-12-1930

Người t́nh-ái ḷng thương như biển,

Cả nước non hoà tiếng yêu-đương;

Thương hơi gió, lá nâng sương,

Thương chim đổ cội, thương tường che hoa.

Thương tiếng dế như hoà khóc nhạn,

Thương hơi cây gió thoảng reo đờn;

Thương bầy thú nhảy đầu sơn,

Kết đôi chẳng hiểu tiếng hờn chia bâu.

Thương sông chảy như rầu nhăn mặt,

Thương gành khuya như bắt cầu Lam;

Thương con thuyền bá nương buồm,

Thương gịng Nhi-tử chứa hờn Tương-giang.

Thương gió lặng mây tan Trời rạng,

Thương muôn sao nhấp-nháng bóng khuya;

Thương mưa đổ giọt châu ria,

Cỏ cây nhờ nước chan b́a đầm xuân.

Thương đến chốn gọi rừng Trước-tử,

Chứa hiền xưa đặng giữ Đạo-đời;

Thương công ngư-phủ dầm khơi,

Đ̣ nhân rước khách lập đời an-nguy.

Thương vạn-vật cũng b́ đồng-loại,

Thương nhân-sanh chẳng mỏi ḷng thương;

Thương người lạc bước lỡ đường;

T́m chơn Cung-Tốt, lạc đường Bích-Cung.

Thương các Đấng anh-phong vị chủng,

Thương những trang bỏ sống v́ nhà;

Thương lùm mả ủ thân ma,

Cốt-căn bao Đứng san-hà gây nên.

Thương cửa Khổng chẳng bền mối Đạo.

Thương nhà Văn khó bảo cơ Văn;

Đ̣i phen nắm viết muốn quăng,

Đề danh chẳng kẻ đáng bằng ghi tên.

Thương những kẻ v́ hiền khổ phận.

Cửa tang du khó lấn đầu hiên;

Thương người đeo thảm chác phiền,

Nỗi duyên lỡ-dở hương nguyền lạnh tanh.

Thương cho kẻ ôm-giành cả nghĩa,

Thương cho người cửa tía cầu ô;

Bán thân v́ chút từ-cô,

Đem duyên mà đổi liễu-bồ buôn may.

Thương nỗi bạn hằng ngày trông bóng.

Kiếm người thương những ngóng tin sương;

Tuyết khuya bủa lạnh then giường,

Gối trăng chia nửa, bước đường lạnh-tanh.

Thương nghe dế năm canh trổi giọng,

Tưởng như dường ướm gióng dây loan;

Thương ai thổn-thức canh tràng,

Dở pḥng pḥng vắng, vén màn màn côi.

Thương cho kẻ ngậm-ngùi lỡ phận,

T́m kiếm đôi lại vấn-vương oan;

Thương người lánh tục t́m nhàn,

Trễ chơn mà bị phụ-phàng t́nh duyên.

Thương người giữ chẳng bền danh-tiết,

V́ thương nên khó biết trọng ḿnh;

Thà cam chết sống với t́nh,

Chia tay chẳng chịu sớm đành phụ nhau.

Thương Trời rạng lao-xao cánh nhạn,

Đến đưa tin của Hán Chiêu-Quân;

Thương người lạc bước phong trần,

Đem thân Hồ-Hớn bỏ phần tơ-duyên

Thương người những chờ thuyền biển ái,

Bồng con thơ ngần-ngại trông chồng;

Tấm trinh đổi mặt non sông,

Đành đem thân-đá hẹn cùng tuyết sương.

Thương mây toả như dường vẽ bóng,

Chức-Nữ kia ngồi ngóng Ngưu-lang;

Trông vời cánh thước nhộn-nhàng,

Cầu ô chẳng đến đắp đàng hiệp đôi.

Thương Cung Quảng-Hằng ngồi ngó thế,

Đợi tin chàng Hậu-Nghệ đến thăm;

Thương ai nhớ trộm mến thầm,

Lựa duyên chẳng chịu ôm cầm thuyền ai.

Thương Tô-Huệ hằng ngày dệt gấm,

Dâng kiên-trinh vào tận đền rồng;

Thương người chịu nhọc cùng chồng,

Dầu xa ân-ái c̣n nồng nghĩa nhau.

Thương Hạnh-Nguơn đă nhào xuống ngựa,

Theo t́nh chung trước của ải đồng;

Thương ai đau-đớn cùng chồng,

Chi-phui hồn-trí năo-nồng canh khuya.

Thương Mạnh-Lệ khi ĺa pḥng tía,

Đoạt khôi-khoa lo phía công phu;

Thương người nghĩa cả tiếng nhu,

Đưa chồng ra khỏi oán-thù đứa gian.

Thương Mạnh-Quang băng ngàn xe đẩy,

Tùng bước chồng chẳng thấy truân-chuyên;

Thương người nặng nghĩa hơn phiền,

Đem thân bồ-liễu làm thuyền độ phu.

Thương Đề-Oanh vào hầu cảnh tớ,

Kêu oan nhà che chở phụ-ân;

Thương người hiếu-nữ v́ thân,

Chua cay dầu chịu phong-trần cũng cam.

Thương Trác-thị tai ham lóng tiếng,

Tư-Mă kia nhấn tiếng tri-âm;

Thương ngưởi biết chọn đồng tâm,

Chua cay khó-nhọc th́ ḷng cũng cam.

  • Nguồn gốc:

Bà Thất Nương giáng ban thi dài ngày 16-12-1930 (27-10-Canh Ngọ) lần thứ nhứt và ngày 16-08-1931 (03-07-Tân Mùi). Bà viết:

Chào hai Anh! Có Bát Nương theo em nhưng không chịu giáng cơ. Cười… . Bát Nương cậy em giúp người. Vậy em cũng bắt chước điệu văn Động-Đ́nh biến hóa của người mà làm thử một lần coi. Bà cho bài thi này.


4. Nguyệt Tâm Chơn Nhơn & Lục Nương DTC 1931

Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

Mặt nhựt rạng nhờ trời thanh bạch,

Cơi trần may nhờ khách đức dày;

Mùi hương sen Phật đă bay,

Từ bên Đông Á phô bày Tây Âu.

Nước hằng sống rửa bầu thế sự,

Khiến nguyên nhân đổi dữ theo lành;

Vạn bang dẹp cuộc chiến tranh,

Lập cơ thoát khổ độ sanh muôn loài.

Kẻ v́ mị đoái hoài giả đạo,

Kẻ hay tin quái giáo gây tṛ;

Nguyên nhân lỡ bước ai lo,

Đon đường Cực Lạc đưa đ̣ mê tân.


Khá hiểu nghĩa Thiền Lâm cho chóng,

Các nguyên nhân trông ngóng bấy lâu.

Biết thân lại đợi ai cầu,

Lục Nương tiếp:

Cầm gươm thần huệ soi lầu nguyệt quang.

Dục thế tục an nhàn lấy phận,

Cửa Thiên cơ khỏi vấn vương oan;

Để chân vào cơi Niết Bàn,

Thoát ṿng luân chuyển may đàng tầm duyên.

 

Tu đặng phép nhà Thiền ít kẻ,

Những đam mê theo lẽ dối đời;

Sa môn chánh pháp đổi dời,

Con buôn cửa Phạm gạt người thiện tâm.


Khá hiểu nghĩa Thiền Lâm cho rơ,

Các thinh âm chẳng có cửa Không;

Bớt điều sắc tướng hoàn vong,

Bớt điều hồ mị nhọc ḷng phạn hương.


Bớt những lẽ người đương mê tín,

Nhập Tịnh gia cậy lịnh Thích Ca;

Bớt điều làm săi bó ma,

Đưa linh lại mượn có nhà minh sanh.


