CHÚ GIẢI KINH CÚNG TỨ THỜI
THIÊN VÂN - Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA
THIÊN THỨ SÁU
NHO GIÁOI/ KINH VĂN
II/ VIẾT RA HÁN TỰ
III/ CHÚ THÍCH
IV/ GIẢI NGHĨA
I/ KINH VĂN:
NHO GIÁO
Khổng Thánh chí tâm qui mạng lễ
Quế Hương nội điện,
Văn Thỉ thượng cung.
Cửu thập ngũ hồi
Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố,
Bá thiên vạn hóa
Bồi quế thọ, ư âm chất chi điền.
Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh.
Chí như ý từ, tường ư ngao trụ.
Khai nhơn tâm tất bổn, ư đốc thân chi hiếu.
Thọ quốc mạch tất tiên, ư trí chúa chi trung.
Ứng mộng bảo sanh, thùy từ mẫn khổ,
Đại Nhơn, Đại Hiếu, Đại Thánh, Đại Từ
Thần văn, Thánh võ, Hiếu Đức Trung Nhơn
Vương Tân sách phụ ,
Nho Tông khai hóa,
Văn Tuyên Tư Lộc
Hoằng nhơn Đế Quân
Trừng chơn chánh quang.
Bửu Quang từ tế Thiên Tôn.
Niệm: “Nam Mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng
Nho Thạnh Thế Thiên Tôn”.
II/ VIẾT RA HÁN TỰ:
儒 教
孔 聖 志 心 皈 命 禮
桂 香 內 殿,
文 始 上 宮.
九 十 五 回,
種 善 果 於 詩 書 之 圃.
百 千 萬 化,
培 桂 樹 於 陰 騭 之 田.
字 雷 貯 炳, 靈 於 鳳 嶺.
至 如 意 慈, 祥 於 鰲 柱.
開 人 心 必 本 於 篤 身 之 孝.
壽 國 脈 必 先 於 致 主 之 忠.
應 夢 保 生,
垂 慈 憫 苦.
大 仁 大 孝,
大 聖 大 慈.
神 文 聖 武,
孝 德 忠 仁.
王 賓 策 輔,
儒 宗 開 化,
文 宣 司 祿,
弘 仁 帝 君,
澄 真 正 光,
寶 光 慈 濟 天 尊.
念:“南 無 孔 聖 先 師 興 儒 盛 世 天 尊”
III/ CHÚ THÍCH:
Quế Hương nội điện 桂 香 內 殿,
Văn Thỉ thượng cung 文 始 上 宮.
Quế Hương 桂 香: Mùi thơm của cây quế.
Quế là loại cây có vỏ ngoài rất thơm, ngọt và cay có thể dùng làm vị thuốc, như quế chi (Cành cây quế), quế khâu (Vỏ cây quế).
Tương truyền rằng trên cung trăng có cây quế, nên gọi mặt trăng là Quế cung 桂 宮, hay quế luân 桂 輪. Vì vậy, ở thời khoa cử, ai thi được khoa thi thì được gọi là Thiềm cung chiết quế 蟾 宮 折 桂: Bẻ cành quế trên cung trăng.
Sân Quế còn dùng để chỉ những gia đình có con mà hiển đạt như câu Yên Sơn Ngũ Quế, do tích Đậu Võ Quân đời Ngũ Đại, tỉnh Yên Sơn, là người có tánh ngay thẳng, lại hay làm phước, nên trời cho hiển đạt. Năm người con của ông học giỏi, cả năm đều đậu cao và làm quan to trong triều, được danh tiếng là Yên Sơn Ngũ Quế 燕 山 五 桂.
Nội điện 內 殿: Bên trong điện.
Quế Hương nội điện 桂 香 內 殿: Bên trong đền Quế Hương, mùi thơm quế bát ngát. Đây là một Điện ở cõi Thiêng liêng, nơi ngự của Đức Khổng Thánh.
Văn Thỉ 文 始: Hay Văn Thủy là khởi đầu của văn chương, của nhơn nghĩa. Đây chỉ tên một Cung ở trên cõi Thiêng liêng.
Thượng cung 上 宮: Cung điện trên cao.
Văn Thỉ thượng cung 文 始 上 宮: Cung Văn Thỉ là nơi ngự của Đức Khổng Thánh.
Quế Hương nội điện: Đức Khổng Phu Tử ở nơi điện Quế Hương.
Văn Thỉ thượng cung: Trên cung Văn thỉ.
Cửu thập ngũ hồi, chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố,
九 十 五 回, 種 善 果 於 詩 書 之 圃,
Cửu thập ngũ hồi 九 十 五 回: Chín mươi lăm lần lên xuống cõi trần, tức là nhiều lần giáng sinh xuống trần.
Đức Khổng Phu Tử vốn là sao Văn Xương ở nơi thượng giới, Ngài đã rất nhiều lần (chín mươi lăm lần) thác sanh xuống cõi trần để dạy dỗ nhơn sanh trong đường nhân nghĩa, đạo đức.
Trong kinh Xưng Tụng Phật Tiên Thánh Thần có câu:
Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhân,
Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.
Ghi các sách ngàn lời để lại,
Chép nhiều thơ vạn đại truyền ra.
Chưởng: Hay chủng 種, nghĩa là trồng.
Thiện quả 善 果: Trái lành, tức là làm việc phước đức để được hưởng quả lành.
Nho giáo coi việc làm của con người như là trồng cây, sự trồng trọt vun quén là nhơn, cây đơm bông kết trái là quả. Hễ trồng cây có trái, mà càng vun phân tưới nước thì trái càng nhiều, càng tốt, tức là đã được hưởng thì càng tạo thêm nhơn nữa. Ngoài ra, nếu giống tốt thì trái ngon, còn việc làm thiện lành thì quả báo phước đức, tỷ như trồng gì thì ăn quả nấy như lời răn đời của Tế Điên Hòa Thượng: Trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu (Chưởng hoa hoàn đắc hoa, chưởng đậu hoàn đắc đậu 種 瓜 還 得 瓜, 種 豆 還 得 豆).
Ư 於: Nơi, ở.
Thi thơ 詩 書: Hay thi thư, là hai thể loại trong văn chương: Văn và thơ. Đây ý chỉ là văn chương.
Phố 圃: Vườn cây.
Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố 種 善 果 於 詩 書 之 圃: Ngài trồng cây có trái lành trên mảnh vườn văn thơ, hay kinh điển để lưu truyền giống tốt cho muôn đời sau được hưởng dùng.
Mục đích của văn chương đối với Nho giáo là “Văn dĩ tải đạo” (文 以 載 道 lấy văn chở Đạo). Vì thế, tất cả các sách của Thánh hiền xưa ra đời không ngoài việc giáo hóa con người.
Khổng Tử từ nhỏ có tính rất thông minh và nhơn hậu, hết lòng lo việc cứu đời trong thời kỳ đạo đức suy đồi, nên Ngài mới đem cái đạo Thánh Hiền của đời trước, phát huy thêm để viết lại thành những kinh sách dạy đời mà lưu truyền mãi về sau cho các dân tộc Á đông. Vì thế, trong Luận Ngữ mới có viết như sau : Thiên hạ không Đạo đã lâu rồi, Trời cho Khổng Tử ra làm cái mõ khuya để cảnh tỉnh nhơn tâm (Thiên hạ chi vô đạo giả cửu hỹ, Thiên tương dĩ Khổng Tử vi mộc đạc 天 下 之 無 道 者 久 矣, 天 將 以 孔 子 為 木 鐸).
Mỗi chữ viết, mỗi lời nói của Ngài, đời đời người ta lấy làm khuôn vàng thước ngọc để mà noi theo. Thí dụ như quyển Kinh “Xuân Thu” của Ngài, chỉ là quyển sử ghi chép lại chuyện nước Lỗ, từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công, thế mà trong ấy, Ngài cũng lấy luân lý ra để dạy đời, nên trong kinh Xuân Thu một chữ chê của Ngài có thể mang tiếng xấu muôn đời, một lời khen mà thành danh thơm muôn thủa. Người đời sau nói về kinh Xuân Thu như sau: “Một chữ khen, thì vinh hơn cái áo cổn hoa của vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn phải tội rìu búa” (Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn, nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt 一 字 之 褒, 榮 如 華 袞, 一 字 之 貶, 辱 於 斧 鉞).
Cửu thập ngũ hồi, chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố: Đức Khổng Thánh đã chín mươi lăm lần đầu thai xuống cõi trần mà lần nào Ngài cũng gieo trái lành nơi vườn thi thơ.
Bá thiên vạn hóa, bồi quế thọ ư âm chất chi điền.
百 千 萬 化, 培 桂 樹 於 陰 騭 之 田.
Bá thiên vạn 百 千 萬: Trăm, ngàn, muôn (tức là mười ngàn). Đây có ý chỉ vô số, tức là số nhiều.
Hóa 化: Biến đổi, biến hóa.
Bá thiên vạn hóa 百 千 萬 化: Trăm ngàn muôn lần biến hóa, nghĩa là rất nhiều lần biến hóa.
Đức Khổng Thánh đã trăm ngàn muôn lần hóa thân xuống trần để dạy dỗ nhơn sanh về đường nhơn nghĩa.
Bồi 培: Vun xới gốc để cây tốt, vun bồi, bồi đắp.
Quế thọ 桂 樹: Hay quế thụ là cây quế.
Âm chất 陰 騭: Hay âm đức là những hành vi tốt đẹp do ta làm tuy người thế gian không rõ, nhưng Thần, Thánh đều biết rõ.
Cái kết quả việc làm hằng ngày thường có lợi trước mắt, nhưng không được bền lâu; còn việc làm âm chất thì không thấy được, nhưng còn hoài chẳng mất. Bởi thế, Thánh Hiền thường khuyên ta nên tích âm đức lại cho con cháu. Tư Mã Ôn có nói rằng: Tích trữ vàng bạc để lại cho con cháu thì chắc gì con cháu giữ bền, chứa sách vỡ để lại cho con cháu thì con cháu chắc gì đọc, sao bằng tích cái Âm chất không ai thấy để mà làm kế lâu dài cho con cháu (Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất nan thủ, tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất nan độc, bất như tích âm đức ư minh minh chi trung, dĩ di tử tôn trường cửu chi kế 積 金 以 遺 子 孫, 子 孫 未 必 能 守, 積 書 以 遺 子 孫, 子 孫 未 必 能 讀, 不 如 積 陰 德, 於 冥 冥 之 中, 以 爲 子 孫 長 久 之 計).
Nói về âm chất, Đức Hộ Pháp cũng có dạy: “Chỉ có chứa đức là con nó hưởng được mà thôi. Nếu không ở vào Đạo thì không bao giờ tạo đức được, nên ngày nay Đức Chí Tôn đến lập Đạo để cho các người lập đức nơi cửa Đạo Cao Đài này đó vậy”.
Thánh thi cũng có bài:
Thiện ác đáo đầu đã thấy chưa ?
Hiểu rồi cái ác cũng nên chừa.
Theo làm Âm chất may bồi đắp,
Thì sẽ trở về chỗ vị xưa.
Điền 田: Ruộng, đây chỉ cái tâm của con người.
Tâm được ví như ruộng, nếu ruộng không cày bừa, dọn cỏ thì trở thành ruộng hoang, cây cỏ um tùm; còn tâm cũng vậy, không trau giồi sẽ trở nên tăm tối, đảo điên. Vì vậy, hằng ngày phải rèn luyện cho tâm trong sáng thì đạo tâm mới càng ngày càng phát triển thêm.
Âm chất chi điền 陰 騭 之 田: Là mảnh ruộng âm chất. Người ta thường ví việc làm công quả để tạo âm chất như mảnh ruộng phì nhiêu, bởi vì ruộng đất càng màu mở thì hoa màu càng tươi tốt, càng sinh sôi bông trái; còn con người có nhiều âm chất thì tự thân và con cháu an vui và được hưởng nhiều phước đức. Nếu tâm chẳng giồi mài thì tỷ như ruộng đất bị bỏ hoang, cỏ cây sẽ mọc um tùm. Mạnh Tử có bảo Cao Tử rằng: “Đường mòn ở trên núi được người ta đi lại luôn, thì thành ngay đường lớn, bỗng chốc không được dùng để qua lại nữa, thì bị cỏ tranh mọc lấp ngay. Nay cỏ tranh mọc lấp lòng anh rồi đấy” (Sơn kính chi khê gian, giới nhiên dụng chi nhi thành lộ; vi nhàn bất dụng, tắc mao tắc chi hỹ. Kim mao tắc Tử chi tâm hỹ 山 徑 之 蹊 間, 介 然 用 之 而 成 路; 為 閒 不 用, 則 茅 塞 之 矣. 今 茅 塞 子 之 心 矣).
