SỰ CẤU TAO VÀ SINH HOAT
DÃ-TRUNG-TỬ |
Nhận xét một cách chính-xác thì hầu hết người đời đều ở trong tình-huống như vậy. Chỉ có những người đã giác-ngộ ít nhiều, chủ-tâm sống với Thiên-tánh của mình, để lương-tâm làm chủ-tể, thì mới chỉ-huy được các hạ-thể và khuất-phục được nó. Người nào làm được là kẻ chiến-thắng, là bậc đắc-đạo giải-thoát, còn người nào thiếu tự-cường buông xuôi, để các hạ thể sai khiến, thì sẽ sa-đọa, phải sống một cuộc đời đau khổ.
Tất cả sự vận-hành và chuyển-biến, xảy ra trong bản-thân con người rất phức-tạp, không ai giống ai, mỗi người là một tiểu vu trụ riêng biệt. Nên muốn có một nhân-sinh-quan đúng-đắn, thì mỗi người cần phải tìm hiểu để phân-biệt rõ bản-chất của xác-thân, tình-cảm và tư-tưởng, cùng những nguyên-tắc căn-bản của sự cấu-tạo và chuyển-biến trong con người, thì mới làm chủ và chiến-thắng được các hạ thể đó.
Cơ-cấu tâm-lý và sinh-lý của con người đã được các tôn-giáo cũng như các triết-gia tuỳ theo tín-ngưỡng mà có sự nhận-định và phân chia khác nhau. Nhưng theo Cao-Đài giáo thì con người lấy mắt phàm mà quan-sát tuy thân-xác chỉ là một, nhưng nó là một tổng-thể gồm ba phần lồng vào nhau đó là: Tinh, Khí, Thần. Theo thuyết Đạo về con đường Thiêng-liêng hằng sống của Đức Hộ-Pháp còn cho biết toàn-thể con người được phân chia ra như sau: Phàm-thân là xác thân gọi là Tinh, Pháp-thân là đệ nhị xác-thân còn gọi là vía là Khí, Linh-thân là linh-hồn là Thần. Các hạ-thể nầy được mô-tả chi-tiết ở phần sưu-khảo sau đây.
- Phàm thân:
Phàm-thân đó là phần thân-thể hửu-hình cấu-tạo bằng vật-chất, nói theo Phật giáo là do tứ đại: đất, nước, gió, lửa giả hợp, nói theo Lão giáo thì do ngũ- hành : kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ hình-thành; toàn thể xác-thân này theo chơn-truyền Cao-Đài giáo gọi là “Tinh” dùng sinh-hoạt ở cỏi phàm trần, do đất sinh ra khi chết sẽ trở về với đất, nên có câu:
- Pháp thân:
Pháp-thân là đệ nhị xác-thân còn gọi là chơn-thần thuộc khí-chất, bán hữu-hình, vì nó có thể ẩn-hiện còn gọi là cái vía, Chơn-tướng của Pháp-thân là cái “Trí” trí là nơi biểu-lộ tư-tưởng, và cái “Tánh” tánh là hình thể thứ nhì của chơn-thần, tánh là nơi thể-hiện tình-cảm. Đây là một khối sinh-lực tạo nên sự linh-động của thân-xác. Nó cũng có tính-chất và sinh-hoạt tự-nhiên của nó, sẽ đề-cập đến trong phần chi-tiết ở sau. Pháp-thân này cấu-tạo bằng khí-chất, dùng sinh-hoạt với xác-thân trong cỏi phàm-trần và sinh-hoạt với linh-hồn ở cỏi trung-giới. Cao-Đài giáo gọi là “khí”.
- Linh thân:
Linh-thân gọi là “Thần” hay là Linh-hồn các tôn-giáo còn gọi là Thiên-tánh, Lương-tâm, Phật-tánh, Chơn-tâm. Theo chơn-truyền của Cao-Đài giáo thì Linh-thân là điểm linh-quang của Trời ban cho để giữ gìn mạng sống, nó còn sinh-hoạt ở cỏi Thượng-giới. Tâm là chơn-tướng của Linh-thân, hình-thể thứ nhất của linh-hồn, khi con người chết linh-hồn sẽ trở về Trời. Nên mới có câu:
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(1) &(2) - Xuất xứ hai câu này nằm trong một cặp câu đối gắn trên thuyền Bác-nhã (xe tang) của Cao-Đài giáo như sau: Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh hoàn tại thổ, thiên niên tự hữu, linh-hồn Thiên tứ phản hồi Thiên. Có nghĩa là: muôn sự đều là hư-không, xác thịt do Đất sinh ra, chết đi trở về với Đất. Muôn năm vẫn tự co,ù Linh-hồn do Trời ban cho, khi thoát xác thì trở về với Trời. Hai câu nầy do Ngài Bảo-Pháp Nguyễn-Trung-Hậu sáng-tác và được Đức Lý Giáo-Tông giáng-cơ chỉnh-văn.
Ba phần Tinh (Phàm-thân) Khí (Pháp-thân), Thần (Linh-thân) làm thành một con người toàn-diện có hoạt-động có tri-thức. Ở cỏi trần mà ba phần này chỉ thiếu một thì không thành con người hoàn-hảo.
Sự liên-quan giữa Tâm và Tánh, Đạo Nho nói rằng: “Tánh tự tâm sanh” Nên tâm mình như thế nào xuất tánh ra cũng như thế ấy, do đó nếu chơn-linh tấn-bộ thì chơn-thần cũng tấn-bộ.