Bớt những lẽ giựt giành bái phước,

Lấy Vu Lan đặng được ấm no;

Bớt kinh bớt xá dâng thơ,

Mă môn con hát giả đ̣ giải khiên.


Bớt cậy Phật lập quyền Địa Ngục,

Bớt đồ mưu lấy phục Di-Đà;

Bớt phương giải nạn tinh ma,

Lập nên danh phận cho nhà quỉ tăng.

 

Thái Thơ Thanh,

Anh khá kiếm lời răn của Phật,

Lấy từ bi d́u dắt sa môn;

Phật tăng như xác không hồn,

Lấy câu cứu khổ làm môn độ đời.


Anh khá mở cho rồi Cực Lạc,

Lập đường tu cho các chư sơn;

Tùng theo Tân Pháp Chí Tôn,

Đường tu cửa Phật may huờn như xưa.


          Em nói rơ cho vừa Anh hiểu,

Bác Thiền Lâm, tùng kiểu Tam Kỳ;

Phép mầu hai chữ Từ Bi.

  • Nguồn gốc:

Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Bà Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh đồng dâng sớ xin làm Cực Lạc Cảnh và Thái Cực Đồ vào năm Đạo Lịch Thứ Sáu (1931). Các Đấng thiêng liêng giao cho Lục Nương DTC giáng cơ trả lời Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh về việc bác đề nghị xây dựng Cực Lạc Cảnh và Thái Cực Đồ.

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng mở đầu cho thi, sau đó nhượng cơ cho Lục Nương dạy tiếp và kết luận. Đức Chí Tôn giáng cơ dạy riêng Ngài Thái Thơ Thanh. Thầy dạy:

Thơ, nghe dạy, Thời kỳ Mạt pháp nầy khiến mới có Tam Kỳ Phổ Độ, các sự Hữu h́nh phải hủy phá tiêu diệt. Thầy đến chuyển Đạo, lập lại Vô Vi, các con coi thử bên nào Chánh lư: Hữu h́nh th́ bị diệt đặng, chớ Vô Vi chẳng thế nào diệt đặng. Thơ! Thầy đă khiến con đi Đế Thiên Đế Thích đặng xem cho tạng mặt Hữu h́nh, nội thế gian nầy ngày nay ai cũng nh́n nhận cho là tối đại, mà con đă thấy nó c̣n bền vững đặng chăng? Ḷng đạo đức của con, Thầy thấy rơ, nhưng thời giả dối đă qua, thời kỳ chân thật đă đến, Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà ǵn giữ sự giả dối. Chẳng cần chi con lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết. Con hiểu bổn nguyên Bảo Sanh là bổn nguyên Thánh chất Thầy. Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn sanh mà thôi, phần hồn về Thầy".

 

5. LỤC NƯƠNG  DIÊU TR̀ CUNG ngày 15.2 Tân Mùi (2.4.1931)


Nương Huệ kiếm đoạn  ḍng oan nghiệt,

Thủ Thanh Long đặng diệt tà tinh

Thuyết đàn đă trổi thinh danh

Thổi loa dục thức chúng sanh giấc nồng.

 

Đại Đạo mở Trời Đông cứu thế,

Nắm tay nhau đoàn thể dắt d́u

Tây Đoài ác xế chín chiều,

Rừng hoang lạc bước ắt nhiều thú hung.

Nh́n Thiên nhăn Huyền Khung Thượng Đế,

Mặc Đạo y dùng kế độ đời.

Tam Kỳ tự chủ là Trời,

Diệu huyền giáng bút để lời dạy khuyên.

 

Khá xem lấy tích Tiên, sử Phật

Trải thân cho gió dập mưa dồi

Biển trần mặc sức sóng nhồi,

Từ thuyền tuôn lướt giữa đời cứu dân...

 

...Em lựa phăi hờn chi tiếng quở,

Lo t́m phương ăn ở vừa người

Vàng cao nào sợ lửa vùi,

Lửa cao đem thử vàng mười đẹp xinh.

 

Chị đến tỏ thật t́nh em rơ,

Luật Thiên Điều mắc mỏ lắm thay.

Tùy ḷng cơ Tạo đổi xây,

Dùng phương thử thách dở hay mất c̣n.


Cơn băo tố thuyền con thủ phận,

Để chờ cơn tan trận phong ba.

Nương thuyền Bát Nhă vượt qua,

Biển êm sóng tạnh mới ra giữa ḍng...


Em khá nghiệm những lời chị tỏ,

Xét cho cùng hiểu rơ thi hành,

Chị thương em lắm nhọc nhằn,

Thấy thân em khổ chẳng đành làm thinh.


Em muốn đặng thân vinh Cực Lạc,

Phải chịu cơn gió tạt sương lồng.

Quăng chi Đông lạnh, Thu nồng

Ǵn tṛn trách nhiệm Đảo -Bồng sau chung.


Cây muốn tịnh nhành rung v́ gió.

Trăng ánh mờ mất tỏ v́ mây.

Trái oan buộc chặc v́ dây

Cũng v́ phàm thể nhục thây dục người...


Khuyên em biết thời kỳ chuyển Pháp

Khuyên em nên chịu ép, chịu rầy.

Khuyên em trọng Đạo, thương Thầy

Khuyên em tŕ chí có ngày rảnh rang...

 

6. LỤC NƯƠNG  DIÊU TR̀ CUNG ngày 21.1.1932.

...  Biết thân lại đợi ai cầu 
Cầm gươm thần huệ xây lầu tuyệt oan.
Dục thế sự an nhàn lấy phận,
Sửa Thiên cơ khỏi vấn vương oan.


Để chơn vào chốn Niết Bàn,

Thoát ṿng luân chuyển mấy đàng tầm duyên.
Tu đoạt pháp nhà thiền ít kẻ,
Những ham mê theo lẽ dối đời.

Sa môn pháp chánh đổi dời,
Con buôn cửa Phạm gạt người thiện tâm,
Phải hiểu nghĩa thiền lâm cho rơ,
Các thinh âm chẳng có cửa không.


Bớt điều sắc tướng huờn vong,
Bớt điều tà mị nhọc ḷng Phạn nương.
Bớt các lẽ người đương mê tín,
Nhập tịnh gia cậy lịnh Thích Ca.

Bớt điều làm săi bó ma,
Đưa linh lại mượn có nhà minh sanh.
Bớt mọi lẽ giựt giành bói phược,
Lấy Vu lan đặng được ấm no.

Bớt kinh bớt xá dâng thơ,
Mă môn con hát giả đ̣ khỏi khiên.
Bớt dâng Phật, phế quyền Địa Ngục,
Bớt đồ mưu lấy phúc Di Đà .
Bớt phương giải nạn tầm ma,

Lập nên danh phận con nhà quỉ tăng.


7. Bát Nương DTC 31-10-1932

Cửa Đạo muốn mà đời cũng chuộng,

Chức sắc ưa mà ruộng cũng ưa;

Khác nào như hạn trông mưa,

Hồng ân bao thuở đổ thừa túi tham.

 

Xin khá nhớ Tiên phàm khác tánh,

Đá đất  nào dám sánh bạc vàng;

Trông vào cảnh tục sầu than,

Đều do bởi lấy một đàng lợi danh.

 

Ḱa những phép giựt giành quyền thế,

Nọ những là mưu kế khoe ḿnh;

Chuốt trau đẹp dạng tốt h́nh,

Ngữ ngôn dụng thói bạc t́nh gọi khôn.

 

Đă  đem hổ vào chôn cửa Đạo,

C̣n buông lung trở tráo dối đời;

Gạt người nào dễ gạt Trời,

Cái căn buộc quả đổi dời đặng đâu.

