TIẾT 1: TÌM HIỂU VỀ ĐỨC DI LẶC
I.
THEO QUAN ĐIỂM CỦA
PHẬT GIÁO
II.
THEO QUAN ĐIỂM CỦA
KY - TÔ GIÁO
III.
THEO QUAN
ĐIỂM CỦA CAO ĐÀI GIÁO
IV.
QUAN ĐIỂM CỦA HỘI
THÔNG THIÊN HỌC
TIẾT 2: SỰ TÁI LÂM CỦA ĐỨC DI LẶC
I.
NHẬN BIẾT SỰ HIỆN
DIỆN CỦA NGÀI
II.
ĐỨC
CHRIST CỦA KỶ NGUYÊN BẢO BÌNH
III.
CHUẨN BỊ CHO SỰ GIÁNG LÂM CỦA ĐỨC DI LẶC
TIẾT 1: TÌM HIỂU
VỀ ĐỨC DI LẶC
I.
THEO QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
Di Lặc,
tiếng Phạn là maitreya,
là cách phiên âm, dịch nghĩa
từ
Từ Thị (慈氏),
"người có lòng từ", cũng có tên khác là Vô Năng Thắng (
tiếng Phạn sa. ajita),
phiên âm Hán-Việt là A-dật-đa, là một vị
Bồ Tát và cũng là vị
Phật cuối
cùng sẽ xuất hiện trên
trái đất.
Trong
Phật giáo Tây Tạng,
Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Cõi giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là
trời
Đâu-suất (sa. tuṣita).
Tại
Trung Quốc, Bồ Tát Di-Lặc tượng trưng
cho đức tính HỶ, XẢ với tướng mập tròn vui vẻ, 6 trẻ con quấn quít xung quanh.
Theo truyền thuyết thì đó chính là hình ảnh của
Bố Đại
Hòa thượng, một hóa thân của Di-Lặc ở
thế kỉ thứ 10. Nếu 5 Đức Phật xuất
hiện trên trái đất nói trên được xem là hóa thân của
Ngũ Phật thì Bồ Tát Di-lặc được xem
như hóa thân của Thành sở tác trí. Có thuyết cho rằng, chính Bồ Tát Di-lặc là
người khởi xướng hệ phái
Duy thức của
Đại thừa.
Truyền thống
Phật giáo Tây Tạng cho rằng, Ngài là
tác giả của năm bài luận, được gọi là Di Lặc (Từ Thị) ngũ luận:
1.Đại thừa tối thượng luận
hoặc
Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận
(sa. mahāyānottaratantra)
2.Pháp pháp tính phân biệt luận
(sa. dharmadharmatāvibaṅga)
3.Trung biên phân biệt luận
(sa. madhyāntavibhāga-śāstra)
4.Hiện quán trang nghiêm luận
(sa. abhisamayālaṅkāra)
5.Đại thừa kinh trang nghiêm luận
(sa. mahāyānasūtralaṅkāra)
Trong bài "Đức Di Lặc Bồ Tát
Hay Là Hội Long Hoa," Hòa Thượng Tâm Châu giải thích: Nối sau Phật Thích
Ca, có Ngài Di Lặc Bồ Tát hiện thân xuống thế giới Sa Bà giáo hóa chúng sinh.
Trong văn học dân gian, Đức Di
Lặc mang hình ảnh một ông Phật bụng phệ, miệng cười thật rộng, với các em trẻ
nhỏ trèo lên người nghịch phá, kéo tai, rờ bụng, chọc mũi, nhưng Ngài vẫn
thoải mái cười vui, không bực dọc. Một số nhà nghiên cứu Phật học lý giải hình
ảnh này như một biểu tượng tu học: Các em trẻ nhỏ tượng trưng cho 6 trần
quậy phá, qua 6 căn NHÃN, NHĨ, TỈ, THIỆT, THÂN, Ý ( mắt tai mũi lưỡi thân ý)…Tuy
nói sáu căn chớ thật tình có năm căn là tối quan trọng, tức là mắt tai mũi
lưỡi thân, năm cửa đón tiếp bên ngoài. Còn Ý là cái phụ họa trong năm căn ấy.
Mỗi khi năm căn tiếp xúc với năm trần thì Ý theo đó mà phụ họa để thương ghét
buồn giận. Vì vậy, ngay năm căn kia mà chúng ta đón nhận đúng pháp thì cái căn
thứ sáu (ý căn) không còn làm trở ngại nữa.
Theo Hòa thượng
Thích Thanh Từ, khi sáu căn đó tiếp xúc với sáu trần thì chúng ta mắc kẹt,
chúng ta nhiễm theo nên gọi là sáu đứa cướp. Cướp bằng cách nào? Chỉ do tiếp
xúc bên ngoài, chấp nhận qua năm căn của mình rồi tâm mình xao xuyến hoặc buồn
hoặc giận. Đó là những đám mây đen nổi dậy che lấp mặt trời trí tuệ nên gọi là
đã cướp.
Có người cũng có
hình thức người tu, đi chùa lễ Phật, nhưng mà cứ chất chứa bao nhiêu phiền não
ở trong tâm. ... Như vậy những cái lo đó làm cho mất đi mặt trời trí tuệ sáng
ngời của họ rồi. Cho nên họ phải chịu khổ. Còn người biết tu, khi có cái gì
làm chúng ta bị che khuất một phút, một giây thì hối hận, ăn năn sẽ làm cho
tan đám mây mờ đó. Và nguyện làm sao đừng đem nó vô nữa, để cho mặt trời trí
tuệ không bị che khuất...
Lục tặc thành
giặc hay bạn là chính tại mình. Nếu khi nó cợt phá mình mà mình biết cho nó là
trò chơi ảo mộng không nghĩa lý gì thì, mình cho nó là một cuộc đùa chơi. Còn
nếu nó cợt phá mà mình cho nó là sự trêu ghẹo thật sự thì mình bực tức lên. Đó
là cái khổ đau của mình. Thế nên biết tu nơi sáu căn rồi tự nhiên mình biết
được an lành tự tại.
Trong Kinh Lăng
Nghiêm, kể lại lúc mười phương chư Phật dị khẩu đồng âm tuyên bố cho ngài
A-Nan và đại chúng nghe:
“Khiến ông phải luân
hồi sanh tử, chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác... khiến ông
chóng Vô thượng Bồ-đề cũng chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì
khác.”
Như vậy, cội gốc
sanh tử là sáu căn của chúng ta: MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN,Ý nhưng cội gốc
Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của chúng ta.Con đường để trở về giác ngộ hay
và con đường sanh tử luân hồi là một hay là hai? Sanh tử luân hồi cũng đi con
đường đó mà Bồ-đề Niết-bàn cũng đi con đường đó, nhưng mà có khác nhau. Đi
theo chiều thuận đó là sanh tử luân hồi. Đi theo chiều nghịch đó là giải thoát
sanh tử.
Còn về các hóa thân của Phật Di
Lặc, cuốn Song Lâm Phó Đại Sĩ Ngữ Lục Hành Thế ghi rằng:
"Về đời Ngũ Quý bên Tàu, ở đất Minh
Ba, huyện Phụng Hóa, Châu Ninh, có một vị Tăng hình người thấp, mập, bụng to
da đen, vẻ mặt nhơn từ, thường dùng một cây gậy quảy một túi vải, trong đựng
bình bát, dạo khắp thôn quê thành thị, xin được bất kỳ vật gì ngon dở, Ngài
đều ấn vào trong túi ấy cả, thấy vậy thiên hạ thường gọi là Bố Đại Hòa Thượng.
Ngoài hai chữ Bố Đại (túi vải) ra, không một ai biết quê quán tên họ Ngài là
chi. Ngài còn làm nhiều điều dị thường: Người nào được Ngài khất thực thì
người ấy buôn bán may mắn, đắt hàng nhiều lợi. Gia đình nào được Ngài tới khất
thực thì gia đình ấy làm ăn thịnh vượng, trên thuận dưới hòa. Tính Ngài hay
nằm đất mà mình không lấm nhơ, hoặc có khi Ngài ngồi ngoài mưa hay trên sương
tuyết mà không hề ướt áo. Khi đương nắng mà Ngài bỏ dép đi guốc thì trời sắp
mưa... Các vị Tăng khác, ai có duyên gặp Ngài hỏi đạo, thì Ngài chỉ bảo cho
đều được tỏ ngộ cả.
Đến niên hiệu Trinh Minh năm thứ ba,
tháng ba, mùng ba, Ngài ngồi trên một tảng đá lớn sau Chùa Nhạc Lâm thuyết một
bài kệ rằng:
Di Lặc chân Di Lặc.
Phân thân thiên bách ức
Thời thời thị thời
nhân. Thời nhân tự bất thức
Nghĩa là:
Di Lặc, thật
Di Lặc. Phân thân trăm ngàn ức.
Thường trước mặt người đời.
Người đời tự chẳng biết.
Nói xong bài kệ, Ngài liền thị tịch.
Từ đó về sau, người ta đua nhau làm tượng vị Bố Đại Hòa Thượng để thờ mà gọi
là Phật Di Lặc."
Hòa Thượng Tâm Châu còn giải thích
rằng, trong Đại Tạng Kinh, có tới 6 quyển kinh Di Lặc, ghi các lời Phật Thích
Ca thuyết giảng về những điều liên hệ tới Đức Di Lặc.
II. THEO
QUAN ĐIỂM CỦA KY - TÔ GIÁO
Đức Jesus giáng sinh vào
khoảng năm 4 TCN, tại làng
Bethlehem xứ
Judea. Tuổi thơ
của Đức Jesus, theo ký thuật của Tân Ước, trải qua ở thành Nazareth xứ
Galilee sau khi
trở về từ
Ai Cập, nơi họ
tìm đến trú ẩn ngay sau khi hài nhi Giê-xu chào đời để tránh cuộc tàn sát của
vua
Herod. Thuở ấu
thơ đến khi trưởng thành của Đức Jesus ít được nhắc đến. Việc cậu bé Jesus
cùng cha mẹ lên Đền thờ ở
Jerusalem, bị
thất lạc và được cha mẹ tìm thấy (Luca 2. 41-52 ) là sự kiện duy nhất trong
quãng đời của Đức Jesus từ lúc niên thiếu đến khi trưởng thành được ký thuật
trong các sách Phúc âm. Đức Jesus khởi hành truyền bá phúc âm trong xứ
Galilee lúc khoảng 30 tuổi.
Cuộc đời của Chúa Giê-su
được ghi lại trong bốn sách
Phúc Âm
Mathew, Maco,
Lu-ca và Gio-an. Theo ký thuật của Phúc âm Matthew, khi Đức Jésus được 30
tuổi, nghe Thánh Jean Baptiste đang làm lễ Giải Oan tại bờ sông Jordan, Đức
Jésus liền đi đến đó. Khi nhìn thấy, Thánh Jean Baptiste biết đây là Chúa Cứu
Thế mới nói : "Từ sáng tới giờ, tôi chỉ chờ vị nầy thôi." Ngài Jésus đến thọ
pháp Giải Oan nơi Thánh Jean. Khi Thánh Jean hành pháp vừa xong, Ðức Jésus từ
dưới sông vừa bước lên bờ thì trên không trung hiện ra hào quang sa xuống giữa
đầu Chúa và có tiếng phán rằng: Nầy con yêu dấu của Ta ! Cả ân đức của Ta
để cho ngươi đó."
Đức Jésus, sau khi chịu
phép Giải oan với Thánh Jean rồi, Thiên Chúa khiến Ngài đến nơi đồng vắng đặng
chịu cho Satan cám dỗ. Ngài đã kiêng ăn 40 ngày đêm. Satan đến gần Ngài, nói:
nếu ngươi phải là con của Thiên Chúa thì hãy khiến đá nầy trở nên bánh đi. Đức
Jésus đáp: Có lời chép rằng, người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi,
song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Thiên Chúa. Satan đem Ngài vào nơi Đền
Thánh, đặt Ngài trên nóc đền thờ rồi nói: nếu ngươi phải là con của Thiên Chúa
thì gieo mình xuống đi, vì Chúa sẽ truyền các Thiên sứ đến gìn giữ ngươi và đỡ
ngươi trên tay. Đức Jésus nói: Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.
Satan lại đem Ngài lên núi cao, chỉ cho Ngài thấy các nước thế gian cùng sự
vinh hiển của các nước ấy và nói: nếu ngươi quì xuống trước mặt ta mà thờ lạy
ta thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy. Ngài liền nói: hỡi Quỉ Satan,
ngươi hãy lui ra, vì có lời chép rằng, ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa là Đức
Chúa Trời của ngươi và chỉ hầu việc một mình Thiên Chúa mà thôi. Quỉ vương
đành khuất phục trước sự cao cả của Ngài.
Từ buổi đó, Chơn
linh của Ðấng Christ giáng hạ vào thể xác của Ðức Chúa Jésus và được gọi là
Đức Jesus - Christ.
Theo các sách Phúc âm,
Đức Jesus
là Đấng Messiah, "Con Thiên Chúa", đến để "phó mạng sống mình làm
giá chuộc nhiều người" và "giảng tin mừng của Nước Trời”.