Người tu hành có thể luyện Tinh để thành ra Khí (luyện tinh hoá khí). Luyện Khí để thành ra Thần (luyện Khí hoá Thần) và luyện Thần để hoàn nguyên cựu vị, trở về cỏi siêu-linh (luyện thần hườn hư). Đó là tất-cả bí-pháp của sự tu-luyện Tam bửu: Tinh, Khí, Thần, tức là làm cho Phàm-thân, Pháp-thân và Linh-thân thăng-hoa để trở về hợp-nhất với Đạo.
Đứng về phương-diệân thứ-tự của sự tu-luyện Đức Lý Giáo-Tông đã dạy rằng:
Câu nầy có nghĩa là con người phải tu tánh trước mới luyệân tâm sau, tức là phải tu-dưỡng Pháp-thân (chơn-thần hay đệ nhị xác-thân) rồi mới luyện đến Linh-thân (chơn-linh).
Trên đây là nét sơ-lược phần bản-chất và sinh-hoạt tự-nhiên của mỗi thể nói theo đạo-học, còn ngôn-ngữ của nhân-gian thì gọi ba phần nầy là Hình-thể, Tình-Cảm và Trí- tuệ. Ba thành phần này kết-hợp thành sự sống của con người. Sau đây chúng ta tuần-tự tìm hiểu chi-tiết cấu-tạo và sinh-hoạt, cùng bản-chất và sự tương-quan của mỗi hạ-thể để người tu điều-khiển được nó hầu phục-vụ cho nhu-cầu tu-dưỡng của mình để tấn-hóa.
Theo Thánh-giáo trích-dẫn trên đây, so với khoa giải-phẩu sinh-lý thì cũng đồng một quan-điểm là tế-bào một đơn-vị nhỏ nhất đã cấu-tạo nên thân-thể con người, mỗi tế-bào là một nguyên-sinh-vật, biết sinh-hoạt và phát-triển có trật-tự theo chức-năng, tánh-phận của mình. Tỷ như tế-bào của hạch nội-tiết thì lo chế-tạo kích-thích-tố, tế-bào bạch-huyết thì lo chống chọi với sự xâm-nhập của vi-trùng, mỗi khi một nơi nào đó trong cơ-thể bị viêm-nhiễm thì tế-bào bạch-huyết ồ-ạt kéo đến bao-vây tiêu-diệt. Khi cơ-thể bị một vết thương thì tế-bào vùng đó tự biết phát-triển để hàn gắn, và biết dừng lại đúng lúc vết thương đã lành ; y như có một mệnh-lệnh vô hình “bậc đèn xanh” cho tế-bào vùng vết thương phát-triển, và “bậc đèn đỏ” cho các tế-bào vùng đó ngưng tay, khi nhiệm-vụ hàn gắn đã hoàn-thành; sự mầu-nhiệm này khoa-học thực-nghiệm cho là một chức-năng tự-phát; nhưng theo Thánh-giáo Đức Chí-tôn thì đây là Thánh-ý của Ngài:
Sự cấu-tạo và chức-năng nguyên-thuỷ của xác-thân vốn là vật-chất trọng- trược, mang tính-chất một sinh-vật, tuy thành-phần cấu-tạo nên nó có những bản-năng tuy kỳ-diệu, nhưng cũng chỉ giới-hạn trong giác-tính của con thú, đói thì ăn, khát uống, thèm muốn thì đòi hỏi thoả-mãn, chứ không phân-biệt phải trái. Nên Đức Hộ pháp đã nói rằng:
Xác-thân của chúng ta không phải là Ta, nó là nơi để linh-hồn ta cư-trú, để thể hiện sự sống; là cái nhà cho linh-hồn nương-náu, là một con vật làm phương-tiện cho linh-hồn di-chuyển hoạt-động ở cỏi trần. Nên nó có cái bản-chất, quy-luật riêng của nó, không thể nào giống như bản-chất của linh-hồn là con người đích thật. Nên Đức Hộ-Pháp đã nói rằng:
Biết rõ được bản-chất của xác-thân là một con vật, giúp chúng ta lập-công đoạt-vị, nên ta phải biết nuôi-nấng, bảo-dưỡng và rèn-luyện nó, vì nó cũng có ảnh-hưởng quan-trọng đến sự tiến-hoá của linh-hồn, vì phải có một thân-thể tráng-kiện, nhạy-bén, thì linh-hồn mới minh-mẫn, giảo-hoạt được. Cũng như nó phải biết phục-tùng sự sai khiến của lương-tâm (linh hồn) thì mới giúp ta thăng-tiến, có phẩm-vị cao-quí, còn nếu ta chiều theo thú-tính của nó thì sẽ làm ta sa- đoạ. Nên Đức Hộ-Pháp đã nói rằng:
Xác-thân nó có bí-pháp tinh-anh tức là chân-lý riêng của nó, được thể-hiện ra ở nét thướt-tha kiều-diểm của thân hình, nét thanh-tú, phương-phi của diện-mạo, sự khéo-léo lanh-lẹ của tay chân, nó được thể-hiện ra ở sự sự bụ-bẩm của trẻ thơ, nét hào-hùng của trai-tráng, nét thuỳ-mị của nữ-nhi, vẻ quắt-thước của tuổi già... tất cả cái đó toát ra cái chân-lý của thân-xác. Xác-thân còn có vô số những bí-ẩn mà ngay giới khoa-học thực-nghiệm cũng chưa giải-thích rõ-ràng được, Cao-đài giáo gọi là những bí-pháp, đôi khi nó còn bộc-lộ ở bản-năng tự-lập, tách-biệt với linh-hồn, như nó tự phát-triển tầm-vóc đúng kích-thước tuần-tự theo thời-gian, đến khi phát-triển đầy-đủ thì nó tự-động dừng lại, khi cơ-thể bị bệnh viêm-nhiễm thì nó tự-động điều-động đạo binh bạch-huyết-cầu để chống cự. Khi nó bị thương thì nó huy-động tế-bào vùng đó tự phát-triển để hàn gắn, khi đang ngủ mê, nhưng nó tự biết kéo chăn đắp cho khỏi lạnh, biết tự xoay trở mình cho khí-huyết lưu-thông để khỏi tắc-nghẻn tê-mỏi. Mỗi khi có sự cố xảy ra có thể làm tổn-thương, thì nó lập tức phản-ứng tự-vệ, không đợi sự sai khiến của linh-hồn, như khi bị vấp ngã, nó tự-động bám vào vật nào gần nhất, bất kể vật đó thế nào, như có vật nào sắp chạm vào mắt nó lập tức nhắm mắt liền lại... Khi mệt-mỏi đói khát nó biết đòi hỏi để linh-hồn chiều theo nó. Khi thân xác được nuôi-dưỡng rèn-luyện có được thể-lực tốt, nó cũng tự-động thăng-hoa thành ra khí-lực và khí-lực cũng biến thành thần-lực.