 

Kiếp th́ nhỏ mà nài chức lớn,

Phẩm c̣n hèn lại gượng làm sang;

Cửa Thiên đâu có chức quan,

Xưng danh Bà Lớn buộc ràng người thưa.

 

Miệng lẽo lự không chừa giả dối,

Ḷng tham sang hại lỗi đến chồng;

Cửa Trời cả tiếng khoe công,

Già thây c̣n đánh bóng hồng khoe duyên.

 

Nghĩ dấu sắc màu chiền khó vẽ,

Chốn thanh lâu khó vẽ màu già;

Phân nhau tượng Phật h́nh ma,

Pḥng đào vận áo cà sa dối đời.

 

Luật Đạo lại có lời rẻ rúng,

Phép nghiêm làm lợi dụng mưu gian;

Khác nào giữa chợ nài hàng,

Buôn may nhờ mặc áo tràng ni cô.

 

Khá tỉnh giấc lo cho nên phận,

Đừng ỷ ḿnh hiếp lẫn kẻ côi;

Thương sanh thốt dối ngoài môi,

Dụ người lấy của, gạt người lấy công.

 

Lấy đạo đức giúp chồng xứng vị,

Đừng xua lời hồ mị giục hư;

Nương quyền gian dưỡng trung trừ,

Nát nhà hại Đạo bấy chừ mới an.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi cho Nữ Phái, vừa cho từng đoạn bài thi vừa giải thích toàn bài vào ngày 31-10-1932 (03-10-Nhâm Thân).

Tu cũng muốn mà đời cũng ham,

Chức sắc Thiên phong cũng ưa mà ruộng cũng ưa;

Ham trông của tiền như nắng trông mưa,

Trời có bao thuở mà cho đầy túi tham.

Tánh Tiên Phật với tánh phàm khác nhau hẳn,

Đời là đất, Đạo là vàng ngọc.

Trời Phật ngó vô cảnh tục th́ buồn rầu,

V́ thấy người cứ lo tranh giành danh lợi.

Người tu mà cũng c̣n tranh quyền thế.

Lo tính làm sao cho ḿnh có quyền thế hơn,

Ḿnh khoe ḿnh là tài là phải.

Cái chi ḿnh tính ḿnh làm, đó là hay,

C̣n ai khác hơn ḿnh th́ là dở.

Lo trau tria cái thân thể coi cho tốt đẹp sang trọng,

Dụng ngôn ngữ già hàm, bạc t́nh, mà gọi khôn.

Có tội nên đi tu, nhiều người đem việc xấu hổ ngoài thế vào Đạo đặng giấu cái hổ đó, mà cũng c̣n dối đời, miệng lưỡi trở tráo nói thế nầy thế kia.

Ḿnh khôn ngoan gạt người, chớ gạt Trời sao đặng.

Làm sao thay đổi được luật Nhơn Quả.

Căn kiếp th́ nhỏ mà muốn chức lớn,

Phẩm giá c̣n hèn mà muốn làm sang, không khiêm từ chi hết.

Trong chùa có quan chức ǵ đâu mà ràng buộc người ta phải thưa bẩm ḿnh là Bà Lớn.

C̣n tánh lẽo lự xảo ngôn, không chừa lời giả dối,

Ḷng cứ ưa việc sang, làm cho chồng cũng bị tội lỗi liên can.

Cứ khua môi khoe đạo đức công quả với Trời Phật,

Đă già lớn tuổi rồi mà c̣n phấn điểm son dồi đặng khoe sắc khoe duyên.

Việc son phấn với việc chùa chiền là trái hẳn.

Thuở nay nơi lầu xanh ai vẽ màu già cho đặng.

Tượng Phật, h́nh ma khác hẳn nhau,

Ngoài th́ choàng áo cà sa, trong tâm th́ c̣n huê nguyệt, ấy là dối đời.

Luật Đạo, Luật Ṭa Thánh th́ coi rẻ rúng,

Lấy phép nghiêm của Đạo đặng lo lập kế xảo mị.

Chẳng khác nào giữa chợ đông nài bán hàng,

Khoe cái áo bà văi mà nói gạt người đặng bán cho nhiều.

Mỗi người tỉnh giấc mà lo cho nên phận ḿnh.

Phải chừa mấy việc tệ kể trên.

Chớ ỷ ḿnh quyền thế mà hiếp đáp kẻ cô độc.

Đừng làm hơi bác ái giả dối ngoài môi,

Rồi dụ dỗ người lấy của, gạt người để lấy công.

Phải lấy đạo đức giúp chồng cho xứng ngôi vị,

Đừng đem lời hồ mị mà giục hư cho chồng, làm cho chồng mất danh hiền lương đạo đức.

Ḿnh dựa quyền chồng đặng dưỡng kẻ gian, c̣n kẻ trung trực đạo đức th́  đuổi  đi.

Làm cho nhà cửa tan nát và làm hại Đạo nữa th́ bao giờ mới được an.


8. Bát Nương DTC 25-03-1934

Một coi nước Thiêng Liêng làm quí,

Bỏ trần gian giả sự trần gian;

Cửa tu biết hưởng nét nhàn,

Trọng sanh âu cũng mến hàng dân đen.

Hai là hiểu Thánh Hiền Đạo trọng,

Giữ nhơn luân đừng mộng cầu sang;

Cảnh thăng lấy đức chiêu hàng,

Quơ tay thục nữ mở đàn lệ nô.

Ba là trọng ni cô Thiên phục,

Đừng đổi tâm làm nhục Khổng môn;

Đừng lo trọng xác hơn hồn,

D́u đường cửa tội, gọi phồn Phong Đô.

Bốn đừng tưởng mơ hồ quyền Thánh,

Để riêng tâm trốn tránh phận Trời;

Nhẫn là ḷng dể dạ duôi,

Dối người phải nhớ, dối Trời lại sao?

Năm đừng nết hổn hào xảo ngược,

Trọn từ lâm lo rước nguyên nhân;

Độ người ḥa hưởn như đờn,

Bỉ thô ai để tiếng đờn bất lương.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi ngày 25-03-1934 (11-02-Giáp Tuất).

 

9. Tứ Nương DTC 05-09-1935

Nỗi niềm ai ghẹo cho đau,

T́nh thương coi lại như màu mây tan.

Bởi rẽ bạn với ai than văn,

Ngó trăng thu thêm ngán ngày qua;

Nơi Thanh cung hỏi Hằng Nga,

V́ ai ngọc đổ châu sa bấy chừ.

Đây chẳng lẽ làm khuây chẳng tưởng,

Tại nơi ai mà vướng dây oan;

Đă vô trong cơi trần hoàn,

Ăn cay nuốt đắng, cơ hàn nuôi thân.

Phải coi lấy tinh thần là trọng,

Đừng vấn vương theo bóng trời mai;

Chia phui một vẻ cảnh đài,

Công linh buổi trước chia tay nặng lời.

Lời đă dặn có Trời  nối  gót,

Lập ngôi Thiên rưới giọt từ bi;

Oan gia thuở trước c̣n ghi,

Cái  ngôi vô cực mấy khi đặng toàn.

Vinh hiển để danh truyền kiếp kiếp,

Lời đinh ninh đă hiệp nên h́nh;

Cớ sao chẳng giải thất t́nh,

Một phen lửa dậy, chẳng nh́n cao ngôi.

V́ thương mới nặng lời phiền trách,

Xử sao cho trong sạch nợ  đời;

Phận cam lănh tiếng con Trời,

Thương yêu sanh chúng để lời khuyên răn.

Đừng giận lẫy cằn rằn tính bỏ,

Các nguyên nhân hỏi ngơ cùng ai;

Thương đời ngậm đắng trêu cay,

Càn Khôn c̣n rộng có ngày nên danh.

