ĐỨC CHÍ TÔN DẠY:
1. Thành tâm niệm Phật.
Tịnh, tịnh, tịnh, tình, tỉnh.
Tịnh là VÔ NHỨT VẬT
Thành tâm hành Đạo Pháp.
(Đàn đêm 14 -1 – 1926)
2. Một ngày thỏn mỏn một ngày qua
TIÊN PHẬT NƠI MÌNH CHẲNG Ở XA.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
(Đàn đêm 28 -1 – 1926)
3. Thời kỳ mạt Pháp này mới khiến có Tam Kỳ Phổ Độ, các sự hữu hình phải phá huỷ tiêu diệt. Thầy đến chuyển Đạo, lập lại VÔ VI, các con coi thử bên nào chánh lý; hữu hình thì bị diệt, chớ VÔ VI chẳng thế nào diệt đặng.
Chẳng cần chi con lo lập thánh Thất của Thầy và sùng tu tượng Phật chi hết. Con hiểu bổn nguyên THÁNH CHẤT THẦY … Tuỳ sức mỗi đứa lo lập MỘT TỊNH THẤT. Còn chùa chiền thì ngày sau e con không đủ sức cai quản cho hết.
(Đàn đêm mùng 4/ 8/1926)
4. Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài
Hỉ chư môn đệ, chư chúng sanh, nghe :
Thuyền khơi đợi gió lướt dòng ngân,
Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.
Nhuộm áo nâu sòng về Cực Lạc,
Trau gương trí huệ phủi đai cân
Cơ Trời đến buổi đời thay đổi
Đạo Thánh nhằm khi khách gội nhuần
Khổ hạnh dầu ai thìn một kiếp,
Rừng tòng thoát tục sớm đưa chân.
Đạo Trời khai ba lượt, khách tục lỗi muôn phần. Khách trần ai vẫn lấy sự vui vẻ vô vị chốn sông mê này mà quên trọn các điều đạo đức của các đấng Thánh trước, Hiền xưa. Chung đỉnh mãn tranh giành, lợi danh thường chác buộc. Kiếp phù sanh không mấy lát, đời giả dối chẳng có là bao. Sanh đứng làm người, trót đã mang vào mình một vai tuồng đặc biệt, đã chẳng lo bước hành đạo cho xong, lại chác lắm điều phiền não tu sầu.
Lấy Thánh đức làm chơi, mượn hành tàng vô nghĩa cho vừa lòng ái mộ bất lương. Đài nghiệt cảnh là nơi rọi sáng các việc lỗi lầm, bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ cùng sầu mà đoạ đày đời đời kiếp kiếp. Aáy là buổi chung qui của khách trần đó. Nguồn Tiên, đạo Thánh dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẽo vạy, bước đường ngay mà lần vào nơi Cực Lạc an nhàn. Rừng tòng suối lặng, động thẳm non xanh, để mình vào bực thanh cao, thoát khỏi chốn luân hồi.
Ai mau bước đặng nhờ thân, ai luyến trần cam chịu khổ. Đạo trời mầu nhiệm, khá biết xét mình, sau khỏi điều tự hối.
(Đàn đêm 26 -1 – 1927).
5. Hễ bí pháp tịnh luyện thì “khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương thọ”, không được thấu lậu cho ai biết đặng hoặc tỏ vẽ, giải phân trên giấy mực hay là dùng cơ bút mà truyền bí pháp đặng.
(Đàn đêm 25 -9 – Bính Tý).
6. Các con sanh ra tại thế này, ở tại thế này, chịu khổ não tại thế này, rồi chết cũng tại thế này. Các con chết rồi, các con thế nào ?
Thầy dặn các con : nếu kẻ không tu, khi xuất hồn ra khỏi xác thì cứ theo cấp tội mà luân hồi, biết chừng nào hội hiệp cùng Thầy; nên Thầy ban quyền rộng rãi cho nhơn loại trên Càn khôn thế giới, nếu biết NGỘ KIẾP một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng.
(Đàn đêm 19 -12-1926)
Cảnh nhàn chẳng phải đâu xa, chỉ ở nơi ĐỊA ĐÀNG lối thấp hèn mà quên đường cao thượng.
(Đàn đêm 21 -2 – 1927 )
7. Mỗi kẻ phàm dưới thế này đều có hai xác thân: Một thân phàm gọi là Corporel; còn một thiêng liêng gọi là Spirituel. Cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra, nên gọi nó là bán hữu hình vì có thể thấy đặng mà có thể cũng không thấy đặng.
Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng này do nơi Tinh, Khí, Thần mà luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Do nơi xác phàm xuất ra, nên hình ảnh nó như khuôn in rập. Khi đắc đạo có tinh, khí mà không có thần thì không thể nhập cõi Hằng sống. Vậy ba món ấy phải hiệp mới đặng.
Nó vẫn là chất thể hiệp với khí Tiên Thiên mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch nhẹ hơn không khí mới ra khỏi ngoài Càn khôn đặng. Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất ra Thánh, Tiên, Phật. Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn thần tinh khiết. Nếu như các con ăn mặn mà luyện đạo rủi ro có ấn chứng làm sao giải tán cho đặng. Vì vậy Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện Đạo.
(Đàn 17 -7-1926).
ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU DẠY:
8. Vâng Thiên sắc độ phàm thoát tục,
Đóng phong đô, giải ngục đoạ đày.
Máy linh cơ tạo nơi tay
GIÁC MÊ cứu đám lạc loài nguyên nhân.
(Đàn đêm mùng 7/1/Tân Mão)
DIÊU TRÌ CUNG DẠY:
9. Vui nhơn, vui Đạo, lại vui THIỀN,
Vui bước đường tu một bước yên.
Vui bóng Cao Đài che khắp chốn.
Vui gương Ngọc Đế thấy như nhiên.
(Noel 1925 – Lục Nương)
10. Bế ngũ quan khôn kiêng tục tánh
Diệt lục trần , xa lánh phàm tâm.
