CHÚ GIẢI KINH CÚNG TỨ THỜI

THIÊN VÂN - Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

 

THIÊN THỨ NHÌ

 

TÁN TỤNG CÔNG ĐỨC
DIÊU TRÌ KIM MẪU

 

I/ KINH VĂN

II/ CHÚ THÍCH

III/ GIẢI NGHĨA

 

I/ KINH VĂN:

 

                                Kể từ hỗn độn sơ khai,

                        Chí Tôn hạ chỉ trước đài Linh Tiêu.

                                Lưỡng nghi phân khí hư vô,

                        Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.

                                Âm Dương biến tạo Chơn thần.

                        Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.

                                Mớm cơm vú sữa cũng tay,

                        Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.

                                Xét vì nhơn vật lẽ đồng,

                        Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.

                                Chí mong hòa hảo âm dương

                        Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.

                                Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,

                        Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.

                                Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,

                        Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.

                                Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,

                        Cũng vì tà mị dẫn đường con thương.

                                Đỉnh chung là miếng treo gương,

                        Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.

                                Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,

                        Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.

                                Ngồi trông con đặng phi thường,

                        Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh.

                                Xưa con không thấu cội nhành,

                        Vì đường Đạo bế biệt cành hoa rơi.

                                Từ con cách Mẹ phương trời,

                        Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.

                                Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,

                        Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.

                                Ngọc Hư định phép cũng nhiều,

                        Phái Vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ.

                                Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,

                        Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.

                                Đắc truyền khai mối Tam Kỳ,

                        Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương.

                                Chín cô đã sẵn lòng thương,

                        Mê tân độ chúng bườm trương thoát vòng.

                                Lục Nương phất phướn truy hồn,

                        Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.

                                Bát Nương thật đấng chí linh,

                        Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.

                                Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu,

                        Nhờ Người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi.

                                Môn sanh thiện niệm hằng ngày,

                        Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương.

                                Đê đầu khấu bái Nương Nương,

                        Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.

 

    Niệm: “Nam Mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu

            “Nam Mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu Vị Nữ Phật

 

II/ CHÚ GIẢI:

 

Kể từ hỗn độn sơ khai,

Chí Tôn hạ chỉ trước đài Linh Tiêu.

          Kể từ: Kể từ lúc.

          Hỗn độn : Lộn xộn, không phân biệt được. Đây chỉ vào thời kỳ hỗn độn của Càn khôn Vũ trụ

          Thời hỗn độn hay thời Tiên thiên, tức là trước thời kỳ Trời đất hình thành, hay nói cách khác, thời kỳ Trời đất chưa phân định.

          Sơ khai : Mới mở ra lúc ban đầu.

          Chí Tôn : Rất tôn kính. Chỉ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.

          Hạ chỉ : Vua hạ lệnh xuống cho bầy tôi, thần dân thi hành. Ở đây chỉ Đức Thượng Đế truyền lịnh xuống.

          Đài Linh Tiêu: Một cái Đài cao ở Linh Tiêu Điện 殿, Ngọc Hư Cung .

          Nơi đây Đức Chí Tôn họp chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Thánh giáo cho biết trong bài thi tứ tuyệt như sau:

                          Linh Tiêu nhứt tháp thị Cao Đài

                                 

                        Đại hội quần Tiên thử ngọc giai.

                                 

                          Vạn trượng hào quang tùng thử xuất,

                                 

                          Cổ danh bửu cảnh Lạc Thiên Thai.

                                 

 

Nghĩa là:      Linh Tiêu Điện có một tháp gọi Cao Đài.

                      Đại hội các Tiên họp tại nơi bệ ngọc nầy.

                      Muôn trượng hào quang từ nơi ấy mà chiếu ra.

                      Tên khi xưa, cảnh báu đó gọi Lạc Thiên Thai.

Câu 1: Kể từ thời hỗn độn trước lúc mới mở Trời đất.

Câu 2: Đức Chí Tôn ngự nơi Linh Tiêu Điện, Ngọc Hư Cung truyền ban lệnh xuống.

 

Lưỡng nghi phân khí hư vô,

Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.

          Lưỡng Nghi : Do Thái Cực biến hóa ra Lưỡng Nghi, đó là Âm quang và Dương quang.

          Khí Hư vô: Tức là Hư vô chi khí , là một thể khí có trước khi tạo lập ra Càn Khôn Vũ Trụ, còn gọi là Nguyên khí, Tiên Thiên khí.

          Khí Hư vô trong thời kỳ hỗn độn mới kết tụ thành ngôi Thái Cực, Thái Cực mới phân hóa ra Lưỡng Nghi, tức là hai khí Âm dương.

          Nung lò: Đốt cháy cái lò.

          Đức Phật Mẫu dùng nguơn chất nơi Kim Bàn, Diêu Trì Cung, tựa như chiếc lò sản xuất ra hình hài muôn vật.

          Lò hóa sinh do chữ trong bài phú Giả Nghị có câu: “Trời đất làm cái lò, mà Đấng Tạo Hóa làm thợ để đúc nặn ra muôn vật. (Thiên địa vi lô hề, tạo hóa vi công , ).

          Hóa sanh : Biến hóa và sinh sản ra.

Câu 3: Khí Hư vô sinh Thái Cực, Thái Cực mới phân ra Lưỡng Nghi, tức khí Âm quang và Dương quang.