Danh đừng giựt đừng giành hạnh thế,

Cả huyền linh há dễ hai ngôi;

Tự nhiên gầy dựng nên đời,

Chúng sanh thấy rơ mặt người nguơn công.

Thành thời thế ḷng nên định thế,

Phải ráng xem cạn lẽ hư nên;

Thiên điều đă chép nhiều tên,

Gắng công chờ đợi  ơn trên  định phần.

Đạo đă chịu lắm lần trắc trở,

Lẽ thiêng liêng hai lẽ định phân;

D́u dân có ngọn bút thần,

Ḿnh nên ḿnh hiểu khá cần đua tranh.

Đợi ngày đoạt công thành danh toại,

Mới tỏ tường trái phải Thiên cơ;

Sự chi cũng có định giờ,

 Nghe và ghi nhớ lời của em, Nhị Ca nghe. Em nhượng bút.

 

  • Nguồn gốc:

Bà Tứ Nương DTC ban thi này vào ngày 05-09-1935 (08-08-Ất Hợi).

 

10. Ngũ Nương DTC 05-09-1935

Khá tua ẩn nhẫn mà chờ lịnh trên.

Đă có sẵn một quyền bỉnh chánh,

Cứ phận ḿnh lại nạnh chi ai;

Ḱa xem lấy Hiệp Thiên Đài,

Trí nên đáng trí, nói tài tài cao.

Đây có lắm anh hào rắp đến,

Lập cho thành mệnh lệnh Tam Ṭa;

Vàng thau rơ mặt chánh tà,

Quyền xưa định Phật với ma khác đường.

Nơi Ngọc Hư c̣n đang định án,

Chiếu chỉ phân cho hăn tội t́nh;

Đă không tuân luật hữu h́nh,

Vô vi trừng trị ai binh đặng  nào.

Thương Chí Tôn ḷng đau than thở,

Lo liệu phương day trở cơ đời;

Thế đương biến cuộc đổi dời,

Lấy khuôn khảo tội cho người ăn năn.

Xưa coi nhẹ lời răn đạo  đức,

Nay cam tâm ngậm ức nuốt oan;

Trừ hung mở cuộc dấy loàn,

Kẻ không nh́n Đạo nhập đoàn yêu tinh.

Giặc tứ hướng đao binh khởi động,

Dấy can qua các giống giết nhau;

Làm cho mặt đất đổi màu,

Trở day cơ  tạo đem vào khuôn linh.

Gầy cho đặng anh linh các Đấng,

Lập ngôi Thiên cho xứng công tu;

Khá nên quyết sách vận trù,

Nền Nam có lúc vong xu măn phần.

Ấy là lúc Đạo nương thổ vơ,

Làm trời Nam cho rơ nước Trời;

Chí công gắng sức độ đời,

Nước Nam có thuở đổi dời nêu tên.

Vậy giục bớt lửa phiền trong dạ,

Nên nghiêng vai cơng cả nhơn sanh;

Máy linh kia đă sẵn dành,

Công cao ắt đặng ngôi đành nên cao.

  • Nguồn gốc:

Bà Ngũ Nương DTC giáng ban thi này vào ngày 05-09-1935 (08-08-Ất Hợi).

11. Thất Nương DTC 05-09-1935

Thiên ân định có phần cao thấp,

Cao nên cao khó thấp đặng nào;

Sẵn tay làm lặng ba đào,

Đưa thuyền Bát Nhă lần vào cảnh xuân.

Đợi sẽ thấy oai thần giúp sức,

Đặng xây nên mỹ lệ đài mây;

Quyền trên đă sẵn có Thầy,

Mấy anh cần biết cho hay phép đời.

Đời càng khó cơ đời trọng giá,

Tay cầm nên nghiệp cả Đạo nhà;

Chờ gió lặng đám mây qua,

Biển mê trương cánh buồm ra cơi ngoài.

Có lắm kẻ hằng ngày trông ngóng,

Như trời thu đợi bóng mưa qua;

Ḱa nhơn sanh với sơn hà,

Phân ra khinh trọng mới là trí cao.

Đừng sợ nhục đừng nao khó nhọc,

Gần thành công đặng lọc lừa danh;

Thiên thơ trước đă định rành,

Nên hư nền Đạo đă  đành nơi  tay.

Ṭa Tam Giáo có ngày định lập,

Quyền phân minh đẳng cấp chánh truyền;

Cửu Trùng lại với Hiệp Thiên,

Từ đây đáng hiệp cho nên một quyền.

Đừng cố giữ nỗi phiền buổi nọ,

Phải tận tâm hiệp ngơ chọn hiền;

Dầu chi cũng kẻ một thuyền,

Thấy nhau có thẹn chớ nên để ḷng.

Làm cho rơ mặt anh phong,

  • Nguồn gốc:

Bà Lục Nương DTC giáng ban thi này vào ngày 05-09-1935 (08-08-Ất Hợi).


12. Bát Nương DTC 05-09-1935

Vô tư nẻ nét lấy công trị người.

Người ta kế cấp bấy nhiêu người,

Lánh đứa gian tà đến dựa hơi;

Cần quốc muốn nên trừ lũ nịnh,

Yêu dân toan dạy lựa nên lời.

 

Xa thơ ṃn bánh v́ đường lở,

Xă tắc chinh ngôi bởi phép đời;

Rộng thứ không bằng toan dạy trước,

Răn he đừng đợi ngọn gươm quơi.

 

Quơi bồ tiền mượn quyền thị nhục,

Cải tai ương ra phúc vĩnh  tồn;

Trường công mở phép độ hồn,

Đứa ngu đem dựa, đứa khôn học đ̣i.

Đừng chê bỏ ra ṃi rẻ rúng,

Con dao hay làm lụng dễ dàng;

Miễn đừng để lưỡi nằm ngang,

Phải suông mà phạm đứa gian hại đời.

Hễ trái hẳn con ngươi đừng nhắm,

Mở mắt linh xem lặng vào ḷng;

Phá tan cái lũ con ong,

Loạn ly đem thế nhập trong Thánh Ṭa.

Diệt cho sạch xác ma thịt quỉ,

Trừ những phường hồ mị cầu danh;

Đưa cây Ma Xử nên linh,

Trừ  an nội loạn mới thành Thiên cơ.

Ḥa với kẻ kỉnh thờ Tam Giáo,

Gieo ḷng tin giáo đạo mọi nơi;

Khá nên làm việc cẩn lời,

Nên chăng cũng có cơ Trời quyền năng.

Khá kiếm thế đặng gần chánh phủ,

T́m biết danh trọn lũ gian manh;

Đưa dung kẻ nghịch ngọn ngành,

Hành vi của Đạo nỡ  đành đem buôn.

Lánh những kẻ làm tuồng mến Đạo,

Mua thân danh mượn máu trung thành;

Xa phường trục lợi xu danh,

Kiếm phương tà mị dỗ dành đứa ngu.

Nếu làm đặng Đường Ngu nào khác,

Dạy dân đen chẳng phạt ngục h́nh;

Trở kim ra cổ như in,

Thuấn Nghiêu nào biết dụng binh dẹp loàn.

Nếu có kẻ an bang tế thế,

Qú mà nghinh lấy lễ trọng người;

Cổi thân ra mảnh áo tơi,

Che mưa đỡ nắng cho đời nguy nan.

Sửa cơ Tạo ra sang mới vẹn,

Lấy từ bi vun quén cây nhơn;

Đừng ham gây oán chuốt hờn,

Phải hơn đạo  đức chớ hơn tài t́nh.

