Unicode Fonts
|
Mục Lục Tiểu Dẫn
Bản Nguyên và Quyền Năng của Phật Mẫu
Sự Tương Quan giữa Chí Tôn & Phật Mẫu
Tình thương của Chí-Tôn và Phật-Mẫu đối với chúng-sanh
Kết Luận
|

Loài người đã nhận biết Phật-Mẫu rất sớm, nhờ các vị Tiên-nương giáng trần chỉ-giáo, mà các dân-tộc nhất là phương Đông thờ phượng NGƯỜI từ lâu đời, ngày nay chúng ta còn thấy lưu lại hình-tượng đồng cốt, có đề-cập đến Phật-Mẫu dưới danh hiệu Bà Chúa Tiên, Thánh-Mẫu hay là Mẫu.
Phật-Mẫu được nhân-loại tôn thờ dưới nhiều danh xưng khác nhau : Tây phương gọi là Đức Mẹ, Đông-phương gọi là Cửu-Thiên Huyền-Nữ, Thái-Dương Thần-Nữ, Tiên-Thiên Thánh-Mẫu, Lão-giáo gọi là Lão Mẫu, Aán-độ giáo xưng tụng NGƯỜI là Devi Bhagava, Thông-Thiên-học gọi là Đức Mẹ Thế-Gian. Việt-Nam gọi là Bà Chúa Tiên hay là Mẫu, Mẹ-Sanh... đa số nữ phái Việt-Nam đã tín-ngưỡng Phật-Mẫu từ lâu đời, hiện nay ở Cố-đô Huế có hội Tiên-Thiên Thánh-Mẫu, thờ-phụng NGƯỜI tại Điện Hòn-chén, hằng năm có tổ-chức lễ hội rất là linh-đình trọng thể.
Trong Đạo Cao-Đài có đền thờ Phật-Mẫu, tại Thánh-địa Tây-Ninh hằng năm có lễ hội lớn vào ngày rằm tháng tám. Ở mỗi địa-phương có Điện thờ Phật-Mẫu bên cạnh Thánh-thất hương khói sáng chiều. Như vậy tuỳ theo tín-ngưỡng mỗi nơi mà có sự thờ phụng, chiêm-bái khác nhau.
Sau đây chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về bổn-nguyên, quyền-năng và công-đức của Phật-Mẫu đối với chúng-sanh.

Buổi ban sơ khai Đạo Cao-Đài, Phật-Mẫu và Cửu vị Tiên-nương (nay là Cửu vị nữ Phật), đã dùng thi văn qua cơ-bút để dìu-dắt các Vị tiền-bối, nhờ đó mà các Ngài hiểu lẽ huyền-vi, nhận lãnh sứ-mạng truyền-giáo sáng-lập ra Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ còn gọi là Cao-Đài giáo hiện nay.
Còn nói về Phật-Mẫu, Đức Hộ-Pháp đã cho biết quyền-năng của NGƯỜI như sau :
" Cả cơ-quan tạo đoan hữu tướng thảy đều do Phật-Mẫu tạo thành. Khi ta đến cõi Trần mang mảnh hình hài, cái chơn-linh khi đến, khi về cũng do tay Phật-Mẫu sản-xuất, Phật-Mẫu là mẹ linh-hồn, nếu chúng ta biết ơn nặng ấy, thì càng cảm mến cái công-đức hoá-dục sản-xuất của Ngài vô cùng.
" Bây giờ nói về tại sao có Phật-Mẫu :
... Đức Chí-Tôn là nguồn cội cả bí pháp... trong bí pháp buổi ban sơ phân tách ra âm dương, phần âm là Phật-Mẫu sản-xuất cả cơ hữu vi của vũ-trụ. Bởi thế quyền-năng của Phật-Mẫu là mẹ khí-thể của ta. (Thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-ân-từ ngày mồng một tháng 02 Đinh-Hợi/1947).
