CHÚ GIẢI KINH CÚNG TỨ THỜI
THIÊN VÂN - Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA
THIÊN THỨ BẢY
DÂNG TAM BỬU
Trời đất tạo nên vạn vật hữu hình đều do ba thể: Vật thể, Khí thể và Thần thể. Ba thể được gọi là Tam bửu 三 寶 (Ba báu).
Trời có Tam bửu là Nhật 日, Nguyệt 月, Tinh 星. Đất có Tam bửu là Thủy 水, Hỏa 火, Phong 風. Người có Tam bửu là Tinh 精, Khí 氣, Thần 神.
Tam bửu Tinh, Khí, Thần là ba món báu tạo nên tinh thần, thể xác của con người.
TINH: Là một chất nước rất tinh anh của nhục thể. Nhờ có tinh, con người mới có sức lực, tạo ra nòi giống, và nhứt là người tu nếu biết bảo tinh thì có thể tạo ra đệ nhị xác thân hay tượng hình Linh thể đắc Đạo.
Vật thực như ngũ cốc, hoa quả nuôi sống con người bằng cách sinh tinh hóa huyết. Nếu vì tư tưởng dục tình, tinh bị trót lọt ra ngoài theo dòng thuận chuyển để nảy sanh nòi giống; còn nếu tinh chưa bị dục niệm thì là phần trong sạch gọi là ngươn tinh, người tu sẽ luyện tinh này theo nghịch chuyển để hóa ra khí rồi hiệp với thần mà ngưng kết thành nhị xác thân.
Nói cách khác, tinh là hình hài, thể xác của con người được tượng trưng bằng hoa.
KHÍ: Là chất sinh để bảo tồn sự sống, gọi là sinh khí, cũng là nguồn sinh lực của con người. Nguyên khí này nếu ở ngoài là thanh khí, thuộc khí tiên thiên từ khí hư vô của Trời đất, qua sự hô hấp, đi vào phổi để lưu thông huyết mạch, nên khí này bị nhiễm lấy vật chất xác phàm mà hóa ra trược khí, hay khí hậu thiên. Hễ khí này mạnh thì thân thể cường tráng, hễ khí yếu thì thân thể suy nhược.
Khí là Chơn thần của con người, được tượng trưng bằng ruợu.
THẦN: Là phần chủ tể của con người, là điểm linh của Trời phú cho mà Đạo Cao Đài gọi là Tiểu linh quang hay Thiên tánh. Thần cũng là phần rất thiêng liêng, cai quản phần trí não, là linh hồn của con người mà bên Phật gọi Bản lai diện mục, Chơn như Phật tánh. Thần thường ở tại mắt (Thần cư tại nhãn), chính vì thế mà người tu luyện cao thâm, đôi mắt rất tinh anh và sáng quắc.
Thần là Chơn linh của con người được tượng trưng bằng trà.
Theo Đạo học, Tinh của hậu thiên nhờ khí tiên thiên đủ mà sinh tinh, bởi khí có thể hóa thủy. Khí tiên thiên nhờ Tinh hậu thiên thịnh mà dưỡng khí, bởi tinh có thể hóa khí. Thần hậu thiên nhờ khí tiên thiên sung mà nuôi thần, bởi khí tiên thiên có thể hóa thần. Như vậy, người tu phải bảo tinh, dưỡng khí, và tồn thần.
Tóm lại, người tu hành muốn được siêu phàm nhập Thánh thì phải biết luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần huờn hư, tức là luyện ba báu đó hiệp lại làm một điểm linh quang rồi hiệp một với khối Đại linh quang của Tạo Hóa mà đắc Đạo.
Người luyện Đạo phải ăn chay để tinh huyết trong sạch, như lời Đức Chí Tôn đã giải thích: “Mỗi kẻ phàm dưới thế này đều có hai xác thân, một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái thiêng liêng đó do cái xác phàm mà ra, nên gọi là bán hữu hình vì nó có thể thấy đặng. Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh Khí Thần mà luyện thành, nó nhẹ nhàng hơn không khí, nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập.