Trước sau sẵn một khuôn linh.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi này vào ngày 05-09-1935 (08-08-Ất Hợi) trong một đàn cơ mà Đức Quyền Giáo Tông nhắc lại trong dịp đặc biệt.

Trong buổi ban trọn các bài thi do 9 vị giáng ban và chứng kiến như sau:

HOA-Nhứt Nương

Em vốn thật thà,

sợ nói ra thêm lỗi,

xin miễn lễ cho em,

thôi em xin nhượng bút.

 

CẨM-Nhị Nương

Hiền Muội xin bái yết Nhị Ca và Anh Cao Liên Huynh. Cười…

Để coi người lanh lẹ,

Họa đặng lẻ hơn thua;

Gặp phải mặt Thầy Rùa,

Phải cậy bùa cùng chú.

Thôi em lui.


GẤM-Tam Nương

Em xin chào mấy anh. Cười…

Phận mỏng manh dám tranh hơn thiệt,

Để có người oanh liệt giao phong;

Dầu chi cũng nghĩa đồng song,

Lời quê ai dám đèo bồng chọc nhau.

Em xin nhượng bút.



TUYẾN-Tứ Nương

Nỗi niềm ai ghẹo cho đau,

T́nh thương coi lại như màu mây tan.

Rồi lẽ bạn với ai than văn,

Ngó trăng thu thêm ngán ngày qua;

Nơi Thánh Cung hỏi Hằng Nga,

V́ ai ngọc đỗ châu sa bấy chầy.

Đây không lẽ làm ngây không tưởng,

Tại nơi ai mà vướng dây oan;

Đă vô trong cơi trần hoàn,

Ăn cay nuốt đắng là nàng nuôi thân.

Phải coi lấy tinh thần là trọng,

Đừng vấn vương theo bóng trời mai;

Chia phui một vẽ Cảnh Đài,

Công linh buổi trước chia tay dặn lời.

Lời đă dặn cơ Trời nối gót,

Lập ngôi Thiên rước giọt từ bi;

Oan gia nợ trước c̣n ghi,

Cái ngôi Vô Cực mấy khi đặng toàn.

Vinh hiển để danh truyền kiếp kiếp,

Lời đinh ninh đă hiệp nên h́nh;

Cớ sao chẳng giải thật t́nh,

Một phen lửa giận chẳng nh́n cao ngôi.

V́ thương mới nặng lời phiền trách,

Xử sao cho trong sạch nợ đời;

Phận cam lănh tiếng con Trời,

Thương yêu sanh chúng để lời khuyên răn.

Đừng giận lẫy căn trần tính bỏ,

Các nguyên nhân hỏi ngỏ cùng ai?

Thương đời ngậm đắng nuốt cay,

Càn khôn c̣n rộng, có ngày nêu danh.

Danh đừng giựt đừng giành hạnh thế,

Cả huyền linh há để hai ngôi;

Tự nhiên gầy dựng nên đời,

Chúng sanh thấy rơ mặt người Nguơn công.

Thành th́ thế, ḷng nên định thế,

Phải ráng xem cạn lẽ hư nên;

Thiên Điều đă chép nhiều tên,

Gắng công chờ đợi Ơn Trên định phần.

Đạo đă chịu lắm phần trắc trở,

Lẽ Thiêng Liêng hay dỡ định phần;

D́u dân có ngọn bút Thần,

Ḿnh nên ḿnh hiểu, há cần đua tranh.

Đợi ngày đặng công thành danh toại,

Mới tỏ tường phải trái Thiên Cơ;

Sự chi cũng có định giờ,

Nghe và ghi nhớ lời em, Nhị Ca nghe. Em nhượng bút.

 

LIỄU-Ngũ Nương

Em chào mấy anh và Nhị Tỷ,

Em xin để lại cho Bát Nương sửa, em tiếp:

Khá tua ẩn nhẩn mà chờ lịnh trên.

Đă có sẳn một quyền bỉnh chánh,

Cứ phận ḿnh lại nạnh chi ai;

Ḱa xem lấy Hiệp Thiên Đài,

Trí nên đáng trí, noi tài tài cao.

Đây là lắm anh hào rấp đến,

Lập cho thành mệnh lệnh Tam Ṭa;

Vàng thau rơ mặt chánh tà,

Quyền xưa định Phật với ma khác đường.

Trên Ngọc Hư c̣n đang định án,

Chiếu chỉ phân cho hảng tội t́nh;

Đă không tuân luật hữu h́nh,

Vô vi trừng trị ai binh đặng nào?

Thương Chí Tôn ḷng đau than thở,

Lo liệu phương day trở cơ đời;

Thế đương biến cuộc đổi dời,

Lấy khuôn khảo tội cho người ăn năn.

Xưa coi nhẹ lời răng Đạo đức,

Nay cam tâm ngậm ức nuốt oan;

Trừ hung mở cuộc rối loàn,

Kẻ không nh́n Đạo ngập tràn yêu tinh.

Giặc tứ hướng đao binh khởi động,

Dấy can qua các giống giết nhau;

Làm cho mặt đất đổi màu,

Trở xoay cơ tạo đem vào khuôn linh.

Gầy cho đáng Anh linh các Đấng,

Lập ngôi Thiên cho xứng công tu;

Khá nên quyết khách vận trù,

Nền Nam có lúc vong xa mấy phần.

Ấy là lúc Đạo nâng thổ vỏ,

Làm trời Nam cho rơ nước Trời;

Chí công gắng sức độ đời,

Nước non có thuở đời đời nêu tên.

Phải dục bớt lữa phiền trong dạ,

Nên nghiên vai cơng cả nhơn sanh;

Máy linh ḱa đă sẵn dành,

Công cao ắt đặng ngôi dành nên cao.

 

HUỆ-Lục Nương

Em xin cám ơn anh thương tưởng, Em chào mấy Anh, xin tiếp:

Công cao th́ phẩm ắt gian truân,

Mượn tấm yêu thương chở khách trần;

Lănh phước khá toan chan rưới phước,

Làm cho sanh chúng hưởng Thiên ân.

Thiên ân định có phần cao thấp,

Cao nên cao, khó thấp đặng nào?

Sấn tay làm lặng ba đào,

Đưa thuyền Bát Nhă lần vào cảnh Xuân.

Đời sẽ thấy oai thần giúp thế,

Đặng xây nền mỹ lệ đài mây;

Quyền trên đă sẵn có Thầy,

Mấy anh cần biết cho hay phép đời.

Đời càng khó, cơ đời trọng giá,

Tay cầm nên nghiệp cả Đạo nhà;

Chờ gió lặng, đám mây qua,

Biển mê trương cánh buồm ra cơi ngoài.

Có lắm kẻ hằng ngày trông ngóng,

Như trời thu đợi bóng mưa qua;

Ḱa nhơn sanh với Sơn hà,

Phân ra khinh trọng mới là trí cao.

Đừng sợ nhục, đừng nao khó nhọc,

Gắng thành công đặng lọc lừa danh;

Thiên thơ trước đă định rành,

Nên hư đời Đạo đă đành nơi tay.

Toà Tam Giáo có ngày định lập,

Quyền phân minh đẳng cấp Chánh Truyền;

Cửu Trùng lại với Hiệp Thiên,

Từ đây đáng hiệp cho nên một quyền.

Đừng cố giữ nổi phiền buổi nọ,

Phải tận tâm hiệp ngơ chọn hiền;

Dầu chi cũng kẻ một thuyền,

Thấy nhau có thẹn chớ nên để ḷng.

Làm cho rơ nét anh phong.

LIÊN-Bát Nương

Thôi để em tiếp văn.

Làm sao cho rơ mặt anh phong,

Vô tư vẽ nét lấy công trị người.