Một trong
những bài thuyết giáo nổi tiếng nhất của Đức
Jesus là
Bài giảng trên núi
. Đức Jesus
khuyên bảo tránh xa sự giận dữ, dâm dục, thề nguyền và báo thù; tôn trọng và
tuân giữ
Luật pháp Moses.:
"Các ngươi
đừng tưởng ta đến đặng phá luật pháp hay là lời tiên tri; ta đến, không phải
để phá, song để làm cho trọn”.
Trong khi diễn giải luật
Moses, Đức
Jesus truyền dạy
môn đồ "điều răn mới" và khuyên họ:
"nếu
ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia",
Hãy yêu kẻ thù và cần
tuân giữ tinh thần của luật pháp chứ không phải văn tự. Đức Jesus thường dùng
dụ ngôn khi giảng dạy.
Giáo huấn của Ngài tập
chú vào tình yêu vô điều kiện và thấm nhuần tinh thần hi sinh đối với Thiên
Chúa và đối với mọi người (Matt 22. 34-40 ). Đức Jesus dạy về tinh thần phục
vụ và đức khiêm nhường cũng như lòng bao dung khoan thứ, sống hòa bình,
đức tin và ơn
thừa hưởng sự sống vĩnh cửu trong "Vương quốc Thiên Chúa".
Đức
Jesus loan báo
những sự kiện sẽ xảy ra, và tiên báo về sự tận cùng của thế giới là điều sẽ
đến cách bất ngờ; do đó, nhắc nhở những người đi theo hãy luôn tỉnh thức và
trung tín trong đức tin.
Khi đang ở trong vườn
Gethsemane, lính La Mã tìm đến vây bắt Đức
Jesus theo lệnh
của
Tòa Công luận
(Sanhedrin) và
Thượng
tế
Caiaphas
.
Nhà chức trách quyết định bắt giữ Đức Jesus vì xem Ngài là mối đe dọa cho
quyền lực của họ, vì cách thức Chúa dùng để diễn giải Kinh Thánh và vì Chúa
thường vạch trần sự giả trá của họ trong đời sống tôn giáo. Một môn đồ,
Peter dùng gươm tấn công những kẻ đến bắt
giữ Đức Jesus, chém đứt tai một người, nhưng Đức Jesus quay sang quở trách
Peter rằng: "Hãy nạp gươm vào vỏ; vì hễ ai cầm gươm sẽ bị chết vì gươm”
Khi bị treo trên cây
thập tự, Đức Jesus cầu nguyện:
"Lạy Cha, xin tha cho
họ; vì họ không biết mình làm điều gì”
(Luca 23. 34).
Các sách Phúc âm đồng
quan đều thuật lại hiện tượng động đất và bầu trời tối sầm từ mười hai giờ
trưa đến ba giờ chiều. Ngoài các dấu kỳ phép lạ đã làm, Đức Jesus còn giảng
dạy là mỗi người phải hết lòng yêu mến Đức Chúa Trời và thương kẻ lân cận như
mình. Đức Jesus kêu gọi mọi người phải thay đổi lòng mình, ăn năn và tin nhận
Chúa để được cứu rỗi và thừa hưởng ân phước của nước Trời.
Theo Matthew 25, 31-46:
Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Bấy giờ, Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng:
"Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các con từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các con cho ăn, Ta khát, các con đã cho uống, Ta là khách lạ, các con đã tiếp rước, Ta mình trần, các con đã cho mặc, Ta đau yếu, các con đã viếng thăm, Ta bị tù đày, các con đã đến với Ta ".
Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu ? "
Vua đáp lại:
“Quả thật, Ta bảo các con: những gì các con đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta ”.
Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng:
“Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui ra khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn, Ta khát, các ngươi không cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc, Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”
Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng:
"Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng tôi chẳng giúp đỡ Chúa đâu ? ".
Khi ấy Người đáp lại:
“Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu.”
Đức Christ là Vua và Ngài sẽ xét xử dân tộc các nước trong ngày sau hết. Nguyên tắc xét xử là thái độ của mỗi người đối với người nghèo, người rách rưới, người đói khát, người bệnh tật và người bị giam cầm. Từ thời xa xưa, viễn ảnh của sự Phán Xét đã ảnh hưởng đến các Ky tô hữu trong đời sống hàng ngày như một tiêu chuẩn để sắp xếp cho đời sống hiện tại…
III. THEO
QUAN ĐIỂM CỦA CAO ĐÀI GIÁO
Di-Lặc
Vương Phật:
彌勒王佛
Di-Lặc
Vương Phật là vị Phật tương lai, vào thời Tam Kỳ Phổ Độ sẽ xuống trần một lần
nữa, làm chánh chủ khảo của Đại Hội Long Hoa tuyển phong Thần, Thánh, Tiên,
Phật; đồng thời thay mặt Đức Chí Tôn Thượng Đế mà làm vua cai trị Càn khôn Thế
giới và Vạn linh.
Khi Ngài
làm nhiệm vụ cai quản Càn khôn Thế giới thì gọi Ngài là Đức Di-Lạc Vương
Phật; nhưng khi Ngài làm nhiệm vụ cứu độ chúng sanh (năng cứu khổ ách,
năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát chư nghiệt
chướng) thì gọi Ngài là Di-Lạc Vương Bồ Tát. Trong quyển Con
đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp giảng:
“Trong Tam
Kỳ Phổ Độ nầy, Đức Phật A-Di-Đà giao quyền lại cho Đức Di-LặcVương Phật chưởng
quản Cực Lạc Thế Giới, nên
1.
Đức Di-Lặc Vương Phật hiện nay ngự tại Kim Tự
Tháp, dưới tàn cây dương tối cổ ở Kinh đô Cực Lạc Thế Giới,
2.
Đức Phật A-Di-Đà
vào ngự trong Lôi Âm Tự.
3.
Đức Phật
Thích Ca ngự tại Kim Sa Đại điện.
Kim Tự Tháp tại Kinh đô Cực Lạc Thế Giới có hình giống như Kim Tự
Tháp Ai Cập, nhưng mình nó lại tròn, có nhiều từng, nhiều nấc, có rất nhiều
chư Phật ngự trên đó, mỗi vị có Liên đài riêng.”
Trong Kinh
Thiên Đạo của Đạo Cao Đài, Đức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho hai bài Kinh:
Kinh Đại Tường và Di-Lặc Chơn Kinh, nhờ đó chúng ta biết được nhiệm
vụ và quyền hành của Đức Di-Lặc Vương Phật.
***
A. DI-LẠC CHƠN KINH
Khai Kinh Kệ,
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim thính văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt nghĩa.
Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết
Di-Lạc Chơn Kinh. |
Dịch nghĩa:
Kệ mở
đầu bài kinh
Giáo lý của Phật rất cao siêu, rất sâu xa, huyền vi mầu nhiệm.
Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp đặng.
Ta ngày nay nghe biết được nhận lấy và gìn giữ,
Nguyện giải thích bài kinh mới với ý nghĩa chơn thật.
Ðức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết giảng
Kinh Di-Lạc chơn thật. |
I.THƯỢNG
THIÊN HỖN NGƯƠN
hữu:
- BRAHMA Phật
- ÇIVA Phật,
- CHRISTNA Phật,
- THANH TỊNH TRÍ Phật,
- DIỆU MINH LÝ Phật,
- PHỤC TƯỞNG THỊ Phật,
- DIỆT THỂ THẮNG Phật,
- PHỤC LINH TÁNH Phật,
Nhứt thiết chư Phật, hữu giác hữu
cảm, hữu sanh hữu tử, tri khổ nghiệp chướng, luân chuyển hóa sanh, năng
du Ta-bà Thế giới độ tận vạn linh đắc qui Phật vị. |
Dịch
nghĩa:
Từng
Trời ở trên hết là Hỗn Nguơn Thiên có:
- Brahma Phật,
- Civa Phật,
- Christna Phật,
- Thanh Tịnh Trí Phật,
- Diệu Minh Lý Phật,
- Phục Tưởng Thị Phật,
- Diệt Thể Thắng Phật,
- Phục Linh Tánh Phật.
Tất
cả các vị Phật, có biết có cảm động, có sanh có chết, biết rõ cái khổ do
nghiệp chướng gây ra, luân hồi chuyển kiếp hóa sanh ra, có khả năng đi
khắp các cõi trần cứu giúp tất cả Chơn linh, được trở về ngôi vị Phật. |
II. HỘI NGƯƠN THIÊN
hữu:
- TRỤ THIỆN Phật,
- ÐA ÁI SANH Phật,
- GIẢI THOÁT KHỔ Phật,
- DIỆU CHƠN HÀNH Phật,
- THẮNG GIÁI ÁC Phật,
Nhứt thiết chư Phật, tùng lịnh
Di-Lạc Vương Phật, năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệt chướng.
Nhược hữu chúng sanh văn Ngã ưng
đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng thị Pháp điều
Tam Kỳ Phổ Ðộ, tất đắc giải thoát luân hồi, đắc lộ Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề
thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn.
Nhược nhơn đương sanh, nhược nhơn
vị sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn vô kiếp, nhược nhơn hữu tội,
nhược nhơn vô tội, nhược nhơn hữu niệm, nhược nhơn vô niệm, thính đắc
Ngã ngôn, phát tâm thiện niệm, tất đắc A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề,
tất đắc giải thoát.
Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh
ma chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam mô Di-Lạc Vương Bồ-Tát, năng
cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh
thoát chư nghiệt chướng, tất đắc giải thoát. |
Dịch
nghĩa:
Từng
Trời Hội Nguơn Thiên có:
- Trụ Thiện Phật,
- Ða Ái Sanh Phật,
- Giải Thoát Khổ Phật,
- Diệu Chơn Hành Phật,
- Thắng Giái Ác Phật,
Tất
cả các vị Phật, nghe theo mệnh lệnh của Ðức Di-Lạc Vương Phật, có
khả năng chiếu ánh sáng huyền diệu làm tiêu trừ các nghiệt chướng.
Nếu
như có người nào nghe biết lời TA, thì phải thoát khỏi các nghiệp ác,
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng theo và nhìn nhận là đúng Luật
pháp của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, ắt được giải thoát khỏi luân hồi, đắc
đạo Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ấy là chứng được quả vị nơi cõi Cực
Lạc Niết Bàn (Cực Lạc Thế Giới).
Nếu
như người đang sống, nếu như người chưa được sanh ra, nếu như người có
kiếp sống, nếu như người không có kiếp sống, nếu như người có tội, nếu
như người không tội, nếu như người có lòng tưởng niệm, nếu như người
không lòng tưởng niệm, nghe được lời nói của TA, phát khởi lòng tưởng
nghĩ điều lành, ắt được phẩm vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ắt được
giải thoát.
Nếu
như có người nhận lãnh và gìn giữ làm theo lời Phật dạy, bị sợ hãi vì ma
quỉ cản ngăn, một lòng một dạ tưởng nghĩ điều lành, niệm: Nam mô
Di-Lạc Vương Bồ Tát, có khả năng cứu giúp tai nạn khổ sở, có khả
năng cứu giúp 3 tai họa lớn, có khả năng cứu được bịnh tật, có khả năng
cứu giúp và dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi các thứ nghiệt chướng, ắt được
giải thoát. |
III. HƯ VÔ CAO THIÊN
hữu:
- TIẾP DẪN Phật,
- PHỔ TẾ Phật,
- TÂY QUI Phật,
- TUYỂN KINH Phật,
- TẾ PHÁP Phật,
- CHIẾU DUYÊN Phật,
- PHONG VỊ Phật,
- HỘI CHƠN Phật,
Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật,
tùng lịnh Nhiên Ðăng Cổ Phật, dẫn độ Chơn linh, đắc Pháp đắc Phật,
đắc duyên đắc vị, đắc A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề, chứng quả nhập Cực
Lạc Quốc, hiệp chúng đẳng chư Phật, tạo định Thiên Thi, tận độ chúng
sanh đắc qui Phật vị.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ
nhân, tu trì, thính Ngã dục đắc chơn truyền, niệm thử Nhiên Ðăng Cổ
Phật, thường du Ta bà Thế giới, giáo hóa chơn truyền, phổ tế chúng
sanh, giải thoát lục dục thất tình, thoát đọa luân hồi, tất đắc giải
thoát. |
Dịch
nghĩa:
Từng
Trời Hư Vô Thiên ở trên cao, có:
- Tiếp Dẫn Phật,
- Phổ Tế Phật,
- Tây Qui Phật,
- Tuyển Kinh Phật,
- Tế Pháp Phật,
- Chiếu Duyên Phật,
- Phong Vị Phật,
- Hội Chơn Phật,
Như
vô số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mệnh lệnh của Ðức Nhiên Ðăng
Cổ Phật, dẫn dắt và cứu giúp các Chơn linh, đạt được Pháp, đạt được
Phật vị, có được duyên, có được ngôi vị, đạt phẩm vị Vô Thượng Chánh
Ðẳng Chánh Giác, chứng được quả vị, nhập vào cõi CLTG, hiệp với chư Phật
các cấp, sắp đặt làm ra Thiên thơ, cứu giúp toàn cả chúng sanh được trở
về ngôi vị Phật.
