|
MỤC LỤCLời nói dẫn+ Phần Thứ Nhất CÁC CỔ PHÁP ÐẠO CAO ĐÀI + Phần Thứ Hai CÁC CỔ THƯ TAM GIÁO Lời kết |
Cổ pháp trong Đạo chia làm đôi : Cổ pháp Hộ Pháp và Cổ pháp Giáo Tông. Cổ pháp Hộ Pháp : lấy biểu tượng Tam giáo bên Cửu Trùng Đài : Bình bát vu (Phật), Phất chủ ( Tiên) và Xuân Thu ( Nho).
Cổ pháp Giáo Tông : lấy biểu tượng đặc trưng của Đạo Cao Đài bên Hiệp Thiên Đài : Long Tu Phiến của Thượng Phẩm, Phất chủ và Thư Hùng Kiếm của Thượng Sanh. Vì sao vậy ? Đó là Bí pháp.
Các cổ thư Tam Giáo : Theo phiên họp tại khảo cứu vụ ngày 24-3-1974 đã quyết định :
- Lão giáo chọn sách ÐẠO ĐỨC KINH vì trong bài kinh " Tiên giáo" có câu
- Phật giáo chọn sách " Pháp Bảo Đàn Kinh" vì trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển nhắc tới Đức Lục Tổ Huệ Năng và trong Kinh " Thích giáo" có câu :
PHẦN THỨ NHỨT
Để giúp đỡ người tự học và tìm học của một số tín đồ trẻ, nhất là của những người ngoại Đạo, chúng tôi cố gắng giải thích về Cổ Pháp của Đạo Cao Đài, hầu góp phần trong muôn một vào việc xây dựng nền Đạo Pháp.
Cổ Pháp có hai nghĩa :
1-Cổ Pháp là Pháp luật xưa (Xem "Lịch Sử Luật
Pháp" , của Vũ Văn Mẫu)
2- Cổ Pháp là bí pháp xưa của các Tôn giáo. Ở đây ta phải hiểu theo nghĩa tổng hợp, dùng bí pháp xưa của các Tôn giáo là để biểu tượng chánh pháp ngày nay và nhất giữ luật lệ theo Tam giáo.
Theo Tân Luật Pháp Chánh Truyền có ba Cổ Pháp của Tam giáo là : Bình Bát Vu, Cây Phất Chủ và Bộ Xuân Thu (xem Pháp Chánh Truyền, Paris, Gasnier, 1952)thường gọi là Cổ Pháp Hộ Pháp. Cổ Pháp của Thượng Phẩm là Long Tu Phiến và Cổ Pháp của Thượng Sanh là Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ (xem Pháp Chánh Truyền, Paris, Gasnier, 1952), gọp chung các Cổ Pháp Thượng Phẩm, Thượng Sanh gọi là Cổ Pháp Giáo Tông.
1- Long Tu Phiến : Long Tu là râu rồng, Phiến là quạt tức quạt râu rồng, nhưng thật sự chỉ làm bằng 36 lông cò trắng kết thành. Về Bí pháp thì Đức Cao Thượng Phẩm giải thích như vầy :
2- Phất chủ : Phất chủ hay phất trần là cây chổi quét sạch bụi trần gian, vốn của Thái Thượng Lão Quân.
Phất chủ là điển khí của Thất Bửu Diêu Trì Cung kết hợp dùng để sửa trau chơn thần trở nên thanh khiết (Bà Đầu Sư Hương Hiếu, Đạo Sử Xây Bàn, 1967). Nếu xét theo từ nguyên : Phất là quét, chủ là con chủ. Phất chủ là cây chổi quét làm bằng lông đuôi con chủ. Một loài thú họ nai, hình vóc như con hươu mà lớn hơn. Thường con chủ đi trước, đàn hươu theo sau. Vì đuôi nó dài chấm đất nên đi đến đâu nó quét bụi đến đó. Vì thế, các vị Tiên thường dùng lông đuôi con chủ làm phất trần ( quét bụi trần), một bửu bối của Thái Thượng Lão Quân, giáo chủ Lão giáo.