Người ta kẻ cấp bấy nhiêu người,

Lánh đứa gian tà đến dựa hơi;

Cần quốc muốn nên trừ lũ nịnh,

Yên dân toan dạy, lựa nên lời.

Xa thơ ṃn bánh v́ đường lỡ,

Xă tắc chinh ngôi bởi phép dời;

Rộng thứ không bằng toan dạy trước,

Răn he đừng đợi ngọn gươm quơi.

Quơi bồ tiền mượn quyền thị nhục,

Cải tai ương ra phước vĩnh tồn;

Trường công mở phép độ hồn,

Đứa ngu đem dựa đứa khôn học đ̣i.

Đừng chê bỏ ra ṃi rẽ rúng,

Con dao hay làm lụng dễ dàng;

Miễn đừng để lưỡi nằm ngang,

Phải suông mà phạm đứa gian hại đời.

Hễ trái hẵn con ngươi đừng nhắm,

Mở mắt linh xem lọng vào ḷng;

Phá tan cái lũ con ong,

Loạn ly đem thế nhập trong Thánh Ṭa.

Diệt cho sạch xác ma thịt quỉ,

Trừ những phường hồ mị cầu danh;

Đưa cây Ma Xử nên linh,

Trừ an nội loạn mới thành Thiên cơ.

Ḥa với kẻ kỉnh thờ Tam Giáo,

Gieo ḷng tin giáo Đạo mọi nơi;

Khá nên làm việc cẩn lời,

Nên hư cũng có cơ Trời quyền năng.

Khá kiếm thế đặng gần chánh phủ,

T́m biết danh trọn lũ gian manh;

Đưa dâng kẻ nghịch ngọn ngành,

Hành vi của Đạo nở đành đem buôn.

Lánh những kẻ làm tuồng mến Đạo,

Mua thân danh, mượn máu trung thành;

Xa phường trục lợi xu danh,

Kiếm phương tà mị dỗ dành đứa ngu.

Nếu làm đặng Đường Ngu nào khác,

Dạy dân đen chẳng phạt ngục h́nh;

Trở kim ra cổ như in,

Thuấn Nghiêu nào biết dụng binh dẹp loàn.

Nếu có kẻ an bang tế thế,

Qú mà nghinh lấy lễ trọng người;

Cổi thân ra mảnh áo tơi,

Che mưa đỡ nắng cho đời nguy nan.

Sửa cơ Tạo ra sang mới vẹn,

Lấy từ bi vun quén cây nhơn;

Đừng ham gây oán chác hờn,

Phải hơn Đạo đức, chớ hơn tài t́nh.

Trước sau sẳn một khuôn linh.

Trọn bài Thánh Giáo của Cửu Vị Nữ Phật Cữu Nương Diêu Tŕ Cung ban cho ngày 08-11-1930 (18-09-Canh Ngọ) tại Ṭa Thánh.

Bài Thánh Giáo này liên quan đến một giai thoại rất xúc động của Đạo trong giai đoạn khó khăn phải bảo vệ Đạo trước những sự cấm đoán của chánh quyền Pháp.

Nhân ngày vía Đức Chí Tôn 14-02-1932 (mùng 9 tháng Giêng năm Nhâm Thân), nhằm ngày Chúa Nhựt, Giáo Hữu Trần Quang Vinh (Hiển Trung) từ Kim Biên về Ṭa Thánh chầu lễ. Khi măn lễ là 4 giờ sáng. Băi đàn, bài ban Nam tả Nữ hữu. Đức Quyền Giáo Tông mời Giáo Hữu Thượng Vinh Thanh ra đứng giữa đàn, một tay th́ ôm một sấp hồ sơ, một tay nắm Hiển Trung, giới thiệu như vầy: “Đây là Giáo Hữu Thượng Vinh Thanh vừa lập được một kỳ công với Đạo. Nhơn việc công cán bên Pháp Quốc, một mặt tận tâm truyền giáo, một mặt lo tiếp sức với các yếu nhân tŕnh bày các bằng chứng yêu cầu họ binh vực Đạo Cao Đài bị chánh quyền Pháp ở Đông Dương áp chế gắt gao. Chánh phủ Pháp trao hồ sơ cho Quốc Hội. Trong một phiên họp và sau khi thảo luận và bỏ thăm, Quốc Hội Pháp chấp thuận một Đạo luật ân xá cho tất cả tín đồ Cao Đài bị tù hoặc bị phạt vạ, luôn dịp tuyên bố cho Đạo Cao Đài được tự do tín ngưỡng”.

Anh Cả nói xong cầm tập hồ sơ đưa lên cao và tiếp: “Đây là bằng cớ mọi việc hoạt động cho Đạo, lần lượt em Giáo Hữu gởi tài liệu về Ṭa Thánh nằm trong hồ sơ nầy”. Khi dứt lời anh Cả đọc lớn 4 câu thi sau đây của Bát Nương Diêu Tŕ Cung, rút trong một bài trường thi dạy Đạo:

Nếu có kẻ an bang tế thế,

Quỳ mà nghinh lấy lễ trọng người.

Cởi thân ra mảnh áo tơi,

Che mưa khỏi nắng cho đời nguy nan”.

Đọc dứt 4 câu thi, anh Cả liền qú xuống giữa đàn, phía sau Đức Hộ Pháp cũng qú, rồi trọn cả Đàn, noi gương hai anh lớn qú xuống tất cả. Hiển Trung rất bối rối không biết làm thế nào hơn là qú mọp xuống trước anh Cả mà lạy 2 lạy rồi đứng dậy để tạ ơn tất cả mọi người, luôn dịp lược thuật những công tŕnh tại Pháp’. Măn Đàn đă 4 giờ rưỡi sáng.


 

13. Bát Nương DTC 16-09-1947

Thuyền từ đă xa ḍng biển khổ,

Nương Chí Linh tế độ nhơn gian;

Tẻ vui lánh tục t́m nhàn,

Lợi danh là mộng mơ màng huỳnh lương.

Ḷng thương ví như dựng hà hải,

Đem dung nghi làm giải trừ mê;

Nước Nam thảm khổ ê chề,

Đem thân mày liễu tô về giang san.

Niềm ân ái đă tràn sông lệ,

Nết xa hoa đă để miệng đời;

Cung Hằng mang tiếng hổ ngươi,

V́ thân chưa phải nên người độ dân.

Ôm ấp măi lấy phần nhi nữ,

Cửa công khanh đoán thử bao người;

Xem người ví biết hổ ngươi,

Rèn tâm tiết liệt cho đời noi gương.

Đừng quen theo sách lạ thường,

Đạo không nên đạo, đời nương bóng đời.

Hỡi ai có thấu ai ơi!  . . . .

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban bài thi này ngày 16-09-1947 (02-08-Đinh Hợi).


 

14. Bát Nương DTC 12-12-1947

Tỷ nương khá khai đường tỏ rạng,

Pḥng dắt d́u các bạn nữ nhi;

Chờ ngày mở hội khoa thi,

Ắt là chiếm đặng một kỳ công cao.

Khuyên nữ phái khá mau sửa tánh,

Trau tria sao như ánh trăng trong;

Mới không hổ phận quần hồng,

Để làm khuôn mẫu đại đồng soi gương.

Đừng xem tánh đức coi thường.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi chúc mầng thọ Bà Hương Hiếu trong đàn cơ tại Giáo Tông Đường ngày 12-12-1947 (01-11-Đinh Hợi) và dạy: “Chào các anh, các em nam nữ. Nơi Diêu Tŕ Cung  rất vui vẻ  được thấy đại tỷ hưởng trọn hạnh phúc buổi sanh tiền. Tiếc ǵ em không được dự cuộc vui trong lúc nọ. Vậy cũng chúc tặng một bài thi nguội

(Bài thi trên và bài thi dưới đây thể tám câu bảy chữ):

Kỷ niệm đề thi chúc tỷ nương,

Vui say lễ thọ rất phi thường;

Tinh thần một thuở đầy hoan lạc,

H́nh thể trăm năm đủ thái bường.