Trong câu trên, ý Mạnh Tử muốn dạy, lòng đạo lý của con người không thể gián đoạn một phút giây nào được.
Bá thiên vạn hóa, bồi quế thọ ư âm chất chi điền 百 千 萬 化, 培 桂 樹 於 陰 騭 之 田: Ngài đã hóa thân hàng trăm ngàn lần mà lần nào Ngài cũng vun bồi gốc quế, gieo trồng âm chất nơi tâm điền để con cháu đời đời kiếp kiếp được hưởng phúc đức.
Qua sử liệu, chúng ta thấy rằng riêng chỉ trong kiếp Khổng Phu Tử, Ngài đã bôn ba hơn nửa cuộc đời chu du khắp các nước cũng vì mong muốn đem cái đạo lý Thánh hiền ra để dạy nhơn nghĩa cho đời. Nửa cuộc đời còn lại, Ngài đem hết tâm huyết ra để dạy dỗ các học trò mình, và san định lại nhiều kinh sách, hầu có thể thay thế Ngài, truyền bá cái Đạo Nho cho người đời sau học hỏi.
Bá thiên vạn hóa, bồi quế thọ ư âm chất chi điền: Ngài đã hóa thân hàng trăm ngàn lần mà lần nào Ngài cũng vun bồi cây quế nơi ruộng âm chất.
Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh
字 雷 貯 炳, 靈 於 鳳 嶺.
Tự 字: Chữ viết.
Chú thích: Bản kinh bằng chữ Hán của Nhị vị Đầu Sư viết Tự 自: kể từ; Trữ 杼: Cái thoi trong khung cữi. Phần giải nghĩa xuôi hai Ngài viết: “Ông Thương Hiệt, người có đức thông minh duệ trí, trên thì xem tượng sao, dưới thì xét soi dấu chơn chim, chế ra văn tự. Khi văn tự thành rồi thì “Thiên vũ túc, quỉ dạ khốc”(Trời mưa lúa, quỉ khóc đêm). Căn cứ theo nghĩa trên đây thì các chữ Tự và Trữ phải viết như sau: Tự 字: Chữ viết, Trữ 貯: chứa.
Lôi 雷: Sấm sét.
Trữ 貯: Chứa.
Bính 炳: Sáng rực rỡ.
Tự lôi trữ bính 字 雷 貯 炳: Chữ viết vừa được chế ra thì sấm sét nổ vang. Bởi vì việc sáng chế ra chữ viết là một việc làm vĩ đại, đánh dấu một giai đoạn quan trọng của loài người vì từ đó con người được mở mang, trí tuệ được khai hóa, khiến cho con người hiểu được luân thường đạo lý, chẳng khác nào Trời gây ra mưa giông và nổi cơn sấm sét làm tỉnh thức con người.
Hứa Thận đời Hậu Hán có cho biết lai lịch văn tự Trung Hoa như sau: Đời xưa họ Bao Hy cai trị thiên hạ, ngửng xem hình tượng trên Trời, cúi xem phép tắc dưới đất, trông dáng vẻ loài cầm thú cùng trạng thái đất đai, gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở muôn vật, bắt đầu sáng tác ra Dịch Bát quái để truyền lại các hiện tượng về sau. Đến Thần Nông thắt nút dây cai trị thiên hạ, thống hợp mọi sự. Sử quan Hoàng Đế là Ông Thương Hiệt nhìn vết chân chim muông chạy nhảy mà biết rằng văn lý có thể phân biệt nhau, mới sáng tạo ra chữ viết. Thương Hiệt chế ra chữ viết căn cứ vào loại, mô tả ra hình, nên gọi là Văn. Về sau, hình thanh bổ túc cho nhau, nên gọi là Tự.
Tương truyền rằng khi văn tự được hình thành rồi thì Trời gây mưa giông và nổi cơn sấm sét. Bởi vì nhờ Thánh Hiền chế ra chữ viết mới có Kinh sách ra đời để truyền đạt những giáo lý của Thánh nhân từ đời nầy qua đời khác.
Linh 靈: Linh thiêng.
Phụng: Hay Phượng 鳳: là một loài chim trống, Hoàng 凰: là chim mái. Giống chim nầy là một trong bốn vật linh (Tứ linh): Long 龍 , Lân 麟, Qui 龜 , Phụng 鳳.
Chim phụng hoàng là một loại chim linh, ưa thích âm nhạc, có lông ngũ sắc. Trong kinh Thư, thiên Ích Tắc 益 稷 có nói: Khi nhạc tiêu thiều tấu đến khúc thứ chín, thì chim phượng hoàng đến múa, có vẻ uy nghi (Tiêu thiều cửu thành, phụng hoàng lai nghi 簫 韶 九 成, 鳳 凰 來 儀).
Sách xưa cho rằng loại chim này tượng trưng cho hòa bình, cho điềm lành nên khi giống chim này xuất hiện thường báo hiệu một minh quân, thánh chúa hoặc là vĩ nhân xuất thế như câu “Phụng gáy non Kỳ” là có ý nói chim phụng gáy ở núi Kỳ Sơn tại xứ Tây Kỳ, là điềm báo cho biết cuối đời Ân Trụ có Thánh chúa là Văn Vương, Võ Vương ra đời diệt Trụ và dựng nghiệp nhà Châu, đem lại thái bình cho thiên hạ.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có bài thi nói về chim phụng như sau:
Phụng gáy non Nam, Đạo trổ mòi,
Trổ mòi nhân vật bốn phương trời.
Trời Âu biển Á chờ thay sắc,
Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi.
Phụng lãnh 鳳 嶺: Chim phụng trên đỉnh núi.
Linh ư phụng lãnh 靈 於 鳳 嶺: Linh thiêng hơn núi có chim phụng, tức là linh thiêng hơn việc chim phụng gáy ở đầu non báo hiệu Thánh Chúa ra đời.
Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh 字 雷 貯 炳, 靈 於 鳳 嶺: Khi văn tự được chế ra thì Trời có điềm sấm sét chớp giăng, chữ viết tự như ánh lửa soi sáng cho tâm linh con người. Nhờ thế, Đức Khổng Phu Tử mới có thể lấy văn tự để ghi những lời dạy của bậc Thánh nhân xưa mà truyền lại cho con người. Kinh sách mới ra đời, đạo lý mới có phương tiện truyền đạt rộng khắp. Như vậy, sự xuất hiện của văn tự thì linh thiêng hơn chim phụng gáy ở núi Kỳ Sơn, nghĩa là chữ viết ra đời thì thiêng liêng hơn có các vị chúa Thánh ra đời để dạy và trị dân.
Điều này dễ hiểu, bởi vì dù có chúa Thánh ra đời để trị nước, an dân, nhưng chưa có chữ viết thì dân cũng chưa khai hóa. Đến khi có Thánh nhơn chế ra văn tự rồi mới có thể truyền bá kinh sách để dạy đời được. Bởi vậy câu kinh cho rằng sự ra đời của văn tự thì linh thiêng hơn đời có chúa Thánh.
Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh: Khi văn tự được chế ra thì Trời có điềm sấm sét, chớp giăng, chữ viết tự như ánh lửa soi sáng cho tâm linh con người, nên là một điềm thiêng liêng hơn đời có chúa Thánh (tức phụng gáy non Kỳ).
Chí như ý từ, tường ư ngao trụ.
至 如 意 慈, 祥 於 鰲 柱.
Chí như 至 如: Đến như.
Ý 意: Ý tưởng.
Từ 慈: Lòng thương yêu.
Chú thích: Bản chữ Hán của nhị vị Đầu Sư viết Từ 儲 (Chữ nầy đọc là Trừ: là để dành, như trừ bị 儲 備) và chữ Trụ 岫 (Chữ nầy đọc Tụ: Hang núi). Về nghĩa thì hai Ngài giải: Từ là lòng nhơn, Trụ là cây cột. Do đó dùng chữ 慈 và 柱 đúng hơn.
Tường 祥: Tốt lành.
Ngao 鰲: Con trạnh, tức là một loại rùa lớn ở biển. Trong văn chương người ta thường dùng từ “Ngao đầu”để chỉ việc thi cử đỗ đầu khoa. Như câu:
Ngao đầu trúng tuyển quí chân quí,
Nhạn tháp đề danh vinh cánh vinh.
Nghĩa là : Trúng được đầu ngao thật là quí,
Đề được tên trên tháp nhạn thật là vinh.
Trụ 柱: Cây cột.
Ngao trụ 鰲 柱: Đây là một từ ngữ dùng để chỉ cây cột trụ, hay núi rất cao. Theo “Thần Dị Kinh”, một quyển sách thần thoại của ông Đông Phương Lão Tổ (tức Đông Phương Sóc) có viết lại nhiều cảnh ly kỳ.
1. Từ thuở tạo thiên lập địa, nơi núi Côn Lôn có một cây cột đồng cao ngất, được gọi là thiên trụ, dùng để chống Trời. Vào thuở ấy, có một vị nữ thần là Cung Công Thị, sức mạnh phi thường, đã xô ngã cây thiên trụ làm cho sập hết một góc Trời. Em gái vua Phục Hy là bà Nữ Oa, luyện được năm thứ đá mà vá lại Trời, nên sách thường gọi “Nữ Oa luyện thạch bổ thiên”(女 堝 煉 石 補 天).
2. Từ lúc mới tạo thiên địa, tại Bắc Cù Lư Châu, có ngọn núi Ngao Trụ rất cao, chư Thần Tiên thường ở trên núi ấy. Núi này có điểm lạ kỳ là không chơn, nổi trên mặt biển và hay trôi theo con nước. Chư vị Thần Tiên e rằng núi linh ấy trôi đi nơi khác, nên tâu xin với Vua Trời giữ núi Ngao Trụ đứng yên ở một điểm cố định. Ngọc Đế mới sai mười lăm con Cự ngao đến đỡ núi ấy, kể từ đó núi mới vững và không còn trôi đi nữa.
Chí như ý từ, tường ư ngao trụ 至 如 意 慈, 祥 於 鰲 柱: Đến như cái ý nhơn từ, những tư tưởng lành, tốt đẹp của Đức Khổng Thánh đem ban cho thiên hạ để giáo hóa thế nhân cho họ biết bổn phận làm con, làm tôi, làm vua cứ một lòng ngay thẳng vững vàng như cây cột ngao chống trời.
Chí như ý từ, tường ư ngao trụ: Đến như cái ý nhơn từ, tốt đẹp của Đức Khổng Thánh cứ một lòng ngay thẳng vững vàng như cây cột ngao chống trời.
Khai nhơn tâm tất bổn, ư đốc thân chi hiếu.
開 人 心 必 本, 於 篤 身 之 孝.
Khai 開: Mở ra, bắt đầu.
Nhơn tâm 人 心: Cái tâm của con người. Đây chỉ cái chơn tâm, theo Nho thì gọi lương tâm.
Chân tâm tức là tâm chân thật, tâm nầy vốn thanh tịnh, an nhiên tự tại, không bị phiền não, vọng tưởng, vọng thức chi phối, che mờ. Vì quên nó, chúng ta cố chấp nội tâm vọng tưởng là tâm mình, nên hằng ngày chúng ta chỉ sống với tâm sanh diệt, đối đãi phân biệt. Khi chúng ta dứt sạch hết phiền não, vọng tưởng rồi thì chân tâm Phật tánh sẽ được hiển lộ.
Tất bổn 必 本: Hay tất bản: Ắt là cái gốc, cái căn bản.
Đốc 篤: Rất, lắm, dốc một lòng.
Hiếu 孝: Thảo, hiếu thảo, một cách ăn ở có đạo lý của người con, người cháu đối với cha mẹ hay ông bà.
Khai nhơn tâm tất bổn 開 人 心 必 本: Khai hóa tâm con người là cái gốc của Nho giáo.