3- Thư hùng kiếm : Thư hùng kiếm gồm hai cây : gươm thư (mái) và gươm Hùng (trống) trong Nữ Trung Tùng Phận có câu:
Điều đó chứng tỏ Gươm này trị thế. Theo văn thư số 264-TQTS của Ngài Bảo Thế. Chưởng Quản Ban Thế Đạo có thích nghĩa Thư Hùng Kiếm là gươm Thần Huệ nghiêm trị xảo trá, khử trừ tà mị.
Theo Thánh Giáo dạy thì Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung ngươn linh là Lý Ngưng Dương, Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư ngươn linh là Hớn Chung Ly (tên Quyền) và Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang ngươn linh là Lữ Đồng Tân (Thông tin Cao Đài Xuân Tân Hợi, 1971).
Theo lịch sử Bát Tiên, Lý Ngưng Dương là học trò của lão Tử ( tên Lý Nhĩ) mà Lão Tử vốn là ngươn linh Thái Thượng Lão Quân nhặt giữ Phất chủ. Vì muốn cho Lý Ngưng Dương học Đạo Tiên nên Lão Tử xui khiến cho học trò của Lý Ngưng Dương đốt xác thầy, khi trở lại trần gian, Lý Ngưng Dương phải nhập vào xác của 1 người ăn mày có bầu rượu và gậy tre. Đức Lý Ngưng Dương mới biến hai vật ấy thành bầu hồ lô và gậy sắt và trở thành hai Bửu tháp. Hai Bửu tháp này đắp trên nóc lầu chuông và lầu trống.
Lý Ngưng Dương thành Tiên thứ nhất nơi Bồng Lai đảo vì Bồng Lai có 8 động nên cần 8 Tiên chủ sự. Do đó, mà Lý Ngưng Dương độ được học trò là Chung Ly Quyền đời Hớn nên gọi là Hớn Chung Ly. Hớn Chung Ly thường dùng Long Tu Phiến và sau độ được học trò là Lữ Đồng Tân, Lữ Đồng Tân vốn người tài hoa, Hớn Chung Ly ( tự Vân Phòng) phải làm phép huỳnh lương (nấu bắp) cho Lữ Đồng Tân nằm chiêm bao thấy vía đi thi, đỗ Trạng, cưới vợ giàu rồi bị vu oan, giựt mình tỉnh mộng mới chịu đi tu Tiên.
Bình thời Lữ Đồng Tân thổi tiêu, nhưng thường dùng Thư Hùng Kiếm để trừ gian trá như việc quăng gươm pháp giết hai con của Long Vương khi Ma Yết ăn cắp Ngọc Bảng của Lam Thể Hòa ( ngươn linh của Ngài Phối sư Thái Bính Thanh ) (Lời xác nhận của Ngài Khai Pháp, chiều mùng 2 Tết Giáp Dần). Đức Hộ Pháp nhấn mạnh rằng đó chỉ là thể pháp có giới hạn để tượng trưng cái Bí pháp vô cùng .(Đại Đạo Bí Sử)
Người Đạo nên xem đó là những biểu tượng, là cái móc mà con người nhắm để đạt đến hoặc tránh xa chớ không nên xem là cứu cánh. Ai trong chúng ta đã thấy Dạ Xoa hay qủi sứ hoặc Satan. Nhưng khi cần nói cái xấu thì người ta cho rằng xấu như dạ xoa, dữ như quỉ sứ, ác như Satan, ta liền thấy ngay cái xấu, sự dữ, sự ác đến cùng tột.
Tắt một lời, Cổ Pháp Giáo Tông đã thể hiện đầy đủ chủ thuyết " Đạo Đời tương đắc" về bí pháp cũng như Thể pháp.