Đáo tuế mấy ai so sánh kịp,

Lục tuần nào kẻ dám phô trương;

Tặng cho bốn chữ: trường sanh bất ...

Kỷ niệm đề thi chúc tỷ nương.

Thôi, em có mấy lời chúc tụng đại tỷ để làm kỷ niệm với các bậc thi hào, lại cũng là kỷ niệm lễ lục tuần của đại tỷ. Xin chào các anh chị”.


 

15. Bát Nương DTC 10-06-1950

Một mày liễu trong ngần đoá ngọc,

Hai má đào trọng lọc tiết trinh;

Mảnh thân trọn hiếu thâm t́nh

Phải h́nh thục nữ, phải ǵn căn Tiên.

Ba yểu điệu thuyền quyên vóc hạc,

Bốn mỹ miều đài các trâm anh;

Khi vui bóng nguyệt rọi mành,

Khi ḍng bích thuỷ, khi cùng hoa xuân.

Năm phận gái hồng quần đáng mặt,

Sáu vẹn toàn quốc sắc thiên hương;

Ra vào phụng trướng loan đường,

Vào ra ngọc các cẩm tường xem hoa.

Bảy trau chuốt thân ngà mặt ngọc,

Tám, chín phần rèn sức nữ nhi;

Chung lo mối đạo Tam Kỳ,

Giúp nhà Nam chóng kịp th́ Long Hoa.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương DTC giáng ban thi tả Cửu Vị Tiên Nương Diêu Tŕ Cung ngày 10-06-1950 (25-04-Canh Dần).


 

16. Bát Nương DTC 1950



              Noi chơn chánh trên ḥa dưới thuận,

Học đường Ngu Nghiêu Thuấn hóa dân;

Khắp trong bốn bể xa gần,

Làm cho thiên hạ vui mừng âu ca.

Lo ǵn giữ sơn hà xă tắc,

Chịu mạng Trời đáng mặt ngôi Thiên;

Lo cho sanh chúng phỉ nguyền,

Lo nhà Nam Việt vững bền muôn năm.

Đấng minh chúa tay cầm cương nước,

Đạo làm tôi học chước Nhạc Phi;

Tận trung báo quốc vẹn ngh́,

Thờ vua trọn Đạo xá ǵ phận tôi.

Ăn lộc nước đền bồi cho nước,

Ở trong đời phải biết thương đời;

Trung cang chí chẳng đổi dời,

Thủy chung gởi một, một lời thệ minh.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung giáng ban bài thi “Đạo Quân Thân” để dạy Chức Sắc Tiểu Cấp Hiệp Thiên Đài cách hành thi.


 

17. Bát Nương DTC 10-06-1950 đến 08-11-1950


               Niềm nhơn Đạo thâm t́nh phụ tử,

Dạy cho con học chữ hiếu trung;

Mày râu cung kiếm vẫy vùng,

Quyết ra trừ lũ gian hùng tham ô.

Dạy con học cơ đồ Nam Việt,

Dạy con đ̣i oanh liệt trượng phu;

Dạy con xa lánh tội tù,

Nối gịng Hồng Lạc lo tu Đạo Trời.

Làm con phải dâng lời khuyến dạy,

Thương nước nhà nào nại hy sinh;

Gắng lo học tập tài lành,

Quốc gia hữu dụng đă đành ra tay.

Nghĩ đến nổi râu mày nên phận,

Nợ áo cơm oằn nặng vai mang;

Đem thân báo đáp vẹn toàn,

Ơn cha nghĩa mẹ đôi đàng cho phu.

Xưa khóc gậy Bá Du thương mẹ,

Lăo Lai c̣n áo vẽ vui thân;

Soi gương hiếu tử, trung thần,

Nhơn luân vẹn giữ báo ân trọn niềm.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung giáng ban bài thi “T́nh Phụ Tử” để dạy Chức Sắc Tiểu Cấp Hiệp Thiên Đài cách hành thi.


 

18. Bát Nương DTC 10-06-1950 đến 08-11-1950


              Xem gương trước Cổ Kim chồng vợ,

Ai dám b́ duyên nợ Mạnh Quang;

Chồng lo giúp việc trào đàng,

Vợ hiền cơm bữa dựng ngang nét mày.

Duyên túc đế nên tài xạ tước,

Đạo tùng phu noi bước Đổng Gia;

Chồng dưng Thánh Chỉ trấn xa,

Tay đề bao tóc tuổi già cũng vui.

T́nh phu phụ đừng vui câu thệ,

Mà để chàng Hậu Nghệ ngóng trông;

Tào khang không phụ tất ḷng,

C̣n nêu tiếng tốt Tống Hoằng ngày xưa.

Hàn Túy Tần lá đưa khe ngự,

Vu Hựu chàng để chữ hỏi duyên;

Trăm năm đôi lứa toại nguyền,

Mới hay Trời định may duyên lá hồng.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung giáng ban bài thi “T́nh Phu Phụ” để dạy Chức Sắc Tiểu Cấp Hiệp Thiên Đài cách hành thi.


 

19. Bát Nương DTC 10-06-1950 đến 08-11-1950

T́nh huynh đệ chung đồng cốt nhục,

Gầy huyết tinh một cục sẽ chia;

Anh em đâu nở phân ĺa,

Huyên tŕ đồng giọng chớ hề quên nhau.

Niềm cốt nhục đồng bào ḥa ái,

Thái Tổ c̣n đốt ngại chia đau;

Thuở xưa huynh đệ Tống Giao,

Anh em đồng đậu phẩm cao trân đời.

Một khí huyết đồng hơi đồng tiếng,

Chia h́nh hài quyến luyến t́nh chung;

Đừng quên con Lạc cháu Hồng,

Điểm tô bờ cơi giống gịng Việt Nam.

Mùi ngon ngọt trận cam chia sớt,

Nghĩa anh em đâu lợt t́nh thương;

Trước sau cũng thuận một đường,

Anh ḥa, em kỉnh, lễ nhường an vui.

  • Nguồn gốc:

Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung giáng ban bài thi “T́nh Huynh Đệ” để dạy Chức Sắc Tiểu Cấp Hiệp Thiên Đài cách hành thi.


 

20. Bát Nương DTC 10-06-1950 đến 08-11-1950

Người quân tử nếm mùi đạm bạc,

Nghĩa kim bằng sống thác thề chung;

Bền gan sánh thể cội tùng,

Trông nguồn nước chảy tất ḷng nên tin.

Lời ước hẹn Cư Trinh, Nguyễn Bá,

Giữ một ḷng vàng đá nào phai;

Quản chi vắng bạn năm dài,

Dẫu rằng ngàn dậm bao nài đường xa.

Bạn tri kỷ Thúc Nha, Quản Trọng,

Đời mấy ai ở đặng nghĩa giao;

Thương nhau chẳng khác đồng bào,

Vàng ṿng chia sớt quản bao ít nhiều.

Noi Khổng Mạnh học điều nhơn nghĩa,

Đạo luân thường ghi để ngàn thu;

Quân thần, phu tử, thê phu,

Anh em bậu bạn trọn câu trung thành.

  • Nguồn gốc: Bà Bát Nương Diêu Tŕ Cung giáng ban bài thi “Nghĩa Bằng Hữu” để dạy Chức Sắc Tiểu Cấp Hiệp Thiên Đài cách hành thi.