Câu 4: Đức Phật Mẫu đem khí Âm quang phối hợp với khí Dương quang để đào tạo ra vạn vật.

 

Âm Dương biến tạo Chơn thần.

Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.

          Biến tạo : Biến hóa mà tạo ra.

          Chơn Thần : Là một thể do Phật Mẫu tạo ra, được gọi là Đệ nhị xác thân hay Chơn Thần.

          Chơn Linh và Chơn Thần mới phối hợp với nhục thân, tức là thân hình hài xác thịt của cha mẹ nơi cõi trần tạo ra để thành một con người ở phàm gian. Khi chết, Chơn Linh, Chơn Thần mới xuất ra khỏi thân xác, con người chỉ còn lại cái cái xác chết, tức là thân tứ đại, chờ ngày tan rã.

          Nhơn vật : Loài người và loài vật.

          Hữu vi : Trái với vô vi, tức là tất cả những gì có sắc tướng, có hình thể.

Câu 5: Phật Mẫu dùng hai khí Dương quang và Âm quang để tạo ra Đệ nhị xác thân, tức Chơn Thần.

Câu 6: Phật Mẫu lo cho loài người và loài vật về phần hình thể.

 

Mớm cơm vú sữa cũng tay,

Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.

          Mớm cơm vú sữa: Cho ăn cơm, cho bú sữa.

          Phật Mẫu được ví như bà mẹ hiền nơi thế gian lo cho con trẻ từng muỗng cơm, giọt sữa. Tuy không thấy Phật Mẫu lo trực tiếp cho con người, nhưng Ngài hóa sanh ra vạn vật, từ vạn vật con người mới có được sự sống. Đó cũng là công ơn nuôi nấng của Phật Mẫu lo cho con cái của Ngài.

          Dưỡng sanh : Nuôi dưỡng cho sống còn, cho lớn lên khỏe mạnh.

          Đùm bọc: Bao bọc, che chở bằng tất cả tình thương.

          Chí công : Rất công bình.

Câu 7: Chính mình Phật Mẫu lo nuôi dưỡng con cái từ lúc sơ sinh cho  đến lúc trưởng thành.

Câu 8: Với tấm lòng công bình, ưu ái, Phật Mẫu đùm bọc nuôi dưỡng con cái của Ngài.

 

Xét vì nhơn vật lẽ đồng,

Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.

          Xét vì: Xét lẽ ra.

          Nhơn vật : Loài người và loài vật ở thế gian.

          Lẽ đồng: Cùng một lẽ giống như nhau.

          Nhơn vật lẽ đồng: Tức Nhân vật đồng nhất lý : Con người và loài vật cùng một lý giống nhau.

          Chắt chiu: Chăm sóc một cách quí trọng.

          Hằng để: Luôn luôn để, thường thường để.

          Trọn lòng: Trọn vẹn tấm lòng, hết lòng.

Câu 9: Người và vật đều do Phật Mẫu tạo ra nên xét thấy cùng một lẽ như nhau.

Câu 10: Phật Mẫu luôn luôn chắt chiu chăm sóc chúng sanh với trọn tấm lòng thương yêu, quí trọng.

 

Chí mong hòa hảo âm dương,

Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.

          Chí mong: Ý chí mong muốn.

          Hòa hảo : Hòa thuận một cách tốt đẹp.

          Âm Dương : Khí âm và khí dương.

          Thuận : Xuôi theo, thuận theo.

          Căn : Cái gốc rễ.

          Nếu xét về lẽ vô vi thì gốc rễ của con người là do hai khí âm dương biến hóa ra, hay nói cách khác do Chí Tôn và Phật Mẫu đào tạo nên.

          Bước đường: Bước đi trên đường. Theo nghĩa ở đây, là con đường tiến hóa.

          Vẹn chơn: Chơn thật một cách trọn vẹn.

Câu 11: Phật Mẫu mong muốn cho hai khí âm dương hòa hiệp một cách tốt đẹp với nhau.

Câu 12: Thuận theo lẽ Âm Dương hòa hiệp mà chúng sanh trên đường tiến hóa một cách chơn thật.

 

Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,

Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.

          Mẫu Nghi : Nghi là làm khuôn phép. Mẫu nghi: Làm khuôn mẫu bà mẹ cho mọi người. Nghĩa rộng chỉ đức hạnh của người làm mẹ.

          Ở thế gian, người ta gọi Bà Hoàng Hậu, vợ vị Hoàng Đế, là Mẫu Nghi thiên hạ, tức là có ý nói: Vị Hoàng Hậu là người mẹ làm gương mẫu tốt cho các bà mẹ trong dân chúng.

          Mẫu Nghi ở đây dùng chỉ Đức Phật Mẫu.

          Hằng giữ: Luôn luôn giữ.

          Lòng đơn: Do chữ đan tâm hay đơn tâm : Lòng son. Tấm lòng son sắc (màu son) không bao giờ phai lợt. Thường nói về tấm lòng thương yêu, trung thành.

          Mảng lo: Đặt hết tâm trí để lo.

          Trẻ: Con cái của Đức Phật Mẫu, chỉ tất cả chúng sanh.

          Đặng toàn: Được hoàn toàn, được toàn vẹn.

          Mảnh thân: Cái thân con người, tấm thân.

Câu 13 và 14: Đức Phật Mẫu luôn luôn lúc nào cũng giữ một lòng lo lắng cho tất cả con cái của Ngài có được mảnh thân vẹn toàn.