Còn khi đắc Đạo mà có Tinh Khí không có Thần thì không thể nhập mà hằng sống đặng. Còn có Thần mà không có Tinh Khí thì khó huờn đặng nhị xác thân. Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng. Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên thiên, mà trong khí Tiên thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch mới nhẹ nhàng hơn không khí, ra khỏi ngoài Càn khôn đặng, nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất Thánh Tiên Phật đặng. Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất chơn thần tinh khiết. Nếu các con còn ăn mặn luyện Đạo, rủi có ấn chứng thì làm sao giải tán cho đặng, rủi bị huờn thì đến khi đắc Đạo cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất tiếp điển thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn như biết khôn ẩn nấp tại thế, mà làm một bậc nhơn Tiên thì kiếp đọa trần cũng chưa mãn. Vậy Thầy buộc các con trường trai mới luyện Đạo đặng”.
I/ NGUỒN GỐC BA BÀI KINH DÂNG TAM BỬU
II/ Ý NGHĨA DÂNG TAM BỬU
III/ KINH VĂN
IV/ VIẾT RA HÁN TỰ
V/ CHÚ THÍCH
VI/ GIẢI NGHĨA
I/ NGUỒN GỐC BA BÀI KINH DÂNG TAM BỬU:
Những năm đầu của nền Đại Đạo, ba bài Dâng Tam bửu được Đức Chí Tôn chỉ dạy ba vị Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc qua thỉnh nơi Quan phủ Ngô Văn Chiêu về tụng niệm.
Ba bài Dâng Tam Bửu cũ (trước năm 1929) là do Quan Phủ Ngô văn Chiêu trao cho, xin được chép ra như sau:
DÂNG TIÊN HOA
Hoa tươi năm sắc, sắc thiên nhiên,
Đầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiềng.
Cảm đức Cao Đài lòng đoái tưởng,
Từ bi cứu thế giáng đàn tiền.
DÂNG TIÊN TỬU
Tửu vị hương hề, tửu vị hương,
Khấu đầu cung hiến chước hồ tương.
Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,
Đệ tử cung trần mỹ vị hương.
DÂNG TIÊN TRÀ
Đông thổ thanh trà mỹ vị hương,
Khấu đầu cung hiến chước hồ trường.
Cao Đài hứng cảnh nhàn quan nhã,
Đệ tử cung trần mỹ vị hương.
Ba bài Dâng Tam bửu hiện nay trong quyển “Kinh Thiên Thế Đạo” do Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh xuất bản, nguồn gốc từ Đức Hộ Pháp chỉ định Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu đặt ra, rồi dâng lên Bát Nương Diêu Trì Cung nhờ chỉnh văn lại. Đến ngày 17-06-Canh ngọ (Dl 12-07-1930), Ngài Đầu sư Thượng Trung Nhựt ban hành ba bài Dâng Tam bửu này cùng với quyển “Nghi Tiết Đại Đàn Tiểu Đàn tại Tòa Thánh và Thánh Thất các nơi”. Ba bài kinh dâng Tam bửu này được Hội Thánh chỉ định dùng để thài dâng Hoa, Rượu, Trà khi cúng Chí Tôn và Phật Mẫu từ lúc ban hành cho đến nay (Xem phần kinh văn).
II/ Ý NGHĨA DÂNG TAM BỬU:
Đức Hộ Pháp có dạy: “Trong một thời cúng, Bần đạo đã căn dặn nhiều phen trọng hệ hơn hết, là khi dâng Tam bửu, dầu cho tinh thần suốt buổi cúng có nhiều lúc lo ra đi nữa, đến khi dâng Tam bửu, khuyên cả thảy định thần đặng mật niệm, dâng Tam bửu trọng hệ cho Chí Tôn”.
Dâng Tam bửu là một bí pháp trong thời Tam Kỳ Phổ Độ nhằm nhắc nhở người tu phải biết bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần để sao cho tinh khí thần hiệp nhứt mà đắc Đạo vậy.
Bảo tinh: Gìn giữ và nuôi dưỡng đệ nhứt xác thân cho được tinh khiết, nghĩa là phải tuyệt dục, và phải ăn chay. Trong Đại Thừa Chơn Giáo, Thầy có giảng về sự ăn chay như sau: “Sự ăn chay là bổ cho Tiên thiên, còn ăn mặn lại bổ cho Hậu thiên. Các con nếu ăn mặn mà luyện Đạo thì chơn thần bị khí Hậu thiên làm nhơ bẩn nặng nề mà khó thể xuất ra cho khỏi vùng trung giới được”
Dưỡng khí: Khí là đệ nhị xác thân, tức là trí não hay phách của chúng ta. Khí rất cần thiết cho cơ thể, sự sống, cho tinh thần và nghị lực của con người. Muốn nuôi dưỡng khí thì phải biết cách luyện tập để khí Âm dương lưu hành khắp ngũ tạng lục phủ con người. Luyện khí đúng cách sẽ làm cho người ta khoẻ mạnh, tinh thần sáng suốt, minh mẫn, nghị lực dồi dào, và nhứt là đạt được một thần lực hay một năng lực huyền diệu mà một người thường không thể có được.