Nếu
như người Nam lành, người Nữ lành, gìn giữ việc tu hành, nghe theo Ta,
muốn được chơn truyền, hãy niệm thế nầy: Nam mô Nhiên Ðăng Cổ Phật,
thường đi du hành đến các cõi trần, giáo hóa giáo lý chơn thật, giúp đỡ
chúng sanh khắp nơi, giải thoát khỏi Lục dục và Thất Tình, thoát khỏi sự
đọa đày vào vòng luân hồi, ắt được giải thoát. |
Chú
thích
Hư
Vô Cao Thiên:
Từng Trời Hư Vô Thiên ở trên cao. Ðây là từng Trời thứ 10, kế bên trên Cửu
Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.
IV.TẠO HÓA HUYỀN THIÊN
hữu:
- QUÃNG SANH Phật,
- DƯỠNG DỤC Phật,
- CHƯỞNG HẬU Phật,
- THỦ LUÂN Phật,
- dữ CỬU VỊ NỮ PHẬT.
Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật,
tùng lịnh Kim Bàn Phật Mẫu, năng tạo năng hóa vạn linh, năng du Ta
bà Thế giới, dưỡng dục quần sanh, qui nguyên Phật vị.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
thính Ngã dục tu phát nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu dưỡng dục
quần linh, nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp,
nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, huờn hư thi
hình đắc A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề, xá lợi tử qui nguyên Phật vị, tất
đắc giải thoát. |
Dịch
nghĩa:
Từng
Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu có:
- Quảng Sanh Phật,
- Dưỡng Dục Phật,
- Chưởng Hậu Phật,
- Thủ Luân Phật,
- cùng với Cửu vị Nữ Phật,
Như vô
số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mệnh lệnh của Ðức Phật Mẫu
chưởng quản Kim Bàn DTC, có khả năng tạo hóa ra vạn linh, có khả năng du
hành đến các cõi trần, để nuôi dưỡng chúng sanh, trở về nguồn cội là ngôi
vị Phật.
Nếu như
có người Nam lành, người Nữ lành, nghe lời Ta, muốn tu hành thì phát ra
lời nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu, nuôi dưỡng vạn linh, nếu như
có sanh ra, nếu như chưa sanh ra, nếu như có kiếp sống, nếu như không kiếp
sống, nếu như có tội, nếu như không tội, nếu như có lòng tưởng niệm, nếu
như không lòng tưởng niệm, trở lại cõi Hư Vô, thi hành đúng theo khuôn
phép, được phẩm vị Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác, Chơn thần trở về nguồn
cội là ngôi vị Phật, ắt được giải thoát. |
V.
PHI TƯỞNG DIỆU THIÊN
hữu:
- ÐA PHÁP Phật,
- TỊNH THIỆN GIÁO Phật,
- KIẾN THĂNG VỊ Phật,
- HIỂN HÓA SANH Phật,
- TRỤC TÀ TINH Phật,
- LUYỆN ĐẮC PHÁP Phật,
- HỘ TRÌ NIỆM Phật,
- KHAI HUYỀN CƠ Phật,
- HOÁN TRƯỢC TÁNH Phật,
- ÐA PHÚC ĐỨC Phật,
Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật,
tùng lịnh Từ Hàng Bồ Tát, năng du Ta bà Thế giới, thi pháp hộ trì
vạn linh sanh chúng.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
tín Ngã ưng đương phát nguyện: Nam mô Từ Hàng Bồ Tát, năng cứu tật
bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận chúng sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà
ma, năng trừ nghiệt chướng, tất đắc giải thoát. |
Dịch
nghĩa:
Từng
Trời Phi Tưởng Thiên huyền diệu có:
- Ða Pháp Phật,
- Tịnh Thiện Giáo Phật,
- Kiến Thăng Vị Phật,
- Hiển Hóa Sanh Phật,
- Trục Tà Tinh Phật,
- Luyện Ðắc Pháp Phật,
- Hộ Trì Niệm Phật,
- Khai Huyền Cơ Phật,
- Hoán Trược Tánh Phật,
- Ða Phúc Ðức Phật,
Như vô
số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mạng lịnh của Ðức Từ Hàng Bồ Tát, có
khả năng du hành đến các cõi trần, thi hành các pháp thuật huyền diệu để
che chở, gìn giữ vạn linh và chúng sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Nếu như
có người Nam lành, người Nữ lành, tin theo Ta, thì phải phát ra lời nguyện:
Nam mô Từ Hàng Bồ Tát, có khả năng cứu được bịnh tật, có khả năng cứu được
3 tai họa lớn, có khả năng tận độ chúng sanh, thoát khỏi nơi Tứ khổ, có
khả năng trừ diệt tà ma, có khả năng trừ diệt các nghiệt chướng, ắt được
giải thoát. |
Chú
thích:
Phi Tưởng Diệu Thiên là từng Trời Phi Tưởng Thiên huyền diệu. Ðây là từng
Trời thứ 8 trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Từ Hàng Bồ
Tát.
VI. HẠO NHIÊN PHÁP THIÊN
hữu:
- DIỆT TƯỚNG Phật,
- ÐỆ PHÁP Phật.
- DIỆT OAN Phật,
- SÁT QUÁI Phật,
- ÐỊNH QỦA Phật,
- THÀNH TÂM Phật,
- DIỆT KHỔ Phật,
- KIÊN TRÌ Phật,
- CỨU KHỔ Phật,
- XÁ TỘI Phật,
- GIẢI THỂ Phật,
Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật,
tùng lịnh Chuẩn Ðề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, thường du Ta bà Thế
giới, độ tận vạn linh.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
tín Ngã ưng đương phát nguyện: Nam mô Chuẩn Ðề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát,
năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệt chướng, năng độ chúng
sanh qui ư Cực Lạc, tất đắc giải thoát.
|
Dịch
nghĩa:
Từng
Trời Hạo Nhiên Thiên coi về Pháp luật, có:
- Diệt Tướng Phật,
- Ðệ Pháp Phật.
- Diệt Oan Phật,
- Sát Quái Phật,
- Ðịnh Quả Phật,
- Thành Tâm Phật,
- Diệt Khổ Phật,
- Kiên Trì Phật,
- Cứu Khổ Phật,
- Xá Tội Phật,
- Giải Thể Phật,
Như vô
số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mạng lịnh của Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát và
Ðức Phổ Hiền Bồ Tát, thường đi du hành đến các cõi trần cứu giúp toàn cả
vạn linh.
Nếu như
có người Nam lành, người Nữ lành, tin theo Ta, thì phải phát ra lời nguyện:
Nam mô Chuẩn Ðề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, có khả năng trừ diệt sự ngăn trở
của ma và các tai nạn do quỉ gây ra, có khả năng cứu giúp các tai nạn khổ
sở và các nghiệt chướng, có khả năng cứu giúp chúng sanh trở về nơi Cực
Lạc Thế Giới, ắt được giải thoát. |
Chú
thích:
Hạo
Nhiên Pháp Thiên:
Từng Trời Hạo Nhiên Thiên coi về Pháp luật, có "Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo
Hóa". Ðây là từng Trời thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của
2 vị Bồ Tát: Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát và Ðức Phổ Hiền Bồ Tát.
Hai vị
Bồ Tát nầy, cũng như Ðức Từ Hàng Bồ Tát, là những Ðấng có đầy đủ công đức
thành những vị Phật cao siêu, nhưng quí Ngài chưa muốn ngự lên ngôi vị Phật,
mà muốn làm một vị Bồ Tát để đem lòng từ bi cứu giúp toàn cả chúng sanh nơi
cõi trần.
B.
KINH ĐẠI TƯỜNG
1.
Hỗn Ngươn
Thiên dưới quyền Giáo chủ
2.
Di Lạc
đương thâu thủ phổ duyên.
3.
Tái sanh
sửa đổi chơn truyền,
4.
Khai cơ tận
độ Cửu tuyền diệt vong.
5.
Hội Long
Hoa tuyển phong Phật vị.
6.
Cõi Tây
phang đuổi quỉ, trừ ma.
7.
Giáng linh
Hộ Pháp Di Đà,
8.
Chuyển cây
Ma Xử đuổi tà, trục tinh.
9.
Thâu các
Đạo hữu hình làm một.
10.
Trường thi
Tiên, Phật dượt kiếp khiên.
11.
Tạo đời cải
dữ ra hiền,
12.
Bảo sanh
nắm giữ diệu huyền Chí Tôn
Kinh
Ðại Tường, còn được gọi là Hỗn Nguơn Kinh, do Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng
cơ ban cho. Nội dung bài Kinh nầy, Ðức Phật Thích Ca cho biết Ðức Di-Lạc Vương
Phật hiện nay đang chưởng quản từng Trời Hỗn Nguơn Thiên và làm Giáo Chủ Hội
Long Hoa để tuyển phong Phật vị trong Ðại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ðức Phật Di-Lạc
còn thay mặt Ðức Chí Tôn thực hiện tôn chỉ "Qui nguyên Tam giáo và phục nhứt
Ngũ Chi Ðại Ðạo" để lập đời Thánh đức, tạo ra một xã hội Ðại đồng cho toàn
nhơn loại.
Giải
nghĩa:
Câu 1-2: |
Hỗn
Nguơn Thiên dưới quyền Giáo chủ,
Di-Lạc đương thâu thủ phổ duyên. |
Theo Di
Lạc Chơn Kinh:
-
từng Trời
TẠO HÓA THIÊN là từng thứ 9 cao nhất trong Cửu Trùng Thiên, do Đức Phật Mẫu
chưởng quản.
-
Từng Trời
thứ 10 là HƯ VÔ THIÊN, do Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật Chưởng quản.
-
Từng Trời
thứ 11 là HỘI NGƯƠN THIÊN.
-
Từng Trời
thứ 12 là HỖN NGƯƠN THIÊN.
Hai
từng Trời 11 và 12 đều do Ðức Phật Di-Lạc chưởng quản.
C.1-2:
Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Giáo chủ
từng Trời Hỗn Nguơn Thiên. Ngài đảm đương việc thâu nhận và gìn giữ những
người có duyên tu hành ở khắp nơi.
Câu
3: |
Tái sanh sửa đổi chơn truyền. |
C.3:
Ðức Di-Lạc Vương Phật sẽ giáng sanh
xuống cõi trần nầy một lần nữa để sửa đổi tất cả giáo lý của các tôn giáo xưa,
cho đúng chơn truyền, bởi vì giáo lý của các tôn giáo nầy, qua hơn 2000 năm
truyền bá đã bị người đời canh cải làm sai lạc rất nhiều.
Ở Á Ðông
có Tam giáo: Phật, Lão, Nho; ở Âu châu và Mỹ Châu có Thiên Chúa giáo với 2
chi phái lớn là Chính Thống giáo và Tin Lành; ở Trung Ðông có Hỏa giáo, Hồi
giáo, mở ra vào thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, đã cứu độ nhơn sanh được hơn 2000 năm nay.
Các nền tôn giáo lớn nầy theo thời gian, đã bị những người lãnh đạo sửa cải
dần dần, mỗi vị sửa một ít, đến nay thì Chơn truyền đã gần như sai lạc hẳn,
cho nên người tu thì nhiều mà đắc đạo thì không có mấy người.
Do đó,
Ðức Chí Tôn mở Ðại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ “ QUI NGUYÊN TAM GIÁO, HIỆP
NHỨT NGŨ CHI”. Ðức Di-Lạc Vương Phật là Ðấng được Ðức Chí Tôn ủy nhiệm thực
hiện Cơ Qui Nhứt trọng đại nầy, đem các nền tôn giáo trở về gốc, sửa đổi giáo
lý cho đúng với Chơn truyền của buổi ban đầu.
Câu
4: |
Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong. |
C.4:
Ðức Di-Lạc Vương Phật mở ra cơ quan
tận độ nhơn sanh và tiêu diệt cõi Ðịa ngục.
Câu
kinh nầy đúng theo Thánh ý của Ðức Chí Tôn: ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ là ÐẠI ÂN
XÁ kỳ ba, để tận độ chúng sanh trước khi chấm dứt một giai đoạn tiến hóa cũ,
bắt đầu một giai đoạn tiến hóa mới của nhơn loại nơi quả Ðịa cầu 68 nầy.
Ðây
là một nét đặc biệt hết sức mới mẻ của ÐÐTKPÐ mà từ trước tới nay chưa hề có ở
bất kỳ một tôn giáo nào.
Câu
5: |
Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị. |
Hội
Long Hoa:
Long là rồng, hoa là cái bông. Long Hoa là một cái cây to lớn có hình dáng
giống như con rồng, trổ hoa rực rỡ. Ðức Di-Lạc Vương Phật sẽ mở Ðại Hội tuyển
chọn người hiền đức tại cội cây Long Hoa nầy, nên Ðại Hội ấy được gọi là Ðại
Hội Long Hoa do Ðức Di-Lạc làm Giáo chủ.
Ðức
Phạm Hộ Pháp thuyết đạo: Nơi Cung Hỗn Nguơn Thiên cốt yếu là nơi chung họp
cùng các Ðấng Chơn hồn cao siêu, trí thức thông minh, kể từ bậc Thiên Tiên cho
đến Phật vị, đều đến ở nơi đây, đặng tạo dựng đại nghiệp của mình. Cả toàn thể
trong Càn Khôn vũ trụ, hoặc tiêu diệt, hoặc biến sanh, cũng do nơi đó cầm Chơn
pháp quyết định. Nơi đây là nơi quyết định chương trình Long Hoa Ðại Hội của
toàn thể vạn linh. ."