Có nhiều sự hoạt-động vận-chuyển bên trong cũng như bên ngoài xác-thân không cần đến sự sai khiến của linh-hồn, theo khoa-học thực-nghiệm thì nó chiïu ảnh-hưởng của hệ thần-kinh thực-vật, tức là thần-kinh ngoại ý, nó chi-phối phần lớn sự sinh-hoạt cuả thân-xác, như sự tuần-hoàn của huyết-dịch, sự chuyển-hoá hấp-thu, nhưng đối với những người tu-luyện linh-hồn đã tấn-hóa cao làm chủ được các hạ-thể, thì họ có thể điều-khiển tất-cả các hoạt-động này, như họ có thể khiến cho tim ngừng đập, phổi ngưng thở chẳng hạn, cũng như họ có thể chế-ngự được tất-cả những đòi hỏi của thân xác. Còn nếu chủ-nhân là linh-hồn nhu-nhược không làm chủ được thân-xác, thì tuỳ theo sự kinh-nghiệm tiêu-cực hay tích-cực đã tích-luỷ, nó sẽ trở thành cá-tính của con người, và thân-xác luôn luôn có khuynh-hướng trở về với cá-tính cố-hửu này của nó, như lười-biếng, phóng-túng, ưa buông-thả, vì linh-hồn không chế-ngự, khắc-phục được thân-xác. Nếu con người nắm vững được bí-quyết này, có thể luyện cho xác-thân có các cá-tính tốt lành, như hăng-say, tháo-vát, có khuôn-phép kỷ-luật, thì sẽ giúp cho linh-hồn mau tấn-hoá.
“... Phải có một thân phàm tinh-khiết thì mới xuất chơn-thần tinh-khiết...” (Thánh ngôn hiệp tuyển/ Q1/ tr.29.).
Pháp-thân nằm trong phàm-thân lồng trong ngủ-tạng lục-phủ, xương thịt ra đến da lông và tứ chi, nó là một mạng lưới rung-động bằng điển-quang liên-quan với hệ-thống thần-kinh chi-chít, nên nó cũng là cơ-quan đón nhận mọi cảm-xúc như đau-đớn, nóng lạnh, ấm mát. Nên ở một người thể-xác bị cưa cụt ở một chi, nhưng họ vẫn thấy cảm-giác đau-đớn xuất-phát ở phần tay hay chân đã bị cắt bỏ từ lâu, chứng tỏ rằng phần tay chân của phàm-thân tuy bị cắt bỏ, nhưng phần tay chân khí-chất của pháp-thân vẫn còn nguyên-vẹn, nên vẫn còn cảm-giác. Theo các nhà Đạo-học cho biết thì ở bên ngoài bề mặt của pháp-thân tương-ứng với cơ-thể, nó có những luân-xa liên-hệ với các huyệt-đạo, chạy theo kinh-mạch và các giác-quan. Nên nó cũng là nơi đón nhận mọi cảm-xúc và xuất-phát mọi tình-cảm cũng như tư-tưởng. Bản-chất của Pháp-thân ưa rung-động thô-bạo, khí-chất của nó luôn chu-lưu khắp cơ-thể, nhờ đó mà khối sinh-lực lồng trong xác- thân mới vận-hành, biểu-hiện sự linh-hoạt trong đời sống. Nó chiïu sự điều-khiển của Linh-thân (linh hồn) vì nó là khí-chất, nên phải lồng trong xác thân, khó xuất ra được. Đối với các bậc chơn-tu đoạt đặng bí-pháp xuất-thần thì nó có thể xuất ra khỏi xác-thân cùng với linh-thân mà vân du thiên ngoại. Chết là hiện-tượng pháp-thân (chơn-thần) và linh-thân (chơn-linh) rời khỏi xác-thân vĩnh-viễn. Nhờ có pháp-thân mà chơn-linh sau khi thoát xác, vẫn có thể phản-phất ở cỏi-trần và cỏi trung-giới, nếu người tu đắc đạo pháp-thân nhẹ-nhàng hơn không-khí, thì có thể lên đến thượng-giới nhập vào cỏi niết-bàn. Pháp-thân là chất khí nên nó có thể tán, có thể tụ và có thể ẩn hiện. Nên trong ngôn-ngử nhân-gian gọi là hồn người chết, hồn này có thể hiện về, thậm-chí còn tạo ra tiếng động hoặc di-chuyển đồ vật, để chứng tỏ sự hiện-diện của họ.
