SỰ TIẾN HOÁ
|
Bản-chất sự sống tiến-hoá và luôn hướng-thượng này của chúng-sanh, trong đó có loài người, nó như là một bánh xe luôn lăn tới, theo Đạo-học gọi nó là bánh xe Pháp-luân thường-chuyển, nó có nhịp-độ điều-hoà. Nên nó sẽ không tha-thứ bất cứ ai muốn ngăn-chặn hay trì-hoản. Tất-cả chúng-sanh dù muốn hay không muốn cũng phải nằm trong quỹ-đạo của nó, nếu không chịu thích-nghi thì sẽ bị đào-thải. Nên Nho-giáo nói rằng:
Vậy muốn hiểu rõ tường-tận sự tiến-hoá và nguyên-nhân lạc-hậu sa-đoạ của con người do đâu mà có, chúng ta thử tìm hiểu qua phần sưu-khảo sau đây.
Trong học-thuyết linh-hồn tấn-hoá của Cao-Đài-giáo nói rằng: Khi Đức Chí-tôn (Ngọc-hoàng Thượng-Đế) và Đức Phật-mẫu (Diêu-trì Kim-mẫu) tạo-lập nên vũ-trụ, vạn-hữu ngoài phần hình-thể, Thượng-Đế còn chiếc chơn-linh của Ngài tạo ra tám loại chúng-sanh, gọi là Bát-phẩm Chơn-hồn đó là :
Tức là Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu đã ban cho chúng-sanh một sự sống vẹn-toàn có đầy đủ cả thể-xác lẫn tâm-hồn. Nên trong Phật-Mẫu chơn-kinh có câu:
Mỗi loại chơn-hồn nầy đầu kiếp đến thế-gian mang xác thân tương-ứng, để tiến-hóa hướng-thượng chung-qui sẽ trở về hội-nhập với Ngài. Sự-kiện nầy đã tạo nên sự sinh-hoạt của chúng-sanh tại cỏi trần. Nên Thánh-giáo Đức Chí-Tôn dạy rằng:
"...Bởi vậy một chơn-thần Thầy mà sanh hoá chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và cả nhơn-loại... (TNHT /Q1 / Tr. 48).
Do đó mà mỗi chúng-sanh đều có Thiên-tánh do Trời ban cho mình, nên Phật-giáo cũng có câu:
Các chơn-hồn phải đầu-kiếp xuống tận đáy của phàm-trần là vật-chất, đó là bậc thang đầu-tiên, rồi kể từ trong tinh-hoa của vật-chất, tiến lên đến kim-thạch, thảo-mộc, thú-cầm, nhơn-loại, cho đến thần, thánh, tiên, phật là bậc thang cuối cùng của sự tiến-hoá, nên Đức Phật cũng đã nói rằng:
Đối với nhơn-phẩm, con người cũng còn phải chuyển kiếp nhiều lần, mới đạt đến quả vị thần thánh tiên phật. Quả vị đến nhanh hay chậm, còn tuỳ nơi sự quyết-tâm phấn-đấu của mỗi chơn-hồn. Nên Thánh-giáo Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:
" Cái phẩm-vị của các con buộc tái sanh nhiều kiếp, mới đến địa-vị tối thượng của mình là nơi Niết-bàn. (TNHT/Q1/tr57)
Sự thăng-tiến của mỗi chơn-hồn có đoạt được hay không, nhanh hay chậm, đều tuỳ thuộc vào nơi công-đức và đạo-hạnh của mình lập được tại cỏi trần này. Nên Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy rằng:
" Thầy đến độ rỗi các con là lập thành một trường công-đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng là tại các con muốn cùng không muốn. Thầy nói cho các con nghe: Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt-thủ địa-vị mình, Thì chẳng nơi nào khác mà đắc Đạo bao giờ. (TNHT/Q1/tr26).
Cỏi trần tuy là cỏi tạm, mỗi chơn-hồn đến rồi đi, như một quán trọ, nhưng nó là một trường tiến-hoá, con người không cố-gắng tự lập nơi nầy, thì cũng không còn nơi nào khác. Nên Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:
Cỏi đời là một trường học rộng lớn, mỗi chơn-hồn là một học-sinh. Nên trường đời cũng chia thành nhiều lớp. Điển-hình nhất ta thấy ở con người có hai loại tiêu-biểu, đó là những người chưa tấn-hoá, mới cổi lớp thú để làm người, bản-chất còn dã-man, và lớp cao hơn hết là hạng người đã đạt sự tiến-hóa viên-mãn, tức là các bậc đạo-đức cao-thâm, các vị giáo-chủ dìu-dắc nhơn-loại, những vị thần thánh tiên phật độ-đời cứu thế. Ngoài hai lớp người nầy thì phần đông là ở bậc trung, họ chậm-chạp bước từng bước một, trên nấc thang tiến-hoá, mỗi nấc thang là một chương-trình học mới, có thể là một hay nhiều kiếp đầu thai, con người mới học hết. Nếu chúng ta không tin có sự luân-hồi, không tin có từng trình-độ tiến-hoá, thì tỷ như bắt một em bé ở trình-độ tiểu-học học chung khoa ông tiến-sĩ, bắt một kẻ dã-man phải sống như bậc thánh-đức.