Tồn thần: Hay định thần là rèn luyện cho tâm hồn tỉnh thức, an ổn và tiêu trừ hết mọi thất tình lục dục, không để cho ngoại vật chi phối, rồi sau đó thu nhiếp tư tưởng vào một đối tượng không cho tán loạn. Khi tâm vắng lặng, các phiền não dần dần lắng xuống, làm lóng sạch cái tâm vọng tưởng của mình được sáng tỏ mạnh mẽ quán chiếu nhìn thấy sự vật như thật. Thần có định mới phát sinh trí tuệ, minh tâm kiến tánh, phá trừ được vô minh mê hoặc.
Ngoài ra, dâng Tam bửu còn được thể hiện tinh thần phụng sự vạn linh bằng lời nguyện dâng trọn cả thể xác, chơn thần và linh hồn cho Đức Chí Tôn để làm tôi tớ cho vạn linh, như lời của Đức Hộ Pháp đã dạy: “Đức Chí Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta, mà chúng ta không phải là chúng ta thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta, tức nhiên ta đã đoạt cơ giải thoát”.
Khi thuyết về Hành pháp mỗi khi vô cúng Đàn, Đức Hộ Pháp có giải thích như sau: “Đang khi dâng bông, cả thảy hình thể con cái của Chí Tôn tức là Thánh thể của Ngài, trụ hết xác Thánh đó dâng cho Ngài đặng Ngài làm phương cứu thế. Đó là dâng bông.
Tới dâng rượu, cả thảy, khi dứt câu kinh, nín lặng hết, Bần Đạo vận dụng trí não tinh thần, đem đức tin của cả thảy dâng vào Bát Quái Đài.
Tới dâng trà, là dâng cả linh hồn cho Chí Tôn. Bần Đạo để cả tinh thần trụ lại, đem linh hồn của con cái Chí Tôn dâng cho Ngài”.
Về cách cầu nguyện khi dâng Tam bửu cúng Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, Đức Hộ Pháp cũng có dạy như sau:
- Khi thài Dâng Hoa thì ta cầu nguyện: “Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng”.
- Khi thài Dâng Ruợu thì ta cầu nguyện: “Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng”.
- Khi thài Dâng Trà thì ta cầu nguyện: “Con xin dâng cả linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng”.
Ở câu này, ta có thể gộp chung nguyện một lần như vầy: “Cả Linh hồn, Cả Trí não, cả Hình hài, Thầy đào tạo, đó là của Thầy thì do quyền hành độc đoán của Thầy định”.
III/ KINH VĂN:
1.- BÀI DÂNG HOA
Từ bi giá ngự rạng môn thiền,
Đệ tử mừng nay hữu huệ duyên.
Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ,
Cúi mong Thượng Đế rưới Ân Thiên.
2.- BÀI DÂNG RƯỢU
Thiên Ân huệ chiếu giáng thiền minh,
Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh.
Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,
Thoát tai bá tánh ngưỡng Ân sinh.
3.- BÀI DÂNG TRÀ
Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,
Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.
Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước,
Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường.
IV/ VIẾT RA HÁN TỰ:
(二) 獻 仙 酒
天 恩 惠 照 降 禅 明
誠 敬 長 春 酌 酒 瓊
樂 興 叩 躬 皆 勉 禮
脫 災 百 姓 仰 恩 生
(三) 獻 仙 茶
梅 春 月 菊 味 茶 香
敬 禮 誠 心 獻 寳 漿
仰 望 慈 悲 加 濟 福
開 明 大 道 護 清 平
V/ CHÚ THÍCH:
1.-BÀI DÂNG HOA:
Bài Dâng Hoa này được viết bằng thể chữ Nôm, nên chúng tôi không viết ra Hán tự hết bài được, chỉ viết những từ Hán Việt khi chú thích mà thôi.
Từ bi giá ngự rạng môn thiền,
Từ bi 慈 悲: Lòng từ bi.