Pháp-thân đóng vai trò trung-gian giữa xác (phàm-thân) và hồn (linh-thân), có phận-sự liên-kết ba thể làm một. Ba phần này hổ-tương với nhau, nó có phận-sự chuyển mệnh-lệnh của linh-hồn đến nhục-thể, để sai khiến nhục-thể hành-động, ngược lại chuyển những tri-giác của ngũ-quan tiếp-xúc với ngoại-cảnh vào cho linh-hồn để nhận biết và ghi nhớ. Theo duy-thức-học của Phật-giáo đây là sự hoạt-động của ngũ thức (Tai, mắt, mũi, miệng, da) cùng Ý-thức và Mạt-na-thức.
Chơn-tướng của Pháp-thân (Tánh) khi duyên theo chơn-tâm, hướng về với linh-hồn thì trở thành chơn tánh, biểu-lộ các tánh-tình cao-thượng, trong-sáng và trí-tuệ minh-mẫn, khiến xác-thân thi-thố những phẩm-hạnh tốt lành; đồng thời khiến cho pháp-thân tươi đẹp, toả nhiều hào-quang sáng-sủa, tuy mắt xác phàm không thể nhận thấy, nhưng có thể cảm-nhận được sắc-thái của nó. Ngôn-ngữ của nhân-gian gọi là thần-sắc hay khí-phách của con người. Nếu ta nhìn vào một người hiền-lương, tiên-phong, đạo-cốt, ta sẽ nhận thấy cái dáng-dấp phương-phi, đạo-mạo, còn gọi là cái khí-phách của họ có thể cảm-hoá được người khác. Còn những ngườøi gian-ác hung-tợn thì hình-thù cổ-quái, dị-hợm, mới nhìn vào là đã có ác-cảm ngay. Khi Pháp-thân khuynh-hướng theo phàm-thân thì trở thành tục-tánh, biểu-hiện những tình-cảm thấp kém, là một thứ giác-tánh thô-thiển có ở bản-năng của cầm-thú như đói biết tìm ăn, lạnh biết tìm ấm, thèm khát đòi hỏi thoả-mãn; chứ không phân-biệt được phải quấy, thiện ác. Bởi thế nên những người tuân theo đòi hỏi của xác-thân thì hay có những hành-động thiếu suy nghĩ, ngoài ý muốn của lương-tâm là vậy.
Pháp-thân còn là nơi xuất-phát mọi suy nghĩ là nơi hoạt-động của tư-tưởng, nó khu trú ở não, nên người đời hay gọi là trí-não. Xu-hướng của nó duy-lý, nên cũng hay gọi chung là lý-trí, nhưng đôi khi lý-trí yếu-đuối không tập-trung, thì cũng bị tình-cảm lôi-cuốn, trường-hợp này gọi là tình-cảm thắng lý-trí, thường xử sự kém suy nghĩ. Theo thần-học, khi trí hoạt-động phát ra những luồng tư-tưởng như điển-quang, cái trí cũng có hình ảnh, người có huệ-nhãn có thể nhìn thấy. Nó là chất khí, nó cũng có sức mạnh nên gọi là khí-lực, nếu người tu biết làm chủ nó, tập trung tư-tưởng mạnh-mẻ, thì có thể nâng nổi đồ vật hửu-hình và có thể khiến người khác làm theo ý muốn của mình, như ta thường thấy các nhà thôi-miên họ chỉ dùng tư-tưởng tập-trung cao-độ để sai-khiến người khác mà không cần lời nói. Chức-năng của cái trí là để phát-biểu tư-tưởng, đây là nơi xuất-phát những điều thiện cũng như điều ác. Phật giáo gọi là Mạt-na-thức (thức thứ bảy) là nơi khởi phát ra vọng-niệm của thất tình như: Mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, sợ-hải và lục dục (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), ý-thức suy-nghĩ rồi sai-khiến xác-thân hành-động. Nên trong duy-thức-học của Phật-giáo cho thức này : công cũng đứng đầu, mà tội cũng đứng đầu (công vi thủ, tội vi khôi). Chúng ta thường thấy người có tư-tưởng thanh-cao thì có những hành-động quang-minh chánh-đại; còn tư-tưởng tham-dục ích-kỷ thì khiến con người hành-động đê-tiện. Nếu tư-tưởng mạnh còn có thể lôi cuốn người khác làm theo.
Tuy cái tâm chỉ-huy cái trí nhưng nó cũng có ảnh-hưởng ngược lại, nếu trí-lự quang-minh thì tâm-địa cũng rộng-rãi khoáng-đạt. Cái trí nằm trong pháp-thân nên cũng có bản-chất rung-động mau-lẹ, thay đổi không ngừng, nên giới tu-hành ví nó như con vượn chuyền cây, ít khi chịu đứng yên một chỗ. Nó ít khi tập-trung một chủ-đề, suy nghĩ việc này chưa xong, thì chuyển sang việc khác, nó ưa tản-mát mông-lung. Nên trong sinh-hoạt tư-tưởng của con người có tập-trung, thì mới làm việc đến nơi đến chốn và mới có được trí nhớ bền-bỉ. Nên con người cần nuôi-dưỡng cái trí bằng tư-tưởng thanh-cao, tình-cảm trong sạch và thức ăn tinh-khiết vì thức ăn nuôi-dưỡng xác-thân, nhưng cũng ảnh-hưởng đến trí-não, tỷ như uống rượu sẽ làm cho trí-não hỗn-loạn.