Nấc thang tiến-hoá này Thượng-Đế muốn để cho con người được tự-do và tự-nguyện, con người có thể tiến nhanh hay chậm, là do kết-quả ở sự tinh-tấn của mình. Cái phẩm-giá thiêng-liêng nó cũng giống như phẩm-giá phàm trần vậy. Nên Thánh-giáo Chí-Tôn dạy về phẩm-giá ở cỏi phàm-trần và thiêng-liêng như sau:
Tuy là sự tiến-hoá của phẩm-vị của con người, có thứ lớp như vậy, nhưng trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức Chí-Tôn đã ban cho con người một ân-huệ, nếu tu-hành tinh-tấn, thì chỉ một kiếp-sanh cũng có thể đắc thành chánh-quả. Thánh-giáo Chí Tôn đã nói rằng:
Đây là một đặc-ân mà Đức Chí-Tôn đã dành cho con người thời nay, không những Đức Chí-Tôn dành cho con người chỉ ngộ một đời tu là đắc thành quả-vị, nhưng nếu con người cố-gắng phấn-đấu để tiến-hóa thì có thể đồng phẩm-vị với Thượng-Đế. Đức Chí-Tôn đã cho biết như sau:
Như vậy mục-đích chính của đời người đến trần-gian là tiến-hoá để trở thành siêu-nhân. Trong hành-trình vào trần-thế con người đã sẵn có tất-cả sự thiêng-liêng mầu-nhiệm, ẩn-tàng nơi mình, tức là có sẵn lương-tâm, thiên-tánh, hay là chơn-tâm, phật-tánh, luôn hướng-thượng, đó là vốn liếng làm hành-trang, nếu mà con người biết cố-gắng khổ công tu-luyện, làm cho vốn-liếng ấy tăng-trưởng thì chắc-chắn sẽ đạt kết-quả.
Vậy đắc Đạo cùng chăng là tại các con muốn cùng chẳng muốn. TNHT/Q1/ Tr 26
Về sự tiến-hoá của loài người theo khoa-hoc, thì từ xưa đến nay đã có nhiều nhà khoa-học tự-nhiên đưa ra nhiều thuyết, tuỳ theo niên-đại mà có phân ra thuyết tiến-hóa cổ-điển, thuyết tiến-hoá hiện-đại, và các thuyết tiến-hoá tổng-hợp...Nhưng trong pham-vi khảo-luận nầy chúng ta chỉ đối-chiếu với quan-niệm tiến-hoá tiêu-biểu đó là thuyết tiến-hoá của Darwin để làm sáng tỏ thêm học-thuyết linh-hồn tấn-hoá của Cao-đài-giáo mà thôi.
Vào những năm 1859 nhà khoa-học tự-nhiên Charles Darwin người Anh đã công-bố công-trình nghiên-cứu của ông "về nguồn gốc các loài", làm cơ-sở cho học-thuyết tiến-hoá của loài người, đã được giới khoa-học thừa-nhận. Ông cho sự tiến-hoá của loài người cũng như hầu hết các sinh-vật, gồm có ba vấn-đề chủ-yếu có quan-hệ hữu-cơ với nhau, đó là tính biến-dị di-truyền và chọn-lọc. Ông giải-thích rằng đặc-điểm chung của mỗi sinh-vật là giữ lại và truyền cho con cháu những đặc-điểm cấu-tạo và phát-triển của tổ-tiên, như gà mẹ sẽ đẻ ra gà con, chứ không thể sinh ra thứ khác được, nhưng đặc-tính chung của mỗi sinh-vật là có thể mang những khác-biệt về chi-tiết so với bố mẹ chúng, và với các cá-thể khác cùng loại. Sự biến-dị nầy lại có thể truyền lại cho con cháu chúng, gọi là biến-dị di-truyền. Darwin cho rằng chính những biến-dị di-truyền cá-thể này đóng vai trò quan-trọng trong quá-trình tiến-hoá. Nguyên-nhân sự biến-đổi này là những điều- kiện sống, như môi-trường, thức ăn uống, sự hoạt-động, đã làm cho sinh-vật biến đổi dần từ thế-hệ này sang thế-hệ khác, ngoài ra còn một yếu tố chi-phối nữa là sự đấu-tranh để sinh-tồn và chọn-lọc tự-nhiên, những loài nào thích-nghi với thiên-nhiên thì tồn-tại, ngay trong cơ-thể mỗi sinh-vật, bộ-phận nào hoạt-động thì càng tăng-trưởng, còn những bộ-phận ít xử-dụng thì thoái-hoá đi. Đối với sự tiến-hoá về tinh-thần học-thuyết này đã cho rằng do sự biến-đổi của vật-chất mà có. Ở con người do sự biến-chuyển từ lối sống leo trèo lên cây, sang lối sống di-chuyển trên mặt đất, từ chỗ sử-dụng bốn chi, phân-hoá thành hai chân đi đứng và hai tay cầm nắm, sử-dụng công-cụ, thay cho miệng khỏi sự đớp, ngoạm, tha mồi, làm cho não-bộ tăng-trưởng. Rồi do nhu-cầu của cuộc sống mà trí-khôn phát-triển, di-truyền lại cho thế-hệ nối tiếp, làm thành sự tiến-hoá của nền văn-minh nhân-loại.
Học-thuyết này vốn xây-dựng trên sự quan-sát các hiện-tượng trong thực-tế bằng giác-quan, rồi từ đó suy-diễøn ra, nên chúng ta có thể nói rằng thuyết tiến-hoá này lấy vật-chất làm cơ-sở, và sự biến-đổi có tính-chất ngẫu-nhiên, tự-phát do ngoại-cảnh tác-động, chứ con người không chủ-tâm, không mưu-cầu. Học-thuyết nầy lại không đề-cập đến công-trình sáng-tạo tuyệt-hảo của Thượng-Đế, và lại không tin-tưởng bản-năng tiến-hoá hướng-thượng của Trời ban cho mọi sinh-vật.