Theo Thánh giáo Đức Chí-tôn nói rằng :
Trong kinh Xưng-tụng Công-đức Phật-Mẫu nói rằng :
Thánh giáo của Phật- mẫâu cũng dạy rằng:
Theo các trích dẫn trên đây thì Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu có từ trong Hư Vô Chi Khí, Đức Chí-Tôn lại giao cho Phật-Mẫu quyền cai-quản khí Hư-Vô, tức hai Ngài là Đấng Tự-hửu và hằng hửu, có trước Trời Đất. Khi Khí Nguơn Linh của Chí-Tôn hoà-hợp Nguơn Aâm của Phật-Mẫu, mới có ngôi Thái-Cực, là cơ hửu hình. Khi Đức Chí-Tôn phân Thái-cực thành ra Lưỡng nghi (Aâm Dương), lúc có Aâm dương rồi tức là đã có Trời Đất, khi đó Đức Chí-Tôn mới phân tánh giáng sanh ra vạn vật, tức là Chí-tôn tạo-hoá phần linh-hồn là phần vô-vi, đồng thời Phật-Mẫu cũng kiến-tạo phần khí-chất hình-hài là phần hữu hình. Như vậy Phật-Mẫu cũng từ Hư-vô chi khí mà ra, Ngài cũng là Đấng tự-hữu và hằng-hữu,
Đức Hộ-Pháp đã nói về sự tương-quan giữa Chí-Tôn và Phật-Mẫu cùng vũ-trụ van-linh như sau :
Đức Hộ Pháp còn cho biết thêm rằng:
Nói về Ââm quang thì Bát-nương Diêu-Trì-cung giáng cơ giải thích như sau :
Theo giải-thích trên đây thì khi còn hỗn-độn sơ-khai chưa phân ra Trời Đất, nhưng trong đó đã sẵn có phần âm rồi, phần âm này chứa các yếu-tố phôi-thai của vạn-vật. Tỷ như một nụ hoa non trong đó đã sẵn có nhị đực, nhưng cũng có cả phần nhị cái, là nơi chứa chất-liệu để kết thành quả hạt sau này, đến khi hoa nở phân ra nhị đực và nhị cái riêng biệt là lúc âm dương đã phân chia, sau đó qua hiện-tượng thụ phấn kết-hợp giữa nhị đực và nhị cái, là lúc âm dương giao phối mà kết thành quả hạt. Cũng như khi Thái-cực đã phân ra âm dương, dương động thì khuếch tán, âm tịnh thì ngưng kết, tức là khí kết thành chất, rồi qua hiện-tượng âm dương tác-động mà khí chất kết tụ thành ra các tinh-cầu, khi ánh dương-quang rọi vào thì các tinh-cầu là nơi sinh ra vạn-vật.
Đó là quyền-năng của Phật-Mẫu theo Cao-Đài giáo. Còn các tôn-giáo đã nói về Phật-Mẫu như sau :
Theo Thông Thiên học dã nói về Đức Mẹ Thế-gian như sau:
Theo Thiên-Chúa Giáo tôn-vinh Ngài là Đức Mẹ hằng cứu giúp, là Nữ-vương Hoà-Bình.
Tóm tại bổn-nguyên và quyền-năng của Phật-Mẫu theo Đức Hộ-Pháp dẫn giải như sau :
" Thời kỳ này NGƯỜI đã xuất nguyên-linh đến dạy dỗ chúng ta...
" Khi mở Đạo Cao-đài Chí-Tôn định cho Phật-Mẫu đến giáo đạo cho chúng ta, bảo-trọng nuôi-nấng dạy-dỗ chúng ta thì không ơn-đức nào bằng, vì không ai biết thương con, muốn con nên người, bảo trọng binh-vực con hơn mẹ... (Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-ân từ ngày 15 tháng 8 Đinh Hợi).
Như vậy quyền-năng của Phật-Mẫu rất bao la, trí phàm không thể hiểu nổi, bổn-nguyên của Ngài lại quá ư linh-diệu, ngôn-ngữ hữu hạn của thế-gian không có thể nào giải rõ. Nên trong sưu-tập này chỉ có thể nêu trong muôn một những quyền-năng quá ư kỳ-diệu của Ngài mà thôi, nhưng chỉ có một điều quả-quyết rằng chúng ta đang có một Bà Mẹ Thiêng-Liêng quyền lực vô-song, chứa-chan niềm từ-bi bác-ái luôn ban ân-sủng cho mọi người, chúng ta chỉ cần một tín-ngưỡng mạnh-mẽ, một thân tâm thanh-tịnh trong-sáng thì sẽ đón nhận được ân-huệ và lắng nghe được huyền-âm vi-diệu của NGƯỜI hướng-dẫn dìu-dắt chúng ta trong mọi sinh-hoạt hàng ngày.