 

Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,

Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.

          Riêng thương: Thương yêu đặc biệt.

          Kim Mẫu : Một danh hiệu của Đức Phật Mẫu. Do viết tắt của Kim Bàn Phật Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu.

          Biển trần: Trần gian được ví như một cái biển khổ. Con người sống trong cõi ấy coi như bị chìm đắm, lặn hụp do những cơn sóng khổ dồi dập không bao giờ ngừng nghỉ. Bài kệ chuổi bên Phật có câu:

Khổ hải vạn trùng ba

                                     

                                (Biển khổ muôn lượn sóng).

          Lạc lầm: Hay lầm lạc, tức là do mù quáng, mê muội mà gây ra nhiều điều sai trái, lỗi lầm, khiến nên phải chìm sâu trong luân hồi sinh nơi biển khổ.

          Bấy lâu: Bao nhiêu lâu nay.

Câu 15: Đức Phật Mẫu yêu thương con cái một cách đặc biệt nên thường khóc thầm.

Câu 16: Bởi vì Ngài thấy con cái bị lạc lầm trong biển trần khổ sở bao nhiêu lâu nay.

 

Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,

Cũng vì tà mị dẫn đường con thương.

          Đòi phen: Nhiều phen.

          Luống: Rất nhiều lần.

          Ưu sầu : Lo buồn.

          Tà mị : Gian tà hay dua nịnh. Những người có lòng dạ không ngay thẳng hay a dua nịnh hót.

          Tà mị : Mị là ma quái. Tà mị chỉ Tà ma quỉ quái. Những gì thuộc về ma quái.

Câu 17: Đã nhiều lần, Đức Mẹ lo lắng, u sầu

Câu 18: Vì đám gian tà dua nịnh (cũng có thể hiểu bọn tà quái) dẫn dắt con cái yêu thương của Người vào con đường lầm lạc.

 

Đỉnh chung là miếng treo gương,

Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.

          Đỉnh chung : Hay chung đỉnh. Đỉnh là cái vạc, chung là cái chuông.

          Đời trước thức ăn các bậc phú quý đựng trong cái đỉnh, khi sắp ăn thì rung chuông báo hiệu. Nên chung đỉnh dùng để chỉ những nhà quyền quí, cao sang, khi ăn thì bày vạc và đánh chuông để gọi khách.

          Vương Bột có viết: “Chung minh đỉnh thực chi gia”.

          Miếng: Bã, mồi, món. Từ ngữ dùng để chỉ một đơn vị với ý nghĩa xem thường, xem khinh bỉ. Vị dụ như miếng vinh hoa phú quý, miếng đỉnh chung.

          Treo gương: Treo lên, nêu lên để làm gương.

          Trẻ dại: Đứa con trẻ còn thơ dại. Phật Mẫu lúc nào cũng coi chúng sinh là những đứa con trẻ khờ dại.

Câu 19: Miếng mồi giàu sang, danh lợi được nêu lên để làm một tấm gương cho chúng sanh.

Câu 20: Những đứa con khờ dại của Phật Mẫu đi lạc vào đường vật chất mà quên đi ngôi vị cũ của mình nơi cõi Thiêng Liêng.

 

Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,

Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.

          Ngọt ngon: Chỉ chung các thứ hấp dẫn của thể xác làm cho con người mê đấm.

          Nhiễm : Nhuốm, thấm sâu vào.

          Mến: Chuộng, ưa.

          Khúc nôi: Từng đoạn từng hồi mang nỗi niềm tâm sự thầm kín.

          Đoạn trường : Đứt từng đoạn ruột. Chỉ sự đau đớn, thảm khổ, khiến người ta đến tan ruột nát lòng.

          Sách Sưu Thần Hậu Ký có chép: Một người nọ bắt được một con khỉ con đem làm thịt. Khỉ mẹ trên cây nhảy nhót khóc lóc thảm thiết rồi từ trên cây rơi xuống chết. Mổ bụng ra xem thấy ruột đều đứt cả.

          Nghĩa bóng: Chỉ những việc rất đau đớn, rất thảm thiết.

Câu 21: Mùi vị ngọt ngon nơi cõi trần đã tiêm nhiễm, thấm sâu vào con cái của Đức Phật Mẫu.

Câu 22: Con cái đâu biết được những nỗi niềm thương thảm của Đức Mẹ.

 

Ngồi trông con đặng phi thường,

Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh.

          Ngồi trông: Ngồi mong mõi, ngồi chờ đợi.

          Do điển tích Ỷ môn , hay Ỷ lư , để chỉ người mẹ ngồi tựa cửa trông chờ con trở về. Xưa kia mẹ của Vương Tôn Giả rất yêu thương con, khi nào con ra đi khỏi nhà, thì bà sớm tối lúc nào cũng “ngồi tựa cửa trông con”: Ỷ lư nhi vọng .

          Phi thường : Không phải tầm thường.

          Thói thường, con người vì mê vọng nên thường ham muốn danh lợi, say mê tửu sắc, ưa thích mỹ vị cao lương... mà bị đắm chìm mãi trong đường luân hồi sanh tử. Vì vậy, Đức Phật Mẫu hằng thương xót cho đám con cái của Ngài, lúc nào Ngài cũng ngồi trông chờ nơi cõi thế gian, con cái của Ngài trở nên những bậc phi thường, tức là những người biết đường đạo đức, xa lìa danh lợi, khinh thường vật chất, phát tâm tu niệm, lập công bồi đức .v..v.hay lập được những công quả phi thường, tức là những công quả có lợi ích lớn lao cho vạn linh để Ngài có thể dìu dắt họ trở về cõi Thiêng liêng Hằng sống.