Nhận xét về thuyết tiến-hoá của Darwin, xuất-hiện đã hơn một thế-kỷ, dĩ-nhiên là nó có những giá-trị nhứt-định của nó, nếu chúng ta dựa vào thuyết linh-hồn tấn-hoá của Cao-Đài giáo, hoặc một học-thuyết tiến-hoá nào đó, lấy tâm-linh làm cơ-sở, để chống-đối, thì theo quan-điểm nhất-nguyên là một điều không thức-thời, vì Thiền-sư Suzuki đã nói rằng:"Tất-cả mâu-thuẩn, tất-cả dị-biệt, đều đồng nhất, đều dung-thông nhau trong cái toàn-thể thân-thiết và nhịp-nhàng" (Theo Thiền-luận). Nhất-trí với quan-điểm đó, nên trong phạm-vi khảo-luận nầy, chúng ta chỉ nêu lên những điều khác biệt giữa hai thuyết tiến-hoá, để làm sáng tỏ vấn-đề của đôi bên mà thôi.
Đối với nhận-định của Darwin cho rằng sự tiến-hoá về tinh-thần con người, do sự biến-đổi của vật-chất mà có, thì trong thực-tế từ xưa đến nay ta đã thấy, nhiều sinh-vật đã biết sử-dụng bốn chi phân-hoá thành hai chân đi, và hai tay cầm nắm, để thay cho miệng khỏi phải đớp ngoạm, tha mồi như loài khỉ. vượn, đười-ươi...loài gậm-nhấm biết dụng hai chân trước để đào hang thay cho miệng, nhưng muôn đời nó cũng chỉ là loài dã-thú, đâu có thể có một nền văn-minh tiến-hoá vượt bực như loài người. Nên ước-thuyết cho rằng sự tiến-hoá về tinh-thần do sự biến-đổi từ vật-chất mà có, là một điều có thể nói là khá phiến-diện.Vì tinh-thần là một siêu thực-thể, nó có một hướng tiến-hoá riêng biệt do Thượng-Đế ban cho, ở con người tuy sự biến-đổi của vật-chất và môi-trường sống, có ảnh-hưởng tốt chút ít đến tinh-thần, nhưng không phải là yếu-tố quyết-định cho sự tiến-hoá của nền văn-minh nhân-loại, mà phải có sự đóng góp tích-cực của tinh-thần con người. Chúng ta thấy tất-cả những phát-minh của nhân-loại từ xưa đến nay đều do những đóng góp tích-cực của tinh-thần con người, chúng ta đơn-cử một số trường-hợp sau đây để chứng-minh cho sự-kiện này, tỷ như :
- Archimedes khi tắm, mà nếu không quan-tâm đến nước, thì làm sao tìm ra được định-luật về sức đẩy của nước.
- Issac Newton khi nhìn thấy quả táo rơi, mà không chịu động não, nghiền-ngẫm suy-tư, thì làm sao khám-phá ra "định-luật vạn-vật hấp-dẫn".
- A.Fleming nếu Ông bỏ qua "sự trục-trặc không quan-trọng" từ các đĩa cấy vi-khuẩn bị lên meo, thì làm gì tìm ra được khả-năng ức-chế vi-khuẩn của các loại nấm, mà tìm ra được thuốc Péniclin, mở đầu cho kỷ-nguyên chữa trị các bệnh truyền-nhiễm bằng thuốc kháng-sinh trên toàn thế-giới.
- Vua Phục-Hy khi nhìn thấy nét vằn trên lưng con ngựa hoang xuất-hiện trên bờ sông Hoàng-hà, mà không suy-tư thì làm gì tìm ra môn Hà-đồ Bát-quái và sự biến-hóa của Dịch-lý, làm cơ-sở cho môn khoa-học nhân-văn của Á-đông.
Thậm-chí chính con người còn phải có một tinh-thần đại-hùng đại-lực, chịu hy-sinh cả cuộc đời mình cho sự tiến-hóa của nhân-loại thì mới có được, như:
- Đức Thích-Ca nếu không bỏ ngôi thái-tử cao-sang, chịu đói khát, ngồi suy-tư dứơi cội bồ-đề, thì làm sao tìm ra phương-thức giải-thoát tứ-khổ cho chúng-sinh.
- Đức Chúa Jésus cùng các môn-đồ nếu không hy-sinh cả mạng sống của chính mình, thì làm gì có được con đường cứu rỗi cho nhân-loại.