Nói chung Pháp-thân là phần lý-trí, tình-cảm, dục-vọng. Nó là một hạ-thể giúp cho linh-hồn sinh-hoạt ở ba cỏi phàm-trần, trung-giới và thượng-giới, chứ nó không phải là Ta. Nên nó cũng giống như là phàm-thân vậy, nó có những cá-tính riêng của nó; lao-chao bất-định. Nhất là ở những linh-hồn chưa tiến-hoá cao, nhu-nhược không điều-khiển được nó, để nó sống tuỳ-tiện hàng bao-nhiêu kiếp rồi, nên ta thường thấy có những mâu-thuẫn trong tâm-linh, như ta không thể làm điều thiện mà ta muốn, mà lại làm điều ác mà ta không muốn. Còn các linh-hồn đã tấn-hoá cao, điều-khiển được nó thì sẽ có những diệu-dụng, giúp cho con người biết phán-đoán, phân-biện.
Ta có thể nói tất-cả sự tiến-bộ của loài người từ đây mà phát-xuất, đó là chân-lý của pháp-thân, khi chết phàm-thân tan rả, pháp-thân lưu giữ tất-cả ý-chí tình-cảm, dục-vọng, cho đến khi đầu thai vào kiếp sống mới, thì những thứ này sẽ trở nên cá-tính cho kiếp sau. Các hoạt-động của trí-não cũng vậy, nếu trong kiếp đương-sanh mà chuyên nghiên-cứu chủ-đề nào, hoặc ngành nghề nào thì nó cũng trở thành năng-khiếu cho kiếp lai-sinh, đạo-học còn gọi là sự ôn-tập tiền-kiếp.. Về phương-diện tu-luyện thì Pháp-thân còn gọi là nhị xác thân, nó có thể xuất ra khỏi Phàm-thân mà vân du thiên ngoại nên Đức Chí-tôn đã dạy về Nhị xác thân như sau:
Đó là tất cả thể-pháp và bí-pháp của pháp-thân hay là đệ nhị xác-thân, còn gọi là chơn-thần nó thuộc về khí-chất, được thể hiện bằêng ‘Tánh”.
Ngày nay các nhà khoa-học cũng đã chứng-minh được phần đệ nhị xác- thân mà nhân-gian gọi chung-chung là vía hay là hồn, là nơi sinh-hoạt của tri-thức, lý-trí, tình-cảm và dục-vọng ở con người, trong lúc kiểm-chứng ở những người chết lâm-sàng (clinal death). Thuật-ngữ y-học này mô-tả trạng-thái một người không còn dấu hiệu nào của sự sống thấy được bên ngoài, như ý-thức và phản-xạ tim đập, ngực thở, tức là pháp-thân đã xuất hoàn-toàn ra ngoài phàm-thân do một hoàn-cảnh bất-thường nào đó, gần như bắt-buộc chứ không phải theo ý-muốn của Linh-thân, nhưng nó vẫn quanh-quẩn bên cạnh xác-thân và ghi nhận được những chuyển-biến xảy ra với phàm-thân tại lâm-sàng đã vô-tri bất-động gần như chết.
Bác-sĩ Raymond Moody đã kiểm-chứng 150 người chết lâm-sàng, họ đều tường-thuật giống nhau về những hồi-ức đến với họ trong lúc bất-tỉnh, tức là khi hồn xuất ra khỏi xác, họ cảm thấy vô cùng êm-ả, tự-do và mất cả đau-đớn, từ bên trên họ nhìn thấy được thân-xác họ và môi-trường chung-quanh, cũng như họ chứng-kiến cả những thao-tác của các Bác-sĩ, Y-tá đang cố-gắng cứu sống họ. Có người còn thấy mình đi vào một cảnh-giới siêu-việt đẹp lạ thường. Ở đó họ gặp được những người thân, bạn-bè “đã chết” và một “thể sáng” mà nhiều người cho đó là Thiên-thần, Chúa hoặc Thượng-đế (Theo Life After Life/ Đời Sống Sau Khi Sống/ của Bác-sĩ Raymond Moody).
Sau đó Bác-sĩ Michael Sabom một chuyên-gia tim mạch đã nghi-ngờ khám phá trên, và Ông ta đã tiến-hành hàng loạt nghiên-cứu về vấn-đề nầy trong suốt 5 năm liền. Ông đã phỏng-vấn hơn 100 người đã từng chết hụt (chết lâm-sàng). Họ đã kể lại những chi-tiết hồi-sinh cấp-cứu tim phổi (cardiopumonary resuscitation) nhiều người trong đó kể rất rõ-ràng chi-tiết họ đã trông thấy về những kỷ-thuật thao-tác y-khoa khá chính-xác, trong lúc họ không có chút kiến-thức nào về y-khoa cả, nhiều người còn cho biết lúc đó họ đang ở một nơi nào đó bên ngoài, hoặc gần trên thân xác họ. Bác-sĩ Sabom cũng đã so-sánh lại mức-độ chính-xác nầy ở một nhóm kiểm-chứng gồm 15 bệnh-nhân cũng từng trải qua sự hồi-sinh tim phổi, nhưng không phải là chết lâm-sàng (tức là chơn-thần còn nằm lồng trong xác-thân chưa xuất ra ngoài), hầu như những người trong nhóm kiểm-chứng nầy có những sai lạc quan-trọng khi kể lại những điều xảy ra trong thời- gian đó (Theo Recollections of Death/ Những hồi-ức về Cỏi chết/ của Bác-sĩ Michael Sabom).