          Tận đường: Đến cuối con đường.

          Hằng sanh : Hằng sống, tức là sống mãi. Chỉ cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, tức là Công Giáo gọi Thiên đường hay nước Chúa, Phật giáo gọi Niết bàn hay Cực Lạc.

          Thế gian là cõi tạm, nên con người xuống như một khách trần, gởi thân để chờ ngày trở về cõi Thiêng Liêng, đó mới là cõi Hằng sống hay cõi Vĩnh hằng. Nên người ta thường nói “Sống gởi thác về”: Sinh ký tử qui .

Câu 23: Đức Mẹ hằng ngồi trông chờ con cái của Ngài trở nên những bậc phi thường nơi thế gian nầy.

Câu 24: Để Đức Phật Mẫu rước đem về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

 

Xưa con không thấu cội nhành,

Vì đường Đạo bế biệt cành hoa rơi.

          Không thấu: Không thấu hiểu, không biết rõ.

          Cội nhành: Gốc và nhánh của cây. Ý muốn nói đầu đuôi gốc ngọn. Đồng nghĩa với ngọn nguồn.

          Người xưa thường quan niệm người biết đạo lý, tu hành cần phải biết nguồn gốc hay cội nhành, Nho có câu: “Vật có gốc ngọn, việc có trước sau, nếu mình biết được gốc ngọn trước sau thì gần Đạo vậy”: Vật hữu bổn mạt, sự hữu chung thủy, tri sở tiền hậu, tắc cận Đạo hỹ , , , ). Câu này có ý dạy chúng ta phải biết nguồn gốc ơn nghĩa để ta lo đền đáp công ơn ấy.

          Đường Đạo bế: Đường Đạo bị đóng lại.

          Biệt cành hoa rơi: Lìa khỏi cành, hoa rơi xuống đất.

          Cành được ví như Phật Mẫu, con cái Ngài tựa như những bông hoa lìa khỏi cành mà rơi rụng khắp nơi.

Câu 25: Xưa kia, chúng con không hiểu thấu ngọn nguồn.

Câu 26: Vì Đạo bị bế nên chúng con như cánh hoa lìa khỏi cành (Lìa Mẹ) mà rơi rụng khắp nơi.

 

Từ con cách Mẹ phương trời,

Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.

          Từ con cách mẹ: Từ khi con xa cách mẹ.

          Phương trời: Khắp các phương trời, khắp nơi.

          Trầm luân : Chìm đắm.

          Khổ hải : Biển khổ. Đức Phật dùng để ví cảnh hết sức cực khổ.

          Kinh Lăng Nghiêm viết: Xuất ư khổ hải: Thoát ra khỏi biển khổ.

          Chơi vơi: Giữa biển mênh mông, không nơi bám víu.

          Sóng trần: Sóng trần gian. Đức Phật ví cõi trần gian như là một biển khổ mênh mông bát ngát. Con người sống ở cõi trần được coi như đang lặn hụp, chìm đắm trong biển khổ ấy, không biết đâu mà bám víu. Đạo tựa như con thuyền, chèo khắp mọi nơi trong biển khổ ấy mà cứu vớt những người đang bị những lượn sóng trần dồi dập, để đưa qua bên kia bờ giác ngộ.

Câu 27: Từ khi con xa cách Mẹ để lưu lạc khắp các phương trời.

Câu 28: Các con bị những lượn sóng trần dồi dập chìm đắm trong biển trần mênh mông khổ sở nầy.

 

Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,

Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.

          Nhắm mắt đưa chơn: Nhắm mắt mà bước chơn đi, không biết việc gì sẽ xảy tới.

          Giờ nay gặp lối: Ngày nay gặp được con đường Đạo.

          Nghiệt trần: Hay trần nghiệt , oan nghiệt nơi cõi trần, tức là những mầm độc ác nơi cõi trần.

          Giảm tiêu: Giảm bớt và tiêu tan.

Câu 29: Dù cho thương yêu các con, Mẹ cũng đành để duyên phần đưa đẩy các con.

Câu 30: Ngày nay các con gặp được con đường Đạo thì cái oan nghiệt của các con ở nơi trần này sẽ được giảm tiêu.

          Thật vậy, ngày nay chúng ta may duyên gặp được thời kỳ Đức Chí Tôn vì lòng thương xót tất cả chúng sanh, nhất là những chúng sanh có nhiều tội lỗi, mà giáng cơ khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và Đại Ân Xá cho chúng sanh, ban cho các bí tích như: Giải oan, tắm Thánh, làm phép xác… Thánh giáo có dạy: “Buổi lập Thánh đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không có tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy.

          Ấy vậy, các con rán độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui hơn hết”.

          Vào thời hạ nguơn mạt pháp, nhờ gặp thời kỳ ân xá và hưởng những bí tích thiêng liêng mà chúng sanh được tiêu trừ những oan khiên nghiệp chướng nơi cõi trần, để chơn linh nhẹ nhàng, trong sạch, hầu dễ dàng siêu thăng thoát hóa.