C.5:
Ðức Di-Lạc Vương Phật mở Ðại Hội Long
Hoa tuyển lựa người đầy đủ công đức phong thưởng vào ngôi vị Phật.
Câu
6: |
Cõi Tây phang đuổi quỉ trừ ma. |
Chữ
Phang do chữ Phương nói trại ra. Cõi Tây phang là cõi Tây Phương Cực Lạc, tức
là cõi Cực Lạc Thế giới.
C.6:
Nơi cõi Tây phương Cực Lạc, Ðức Phật
Di-Lạc xua đuổi và trừ khử ma quỉ không cho lộng hành.
Câu 7-8: |
Giáng
linh Hộ Pháp Di-Ðà,
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh. |
Giáng
linh:
Chơn linh giáng xuống trần. Giáng là đi xuống. Thường thì các Ðấng Thiêng
liêng chiết chơn linh giáng sanh xuống cõi trần, như Đấng Christ giáng linh
cho Đức Jesus.
Hộ
Pháp Di-Ðà:
Ðức Phật Hộ Pháp.
Cây
Ma Xử:
Nói đầy đủ là Cây Giáng Ma Xử. Giáng là hàng phục, Ma là loài Ma quỉ, Xử là
cái chày. Giáng Ma Xử là cái chày để làm quỉ ma hàng phục. Giáng Ma Xử là bửu
pháp của Ðức Hộ Pháp, trị tà ma, không cho chúng lộng hành.
C.7-8:
Ðức Phật Di-Lạc giáng chơn linh vào
Đức Hộ Pháp, dùng bửu pháp Giáng Ma Xử chuyển động để xua đuổi các loài tà ma
yêu quái.
Câu
9-10: |
Thâu
các đạo hữu hình làm một,
Trường thi Tiên Phật duợt kiếp khiên. |
Các
đạo hữu hình:
Các tôn giáo hiện có nơi cõi trần.
Các
đạo hữu hình gồm 5 nền tôn giáo lớn trên thế giới. Các nền tôn giáo nầy do
nhiều Ðấng Giáo chủ mở ra ở các nước khác nhau, với phong tục tạp quán khác
nhau, nên xảy ra nhiều sự va chạm và chia rẽ, cho đạo mình là chánh, đạo khác
là tà, gây ra nhiều cuộc chiến tranh rất thảm khốc dưới danh nghĩa Thánh chiến.
Ngày nay, Ðức Di-Lạc nhận lãnh mạng lịnh của Ðức Chí Tôn, nên có đủ quyền pháp
tóm thâu các nền tôn giáo nói trên vào một mối duy nhất, do chính Ngài làm
Giáo chủ, tạo thành một nền Ðại Ðạo, để thống nhứt tín ngưỡng của nhơn sanh,
lập ra thời kỳ Thánh đức, trong một xã hội Ðại đồng.
C.9-10:
Ðức Di-Lạc Vương Phật tổng hợp các nền
tôn giáo lớn hiện nay vào một mối duy nhất, lập thành nền Ðại Ðạo. Ðức Chí Tôn
lập ra một Trường thi Công quả tuyển phong Tiên vị và Phật vị, giao cho Ðức
Di-Lạc làm Chánh chủ khảo, duyệt xét tội tình của nhơn sanh để chấm thi đậu
rớt.
Câu
11-12: |
Tạo đời
cải dữ ra hiền,
Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn. |
C.11-12:
Tạo lập đời Thượng nguơn Thánh đức
bằng cách giáo hóa người dữ thành người hiền, gìn giữ sự sống cho chúng sanh,
nắm giữ quyền pháp huyền diệu của Ðức Chí Tôn.
Đến
bao giờ Đức Christ hay Đức Di Lặc sẽ giáng lâm?
Thời
kỳ khởi đầu của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Di-Lặc chưa giáng sanh xuống
cõi trần, Ngài còn ở Cung Trời Đâu Suất. Tại Tòa Thánh Tây Ninh, trên nóc của
Phi Tưởng Đài có tượng Đức Phật Di Lặc ngồi tòa sen đặt trên lưng một con cọp
vàng ( cọp tượng trưng năm Bính Dần - 1926 - là năm Khai Đạo )
Sau đây là bài giảng của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc luận giải về chữ Tu và có
nhắc đến sự giáng lâm của Đức Di Lạc:
“ Trên
công việc nhựt nhựt thường hành, nó thuộc về Thể pháp. Dầu cho ta có cúng lạy
cho đến nỗi dập đầu bể trán mà không phụng sự cho Vạn Linh thì cũng không lợi
ích chi cho Trời Phật. Cái lợi ích hơn hết là một đám con lầm lạc của Trời nó
đang tâm tàn sát lẫn nhau mà ra tay cứu vãn được mới là ân nhân của xã hội.
Khi ra trước Tòa Phán Xét Đại Hội Long Hoa, ta mới có đủ điều kiện để binh vực
lập trường mình; bằng chẳng vậy thì cái danh từ Tôn giáo của chúng ta đố với
xã hội nó không có cái ý nghĩa…
Nói
trắng ra, toàn cầu sắp khởi trận cuồng phong dữ dội, nó sẽ lôi cuốn nhơn loại
ra giữa dòng khổ hải, chẳng riêng dân tộc nào mà nước Việt Nam ta cũng đồng
chung số phận. Dầu cho Đức Di Lặc có ra đời đi nữa, không phải một mình Ngài
vớt cả chúng sanh được, mà phải cần có cả môn đồ của Ngài giúp Ngài. Bởi Ngài
là một vị Tài công, còn các môn đồ của Ngài cũng như những thủy thủ mới có thể
đưa nhơn loại qua khỏi bến bờ. Nếu chúng ta không có cái Đại Chí để hiệp cùng
Ngài thì cũng phải bị đấm chìm như bao kẻ khác…
Mặc
dù ta không dám bì với các nhà tiên tri buổi trước, chớ ta cũng nhận định được
ngày tận thế hầu gần. Giữa lúc thanh, trược bất phân, dầu cho có Chúa Cứu Thế
ra đời mà Ngài không ẩn danh thì cũng bị quân nghịch bắt đóng đinh trên cây
Thánh giá; nên Đức Di Lặc phải mai danh trong màn bí mật, xét ra thời kỳ nào
cũng thế chứ không có chi là lạ.
Vậy
các bậc đạo đức chơn tu, ai là người có đủ đức tin sửa mình cho nên Chí Thánh
để đợi đón Ngài đăng mà kết thúc Long Hoa Đại Hội.”
( Thuyết đạo ngày rằm tháng 10 Mậu Dần- 1938 )
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, người tín đồ vẫn phân vân về vai trò
của Đức Di Lạc và Đức Hộ Pháp. Thuyết minh về Đức Di Lạc có các khoản đã được
Ban kiểm duyệt của Hội Thánh cho in thành sách như sau:
Về
vai trò của Đức Di Lặc:
1.
Đức Phật A
Di Đà đã giao cho Đức Di Lạc quyền Chưởng quản Cực Lạc Thế giới, thay mặt Lôi
Âm Tự hiệp cùng Bạch Ngọc Kinh lập Tân Pháp cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.,
2.
Đức Di Lạc
đang ngự nơi Hỗn Ngươn Thiên, thuộc từng Trời thứ 11, nắm Pháp điều hành Càn
Khôn thế giới
3.
Đức Phạm Hộ
Pháp nói rõ: ngày nào nhơn sanh tiến bước, Bần đạo chỉ nói một người mà thôi,
đạt đến Phật vị thì Hội Long Hoa mới mở; mà Hội Long Hoa chưa mở thì Đức Di
Lặc chưa có đến. Nghe cho rõ rồi nhớ.
4.
Đức Chí Tôn
lập Đạo kỳ này để lập vị cho Đức Di Lạc cầm quyền Chưởng Giáo Đại Hội Long Hoa
kỳ ba ( Bạch Dương Đại hội )
Về
vai trò của Hộ Pháp:
1. Trong các nghi thức thờ phượng tại các ngôi chùa Phật giáo thường
có đặt tượng của vị Phật Hộ Pháp ngay cửa chánh bước vào nội điện. Đạo Cao Đài
chủ trương qui Tam Giáo ( Phật, Lão, Khổng ) nên cũng dùng nghi thức cũ của
Tam Giáo sửa đổi đôi chút cho phù hợp với triết lý của Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Chí
Tôn có dạy về tượng Phật Đức Hộ Pháp như sau, trong đàn cơ ngày 18-9 năm Bính
Dần tại chùa Phước Linh Tự Sài Gòn.
"…Còn
như Hộ Pháp đã xuống trần rồi còn thờ chi nữa nên các con nên lập ra ba bài vị
đề :
_ Hộ
Pháp.
_
Thượng Phẩm bên hữu.
_
Thượng Sanh bên tả".
Như
thế, Hộ Pháp Di Đà, Ngự Mã Quân của Đức Chí Tôn, đã vâng lịnh Đức Chí Tôn
xuống thế lập Đạo
2.Vị Hộ
Pháp trong Đạo Cao Đài là Ngài Phạm Công Tắc, người thủ vai đồng tử thông công
quan trọng bậc nhất trong số đồng tử được Đức Chí Tôn sử dụng từ những ngày
đầu của lịch sử Đạo. Nghi lễ Thiên phong dành cho Ngài là một cuộc hành pháp
huyền linh. Đức Chí Tôn trục chơn thần Phạm Công Tắc ra khỏi thân xác để chơn
linh Hộ Pháp giáng ngự và Ngài Phạm Công Tắc trở thành Hộ Pháp. Đây là trường
hợp giáng linh ngự thể, nó có ý nghĩa như một cuộc lễ điểm Đạo, đã diễn ra vào
tháng 4-1926 tại tư gia của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung ở Sài Gòn. Ngôi
nhà nầy được sử dụng như một Thánh Thất tạm, là một trong những địa điểm mà
các vị tiền bối thường hay tụ họp lại để cầu cơ.
Như vậy, Hộ
Pháp Di Đà xuống trần bằng Ngươn Linh, mượn xác của ngài Phạm Công Tắc (không
có ngày Thiên phong phẩm vị Hộ Pháp).
3.Đức Hộ Pháp chưởng quản Hiệp Thiên
Đài, là hình trạng của Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, nơi làm việc của Tam Trấn Oai
Nghiêm nơi cõi Thiêng liêng.
4.Giảng
về Tông đường, Đức Phạm Hộ Pháp nói: Tông đường Thiêng liêng thường ở tại Ngọc
Hư Cung. Cao trọng hơn hết là tông đường của Quan Âm Bồ tát, tức Từ Hàng Bồ
tát. Tông đường thứ hai của Đức Địa Tạng Vương Bồ tát. Tông đường thứ ba của
Đức Di Lạc Vương Phật. Đó là 3 Tông đường cao trọng hơn hết…Bần đạo không dấu,
chính Hộ Phápcũng có Tông đường khá lắm, có kém chăng là kém hơn 3 Tông đường
vĩ đại trên mà thôi.
5. Đôi liễn nơi cổng Hộ Pháp Đường khi xưa, khởi
đầu bằng hai chữ HỘ PHÁP:
|
◘
護執天機管率乾坤安世界
◘
法權處定和平天下總寰球 |
|
■
HỘ chấp Thiên cơ quản suất Càn Khôn an thế giới,
■
PHÁP quyền xử định hòa bình thiên
hạ tổng hoàn cầu. |
Nghĩa là: |
■
Che chở và gìn giữ Thiên cơ, cai quản CKVT, làm cho thế giới an ổn,
■
Quyền hành chưởng quản pháp luật, phán đoán sắp đặt hòa bình cho nhơn loại
khắp hoàn cầu |
6. Về nguyên căn của Đức Phạm Công Tắc, các Đấng
giảng như sau:
■
Ngày
15-8-Bính Thân (dl 19-9-1956), tại Báo Ân đường Kim Biên, Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ
(Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Động chủ Bạch Vân Động nơi cõi thiêng liêng)
giáng cơ cho biết: (Đức Thanh Sơn tự
xưng là Bần tăng, gọi Đức Phạm Hộ Pháp là Thiên Tôn)
" Phải, thì trước đầu kiếp vào nhà họ Vi (Vi
Hộ), còn nay vào nhà họ Phạm. Điều đó có chi khó hiểu mà phỏng
đoán. Tiên tri của Bần tăng đã nhiều và chỉ rõ Việt Nam xuất Thánh thì đã hẳn
rồi, còn cho không rõ rệt. Hơn nữa lại còn một điều trọng hệ hơn là Di- Lạc
giáng linh thì Thiên Tôn đã thấy rằng tiên tri vốn không sai sót đủ điều."
■ Ngày 15-3-Bính Dần, Đức Chí Tôn phong Ngài
Phạm Công Tắc là: Hộ giá Tiên Đồng Tá cơ Đạo Sĩ. (có chữ Hộ giá, nghĩa
là hộ vệ Đức Chí Tôn khi xuất hành).
■ Đức Lý Giáo Tông thố lộ nguyên căn của Đức
Phạm Hộ Pháp và quyền năng của Ngài trong bài thi khoán thủ:
1. Hộ
giá Chí Tôn trước đến giờ,
2.