Nói chung tất cả các nền văn-minh của nhân-loại dù là văn-minh vật-chất hay văn-minh tinh-thần cũng đều do yếu-tố tâm-linh và trí-tuệ của chính con người thúc-đẩy sự tiến-hoá, còn hoàn-cảnh bên ngoài chỉ đóng vai trò trợ-duyên mà thôi,
Darwin lại còn cho rằng sự tồn-tại của mọi sinh-vật là do luật sinh-tồn cạnh-tranh, tức là Ông ta cho rằng yếu-tố mạnh được yếu thua, khôn còn dại mất, nó quyết-định sự sinh-tồn của vạn-vật, mà không quan-tâm đến sự sinh-dưỡng và chở-che của Thượng-Đế. Nếu như vậy thì loài cừu, loài nai hiền-hậu, không bao giờ cạnh-tranh với loài nào, tại sao không bị tiêu diệt, và như vậy thì loài người làm gì còn có kẻ hiền-lương, yếu-đuối...Nên Đức Khổng-tử đã phát-biểu nguyên-lý cộng-đồng sinh-tồn nầy như sau:
Đó là nguyên-lý chung của sự sinh-tồn vạn-loại, còn sự cạnh-tranh giữa một số loài với nhau mà ta thường thấy, chỉ là những trường-hợp cá-biệt để duy-trì sự phát-triển điều-hoà của mỗi loài, để không có sự thái-quá lấn-át lẫn nhau, điều nầy nằm trong quy-luật quân-bình âm-dương của Tạo-hoá.
Còn học-thuyết tiến-hoá "bát hồn vận chuyển", tuy không phủ-nhận phần thể-chất ảnh-hưởng cho sự phát-triển tinh-thần, nhưng còn thừa-nhận rằng tinh-thần là phần siêu thực-thể độc-lập, luôn có ảnh-hưởng quan-trọng đến sự tiến-hoá của thể-chất. Sự tiến-hoá này không phải ngẫu-nhiên, tự-phát mà có sự chỉ-huy trực-tiếp của tâm-linh, và có một mục-đích rõ-ràng.
Theo học-thuyết "Tâm vật bình hành" của Cao-Đài giáo, thì cho rằng tuy thể-chất có ảnh-hưởng đến sự phát-triển của tinh-thần, nhưng tinh-thần cũng có ảnh-hưởng quan-trọng trực-tiếp đến sự phát-triển của thể-chất. Nên đứng về phương-diện tiến-hoá, Cao-Đài giáo chú-trọng cả hai phần:
- Phần thể xác:
Thân-xác nếu được tinh-luyện và tạo ra những hoàn-cảnh vật-chất và môi-trường sống thuận-lợi, thì sẽ làm phương-tiện tốt cho sự tiến-hoá của tinh-thần, nên trong các phương tu-luyện rất chú-ý rèn-luyện thể-lực và tổ-chức đời sống, xếp-đặt sự ăn ở cho ổn-định, để thể-lực thăng-hoa thành khí-lực, rèn-luyện khí-lực chuyển-hoá trở thành thần-lực, gọi là luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần. Ngoài ra còn tinh-luyện các yếu-tố vật-chất đã cấu tạo nên xác-thân đó là luyện ngũ-hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ). Ở con người còn có phương luyện năm yếu-tố này, tức là luyện các cơ-quan tổ-chức tạng-phủ như Tâm (hoả), Can (mộc), Tỳ (thổ), Phế (Kim), Thận (Thuỷ), bằng ẩm-thực tinh-khiết, tinh-thần trong-sạch, để nó được hoàn-hảo, vô bệnh, thì thân-thể sẽ cường-tráng, ngũ-khí sẽ thăng-hoa, con người sẽ không bị tật-bịnh, đau-khổ, phiền-nảo, nên Thánh-giáo của Chơn-linh Đoàn-thị-Điểm giáng cơ có câu:
Phương tu-luyện này gọi là luyện Tam-bửu Ngũ-hành. Theo đó Cao-Đài giáo mặc-nhiên xác-nhận sự tiến-hoá của thân-xác là một yếu-tố trong sự tiến-hoá của linh-hồn. Nhưng chủ-yếu là con người cũng phải có quyết-tâm, có thiên-hướng, biết tổ-chức một cuộc sống ổn-định, biết áp-dụng một phương-pháp dưỡng-sinh đặc-biệt, tức là cũng đòi-hỏi sự đóng-góp tích-cực của tinh-thần là điều quan-trọng, chứ không phải phó-mặc cho hoàn-cảnh tự-nhiên đưa đẩy đến đâu hay đến đó, hoặc sống một cuộc đời trác-tán, phóng-túng, buông-thả mà có được. Điều nầy sẽ đề-cập chi-tiết hơn ở phần phương-pháp tu-luyện xác-thân.
- Phần tâm-linh:
Nếu tâm-linh được tu-luyện để có một ý-chí tích-cực, một tinh-thần thánh-thiện thì cũng sẽ ảnh-hưởng quan-trọng đến thể-chất, điều này rất hiển-nhiên. Những người có một đời sống tâm-linh hiền-lương, đạo-hạnh cao-khiết, luôn có mục-đích hướng-thượng, thì thân-thể luôn đạo-mạo, phương-phi, còn những kẻ dã-tâm, ác-độc, sống tuỳ-tiện, buông thả, thì hình-thù cổ-quái, dị-hợm, thân-thể và tinh-thần bệnh-hoạn. Như vậy tuỳ ở sự điêu-luyện tinh-thần tốt đến bực nào, thì phần thể-chất cũng có ảnh-hưởng tương-ứng, và cũng đồng quan-điểm với thuyết di-truyền của Mendel và Darwin, là sự tốt lành này cũng sẽ truyền lại cho con cháu.
Nên thế-gian mới có câu:
Hai câu nầy có nghĩa là con cháu sẽ giống cha mẹ ông bà, và cha me hiền-lương thì sinh con cái đạo-đức, còn cha mẹ dữ thì sẽ sinh con độc-ác xấu-xí, chứ không thể đẻ ra con hiền-hậu tốt lành như tiên được.