Từ bi là lòng thương yêu, lo lắng mong giúp đỡ cho chúng sanh được an lành và cứu vớt chúng sanh ra khỏi tai ương khổ não. Lòng từ bi phải là một chân tâm, xuất phát từ lòng trắc ẩn thành thật, không vụ lợi, không phân biệt thân sơ hay sang hèn. Từ bi là một thứ tình thương đem đến niềm an vui cho kẻ khác. Người có từ tâm, thì lúc nào cũng muốn tạo và dâng hiến sự an lành, hạnh phúc cho kẻ khác, còn người có lòng từ bi thì bao giờ cũng mong xoa dịu hay làm vơi bớt những nỗi khổ đau của kể khác.
Ban cho điều sung sướng, cứu giúp sự khổ não, mà làm sao ta tự không thấy mình là người ban ơn, người là kẻ thọ ơn, như thế mới thực là lòng từ bi.
Chữ Từ bi ở đây là chỉ Đức Chí Tôn.
Giá ngự 駕 御: Hay Ngự giá, nghĩa bóng là xe vua đến một nơi nào. Xe của vua gọi là xa giá, vua đi gọi là ngự. Theo nghĩa ở đây, ý chỉ Đức Chí Tôn ngự xuống phàm.
Trong Thánh ngôn hiệp tuyển có bài thi như sau:
Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
好 南 邦 ! 好 南 邦 !
Tiểu quốc tảo khai hội Niết Bàn.
小 國 早 開 會 涅 槃
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
幸 遇 高 臺 傳 大 道
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
好 逢 玉 帝 御 塵 間
Rạng: Sáng rực, làm cho sáng.
Môn thiền: Hay thiền môn 禪 門: Cửa thiền, chỉ nơi chùa chiền của Phật, nghĩa bóng là cửa Phật, nơi tu học các pháp môn của Đạo Phật.
Ở đây mượn từ thiền môn để chỉ nơi thờ tự Đấng Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma, tức là Đền Thánh hay Thánh Thất.
Từ bi giá ngự rạng môn thiền: Đức Chí Tôn giáng xuống phàm trần, tỏa sáng ngời ngôi Thánh Thất.
Đệ tử mừng nay hữu huệ duyên.
Đệ tử 弟 子: Là học trò. Đây là một từ đặc biệt trong Đạo Cao Đài, lời tự xưng của các tín đồ đối với Đức Chí Tôn. Bởi Ngài thường giáng cơ tự xưng là Thầy, gọi chư tín đồ là môn đệ hay đệ tử.
Hữu 有: Có.
Huệ 惠: Ân, ơn huệ.
Duyên 緣: Nhân duyên, nguyên nhân, noi theo.
Hữu huệ duyên 有 惠 緣: Có được cái duyên hưởng ân huệ.
Đệ tử mừng nay hữu huệ duyên: Đệ tử ngày nay vui mừng được may duyên hưởng ân huệ của Thầy ban cho.
Gặp được thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn giáng cơ khai nền Đại Đạo mở ra một thời kỳ đại ân xá cho toàn vạn linh là một duyên may rất lớn đối với chúng sanh. Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên Trưởng có dạy: “Mở một mối Đạo chẳng phải là thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp mối Đạo cũng chẳng phải dễ”.
Trong Thánh thi cũng có câu:
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
幸 遇 高 臺 傳 大 道
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
好 逢 玉 帝 御 塵 間
Nghĩa là:
May mắn gặp được Cao Đài truyền nền Đại Đạo,
Duyên lành gặp lúc Ngọc Đế ngự xuống trần gian.
Sở dĩ chúng ta được hưởng cái duyên lành (tức có duyên phần) là do kết quả của việc làm đạo đức từ trong kiếp trước. Do vậy, kiếp nầy ta cũng lo tạo lập công đức để dành cho kiếp lai sinh. Thánh giáo Chí Tôn dạy: “Thầy vì đức háo sinh, nên chẳng kể bực Chí Tôn cầm quyền thế giới, đến lập Đại Đạo Tam Kỳ trong lúc hạ nguơn nầy mà vớt sinh linh khỏi vòng khổ hải. Ai biết Đạo tức là có duyên phần, ai vô Đạo tức là số chịu hình khổ luân hồi”.
Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ
Năm sắc hoa tươi: Hoa tươi tốt gồm đủ năm màu.
Năm sắc hay ngũ sắc hoa là năm màu bông gồm trắng, xanh, đen, đỏ, vàng, ứng với ngũ hành, ngũ khí, ngũ tạng và ngũ quan.