Ta có thể dùng thí-dụ sau đây để cụ-thể hóa quyền-năng của Chí-Tôn và Phật-Mẫu cho dễ hiểu : Tỷ như một thân cây có nhựa sống lưu-hành, trong nhựa sống của nó đã có sẵn hai phần âm dương, tức là có cả giống đực và giống cái, khi nhựa sống đó vận-chuyển sinh ra một nụ hoa non mới tượng; xem như là bầu Thái-cực, trong nụ hoa đó có cả nhị đực và nhị cái còn lẫn lộn ở trong, tức là đã có hàm lưỡng tính âm dương, khi hoa nở thì nhị đực và nhị cái lộ riêng biệt là lúc âm dương đã phân chia, sau đó qua hiện tượng thụ phấn, kết hợp giữa nhị đực và nhị cái, là lúc âm dương giao phối mà kết thành quả hạt. Cũng như khi khối Nguơn-linh của Chí-Tôn và Nguơn-âm của Phật-mẫu kết-hợp mới sinh ra Thái-cực là cơ hữu hình của Chí Tôn phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi là hai yếu-tố âm dương được tách rời, đây là quyền-năng của Chí-tôn, rồi nhị đực và nhị cái thụ phấn mà kết-quả, đó là lúc âm dương tác-động mà sanh-hoá nên thể chất hữu-hình, đây là quyền năng của Phật-Mẫu.
Theo phương pháp suy-luận Đức Hộ-pháp đã dạy :
" Ta lấy lớn suy nhỏ, lấy nhỏ so lớn..." (Trích LTĐ của ĐHP/QI/132 : 31)
Do đó ban đầu tuy thấy một mà trong đó có hai, nếu độc dương thì bất sanh, cô âm thì bất trưởng. Nên Đức Hộ-pháp đã nói :
Trong cửa đạo Cao Đài, Đức Hộ-Pháp đã thuyết-giảng về sự tương-quan giữa Chí-tôn và Phật-Mẫu như sau :
Đề cập đến sự tương quan giữa Chí-tôn và Phật-Mẫu cùng vũ trụ và vạn-hữu, Đức Hộ-pháp đã thuyết giảng như sau :
"Cả quyền-năng của ông cha chúng ta đào tạo thế nào ngày nay, quyền-năng của Chí-tôn cũng đào tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền năng vô tận của Phật-Mẫu dùng đặng đào tạo càn- khôn thế-giới, chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.
Chí-Tôn là Phật, Phật-Mẫu là Pháp, Càn-khôn là Tăng, mặt địa-cầu nầy, đến ba nghìn thế giới cũng là Tăng. (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh đên 01 tháng chạp năm Đinh Hợi/1947).
Để hiểu rõ về quyền-năng Phật-Mẫu, Đức Hộ-Pháp giải thêm rằng :
Như vậy là Đức Chí-Tôn ban cho chúng ta điểm linh-quang là phần tinh-thần, còn Phật-Mẫu ban cho chúng ta phần khí-chất là phần sinh-lực. Cũng do yếu nhiệm đó mà Đạo Cao-đài thờ Đức Chí-Tôn bằng Thiên-nhãn mà không thờ hình tượng, còn thờ Phật-Mẫu thì thờ bằng hình tượng, về đẳng-cấp triều-nghi của nhân-loại thì trước Chí-Tôn có phẩm-trật, sắc-phục khác nhau, còn trước Phật-Mẫu thì con người không phân biệt đẳng-cấp, sắc phục như nhau, vì ở đây không còn phân-biệt thượng hạ mà chỉ còn cốt nhục tương thân, đồng sanh đồng tử mà thôi. Điều này Đức Hộ-Pháp đã nói rằng :
Đức Hộ-Pháp còn dẫn-giải thêm nguyên-nhân đó như sau :

"... Ôâi ! Thầy sanh các con thì phải yêu trọng các con chằng cùng, mà Thầy cho các con đến thế giới nầy với một thánh thể thiêng-liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con lại không chịu, nghe điều cám dỗ, mê luyến hồng trần, ăn cho phải đoạ, dâm cho phải bị đày, nên chịu nạn áo cơm dục quyền cầu lợi. (TNHT/Q2/ trang 63).
