CHÚ GIẢI KINH TẬN ĐỘ
THIÊN VÂN Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒACHƯƠNG THỨ TƯ
KINH KHI ĐÃ CHẾT RỒI
I.-KINH VĂN:
Kinh Khi Đã chết Rồi
Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.
Quê xưa trở, cõi đọa từ,
Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.
Dưới chín lớp liên thần đưa bước,
Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.
Linh Tiêu Điện, bảng danh nêu,
Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.
Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điễn chiếu,
Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh.
Năng lai năng khứ khinh khinh,
Mau như điển chiếu nhẹ thành bóng mây.
Cửa Tây Phương khá bay đến chốn,
Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu,
Tiên phong Phật cốt mỹ miều,
Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.
NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:
Kinh “Khi Đã Chết Rồi” do Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho chúng sanh trong thời Tam Kỳ Phổ Độ, dùng để tụng khi một vị Chức sắc hay Tín đồ đã qui liễu. Bài Kinh này còn tụng kèm sau Bài Kinh Cầu Siêu để cầu siêu cho vong hồn người chết, vì Hội Thánh sợ e cho vong hồn hoặc người không tu mới được độ hồn, hoặc Đạo Hữu phạm thệ mà đi xuống cõi Phong đô, nên trước phải tụng Bài Kinh Cầu Siêu, hầu cho vong hồn hồi dương đặng rồi, thì tụng tiếp Bài Kinh Khi Đã Chết Rồi đặng vong hồn hưởng phép siêu thăng tịnh độ. Tụng ba lần như vậy.
III.-CHÚ GIẢI:
Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,
Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.
Thiên Tào 天 曹: Như chữ Thiên Đình (Theo Từ Điển Việt Hán của Đào Duy Anh).
Ba mươi sáu cõi Thiên Tào là ba mươi sáu từng Trời, còn gọi là Tam thập lục Thiên.
Nhập 入: Đi vào.
Bát Quái 八 卦: Tức Bát Quái Đài nơi cõi Thiêng Liêng.
Trong bài thuyết đạo về Thiêng Liêng Hằng Sống vào đêm 8 tháng 9 Năm Mậu Tý (10-10-1948), Đức Hộ Pháp có mô tả Bát Quái Đài ấy như sau: “Đài ấy có tám góc kêu là Bát Quái Đài không thể gì chúng ta tả ra với lời nói đặng. Bởi đài ấy huyền bí biến hóa vô cùng; nó có tám cửa, trong tám cửa chúng ta ngó thấy cả vạn linh và vật loại; các hình thể vạn linh đều xuất hiện, hình ảnh sáng suốt hiện hào quang chiếu diệu. Trong tám góc có tám cái cầu. Lạ thay cầu ấy không phải bằng cây ván, mà nó là tám đạo hào quang, cầu ấy bắt ngang bờ. Dưới cầu ấy chúng ta ngó thấy dường như một Bích Hải nước xao, sóng dợn như biển sôi nổi đó vậy. Trong tám góc chúng ta thấy đó, chắc cả thảy đều để ý nơi góc ta đến, thấy nhơn loại đi tới đi lui nhiều hơn hết. Lạ thay! Cầu ấy rất huyền diệu, ai đứng đó được mới biết mình nhập vô Bát Quái Đài”.
Ngọc Hư Cung 玉 虛 宮: Cung của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Câu 1: Ở trên là ba mươi sáu cõi Thiên Tào hay còn gọi là Tam thập lục Thiên.
Câu 2: Vào trong Bát Quái rồi mới được đến Ngọc Hư Cung.
Các Chơn linh phải đi một vòng luân hồi chuyển kiếp, từ vật chất hồn cho đến nhơn hồn. Nhơn hồn còn phải tu nhiều kiếp để được tiến hóa từ Thất Thập Nhị Địa, Tam Thiên Thế Giới, đến Tứ Đại Bộ Châu rồi mới vào được Tam Thập Lục Thiên (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào hay 36 từng Trời). Đến được Tam Thập Lục thiên rồi còn phải tiếp tục nhiều kiếp tu nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc Kinh để nhập Bát Quái mà vào Ngọc Hư Cung.
Quê xưa trở, cõi đọa từ,
Đoạt cơ thoát tục bấy chừ tuyệt luân.
Quê xưa: Quê hương của con người đã được sinh ra lớn lên, và sanh sống nơi ấy. Nơi đây, còn được gọi là nơi chôn nhao cắt rốn, hay quê cha đất tổ. Đây là quê hương của hình hài xác thịt.