NGŨ HÀNH NGŨ TẠNG NGŨ QUAN
Trắng: Kim Phế (phổi) Tỷ (mũi)
Xanh: Mộc Can (gan) Mục (mắt)
Đen: Thủy Thận (thận) Nhĩ (tai)
Đỏ: Hỏa Tâm (tim) Thiệt (lưỡi)
Vàng: Thổ Tỳ (lá lách) Khẩu (miệng)
Kỉnh lễ: Hay kính lễ 敬 禮: Kính cẩn dâng lễ.
Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ: Kính cẩn dâng lên năm màu hoa tươi tốt.
Dâng Tam bửu là dâng bông, rượu, trà tượng trưng cho Tinh, Khí, Thần là ba báu của người tu hành cần phải gìn giữ, bởi lẽ muốn đắc đạo phải bảo Tinh, dưỡng Khí và tồn Thần, rồi phải luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần huờn hư. Hay nói cách khác, luyện Tinh, Khí, Thần hợp nhứt và quy về kim đảnh mà Đạo học gọi là luyện cho Tam huê tụ đảnh là thành Đạo.
Như ta biết bình hoa thuộc Dương, đĩa quả thuộc Âm và mượn việc dâng bông ngũ sắc tương quan với ngũ khí hay ngũ hành nhằm để thể hiện lẽ bí nhiệm của Âm Dương và Ngũ Hành vận chuyển và tác động lẫn nhau một cách linh động, tinh vi để vạn vật được sinh hóa, muôn loài được tồn tại, khí hậu bốn mùa được điều hòa, thảo mộc tươi tốt, đơm hoa kết quả.
Ngoài ra, khi cúng Chí Tôn, dâng bông năm màu cũng được thể việc luyện Tam bửu sao cho Ngũ khí triều nguyên, Tam huê tụ đảnh thì đắc đạo, tức là biến con người phàm phu thành con người siêu việt, hay biến người thành Trời thì đắc Đạo.
Cúi mong Thượng Đế rưới Ân Thiên
Thượng Đế 上 帝: Tức là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, mà Đạo Cao Đài gọi là Đức Chí Tôn.
Khi cúng tại Điện thờ Phật Mẫu, thì từ “Thượng Đế” thay bằng từ “Phật Mẫu”, câu kinh đó sẽ đọc như sau:
Cúi xin Phật Mẫu rưới ân Thiên.
Cúi mong Thượng Đế rưới Ân Thiên: Cúi xin Đức Chí Tôn chan rưới ơn Thiêng liêng.
2.-BÀI DÂNG RƯỢU:
Thiên Ân huệ chiếu giáng thiền minh
天 恩 惠 照 降 禅 明
Thiên Ân 天 恩: Ơn Trời. Đây chỉ Ơn Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Ơn Trời hay ơn Tạo Hóa, tức là ơn của Đấng sinh hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật. Đấng Tạo Hóa ấy là Đấng toàn tri, toàn năng, vô thủy, vô chung, biến hóa không cùng, nên mới sinh ra muôn loài, vạn vật. Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn Khôn Thế Giái”. Ngoài việc sinh hóa ra, Đấng Tạo Hóa còn nuôi dưỡng, giáo hóa chúng sanh. Vì vậy, công ơn của Trời đất xét ra thì vô cùng vô tận, không thể nào nghĩ bàn cho thấu đặng. Do vậy, người tu hành cần phải hiểu rõ nguồn ân đức đó mới có thể gần Đạo được: “Vật hữu bổn mạt, sự hữu chung thủy, tri sở tiền hậu, tắc cận Đạo hỹ 物 有 本 末, 事 有 終 始, 知 所 前 後, 則 近 道 矣”: Vật có gốc ngọn, việc có trước sau, nếu mình biết được gốc ngọn trước sau thì gần Đạo vậy.
Huệ chiếu 惠 照: Ơn huệ soi rọi xuống.
Giáng 降: Xuống, như giáng hạ: Giáng xuống.
Thiền minh 禅 明: Cửa Thiền hay cửa Chùa sáng rực. Đây chỉ ngôi Thánh Thất của Đạo Cao Đài.
Thiên Ân huệ chiếu giáng thiền minh 天 恩 惠 照 降 禅 明: Ơn huệ của đức Chí Tôn soi sáng ngời ngôi Thánh Thất.
Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh.
誠 敬 長 春 酌 酒 瓊
Thành kỉnh: Hay thành kính 誠 敬, là lòng thành thật kính trọng.
Trường xuân 長 春: Xuân lâu dài, xuân mãi mãi, vì thế người ta dùng chữ Trường xuân để chỉ Trời đất, đây ý chỉ Đức Chí Tôn. Trường xuân còn có nghĩa là cảnh Thần Tiên, vì bốn mùa đều là mùa xuân luôn.
Chước 酌: Mời rượu, rót rượu, uống rượu.
Tửu 酒: Rượu.
Quỳnh 瓊: Một thứ ngọc đỏ, đẹp tốt. Quỳnh bôi: chén uống rượu bằng ngọc quỳnh. Quỳnh tương 瓊 醬: Rượu làm bằng nước ngọc quỳnh. Rượu ngon.
Trong Kim Vân Kiều có câu:
Chén hà sánh giọng quỳnh tương.
Tửu quỳnh: Hay quỳnh tửu 瓊 酒, ý chỉ rượu quí, rượu ngon mà các vị Thần Tiên thường uống.
Thành kỉnh trường xuân chước tửu quỳnh 誠 敬 長 春 酌 酒 瓊: Lòng thành thật kính rót ly rượu quí dâng lên Đức Chí Tôn.
Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ
樂 興 叩 躬 皆 勉 禮
Lạc hứng 樂 興: Trong lòng cảm thấy phấn chấn, vui vẻ.
Khấu cung 叩 躬: Kính cẩn khấu đầu, cung kính cúi đầu.
Giai 皆: Đều, cùng.
Miễn lễ 勉 禮: Cố gắng hành lễ, gắng sức làm lễ.
Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ 樂 興 叩 躬 皆 勉 禮: Chúng con gắng sức hành lễ với tấm lòng hăng hái vui vẻ.
Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh
脫 災 百 姓 仰 恩 生
Thoát tai 脫 災: Tránh khỏi tai họa.
Bá tánh 百 姓: Hay bách tính, tức là trăm họ, dùng để chỉ số đông dân chúng, hoặc quần chúng.
Ngưỡng 仰: Ngửa trông lên, kính mến.
Ân sinh 恩 生: Nhờ ơn được sống còn, ơn bảo dưỡng sự sống.
Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh 脫 災 百 姓 仰 恩 生: Chúng con cầu xin cho bá tánh thoát khỏi tai nạn và ban ơn lành cho được sống còn.
3.- BÀI DÂNG TRÀ:
Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương
梅 春 月 菊 味 茶 香
Mai xuân 梅 春: Hoa mai trong mùa xuân.
Nguyệt cúc 月 菊: Hay cúc nguyệt 菊 月 là tháng cúc, tức là tháng có hoa cúc nở. Mỗi năm hoa cúc nở vào tháng 8 âm lịch, nên người ta gọi tháng 8 âm lịch là cúc nguyệt. Như vậy, nguyệt cúc là cúc tháng tám, đồng nghĩa với thu cúc.
Vị 味: Là mùi do lưỡi nếm mà biết được.
Trà hương 茶 香: Mùi thơm của trà.
Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương 梅 春 月 菊 味 茶 香: Trà như hoa mai mùa xuân, hoa cúc mùa thu tỏa ngát hương vị thơm ngon.
Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương
敬 禮 誠 心 獻 寳 漿
Kỉnh lễ 敬 禮: Thành kính dâng lễ.
Thành tâm 誠 心: Lòng thành thật.
Tâm của con người có tâm thật còn gọi là chân tâm hay Phật tánh và tâm giả là tâm chúng ta đem ứng xử hằng ngày trong cuộc sống.
Sống trên thế gian, trong vô số kiếp chúng ta không dùng chơn tâm ra để sống ở đời, mà chỉ dùng tâm giả. Vì vậy, chúng ta mới bị luân hồi trong sinh tử.
Như vậy, khi dâng lễ cúng Chí Tôn, chúng ta phải thật “thành tâm”, tức là tìm lại cái chơn tâm Phật tánh của chúng ta vậy.