 

Ngọc Hư định phép cũng nhiều,

Phái Vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ.

          Ngọc Hư : Tức Ngọc Hư cung . Đây là nơi cung ngự của Đức Chí Tôn.

          Định phép: Sắp đặt phép tắc.

          Phái Vàng: Phái là lệnh, sai khiến, như phái viên . Vàng là chỉ sự tôn quí (Có lẽ do chữ kim phái ). Phái vàng có thể hiểu như là một sắc chỉ của Đức Chí Tôn.

          Đức Phật Mẫu có giáng cơ dạy Đạo tại Thảo Xá Hiền Cung, ngày 15-11-Tân Mùi bằng một bài thi, trong bài ấy có mấy câu như sau:

                          Ngọc Hư định đã nhiều phép cứu.

                          Thiếp từ đặng Phái vàng chí bửu,

                          Lịnh Chí Tôn khai mối Tam Kỳ,

                          Hằng ngày lo cho đám nữ nhi...

          Hai câu giữa của đoạn thi trên cho ta hiểu nghĩa như sau: Phật Mẫu kể từ khi đặng sắc chỉ rất tôn quí của Chí Tôn, trong ấy, lịnh truyền khai mối Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

          Như vậy, câu kinh: Phái vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ, có nghĩa là Đức Mẹ nhận lãnh sắc chỉ của Chí Tôn để dìu dắt đám trẻ thơ nơi cõi trần.

          Dắt dìu trẻ thơ: Dẫn dắt các con cái còn thơ dại.

          Phật Mẫu có công tạo hóa ra chúng sanh, cho chúng sanh học hỏi nơi trần gian để chơn linh được tiến bộ, nhưng tất cả con cái Ngài hầu hết vì tiền tài, danh lợi, sắc dục và vật chất làm mê đắm mà chìm sâu trong vòng sinh tử luân hồi. May nhờ Thiên thơ tiền định, Đạo Trời khai mở vào thời hạ nguơn mạt pháp, Đức Mẹ lại nhận lãnh lo giáo hóa để dìu dẫn hết thảy con cái của Ngài, kể cả 92 ức nguyên nhân đều được trở về ngôi xưa vị cũ.

Câu 31: Các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi Ngọc Hư Cung đã sắp đặt nhiều điều phép tắc và luật pháp.

Câu 32: Trong nền Đại Đạo, Đức Phật Mẫu nhận lãnh dìu dắt con cái của Ngài vào đường Đạo.

 

Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,

Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.

          Mịt mờ: Tối tăm, không nhìn thấu rõ.

          Con người sở dĩ không nhìn thấy rõ chân lý là bởi vô minh. Chính vô minh khiến con người mê mờ mà gây tạo ra nhiều nghiệp chướng, nên phải chịu chìm sâu trong luân hồi sanh tử.

          Hản: Chắc chắn. Ví dụ như hản thật, hản chắc.

          Ơn nhờ Mẫu Nghi: Nhờ ơn của Đức Mẹ.

Câu 33: Trước kia con cái của Phật Mẫu còn tối tăm mờ mịt, chưa hiểu biết chi hết.

Câu 34: Bắt đầu từ giờ đây con mới biết chắc chắn rằng nhờ ơn đức của Mẹ rất nhiều.

 

Đắc truyền khai mối Tam Kỳ,

Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương.

          Đắc truyền : Được lịnh truyền. Đây là lịnh của Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.

          Khai mối Tam Kỳ: Khai mở mối Đạo kỳ ba, tức là nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay gọi tắt là Đạo Cao Đài.

          Dưới tay cậy có: Dưới quyền Đức Phật Mẫu còn nhờ có.

          Diêu Trì Cửu Nương : Chín vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung. Gọi chung là Cửu Vị Tiên Nương . Theo Thánh giáo, dưới quyền Phật Mẫu có Cửu Vị Tiên Nương trông nôm về cơ giáo hóa cho vạn linh.

Câu 35: Được lịnh truyền của Chí Tôn, Đức Phật Mẫu mở ra mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Câu 36: Dưới quyền Phật Mẫu nhờ có Cửu Vị Tiên Nương.

 

Chín cô đã sẵn lòng thương,

Mê tân độ chúng bườm trương thoát vòng.

          Chín Cô: Chín vị Nữ Tiên, tức là Cửu Vị Tiên Nương Diêu Trì Cung.

          Đã sẵn lòng thương: Lòng từ bi đã có sẵn.

          Thật vậy, trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, Cửu Vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung dưới quyền Phật Mẫu, là những vị Tiên Nương có lòng từ bi, yêu thương chúng sanh, nên chẳng những sẵn sàng giáo hóa tất cả chúng sanh, mà còn lãnh nhiệm vụ giáo hóa các chơn hồn để được thăng tiến lên Cửu Trùng Thiên. Nhất là Thất Nương vì lòng từ bi, mà Bà nhận lãnh trách nhiệm cai quản và giáo hóa các Nữ hồn trong cõi Âm Quang, chờ ngày siêu thăng hay chuyển kiếp.

          Mê tân : là lầm lạc. Tân là bến. Lạc vào bến lạ không biết đường nào mà đi. Mạnh Hạo Nhiên: Đào nguyên hà xứ thị? Du tử chính mê tân (Đào nguyên đâu đấy nhỉ? Du tử lạc bến mê).