Muốn khai hóa nhơn tâm, Đức Khổng Tử đặt nặng vấn đề dạy dỗ bằng cách trước nhứt lấy Thi, Thư mà dạy; rồi lấy Hiếu Đễ mà đạo dẫn người ta, lấy Nhân Nghĩa mà giảng dụ, lấy Lễ Nhạc mà khiến người ta xem xét; sau cùng lấy Văn lấy Đức mà làm cho nên người “Khổng Tử thi giáo dã, tiên chi dĩ Thi Thư, nhi đạo chi dĩ Hiếu Đễ, thuyết chi dĩ Nhân Nghĩa, quan chi dĩ Lễ Nhạc, nhiên hậu thành chi dĩ Văn Đức 孔 子 之 施 教 也, 先 之 以 詩 書, 而 道 之 以 孝 悌, 說 之 以 仁 義, 觀 之 以 禮 樂, 然 後 成 之 以 文 德”.
Ư đốc thân chi hiếu 於 篤 身 之 孝: Dốc một lòng hiếu kính với cha mẹ.
Đạo của Khổng Tử chủ lấy sự dạy người ta cho có “nhân”, mà gốc đạo nhân là ái 愛 và kính 敬. Rồi Ngài lấy ái và kính làm cái nền của Hiếu Đễ. Do vậy, trong sự giáo hóa Khổng giáo lấy Hiếu Đễ là một nết quan trọng.
Khai nhơn tâm tất bổn, ư đốc thân chi hiếu: Khai hóa nhơn tâm là cái gốc của con người, dốc một lòng hiếu kính với cha mẹ.
Theo Nho giáo, cái nhơn tâm, tức là tâm chưa bị nhiễm, là cái sáng suốt tự nhiên có sẵn trong con người, có thể gọi là minh đức, lương tri hay trực giác, tức là cái hiểu biết rất mẫn tiệp đến tinh thần và chân lý của sự vật. Hễ ta giữ được tâm hư tĩnh, thì vật dục không thể che mờ mất cái sáng suốt tự nhiên, nên khi có vật gì cảm đến thì ứng ngay được và biết rõ mọi lẽ. Vì thế, Kinh Dịch có nói: “Không nghĩ, không làm, im lặng không động, đến lúc cảm thì suốt được mọi lẽ trong thiên hạ.” (Vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố 無 思 也, 無 爲 也, 寂 然 不 動, 感 而 遂 通, 天 下 之 故).
Nếu con người vì cái tư tâm tư ý mà nghĩ việc lợi hại, hơn thiệt riêng thì cái trực giác sẽ mờ tối đi, khiến mình không sáng suốt trông thấy được chân lý của mọi việc trong thế gian. Vì vậy, Đức Khổng Thánh mới chủ trương khai mở cái tâm con người làm gốc.
Muốn khai tâm, Đức Khổng Tử lấy nết Hiếu Đễ để làm đầu trong mọi nết, Ngài nói trong Lễ Ký như sau: “Xây dựng lòng yêu thương khởi đầu từ cha mẹ là dạy dân hoà mục. Xây dựng lòng kính trọng khởi đầu từ huynh trưởng là dạy dân kính thuận. Lấy từ mục mà dạy dân, thì dân biết quí có cha mẹ, lấy kính người huynh trưởng mà dạy dân thì dân biết quí sự theo mệnh lệnh người trên. Hiếu là để thờ cha mẹ, thuận là để vâng mệnh người trên, đem những điều ấy mà thi thố ra thiên hạ, thì không có điều gì mà không làm được (Lập ái tự thân thủy, giáo dân mục dã, lập kính tự trưởng thủy, giáo dân thuận dã. Giáo dĩ từ mục, nhi dân quí hữu thân, giáo dĩ kính trưởng, nhi dân quí dụng mệnh. Hiếu dĩ sự thân, thuận dĩ thính mệnh, thố chư thiên hạ vô sở bất hành 立 愛 自 親 始, 教 民 睦 也, 立 敬 自 長 始, 教 民 顺 也. 教 以 慈 睦, 而 民 貴 有 親, 教 以 敬 長, 而 民 貴 用 命. 孝 以 事 親, 順 以 聽 命, 錯 諸 天 下 無 所 不 行).
Thọ quốc mạch tất tiên, ư trí chúa chi trung.
壽 國 脈 必 先, 於 致 主 之 忠.
Thọ 壽: Sống lâu, ở đây có nghĩa là bền vững.
Quốc mạch 國 脈: Gọi chung cả học thuật, chính trị, kinh tế, là tất cả những cái mà một quốc gia nhờ đó mà sống, cũng như người nhờ có huyết mạch mà sống được. Quốc mạch không thể hiểu là vận mệnh của một nước được. (Từ Điển Hán Việt, Đào Duy Anh).
Thọ quốc mạch 壽 國 脈: Mạch sống của đất nước bền vững, lâu dài (Sống lâu).
Chú Thích: Trong quyển Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Kinh của Bà Lâm Hương Thanh viết chữ Thọ 受 hay thụ là thọ lãnh, nhận lãnh. Với chữ này Thọ quốc mạch 受 國 脈: Thọ lãnh huyết mạch của nước tức là thọ lãnh ơn vua lộc nước.
Xét thấy chữ Thọ 受: Nhận lãnh không đầy đủ nghĩa câu kinh hơn là dùng chữ Thọ 壽:Vững bền. Hơn nữa, hai Ngài Đầu Sư giải nghĩa câu kinh đó là: Còn vững bền cội nước, thì kẻ làm tôi nhơn thần, hễ phận làm tôi phải hết lòng trung trực, liều mình cùng vua chúa... Do vậy, chúng tôi chọn chữ Thọ 壽 là vững bền theo hai Ngài Đầu sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt.
Tất tiên 必 先: Trước nhứt ắt phải.
Trí 致: Rất, rất mực.
Chúa 主: Còn đọc là Chủ. Chúa là người đứng đầu một nước, đồng nghĩa với vua.
Trung 忠: Lòng trung thành. Một tôi con hết lòng đối với vua và nước gọi là trung.
Theo tư tưởng Nho giáo, trong một nước tất phải có một quyền tối cao để giữ kỷ cương cho cả đoàn thể. Cái quyền ấy, gọi là Quân quyền, quyền nầy phải được thống nhất giao cho một người gọi là Đế hay Vương, mà ta gọi là vua.
Vua thì phải có quan, là một người có tài đức chọn trong dân ra để giúp vua làm việc lợi ích chung cho cả nước. Một nước được trị hay loạn là nhờ vua và quan giỏi hay dỡ. Do vậy, Khổng giáo lấy cái nghĩa Quân Thần làm trọng.
Trong gia đình, con phải hiếu cha mẹ, còn trong một nước thì dân phải trung với quân. Trung quân không phải là trung với vị đế hoặc vương, mà phải hiểu nghĩa rộng ra là trung với cái quân quyền trong nước, miễn sao cái quân quyền ấy hợp với lòng dân là được.
Thọ quốc mạch tất tiên, ư trí chúa chi trung 壽 國 脈 必 先, 於 致 主 之 忠: Đối với quốc gia, muốn cho cội nước được vững bền phải biết bổn phận làm dân, làm tôi trong nước, nghĩa là phải trung thành với tổ quốc, liều mình cùng quốc gia, không kể chi đến khổ nhọc, hiểm nguy.
Theo Nho giáo, ở trong nhà thì con phải hiếu với cha mẹ, ở trong nước thì thần dân phải trung với nước. Có lòng trung ấy thì nhân dân mới yên ổn, đất nước mới thạnh trị.
Thọ quốc mạch tất tiên, ư trí chúa chi trung: Làm cho mạch sống của đất nước được bền lâu, vững chắc, trước nhứt làm người dân phải biết trung với vua và nước.
Ứng mộng bảo sanh 應 夢 保 生,
Thùy từ mẫn khổ 垂 慈 憫 苦.
Ứng mộng 應 夢: Cho thấy trong giấc mộng.
Bảo sanh 保 生: Bảo vệ sự sống, gìn giữ sự sống.
Đức lớn của Trời đất là sự sinh. Người là một phần nhỏ của muôn vật, cho nên cũng phải theo lẽ Trời mà sinh hóa. Khổng giáo lấy sự sinh làm gốc cho hành vi thiện ác: Việc gì hợp với đức sinh là thiện, trái với đức sinh là ác. Như vậy, cái tông chỉ của Đạo Khổng là theo Thiên lý mà bồi bổ cho sự sinh của vạn vật, hay nói cách khác, là phải bảo sanh vạn vật.
Ứng mộng bảo sanh 應 夢 保 生: Các Đấng Thiêng liêng ứng cho điềm chiêm bao chỉ dạy cách bảo sanh nhơn loại.
Người làm vua có lòng nhơn từ, hết lòng thương yêu dân chúng, tức là hợp với lòng Trời, thì sẽ được các Đấng ứng vào mộng để chỉ dạy cách bảo hộ sự sống cho nhơn sanh, còn Đức Khổng Phu Tử là người suốt đời có lòng thương dân, nên Ngài cũng mộng thấy Chu Công khuyên dạy đạo lý cứu khổ cho nhơn sanh.
Thùy từ 垂 慈: Rủ lòng thương.
Mẫn 憫: Thương xót, lo lắng.
Thùy từ mẫn khổ 垂 慈 憫 苦: Rủ lòng thương xót những khổ cảnh của con người.
Đức Khổng Tử là một người rất nhân hậu, hễ thấy ai đau đớn, buồn rầu, khổ sở thì Ngài động lòng thương xót. Chương Thuật Nhi có kể lại rằng: Đức Phu Tử mà ngồi ăn bên cạnh người có tang thì ăn không no. Ngày nào có đi phúng điếu về thì suốt cả ngày không đàn hát (Tử thực ư hữu tang giả chi trắc, vị thường bão dã. Tử ư thị nhật, khốc tắc bất ca. 子 食 於 有 喪 者 之 側, 未 嘗 飽 也.子 於 是 日, 哭 則 不 歌).
Do tính thương người mà suốt đời Ngài phải bôn ba chu du khắp các chư hầu, mong đem cái Đạo mình ra để bảo toàn sự sống cho nhơn dân. Ngài muốn giúp đời nên chủ trương chính sách “nhập thế”, khiến trước đây, có một người nước Sở là Tiếp Dư cho Ngài không thức thời, chẳng biết cái lẽ lánh đời.
Lúc Khổng Tử sang nước Sở, gặp Lục Thông tên là Tiếp Dư, theo đạo Lão, chủ trương thuyết vô vi, nghĩa là xuất thế, thấy Khổng Tử bôn ba chạy lo đời, nên làm bài hát “Phụng Hoàng” để kích bác Ngài:
Phượng hề! Phượng hề!
Hà kỳ đức chi suy?
Vãng giả bất khả gián;
Lai giả bất khả huy!
Nghĩa là: Phượng ôi! Phượng ôi! Sao đức suy đến thế? Cái gì đã qua rồi thì không thể ngăn được nữa; mà cái gì sẽ tới thì cũng chẳng đuổi được nào!
Người đời sau vì tôn sùng Đức Khổng Tử nên cho Lục Thông là kẻ nói bậy, và đặt cho cái tên hiệu là Sở Cuồng (thằng điên nước Sở).
Tấm lòng của Khổng Tử lúc nào cũng nghĩ đến việc cứu đời, nên các Đấng Thiêng liêng thường ứng vào mộng của Ngài để dạy những điều đem lại lợi ích cho nhân dân. Chương Thuật Nhi, mục “Mộng kiến Chu Công” (Nằm mộng thấy Chu Công) kể lại cho ta biết Chu Công Đán cũng từng về ứng vào giấc mộng của Ngài.
Ứng mộng bảo sanh, thùy từ mẫn khổ: Ứng vào mộng để chỉ dạy cách bảo hộ sự sống cho nhơn sanh, Ngài rủ lòng nhơn từ mà thương người khổ nạn.
Đại nhơn, Đại hiếu 大 仁, 大 孝,
Đại Thánh, Đại từ 大 聖, 大 慈.
Đại nhơn 大 仁: Lòng nhơn lớn, nhơn từ lớn.
Đạo Nho là Đạo thi hành nhơn nghĩa, lấy sự yêu thương người làm trọng. Trong Khổng Tử Gia Ngữ có chép lại câu chuyện như sau : Vua Cung Vương nước Sở bị đánh rơi mất một cây cung, các quan tâu xin vua cho người đi tìm. Vua nói rằng: Vua nước Sở mất cung, dân nước Sở nhặt được, mất đi đâu mà phải tìm. Có người mang câu chuyện đó nói với Khổng Tử, Ngài nói rằng: Tiếc thay lòng vua Sở còn hẹp ! Sao chẳng nói: Có người làm mất cây cung, lại có người lượm được, cần gì phải nói là người nước Sở. Câu chuyện nầy cho ta thấy lòng nhơn của Ngài không giới hạn trong một nước, mà lan tỏa khắp trong thiên hạ.