1- Bình Bát Vu : Bình Bát Vu là Cổ Pháp của Phật giáo, cái bình của Khất Sĩ Tịnh độ tông, là y bát Chánh Truyền của Ngũ Tổ tức Hoàng Nhẫn Sư Tổ (Đại Đạo Sử Cương, Quyển 2)
" Phật học từ điển" có kể chuyện một vị Đạo nhơn già tên Tài Tùng đến Cầu Đạo nơi Ngài Tứ Tổ Đạo Tín Thiền Sư. Nhưng vì Tài Tùng già nên Tứ Tổ không dạy Đạo mà phải thực hiện chữ nhẫn đầu thai kiếp sau. Tài Tùng bèn đến ngủ nhờ nhà con gái người họ Châu khiến nàng này thọ thai hoang, nên bị cha mẹ đuổi đi. Nàng nhẫn nhịn chịu khổ sau sinh một trai. Lúc đứa nhỏ 7 tuổi, hai mẹ con đi xin ăn, gặp Tứ Tổ gọi đứa nhỏ là "vô tánh nhi" đứa nhỏ đáp là " Ngã Phật tánh" ( Tôi họ Phật). Nhờ đó, Tứ Tổ nhớ lời hứa xưa mà xin đứa trẻ về nuôi đặt tên là Hoằng Nhẫn và truyền y trang, Bát Vu cho đặng làm tổ thứ năm ( Ngũ Tổ). Đời Đường Cao Tông (661), Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát cho Lục Tổ Huệ Năng, ba năm sau thì tịch (663). (Đoàn Trung Cồn, Phật Học Từ Điển, tập II , 1967)
Theo " Pháp bảo Đàn Kinh" Huệ Năng sinh vào đời Đường Thái Tông (638) năm 24 tuổi ngộ Đạo đến trụ trì tại chùa Bảo Lâm (Trung Hoa) được Ngũ Tổ truyền y bát để làm Lục Tổ theo Đông Độ ( còn theo các Tổ Sư thì Huệ Năng là Tổ thứ 33). Khi mang Bình Bát Vu đi khất thực là để xin cái Pháp, cái Đạo để nuôi lấy cái huệ mạng. Việc khất thực do Phâït truyền cho chư đệ tử xuất gia là thực hiện Đạo trung thứ để diệt hai điều thái quá là : tránh xa sung sướng thái quá và khổ hạnh thái quá. Theo " Kinh An Lạc" việc khất thực của Phật đem lại 10 điều lợi ích cho nhân sanh: dứt khổ, đặng vui, dứt kiêu ngạo, nguyện đầy bát, cúng thí phân phát; những chúng sanh bị ngăn ngại thì đặng gặp Phật, năng tri bát, làm nghi thức cho chúng sanh, dứt sự chê bai, trừ sự tham ái.
2- Phất chủ : là Bửu Tháp của Lão giáo, còn gọi là Phất trần, kết bằng lông đuôi hươu.
Về ý nghĩa xin xem ở trên.
3- Kinh Xuân Thu : là Cổ Pháp của Khổng giáo.
1- THỜI ÐẠI XUÂN THU :
Thời Đại Xuân Thu (722- 480 trước Tây lịch) khởi thủy từ khi nhà Châu lên ngôi Thiên Tử. Đây là chế độ phong kiến, chia thiên hạ ra 70 nước để phong thưởng cho các công hầu, hoàng tộc làm chư hầu. Các nước chư hầu thời đó đều được quyền tự chủ. Tuy nhiên hằng năm phải triều cống phẩm vật cho Thiên tử nhà Châu. Thêm vào đó khi có chinh phạt nước nào, thì phải theo lệnh Thiên tử đem quân đi tòng chinh. Các nước chư hầu lớn thì độ bằng hai tỉnh ở nước ta, còn nhỏ thì bằng một vài quận. Vì nước Trung Hoa thuở ấy ở quanh vùng sông Hoàng Hà.
Từ khi nhà Châu suy vong dời đô về miền đông xứ Lạc Ấp lệnh của Thiên tử không còn ai theo. Các chư hầu lại nảy nở thêm 160 nước. Thế nên chiến tranh dành đất, dành nhân dân ngày càng khốc liệt, cương thường đạo lý suy vi, nhân dân đồ thán. Các nước Tấn, Tề, Tống, Tần, Sở, Ngô, Việt ….. xưng bá rồi nước này xâm chiếm nước kia. Thiên tử nhà Châu không đủ quyền lực ngăn cấm. Sử Tàu gọi thời này là Xuân Thu thời đại.