Pháp luân thường chuyển máy Thiên thơ.
3.
Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi vị,
4.
Quản suất Càn khôn định cõi bờ.
5.
Nhị
kiếp Tây Âu cầm máy Tạo,
6.
Hữu
duyên Đông Á nắm Thiên thơ.
7.
Hình hài Thánh Thể chừ nên tướng,
8.
Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ.
(Khoán
thủ: Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài)
Chú thích
Câu 1:
cho biết Đức Ngài là Ngự Mã Thiên Quân hộ giá Đức Chí Tôn từ trước đến nay.
Câu 2:
cho biết Đức Ngài nắm về Pháp, xoay chuyển cơ Trời theo Thiên thơ đã định.
Câu 3:
Đức Ngài nắm quyền phân định ngôi vị nơi cõi Cực Lạc Thế Giới. (Chính Đức Ngài
được Đức Chí Tôn sai đi mở cửa CLTG bằng bửu pháp Giáng Ma Xử cho các chơn
linh đạo đức nhập vào CLTG).
Câu 4:
Đức Ngài sẽ thay mặt Đức Chí Tôn cầm quyền cai trị Càn Khôn Thế Giới. Câu này
kết hợp với Hai câu 7-8 trong bài Kinh Đại Tường cho chúng ta biết rằng: Ðức
Phật Di-Lặc giáng chơn linh vào Đức Hộ Pháp.
Câu 5:
cho biết tiền kiếp của Ngài Phạm Công Tắc, giáng sanh xuống trần lần thứ nhì
là Đức Chúa Jésus, mở Đạo Thiên Chúa ở Do Thái rồi truyền qua Âu Châu, cứu độ
các sắc dân Âu Châu.
Câu 6:
Kiếp nầy Ngài giáng sanh xuống nước Việt Nam làm Hộ Pháp của Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ, nắm giữ Thiên Thơ.
Câu 7:
Nhờ Ngài mà hình thể của Đức Chí Tôn tại thế (tức là Hội Thánh Cửu Trùng Đài )
được nên hình tướng.
Câu 8:
Phẩm vị của Ngài rất cao trọng, nhơn sanh gắng cậy nhờ ân huệ lớn lao của Ngài.
Chúng ta
với trí não phàm phu thô thiển, không thể hiểu rõ huyền diệu của Đức Chí Tôn
và các Đấng Thiêng liêng, chỉ biết tìm tòi học hỏi chứ không dám kết luận.
Trong
Chí Tôn Ca, cuốn IV có viết về sự giáng lâm của Ngài như sau:
“Bất cứ
khi nào luật pháp suy đồi, và tình trạng vô luật lệ nổi lên trong mọi phương
diện, lúc đó TA tự biểu lộ.
Để cứu rỗi sự ngay chánh và xóa tan những gì tà vạy, để thiết lập
định luật một cách vững vàng, TA giáng lâm hết thời đại này đến thời đại khác.”
IV. QUAN ĐIỂM CỦA
HỘI THÔNG THIÊN HỌC
Đức Di Lạc, tên Ngài có nghĩa là lòng bác ái hay từ bi, đảm nhiệm chức vụ
Chưởng Giáo khi Đức Thích Ca thành Phật, và từ đó đến nay, Ngài đã giúp đỡ rất
nhiều về phương diện phát triển tôn giáo. Một trong những công việc đầu tiên
của Ngài khi vừa nhậm chức là thừa dịp thế gian còn đang được thấm nhuần luồng
từ điển dồi dào mạnh mẽ do sự hiện diện của Đức Phật tỏa ra, Ngài bèn sắp đặt
cho những bậc Giáo Chủ xuất hiện cùng một lúc ở nhiều vùng khác nhau trên địa
cầu. Bởi đó, trong một khoảng thời gian ngắn, chúng ta thấy ngoài Đức Phật
Thích Ca, còn có Đức Giáo Chủ Shankaracharya và Mahavira xuất hiện ở Ấn Độ,
Đức Mithra xuất hiện ở Ba Tư, Đức Lão Tử và Khổng Tử ở Trung Hoa và Đức
Pythagoras ở xứ cổ Hy Lạp… Người nào đã đọc kinh Bhagavad Gita đều nhớ những
giáo điều về lòng bác ái và sùng tín trong quyển kinh đó. Đức Bồ Tát thỉnh
thoảng cũng nhập xác Đức Tsong Ka Pa, nhà cải tạo tôn giáo danh tiếng của xứ
Tây Tạng, và trải qua nhiều thế kỷ Ngài đã từng gởi các vị đệ tử của Ngài như
Nagarjuna, Aryasanga, Ramanujacharya, Madhavacharya, v.v… xuống thế gian để
thành lập những môn phái mới, hoặc để làm sáng tỏ những chỗ huyền bí trong tôn
giáo. Trong số những đệ tử của Ngài, có một vị được gởi xuống thế gian để lập
nên Hồi giáo.
Lẽ tất nhiên, Ngài chỉ có trách nhiệm
về những tôn giáo đó trong hình thức ban sơ của nó mà thôi, chớ không có liên
quan gì đến những sự biến thiên dời đổi do con người trong những tôn giáo đó
tạo ra theo thời gian. Ngài thay đổi hình thức mỗi tôn giáo để cho phù hợp với
nhân loại ở mỗi thời kỳ lịch sử mà nó được đưa ra; và mặc dầu phần hình thức
có thể thay đổi cho phù hợp với trào lưu tiến hóa, nhưng phần giáo lý vẫn
giống nhau.
Trong thời kỳ tiến hóa của
một giống dân, Ngài sẽ còn trở lại thế gian nhiều lần nữa để thành lập nhiều
tôn giáo khác. Mỗi lần như thế, Ngài sẽ qui tựu chung quanh những người nào
sẵn sàng theo Ngài, trong số đó Ngài sẽ chọn lấy vài người mà Ngài có thể liên
lạc mật thiết hơn, tức là những vị đệ tử, hiểu theo ý nghĩa của huyền môn.
Trong kiếp cuối cùng này, Ngài sẽ đạt tới quả vị Phật và hoàn toàn giác ngộ.
( trích trong quyển Chơn sư và
Thánh Đạo của C.W. Leadbeater, Nguyễn Hữu Kiệt dịch )
Đức Di Lạc đã giáng linh hai lần, một
lần làm Đức Krishna ở vùng đồng bằng Ấn Độ và một lần làm Christ ở xứ
Palestine. Trong kiếp thai sinh làm Krishna, đặc điểm lớn nhứt của Ngài vẫn là
bác ái; và trong lần chuyển kiếp ở xứ Palestine, lòng bác ái cũng vẫn là điểm
cốt yếu trong giáo lý của Ngài. Ngài nói: «Điều răn mới mà Ta đem đến cho
các ngươi, đó là: các ngươi hãy thương yêu lẫn nhau, cũng như ta thương yêu
các ngươi vậy.» Ngài muốn cho tất cả các đệ tử đều có thể hợp nhứt
với Ngài, cũng như Ngài đã hợp nhứt với đấng Cha lành. Vị tông đồ thân tín
nhứt của Ngài, là thánh John, cũng đặc biệt nhấn mạnh về một ý nghĩa tương tự:
«Kẻ nào không thương yêu đồng loại thì không biết được Thượng Đế, vì Thượng
Đế tức là bác ái vậy.»
Tiền kiếp của Đức Di Lặc Bồ Tát là Đức
KRISHNA, lâm phàm dạy Đạo ở Ấn Độ. Ngài còn lâm phàm trong ba năm, mượn xác đệ
tử Ngài là Đức Jesus để giảng Đạo trong ba năm chót tại Palestine
(C.W.Leadbeater, L´Occultisme dans
la mature, Paris, Adyar: 1926, trg. 11, 12: "Dans ces temps lointaines,
c´était le Seigneur Gautama qui dirigeait ici-bas le domaine de la religion et
de l´éducation, depuis, il transmis cette fonction au Seigneur Maitreya, que
les occidentaux appellent le Christ, celui-là même qui prit le corps de Jésus
pendant les trois dernières années de sa vie sur le plan physique).
Trong Hồi giáo, Ngài
có tên IMAN MADHI. Ngài giáng trần ở Anh Quốc có tên St. PATRICK. Ở thế kỷ
20, có Ngài KRISHNAMURTI được Đức Christ dạy dỗ trong quãng thời gian đầu của
cuộc đời.
Chú thích:
Jiddu Krishnamurti
được sinh ra ở Ấn độ năm 1885 và, lúc 13 tuổi, được bảo trợ bởi Tổ Chức Thần
học Theosophical Society, đã công nhận ông là phương tiện cho “ Đức Thầy Thế
Giới” giáng linh.
Vào ngày 12 tháng
giêng năm 1910, bà Annie Besant viết cho ông Leadbeater: “Rõ ràng rằng Đức Bồ
Tát đă sử dụng thể xác của em bé mến yêu này. Dường như là một trách nhiệm
nặng nề để trông chừng và giúp đỡ thể xác đó sao cho phù hợp với Đức Chưởng
Giáo…..” (Mary Lutyens, Years of Awakening, ch.I). Vào năm 1926, Krishnamurti
viết cho Leadbeater: “Con biết số phận và việc làm của con. Con biết một cách
chắc chắn rằng con đang hòa nhập vào tâm thức của đấng Huấn sư duy nhất.
Tâm điểm những lời
giáo huấn của ông là nhận ra rằng những thay đổi cơ bản trong xã hội chỉ có
thể được tạo ra bởi sự thay đổi của ý thức cá thể. Sự cần thiết phải hiểu rõ
về chính mình và hiểu rõ những ảnh hưởng gây tách rời, gây giới hạn của tình
trạng bị quy định thuộc quốc gia và tôn giáo liên tục được nhấn mạnh.
Krishnamurti luôn luôn vạch ra sự cần thiết cấp bách phải có được sự khoáng
đạt, phải có được “không gian rộng lớn trong bộ não” mà trong đó có năng lượng
vô hạn. Điều này dường như đã là nguồn suối của sự sáng tạo riêng của ông và
cốt lõi cho những ảnh hưởng to tát của ông đối với vô số người khắp thế giới.
Ông tiếp tục giảng thuyết khắp thế giới cho đến khi qua đời năm 1986 ở tuổi
chín mươi, tại Hoa Kỳ. Những buổi nói chuyện, những cuộc đối thoại, những lá
thư và những bài viết trên báo của ông đã được tổng hợp thành hơn sáu mươi
quyển.
TIẾT 2: SỰ TÁI LÂM CỦA ĐỨC DI LẶC
I.
NHẬN BIẾT SỰ HIỆN DIỆN CỦA NGÀI
Nhân loại đang trông
chờ sự giáng lâm của một Đấng Cứu Thế: Đấng có tên là Christ hay Di Lặc, hay
Iman Madhi.
Tất cả những gì nhân
loại có thể hiểu được là qua nhiều thời đại, những vị đại diện, sứ giả của
Thượng Đế thể hiện Thiên ý và ảnh hưởng đến toàn thế giới đến mức mà tên tuổi
và ảnh hưởng của các Ngài được biết và cảm nhận hàng nhiều ngàn năm sau khi
các Ngài không còn sống với con người của thế gian này. Các Ngài đến và ra đi,
để lại một thế giới được thay đổi và một nền tôn giáo mới cho thế gian. Những
lời tiên tri và tín ngưỡng đều cho nhân loại biết là các Ngài sẽ tái lâm giữa
chúng ta vào ngày giờ thích hợp. Đấng Christ hay một Đấng Hóa Thân (Avatar)
giáng trần thường do 2 lý do: do Thiên Cơ hay do sự thỉnh nguyện của nhân loại.
Những khủng hoảng lớn lao xảy ra để chấm dứt những gì cũ kỹ lỗi thời, và sau
đó khai sinh những đường lối mới mẻ, thích hợp hơn cho sự sống của Thương Đế
đang tiến hóa. Các Ngài sẽ đến khi điều ác đang lan tràn như trong Chí Tôn Ca
đã nói.
Trước thời Đức Phật,
Đấng Hóa Thân khai ngộ, thì Ánh sáng, Đạo tâm và sự công nhận Đấng Thượng Đế
Siêu việt tuy đã có trong Bà La Môn giáo nhưng chưa rõ nét. Đức Phật Thích Ca
lâm phàm và biểu lộ trong cuộc đời của chính Ngài, sự thật về một Thượng Đế
Nội tại trong con người và một Thượng Đế Siêu việt. Đó là một chân lý tương
đối mới đối với con người. Đức Phật là Đấng Giác Ngộ, vô cùng sáng suốt, quán
thông vũ trụ nhưng Ngài không thể giảng rõ về siêu hình vì hồi 2500 trước, nếu
Ngài giảng, trình độ nhơn loại không thể hiểu nỗi. Tuy nhiên, cái Ngài không
dạy không có nghĩa là không có.
Kinh điển của các tôn
giáo có trước kia ít khi nhấn mạnh rằng Thượng Đế là Bác ái, là Tình thương
cho đến khi Đức Christ đến. Ngài sống cuộc đời phụng sự và từ ái, rao giảng
lời khuyên mới là:
“HÃY YÊU THƯƠNG LẪN NHAU ”
Ngài nhắc đến Thiên
đàng và Địa ngục nhưng chưa giảng về các cảnh giới vô hình khác cũng như nói
rõ hơn về Luân hồi, Quả báo...Trong 3 năm ngắn ngủi đi truyền giáo, Đức Christ
đã làm hiển lộ và nhấn mạnh phẩm tính thiêng liêng này, nhờ thế mà thay đổi
trọn cả những giá trị, mục tiêu và đời sống của con người.