Theo quan-niệm tiến-hoá của Cao-Đài giáo thì con người có thể tự làm chủ chính mình, hướng-dẫn sự tiến-hoá của chính mình, chứ không phải phó-mặc cho hoàn-cảnh tự-nhiên đưa đẩy, vì nếu phó-mặc cho hoàn-cảnh, thì có thể có những biến-dị tốt, nhưng cũng có thể có những biến-dị xấu, làm thoái-hoá đi, khiến cho con người phải gây ra tội-lỗi sa-đọa cho chính mình, mà còn di-hại đến nhiều thế-hệ con cháu mai sau nữa.
Con người được Thượng-Đế tạo-dựng, Ngài đã ban cho cái thiên-tánh vốn lành, và một thiên-hướng tiến-hoá, nhưng khi nhập-thế, càng nặng mang phàm-thể, khiến cho tư-tưởng, lý-trí và tình-cảm xu-hướng theo vật-chất, nặng-nề ô-trượt, càng bị lục-dục, thất-tình sai-khiến mà phải cưu-mang tục-lụy, càng mất dần tánh trọn lành. Nên khiến con người chậm tiến-hoá, và phải luân-hồi triền-miên từ kiếp này sang kiếp khác, dập-dồn trong luật nhân-quả trả vay, làm cho sự phản-bổn hoàn-nguyên càng ngày càng xa dần, khó mà trở về ngôi vị thiêng-liêng của mình, vì thế trong kinh Thiên-Đạo có câu:
hoặc là:
" Phong-trần vui thú cung âm,
Cảnh thăng ngơ-ngẩn lạc-lầm phong-đô"
(Kinh Giải-oan)
Vì con người khi đã vào vòng sanh-tử, mang lấy mãnh hình-hài, phải lo ăn mới sống, lo mặc mới lành, lại còn chịu sự đòi-hỏi của thân-xác, nên càng tạo thêm nhiều oan-nghiệt do chính mình gây ra, đồng-thời còn gánh thêm món nợ tiền-khiên của tổ-phụ lưu-truyền, nên làm cho kiếp người đắm-chìm vào tục-lụy, khiến chơn-thần mỗi ngày càng thêm ô-trược nặng-nề, làm cho đường về thiên-cung phải lỡ bước. Sự-kiện này kinh Thiên-Đạo đã cho chúng ta thấy cái nguyên-nhân như sau:
hoặc là:
Khối trái-chủ nhẫng lo vay trả,
Mới gầy nên nhân-quả nợ đời.
Rảnh mình đâu đặng thảnh-thơi,
Thiên-cung lở lối chơi-vơi cỏi trần...
(Kinh Giải oan).
Tuy là trí-lự khôn-ngoan của con người cũng như thánh-tâm do quyền thiêng-liêng khai mở, nhưng Đại-Từ-Phụ dù có thương xót bao nhiêu, cũng vì luật công-bình, nên phải để cho con người có quyền tự-do, tự-giác, tự-nguyện trở về với Ngài.
Thượng-Đế tạo-dựng ra loài người, Ngài đã dành cho nhiều đặc-ân, nhưng tại con người mê-luyến hồng-trần mà phải sa-đoạ, lý-do sự sa-đoạ này Đức Chí-Tôn đã cho biết như sau:
LỢI, Thầy cũng đã dành cho các con chung hưởng cùng nhau, mà cũng vì tham, đứa chứa nhiều, đứa nhịn đói.
QUYỀN, Thầy cũng đã ban cho các con in như Thầy đã ban cho chư Thần, Thánh,Tiên, Phật, hầu cho đủ thế kềm-thúc lấy nhau đặng giữ vẹn thánh-chất yêu sanh của Thầy, mà quyền ấy trở nên một cơ-chế buộc trói nhơn-sanh trong vòng tôi mọi. Ôi! Thảm thay! Cái thất vọng của Thầy rất nên ghê gớm, các con có hiểu vì sao mà cả nhơn-sanh gian-tham chăng ? Thì cũng muốn cho nhiều sanh-mạng chịu phục dưới quyền thế lợi lộc đó, vậy sự yếu-trọng của con người là nạn cơm áo; nắm chặt quyền phân phát cơm áo, thì chưa ai đã chịu thọ-sanh nơi thế này lánh khỏi.
Muốn cho đặng quyền-hành ấy phải làm thế nào ?
Dùng hết mưu-chước quỷ-quyệt, thâu đoạt cho đặng lợi lộc quyền thế cho nhiều, vì vậy mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh-tranh, đấu-đấu, giựt-giựt, giành-giành, gây nên mối loạn, nhân loại nghịch lẫn nhau, giúp cho phép tà quyền mạnh hơn yếu thiệt, mất phép công-bình, thiêng-liêng tạo-hoá; cái trường thảm-khổ của thế gian do nơi đó mà ra. (Thánh ngôn hiệp tuyển/ Quyển 2/ trang 63)
Còn một nguyên-nhân nữa làm cho con người sa-đoạ là không kể đến luân-hồi, nhân-quả, cho đời người chỉ ngắn gọn trong một kiếp sanh, từ chiếc nôi đến nấm mồ, khi chết là mất, nên hung-hăng, tàn-bạo. Đức Chí-Tôn cũng nói về số người này như sau:
Thầy hỏi: Vậy chớ cái trí khôn cúa con người biết thương, ghét, vui, buồn mà toàn trong nhơn-loại đều có, khi rốt cuộc thì trí khôn ấy đi đâu ?- Thầy hỏi như vậy đặng cho các con mỗi đứa về suy nghĩ mà trả lời cho mình.