Sách Trung Dung rất coi trọng “lòng thành” hơn các đức tính khác, và cho rằng “chí thành” có thể giúp vào việc hóa dục của Trời đất nên có thể sánh cùng Trời đất: Người có thành tâm mới có thể phát huy đến cùng cực cái bản tính của mình; mà hễ phát huy đến cùng cực cái bản tính của mình thì có thể phát huy đến cùng cực cái bản tính của người; có thể khiến người phát huy đến cùng cực cái bản tính của người thì có thể khiến vật thực hành đến cùng cực bản tính của vật, có thể khiến vật thực hành đến cùng cực bản tính của vật, thì có thể giúp vào việc hóa dục của Trời đất; có thể giúp vào việc hóa dục của Trời đất thì có thể sánh cùng Trời đất: “Duy Thiên địa chí thành vi năng tận kỳ tính; năng tận kỳ tính tắc năng tận nhân chi tính; năng tận nhân chi tính tắc năng tận vật chi tính; năng tận vật chi tínhtắc khả dĩ tán Thiên địa chi hóa dục, khả dĩ tán Thiên địa chi hóa dục tắc khả dĩ dữ Thiên địa tham hỹ 唯 天 地, 至 誠 為 能 盡 其 性; 能 盡 其 性, 則 能 盡 人 之 性; 能 盡 人 之 性, 則 能 盡 物 之 性; 能 盡 物 之 性, 則 可 以 贊 天 地 之 化 育 ; 可 以 贊 天 地 之 化 育, 則 可 以 與 天 地 參 矣”.
Hiến 獻: Dâng hiến.
Bửu tương 寳 漿: Nước quí báu. Đây chỉ nước trà thơm quí báu.
Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương 敬 禮 誠 心 獻 寳 漿: Kính dâng chung trà quí báu với tấm lòng chân thành để làm lễ hiến.
Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước
仰 望 慈 悲 加 濟 福
Ngưỡng vọng 仰 望: Thành kính mong chờ.
Từ bi 慈 悲: Lòng thương, lòng từ bi. Đây có ý chỉ Đức Chí Tôn.
Gia 加: Thêm.
Tế 濟: Cứu giúp.
Phước 福: Điều tốt lành, phúc đức.
Tế Phước 濟 福: Cứu giúp cho điều phước đức.
Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước 仰 望 慈 悲 加 濟 福: Kính mong ơn Đức Chí Tôn cứu giúp thêm cho điều phước đức.
Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường
開 明 大 道 護 清 平.
Khai minh 開 明: Khai mở cho sáng.
Đại Đạo 大 道: Đạo lớn. Đây là nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Đạo Cao Đài, được khai sáng vào thời Hạ ngươn mạt pháp để tận độ toàn thể chúng sanh.
Hộ 護: Che chở, giữ gìn.
Thanh bường: Tức là “thanh bình” 清 平, vì vần của bài thài nên đọc thành “bường”. Thanh bình hay thái bình là thời mà người dân được hưởng cảnh yên ổn, lạc nghiệp.
Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường 開 明 大 道 護 清 平: Khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho sáng tỏ để hộ trì cho đời được thái bình thạnh trị.
VI/ GIẢI NGHĨA:
1.- BÀI DÂNG HOA:
Câu 1: Đức Chí Tôn giáng xuống phàm trần, tỏa sáng ngời ngôi Thánh Thất.
Câu 2: Ngày nay, Đệ tử vui mừng được may duyên hưởng ân huệ của Thầy ban cho
Câu 3: Nên kính cẩn dâng lên năm màu hoa tươi tốt.
Câu 4: Cúi xin Đức Ngài chan rưới ơn Thiêng liêng cho chúng con.
2.-BÀI DÂNG RƯỢU:
Câu 1: Ơn huệ của đức Chí Tôn soi sáng ngời ngôi Thánh Thất.
Câu 2: Lòng thành thật kính rót ly rượu quí dâng lên Ngài.
Câu 3: Chúng con gắng sức hành lễ với tấm lòng hăng hái vui vẻ.
Câu 4: Chúng con cầu xin cho bá tánh thoát khỏi tai nạn và ban ơn lành cho được sống còn.
3.-BÀI DÂNG TRÀ:
Câu 1: Trà như hoa mai mùa xuân, hoa cúc mùa thu tỏa ngát hương vị thơm ngon.
Câu 2: Kính dâng chung trà quí báu với tấm lòng chân thành để làm lễ hiến.
Câu 3: Kính mong ơn Đức Chí Tôn cứu giúp thêm cho điều phước đức.
Câu 4: Khai mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho sáng tỏ để hộ trì cho đời được thái bình thạnh trị.