Mệnh thiên giữ vững tay cầm
Đoạt phương tự DIỆT, giải phần hữu SANH.
Linh linh hiển hiển khinh khinh khứ
Sắc sắc không không sự sự tiêu,
Chơn linh đẹp vẽ mỹ miều,
Xuất dương thế sớm đến triều NGỌC HƯ
(Tứ Nương – Nữ Trung Tùng Phận)
ĐỨC LÝ THÁI BẠCH DẠY:
11. Ngọn ngành Chơn Đạo khá tường sâu
Dưỡng tánh tu tâm thấu lý mầu
Tiên Phật nơi lòng người chưởng tập
Tây Phương tại thế phải xa đâu.
Anh hùng chớ để sa non diệm,
Hào kiệt đừng cho vướng bể sầu
Tiên cảnh một màu bao thuở lợt
Đường ngay tua kíp lập công đầu.
Có công phải biết gắng nên công (phu)
Tu TÁNH cho xong ráng luyện lòng (Tâm).
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục,
Đơn tâm khó (thiền) ĐỊNH, lấy chi mong.
(Đàn đêm 27 -1 -1926)
ĐỨC THANH SƠN TIÊN TRƯỞNG DẠY:
12. Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần
Thiểu tư quả dục, vật lao thân.
Thực bôi bán bảo vô kiêm vị.
Âm chỉ tam phân mạc quá tầng
Mỗi bá hí ngôn, đa thú tiểu,
Thường hàm lạc ý, mạc sinh xân
Nhiệt viêm biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao quá bách Xuân.
Lo ngoài quên trong, che bề trong trau bề ngoài, cũng như có xác không hồn, chuộng hữu hình mà quên các huyền bí chơn truyền … Cái tâm là vật người không thấy, khá trau giồi nó trước. Nếu bỏ tâm kia mà rèn hình thể thì chẳng khác chi quì đọc kinh mà thiếu bức Thiên Nhãn trên điện vậy. (Mậu Thìn 1928)
KINH CỬU
Đem mình nương bóng chí linh.
Định tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa
(Kinh Nhứt Cửu)
Khí trong trẻo dường như băng tuyết
Thần im lìm dường nét thiều quang
Xa chừng thế giới địa hoàn,
Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.
(Kinh Nhị Cửu)
HUYỀN DIỆU
Pháp môn tịnh luyện mở mau đi
Huyền diệu Thấy ban cho kịp kỳ
Hồng hạc trở về Cung Trí Huệ.
Rước người đạt Đạo đến Cung Vi.
H.P

Ta đem “Phương Pháp Trị Tâm” của Đức Hộ Pháp (ban hành số 209/HP ngày 14 -4 – Đinh Hợi) so sánh thấy phù hợp với “Thập Mục Ngưu Đồ ” (mười bức tranh chăn trâu). Những bức tranh này đã vẽ trong Chánh điện chùa Tam Tông Miếu (tức chi Minh Lý trong Ngũ Chi Đại Đạo).
- “Thập Mục Ngưu Đồ” đánh số La Mã (TMNĐ).
- “Phương pháp Trị Tâm đánh số Á Rập (PPTT)”
Ta thấy cả hai đều có 10 câu, 10 đề tài, nhưng câu đầu PPTT là một câu bao hàm tổng quát:
“Đức tin và khôn ngoan là KHO CHÍ BỬU, ngoài ra là của bỏ, là đồ vô giá trị”.
Kỳ dư lấy ý mà hiểu đều thích hợp hoặc bổ túc cho nhau.
I. TMND :Tìm trâu (tầm ngưu)
1. PPTT: AI CỐ OÁN KẺ THÙ CỦA MÌNH LÀ KHÓ GIỮ THANH TÂM CÔNG CHÁNH CHO ĐẶNG.
II. TMNĐ: Thấy dấu trâu ( kiến tích)
2. PPTT : AI CHẲNG OÁN HẬN MỚI THẮNG ĐẶNG KẺ THÙ NGHỊCH CÙNG MÌNH.
III. TMNĐ: Thấy trâu (kiến ngưu)
3. PPTT: SỰ CỪU HẬN NGƯỜI HIỀN KHÔNG BIẾT ĐẾN HAY LÀ TỪ BỎ CỪU HẬN OÁN GHÉT.
IV. TMNĐ: Được trâu ( đắc ngưu)
4. PPTT: THẮNG ĐẶNG KHÍ NỘ MINH , 5. THÌ KHÔNG ĐƯỢC CHỌC AI GIẬN DỮ.
V. TMNĐ: Chăn trâu (mục ngưu)
6 . PPTT : LẤY THIỆN MÀ TRỪ ÁC.
VI. TMNĐ: Cỡi trâu về (kị ngưu qui gia).
7. PPTT : LẤY NHƠN NGHĨA TRỪ BẠO TÀN.
VII. TMNĐ: Quên trâu còn người (Vong ngưu tồn nhơn).
VIII. TMNĐ: Người trâu đều quên (Nhơn ngưu cầu vong)
8.PPTT : LẤY LÒNG QUÃNG ĐẠI ĐẶNG MỞ TÂM LÝ HẸP HÒI.
IX. TMNĐ: Phản bổn huờn nguyên
10. ẤY LÀ ĐƯỜNG THƯƠNG HUỆ KIẾM
X. TMNĐ: Buông tay vào chợ (đảo ngược số thứ tự).
9. LẤY CHÁNH TRỪ TÀ.
Tranh thiền vẽ trâu (chỉ cái tâm) ý nói : “Bạch ngưu xa” tức Phật thừa, là cái đại giác viên mãn, chủ trương đốn ngộ.
Bức hoạ 1 “Tầm ngưu” : vẽ một mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) và kết thúc bằng bức hoạ “nhập triều thuỷ chủ” (buông tay vào chợ) : vẽ một nhà Sư lẫn lộn trong đời.