 

21. Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu 12-02-1951

Từ Vô Cực vào trong giới cảnh,

Mới để tâm so sánh Tiên, phàm;

Chẳng từ ô trược dương gian,

V́ thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm.

Vâng Thiên sắc độ phàm thoát tục,

Đóng Phong đô, giải ngục đọa đày;

Máy linh cơ tạo nơi tay,

Giác mê cứu đám lạc loài nguyên nhân.

Nên ôm rải hồng ân khắp thế,

Bỏ ngôi linh gươm huệ trau giồi;

Cơi Thiên định vị phân ngôi,

Vạn linh gặp hội phục hồi thiện duyên.

Con đă nắm lái thuyền Bát Nhă,

Đủ quyền hành giải quả diệt căn;

Nguyên linh dầu đặng cao thăng,

Nơi Cung Trí Huệ làm đàng thiện duyên.

Từ khi sợ để khuyên buổi trước,

Nay duyên may mừng đặng con nên;

Chừ nay đă toại thửa nguyền,

Độ sanh vững nắm Chơn truyền Chí Tôn.

Đă thấy nẻo Thiên môn rộng mở,

Hội Long Hoa rỡ rỡ soi đời;

Nhập vào Thiên Hỷ an nơi,

Cơi Thiên, cảnh tục, một vời không xa.

Con đă biết quyền già cùng trẻ,

Mạng Chí Tôn đă để đủ phương;

Cứu nguy độ khổ là thường,

V́ rằng Bát phẩm chơn hồn Mụ sanh.

Hễ là Mẹ quyền hành dạy trẻ,

Con đừng lo mạng thế thi phàm;

Huyền linh Mẹ chịu phần cam,

Ban cho con trẻ vẹn toàn pháp môn.

Độ cho hết các hồn địa  giới,

Độ vong linh từ ngoại càn khôn;

Cửa linh cắm phướn Chiêu hồn,

Độ trong cửu nhị nguyên nhân nhập trường.

Các tộc chủng c̣n đương t́m ngơ,

Soi huệ quang cho rơ cửa Thiên;

Máy linh để sẵn diệu huyền,

Giải căn đợi kẻ hữu duyên định phần.

Con nên vui phận an thân.

  • Nguồn gốc:

Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu giáng ban thi dạy đạo cho Đức Hộ Pháp tại Trí Huệ Cung ngày 12-02-1951 (07-01-Tân Măo) và dạy: “Mụ mừng các Thiên mạng. Hộ Pháp, xin nghe (bài thi trên). Tiếp Đạo, đọc lại cho toàn nam nữ con cái của Mụ, rằng Mụ để lời mừng chung chúng nó”.

 

22. Ngũ Nương DTC 05-05-1951

Cửa đạo đức gầy nên hạnh phúc,

Chốn non sông tạo chút nữ hùng;

Gương kim cổ để soi chung,

Ngàn năm rơ mặt con Rồng cháu Tiên.

Đời lắm lúc đảo điên khổ hạnh,

Đạo d́u đường tập tánh nghĩa nhân;

Đố ai chen lấn đặng phần,

Liễu theo phận liễu lỡ làng v́ ai.

Thân tám thước để lo đáp nghĩa,

Đẹp duyền hài khéo tưởng cao trông;

Trọn lo cho mảnh quần hồng,

Cơm ăn no dạ, bưởi ḅng làm chi!

  • Nguồn gốc:

Bà Ngũ Nương DTC giáng ban thi ngày 05-05-1951 (30-03-Tân Măo). Bà Ngũ Nương DTC dạy: “Chào các em nam nữ. Cười . . .  Em nào rơ thấu huyền vi sẽ nói nghe, c̣n bợ ngợ làm chi? Đời vẫn là biển trần để lôi cuốn các bậc vị cao đạo hạnh, song phải có một bản năng để trở đương với lúc mà những lư thú thể chất khó tránh được”.


 

23. Ngũ Nương DTC 06-03-1954

Hồng trần luống buộc ràng thể chất,

Phải trau tâm đặng cất Cao Đài;

Thương ai ở thế sương mai,

V́ chơn tội lỗi công hoài khó nên.

Nên kiếp Thánh hằng trau tâm tánh,

Dẹp trái căn đặng lánh bụi hồng;

Thương ai những lúc thong dong,

Đường Tiên xin nhớ, hướng đông qui hồi.

Hồi cảnh tỉnh chuông mơi thúc giục,

Để lánh xa hưởng phúc  tạo  nhà;

Thương ai bỏ kiếp trăng hoa,

V́ sao mới nhớ, chớ xa cội nguồn.

Nguồn đạo hạnh là bài thức tỉnh,

Khách trần gian phải vịn nên giồi;

Thương ai ráng giữ cao ngôi,

Đ̣ Tiên chực sẵn lần hồi kẻo xê.

Xê bóng Đạo hơn xê tâm  tánh,

Lánh tà tinh dục cảnh nên thuyền;

Thương ai cho măi truân chuyên,

Th́ ra một kiếp phụ quyền ơn sanh.

Sanh ở thế ráng ǵn đạo đức,

Khép vào nơi sánh bực cùng người;

Thương ai để thảm sông mơi,

Lần qua ải khuyết mây phơi phủ chồng.

Chồng chất đống mà quên Đạo cả,

Uổng cho thân một khóa lâm trần;

Thương ai nên giữ lấy thân,

Hồi về Tiên cảnh non Bồng ngao du.

Công đức sớm chiều nào mới hả,

Phép tu thân giục giă không chờ;

Thương ai chớ có hẫng hờ,

Rồi đây ân hận một giờ gió trăng.

Thương người chỉ gởi đôi câu.

  • Nguồn gốc:

Bà Ngũ Nương DTC giáng ban thi ngày 06-03-1954 (02-02-Giáp Ngọ) và dạy: “Các em xem (bài thi trên) mà t́m chơn lư rồi sẽ bước đến đài vinh hạnh buổi sau nầy. Lúc nọ có một quái nhân dám muợn danh chị  để diễn những tṛ mà đời cho là văn bất nhă. Đó là nhơn điển, chúng nó t́m mưu mô phá rối nhơn t́nh, nhưng chị không nói nhiều, ông Nhị Thiên Đường biết rồi.


 

24. Bát Nương DTC

Tài lấn đức tài mau diệt tận,

Đức đồng tài, tài phấn khởi thêm;

Mênh mông biển khổ con thuyền,

Đạo sơ đức kém ngửa nghiêng sóng trần.

tài sức cậy thân dựa thế,

Tài càng nhiều càng lụy đến thân;

Tài kia tai nọ luôn vần,

Đức tài trau luyện đồng cân mới mầu.

Trăm năm một cuộc bể dâu!

Nguồn gốc: Bà Bát Nương DTC giáng cho bài thi Cho Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông ngày không rơ.


 

25. Diêu-Tŕ-Cung Tiên-Nữ 17-01-1952

Hoa tươi thắm sắp mừng xuân mới,

Đón chào Tiên đă tới Đào-Nguyên;

Sông Ngân sắp sẵn con thuyền,

Chờ ngày đón khách may duyên trở về.

Cẫm-tú đấy ra bề Tiên-giới,

Mở Thần-Quang bước tới Đào-Nguyên;

Nắm cân giữ lấy Đạo quyền,

Đưa thuyền Bát-Nhă độ duyên cơi trần.

Liễu ủ nét đứng gần trúc thạch,

Nhớ nguồn cơn muốn trách thợ trời;

Thương dân Hồng Lạc lưng vơi,

Trường thi đă vắng chợ đời lại đông.

Huệ đưa hương ướp nồng thân để,

Khóc cho người chẳng kể dân Nam;