Vì thương yêu chúng sanh nên Đức Chí-Tôn luôn lo lắng để làm thế nào cho chúng ta được chung hưởng phước lành :
Do bởi lòng thương yêu chúng sanh nên Đức Chí-Tôn đã nhiều phen cho các vì Giáo-chủ giáng trần lập Đạo dạy người bỏ dữ về lành để được hưởng phước-đức, nhưng nhiều mối Đạo lâu ngày càng biến chất, sai lạc chân truyền, nên ngày nay chính Đức Chí-Tôn đến thế-gian bằng huyền-diệu thiêng-liêng dùng cơ bút lập nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có nghĩa là cứu rỗi lần thứ ba để quy tụ đám con cái lầm lạc trở về với Ngài.
" Thầy nhứt-định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao chánh-giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi bồng-đảo" (TNHT/Q1/ trang 18).
Với tình thương bao la, từ một Đấng chúa-tể càn-khôn thế-giới, Chí-Tôn đã hạ mình để làm một vị Thầy của nhơn-loại, với lời lẽ hiền-hoà khuyên dạy chúng ta như một người Cha nhân-từ đối với con cái. Ngài coi tất cả nhân-loại là con chung, không phân-biệt người hiền kẻ dữ, đều ra tay cứu độ. Đối với kẻ căn-cơ tiến-hoá cao thì thành Tiên tác Phật thoát đoạ luân-hồi, còn những người có chút thánh-đức thì được an-nhàn tránh khỏi quả báo đọa đày, Đức Chí-Tôn đã cho biết điều này như sau :
Ngay cả đối với kẻ vô lương-tâm Đức Chí-Tôn cũng ra tay tế-độ sẵn-sàng chờ họ ăn-năn hối cải :
Tình thương của Đức Chí-Tôn với nhân loại như vậy, nhưng con người vì mê-luyến hồng-trần đeo đuổi theo vật-chất lợi-danh trở nên xa lạ với Ngài, nên Đức Chí-Tôn đã buồn rầu than thở :
Bởi thương yêu chúng sanh, Đức Chí-Tôn đã hết lời khuyên-nhủ nhưng loài người vẫn mãi mê trong vòng trần-tục, khiến Đức Chí-Tôn rất đau lòng, nhưng vì luật Thiên-điều Ngài vẫn để cho con người tự quyết-định số-phận của mình, đây là một tình thương yêu công-bình, không thể coi kẻ có tội là vô tội được, nên con người làm lành thì gặp phước-đức, làm ác thì bị quả báo đọa-đày. Đức Chí-Tôn Phật-Mẫu dù có thương yêu bao nhiêu cũng không thể qua luật Thiên-điều được, nên Thánh ngôn có câu :
Theo thánh-ý của Đức Chí-Tôn là muốn cho tất cả nhơn-loại được siêu thoát. Điều này Đức Hộ-Pháp đã dẫn giải rằng :
Còn tình thương của Phật-Mẫu đối với chúng ta y như một bà mẹ hiền-từ, luôn luôn khắc-khoải lo lắng vì con :
Thánh-giáo Phật-Mẫu cũng đã dạy rằng:
Vì thương con cái bị mê luyến hồng-trần, mến mùi chung-đỉnh mà quên ngôi xưa vị cũ của mình, nên chính Phật-Mẫu đã lãnh lịnh Chí-Tôn khai sáng Tam-Kỳ Phổ-Độ, để diệt tà-pháp của thế-gian tạo cho nhân-loại một cảnh đại-đồng, an-lạc :
Dù cho chúng sanh mê-lầm để cho tà mị dẫn đường, nhưng Phật-Mẫu vẫn luôn đặt kỳ-vọng vào con cái của Ngài, nên quyết đem chúng ta trở lại con đường hằng sống :
Sau đây chúng ta đọc thêm câu chuyện của một nhà làm khoa-học, Bác-sĩ Bandyo là cựu Giám-đốc bệnh-viện Calcutta, một giáo-sư đại-học nổi tiếng về khoa giải-phẩu đã được đề-nghị trao giải-thưởng NOBEL về y-học, đã tường-thuật về việc ông chứng-kiến trường-hợp Đức Mẹ Thế-Gian thị hiện cứu-giúp một em bé là bệnh-nhân của ông ta như sau :
Tôi cầu xin với tất cả thành-kính xin Đức Mẹ cứu chữa cho bệnh nhân. Tôi phát nguyện trọn đời tôn-vinh hoạt-động của Đức Mẹ và theo Ngài vĩnh-viễn... Cô bé được chữa lành. Ngày hôm sau cả bệnh-viện xôn-xao cho rằng tôi đã chữa lành cho cô bé... Trường y-khoa yêu-cầu tôi công-bố phương-pháp chữa trị và đòi đặt tên tôi vào căn-bệnh đó. Họ tin rằng với phát-minh này chắc-chắn giải Nobel sẽ về tay tôi... Dĩ-nhiên tôi không thể trả lời, và dù có nói cũng không ai tin. Hội đồng y-khoa cực-kỳ giận dữ cho rằng tôi giấu nghề... Tôi trả lời rằng chính Đức Mẹ hiện ra chữa cho bệnh nhân. Tất cả đều cho rằng tôi điên. Sau cùng giải Nobel năm đó được trao tặng cho một bác-sĩ quốc-gia khác. Hội đồng Y-khoa Aán-độ vô-cùng tức giận đòi trục-xuất tôi, báo-chí xúm vào chỉ-trích tôi là "Thầy phù thuỷ"...
Lúc đó tôi hiểu thế nào là vô thường. Tôi không biết phải làm gì hơn là cầu- nguyện Đức Mẹ giúp cho tôi đủ can-đảm chịu đựng sự bất hạnh này...
Trong thời-gian khủng-hoảng, tôi tin rằng sự-kiện này ắt phải có lý-do, nên hết lòng cầu-nguyện, câu trả lời đã đến với tôi qua một linh ảnh : trong một tiền kiếp xa-xuôi tôi là một y-sĩ rất có tài, nhưng tôi đã phủ-nhận các quyền-năng huyền-bí, và chê-bai những kẻ có đức tin hay cầu-nguyện Đức Mẹ. Đó là hậu-quả tôi gánh chịu ngày hôm nay.
Kể từ hôm nhìn thấy Đức Mẹ, một sư thay đổi lớn đã diễn ra trong tâm-hồn tôi. Từ nhỏ tôi không hề biết tôn-giáo, tôi hấp thu một nền giáo-dục Tây phương, nên tin tưởng tuyệt-đối ở khoa-học. Sự chứng kiến phép lạ, thay đổi tất cả, như người mù bỗng sáng mắt, tâm hồn tôi hoàn-toàn khác trước, tôi thanh thản vô-cùng, và đủ sức chịu đựng sự chế diễu của mọi người. Tôi dành trọn thì giờ để cầu-nguyện là phát-nguyện đời đời kiếp kiếp theo chân Đức Mẹ, cứu giúp tất-cả chúng-sanh. Một hôm trong lúc cầu nguyện Ngài bỗng hiện ra mỉm cười và từ đó tôi thấy mình ngụp lặn trong một thế-giới mới lạ. Tôi ý-thức được các điều mà từ trước không bao giờ nghĩ đến, tôi chứng-kiến rõ ràng các cõi giới khác, cũng như sự hoạt-động tiến-hoá không ngừng của muôn loài. Nói một cách giản-dị hơn, khả năng thần-nhãn của tôi bổng khai mở. Từ đó tôi quan-sát, học hỏi các cõi giới của Thiên-thần...
Có lẽ các bạn không tin-tưởng lắm, điều này không quan-trọng. Tin hay không là quyền của bạn, tôi chỉ muốn chia sẻ với các bạn kinh-nghiệm tâm-linh này thôi...
Tôi phát-nguyện dành trọn đời để thực hiện thiên-ý, đó là lý-do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng ở đô-thị để đến đây... Thì giờ còn lại tôi phục vụ Đức Mẹ qua các công việc Ngài giao-phó. Các bạn thân mến, trọn đời tôi chưa lúc nào sống thật trọn vẹn như bây giờ. (Theo Hành-trình về phương Đông Nguyên-tác của Spalding - bản dịch của Nguyên-Phong).
Theo tác-giả thì sau biến-cố này Bác sĩ Bandyo từ chức lui về ở ẩn tại một làng nhỏ gần Rishikesh (Aán Độ) để săn-sóc sức-khoẻ cho dân chúng tại đây.