Trâu đâu mà tìm? (Trâu chỉ cái tâm). Vì trong phút giây khác thường nào đó, ta nghi ngờ những điều tai nghe mắt thấy, tức nghi ngờ chính cái tâm ta.
Từ bức hoạ 1 đến 6, ta thấy khoảng cách giữa người và trâu (cái tâm) thâu ngắn lại dần, đến lúc kẻ chăn trâu ngồi hẳn lên lưng trâu (bức hoạ 6) : trâu với người làm một.
Khi ta hỏi tâm ở đâu, chẳng khác nào ta hỏi trâu ở đâu. Trong khi chính ta đang cỡi trâu. Ta đi tìm tâm rốt cuộc tâm ở nơi lòng ta. Ta chỉ cần DỪNG LẠI, nó hiện ngay trước mắt trong ánh sáng muôn màu. Nếu loài người thỉnh thoảng biết dừng lại (định tâm suy tưởng) trong vài phút thôi thì thế gian này không đến nỗi quá buồn thảm như ngày nay.
Sau hai giai đoạn ngoại cầu, đến giai đoạn tự trị tự giác. Khi người và trâu đều quên (nhơn ngưu câu vong) thì nơi chân trời hiện lên mặt trời huệ, tượng trưng bằng vòng tròn vô vi viên giác (bức hoạ 8). Đó là TÂM KHÔNG, đạt Đạo rồi.
Trở về ngôi vị cũ với bức hoạ 9 nhan đề : phản bổn huờn nguyên : vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn. Từ nguyên thỉ, con người vốn thanh tịnh, vốn là không, nên chỉ cần hiểu thấu tánh mình là huờn nguyên.
Khi đạt thành chánh quả phải nhập vào thế tục với cái tâm diệu dụng “cư trần bất nhiễm trần”. Tu sĩ buông thỏng hai tay (nhập triền thuỳ thủ, bức tranh 10) đi vào chợ để độ đời.
Mười bức tranh trâu có thể tóm gọn một câu : VÔ TÂM ĐẠO DỄ TẦM
Mười bài thơ dưới đây là của Phổ Minh Thiền Sư , do Trần Đình Sơn dịch
Tranh 1 : CHƯA CHĂN |
< < < TÌM TRÂU Đầu sừng dữ tợn rống hung hăng Vượt suối xuyên ngàn mãi chuyển băng Một đám mây đen giăng cửa động Lúa non dẫm nát biết cùng chăng ? |
|
THẤY DẤU TRÂU > > > Ta có dây thừng sỏ mũi trâu Mỗi lần nó chạy, đánh roi đau Xưa nay tánh xấu, khôn điều chế Nên kẻ chăn kia phải dãi dầu |
Tranh 2 : MỚI DẮT |
Tranh 3 : CHỊU PHÉP |
< < < THẤY TRÂU Trâu dần chịu phép thôi lung chạy Vượt nước qua mây bén gót người Trẻ nắm dây thừng quên nhọc mệt Trọn ngày chăm chỉ chẳng hề lơi |
|
ĐƯỢC TRÂU > > > Lâu ngày chịu phép mới quay đầu Tâm lực điên cuồng chuyển, chuyển nhu Người dắt vẫn còn chưa chịu thả Dây thừng giữ chặt dám lơi đâu |
Tranh 4 : QUAY ĐẦU |
Tranh 5 : NGOAN NGOÃN |
< < < CHĂN TRÂU Dưới bóng dương xanh khe nước sương Buông buông, nắm nắm, mặc tình ta Cỏ thơm, chiếu xuống, vừng mây biếc Trẻ khỏi cần chăn vẫn tới nhà |
|
CỠI TRÂU VỀ > > > Thích ý nằm yên giữa đất bằng Cần chi roi đánh với dây ràng Cội tùng mọc tử ngồi êm ả Tiếng sáo thanh bình vui thổi vang. |
Tranh 6 : VÔ NGẠI |
Tranh 7 : THEO CUỘC |
< QUÊN TRÂU CÒN NGƯỜI Sóng xuân lặng chiếu liễu bên bờ Khói nhạt cỏ thơm xanh mởn mơ Ngày tháng, đói ăn, cùng khát uống Mục đồng trên đá ngủ say sưa. |
|
TÂM KHÔNG >>> Chẳng thấy người, trâu; dấu mịt mù Ánh trăng trong suốt, thảy đều không Muốn tìm ý chính bên trong ấy Cỏ dại hoa thơm vẫn biếc nồng |
Tranh 8 : CẢ HAI ĐỀU VẮNG MẶT |
Tranh 9 : QUÊN NHAU |
< PHẢN BỔN HUỜN NGUYÊN Trâu trắng thường trong mây trắng bay Vô tâm, người ấy lẫn trâu này Trăng xuyên mây trắng, hình mây trắng Mây trắng, trăng trong, đông lại tây. |
|
BUÔNG TAY VÀO CHỢ > > > Trâu kia đã vắng, mục đồng nhàn Một đám mây đơn chốn núi xanh Trăng sáng, vỗ tay cao tiếng hát Quay về còn có một trùng quang |
Tranh 10 : RIÊNG CHIẾU |

Mục đích luyện Đạo là để trường sanh bất tử, siêu xuất khỏi luân hồi về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Muốn đạt được cảnh giới đó, phải có tinh thần minh mẫn hoà hợp nhân đạo và thuận Thiên lý. Dưới đây xin lược ghi :
I. Những phương pháp của người xưa về thuật tu luyện :
Lời kỳ bá đáp Hoàng Đế : “Người Thượng Cổ hiều Đạo dưỡng sanh, tuân theo luật biến hoá của âm dương, ăn uống có điều độ, làm việc có chừng mực, nên thân thể và tinh thần đều khoẻ mạnh, nên hưởng thọ tuổi trời, vượt ngoài trăm tuổi … Họ làm việc nghỉ ngơi không biết tiết chế cho nên mới 50 tuổi mà đã suy kiệt rồi ”.
Trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử viết : “ Nay ta nói thói đời cho ngươi nghe : mắt ưa nhìn nữ sắc, tai muốn nghe âm nhạc, miệng thích nếm mỹ vị, chí khí muốn thoả mãn. Con người thượng thọ là 100, trung thọ là 80, hạ thọ là 60.
Trời đất vô cùng, kiếp người hữu hạn. Đem cái hữu hạn mà gởi gắm khoảng vô cùng, khác gì ngựa ký vút qua khe cửa. Kẻ không biết giữ gìn cho trường thọ thì không phải là người thông hiểu Đạo”.
Trong Bão Phác Tử nội thiên, Cát Hồng viết : “Người giỏi bảo dưỡng thân thể có giờ đi ngủ và thức dậy sớm trễ khác nhau tuỳ theo bốn mùa. Tiết chế lao động nghỉ ngơi. Dằn cơn giận để bảo toàn âm khí, nén vui mừng để bảo dưỡng dương khí.
Trong Dưỡng Sinh Luận, Kê Khang viết : “Kẻ ăn ở thái quá, ẩm thực không điều độ dễ sinh trăm bịnh, ham mê sắc dục không biết mỏi đến mức cạn kiệt, khiến cho gió lạnh và trăm thứ độc tác hại để cho chết yểu. Lâu ngày nhiều cái nhỏ nhoi dồn lại thành hao tổn, rồi suy nhược. Từ suy nhược trở nên bạc đầu, già nua, từ già nua dẫn đến tử vong. Khi gặp tai hoạ thì than thở , vì họ không biết cẩn thận trước mọi hiểm nguy báo hiệu.”
Kê Khang cho rằng cần phải luyện tâm. Oâng viết : “Tâm trống trải, yên tĩnh, thư thái bớt suy tư và ít ham muốn. Danh lợi và địa vị làm hại đức không nên mưu cầu. Thức ăn bổ béo làm hại tính nên bỏ không màng tới. Những gì làm luỵ đến tâm mà ngoài thân thì đừng lưu giữ thì thần khí được nhẹ nhàng, thanh thản không lo sợ. yên lặng, không tư lự, rồi lấy cái vui giả tạm để sau này được niềm vui tròn đầy, xả bỏ cái phù sinh để thân còn mãi”.
II. Thuật dưỡng sinh :
Muốn sống lâu phải đừng tự làm hại mình (bất thương). Trong Đạo đức kinh, Lão tử nói : “Năm màu khiến người ta mù mắt, năm giọng khiến người ta điếc tai, năm mùi khiến người ta tê lưỡi. Của cải khó được khiến người bị tai hoạ ”.
Trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử nói : “Chỗ đáng sợ của con người là chuyện chăn gối và ẩm thực vô độ, thế mà họ không biết răn mình thật là lầm lỗi lớn”.
Cát Hồng thì chỉ rõ hơn : “Tài năng chưa tới mà mong tìm là tự làm hại, sức lực không đủ mà gượng làm là hại, buồn rầu đến nỗi tiều tuỵ là làm hại. Bôn ba vì dục vọng là làm hại, cười nói vui đùa lâu là làm hại, ngủ nghỉ không đúng giờ là làm hại. Say đến nôn mữa là làm hại, ăn no đi nằm là làm hại… Tích luỹ các điều hại quá mức sẽ chết sớm, chết sớm đâu phải là đạo dưỡng sinh”.
Để tránh bị tổn thương, Cát Hồng khuyên “Không đi bộ nhanh, tai không ráng nghe, mắt không nhìn lâu, không ngồi quá lâu, không nằm cho đến mệt mỏi, mặc thêm áo khi mùa lạnh đến, cởi bớt áo khi mùa nóng đến, chớ để quá đói rồi mới ăn, chớ ăn no quá, chớ để thật khát rồi mới uống, chớ uống quá nhiều. Chớ thức dậy muộn, chớ ngủ quá nhiều, chớ ăn những món sinh lạnh bụng, chớ tắm nhiều lần trong ngày, chớ đi ra ngoài lúc thời tiết xấu. Năm vị ăn vô miệng chớ dùng thái quá vì chua quá hay hại tỳ, đắng quá hại phổi, cay quá hại gan, mặn quá hại tim, ngọt quá hại thận, đó là lẽ tự nhiên của ngũ hành”.
Trong “Nhiếp dưỡng châm trung phương chương “Tự thân”, Tôn Tự Mạc viết : “Oâi đạo trời đầy vơi, đạo người truân chuyên. Cho nên hành giả nào chưa biết cách cẩn thận phòng tránh thì chưa đủ trình độ để bàn về đạo dưỡng sinh”. Oâng gói ghém thuật dưỡng dinh trong 12 chữ giảm thiểu : giảm nghĩ ngợi, giảm công việc, giảm ghi nhớ, giảm ham muốn, giảm nói năng, giảm cười đùa, giảm âu sầu, giảm sung sướng, giảm vui vẻ, giảm giận dữ, giảm ưa thích, giảm ghét bỏ. Ai thực hành được 12 chữ này mới hợp với đạo tu dưỡng.”
III. Thuận theo thời tiết :
Người, trời, đất và vạn vật đồng nhất thế nên chương ‘Tứ khí điêu thần đại lu ân’ của Tô Vân viết : “Aâm dương bốn mùa là căn bản của vạn vật. Vì thế Thánh nhân dưỡng dương vào mùa Xuân, mùa hạ, dưỡng âm vào mùa thu, mùa đông cùng với vạn vật nổi chìm nơi cửa sinh trưởng. Nghịch với bốn mùa tổn hại tới sinh mạng, còn thuận theo thì không ốm đau, đó gọi là đắc đạo”.
Về mùa xuân, Tô Vân viết : “Ba tháng mùa xuân là thời phô bày cái mới đầy sinh khí, vạn vật hớn hở, đêm ngủ sáng nên dậy sớm, đi bộ trong sân, y phục rộng rãi, để cho tinh thần và ý chí thuận sinh cùng thời tiết, đó là ứng với khí mát mẻ của mùa xuân ”.