          Bến mê, chữ của nhà Phật, chỉ cảnh giới của chúng sanh còn sống trong vô minh mê lầm. Trái với Bờ giác hay Bến giác là cảnh giới của chúng sanh đã được giác ngộ.

          Muốn thoát khỏi bến mê để qua bên kia bờ giác, thì chúng sanh phải dùng trí tuệ như chiếc thuyền bát nhã mới  mong vượt qua biển luân hồi sinh tử để đưa đến bờ giác ngộ đặng.

          Độ chúng : Cứu giúp tất cả chúng sanh.

          Buồm trương: Trương cánh buồm trên thuyền để được bọc gió, thuyền trôi đi. Đạo là chiếc thuyền, lúc nào cũng căng buồm để đi cứu chúng sanh trong bể khổ. Vì thế, trong thi văn dạy Đạo thường hay dùng hình tượng cánh buồm để chỉ thuyền Đạo như:

                        Buồm trương lái vững chờ sông lệ,

                        Đưa chiếc thuyền sen  đến đảnh Thần.

          Hoặc:

                        Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,

                        Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.

          Thoát vòng: Thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.

Câu 37: Cửu Nương Diêu Trì Cung đã sẵn lòng từ bi, yêu thương chúng sanh.

Câu 38: Mà trương cánh buồm của chiếc thuyền Đạo nơi bến mê để chờ cứu vớt chúng sanh thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

 

Lục Nương phất phướn truy hồn,

Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.

          Lục Nương : Vị Tiên Nương đứng hàng thứ sáu trong Cửu Vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung.

          Phướn: Hay còn gọi là phan , tựa như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, trong lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống. Trong nền Đạo Cao Đài có nhiều loại phướn như: Phướn Thượng Sanh, phướn Thượng Phẩm, phướn Tiếp Dẫn, phướn Truy Hồn...

          Phướn Truy hồn: Còn gọi là phướn Tiêu Diêu, cây phướn do Lục Nương Diêu Trì Cung cầm để dẫn dắt các chơn hồn có căn duyên về cõi Tây Phương. Huệ Phong có bài thi nói về Lục Nương như sau:

                      Cô Lục Nương phướn Tiêu Diêu nắm,

                      Để truy hồn say  đắm biển mê.

                        Cõi Kim Thiên, Khổng tước kề,

                    Hữu căn tiếp dẫn hồn về Tây Phương.

          Tang thương : Ruộng dâu và biển xanh. Do câu Tang điền thương hải Ruộng dâu hóa ra biển xanh, rồi biển xanh hóa ruộng dâu. Theo Thần Tiên truyện: Tam thập niên vi nhất biến, thương hải vi tang điền , (Cứ ba mươi năm lại một lần thay đổi, biển cả hóa thành ruộng dâu). Ý chỉ cuộc đời thường biến đổi.

          Thơ Bà Huyện Thanh Quan có câu:

                        Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

                    Nước còn cau mặt với Tang thương.

          Bảo tồn : Giữ gìn cho còn mãi mãi.

          Chúng sanh : Hay chúng sinh (satta), Hán dịch âm là Tát đỏa, nghĩa là loài hữu tình, có sinh mạng, có sanh tử, tức là các loài như thảo mộc, thú cầm hay nhơn loại.

          Theo Phật, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tức là có sẵn mầm giác ngộ ở trong người và như vậy nên có thể thành Phật trong tương lai.

          Theo Cao Đài, mỗi chúng sinh là một tiểu linh quang của Đấng Chí Tôn, nên đều có Thiên tánh, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu: Thầy là các con, các con là Thầy.

Câu 39: Lục Nương Diêu Trì Cung cầm phướn truy hồn để dìu dẫn các chơn hồn hữu duyên về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Câu 40: Và trong cuộc đời tang thương này, Lục Nương còn phải bảo tồn cho chúng sanh.

 

Bát Nương thật đấng chí linh,

Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.

          Bát Nương : Vị Tiên Nương đứng hàng thứ tám trong Cửu Vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung.

          Đấng chí linh: Đấng rất thiêng liêng.

          Trong Cửu Vị Tiên Nương nơi cung Diêu Trì, chỉ có Bát Nương thường giáng cơ giáo hóa cho các môn đệ của Đức Chí Tôn, nhất là Nữ phái. Bà là vị Tiên Nương có tài văn chương xuất chúng, có thể nói Bà là một triết lý gia của Đạo Cao Đài, chính Bà đã giáng cơ cho bài “Phật Mẫu Chơn Kinh”. Một bài kinh gồm đủ mọi quan niệm: Quan niệm về Vũ trụ, quan niệm về nhân sinh, triết lý Tôn giáo, và con đường cứu rỗi của Cao Đài.

          Giáo hóa : Dạy dỗ để thành người tốt, người lương thiện.

          Ân cần : Uốn nắn theo ý kẻ khác, cảm tình khắn khít. Ý chỉ sự quan tâm tiếp đãi người một cách chu đáo.

Câu 41: Bát Nương Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương rất Thiêng liêng.

Câu 42: Bà rất ân cần lo lắng và thường giáng cơ để giáo hóa cho chúng sanh.

 

Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu,

Nhờ Người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi.

          Thất Nương : Vị Tiên Nương đứng hàng thứ bảy trong Cửu Vị Tiên Nương nơi Diêu Trì Cung.

          Khêu đuốc: Khơi lên ngọn đuốc. Ngọn đuốc được ví như nguồn Đạo. Ánh sáng ngọn đuốc xem như ánh sáng Đại Đạo soi sáng tâm linh của chúng sanh còn đang mê mờ, tăm tối.

          Đạo đầu: Đầu tiên của nền Đại Đạo.

          Trong thời hạ nguơn mạt pháp, cõi thế gian bị chìm trong cảnh tăm tối của thiên tai, của bệnh tật, của khổ não, Thất Nương Diêu Trì Cung đắc lịnh của Đức Phật Mẫu khơi lên ngọn đuốc Đại Đạo cho cháy bùng để ánh sáng xóa tan màn tăm tối, hầu dẫn dắt chúng sanh thoát cảnh mịt mờ, đi theo nẻo chánh đường chơn mà trở về với ngôi xưa vị cũ.

          Thật vậy, Thất Nương đúng là người khêu lên ngọn đuốc để khai mở nền Đại Đạo. Theo lịch sử xây bàn, Thất Nương là vị Tiên Nương đầu tiên giáng bàn, mượn danh Đoàn Ngọc Quế, lấy văn chương thi phú để dìu dẫn các vị phò loan như Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang vào đường Đạo, rồi sau đó các vị ấy trở thành những vị Tiền khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức Đạo Cao Đài ngày nay.

          Nhờ Người: Nhờ nơi Thất Nương.

          Gợi ánh nhiệm mầu huyền vi: Khơi lên ánh sáng nhiệm mầu, huyền vi, tức là ánh sáng của nền Đại Đạo.

          Ánh sáng huyền vi mầu nhiệm tức là ánh sáng của cây đuốc “Đại Đạo” vậy.

Câu 43: Thất Nương là vị Tiên Nương khơi sáng lên ngọn đuốc Đại Đạo đầu tiên.

Câu 44: Chính nhờ Thất Nương khơi lên ánh sáng của mối Đạo huyền vi mầu nhiệm.

 

Môn sanh thiện niệm hằng ngày,

Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương.

          Môn sanh : Học trò. Khi nhập môn vào nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tất cả tín đồ đều là học trò trong cửa Đại Đạo, hay nói cách khác, là đệ tử hay môn sinh của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu.

          Thiện niệm : Tưởng nghĩ đến điều lành.

          Thiện niệm hằng ngày: Hằng ngày đều nghĩ đến điều thiện. Chính Trang Tử cũng có dạy rằng: Nếu một ngày không nghĩ đến điều lành thì mọi sự ác đều dấy lên ( Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi , ).

          Cúi xin Kim Mẫu: Cúi lạy xin Đức Diêu Trì Kim Mẫu.

          Muôn loài: Hay muôn vật do chữ vạn vật , tức là các vật như kim thạch, thảo mộc, thú cầm và nhơn loại.

          Cứu ương : Cứu giúp để thoát khỏi các tai ương.

Câu 45: Các con là đệ tử của Cao Đài Ngọc Đế hằng ngày thường tưởng niệm đến điều lành.

Câu 46: Cúi lạy xin Đức Phật Mẫu cứu giúp cho muôn vật thoát khỏi tai ương.

 

Đê đầu khấu bái Nương Nương,

Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.

          Đê đầu : Đầu cúi thấp, cúi đầu.

          Khấu bái : Cúi lạy.

          Nương Nương : Tiếng tôn xưng Đức Phật Mẫu.

        Nén hương: Nén nhang.

          Đạm bạc : Lạc lẽo đơn sơ.

Câu 47: Cúi đầu và kính lạy Đức Phật Mẫu.

Câu 48: Nén nhang thơm đạm bạc kính xin Đức Phật Mẫu thương tình chứng cho tấm lòng thành của con.

 

Nam Mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu

Nam Mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu Vị Nữ Phật

          Tạo Hóa Huyền Thiên : Tầng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu, nơi có Cung Diêu Trì là chỗ ngự của Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương.

          Cửu Vị Nữ Phật : Tức là Cửu Vị Tiên Nương. Chín vị Tiên Nương này có nhiều công nghiệp trong thời khai Đạo và có công giáo hóa chúng sanh nên được đắc hàng Phật vị.

 

III/ GIẢI NGHĨA:

 

          Câu 1: Kể từ thời hỗn độn trước lúc mới mở Trời đất.

          Câu 2: Đức Chí Tôn ngự nơi Linh Tiêu Điện, Ngọc Hư Cung truyền ban lệnh xuống.

          Câu 3: Khí Hư vô sinh Thái Cực, Thái Cực mới phân ra Lưỡng Nghi, tức khí Âm quang và Dương quang.

          Câu 4: Đức Phật Mẫu đem khí Âm quang phối hợp với khí Dương quang để đào tạo ra vạn vật.

          Câu 5: Phật Mẫu dùng hai khí Dương quang và Âm quang để tạo ra Đệ nhị xác thân, tức Chơn Thần.

          Câu 6: Phật Mẫu lo cho loài người và loài vật về phần hình thể.

          Câu 7: Chính mình Phật Mẫu lo nuôi dưỡng con cái từ lúc sơ sinh cho  đến lúc trưởng thành.

          Câu 8: Với tấm lòng công bình, ưu ái, Phật Mẫu đùm bọc nuôi dưỡng con cái của Ngài.

          Câu 9: Người và vật đều do Phật Mẫu tạo ra nên xét thấy cùng một lẽ như nhau.

          Câu 10: Phật Mẫu luôn luôn chắt chiu chăm sóc chúng sanh với trọn tấm lòng thương yêu, quí trọng.

          Câu 11: Phật Mẫu mong muốn cho hai khí âm dương hòa hiệp một cách tốt đẹp với nhau.

          Câu 12: Thuận theo lẽ Âm Dương hòa hiệp mà chúng sanh trên đường tiến hóa một cách chơn thật.

          Câu 13: Đức Phật Mẫu luôn luôn lúc nào cũng giữ một lòng...

          Câu 14: Lo lắng cho tất cả con cái của Ngài có được mảnh thân vẹn toàn.

          Câu 15: Đức Phật Mẫu yêu thương con cái một cách đặc biệt nên thường khóc thầm

          Câu 16: Bởi vì Ngài thấy con cái bị lạc lầm trong biển trần khổ sở bao nhiêu lâu nay.

          Câu 17: Đã nhiều lần, Đức Mẹ lo lắng, u sầu

          Câu 18: Vì đám gian tà dua nịnh (Hoặc những yêu tà) dẫn dắt con cái yêu thương của Ngài vào con đường lầm lạc.

          Câu 19: Miếng mồi giàu sang, danh lợi được nêu lên để làm một tấm gương cho

          Câu 20: Những đứa con khờ dại của Phật Mẫu đi lạc vào đường vật chất mà quên đi ngôi vị cũ của mình nơi cõi Thiêng Liêng.

          Câu 21: Mùi vị ngọt ngon nơi cõi trần đã tiêm nhiễm, thấm sâu vào con cái của Đức Phật Mẫu.

          Câu 22: Con cái đâu biết được những nỗi niềm thương thảm của Đức Mẹ.

          Câu 23: Đức Mẹ hằng ngồi trông chờ con cái của Ngài trở nên những bậc phi thường nơi thế gian nầy.

          Câu 24: Để Đức Phật Mẫu rước đem về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

          Câu 25: Xưa kia, chúng con không hiểu thấu ngọn nguồn.

          Câu 26: Vì Đạo bị bế nên chúng con như cánh hoa lìa khỏi Mẹ mà rơi rụng khắp nơi.

          Câu 27: Từ khi con xa cách Mẹ để lưu lạc khắp các phương trời.

          Câu 28: Các con bị những lượn sóng trần dồi dập chìm đắm trong biển trần mênh mông khổ sở nầy.

          Câu 29: Dù cho thương yêu các con, Mẹ cũng đành để duyên phần đưa đẩy các con.

          Câu 30: Ngày nay các con gặp được con đường Đạo thì cái oan nghịệt của các con ở nơi trần này sẽ được giảm tiêu.

          Câu 31: Các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi Ngọc Hư Cung đã sắp đặt nhiều điều phép tắc và luật pháp.

          Câu 32: Trong nền Đại Đạo, Đức Phật Mẫu nhận lãnh dìu dắt con cái của Ngài vào đường Đạo

          Câu 33: Trước kia con cái của Phật Mẫu còn tối tăm mờ mịt, chưa hiểu biết chi hết.

          Câu 34: Bắt đầu từ giờ đây mới biết chắc chắn rằng nhờ ơn Đức Mẹ rẩt nhiều.

          Câu 35: Được lịnh truyền của Chí Tôn, Đức Phật Mẫu mở ra mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

          Câu 36: Dưới quyền Phật Mẫu nhờ có Cửu Vị Tiên Nương.

          Câu 37: Cửu Nương Diêu Trì Cung đã sẵn lòng từ bi, yêu thương chúng sanh.

          Câu 38: Mà trương cánh buồm của chiếc thuyền Đạo nơi bến mê để chờ cứu vớt chúng sanh thoát khỏi luân hồi sinh tử.

          Câu 39: Lục Nương Diêu Trì Cung cầm phướn truy hồn để dìu dẫn các chơn hồn hữu duyên về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

          Câu 40: Và trong cuộc đời tang thương này, Lục Nương còn phải bảo tồn cho chúng sanh.

          Câu 41: Bát Nương  Diêu Trì Cung là vị Tiên Nương rất Thiêng liêng.

          Câu 42: Bà rất ân cần lo lắng và thường giáng cơ để giáo hóa cho chúng sanh.

          Câu 43: Thất Nương là vị Tiên Nương khêu lên ngọn đuốc Đại Đạo đầu tiên.

          Câu 44: Chính nhờ Thất Nương khơi lên ánh sáng của mối Đạo huyền vi mầu nhiệm.

          Câu 45: Các con là đệ tử của Cao Đài Ngọc Đế hằng ngày thường tưởng niệm đến điều lành.

          Câu 46: Cúi lạy xin Đức Phật Mẫu cứu giúp cho muôn vật thoát khỏi tai ương.

          Câu 47: Cúi đầu và kính lạy Đức Phật Mẫu.

          Câu 48: Nén nhang thơm đạm bạc kính xin Đức Phật Mẫu thương tình chứng cho tấm lòng thành của con

         

Hai câu niệm:

          Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu nơi tầng Tạo Hóa Thiên huyền diệu.

            Nam Mô Cửu Vị Nữ Phật nơi tầng Tạo Hóa Thiên huyền diệu

Tiếp theo >

Top of Page

      HOME