Trong Đạo-sử của các Tôn-giáo, cũng như sự truyền-tụng ngoài dân- gian trên khắp thế-giới về hình-ảnh NGƯỜI ĐÀN BÀ hiện-thân của một BÀ MẸ nhân-từ sẵn sàng đến cứu giúp những tai ương hoạn hoạ là có thật, nhưng được kể lại từ một huyền-thoại không phải là ít. Trong lịch-sử của Giáo-hội Thiên-Chúa cho biết Đức Mẹ đã hiện xuống ở Fatima (Bồ-đào-nha).Tại Việt-nam Đức Mẹ đã hiện xuống hai lần: một lần tại Trà-kiệu khi triều-đình Nhà Nguyễn ngăn cấm Đạo Thiên-Chúa, các con chiên ngoan đạo bị bách-hại, Giáo-khu Trà-kiệu bị phong toả,Đức Mẹ đã hiện xuống để cứu giúp. Một lần khác tại La-vang dân-chúng tại đây bị chết vì nạn dịch-tể, Đức Mẹ đã hiện xuống chỉ cây lá địa-phương cho dân-chúng chửa bệnh. Ngày nay hằêng năm tại hai nơi này, đến ngày Đức Mẹ hiệân xuống, Giáo-hội tổ-chức lễ hội Kỷ-niệm rất trọng thể, có đông-đảo giáo-dân khắp cả nước về tham-dự.
Trong Đạo-sử Cao-đài có ghi rằng : Phật-Mẫu và Cửu-vị Tiên-nương đã giáng-linh hội-yến với các bậc tiền-bối khi mới khai Đạo gọi là Hội yến Diêu-Trì-cung, điển lễ này hiện nay vẫn còn đang truyền tụng và hàng năm vào đêm rằm Trung thu tháng tám tại Đền-thờ Phật-Mẫu ở Thánh-địa Tây Ninh lễ kỷ-niệm đêm Hội yến này được tổ chức rất là trọng-thể.
Trong một lần khác ở Kim-biên Tông-đạo Cao-miên-quốc (Nay là Cam-pu-chia) tại Báo-ân-đường Bát-nương Diêu-trì cung giáng cơ cho bổn kinh Đức Diêu Trì Kim-Mẫu do Đức Hộ-Pháp Phò-loan nơi Đại-điện, thì tứ phía Báo-Ân-đường đều có hào-quang giáng-hạ,ï có nhiều người chứng kiến, kể cả người không giữ Đạo (Theo thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp trên Cửu-Long-Đài hồi 4 giờ chiều ngày rằm tháng 8 Đinh Hợi).
Các sự-kiện nêu trên không những chứng tỏ Phật-Mẫu luôn luôn tiếp cận với chúng ta mà còn ngự-trị ngay trong tâm-khảm của mỗi người, nên bất kỳ lúc nào ở đâu, chúng ta cầu xin đều có linh ứng.
Còn một điều trong chúng ta ít có người nghĩ đến là hằng ngày chúng ta đã sống bằng khí sanh-quang của Phật-Mẫu mà chúng ta không hề hay biết. Trong Phật-Mẫu chơn-kinh có câu :
Đức Hộ-Pháp giải nghĩa câu này rằng :
Loại khí Sanh-quang này, Đức Chí-tôn gọi là Khí-phách tiếp-dưỡng, hay Huyền-vi vật-thực, còn đối với các tôn-giáo thì tuỳ theo tín-ngưỡng và quan-niệm về nó mà có tên gọi khác nhau, Yoga gọi là Prâna, Phật gọi là Diệu-hữu, Tiên-giáo gọi là Nguyên-khí, Nho-giáo gọi là Hạo-nhiên-khí, Khoa-học gọi là Năng-lượng, loại khí này không chỉ hoà tan trong không-khí như đường tan trong nước, mà còn hiện hữu khắp mọi nơi kể cả những chỗ không khí không thể len lõi đến được, nó hiện-diện trong vật-chất, cây cỏ, đồ ăn, thức uống, trong cơ-thể sinh-vật kể cả trong ánh sáng mặt trời. Nó hiện-diện trong không-khí không phải là Oxy hay Ni-tơ cũng chẳng phải là vi-ta-min, là nhiệt, hay là tia cực tím, cũng chẳng phải là một thành phần hoá-học nào đó trong khí quyển, có thể gọi Khí Sanh-quang là một nguồn sống trong vũ-trụ, cũng có thể gọi là sinh-lực, nhưng nó không phải là lực điện-từ, cũng chẳng phải là lực hấp dẫn hay điện năng, mà các hiện-tượng ấy là biểu-hiện của một nguồn sống đang phổ cập mọi nơi, khắp vũ-trụ nơi nào có sự sống là nơi đó có Sanh-quang-khí, và biểu hiện ra bằng sinh-lực.