Mùa xuân ăn uống nên bớt vị chua mà tăng vị ngọt để nuôi cái khí của tỳ.
Về mùa hạ :Tô Vân nói : “Ba tháng mùa hạ là thời cây cối sum suê xinh đẹp, khí âm dương của trời đất giao nhau, vạn vật đươm hoa kết trái, đêm ngủ thời sáng dậy sớm, đừng sợ ánh nắng mùa hạ, để cho dương khí trong thân thể tiết ra ngoài làm vậy sẽ thích ứng với khí hậu mùa hạ ”.
Mùa hạ hoả vượng vị đắng, hoả khắc kim (phổi), phổi chủ về cay, nên thức ăn cần giảm vị đắng mà tăng vị cay để nuôi khí của tim và phổi.
Về mùa thu :Tô Vân viết : “Ba tháng mùa thu là thời trạng thái của vạn vật đã ổn định, khí trời vội vã, khí đất trong sáng, nên ngủ sớm dậy sớm, để cho thân chí được yên ổn mà giảm bớt khí thu, đối với con người phải thu gom thần khí để khí của phổi được thanh tịnh. Như vậy sẽ thích ứng với khí thu”.
Mùa thu khí ở phổi vượng, vị cay, kim khắc mộc (gan), gan chủ chua, nên mùa thu giảm vị cay tăng vị chua để nuôi cái Khí của gan.
Về mùa đông, Tô Vân viết : “Ba tháng mùa đông là lúc bể tàng, nên ngủ sớm dậy sớm. Trong sinh hoạt tránh lạnh lẽo và tìm ấm áp, đừng để tiết mồ hôi dương khí hao tổn.” Mùa đông thận thuỷ có vị mặn, sơ thuỷ khắc hoả tim sẽ bị bịnh, nên phải dưỡng tim ở phòng kín, mặc ấm, ăn uống phải thích hợp, người già kiêng ra ngoài gió lạnh.
Tóm lại luyện theo mùa là theo sự vận động tự nhiên: xuân sinh, hạ trưởng, thu liễu, đông tàng. Mùa xuân nên ăn ngọt, mùa hạ nên ăn cay, mùa thu nên ăn chua, mùa đông nên ăn lạt, đắng. Nhờ vậy bồi bổ ngũ tạng, ích khí huyết.
Thực hành các yếu chỉ trên góp phần cho việc luyện đạo chóng thành. Mục tiêu của luyện đạo là để trường sanh bất tử còn thực tế trước mắt là tăng cường sức khoẻ và phòng chống bịnh tật.

Đàn đêm ngày 4-8-1926, Đức Chí Tôn dạy: “Con hiểu bổn nguyên Thánh chất Thầy … Tuỳ sức mỗi đứa lo lập (cho mình) một TỊNH THẤT”.
Có Thiên Bàn tại tư gia, thì cũng có Tịnh Thất tại tư gia. Thế nên, ngay từ năm 1927, Đức Cao Thượng Phẩm đã lập tại nhà Ngài một Tịnh Thất, gọi là Thảo Xá Hiền Cung. Đơn giản, phía trước Thiên bàn chỗ quì cúng để thêm một hoặc nhiều cái bồ đoàn (thay cho gối). Bồ đoàn hình tròn đường kính 2 tấc, cao 1 tấc, dồn gòn, để giữa cái nệm hình vuông cạnh 6 tấc. Vẽ chữ Khí để ở bàn Hộ Pháp.
Muốn toạ thiền phải tập trung tư tưởng cao, xoá bỏ ý thiện ác lởn vởn trong tâm. Âm thanh đập vào tai nghe như không nghe. Ánh sáng chọi vọi vào mắt thấy mà như không thấy, tạo cái tâm phá chấp.
Sau khi cúng tứ thời : Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu tu sĩ ngồi lên bồ đoàn kiểu kiết già. Xương cùn chiếu đúng giữa bồ đoàn (nghiêng qua nghiêng lại cho chính) rồi chỉnh thân ngay thẳng, hai ống chân kéo sát vào thân, sau đó mới nới lỏng dây lưng, cổ áo rộng cho thoải mái.
Lấy mu bàn tay trái để lên lòng bàn tay phải (nữ thì làm ngược lại). Hai ngón tay cái tiếp xúc với nhau, cạnh ngón út bàn đặt nhẹ vào dưới Đan điền (ruộng thuốc). Lưng thẳng, đầu hơi cúi xuống, mắt nhắm độ 3/4. Rồi tâm thiện niệm :
“Cúi xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cho con vào hàng tu chơn, đạt thành chánh quả ”.
Liền đó, ngậm miệng lại, răng khít răng, lưỡi kề răng, làm như vậy cho mạch Nhâm, mạch Đốc giao nhau. Gương mặt bình thản và bắt đầu thở bằng bụng như bài tập đã qui định.

I. THỞ HAI THÌ
1. Sổ tức :
- Hít vào thở ra với chiêu số 5-5
- Quân bình âm dương
- Luyện Chân Khí, Tiểu Chu Thiên
- Trị suyển, loạn nhịp tim
|
HƠI THỞ |
HÍT VÀO |
THỞ RA |
|
Tập trung Tư tưởng |
Đan điền: 5 số đếm |
Tản khí toàn thân |
|
Di động bụng |
Phình ra thong thả |
Bụng thót vào |
1. Quán tức :
|
HƠI THỞ |
HÍT VÀO |
THỞ RA |
|
Tập trung tư tưởng |
Quán câu :Thầy là các con |
Quán câu : Thầy là … |
|
Đan điền : 5 số đếm |
Tàn khí |
II. THỞ BA THÌ :
1. Thở tự nhiên :
Thở tự nhiên là thở làm ba thì :hít vào, thở ra và nghỉ, một cách nhẹ nhàng.