Nguyên nhân thúc đẩy Đức Khổng Phu Tử soạn ra Kinh Xuân Thu là vì đời loạn, đạo Đế Vương chinh nghiêng con người mê sa công lợi, không còn ai nghĩ đến nghĩa nhân. Để cứu với thiên hạ, để sửa đổi giềng mối,nên Đức Khổng đưa ra học thuyết mới phát minh đạo Thánh hiền lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà dạy đời, lấy cương thường mà hạn chế dục vọng.
2- TRIẾT LÝ KINH XUÂN THU
"Xuân Thu dĩ Đạo danh phận" : Sách Xuân Thu là để nói danh và phận (Trang Tử), đó là ý kiến của bậc đại hiền triết thời đại chiến quốc, chớ không phải là bộ sách đơn thuần chép sử như người đời thường hiểu. Ba chủ đích của sách là : chính danh tự, định danh phận và ngụ bao biếm. Chủ ý của Đức Khổng là tôn Thiên Tử nhà Châu, định chế độ quân chủ. Vì theo quan niệm của Ngài : trong một nước không thể không có quyền quân chủ. Nhưng Ngài lại lo rằng những bậc Vua Chúa thường hay lạm dụng quyền lợi của mình mà làm những điều tàn bạo. Thế nên Ngài mới lấy cái nguyên của dương khí mà thống trị Trời Đất, lấy Trời mà nghiêm trị Vua, Chúa. Vì đó, sách trình bày một cách đặc thù hạn chế quyền của nhân quần. Để thực hiện điều này Ngài mới nương theo các điều thiên tai dị thường như nhật nguyệt thực, hiện tượng sao chổi, động đất, hỏa sơn …..Để cảnh giác những bậc nhân quân, Ngài muốn những bậc ấy thấy các điềm dữ đó mà kinh sợ rồi tự tu tỉnh, tự cứu làm những điều nhân nghĩa.
Ngài còn đưa ra thuyết đổi loạn ra trị, tránh những bạo hành và trừng trị kẻ gian ác. Có người trách Ngài biến việc của Thiên tử, hoặc nhờ Ngài phổ hóa những điều tai dị để mê hoặc người Đời vì nhân gian cho Ngài là Vua không ngôi. Chính cái khổ tâm đó mà Ngài nói : " Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ" : người biết ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu, người trách tội ta cũng chỉ ở Kinh Xuân Thu ( Mạnh Tử - Đằng Vân Công hạ ). Bởi lẽ không hiểu rõ cái uyên thâm cốt cán ấy mà các Hán nho chú trọng cái thuyết âm dương Ngũ Hành tạo nên các mê tín dị đoan.
Hàm súc ý nghĩa sâu xa như vậy, nên các danh nho xưa nay vẫn kính trọng bộ sách ấy, Cao Đài Giáo coi là một Cổ Pháp cũng vì lẽ ấy. Chủ thuyết quân chủ, các nước Á-Đông hầu hết hấp thụ ít nhiều tinh thần Kinh Xuân Thu. Các sử gia cũng thường theo lối biên niên mà chép sử.
3- NGÔN TỪ TRONG KINH XUÂN THU
Chúng ta phải xác nhận rằng dân tộc Việt Nam nói chung và Đạo Cao Đài Giáo nói riêng đã tiềm ẩn xác nhận tinh thần dùng chữ trong Kinh Xuân Thu. Mỗi chữ Đức Khổng đều cân nhắc dùng đúng chỗ, đúng nghĩa. Sự khen chê là cốt ở những chữ Ngài dùng. Chỉ một chữ chê thì tiếng xấu muôn đời, một chữ khen mà sanh nêu vạn cổ, nên kẻ đương thời mới nhận định : " Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn, nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt" một chữ khen thì vinh như cái áo hoa cổn Vua ban, một chữ chê thì nhục hơn tội búa rìu.
Bàn về chữ chết thì Thiên Tử chép là băng, chư hầu chép là hoăng, Vua cướp ngôi mà chết thì chép là tô, quan ngay chính mà chết thì chép là tốt, quan nịnh thì chép là tử. Về danh phận người nào chính đáng thì ghi rõ chức phẩm và tên tự, còn danh không chánh thì dẫu làm phẩm trật nào cũng chỉ ghi có tên tục mà thôi.
4- CAO ĐÀI GIÁO VỚI KINH XUÂN THU :
Chủ thuyết của Cao Đài Giáo là rút tinh hoa của các tôn giáo chính truyền. Vì hấp thụ được tinh thần nhân nghĩa trị loạn của Kinh Xuân Thu mà Kinh Xuân Thu được liệt hạng vào hàng Cổ Pháp, trong Cổ Pháp Hộ Pháp. Đạo Cao Đài lại được khai vào thời hạ ngươn mạt kiếp loạn lạc, con người đánh mất lương tâm, xã hội không còn giai tầng quân, sư, phụ, con mắng cha, lừa mẹ, dân nước không tuân lệnh nhà cầm quyền, nhà lãnh đạo chẳng lấy nhân nghĩa, lẽ phải trị nước. Các nhà giáo -lãnh tranh quyền ảnh hưởng. Hậu quả máu đổ ngoài biên thùy, giữa thành đô, ngay cả chốn tôn nghiêm, tu hành chỉ còn là cái " mốt" của thời đại hoặc để lợi dụng tập thể. Xem thế, xã hội hôm nay băng hoại có khác chi thời đại Xuân Thu.
Hình ảnh Xuân Thu xuất hiện trong Cao Đài Giáo như một cảnh tỉnh, con người đã đánh mất lương tri, tim tràn đầy thù hận thì chỉ có gương thương yêu nhân nghĩa mới có thể kéo họ ra khỏi vực thẳm. Ngày nay, người ta còn nhắc đến điềm lạ như vĩ tinh xuất hiện, chọn ngày lành tháng tốt để xây dinh thự, để khánh thành; đó chẳng qua là tiềm lực của Kinh Xuân Thu thúc đẩy con người hãy coi chừng Trời phạt.
Nhưng có một điều làm cho tất cả chúng ta phải suy nghĩ : đó là chủ đích của Kinh Xuân Thu tôn trọng quân quyền, còn khi lập Cao Đài Giáo, Đấng Chí Tôn ban hai câu liễn " Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo Hòa Bình Dân Chủ Mục; Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền", thì chủ trương dân chủ. Như vậy đâu là lý ưng của sự kiện ?
Đi sâu vào tinh thần Kinh Xuân Thu thì chúng ta mới thấy là quân quyền. Đức Khổng Tử quan niệm một cách rộng rãi ; " Phàm người ta đã quần tụ với nhau thành xã hội thì tất phải có quyền tối cao để giữ kỷ cương cho cả đoàn thể. Cái quyền ấy gọi là quân quyền, tức là quyền chủ tể cả một nước.
Ở trong nhà thì con phải hiếu với Cha, Mẹ ; ở trong nước thì thần dân phải trung với quân. Hai chữ trung quân không nên theo như người ta thường vẫn hiểu là chữ trung với người làm đế làm vương mà thôi, nhưng có thể theo nghĩa là ta trung với cái quân quyền trong nước. Theo nghĩa rộng ấy thì bất cứ ở vào thời đại nào, hai chữ trung quân vẫn có nghĩa chính đáng. Có lòng trung ấy thì dân mới yêu và nước mới trị, miễn là quân quyền không trái với lòng dân là được" (Trần Trọng Kim, Nho Giáo , quyển Thượng, Sài Gòn, Tân Việt in lần thứ 4).