Hễ trả lời phù-hợp thì dễ biết Đạo, còn ngu-xuẩn thì cũng hườn ngu-xuẩn... (TNHT/QI/trang 94)
Trên đây là tất-cả những nguyên-nhân làm cho con người sa-ngã, không thể tiến thân trên con đường tấn-hoá mà Thượng-Đế đã vạch sẵn.
Theo Đức Phật Thích-Ca nói về nguyên-nhân làm cho con người sa-đoạ, tiếp-tục trong vòng luân-hồi sanh-tử, gồm có mười hai nguyên-nhân còn gọi là thập nhị nhơn-duyên, xoay vần tiếp nối lẫn nhau, như sợi dây móc xích có mười hai khoen, làm thành vòng tròn khép kín , liên-tục trong ba đời; quá-khứ hiện-tại và vị-lai, làm con người không lối thoát. Mười hai nguyên-nhân đó kể ra theo thứ tự sau :
1) - Vô-minh: chúng-sanh vì đời trước-mê lầm thiếu sáng-suốt.
2)- Hành: Vì căn bản vô-minh, không phân-biệt thiện-ác, nên hành-động sai trái, tạo ra nghiệp-chướng.
Hai món vô-minh và hành làm nhơn quá-khứ tạo thành quả-nghiệp lưu lại trong thần-thức.
3) - Thức: Tức là thần-thức, sau khi chết nghiệp-lực dẫn-dắt thần-thức là phần tinh-thần trong con người đi đầu thai gọi là thọ thân, tức là có danh-sắc.
4)- Danh-sắc: Danh chỉ cho tâm, về phần tinh-thần, chỉ có cái tên; có sắc là xác-thân về phần vật-chất. Danh sắc là chỉ cho trạng-thái khi mới đầu kiếp, tinh-thần và vật-chất mới vừa phối-hợp.
5)- Lục nhập: Sáu chỗ vào. Khi thân-thể đã đủ lục-căn đó là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; là chỗ của sáu trần-cảnh nhập vào, gọi là lục-trần đó là Sắc: cảnh mắt thấy, Thanh: tiếng nghe vào tai, Hương: mùi thơm vào mũi, Vị: vị nếm của lưỡi, Xúc: các ngoại cảnh tiếp xúc với thân, Pháp: phần hiểu biết của ý-thức, (nó không biểu hiện ra ngoài, nhưng đối với nội-tâm, như ý-thức ham muốn chẳng hạn, chúng ta có thể tự thấy rõ-ràng)
6)- Xúc: Khi có sáu căn ( tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) thì phải tiếp-xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
7)- Thọ: Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, thì sinh ra sự nhận lãnh các sự vui hay khổ gọi là thọ.
Năm món: thức, danh-sắc, lục- nhập, xúc, và thọ là quả hiện tại.
8)- Ái: Khi thọ quả hiện tại, thì trở lại tạo ra nhân nữa là ưa thích, gọi là Ái.
9)- Thủ: Khi ưa thích thì muốn tìm cầu giữ lấy cho có gọi là Thủ.
10)- Hữu : Khi ưa thích thì tìm cầu giữ lấy cho có gọi là Hữu.
Ba món Ái, Thủ, Hữu làm nhơn hiện-tại, là cuối cùng của vô-minh.Từ đó tạo-nghiệp cho thân sau là đời vị-lai.
11)- Sanh: Khi ưa thích (ái) tìm cầu (thủ) để cho có (hữu) nên tạo ra nghiệp, cho thân sau, kiếp vị-lai, tức là sanh.
12)- Lão, tử: Khi có thân tức phải có thức, danh-sắc, lục-nhập, xúc, thọ, rồi già phải chết.
Sanh, lão và tử là quả vị-lai, rồi tạo nhơn nữa (ái, thủ, hữu), để thọ quả vị lại lần nữa, cứ thế nối tiếp cho đến vô cùng tận.
Nguồn-gốc của sanh-tử luân-hồi là do mười hai nhơn-duyên nêu trên, nhưng trọng-tâm là vô-minh. Con người muốn dứt sanh-tử luân-hồi, tức là phải diệt trừ "vô-minh", thì "hành" cũng diệt; tức là đạt đến nấc thang cuối cùng của sự tiến-hoá, là đạt Đạo, xa lìa sanh tử.
Bởi do vô-minh mà con người chấp giả làm chơn, nên bị trái-oan ràng- buộc:
Vì sự sinh-tử dập-dồn, mỗi kiếp sanh cứ tạo ra thêm nghiệp-chướng, rồi chìm đắm nơi giòng khổ-hải, sự đau-thương sẽ thấm sâu vào chơn-tánh, dây oan- nghiệt cứ ràng-buộc thân-xác, nên không thể tiến xa trên con đường Thánh-đức. Đó là lý-do sự sa-ngã chậm-tiến của con người.