Cho người mới tập thở
Thở sâu và dài mà không gắng sức.
|
HƠI THỞ |
HÍT VÀO |
THỞ RA |
NGHỈ |
|
TT tư tưởng |
Đan điền |
Tản khí |
Đan điền |
|
Di động bụng |
Phình ra |
Thót vào |
Để im |
2. Thở Duyên Tức :
- chiêu số 4-1-5
- thở tự nhiên để tập trung tư tưởng cao độ
- luyện tinh, khí, thần
- luyện thần hườn hư
- trị huyết áp cao, giúp máu về não nhiều
|
HƠI THỞ |
HÍT VÀO |
THỞ RA |
NGHỈ |
|
TT Tư tưởng |
Đan điền: 4 số đếm |
Toả khí: toàn thân 1 số đếm |
Toả khí: toàn thân 5 số ñeám |
|
Di động bụng |
Xuống |
Lên |
Để im |
3. Thở tịnh tức :
- Tác dụng như duyên tức
|
HÔI THÔÛ |
HÍT VAØO |
THÔÛ RA |
NGHÆ |
|
Thöôïng thöøa |
Töï nhieân |
Phaûn xaï |
Töï nhieân |
|
Di ñoäng buïng |
Xuoáng |
Leân |
Ñeå im |
4. Thở Chỉ tức :
- Chiêu số : 5-5-5
- Vận khí tới 1 vùng, 1 huyệt và nén khí ở đó lúc ngưng thở
|
HƠI THỞ |
HÍT VAØO |
THÔÛ RA |
NGHÆ |
|
TT Tö töôûng |
Ñan ñieàn: 5 soá ñeám |
Vuøng ñònh : 5 soá ñeám |
Ñan ñieàn: 5 soá ñeám |
|
Di động bụng |
Phình ra |
Ñeå im |
Thoùt vaøo |
5. Thở luyện Tịnh :
- Chiêu số :5-20-10
- Hít vào từ 2 – 3 hơi
|
HƠI THỞ |
HÍT VAØO |
NGHÆ |
THÔÛ RA |
|
TT Tư tưởng |
Quan nguyeân :5 soá ñeám |
Quan nguyeân :20 soá |
Taûn khí :10 soá |
|
Di ñoäng buïng |
Phình ra |
Ñeå im |
Thoùt vaøo |
III. THỞ BỐN THÌ :
Chiêu thức : 5-20-10-10
Luyện Khí tập trung tại huyệt Khí Hải
Luyện Thần tập trung tư tưởng tại huyệt Bá hội.
Khi thuần thuộc thì không mượn thở nữa mà thở bằng Duyên tức hay Tịnh tức.
|
HƠI THỞ |
HÍT VAØO |
NGHÆ |
THÔÛ RA |
NGHÆ |
|
TT tư tưởng |
Khí haûi, Ñan ñieàn 5 soá |
Ñan ñieàn 20 soá ñeám |
Taûn khí toaøn thaân 10 soá |
Khí haûi 10 soá |
|
Di ñoäng buïng |
Phình ra |
Ñeå im |
Thoùt vaøo |
Ñeå im |

I. LỄ TRẤN THẦN TỊNH THẤT (TẠI TƯ GIA)
Sau thời cúng, người hành pháp, tay mặt cầm 9 cây nhang, trụ thần rồi đưa nhang ngay Thiên Nhãn, cầu nguyện Thầy Mẹ và tam vị Thiên Sứ hộ trì Tịnh Thất.
Đoạn xoay lưng nhìn chỗ bàn Hộ Pháp có chữ Khí (chữ hán) vẽ bùa Tam Thanh Diệu Quang (xem hình).
Từ trái xỗ qua phải tượng trưng Long Tu Phiến của Đức Cao Thượng Phẩm. Từ phải xổ qua trái tượng trưng Phất Chủ của Đức Thượng Sanh. Từ trên xổ xuống là cây Kim Tiên của Đức Hộ Pháp nhá điển khí xuống Nê Huờn Cung chạy qua Ấn đường mở Huệ Quang khiếu.
Kể tiếp khoanh ba vòng vô vi ngược chiều kim đồng hồ tượng trưng pháp DIỆU QUANG TAM THANH điển lực của trời đất và kết thúc bằng ba vòng nhỏ phía dưới tượng trưng cho Tinh, Khí, Thần.
II. LỄ TRUYỀN TÂM PHÁP CHO HÀNH GIẢ TU CHƠN
Sau thời cúng, các hành giả tái nhập đàn, quì cầu nguyện : “xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cho con vào hàng Tu chơn đạt thành chánh quả ”.
Vi hành pháp cũng cầu nguyện Các Đấng xong, xoay lưng đối diện với các hành giả.
Tay trái bắt ấn tý để ngay ngực. Tay phải bắt ẤN TÂM để trên đầu hành giả và thiện niệm.
Đoạn đeo biểu tượng THIÊN TƯỢNG QUẺ LY cho các hành giả, lạy tạ ơn. Bãi đàn.
THIÊN TƯỢNG QUẺ LY
I. MÔ TẢ :
Thiên tượng Quẻ Ly được Đức Hộ Pháp ban cho hành giả tu chơn.
Thiên tượng hình vuông, cạnh 12 ly, mỗi gạch quẻ 2 ly. Chính giữa có gắn hạt chai, bi biểu trưng cho đồng tử. (con ngươi).
Gạch 2 ly
Cạnh 12 ly
- Vật liệu : kim loại
- Khoen đeo ở trên chỉ vòng vô vi
- Dây đeo : 6 tấc bằng kim loại hay chỉ
II. Ý NGHĨA :
- Thiên Nhãn là Quẻ Ly
- Dây đeo 6 tấc ám chỉ lục tự Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Chỉ đeo 5 màu tượng trưng cho Ngũ hành gọi là dây Niệt do chữ Phạn Nirvana : Niệt va na tức Niết Bàn.