Nên trong 12 bài luyện tập thân thể do Đức Hộ-Pháp chỉ giáo, phần luyện thở có nêu câu Thánh giáo của Đức Lý Giáo-tông :
Bởi vì trong khí thanh-không có hoà tan Sinh-quang-khí nên có thể nuôi sống được con người. Nên trong các tôn-giáo thường dạy phương-pháp luyện thở là dạy cách hấp-thu tối đa lượng khí này để được sống lâu ít tật-bệnh. Thậm chí có nhiều môn phái còn luyện những phương-pháp hít thở đặc-biệt để tiêu-trừ tật-bệnh, phục-hồi sức khoẻ đã suy-khuyết. Trong Đạo-sử Cao-Đài-Giáo, Đức Chí-Tôn có truyển cho môn-đồ phương-pháp tuyệt-thực (nhịn ăn), chỉ hít thở để tiếp thu huyền-vi vật-thực còn gọi là khí-phách tiếp-dưỡng (sanh quang khí) trong không-khí để chữa bệnh. Nhiềâu vị chân tu đắc-đạo đã tịch cốc thời-gian dài, chỉ hít thở để tiếp thu huyền-vi vật-thực mà cơ thể không suy khuyết chút nào (Theo Đạo-sử của Bà Nữ Đầu Sư Hương-Hiếu sưu tập).
Căn cứ theo những sự-kiện nêu trên cho chúng ta thấy rằng trong từng giây, từng phút, từng hơi thở của sự sống, chúng ta đều được ân-huệ của Phật-Mẫu ban cho, nói một cách khác là chúng ta luôn luôn nằm trong sự nuôi-dưỡng đùm-bọc của NGƯỜI như thể là một hài-nhi, không thể nào rời được vú Mẹ, cho nên Thánh-giáo của Phật-Mẫu có câu :
Như vậy ân-đức của Phật-Mẫu thật là vô-lượng vô-biên mà rất ít người trong chúng ta hay biết đến.

Vì thương yêu, Phật-Mẫu đã tạo dựng nên loài người và đã cưu-mang trong vô-số kiếp. Phật-Mẫu đã thị hiện xuống nhiều nơi trên thế gian để cứu vớt an-ủi nhân-loại cả cộng-đồng hay từng cá nhân, Ngài không từ bỏ một ai, nhất là con cái bị ức-hiếp, khốn khổ của Ngài, nên bổn phận của chúng ta là lo tu-hành, lập công bồi đức, để được trở về bên Ngài, nếu chưa về được thì cũng có được một kiếp tái sanh cao-trọng hơn.
Tóm lại tất cả chúng sanh, nhất là con người, đều là con cái yêu-quý của Đức Chí-Tôn và Phật-mẫu, nói một cách khác chúng ta đều có cùng chung một Cha Mẹ Thiêng-liêng. Chí-Tôn và Phật-Mẫu không thuộc bất-cứ một giòng-giống nào hay một tôn-giáo nào. Các Đấâng đều thị-hiện như nhau trong tất-cả con người, từ hạng thượng-lưu trí-thức cho đến kẻ khốân-khổ bần-cùng. Tuỳ theo phong-hoá mỗi địa-phương và sự hiểu biết của con người qua mỗi thời-kỳ, mà họ đã tôn-vinh các Ngài bằng nhiều danh xưng mỹ-miều hay mộc-mạc khác nhau , các Ngài cũng đều chấp nhận và ban ơn. Cũng như sự thờ-phụng các Ngài từ những đền-điện cao-sang của các Tôn-giáo, có kiến-trúc nguy-nga, cho đến những thảo-xá giản-đơn của những người tu-chơn ẩn-dật nơi sằng-dã, các nơi nầy cốt để cho con người tụ-họp nhau chiêm-bái, mục-đích để biểu-lộ lòng tôn-kính, hiếu-hạnh và ước mong giao-cảm được với các Ngài. Nhưng Ngôi Đền thực sự lại ở ngay trong Tâm Con Người, chúng ta phải quay vào trong ngôi Đền thực-sự đó để tôn-thờ, mới mong giao-cảm và gặp-gở được Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