Vậy con người muốn thoát ra khỏi chìm-đắm sa-ngã, thì phải nương vào cửa Đạo, lấy ánh-sáng đạo-mầu soi rọi, mới phá tan được màn vô-minh, dù cho Tiên Phật bị đọa-trần cũng phải bước theo con đường này mà thôi. Nên Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:
Con người phải quyết-tâm đi trên đường Đạo thì mới tránh được sự đọa-đày đời đời, kiếp kiếp. Đức Chí Tôn đã dạy rằng:
Sanh đứng làm người, trót đã mang vào mình một vai tuồng đặc-biệt, đã chẳng lo buớc hành-trình cho xong mà đắp-bồi nợ mảnh hình haì, ngọn rau tấc đất, lại chác lấy điều phiền-não ưu-sầu, lấy Thánh-đức gọi là chơi, mượn hành-tàng vô- nghĩa mà làm cho vừa lòng ái-mộ bất-lương. Cái xuân kia chẳng đợi người, mà bước đời càng gay-trở, lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều-quang nhặc-thúc, con đường hy-vọng chẳng biết đâu là tột cùng, mà bước đời xem đã mòm-mõi, sự thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh-ly, pha màu tử-biệt, làm cho sự vui-vẻ giàu-sang danh-vọng, đều thành ra một giấc huỳnh-lương, rồi đây vĩnh-biệt ngàn năm tội tình muôn kiếp. Đài nghiệt cảnh là nơi rọi sáng các việc lỗi-lầm, bước luân-hồi sẽ dẫn vào nơi u-khổ, cùng-sầu, mà đọa-đày đời-đời, kiếp-kiếp, ấy là buổi chung quy của khách trần đó.
Nguồn Tiên, Đạo Thánh dìu bước nhân-sanh, tránh tội-lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường ngay, mà lần vào nơi cực-lạc an-nhàn, rừng tòng suối lặng, động thẳm non xanh, để mình vào bực thanh-cao, thoát khỏi chốn luân-hồi ràng-buộc, ai mau bước đặng nhờ thân, ai luyến trần cam chịu khổn. Đạo Trời mầu-nhiệm, khá biết xét mình sau khỏi điều tự-hối.
Chúng sanh khá biết cho. (TNHT/Q1/ tr.84).
Đức Chí-Tôn và Phật-mẫu đã tạo-dựng nên con người, cưu-mang chúng ta hàng vô số kiếp, nhất là đối với những linh-hồn sa-đọa, Đại Từ-phu giống như các bậc cha mẹ thế-gian, có những đứa con ăn chơi sa-đọa, ra đi biệt-tích không trở lại quê-hương. Sự việc của thế-gian nó cũng giống như cỏi thiêng-liêng, đứa con phàm cũng giống như đứa con Trời, cha mẹ nào lại không muốn con mình công- thành danh-toại, nhưng với điều-kiện là chính nó phải tự tạo tương-lai cho mình thì mới được.
Theo chơn-truyền của Cao-Đài giáo thì Thượng-Đế là cha của cả chúng sanh, Ngài đã cho con cái xuống trần để học hỏi ở tại trường đời, hầu mở mang thiên-tánh Ngài đã ban, nhưng vì nhập thế chi mê, nên quên mất căn-nguyên bổn-tánh và cội-nguồn của mình, lại còn mang mãnh hình-hài phải chịu muôn ngàn cay đắng, bao nhiêu thử-thách nhọc-nhằn, bao nhiêu nghịch cảnh xót-xa, trăm nghìn sầu khổ. Trước cảnh khổ của trần-gian đối với những linh-hồn mạnh-mẽ thì đó là một dịp rèn-luyện, một cơ-hội tiến thân, còn đối với những linh-hồn yếu-đuối thì đó là một bể khổ mênh-mông, làm họ chìm-đắm. Nên Honnoré de Balzac đã nói rằng:
Bởi thế nếu người biết lợi-dụng cảnh khổ, thì thiên-tánh sẽ phát-triển, trí-huệ sẽ mở-mang, còn kẻ yếu-hèn thì sẽ hứng chịu hết đau-khổ này đến đau-khổ khác, rồi lương-tâm thui-chột, trí-huệ mê-mờ. Nên chúng ta có thể nói rằng: Sự đau-khổ là kết quả của vô-minh và sự hiểu-biết và lòng dũng-cảm tiến thân là mầm giải-thoát. Nhờ đau-khổ và hiểu-biết mà con người lần bước trên con đường tiến-hóa. Chính con người dệt ra số-mệnh của mình, và tuỳ hành-tàng của mình ở thế-gian mà được giải-thoát hay là bị đọa-đày.
Do đó từ nghìn xưa các bậc độ-đời cứu-thế, đã tùy trình-độ của chúng-sanh mà đề ra nhiều phương-pháp xử-trí với cảnh khổ khác nhau, mục-đích giúp cho con người biết sử-dụng nó để làm nấc thang thăng-tiến. Theo Đức Hộ-Pháp thì tôn-chỉ của các tôn-giáo xưa nay chỉ dùng chữ "Khổ" làm đề-mục trong môn học ở trường đời. Đức Ngài tóm-lược như sau:
Tùy thứ bực tiến-hóa của chúng-sanh, mà mỗi loại chơn-hồn có phương xử-trí với cảnh khổ khác nhau; như bậc hiền-nhân quân-tử thì phải biết tùng theo sự khổ để luyện mình, rồi phẩm-vị càng cao, thì mới có thể chiến-thắng nó, chịu đựng dễ-dàng với nó, rồi thoát khỏi nó, sau mới tìm ra phương-pháp giải-khổ cho tất-cả chúng-sanh thoát khỏi vòng luân-hồi sanh-tử. Phương-pháp này Đức Thích Ca đã giải rõ trong tứ-diệu-đề là:
- Khổ đề : Trình bày cho chúng sanh thấy rỏ tất cả sự khổ trên thế-gian mà họ phải nhận lãnh.