Đó là câu chuyện các nhà làm khoa-học đã khám-phá ra được đệ nhị xác- thân bên phương Tây, thì ở Việt-nam cũng có một trường-hợp tương-tự xảy ra mà các nhà làm khoa-học của Viêt-nam gọi là “ Một hiện tượng kỳ lạ” hay còn gọi là hiệân-tượng Nguyễn-văn-Chiều”. Câu chuyện đó như sau:
Ông Nguyễn-văn-Chiều, sinh năm 1952 ở thôn Trung xã Hội-xá, Gia-lâm, Hà-nội là một thợ điện của Xí-nghiệp cầu Thăng-long, đã bị nguồn điện 6.000 vôn giật và quăng từ độ cao của cột điện xuống đất, toàn thân bị cháy và mê-mang bất-tỉnh, đươc đưa vào Bệnh-viện cấp-cứu, trong 9 ngày liền mê-mang bất-tỉnh (chết lâm-sàng), bổng sống lại, và Ông Chiều kể lại rằng trong lúc mê-mang, ông ta lạc vào một thế-giới huyền-ảo, ông vẫn nhìn thấy được thể xác mình, cùng những thao-tác cấp-cứu của các Bác-sĩ và y-tá, trong lúc đó ông cũng đã nghe được tiếng nói dạy ông cách chữa bệnh bằng phương-thức mở các kênh năng-lượng (luân-xa). Khi tỉnh dậy ông theo phương-thức đó tự chữa bệnh cho mình, chỉ sau 25 ngày thì ông bình-phục. Sau đó ông lập ra trung-tâm chữa bệnh gọi là Tâm-năng dưỡng-sinh và dạy lại cho nhiều người có cả những bậc trí-thức sau đại-học.(Theo bài viết của tác-giả Thu-Ba đăng ở báo Phụ-nữ Việt-nam số xuân Bính-tý ra ngày 03/02/1996 và bài phát-biểu của Giáo-sư Tiến-sĩ Nguyễn-hoàng-Phương trong lễ ra mắt Trung-tâm Nghiên-cứu Tâm-năng Dưỡng-sinh/ Phục-hồi sức khỏe của Ông Chiều với nhan-đề “Để trở thành một chuyên-gia cận y-học: hiệân-tượng Nguyễn-văn-Chiều”).
Trong cửa đạo Cao-đài cũng có nhiều tín-đồ đã từng chết đi sống lại, và họ cũng đã kể rằng, họ đã gặp những người thân đã chết, và có nhiều người đã nhắn-nhủ lại với người còn sống nhiều điều cần-thiết, họ còn cho biết họ gặp cả các Đấng Thiêng-liêng dạy Đạo cho họ. Thậm-chí có những người chết một cách đột-ngột đã hiện về báo mộng hoặc giáng-cơ cho người còn sống biết nơi họ đã chôn dấu vàng bạc trước khi chết, hoặc những điều họ ghi chép dặn-dò con cháu khi còn sống, mà họ đã cất một nơi nào đó... người nhà theo sự hướng-dẫn đó đã tìm lấy lại được...Những trường-hợp nầy nếu sưu-tập thì cả môt pho sách dày, nhưng những sự-kiện nầy không để lại bằng chứng, nên một số người cho đây là các trường-hợp ảo-giác không đáng tin !!!
Nên ở đây chúng tôi chỉ sưu-tập các tài-liệu Đông Tây ngày nay, đã có các khoa-học gia kiểm-chứng, để chứng-minh rằng đệ-nhị xác thân theo nhân-sinh-quan của Cao-đài-giáo đã truyền-đạt cách đây gầøn một thế-kỷ, lúc đó trình-độ của khoa-học vẫn còn mù-tịt về vấn-đề nầy, thì nay đã chứng-minh rõ-ràng rằng Pháp-thân là đệ nhị xác-thân tuy nó là một phần mờ, thuộc khí chất, mắt phàm không thể nhìn thấy được, nhưng nó vẫn là một thực-thể, có tri-giác, có tình-cảm nằm lồng trong xác-thân và có thể xuất ra ngoài mà vẫn giữ nguyên trạng-thái cấu-tạo và sinh-lý cùng bản-chất Trời ban cho nó là nắm giữ phần tri-thức tình-cảm của con người, chứ không phải là phàm-thân là xác-thân bàêng xương bằng thịt. Đệ nhị xác-thân nó còn làm trung-gian cho sự sống nối liền giữa thể-xác và linh-hồn.
Đối với bậc hạ-thừa thì kinh-điển nói rằng việc làm lành dữ của mỗi người có các bậc Thần Thánh chép biên, các vị Bắc Đẩu Nam Tào giữ phần thưởng phạt, đó là có tính-chất răn-đe giản-đơn cho người bình-dân dễ hiểu. Chứ theo Đức Hộ-Pháp nói rằng:
Lời thuyết-đạo trên rất trùng-hợp với quan-điểm của Phật-giáo, vì đạo Phật cho rằng tất-cả điều lành dữ con người đã làm, sẽ lưu giữ lại trong A-lại-da-thức (thức thứ tám), khi chết đi, thần-thức đầu thai lại kiếp khác, thì tất-cả điều lành dữ này sẽ là quả-nghiệp của kiếp đương-sanh, đây còn gọi là luật nhân-quả luân-hồi, chứ không phải ai thưởng phạt cả. Ngay trong cuộc sống theo kinh-nghiệâm của nhân-gian thì khi mình làm điều ác thì lương-tâm sẽ ghi nhớ, và lương-tâm sẽ hối-hận, nên người ta gọi đó là sự trừng-phạt của lương-tâm là vậy.