Đại hiếu 大 孝: Hiếu lớn.
Đạo hiếu là đầu mối trước nhứt của Nho giáo, nên trong sự giáo hóa, Khổng Tử lấy Hiếu làm đầu trong trăm nết (Hiếu vi bách hạnh chi tiên 孝 為 百 行 之 先). Sách Hiếu Kinh cũng viết: Hiếu là đạo thường của Trời, lẽ phải của đất (Hiếu giả thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã 孝 者 天 之 經 也, 地 之 義 也).
Ngài dạy rất kỹ lưỡng về việc hiếu với cha mẹ, ông bà. Theo Ngài người có hiếu không phải nuôi dưỡng cha mẹ là đủ, mà còn phải có lòng kính. Điều nầy Ngài dạy Tử Du như sau : Cái hiếu ngày nay, người ta cho rằng chỉ có thể nuôi dưỡng cha mẹ, đến như loài chó ngựa đều có người nuôi, nuôi mà không kính thì lấy gì để phân biệt ? (Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng, chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng, bất kính hà dĩ biệt hồ? 今 之 孝 者, 是 謂 能 養, 至 於 犬 馬, 皆 能 有 養, 不 敬 何 以 別 乎).
Ngoài việc phụng dưỡng cha mẹ, Ngài còn dạy chi ly về việc hiếu như phải quan tâm, lo lắng cha mẹ, làm vui lòng cha mẹ, không đi chơi xa khi cha mẹ còn sống, phải kế chí cha mẹ...Xem thế, ta thấy Đức Khổng Tử là người coi trọng chữ hiếu như thế nào. Có thể nói Ngài là bậc Đại hiếu.
Đại Thánh 大 聖: Bậc Thánh lớn.
Đức Khổng Tử được người đương thời cho là bậc Đại Thánh (Hay chí Thánh), nhưng Ngài là người rất khiêm tốn, không dám nhận mình là Thánh. Ngài nói rằng: Nếu bảo Ta là Thánh, là nhân thì sao Ta dám nhận, nhưng Ta làm việc Thánh việc nhân không chán ngán, dạy người không mỏi mệt, có thể bảo Ta được như thế mà thôi. (Nhược Thánh dữ nhân, tắc ngô khởi cảm, ức vi chi bất yếm, hối nhân bất quyện, tắc khả vị vân nhĩ dĩ hỹ 若 聖 與 仁, 則 吾 豈 敢, 抑 為 之 不 厭, 誨 人 不 倦, 則 可 謂 云 爾 已 矣).
Đại từ 大 慈: Từ bi lớn, lòng thương người lớn.
Chính do vì lòng thương người to lớn mà Ngài suốt đời phải bôn ba khắp các nước để truyền bá đạo Thánh hiền, mong đất nước được an bình thịnh trị và dân chúng được hiền lương nhơn nghĩa.
Đại nhơn, đại hiếu: Lòng nhân hậu và lòng hiếu thảo của Đức Khổng Thánh rất to lớn.
Đại Thánh, đại từ: Thánh đức và lòng thương của Ngài thật là bao la rộng lớn.
Thần văn, Thánh võ, 神 文, 聖 武,
Hiếu đức trung nhơn 孝 德 忠 仁.
Thần văn 神 文: Văn tuyệt bút, văn chương như Thần.
Thánh võ 聖 武: Võ tuyệt giỏi, võ bị như Thánh.
Hiếu, đức, trung, nhơn 孝 德 忠 仁: Hiếu thảo, đức hạnh, trung thành, nhân ái.
Thần văn, Thánh võ: Ngài có văn chương như Thần, võ nghệ như Thánh.
Hiếu đức trung nhơn: Ngài gồm bốn đức: Hiếu thảo, đức hạnh, trung trực, và nhơn từ.
Vương Tân sách phụ 王 賓 策 輔.
Nho Tông khai hóa 儒 宗 開 化.
Vương tân 王 賓: Vị tân khách của vua.
Sách phụ 策 輔: Giúp đỡ kế sách
Chú thích: Bản Kinh chữ Hán của nhị vị Đầu Sư viết Tân 新: Mới, sách 册: quyển sách. Về nghĩa, hai Ngài giải thích là vị khách, và kế sách, như vậy, do đồng âm dị nghĩa mà sai chữ Hán, chúng tôi viết lại cho đúng là 賓: Khách. 策: Sách lược.
Vương tân sách phụ 王 賓 策 輔: Đức Khổng Tử là bậc thượng khách của các vua chư hầu (Vương tân), và bày kế sách để giúp trị nước.
Lúc Đức Khổng Tử còn chu du khắp các chư hầu, vua các nước thường hỏi về kế sách trị an, hoặc thuật trị nước, Ngài đem cái vương đạo để làm phương cách trị bình trong thiên hạ. Hễ nước chư hầu nào vô Đạo, không lấy dân làm trọng, chỉ say mê tửu sắc, thì Ngài bỏ nước đó mà đi. Còn nước chư hầu nào có vị vua là minh quân, biết thương dân mến nước, chuộng cái Đạo lý của Ngài thì Ngài ở lại giúp vua để trị nước, đem lại sự thái bình, thạnh trị cho đất nước, rồi các vua đó tôn Ngài như một vị khách quí, hay bậc thầy (Tân sư 賓 師), hoặc xem Ngài là bậc thượng khách của nhà vua gọi là Vương tân 王 賓.
Nho tông 儒 宗: Đạo Nho.
Đạo Nho là Đạo dạy cho con người học biết suốt lẽ Trời đất và người, đồng thời dạy bảo cách ăn ở cho hợp với luân thường đạo lý. Nho 儒 là bởi chữ Nhân 亻là người và nhu需 là cần yếu hợp lại mà thành. Như vậy, theo nghĩa chữ, Đạo Nho đào tạo ra một hạng người rất cần thiết để giúp cho nhân quần xã hội biết đường mà ăn ở và hành động cho hợp lẽ Trời. Nhu cũng có nghĩa là chờ đợi, tức là những người học giỏi, đợi mọi người cần đến, sẽ lấy tài trí của mình ra thi thố giúp đời.