Còn quê xưa, theo ý nghĩa Kinh, đó là quê hương của Chơn linh, nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Như chúng ta đã biết, mỗi chúng sanh ở thế gian này là một Tiểu linh quang được chiết ra từ khối Đại linh quang của Đức Chí Tôn. Vì vô minh, nên chúng sanh phải chịu sự luân hồi sanh tử nơi cõi trần này. Nếu biết giác ngộ tu hành thì Chơn linh sẽ nhẹ nhàng thoát xác để trở về với Thượng Đế, đó là quê xưa cảnh cũ, hay quê hương đích thực của Chơn linh chúng ta.
Trở: Trở về, trở lại.
Cõi đọa: Còn gọi là đọa cảnh 墮 境: Nơi bị đọa. Ở đây chỉ cõi trần gian của con người, vì nơi này là cõi thấp kém, tối tăm, chứa đầy những tội lỗi, ô trược, và khổ não...Cõi đọa là nơi để trừng phạt những linh hồn có tội hay các bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi thì bị đọa xuống cõi trần để lập công chuộc tội.
Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả phải mất cả Chơn linh là luân hồi”.
Từ 辭: Từ bỏ, từ biệt.
Đoạt cơ thoát tục 奪 機 脫 俗: Đoạt được cơ mầu để giải thoát khỏi cảnh trần tục.
Bấy chừ: Bấy giờ.
Tuyệt luân 絕 輪: Dứt hẳn luân hồi.
Chúng sanh sở dĩ mãi chịu trôi nổi trong biển khổ luân hồi, không bao giờ dừng nghỉ, là do bởi nghiệp lực. Nghiệp lực là động cơ lôi kéo con người chìm đắm vào con đường xoay chuyển của vòng sanh tử. Muốn dứt luân hồi phải đoạt cơ thoát tục, nghĩa là tìm nguyên nhân để giải thoát những quả nghiệp sâu nặng. Như trên ta biết, chúng sanh do bởi vô minh che mất chân tánh, bị dục vọng phiền não sai khiến, tạo ra muôn ngàn ác nghiệp, vì đó mà phải luân hồi. Cơ giải thoát là trí huệ sáng suốt, tức là giác ngộ, để dứt trừ mê lầm, vô minh, phiền não, và khổ đau trói buộc. Nhờ có trí huệ chúng ta mới nhận thức việc tu và hành động đúng theo chơn pháp mà đắc Đạo.
Dưới chín lớp liên thần đưa bước,
Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.
Dưới chín lớp: Dưới chín từng trời, hay là dưới Cửu Trùng Thiên.
Liên thần 蓮 神: Bông sen Thiêng Liêng mầu nhiệm, bông sen Thần. Khi người được đắc đạo thì bông sen Thần sẽ đưa Chơn linh đi qua Cửu Trùng Thiên.
Đưa bước: Đưa bước chân đi.
Hồng quang 洪 光: Vùng ánh sáng to lớn.
Phủ: Bao phủ xuống, bao trùm xuống.
Phước: Hay phúc 福: Điều phước đức, điều may mắn, tốt lành.
Tiêu diêu 逍 遙: Hay tiêu dao, nghĩa thong thả đi đây đi đó, không bị bó buộc, thảnh thơi nhàn hạ.
Câu 5: Dưới Cửu Trùng Thiên, Chơn linh đắc đạo được bông sen thần (sen mầu nhiệm) đưa bước về cõi Thiêng Liêng.
Câu 6: Trên thì có vùng ánh sáng rộng lớn bao phủ phước đức cho Chơn linh được thảnh thơi nhàn hạ.
Dứt được nghiệp trần, Chơn linh người tu lúc ấy được nhẹ nhàng dường như bay bổng, nên đi qua các từng Thiên đều được sen Thần đưa bước chân đi. Trên thì có ánh sáng diệu huyền của Chí Tôn ban cho Chơn linh được hưởng những hồng phước trong cảnh tiêu diêu tự tại.
Linh Tiêu Điện, bảng danh nêu,
Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.
LinhTiêu Địen 靈 霄 殿: Là một Điện ở trong Cung Ngọc Hư nơi cõi Thiêng Liêng. Đây là nơi Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế họp chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Bảng danh: Hay Danh bảng 名 榜: Tấm bảng đề tên họ những người đắc đạo.
Nêu: Nêu tên họ, niêm yết tên họ.