Theo thuyết tiến-hoá của Cao-Đài giáo, thì sự học-hỏi của con người trong một kiếp sanh cũng được linh-thân (linh-hồn) giữ lại và cũng được biểu-lộ ra ở các kiếp sau, nên mới có trường-hợp sanh ra, chưa học đến mà đã biết, ta thường thấy biểu-lộ rõ-rệt trong các hiện-tượng thần-đồng. Cho nên với tín-niệm nầy của Cao-đài giáo, thì vấn-đề học-tập tu-dưỡng ở thế-gian không chỉ gặt-hái thành-quả trong một kiếp sanh ngắn-ngủi, từ lúc sinh ra đến khi chết, mà thành-quả này sẽ trải dài ở vô số kiếp sanh, làm thành trí-tuệ tích-luỷ cho nhiều cuộc đời ở nhiều kiếp lai-sinh. Nhờ sự tích-luỷ đó mà khoa-học đã khám-phá được một số kỳ-bí của vũ-trụ và con người, xoi thủng vào bóng tối của vật-chất, soi rọi đột-nhập vào được cái siêu-việt huy-hoàng của Đạo. Nhờ sự tích-luỷ đó đã đưa ta đến chỗ hiểu biết sự-vật và từ đó mới giúp con người tiến sang lĩnh-vực triết-học; đồng thời nhờ đó mà triết-học được phát-huy. Ta có thể nói nhờ nơi sự tu-học tiếp-xúc tại cỏi trần, tích-luỷ trong nhiều kiếp mà con người tiến-hoá; giúp con người hiểu được cái đạo ở đời, cũng như biết họ từ đâu đến, ở đâu, rồi sẽ về đâu. Sự tích lủy nầy sẽ theo con người suốt nhiều cuộc đời cho đến khi công-viên quả-mãn.
Tóm lại cái linh-thân là Nguyên-linh, Thiên-tánh, Chơn-tâm, gọi chung là Thần được Thượng-Đế phân-tánh giáng-sanh. Đây là vật báu của Trời ban để chỉ-huy thân-xác, nó trường-tồn, đó mới chính thực-sự là Ta là Chân-ngã bất-diệt. Con người biết tu-luyện đừng để cho tục-tánh ảnh-hưởng mà hoá ra phàm-tâm thì sẽ không còn sanh-tử luân-hồi nữa; trở thành bậc Đại-giác đó là kết-quả cuối cùng của con người.
Tinh: là con người hửu hình tức là xác thân. Mang tính-chất sinh-vật, nên có bản-năng thú-tính, từ sinh-hoạt đến nhu-cầu cũng vậy.
Khí: là đệ nhị xác-thân, là trí-nảo tư-tưởng, tình-cảm con người, thể hiện bằêng tánh-tình, nên khi nó khuynh-hướng theo xác-thịt thì có tư-tưởng tình-cảm thấp kém, sinh-hoạt theo bản-năng tự-nhiên của giác-tánh thô-thiển như sinh-vật. Khi huynh-hướng theo Thiên-tánh tức là Thần thì cho ta trí-tuệ sáng-suốt, tư-tưởng tình-cảm cao-thượng.
Thần: là phần linh-hồn còn gọi là linh-thân do Thiên-phú. Tính-chất rất linh-thông thánh-thiện, đóng vai trò chỉ-huy giữ gìn mạng sống của con người, ghi nhận tất cả kết-quả thu-đạt được ở cỏi trần, chứa tất cả các chủng-tử thiện ác của con người và tự phán-quyết công tội, nên thế-gian hay gọi là người làm ác bị lương-tâm trừng-phạt là như vậy.
Theo giáo-lý của Cao-Đài thì con người đến thế-gian để học-hỏi, tu-luyện để ba phần Tinh, Khí, Thần được thăng-hoa. Như vậy người tín-đồ Cao-đài không những nhập-môn cầu Đạo tu-học để con người tiến-hoá, còn nguyện hiến dâng ba phần Tinh, Khí, Thần để Chí-Tôn làm phương-tiện để cứu-độ chúng-sanh nữa. Nên trong nghi-lễ của Cao-Đài giáo dùng ba món gọi là Tam bửu là Hoa, Rượu và Trà tượng trưng cho Tinh, Khí, Thần làm của lễ. Nên mỗi khi hiến lễ Đức Hộ-Pháp đã dạy cầu-nguyện như sau:
Khi dâng hoa (Tinh) thì cầu-nguyện:
- Khi dâng rượu (Khí) thì cầu-nguyện:
- Khi dâng Trà (Thần) thì cầu-nguyện:
- Câu chót nếu chúng ta khôn ngoan nguyện như vầy:
Đó là ta cầu-nguyện như vậy với Chí Tôn. (Thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại đền Thánh đêm 01/12 Đinh hợi/ 1947).
Thể-pháp tam-bửu là như vậy, còn ở người tu-luyện đạt được bí-pháp làm cho ba món ấy thăng-hoa hiệp nhất là đắc Đạo. Thánh giáo của Đức Chí-Tôn đã dạy về sự tương-quan giữa Tinh Khí Thần của con người đắc đạo như sau:
Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng. Nó vẫn là khí-chất, tức là hiệp với khí Tiên-thiên, mà trong khí Tiên-thiên thì hằng có điển-quang. Cái chơn-thần buộc phải tinh-tấn, trong sạch mới nhẹ hơn không-khí, ra khỏi càn khôn đặng. Nó phải có bổn-nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật thì mới xuất Thánh Tiên Phật đặng. Phải có một thân phàm tinh- khiết mới xuất chơn-thần tinh-khiết. Nếu như các con còn ăn mặn luyện Đạo rủi có ấn-chứng thì làm sao giải-tán cho đặng ? Như rủi bị hườn, thì đến khi đắc Đạo, cái trược-khí vẫn còn, mà trược-khí là vật-chất tiếp điển (bon conducteur d' élec-tricite) thì chưa ra khỏi lằn không-khí đã bị sét đánh tiêu-diệt. Còn như biết khôn thì ẩn-núp tại thế làm một bậc “Nhân-tiên”, thì kiếp đoạ-trần cũng còn chưa mãn.
Vì vậy Thầy buộc các con trường trai mới đặng luyện Đạo (TNHT/Q1/tr.30)
Theo chơn-truyền của Cao-Đài giáo thì các tôn-giáo trước đây đã thất chơn-truyền, vì bí-pháp tu-luyện đã bị thế-gian làm sai-lạc, người tu chỉ lo luyện-tập để đạc được các phép thần-thông, mà lơ-là phần công-đức, để tránh sự tác-hại cho chúng-sanh, do đó thiên-đình đã đánh tản Thần không cho hiệp cùng Tinh, Khí, nên đạo đã bị bế, vì vậy người tu nhiều mà không thể đắc thành quả-vị. Trong buổi Tam-kỳ Phổ-độ này Chí-Tôn đến khai-đạo, đã cho Thần hiệp cùng Tinh, Khí để cho kẻ tu-hành đắc-đạo, điều nầy Thánh-giáo Đức Chí-tôn đã dạy rằng:
“Thầy đến đặng hườn nguyên Chơn Thần cho các con đắc Đạo”. (TNHT/ Q1/ tr.12).
Điều nầy Đức Hộ-Pháp cũng đã dạy rằng ba thể phàm-thân (tinh) pháp-thân (khí) linh-thân (thần) tuy bản-chất của nó không thể nào đồng với nhau, nhưng con người phải luôn luôn giữ cho nó được hòa-hiệp thì mới mong đắc đạo.
Đó là tất-cả sự cấu-tạo vận-hành và sinh-hoạt chuyển-hóa xảy ra trong bản-thân một con người có sự sống hoàn-hảo theo nhân-sinh-quan của Cao-đài-giáo, tức là có đầy đủ Tinh, Khí, Thần. Sự cấu-tạo vận-hành nầy không những chỉ trong một kiếp sanh ngắn-ngủi, mà suốt trong nhiều cuộc đời, cho đến khi công-viên quả-mãn.. Còn về phương-thức chuyển-hóa để làm cho ba phần Tinh Khí Thần nầy hợp nhất để đắc Đạo, trở về với Thượng-đế còn đòi-hỏi phần công-đức, vì Đức Chí-tôn đã dạy rằng:
Phần nầy chúng ta cần tham-khảo ở các tài-liệu về đạo-lý thực-hành được đề-cập đến trong các chuyên-mục kế tiếp.
Tóm lại đời sống thân-xác thuộc vật-chất tuy có thay hình đổi dạng, nhưng chơn-thần (đệ nhị xác thân) và chơn-linh (linh-hồn) thì trường-tồn. Sự trường-tồn theo học-thuyết nầy, ngày nay cũng đã được khoa-học chứng-minh, bằng định-luật bảo-tồn năng-lượng.
Ngày nay đối-chiếu với khoa-học, cho ta thấy rằng toàn-bộ con người là một khối năng-lượng sinh-học, dưới nhiều dạng khác nhau : sức nóng, điện, năng-lượng trong thân-xác (vật-chất), còn gọi là “năng-lượng vật-thể” và năng-lượng trong trí-tuệ và tình-cảm (tinh-thần), còn gọi là “năng-lượng phi vật-thể”, tất-cả năng-lượng đó luôn luôn được tồn-tại, ngày nay được chứng-minh bằng định-luật bảo-toàn năng-lượng của Lavoisier. Theo định-luật nầy thì trong quá-trình chuyển-hoá, năng-lượng không bị mất đi, mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác, hoặc truyền từ vật nầy sang vật khác. Tất-cả đều được bảo-tồn (định-luật nầy rất chính-xác đối với nguyên-tử). Như vậy sau cái chết các hình-thức năng-lượng nầy sẽ đi đâu ? Năng-lượng vật-thể được cấu-tạo trong các nguyên-tử sẽ không bị mất đi. Thân-thể tan rả, những nguyên-tử của nó hợp lại thành những dạng cấu-tạo mới. Sức nóng của cơ-thể cũng không thể bị mất. Trong khi lò sưởi từ từ nguội dần, thì không-khí chung-quanh thâu nhận sức nóng toả ra. Khi cơ-thể một người hấp-hối bắt đầu lạnh, thì nhiệt-độ không-khí chung-quanh tăng lên một phần nhỏ mà ta không thể đo được. Điện-lực từ cơ-thể xuất ra trở về với khối điện-lực của thiên-nhiên.
Vậy khi một người chết thì năng-lượng tinh-thần, ý-chí, khả-năng suy-nghĩ và cảm-giác đi đâu ? Tất-nhiên năng-lượng phi vật-thể nầy cũng sẽ tồn-tại sau cái chết, theo định-luật Lavoisier nó vẫn được bảo-tồn, mà trở về với cỏi vĩnh-hằng và tồn-tại ở đó, Cao-Đài giáo gọi nơi nầy là cỏi Thiêng-liêng hằng sống, vì đời sống con người tắt đi, tỷ như hơi nước bốc vào không-khí nhưng hơi nước trong không-khí vẫn còn, chứ không tan biến, cũng giống như vậy, đời người có thể đi qua, nhưng nó cũng sẽ luôn-luôn tồn-tại và sinh-hoạt ở một nơi tương-ứng. Theo chơn-truyền của Cao-Đài giáo thì khi con người chết, tuy biến khỏi tầm mắt của ta, nhưng không có nghĩa là người đó không còn hiện-hửu, họ còn có thể phản-phất ngay tại cỏi trần nầy hoặc ở cỏi trung-giới, hay họ tiêu-dao nơi cảnh Thiêng-liêng hằng sống là cỏi thượng-giới (nhà Phậât gọi đó là cỏi Niết-bàn), hoặc đầu-kiếp tái-sinh trở lại phàm-trần, điều này còn tuỳ theo kết-quả tu-hành của họ. Như vậy đời sống con người vẫn được trải dài và tồn-tại đến vô tận.