- Tập đề:Tập là nhóm chứa, Tập đề chỉ ra nguyên-nhân tất-cả sự khổ do đâu mà có.
- Diệt đề: Phương-thức hướng-dẫn con người tránh sự khổ.
- Đạo đề: Là con đường dẫn đến chỗ tận diệt khổ.
Trong giáo-lý Phật-giáo có cả thảy tám con đường diệt-khổ gọi là Bát chánh-đạo đó là:
Đó là tám con đường đưa con người đến diệt hết sự khổ-não.
Đức Samyutta Nikaya còn khuyên con người nên chuyên chú vào Tứ-diệu-đề như sau:
Chung quy các tôn-giáo trên thế-gian cũng chỉ có một mục-đích là chỉ lối đưa đường cho nhơn-sanh biết lánh dữ làm lành, để khỏi mắc nhiều nghiệp-chướng mà đọa-lạc trầm-luân. Nên Đức Hộ-Pháp đã tổng-kết lại như sau:
Con đường tiến-hóa ở thế-gian nó không bằng-phẳng, mà rất là chông gai, khổ-hạnh, dù cho những người có căn Tiên cốt Phật hễ đã vào vòng thế-tục, cũng khó mà thoát khỏi cửa luân-hồi chuyển-kiếp một cách dễ-dàng. Nên Đức Hộ-Pháp đã nói về cơ trả vay trong trường tấn-hóa của các đẳng chơn-hồn như sau:
"Đã có tấn ắt có thối, đã dở phải tìm hay, đã tà thì tìm chánh, đã dữ ắt tìm lành (la loi des réparation), mỗi cuộc đua-tranh đã gây biết bao oan-gia, trái-chủ, buộc các Đấng Thiêng-liêng, dầu cho đặng cao-thăng, biết dưỡng-chí, tu-tâm đi nữa, cũng bởi lẫn-truất thương-sanh, mà phải phế hủy kiếp-duyên, chịu đọa-đày nơi trần- tục.
" Cái cơ tấn-hóa thiêng-liêng vẫn thế, chẳng khác nào như có một quyền hành mạnh-mẽ buộc các đẳng linh-hồn phải thuận-tùng mà lập thành địa-vị, đẳng- cấp, cho đến ngang bậc cùng Trời, dầu cho Cổ-Phật cũng khó toan tránh khỏi.
" Có hữu-hình thì chắc có vô vi, công-bình tạo-đoan đã định, tại thế này thể nào thì trên cỏi hư-linh cũng vậy, chẳng khác nào đã có mặt luật nhiệm-mầu, giục cả nhơn-sanh tự-tỉnh, lấy trí-thức mà lánh dữ tìm lành, theo gương chư Hiền, Thần, Thánh, Tiên, Phật; dầu cho Đức Chí-Tôn cũng phải chiều theo phép mà tạo-thời cải-thế.
"Phép của Trời có một, là thương khắp cả chúng-sanh, nên định cho phẩm- vị hửu-hình và thiêng-liêng có một, nghĩa là phải tương-đắc cùng nhau, đặng định-quyết phép công-bình lành thăng dữ đọa. (Trích diễn văn Đức Hộ-Pháp đăng trong Tân luật/ Pháp chánh-truyền/ tr 66-67).
Tóm lại sự chậm tiến-hóa và sa-ngã của loài người theo triết-học của Cao-Đài giáo gồm có hai nhân-tố tạo-thành:
- Nhân-tố chính-yếu là do vô-minh, con người không hiểu rõ chân-lý mục-đích của cuộc sống, nên không làm chủ hướng-dẫn được thân-xác, tình-cảm và lý-trí; để nó tự-do phóng-túng, làm những điều tội-lỗi.
- Nhân-tố trợ-duyên là danh-lợi buộc-ràng, trần-duyên xúi-dục, tạo ra oan-trái mà chịu trong vòng luân-hồi, nhân-quả trả vay, làm cho lương-tâm mờ-ám, mà quên cả ngôi xưa vị củ.
Do đó Đức Chí-Tôn khai Đai-đạo Tam-kỳ Phổ-độ là để cứu vớt chúng-sanh khỏi sự trầm-luân sa-đoạ, nhưng nếu con người không chịu thức-tỉnh để tự giải-thoát lấy chính mình, thì Đức Chí-Tôn cũng không thêû bồng ẳm mà đở lên cho đặng, nên Ngài đã khẳng-định như sau:
Cho nên tất cả các phương-thức khắc-phục các nguyên-nhân sa-đọa nêu trên, cũng chỉ nhắm vào sự tinh-tấn của chính con người, vì sa-ngã là cội-nguồn của đau-khổ, mà tinh-tấn mới là mầm giải-thoát.
Do đó trên cỏi trần trình-độ tấn-hoá không đồng đều, là do kẻ thì tích-cực nhanh chân, người thì lơ-là chậm bước. Sự tấn-hoá trên đường đạo-hạnh đều do nơi mỗi người có muốn cùng không muốn. Nên Thánh-giáo Chí-Tôn đã dạy :
Nếu con người cứ vững tâm tiến bước theo đường Đạo, thì sự tiến-hoá sẽ thành-đạt. Đức Chí-Tôn đã khẳng-định rằng:
Đó là tất-cả yếu-quyết trong con đường tiến-hoá của loài người theo nhân-sinh-quan Cao-Đài giáo, mà đó cũng là phương-thức đưa con người thoát khỏi sự sinh-tử luân-hồi trở về hợp nhất với Đấng Chí-Linh.