Qua nhiều thế kỷ,
Giáo hội do nhiệt tâm quá mức đã muốn biến mọi dân tộc thành những người theo
Thiên Chúa giáo, chứ không phải là những người tin theo Thiên Chúa. Giáo hội
đã chú trọng đến giáo lý thần học chứ không chú trọng đến Tình thương, và sự
Thông hiểu đầy tình thương như Đức Christ đã nêu gương…Nhân loại đang cần Tình
thương và sự Công Chính. Vì thế Đức Christ hay Đức Di Lặc sẽ giáng lâm nhưng
chưa biết ngày giờ nào. Tất cả còn tùy vào sự thỉnh nguyện nhiệt thành của
nhơn loại, tùy vào sự chuẩn bị của các cộng sự điểm đạo đồ đang phụng sự trong
nhiều đoàn thể tôn giáo, chính trị, kinh tế và khoa học. Thêm vào đó là những
gì mà ta thường gọi là “ Thiên Ý bất khả tri”, tức cái ý định khôn lường của
Đức Thượng Đế, Đấng Tối Cao. Nhưng lần này, Ngài sẽ đến vì nhân loại, vì cả
thế gian chứ không phải chỉ của Thiên Chúa giáo. Ngài đến để hoàn tất công
việc mà Ngài đã phát khởi cách nay 2000 năm, nhưng chưa rõ dưới màu da nào,
dân tộc nào, thành phần nghề nghiệp nào.
Sự hiện
diện của Ngài sẽ được chứng minh qua 3 cách:
·
Kích
thích ý thức tinh thần trong mỗi con người trên quy mô tòan cầu
: tính chất thực tế của tiến trình này đã biểu lộ mạnh mẽ qua những đoàn thể
Thiện nguyện, những người phục vụ công ích và góp phần vào sự cộng tác quốc tế,
để giảm bớt nỗi khốn khổ trên thế giới, đồng thời tạo những liên giao chính
đáng trong nhân loại.
·
Tạo ấn
tượng nơi trí tuệ của những người được khai ngộ về các chân lý mới:
sách vở, các tổ chức, những phong trào, các cuộc diễn thuyết…giúp quần chúng
hiểu rõ.
·
Ngài có
thể đến bằng Phàm thể hay chỉ giáng Linh, với tư cách gì và vào lúc nào thì
chưa được minh định:
từ trên cõi cao,
việc giáng lâm vào một thế giới với sự tiến bộ vượt bực về khoa học nhưng hỗn
loạn, bất hạnh đã bày ra trước mắt Ngài một hình ảnh đầy những thử thách.
Tuy nhiên, với tư
cách đại diện tình thương thiêng liêng, một lần nữa Ngài phải làm việc trong
diễn trường thế giới, nơi mà những thông điệp trước đây của Ngài bị phủ nhận,
bị lãng quên hay bị diễn giải sai lạc trong 2000 năm qua. Điều này đã gây nên
bao hận thù, chia rẽ! Khoa biểu tượng đã bị các nhà thần học làm lệch lạc đến
mức sự thanh khiết, minh bạch của giáo huấn ban sơ và sự giản dị của Đức
Christ đã biến mất trong những nghi lễ không cần thiết, trong tiền bạc và
trong tham vọng của con người. Đồng thời, tất cả những con đường khác để về
với Thượng Đế đều bị cho là sai lầm, là tà giáo và cần được can thiệp! Người
ta muốn áp đặt Thiên Chúa giáo vào những người đã chấp nhận nguồn hứng khởi và
giáo huấn của Đức Phật hay các vị Sứ giả khác - những vị đã có trách nhiệm gìn
giữ cho nguồn Thiên khải được liên tục. Người ta chú tâm vào sự hy sinh máu
huyết trên thập tự giá mà quên Đức Christ đã dạy là hãy đặt niềm tin vào Thiên
tính nơi chính mình.
Nếu người tín hữu Ky
Tô tìm kiếm Vị đã từ giã các đệ tử của Ngài cách nay hơn 2000 năm ắt sẽ không
nhận ra được Đức Christ đang trên đường tái lâm vì trong tâm thức của Ngài
không có ranh giới tôn giáo nào cả. Ngài là Đức Chưởng Giáo của cả thế gian,
chứ không chỉ là một Huấn sư của Ky Tô giáo. Chính Ngài đã bảo rằng Ngài có
những đoàn chiên khác. Giáo hội mới của Ngài sẽ tập hợp tất cả những người có
tâm thức Christ, những người yêu thương đồng loại.
II.
ĐỨC CHRIST CỦA KỶ NGUYÊN BẢO BÌNH
-
Trong
thời đại Song Nam, biểu tượng đôi trụ đá đã lưu dấu trong hội Tam Điểm của
thời đại này, ra đời cách nay khoảng 8.000 năm
- Giáo huấn về việc
thờ con nghé vàng (tượng trưng tiền bạc ) là đặc điểm của thời kỳ Mặt trời ở
trong cung Kim Ngưu. Thời kỳ này Đức Mithras làm Chưởng giáo.
- Giáo huấn của thời
đại Dương Cưu (Capricorne- Cừu đực ) là giáo huấn về con dê chuộc tội
của Do Thái giáo ( 2400 BC). Trong thời kỳ này, còn có Đức Krishna, Đức Phật
Thích Ca, Đức Sankaracharya.
- Khi Mặt trời đi vào
cung Song Ngư (Pisces- con cá) năm 255 BC: Đức Christ, qua Đức Jesus,
là Huấn sư sáng lập Thiên Chúa giáo. Biểu tượng con cá trong cả 4 sách Phúc Âm
đều phù hợp. Trước khi thăng Thiên, Ngài có đề cập tới kỷ nguyên Bảo Bình (biểu
tượng người mang bình nước)..
- Mặt Trời hiện đang
đi vào chòm sao Bảo Bình (Aquarius ). Tân kỷ nguyên đã bắt đầu. Thành
tựu tinh thần vĩ đại và biến chuyển tiến hóa của thời đại mới sẽ là những mối
liên giao được thiết lập giữa các dân tộc, giúp mọi người ngồi lại với nhau
trong sự hiện diện của Đấng Christ để chia sẻ “bánh mì và rượu nho”. Sự chia
sớt thực phẩm, bắt đầu ở cõi trần, sẽ là món quà của kỷ nguyên Bảo Bình dành
cho nhơn loại.
Tuy nhiên, hiệu quả
quan trọng của kỷ nguyên này sẽ là các tiến trình hợp tác, và sự xuất hiện của
nền tân tôn giáo thế giới, hình thành trên những cảnh giới nội tại, với chủ âm
là tinh thần Đại đồng và điểm đạo.
Không khí là đặc tính của Bảo Bình,
thấy qua việc con người dần dần làm chủ không gian, ban đầu là phi cơ rồi phi
thuyền với tầm mức không ngừng hướng ra ngoài, đẩy lui thêm biên cương trong
không gian mà con người cảm biết. Cũng một ý di chuyển trong không gian ta có
thể kể là radio và truyền hình. Bởi tư tưởng mang đặc tính trên, tham thiền
ngày càng được hiểu rõ hơn và có nhiều người tập.
So sánh Bảo Bình với thời đại
trước nó là Song Ngư, ta có chuyện thú vị là trong thời đại Song Ngư với đặc
tính nước, hàng hải là nét chính của nền văn minh xưa. Nói khác đi, con người
chế ngự được sông nước, đại dương. Về mặt bí truyền, việc làm chủ được không
khí dẫn đến việc mọi chuyện trong tương lai trở nên nhẹ, thanh bai hơn, chất
liệu ta biết lúc này sẽ đi lần qua cõi ether, song song với việc nhãn quan hóa
tinh tế hơn để thấy được cõi ấy.
Về mặt tình cảm, lực tình cảm phát
xuất từ Bảo Bình sẽ kích thích thể Vía con người, giúp nó thành một khối thuần
nhất hơn, thành một tập thể huynh đệ không còn màng tới những khác biệt về
giống nòi, quốc gia, đưa sự sống con người đi tới chỗ hợp nhất, hòa đồng. Điều
này có nghĩa trong một ngàn năm tới và theo cách mà bây giờ ta không sao ngờ
được, một sức sống kết hợp sẽ tràn ngập, nối kết mọi người thành một khối anh
em hoàn toàn. Ảnh hưởng về mặt tình cảm của nó sẽ nhằm thanh tẩy thể tình cảm
của người, làm cho thế giới vật chất mất đi sức hấp dẫn mạnh mẽ, và có thể vào
những giai đoạn cuối của thời đại Bảo Bình nó sẽ đạt tới mức phóng đại lạ lùng
về mặt cảm xúc, y như sự quyến rũ quá đáng của vật chất mà con người trải qua
vào cuối thời Song Ngư.
Sang chuyện tâm thức, tân kỷ
nguyên sẽ có những giá trị tâm linh mới, Một ý nghĩa mới về cuộc đời, và việc
diễn giải ý nghĩa ấy làm đời sống hằng ngày được phong phú hơn. Chẳng hạn
những ý tưởng của thời đại đã qua như:
- Sự chết
- Sự hy sinh
- Sự cứu chuộc qua trung
gian một Đấng cao cả
- Thay điều thấp bằng điều
cao (tính nhị nguyên)
sẽ nhường chỗ cho:
- Sự sống.
- Phụng sự
- Sự hợp nhất tinh thần
giữa cái cao và cái thấp (nhất nguyên) mang lại việc đời sống nhân loại sẽ
vang lên nốt mới, chứa đựng hy vọng và hoan lạc, sức mạnh và tự do.
Ta đang sống ở buổi giao thời lúc
một thời đại đang chấm dứt và cái khác bắt đầu, nên thế giới có thể được chia
làm hai khối người, tùy theo cách đáp ứng của họ với các lực.
Lực của thời đại Song Ngư còn rất
mạnh, vẫn là lực căn bản và hiện giờ có tính phá hoại so với lực mới, làm cản
trở ảnh hưởng cái sau. Đây là lực hấp dẫn khối quần chúng đông đảo kém hiểu
biết, họ tiếp nhận và có phản ứng với nó vì đối với họ, ấy là con đường dễ
dàng ít trở ngại nhất. Họ là những người ít suy nghĩ mà lại dễ tin, có ý thức
ở mức trung bình hay kém hơn.
Lực của Bảo Bình cho ra tác dụng
rộng rãi và tổng quát trên cõi ether, thảo mộc, sông nước và trên những ai đã
biết sử dụng cái trí ít nhiều. Nó gợi hứng cho ai đi theo các đường lối tư
tưởng mới, họ cảm nhận các ý tưởng đang tuôn tràn vào địa cầu, nhưng cách diễn
giải có thể sai. Dù vậy, chuyện đáng nói là họ có khả năng đáp ứng với lực của
tân kỷ nguyên và ảnh hưởng đang có của lực trên tâm trí và não bộ của họ
Để cho dễ hiểu ta có thể nói lực
Song Ngư mang nét bảo thủ, còn người chịu ảnh hưởng Bảo Bình thường tỏ ra cấp
tiến. Tranh chấp vì vậy sẽ xẩy ra và không thể tránh được khi phái bảo thủ
muốn duy trì những tín điều, triết lý, phương pháp tuy hữu dụng trong quá khứ
nhưng nay không còn thích hợp với tâm lý và hoàn cảnh mới của đời sống con
người, và phái cấp tiến hô hào những giá trị, quan niệm mới phù hợp với tâm
tình và trí tuệ của nhân loại thế kỷ 21. Sự thành công của tân kỷ nguyên có
nghĩa là phần tinh thần của nhân loại được phát triển mạnh mẽ hơn và do thế,
ta phải bàn đến các tà lực. Đó là những năng lực mạnh mẽ, tác động nhằm duy
trì phần vật chất, đường lối cũ xưa, trên hết thẩy đó là những lực nhằm làm
kết tinh, bảo tồn phần hình thể (như đường lối giáo dục cũ, định chế chính trị
không còn hợp thời), tính hấp dẫn của vật chất và vẻ hào nhoáng bên ngoài của
hình thể trong ba cõi. Chúng cố tình ngăn chặn sự tuôn tràn của những gì mới
mẻ và mang lại sự sống, sự hiểu biết về tân kỷ nguyên, nhằm bảo vệ chuyện gì
cũ và quen thuộc, phá hoại ảnh hưởng của nền văn hóa và văn minh mới, làm con
người mù quáng, tiếp tục nuôi dưỡng lòng thù ghét, chia rẽ và chỉ trích.
Với tầng lớp trí thức, lực này ẩn
dưới từ ngữ đẹp đẽ, xúi giục người bầy tỏ sự thù ghét kẻ khác, bài bác chủ
thuyết, thêm sinh lực vào mầm hận thù có sẵn trong nhiều người. Lòng sợ hãi
được giúp cho bùng cháy để giữ lại chuyện xưa cũ, biến việc chưa biết là tân
kỷ nguyên thành điều không đáng ao ước, và kềm hãm lực tiến hóa và lực phát
triển để được lợi cho chính mình. Với người chưa hiểu biết, họ là tượng trưng
cho tinh thần quốc gia cực đoan, óc chia rẽ, nô lệ và phục tùng mù quáng, óc
bè phái trong tôn giáo và sự lệ thuộc vào một thẩm quyền nào, hoặc đó là giáo
hoàng hoặc là tín điều; họ chống đối lại mọi tiến bộ và cải cách mới mẻ.
Muốn tránh những điều đó, người ta
có thể tự xếp mình vào hàng ngũ những ai tin tưởng vào tình huynh đệ, sao cho
niềm tin ấy là động cơ của mọi hoạt động của ta trong tôn giáo, chính trị và
giáo dục, cũng như có tâm thức bao trùm mọi vật, lưu tâm đến toàn khối thay vì
một thành phần riêng. Công việc của tân kỷ nguyên chỉ thực hiện được bởi ai
không nuôi lòng chia rẽ, không trở thành tụ điểm cho lòng thù ghét hay thành
tác nhân thực hiện lực ấy. Canh giữ thân tâm để không phát các ý vừa ghi cùng
nuôi dưỡng tình thân ái là phương pháp cho người hiểu biết. Trước tiên nhân
loại phải nâng tâm thức lên cõi trí, mở rộng để bao trùm luôn cõi tình cảm,
trí tuệ vừa phải linh hoạt vừa phải cởi mở, óc thông minh của trọn loài người
cần ở mức cao hơn. Kế đó là nhu cầu phá tan hàng rào phân ly, cô lập và thành
kiến, những chuyện đã làm ngăn cách con người với nhau. Theo với thời gian con
người hóa tự mãn, tự hào về nòi giống mình, gây sự chia rẽ sâu xa giữa các dân
tộc.
Chuyện đáng mừng là cho tới nay đã
có nhiều nỗ lực nhằm giải quyết điều này, chẳng hạn:
- Phương tiện truyền thông
được sử dụng, làm mọi người cùng biết đến các vấn đề trên thế giới và thấy gần
nhau hơn.
- Những tổ chức từ thiện
quốc tế làm sống động tình huynh đệ đại đồng.
Đức Christ là Đấng sẽ
hợp nhất Đông và Tây. Ngài sẽ cộng tác chặt chẽ với Đức Phật Thích Ca (nguyên
lý Minh Triết) cho đến khi sự hòa hợp và tái tạo thật sự xảy ra, cùng với một
số kế hoạch chuẩn bị cho nền văn minh sắp tới của kỷ nguyên Bảo Bình.
Trước đó, Đức Phật đã
giải đáp những câu hỏi được đặt ra vào thời Ngài bằng cách nêu lên Bốn Chân Lý
cao cả (TỨ DIỆU ĐẾ). Ngài dạy rằng nguyên nhân của đau khổ do chính con người
tự tạo vì tập trung ham muốn vào những thứ vật chất nhất thời, tạo nên những
mối thất vọng, thù ghét và tranh chấp.
Ngài dạy cách giải
trừ, diệt khổ bằng cách đánh giá đúng các sự vật, đừng xem các sở hữu là chính
yếu, phải học hạnh từ bỏ và tìm cách giải thoát khỏi các mối ràng buộc đó. Hãy
theo BÁT CHÁNH ĐẠO là con đường tương giao đúng đắn với nhơn loại và Thượng Đế.
Nhờ thế, con người được hạnh phúc.
Tám bước trên con
đường này là:
1.
CHÁNH TRI KIẾN:
khả năng đánh giá đúng
2.
CHÁNH NGỮ
: lời nói chơn chánh
3.
CHÁNH MẠNG
: cách sinh sống chơn chánh
4.
CHÁNH TƯ DUY
: suy nghĩ những điều chơn chánh
5.
CHÁNH NIỆM
: nguyện cầu chơn chánh
6.
CHÁNH NGHIỆP
: hành động chơn chánh
7.
CHÁNH TINH TẤN:
nỗ lực chơn chánh
8.
CHÁNH ĐỊNH
: quán về đề mục chơn chánh
Ngài đã dọn đường để
500 năm sau, Đức Jesus Christ rao giảng về Bác ái, về linh hồn, về tình huynh
đệ vì tất cả đều là con của Thượng Đế. Các tín ngưỡng Đông phương chú trọng
nhiều đến Thượng Đế hằng hữu nội tại ẩn tàng trong tâm hồn con người, là Chơn
Ngã, là Chơn Linh, là Atma, tinh vi hơn tất cả những gì nhỏ nhất nhưng bao gồm
tất cả. Các tín ngưỡng Tây phương trình bày một Thượng Đế Siêu việt, ở ngoài
vũ trụ của Ngài. Đức Krishna đã tóm tắt trong Chí Tôn Ca: TA vẫn tồn tại,
dù đã thấm nhuần toàn thể vũ trụ này bằng một phần nhỏ của chính ta.
Đức Thượng Đế dù vĩ
đại hơn những gì toàn thể những gì Ngài đã sáng tạo, nhưng Ngài vẫn hiện diện
trong từng phân tử. Đấng Thương Đế Siêu việt bảo đảm cơ tiến hóa cho toàn thể
Càn khôn vũ trụ.
III. CHUẨN BỊ CHO SỰ
GIÁNG LÂM CỦA ĐỨC DI LẶC.
Ngày nay, nhơn loại
đang hướng về việc hòa hợp các tín ngưỡng, quan niệm về một nền tôn giáo mới
cho thế giới đang được mong mỏi. Nền tôn giáo này sẽ chú trọng đến tính duy
nhất, tình huynh đệ đại đồng, lòng Thương yêu và Công chánh trong mọi người.
Con người phải biết chấp nhận nhơn loại có cùng một mái nhà chung là hành tinh
này, có cùng một Đấng Cha chung. Hãy dẹp bỏ hàng rào phân biệt giữa các giống
dân, giữa các quốc gia, giữa các hạng người. hãy gieo rắc Thiện chí và hòa hợp
thiện chí thành một mãnh lực hoạt động hợp nhất.
Khi nào Đức Di Lặc
giáng lâm? Khi nền văn minh cũ với những hỗn loạn do xu phụng vật chất được
chấm dứt, khi các thế lực bảo thủ bị ngăn chận để dọn đường cho cái mới? Chúng
ta cũng nên hiểu rằng: chiến tranh- với tất cả những thảm họa, tàn ác không
thể tả - chẳng khác nào cây chổi của Đấng Tạo Hóa. Ngài có thể dùng nó để quét
sạch tất cả những chướng ngại trên đường trở lại của Con Ngài.
Mỗi cá nhân nên làm
gì để giúp cho cuộc tái lâm của Ngài được nhanh chóng? Sự thử thách là ở đây.
Mắt con người rơi lệ
do thương thân xót phận chứ không do lòng ăn năn hối cải, và vì lòng người còn
dửng dưng trước sự nghèo đói, dốt nát của đồng loại. Tiền bạc, tài chánh trên
thế giới đang hết sức mất quân bình tạo nên những người quá giàu có không biết
dùng đến bao giờ mới hết tiền trong khi có quá nhiều người cùng khổ mà không
được chia sẻ, không được biết đến lòng thương yêu của Thượng Đế . Ngoài ra,
trong 24 giờ mỗi ngày, con người dành bao nhiêu phút làm việc cho Ngài hay
tưởng đến Ngài? Chỉ khi nào nhơn loại chuẩn bị sẵn cho sự giáng lâm của Ngài,
tức “dọn đường cho Chúa, sửa thẳng những lối Ngài đi” (Matthew III:2) thì Ngài
mới đến.
Từ sự đổ vỡ của tín điều,
truyền thống và niềm tin, của những chỉ dạy sai lầm, từ sự hoài nghi, hỗn loạn,
và dằn vặt nội tâm; lòng người nẩy sinh quyết tâm mới mẻ là tập luyện chính
mình hầu thủ đắc những khả năng, cho phép họ tiếp xúc được với Chân sư và
Thượng Đế nhờ chính nỗ lực của mình. Bởi vậy, khi Đức Di Lặc tái xuất hiện,
chẳng những Ngài sẽ đến với các nhóm tổ chức thực tâm làm việc cho tình huynh
đệ, mà Ngài còn đến trong tim tất cả những ai khao khát muốn tiếp đón, và có
trực giác đủ mạnh để nhận ra Ngài.
Kỳ xuống trần này không giới
hạn vào một thân xác hay trung gian được chuẩn bị sẵn, mà bất cứ nơi nào có
con tim đầy ước vọng, thì đó là trung gian và tác nhân cho Ngài sử dụng.
( Theo Phụng sự
Theosophies )
CẦU
NGUYỆN
Con chắp tay cúi
đầu đảnh lễ
Chư Phật, chư Bồ tát, chư Hiền, Thánh, Tăng
Của ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai
Những người mang
phẩm chất tuyệt vời bao la như biển rộng,
Ðã ôm vào lòng tất cả các chúng hữu tình, những linh hồn tuyệt vọng
Như là đứa con yêu duy nhất của mình,
Với tất cả tiếng kêu thương trầm thống.
Hôm nay con thành
tâm nguyện cầu cho công lý mãi duy trì.
Những giáo pháp của
Ðức Bổn Sư có công năng giải trừ
Những khổ đau của vòng luân hồi sinh tử.
Con nguyện cầu những giáo pháp này sẽ lan truyền rộng hơn
Mang phồn vinh và hạnh phúc đến cho toàn thế giới…
Loài hữu tình yếu đuối của chúng con đã không ngừng bị giày vò
Bởi những nỗi khổ đau, bị chế ngự bởi những tác hành ác nghiệp
Ðã không ngừng gây ra và ngày càng gia tăng mãnh liệt.
Xin nguyện cầu cho những nỗi kinh hoàng
dấy lên từ những cuộc chiến tang thương đẫm máu,
những đói nghèo bệnh hoạn của kiếp người
Sẽ chóng tan biến để nhân loại có thể được sống thoải mái tự do
Trong đại dương của hạnh phúc, an lạc!
Ðặc biệt hôm nay, con cũng xin được nguyện cầu cho
Những đứa con ngoan hiền đã bị thảm sát
bằng đủ mọi cách,
không chút tiếc thương
Dưới bàn tay của những kẻ dã man, thuộc thế lực vô minh, bóng tối.
Ðể cho điều thiện được xiển dương trên thế gian
và quyền lực từ bi của Ngài thêm sáng tỏ,
Xin hãy chóng làm cho giòng sông máu và nước mắt thôi chảy nữa!
Và với tâm từ bi vô lượng, xin hãy giúp những kẻ độc ác nhẫn tâm
Lánh xa khỏi những tình cảm điên rồ quỷ ám
Những kẻ không còn trái tim biết yêu thương
Tự hủy diệt đời mình và kẻ khác
Xin nguyện cầu cho họ sớm có được đôi mắt trí huệ
Biết phân biệt chánh tà
Ðể
nhân loại được sống trong niềm vinh quang của yêu thương và tình huynh
đệ!
ÐỨC ÐẠT LAI LẠT MA 14
ĐẠI THỈNH NGUYỆN
( LỜI THỈNH NGUYỆN DÀNH
CHO TOÀN THẾ GIỚI )
***
Từ điểm Ánh Sáng trong
trí Thượng Đế
Cầu xin Ánh sáng tuôn
rải vào trí con người
Cầu xin Ánh sáng giáng
xuống trần gian.
Từ nguồn Tình Thương trong tâm Thượng Đế
Cầu xin Tình Thương tuôn rải vào tâm con người
Cầu xin Đức Di Lặc ( Đức Christ ) trở lại trần gian
Từ trung tâm nơi Thiên Ý biểu lộ
Cầu xin Thiên Ý hướng dẫn ý chí nhỏ bé của con người
Thiên Ý mà các Chân Sư đều biết và phụng sự.
Từ trung tâm mà chúng ta gọi là nhân loại
Cầu xin Thiên Cơ, Ánh Sáng và Tình Thương thực thi
Và cầu xin Thiên Cơ đóng kín lối dẫn vào sự ác.
Cầu xin Ánh Sáng, Tình Thương và Quyền Năng tái lập Thiên Cơ trên trần gian.
---*---
THE GREAT
INVOCATION
From the point of Light within the mind of God
Let light stream forth into the minds of men
Let Light descend on Earth
From the point of Love within the heart of God
Let Love stream forth into the heart of men
May Christ return to Earth
From the centre where the Will of God is known
Let purpose guide the little wills of men
The purpose which the Masters know and serve.
From the centre where we call the race of men
Let the Plan of Love and Light work out
And may it seal the door where evil dwells
Let Light, Love and Power restore the Plan on Earth.
*
Lời Thỉnh nguyện trên đây thuộc về
toàn nhân loại. Chân lý nói rằng:
-
có một Đấng Thông Tuệ mà ta gọi là Thượng Đế.
-
ẩn trong toàn cuộc biểu hiện có quyền năng phát
động vũ trụ là Tình Thương.
-
Có một Đấng Cao cả đã đến thế gian, mà người Thiên
Chúa Giáo gọi là Đức Christ, Người đã thể hiện tình thương đó để chúng
ta có thể hiểu được.