I.- Ý NGHĨA THIỀN PHỔ ĐỘ.
Từ thế kỷ XI, văn hoá Việt Nam vận động theo tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Tuy Nho giáo chủ đạo mà vẫn giao lưu với Lão giáo và Phật giáo. Tinh thần Tam giáo là sự giao hoà giữa xuất thế và nhập thế, dù xuất hay nhập vẫn với tinh thần vô tư, vô ngã, vượt trên dư luận thị phi, lướt trên những điều tầm thường của thế tục, tổng hợp lòng nhân đạo và tính nhân ái.
Trong truyền thống đó, đầu thế kỹ XX xuất hiện Đạo Cao Đài với chủ trương Tam giáo quy nguyên, suy tôn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Sư Phó Bạch Vân Động chuyển đạt tinh thần Tam giáo đồng nguyên vào Đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài phát sinh, phát triển trên đất nước Việt Nam nên ảnh hưởng sâu đậm tinh thần Tam giáo và truyền thống Thiền Việt nam. Tuy nhiên sự thừa kế có chọn lọc, có sáng tạo để trở thành bản sắc văn hoá Cao Đài.
Dòng Thiền Phổ Độ không mang rõ dấu ấn xuất thế hay nhập thế mà Phổ Độ. Các hàng giáo lãnh chứng ngộ hướng thượng không an nhàn nơi Cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà hướng hạ trở lại trần gian dìu dắt tín đồ đạt vị, cho trọn câu tận độ chúng sanh. Đức Quyền Giáo Tông an cư từ tháng 3 đến tháng 6-1932. Đức Phạm Hộ Pháp nhập Tịnh Thất từ 16-01 Tân Mão (1950) trong thời gian 3 tháng, rồi xuất tịnh giáo dân quy thiện. Mỗi tín đồ khi tịnh luyện đạt pháp cũng phải phổ độ ít nhất mười hai người theo Đạo.
II.- TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH DÒNG THIỀN PHỔ ĐỘ
Ngay năm đầu khai đạo, Đức Chí Tôn đã phán truyền:
Muốn trọn câu Phổ Độ phải làm thế nào? Phải bày bửu pháp ra, chớ không đặng dấu nữa. Đàn đêm 08-04-1962 (TNHT, quyển I, TN 1950, tr. 13)
Sau đó, Đức Chí Tôn lại dạy:
Con hiểu bổn nguyên Thánh chất của Thầy Tuỳ sức mỗi đứa lo lập (cho mình) một Tịnh Thất. (Đàn đêm 04-08-1926).
Vì đó, ngày 14-04-Đinh Hợi (1948), Đức Phạm Hộ Pháp ban hành Phương pháp trị tâm, vì Tâm là hình ảnh thiên lương và Tâm thức là biển đạo mênh mông khó đạt, khó trị. Năm đó, Khai Pháp Trần Duy Nghĩa vào nhà tịnh Trí Giác Cung (hiện còn thờ Ngài ở đây); năm 1950 Đức Hộ Pháp vào tịnh thất Trí Huệ Cung trong 3 tháng; năm 1952 Chí Thiện Võ Văn Đợi lập Vạn Pháp Cung, đạt thành chánh quả tại nơi đó.
Năm Kỷ Mùi (1979) giải thể hành chánh đạo về tu chơn tại gia, số hành giả tịnh luyện ngày càng đông, không kể xiết.
Tháng 4 Giáp Tý (1984) VĐ bịnh ngặt được đưa về Bệnh viện Nhiệt Đới thành phố. Một đêm, anh cảm thấy chơn thần rời khỏi thể xác lên Bồng Đảo (xin xem Đại Đạo Bí Sử, tr, 107) gặp Đức Thượng Sanh dạy: Đệ tử chưa tròn Thiên mạng, còn trọng trách ở trần gian. Hãy thực hiện lời đã hứa với Bần đạo viết về Công Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật; Ngôi thờ Đức Chí Tôn và Bát Quái Cao Đài. Nhờ huyền diệu thiêng liêng hỗ trợ, một bịnh coi như chết mà được sống lại. Vì vậy, anh nghỉ dạy, chấp bút viết sách và thiền định.
Vào tháng 3 năm quý Dậu, cây mít trước nhà anh ra trái giống như quả hồ lô của Đức Lý Ngưng Vương. Nhà thơ Thảo Anh cảm hứng vịnh thi, anh hoạ 4 câu cuối như vầy:
Sâm hoành Thiết Quả lưng bầu rượu
Đẩu chuyển Đồng Tân thổi sáo thơ.
Hương toả mít oằn lan khắp lối
Tưởng chừng hồn lẫn cõi Hư Vô.
(Trích lại trong ĐĐBS, tr, 110)
Trong năm 1992, anh cùng đồng đạo xây cất lại Thảo Xá Hiền Cung, nơi tịnh luyện của Đức Cao Thượng Phẩm lúc còn sinh tiền. Tại Thánh Thất Thị Xã, vào ngày 15 tháng 4 Quý Dậu , trong lễ Ngọ thời lúc Nhạc tấu quân thiên: Phật, Tiên, Thánh ngự đàn, anh thoáng thấy Đức Hộ Pháp nhá Kim Tiên Khai Huệ Quang Khiếu, mắt anh đổ hào quang hiện ba vòng Diệu Quang Tam Thanh. Văng vẳng nghe lời Sư Phụ dạy: Đó là lễ truyền Tự pháp, hãy để cho mọi người khám phá sự CHỨNG NGỘ của môn đệ, trước khi môn đệ cho họ biết.
Cả đàn cúng đều thấy anh quị xuống và lê bước đến bàn Vi Hộ Pháp cúi lạy tạ ơn. Đến ngày 15-5-Quí Dậu, Hiền Tài Ngô Văn Non gởi cho anh bức thơ có câu: Tiểu đệ rất tiếc không đáp ứng được Thánh ý của Trưởng Huynh (kêu tịnh luyện) nhằm nâng cao đàn em trên đường đạo đức (Xem ĐĐBS, tr, 111)
Được lịnh Đức Hộ Pháp dạy chú giải Tịnh Thất và Trường Dưỡng Tinh Khí Thần. (Vì anh được Truyền Tự Pháp tức nối pháp). Khi viết xong, anh đem đặt lên bàn thờ Đức Cao Thượng Phẩm xin duyệt y. Đúng đêm đó 13-6-Quí Dậu, Sinh viên kiến trúc tên Hưng ở cửa số 7, thấy huyền diệu hào quang hiện hướng Thảo Xá Hiền Cung. Sáng sớm, Hưng ra tận nơi, gặp thủ tự Nghĩa hỏi về hiện tượng lạ đó (xem ĐĐBS, tr, 111)
Tóm lại, anh đã được Đức Hộ Pháp Khai Huệ Quang Khiếu để chứng ngộ và truyền Tự Pháp. Chứng ngộ là điều thông thường của hành giả tịnh luyện, có thể đạt được trong sinh hoạt đạo sự hằng ngày, bất cứ ở nơi đâu, đạt Thiền là bỏ ngôi nhà giả tạo để vào ngôi nhà mới tức là vô minh đến giác ngộ.
Người xưa, quan niệm xuất gia hành đạo, tại gia luyện đạo như nhau. Dù là cư sĩ nhưng có hướng giải thoát thì như xuất gia: cư trần bất nhiễm trần. Áo mão sắc tướng là hư vọng nên chuyển vọng thành tâm tuệ bát nhã, vượt khỏi hư danh. Vì thế, Tự pháp VĐ hoà nhập đời mình vào trong cuộc sống đại thể, đi vào cuộc đời mà không bị lôi cuốn dập vùi, đem Đạo Tâm dung hợp mọi lẽ thị phi mà lòng vẫn an nhiên tự tại, để làm sáng Dòng Thiền Phổ Độ. Anh đã tiếp được hạt giống chánh pháp vớihoà quang đồng trần (khái niệm Lão giáo) quên mình phụng sự Đạo pháp mà không câu chấp hình thức áo mão hay cầu mong chức vụ. Anh phát lại ngọn gió lành, viết lại những thông linh lãnh hội, truyền đạt lại cho đồng đạo vầng sáng trác việt. Bởi lẽ, tinh học giáo pháp là con đường trở về Cõi Thiêng liêng Hằng Sống, bằng tự tâm, tự tánh của mình, chớ không phải chạy theo đuổi bắt những hình ảnh huyền ảo xa lạ.
Vào tuổi tri thiên mạng, Đức Hộ Pháp mới giao cho VĐ làm Tự pháp (nối pháp) với sự hộ trì của Tam Vị Thiên Sứ mà lâp thành Dòng Thiền Phổ Độ, cứu nhân độ thế đem hạnh phúc đến cho con người, vì
-Thiền là khoa học thực nghiệm về tâm linh.
-Thiền là thái độ sống giữa cộng đồng.
-Thiền là phương pháp tự tâm (theo ĐHP)
-Thiền là phép tu hành, một pháp môn giải thoát, tự giác giác tha.
-Thiền là sự thức tỉnh con người trước những ảo vọng trần thế.
-Thiền là sự trở về trạng thái nguyên sơ.
Thiền là vòng tròn vô tận, khó xác định được chu vi. Vì đó, có thể tìm thấy tâm điểm của vòng tròn Thiền bất cứ ở đâu. Thế nên, Trường Dưỡng Tinh Khí Thần là hợp lý, gồm 3 phần: lý thuyết, yếu chỉ và thực hành (dành riêng cho hành giả).
Biểu hiện tích cực về Thiền định, Tự pháp VĐ đã biên soạn hơn 37 quyển sách đạo, vừa làm sáng tỏ giáo lý Cao Đài, vừa rút ra những đặc điểm tịnh luyện. Vì đỉnh cao của Thơ là Đạo, nên anh đã in nhiều tập: Đạo Đức Văn Đàn, Thơ Vân Đằng, Mây Trắng Bay (2 tập), Thơ Thiền (2 tập), Trầm Hương.
Thơ Thiền của Tự pháp VĐ bay bổng cùng đất trời vàhoà cùng tâm hồn dân tộc phơi phới bay lên cao. Dù tả cảnh, tả tình, tả đạo sự cũng đượm màu sắc suy tưởng thiền.
Thơ TPVĐ không cố chấp lánh đời mà sống hoà mình vào cõi người, vui buồn tự nhiên cùng thế thái nhân tình. Thơ TPVĐ là trí tuệ của anh và tâm hồn anh khao khát cống hiến cho đời, cho đạo.
Thơ TPVĐ không nặng hình thức mà chỉ ra hình ảnh tu chứng, bản thể thường trụ của vùng sâu thẳm tâm linh. Mây trắng bay (2 tập), dòng sông vẫn chảy, ứng xử tuỳ duyên tự nhiên với cõi lòng nhất tâm bất loạn, chỉ cần một tai sáng phóng thẳng vào tâm là minh tâm kiến tánh, giác ngộ chớp nhoáng (Sát na).
Thơ TPVĐ là chiếc cầu nối giữa con người và thiên nhiên, nối tâm hồn con người với cỏ cây hoa lá. Bằng tiếng nói của hoa cỏ, thơ TPVĐ giúp con người yêu thiên nhiên, yêu đời hơn, gắn bó với cuộc sống hơn. Tuy là nhà khoa bảng, thơ TPVĐ giản dị, dễ hiểu và gần gũi với đại chúng, nhưng bên trong chứa đựng biết bao điều kỳ diệu của Thiền.
Thật là tấm gương soi cho các hành giả, trong những đêm dài thời cuộc mà anh được huyền khải vẽ nên con đường về nẻo chánh cho dòng Thiền Phổ Độ là một điều cố gắng phi thường
BĐ LẠC QUỲNH