Những người sơ-cơ mới bước chân vào sự tín-ngưỡng, thường tôn-thờ Chí-Tôn và Phật-Mẫu nơi các đền-đài tôn-giáo, với các lễ-nghi của nó, nhưng khi đức-tin họ già-dặn và đã trở nên minh-triết thật-sự, thì họ lại tôn-thờ Chí-Tôn và Phật-Mẫu bằêng ngôi đền-thờ chính trong tâm-linh của mình, và họ cố-gắng làm cho Ngôi-Đền Thân-Thể nầy càng ngày càng đẹp-đẻ hơn, bằng những tư-tưởng trong-sạch và đời sống thanh-cao, bởi vì những đền-đài do bàn tay con người xây-dựng dù có nguy-nga trang-lệ bao nhiêu, cũng không thể thay-thế được Ngôi Đền thực-sự là thân-thể và tâm-linh con người do chính Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu tạo-lập được. Điều nầy Đức Chí-Tôn đã xác nhận rằng:
Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu thương-yêu tất cả con cái của NGƯỜI một cách bình-đẳng, các Ngài chảêng cần quan-tâm đến họ tôn-thờ bằng cách này hay cách khác, bằng các nghi-lễ phức-tạp hay giản-đơn, nhưng các Ngài chỉ quan-tâm đến tấm lòng thành-tín và hiếu-kỉnh của họ mà thôi, vì Chí-Tôn đã cho biết điều này như sau:
Tánh-đức nầy là tấm lòng thành-tín và hiếu-kỉnh của con người phải có, để vào được cửa cung Bạch-Ngọc.
Cũng tương-tự như vậy, không có kinh-sách nào hơn kinh-sách nào, bởi vì tất-cả đều có mục-đích đưa con người đến với Chí-Tôn và Phật-Mẫu và để hướng-dẫn họ biết thương-yêu và tôn-kính các Ngài, nhưng thật ra không có ngôn-ngữ nào có thể diễn-tả được các Ngài, cũng không có sách vở nào có thể chứa đựng trọn vẹn được Chí-Tôn và Phật-Mẫu, vì đây là một Đấng mà chữ-nghĩa và ngôn-ngữ hửu-hạn của thế-gian không thể nào mô-tả trọn vẹn được. Nên đối với Kinh-điển Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:
Như vậy Đức Chí-Tôn cũng xác nhận rằng chỉ có tấm lòng thành-kính và một đức tin vững chắc thì mới đạc đến phẩm-vị của mình và hội-nhập với các Ngài, hơn là lặn-lội kiếm quanh kiếm quất trong rừng kinh-điển.
Đức Hộ-Pháp cũng đã khuyên chúng ta rằng :
Đức Ngài cũng cụ-thể hoá lòng hiếu-hạnh yêu ái đó bằng lời khuyên :
Như vậy sự yêu-ái, hiếu-hạnh và tín-ngưỡng mạnh mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu sẽ giúp chúng ta có được sự tương-giao hai chiều, thiết-lập được nhịp cầu "cảm-ứng" giữa Trời và Người, chúng ta sẽ được bảo-bọc bởi hào-quang của Chí-Tôn và Phật-Mẫu, vô-hình-trung chúng ta sẽ được nằm trọn vẹn trong quỷ-đạo của thiên-cơ, khiến cho mọi sinh-hoạt của chúng ta trong trường đời được kịp thì trúng tiết, tránh được sự hoạn-hoạ tai-ương, và trên đường Đạo sẽ đưa chúng ta hội-nhập với các Ngài nơi Vương-quốc Huyền-Linh.
TƯ-LIỆU THAM-KHẢO- Thánh-ngôn Hiệp tuyển các Quyển 1 và 2.
- Kinh Thiên-Đạo và Thế-Đạo.
- Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp các quyển 1,2,3,4,5,6.
- Con Đường Thiêng-Liêng Hằng Sống.
- Bí-Pháp.
- Đạo-sử 1 và 2 của Bà Nữ Đầu-sư Hương-Hiếu sưu-tập.
- Hành-trình về Phương Đông / Nguyên-tác SPALDING / Bản dịch Nguyên-Phong.