-
Tình Thương và Thông Tuệ đều là những hiệu quả của
Ý chí Thượng Đế.
-
5.Chỉ thông qua chính nhân loại, Thiên Cơ mới có thể thực
thi.
A.A. Bailey
* * *
Đọc Sấm ký Nguyễn
Bỉnh Khiêm
Hoàng Kim
(Sưu
tầm, tuyển chọn, biên soạn)
Sấm ký là
những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt
trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến năm 2009). Đây là những dự báo thiên tài,
hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên “thuận
thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả”. “Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của
tạo hóa” (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời Lê mạt). “An Nam lý học hữu Trình
Tuyền” (lời Chu Xán - sứ giả của triều Thanh).
Sấm ký ở bản
A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”. Đây là bản trích ở bộ
“Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển” (tập 2) của Trịnh Văn Thanh - Sài
Gòn – 1966. Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu
liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện
Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà
Nội và 13 tựa sách quốc ngữ về sấm Trạng Trình xuất bản từ năm 1948 đến nay.
Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in
trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 mà hiện nay vẫn chưa tìm được.
Sấm ký gắn với
những giai thoại và sự thật lịch sử. Nhiều nội dung trong sấm ký hiện đã được
giải mã, chứng minh tính đúng đắn của những quy luật - dự đoán học trong Kinh
Dịch và Thái Ất thần kinh”. Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, vua Phật Trần Nhân Tông
(1258-1308) là người rất coi trọng phép biến Dịch. Người đã viết trong “Cư
trần lạc đạo”: “Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn
đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim”. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
với “Thái Ất thần kinh”, “Cảm đề” và “Sấm ký” đã lưu lại một tài sản văn hoá
vô giá cho Việt Nam và Nhân loại.
CẢM ĐỀ
Nguyễn Bỉnh Khiêm
1- Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá
Phép đổi dời
Đầu non mây khói tỏa
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
Văn chương gửi lại đời
Dở hay nên tự lòng người cả
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời
Bí truyền cho con cháu 2)
Dành hậu thế xem chơi
SẤM
KÝ
15- Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
Đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành
21- Hoà đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A xuất nhập
Dị mộc tái sinh.
25- Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh.
Phụ nguyên trì thống,
Phế đế vi đinh.
29- Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.
33- Hoà đao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.
37- Lê tồn, Trịnh tại,
Lê bại, Trịnh vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang.
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
43- Chim bằng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ quận công.
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
47- Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.
51- Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục lòng chim chích u mê,
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.
55- Để loại quỷ bạch Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi dần dần.
Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này.
61- Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây.
65- Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.
69- Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua,
Giữa năm hai bẩy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.
73- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
Rắn mới hai đầu khó chịu thay,
Ngựa đã gác yên không người cưỡi
Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây.
77- Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
81- Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hùng biết đấy mới ngoan.
Chữ rằng lục, thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.
85- Ra tay điều độ hộ mai
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
89- Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù trì
93- Thương những kẻ nam nhi chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.
99- Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng.
103- Khuyên những đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi nên giữ cho mình
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.
109- Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.
117- Ngỡ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường?
121- So mấy lề để tàng kim quỹ
Kể sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở, cát bồi
Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma
125- Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão Thìn Tí Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần.
129- Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.
133- Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
137- Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai mà tìm thấy mới là thần minh
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh non đoài
141- Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu
145- Xem ý trời ngõ hầu khải thánh
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường
149- Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai biết trước
Tài lược thao uyên bác vũ văn
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.
155- Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Chốc lại mòng gá vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?
159- Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
Lại đua nhau quần thán đồ lê
Chức này quyền nọ say mê
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ thì phải thuở hung hoang
Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình
165- Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An
169- Nực cười những kẻ bàng quang
Cờ tam lại muốn toan đường chống xe
Lại còn áo mũ xun xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
173- Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.
177- Can qua, việc nước bời bời
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
Oai phong khấp quỷ kinh thần
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca
181- Rừng xanh, núi đỏ bao la
Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên
Sửu Dần thiên hạ đảo điên
Ngày nay thiên số vận niên rành rành.
185- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
189- Sự đời tính đã phân minh
Thanh nhàn mới kểchyện mình trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
193- Chó kêu ầm ỉ mùa đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời
197- Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.
201- Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời
205- Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy nhiêu
Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
211- Đầu can Võ tướng ra binh
Ắt là trăm họ thái bình âu ca
Thần Kinh Thái Ất suy ra
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn
215- Ngày thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
Bởi Thái Ất thấy lạ đời
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân
219- Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chung nhà nước dân an thái bình
223- Phú quý hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giã giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
233- Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao nao
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng?
239- Nói đến độ thầy tăng mở nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào
243- Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh
247- Những người phụ giúp thánh minh
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái lai
Can qua chiến trận để người thưởng công
251- Trẻ già được biết sự lòng
Ghi làm một bản để hòng giở xem
Đời này những thánh cùng tiên
Sinh những người hiền trị nước an dân
255- Này những lúc thánh nhân chưa lại
Chó còn nằm đầu khải cuối thu
Khuyên ai sớm biết khuông phù
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu.
259- Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.
Nay tính lại thì triều đại Tây sơn,
kể từ khi dấy nghiệp (1789) cho tới khi diệt vong (1802), được chia ra hai đời
vua: Nhạc-Huệ-Lữ và Quang Toản (Cảnh Thịnh), cộng được 14 năm, sau khi phải
đương đầu với nhiều địch thủ hùng mạnh như cựu Nguyễn, vua Lê, chúa Trịnh và
quân Mãn Thanh, cho nên trong dân gian lúc ấy có truyền tụng hai câu:
Ðầu
cha lấy làm chân con
Mười
bốn năm tròn hết số thời thôi
Cha
nhỏ đầu con nhỏ chân
Ðến
năm Nhâm Tuất thì chân chẳng còn
Nếu
chúng ta chiết tự những chữ chính yếu trong hai câu này thì chúng ta sẽ thấy:
chữ Quang trong hiệu của cha là Quang Trung cho chữ tiểu là nhỏ ở trên đầu;
còn chữ Cảnh trong hiệu của con là Cảnh Thịnh cũng có chữ tiểu là nhỏ ở dưới
chân. Tính từ năm Kỷ Dậu 1789 là năm Lê mất, vua Quang Trung mới thật sự trị
vì, đến năm Nhâm Tuất 1802 là năm nhà Tây Sơn bị diệt thì vừa đúng 14 năm.
Những ca dao trên đọc lên như là sấm ký, sấm ngữ, thường thường xuất hiện
trước khi xảy ra sự việc, như là lời tiên tri của thần linh, để cho dân gian
kiểm điểm mỗi khi ứng nghiệm. Và bây giờ chúng ta đương nhiên bước vào lãnh
vực sấm ký có liên hệ đến nhà Tây Sơn.
Trong sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1494-1595), câu sấm đầu tiên có nói tới nhà Tây Sơn là:
Hà
thời biện lại vi vương
Thử
thời Bắc tận Nam trường xuất bôn
Thời
nào mà có biện lại, tuần biện, thừa biện làm nên bậc đế vương trong lịch sử
nước ta? Chỉ có thời Tây Sơn mà thôi: Nguyễn Nhạc từng làm thừa biện ở huyện
Vân đồn, tỉnh Qui nhơn, sau xưng là Tây Sơn vương, mở đầu niên hiệu Thái Ðức,
lúc bấy giờ chẳng những phía Bắc Lê Trịnh phải dứt mà phía Nam cựu Nguyễn cũng
phải tìm đường mà chạy.
Lại thêm tám câu này trong sấm trạng:
Chim
Bằng cất cánh về đâu
Chết
tại trên đầu hai chữ Quận công
Bao
giờ trúc mọc sang sông
Mặt
trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
Ðoài
cung một sớm đổi thay
Chân
cung sau cũng sa ngay chẳng còn
Ðầu
cha lộn xuống chân con
Mười
bốn năm tròn hết số thì thôi
Những
câu này được giải thích và hiểu như sau: Nguyễn Hữu Chỉnh thường tự ví mình
với chim Bằng sau khi được vua Lê chiêu Thống phong chức Ðại Tư Ðồ, Bằng Trung
Quận công, Chỉnh thừa thế lộng hành. Vua Quang Trung ở Huế bèn cử tướng Vũ văn
Nhậm ra Bắc hạch tội bắt giết chết Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống cầu
cứu nước Tàu. Vua Tàu bèn cử Tôn Sĩ Nghị đem quân sang nước Nam. Muốn vào
thành Thăng long Nghị phải bắc một cái cầu nổi bằng tre. Lúc bấy giờ Nguyễn
Huệ mới xưng Quang Trung Hoàng đế (1788), tức tốc dẫn quân ra Bắc để đánh đuổi
quân Tàu và thống nhất sơn hà lần đầu tiên, cùng một năm với cách mạng Pháp
(1789). Vua nhà Thanh là Càn Long phong Nguyễn Huệ làm An Nam Quốc vương, nhờ
tài ngoại giao của Ngô Thời Nhậm.
Ðoài cung là phương tây, trong kinh dịch nói là
phần dưới, tức là ám chỉ Nguyễn Huệ thình lình bị chứng huyết vận, áp huyết
đứt mạch máu trên đầu (hémorragie célébrale) mà chết vào năm 1792. Còn hai câu
cuối cùng thì cũng như hai câu đã giải thích trong phần trước nói về đầu cha
và chân con. Nguyên xưa kia, vào giữa thế kỷ XVII, ông tổ bốn đời của các nhà
lãnh tụ Tây sơn ở Nghệ an, đã bị chúa Nguyễn đày vào khai phá vùng An khê,
tỉnh Bình định, cư trú nơi ấp Tây sơn nhất. Nơi đây là ngả ba giao tiếp giữa
người Kinh và người Thượng (gồm có thiểu số Jarai và Chàm), và cũng là cái chợ
trao đổi thực phẩm như gạo, bắp, muối, gạc nai, dầu, tô hạp, mật ong và trầu
nguồn. Vì lẽ đó mà nhà nước có đặt sở tuần ty, trông coi việc thâu thuế, trách
nhiệm luôn về an ninh trật tự. Và Nguyễn Nhạc đã được nhà cầm quyền đương thời
cử làm tuần ty, biện lại, có nhân viên thuộc hạ khá đông, vừa làm việc cho nhà
nước vừa buôn bán làm ăn riêng cho mình. Rồi Nhạc đã dấy binh chống lại triều
đình, sau khi đã chiêu tập binh mã khá đầy đủ Nhận thấy núi non hiểm trở, Nhạc
nảy ra ý chí hùng cứ một phương, phất cờ khởi nghĩa, và trên ngọn cờ có viết
hai chữ Tứ Linh, bao gồm Long, Ly, Quy, Phượng. Từ vùng núi về đồng bằng có
Tây sơn hạ đạo, còn từ vùng núi đi ra Bắc, theo đường Trường sơn, thì có Tây
sơn thượng đạo. Nguyễn Nhạc có lấy một người vợ lẻ gốc Bà nà, bà này đã góp
công tiếp tế cho nghĩa quân. Ngày nay còn có miếu thờ Cô Hầu Bà nà, rất linh
hiển. Còn Nguyễn Nhạc được người Thượng gọi là Pô Nhạc, Nguyễn Huệ được gọi là
Pô Huệ. Chữ Pô này thường đưọc viết là Poh (đọc kéo dài ra như Pua) và cùng
một nguồn gốc ngôn ngữ với chữ Bua là Vua của chúng ta, trong hệ thống ngôn
ngữ Nam Á đã nói ở trên.
Ở phía trên đèo An khê ngày nay còn
có hòn đá lớn và bằng phẳng, mà người Thượng gọi là Tơ Mo Poh Nhạc, có nghĩa
là Hòn đá Vua Nhạc. Tương truyền ngày xưa Nguyễn Nhạc thường khi qua lại nơi
này hay ngồi lại nghỉ chân trên tảng đá to lớn ấy. Ngày nay dân làng còn nhắc
lại sự tích ấy với lòng cung kính một tảng đá mà họ cho là linh thiêng.
Từ căn cứ
núi rừng ấy, Tây cơn đã hạ san năm 1771, mở cuộc trường chinh 14 năm trời
(1771-1789), chiếm từng vùng, rồi thâu gồm cả nước lên ngôi cửu ngũ được 14
năm (1789-1802) thì mãn số đế nghiệp.
Trở lại
sấm Trạng Trình, chúng ta thấy ghi mấy câu hình như có liên hệ thời sự hiện
đại:
Cũng có kẻ trè to lớn ất Ngày
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề
Có thấy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh
Theo tôi,
hai câu đầu ám chỉ người di cư tỵ nạn cộng sản, gồm có những người trốn đi
bằng đường bộ (việt nhân, land people) và những người vượt biển trên ghe
thuyền (thuyền nhân, boat people). Họ trốn ra khỏi nước để trôi giạt vào các
nước lân cận, hoặc được vớt chở đi cac nước xa xôi khắp năm châu. Còn hai câu
sấm nối sau thì chúng ta có thể hiểu rằng sẽ có vị lãnh đạo, cứu tinh là Nhân
Thập (có phải chữ Nhân cộng với chữ Thập thành chữ Ngọ chăng?). là nhân vật
nào, đố ai mà biết!