Tóm lại Đạo Nho là nền tôn giáo dạy về nhân nghĩa cho con người và Khổng Tử dạy dỗ và đào tạo ra một lớp người cần ích để đem lại an bình, trật tự cho xã hội. Vì thế, kinh Xưng Tụng Phật Tiên Thánh Thần viết:
Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhân,
Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.
Khai hóa 開 化: Mở mang giáo hóa.
Vương Tân sách phụ: Đức Khổng Tử là một vị thượng khách của vua (Vương tân), thường bày kế sách trị nước, an dân.
Nho Tông khai hóa: Ngài lại có công truyền bá Đạo Nho để mở mang giáo hóa quần chúng.
Văn Tuyên Tư Lộc 文 宣 司 祿.
Hoằng nhơn Đế Quân 弘 仁 帝 君.
Văn Tuyên 文 宣: Là tên thụy của Đức Khổng Tử do các vua Trung hoa các đời trước truy tặng.
- Năm Khai Nguyên thứ 27 (739), vua Đường Huyền Tông truy phong làm “Văn Tuyên Vương 文 宣 王”.
- Năm Đại Trung Tường Phù nguyên niên (1008), vua Tống Chân Tông gia thụy là “Đại Thánh Văn Tuyên Vương 大 聖 文 宣 王”.
- Năm Đại Đức thứ 10 (1306), vua Nguyên Thành Tông gia hiệu “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương 大 成 至 聖 文 宣 王”.
- Năm Gia Tĩnh thứ 9 (1530), Minh Thế Tông phong làm “Chí Thánh Tiên Sư 至 聖 先 師”.
- Năm Thuận Trị thứ 2 (1645), Thanh Thế Tổ phong làm “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Tiên Thánh Sư 大 成 至 聖 文 宣 王 先 聖 師”.
Tư lộc 司 祿: Lo việc phước lộc.
Văn Tuyên tư lộc 文 宣 司 祿: Đức Khổng Tử coi việc phước lộc.
Hoằng 弘: Rộng lớn, to lớn.
Hoằng nhơn Đế Quân 弘 仁 帝 君: Đức Ngài là vị Đế Quân có đức nhơn rộng lớn.
Văn Tuyên Tư Lộc: Khổng Thánh là Đấng trông coi về phước lộc.
Hoằng nhơn Đế Quân: Ngài là vì Đế Quân có đức nhơn rộng lớn.
Trừng chơn chánh quang 澄 真 正 光,
Bửu quang từ tế Thiên Tôn 寶 光 慈 濟 天 尊.
Trừng 澄: Trong sạch, tinh khiết.
Chơn 真: Chơn thật.
Chánh 正: Ngay thẳng.
Quang 光: Sáng, ánh sáng.
Bửu quang 寶 光: Ánh sáng quí báu.
Từ tế 慈 濟: Có lòng thương yêu, hay cứu giúp người.
Thiên Tôn 天 尊: Một đấng được tôn kính nơi cõi Thiêng liêng.
Trừng chơn chánh quang: Đức Khổng Thánh có đức độ trong sạch, chơn thật, ngay thẳng, xán lạn.
Bửu quang từ tế Thiên Tôn: Ngài là một vì Thiên Tôn có lòng thương hay cứu giúp người đời.
IV/ GIẢI NGHĨA:
NHO GIÁO
Quế Hương nội điện, Văn Thỉ thượng cung: Đức Khổng Phu Tử ở trên cung Văn Thỉ, điện Quế Hương, nơi cõi Thiêng liêng.
Cửu thập ngũ hồi, chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố: Đức Khổng Thánh đã chín mươi lăm lần đầu thai xuống cõi trần mà lần nào Ngài cũng gieo trái lành nơi vườn thi thơ.
Bá thiên vạn hóa, bồi quế thọ, ư âm chất chi điền: Ngài đã hóa thân hàng trăm ngàn lần mà lần nào Ngài cũng vun bồi cây quế nơi ruộng âm chất.
Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh: Khi văn tự được chế ra thì Trời có điềm sấm sét, chớp giăng, chữ viết tự như ánh lửa soi sáng cho tâm linh con người, nên là một điềm thiêng liêng hơn đời có chúa Thánh (tức phụng gáy non Kỳ).
Chí như ý từ, tường ư ngao trụ: Đến như cái ý nhơn từ, tốt đẹp của Đức Khổng Thánh cứ một lòng ngay thẳng vững vàng như cây cột ngao chống trời.
Khai nhơn tâm tất bổn, ư đốc thân chi hiếu: Khai hóa nhơn tâm là cái gốc của con người, dốc một lòng hiếu kính với cha mẹ.
Thọ quốc mạch tất tiên, ư trí chúa chi trung: Muốn cho mạch sống của đất nước được bền lâu, vững chắc, trước nhứt làm người dân phải biết trung với vua và nước.
Ứng mộng bảo sanh, Thùy từ mẫn khổ: Các Đấng Thiêng liêng (Chu Công) thường ứng vào mộng để chỉ dạy cách bảo hộ sự sống cho nhơn sanh, Ngài rủ lòng nhơn từ mà thương cho người khổ nạn.
Đại Nhơn, Đại Hiếu, Đại Thánh, Đại Từ: Lòng nhân hậu và lòng hiếu thảo của Đức Khổng Thánh rất to lớn. Thánh đức và lòng thương của Ngài thật là bao la rộng lớn.
Thần văn, Thánh võ, Hiếu Đức Trung Nhơn: Ngài có văn chương như Thần, võ nghệ như Thánh. Ngài gồm bốn đức: Hiếu thảo, đức hạnh, trung trực, và nhơn từ.
Vương Tân sách phụ, Nho Tông khai hóa: Đức Khổng Tử là một vị thượng khách của vua (Vương tân), thường bày kế sách trị nước, an dân.
Ngài lại có công truyền bá Đạo Nho để mở mang giáo hóa quần chúng.
Văn Tuyên Tư Lộc, hoằng nhơn Đế Quân: Ngài là Đấng trông coi về phước lộc. Và là vì Đế Quân có đức nhơn rộng lớn.
Trừng chơn chánh quang, Bửu Quang từ tế Thiên Tôn: Đức Khổng Thánh có đức độ trong sạch, chơn thật, ngay thẳng, xán lạn.
Ngài là một vì Thiên Tôn có lòng thương hay cứu giúp người đời.