Xem thế thì quân quyền theo Đức Khổng Tử không khác với dân quyền; miễn là làm sao trị dân cho dân được no ấm, chính sự được công bình,. Tư tưởng chính trị của Khổng giáo là tư tưởng dựa trên nền tảng phụ hệ và dân chủ … xem dân chúng là nguồn trí tuệ cao nhất, lấy dân chúng làm căn bản. (Trần Quang Thuận, Tư Tưởng Chính Trị Trong Triết Học Khổng Giáo, 1961)
Cao Đài Giáo tổ chức theo chế độ nào ? Tuy hai là một, tuy một mà hai. Bất cứ ở tôn giáo nào cũng phải tôn trọng thần quyền, muốn được vậy thì phải có triều nghi tế lễ Trời Đất, cái việc mà ngày xưa chỉ có Thiên tử mới được trần thiết. Về hình thức thì Cao Đài Giáo, có triều nghi có giai tầng đẳng cấp, áo mão các tín đồ gần như chế độ quân chủ ngày xưa.
Dân chủ hay quân chủ cũng không thể gán ghép cho một tôn giáo. Tôn giáo muôn đời vẫn là tôn giáo có cái đặc thù riêng của nó, có những bí pháp chính truyền, hóa dân bằng luân lý, bằng đường lối đạo đức bất di bất dịch.
Với Kinh Xuân Thu, Cao Đài Giáo đã nhận được những gì ? Nhìn tổng hợp lấy tinh thần để phân tích, chúng ta thọ hưởng bao giá trị.
1/ Định chế nhân nghĩa :
Về điểm này Đức Khổng Tử đã nói : " Ngô đạo nhất dĩ quán chi". Đạo của ta suốt từ đầu tới cuối chỉ có một mà thôi. Đạo nhất quán ấy gọi là trung thứ hay nhân nghĩa cũng đều do đạo nhân mà ra cả. Có nhân thì thông suốt cái thiên lý thuần nhiên quán xuyến từ tư tưởng đến hành động không có cái gì là không hợp với cái Đạo nhất thể. Từ ngữ nhân nghĩa được coi là một định chế trong chủ thuyết của Cao Đài Giáo. Một định chế được coi như là một định đề hằng đúng mà tất cả mọi tín hữu phải noi theo.
2/ Giá trị danh xưng :
Điều này hiển nhiên, không ai chối cải trong Cao Đài Giáo hằng loạt từ ngữ danh xưng từ thấp lên cao ; tiểu đệ, tiểu muội, hiền đệ, hiền muội, hiền huynh, hiền tỷ. Đại huynh từ Phối sư trở lên : " Trong Thánh Thể của Chí Tôn, từ Giáo Hữu tới Đầu sư, Chưởng Pháp, chỉ Giáo Tông mới được quyền là Anh Cả mà thôi". ( Đức Hộ Pháp, thuyết đạo ngày 15-4-Qúi Tỵ). Còn về danh phận, ai dù phẩm trật cao mà không phế đời hành đạo vẫn không được liệt vào lịch kỷ niệm.
3/ Thuyết loạn trị trật tự xã hội :
Muốn tạo lập một xã hội trật tự có cơm ăn áo mặc, những giáo điều khuyên răn, gương nhân từ khiêm cung của hàng giáo lãnh không, chưa đủ, mà phải hành động, phải biết đau cái đau của nhân loại, phải biết khổ cái khổ của người bần hàn. Vả lại, Đạo Cao Đài lại nêu câu cứu khổ :
Đức Hộ Pháp đã nói : " Cây cờ cứu khổ của Đạo Cao Đài là thương yêu và công chánh. Phải thực hiện được hai điều ấy thì Hòa bình và Hạnh phúc mới đến với chúng ta đặng".
Tóm lại, các cổ pháp trong Đạo Cao Đài lấy những bảo vật của Tam giáo thuộc hữu vi làm hình thức để biểu tượng các vô vi, vô ảnh cho nhân sanh hình dung mà tu tâm dưỡng tánh hầu tiến tới Đạo mà đạt đến cái lý mầu nhiệm của tạo đoan.
Xin kết lại rằng :
CÁC CỔ PHÁP ÐẠO CAO ĐÀI