Nguyên căn 元 根: Những bậc nguyên nhân, tức là những bậc được sinh ra đầu tiên, từ lúc khai thiên lập địa.
Mỹ miều: Xinh tươi, đẹp đẽ.
Cao thăng 高 升: Siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Câu 7: Ở nơi Linh Tiêu Điện, người đắc đạo được nêu tên họ lên bảng.
Câu 8: Những bậc nguyên nhân cao thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, có hình dáng đẹp đẽ mỹ miều.
Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điễn chiếu,
Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh.
Kinh Bạch Ngọc: Hay Bạch Ngọc Kinh 白 玉 京: Một tòa Thiên các nguy nga, làm toàn ngọc màu trắng, nơi ngự của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Muôn lằn điễn chiếu: Muôn làn sóng điện, tức là những tia sáng hào quang phát ra rực rỡ.
Chiếu 照: Rọi sáng, phát sáng.
Chơn hồn vịn níu Chơn linh: Câu kinh này có lẽ muốn nói Chơn thần nắm giữ Chơn linh, tức là Đệ nhị xác thân hay xác thân Thiêng liêng (Do Phật Mẫu ban cho) trì níu Chơn linh. Nếu người nhiều nghiệp quả thì Chơn thần là một khí thể sẽ trọng trược, thuộc âm, do đó Chơn linh sẽ bị trì níu, không thể vào Bạch Ngọc Kinh, là nơi có nhiều điễn quang chiếu sáng, thuộc dương; còn nếu một người tu đắc đạo thì Chơn thần sẽ khinh thanh, lúc ấy sẽ vịn theo Chơn linh mà bay thẳng vào Kinh Bạch Ngọc.
Câu 9: Bạch Ngọc Kinh chiếu tỏa ra muôn lằn điễn quang sáng chói.
Câu 10: Kêu Chơn thần hãy vịn theo Chơn linh nhẹ nhàng bay lên.
Năng lai năng khứ khinh khinh,
Mau như điễn chiếu nhẹ thành bóng mây.
Năng lai năng khứ 能 來 能 去: Có thể đến và có thể đi.
Khinh khinh 輕 輕: Nhẹ nhàng.
Mau như điễn chiếu: Nhanh như lằn điễn chiếu ra.
Nhẹ thành bóng mây: Nhẹ nhàng như đám mây bay.
Câu 11: Chơn linh nhẹ nhàng có thể đến và có thể đi.
Câu 12: Mau lẹ như lằn sóng điễn chiếu và nhẹ nhàng như đám mây bay.
Cửa Tây Phương khá bay đến chốn,
Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu,
Cửa Tây Phương: Tức là cửa Tây Phương Cực Lạc 西 方 極 樂: Hay Tây Phương Tịnh Độ là một cõi tịnh độ ở Tây Phương do Phật A Di Đà giáo hóa. Cõi này còn được gọi là An Lạc Quốc, vì nơi đây hoàn toàn trong sạch, đẹp đẽ,an vui và hạnh phúc.
Khá: Nên, hãy.
Diệt 滅: Làm mất đi, trừ bỏ.
Trần tình 塵 情: Tình cảm của con người ở cõi trần.
Theo Phật, trần là cõi uế trược, nên những thứ tình cảm của con người đối xử với nhau nơi cõi ấy cũng xấu xa ô trược. Người ta chia tình cảm con người ra làm bảy thứ, gọi là Thất tình. Đó là :Hỷ (mừng), Nộ (giận), Ái (yêu), Ố (ghét), Ai (buồn), Lạc (vui) và Dục (muốn).
Vui hưởng tiêu diêu: Vui vẻ mà hưởng thụ những thú thảnh thơi nhàn hạ.
Câu 13: Cửa Tây Phương Cực Lạc hãy bay đến nơi đến chốn.
Câu 14: Diệt trừ hết những thứ tình cảm xấu xa nơi cõi trần, mà vui hưởng tiêu diêu, thảnh thơi nhàn hạ.
Tiên phong Phật cốt mỹ miều,
Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.
Tiên phong Phật cốt 仙 風 佛 骨: Hình vóc như Tiên, Cốt cách như Phật.
Mỹ miều: Xinh đẹp.
Vào Kinh Bạch Ngọc: Vào Bạch Ngọc Kinh.
Lễ triều Chí Linh 禮 朝 至 靈: Chầu lễ Đấng Chí Linh.
Câu 15: Hình vóc như Tiên, cốt cách như Phật, thật là xinh đẹp.
Câu 16: Vào chầu lạy Đức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh.